Sự hoang tưởng quyền lực - Page 3 - VietBF
 
 
 
News Library Technology Giải Trí Portals Tin Sốt Home

HOME

NEWS 24h

ZONE 1

ZONE 2

Phim Bộ

Phim Lẻ

Ca Nhạc

Breaking

Go Back   VietBF > Breaking News | Tin Nóng > Breaking News | Tin Sốt


Reply
Page 3 of 3 12 3
 
Thread Tools
 
Old  Default Sự hoang tưởng quyền lực

Lịch sử đă chứng minh, dân tộc nào có nền văn hoá cao hơn sẽ thống trị và đồng hoá các dân tộc có nền văn hoá thấp hơn, chứ không phải các trận chiến trên chiến trường.
Tại sao Mông Cổ lại bị đồng hóa ngược bởi Trung Quốc?
Năm xưa Thành Cát Tư Hăn đô hộ Trung Quốc áp đặt sự cai trị của ḿnh lên đất nước này. Thời gian qua đi một điều kỳ lạ là những thế hệ sau này của người Măn lại quên đi cái gốc gác của ḿnh là người Mông Cổ, tại sao vậy ?
Không chỉ người Mông Cổ sau một thời gian quên đi gốc gác của ḿnh hoặc nói cách khác là bị Hán hóa đến bất cứ dân tộc du mục nào từng cai trị Trung Quốc cho dù Nữ Chân, Khiết Đan, Đảng Hạ cũng như vậy, cá biệt đám Tiên Ty sau vài đời c̣n tự ḿnh xưng là Hán nhân quên luôn cái gốc du mục của ḿnh thậm chí đến tên gọi, chữ viết cũng không nhớ.
Ngay từ thời cổ trung, văn hóa, lịch pháp, luật chế của Trung Hoa đă rất đồ sộ, đạt đến độ chín và văn minh vượt trội so với nhiều bộ tộc du mục (nhiều bộ tộc c̣n chưa có chữ viết), giai cấp thống trị du mục mà kể cả người Mông Cô v́ nhiều lư do trong đó có cả vấn đề dân số đă phải áp dụng văn hóa, lễ pháp Trung Hoa, dần dần theo nhiều đời bị ảnh hưởng, hán hóa nghiêm trọng dẫn đến quên nguồn gốc.
Không vô lư khi nói rằng: VĂN HOÁ C̉N, DÂN TỘC C̉N.
Thời gian là con đường vô tận, những ǵ bất hạnh, không đạt được thời gian chính là niềm an ủi, một liều thuốc an thần để con người ta nuôi hy vọng.
Những kẻ nào giỏi reo hy vọng vào đầu người khác, để người khác tin là những bậc kỳ tài.
Tại sao có hàng tỷ người tin vào Chúa, Phật, Ala… những thánh nhân, thánh thần…? Ư thức tôn giáo đi cùng với thời gian, không có giới hạn chẳng có điểm mốc thập kỷ, thế kỷ đạt được thành tựu này thành tựu khác… đă ngấm vào huyết quản của họ.
Tôn giáo dẫn con người đi đến tương lai bằng khai sáng tư tưởng, tạo ra một thứ văn hoá con người v́ con người, không phải văn hoá của chế độ áp đặt lên con người.
Văn hoá mang hơi thở của tôn giáo, được tôn giáo dẫn dắt không phụ thuộc vào chế độ xă hội, đem đến sự trường tồn hàng ngh́n năm nay chính là đức tin, sự giác ngộ.
Ai thúc dục những con nhang đệ tử lên chùa dâng lễ?
Niềm tin nào hàng triệu tín đồ Hồi giáo đổ về thánh địa Mecca?
Hàng tỷ giáo dân thành kính đi nhà thờ mỗi sáng chủ nhật v́ lẽ ǵ?
Hàng ngh́n năm nay, qua bao nhiêu chế độ xă hội, qua biết bao nhiêu triều đại, hàng vạn cuộc chiến tranh…các đạo giáo truyền thống vẫn tồn tại. V́ tôn giáo quyết định văn hoá, tôn giáo tạo ra văn hoá, và đức tin chính là bầu sữa nuôi tôn giáo tồn tại.
Rơ ràng tôn giáo không phụ thuộc vào chế độ, mọi chế độ muốn tồn tại phải dựa vào tôn giáo, giữ ǵn tôn giáo chính là văn hoá.
Tôn giáo quyết định văn hóa mà văn hóa th́ quyết định tính cách dân tộc; tính cách dân tộc lại quyết định số phận dân tộc.
Như vậy lịch sử đă chứng minh không có thứ “văn hoá chế độ” được h́nh thành, nếu có nó là phi tôn giáo.
Thế nào là văn hoá của chế độ?
Đây là một thuật ngữ ra đời kể từ khi chế độ cộng sản cầm quyền h́nh thành.
Điều này có nghĩa chính quyền cộng sản xây dựng một nền văn hoá mới cho chế độ, lấy văn hoá chế độ để dẫn dắt con người đi đến tương lai, đạt được các giá trị vật chất, lấy vật chất không phải nuôi dưỡng tinh thần mà chỉ để khao khát đạt được dục vọng, sự hưởng thụ thân xác bằng mọi giá, kể cả bạo lực.
Điểm khác biệt giữa văn hoá h́nh thành từ tôn giáo và văn hoá chế độ là ở chỗ nào?
Văn hoá h́nh thành từ tôn giáo được dẫn dắt bởi các giáo hội, các giáo hội dẫn dắt dân chúng bằng xây dựng đức tin thông qua giáo lư, không phải bằng biện pháp quản lư, chiếm quyền quản lư xă hội, xây dựng nhà nước, lấy tinh thần là mục tiêu hướng tới..
Văn hoá chế độ chỉ h́nh thành khi những người cộng sản cầm quyền. Mục đích của văn hoá chế độ là bảo vệ sự tồn tại của chế độ, thông qua định hướng h́nh thành văn hoá, lấy luật pháp quản lư văn hoá, lấy vật chất định h́nh các mục tiêu phát triển của quốc gia, và văn hoá là công cụ để đạt các mục tiêu ấy.
Văn hoá chế độ là thứ văn hoá phi tôn giáo.
Nó là văn hoá thể hiện quyền lực, bị chi phối bởi quyền lực.
PHẦN 2.
BẢN CHẤT VĂN HOÁ CHẾ ĐỘ.
Trụ sở Viện Triết học nằm trên đường Láng Hạ là một ngôi nhà 4 tầng quanh năm gần như cửa đóng then cài.
Ngày thường là nơi trú ngụ của các hàng quà, hàng nước.
Dịp tết đến cho mấy bà bán hoa thuê bán hàng. Hoa, cây cảnh để trật cả lối ra vào… xem ra nơi trí tuệ đỉnh cao của chế độ cũng chỉ để làm cái chợ.
Thỉnh thoảng các triết gia của chế độ tụ tập về đây theo giấy triệu tập.
Nhiệm vụ của họ không phải dùng thế giới quan và phương luận để phản biện, hay phê phán đường lối chính sách, bởi các vị này tuy học vị, học hàm rất oách giáo sư này tiến sĩ kia nhưng cùng được đào tạo trong một ḷ của đảng.
Thứ kiến thức mà họ được tiếp thu, và dạy dỗ đơn thuần chỉ từ cẩm nang “Triết học Mác- Lê Nin” - Một giáo tŕnh cổ lỗ duy nhất được bê nguyên vẹn du nhập từ Liên Xô cũ.
Công việc chính của Viện Triết học là phục vụ cho Ban tuyên giáo, từ cụ thể hoá đường lối chính sách của đảng, xây dựng nó thành hệ thống lư luận, quan điểm, đường lối … làm sao cho có vẻ khoa học, thực tiễn sinh động.
Họ không làm cái việc đáng phải làm đúng chức năng của ḿnh đó là phản biện, mà trở thành điếu đóm cho chế độ.
Tại sao lại đưa câu chuyện Viện Triết học vào đây?
Nó là một ví dụ cho cách hành xử ngược đời trong chế độ độc đảng cầm quyền, khác với các nước dân chủ - các triết gia nằm trong giới tinh hoa chính trị, họ độc lập không ăn cơm chế độ, cũng chẳng tồn tại theo chế độ, họ uốn nắn xă hội, nh́n nhận xă hội bằng thế giới quan khoa học, dùng các phương pháp luận logic để đánh giá, đo lường đường lối chính sách một cách khách quan, trung thực.
Văn hoá là cách hành xử, vai tṛ của triết gia bị hạ bệ như thế là điển h́nh ứng xử của văn hoá chế độ.
Điều này nó hoàn toàn hợp lư với bản chất của chế độ chuyên quyền.
Một chế độ chuyên quyền, độc đảng cầm quyền dẫn dắt xă hội, “văn hoá đảng” sẽ là văn hoá nền tảng của xă hội, đó là thứ văn hoá mang bản chất quyền lực.
Quyền lực độc tôn, không bị kiểm soát bởi các thành phần khác trong xă hội sẽ đẻ ra các căn bệnh quyền lực.
Những căn bệnh quyền lực này không được ngăn chặn, nó sẽ tạo ra một thứ “văn hoá quan trường”
Văn hoá quan trường của những kẻ nắm vận mệnh quốc gia sẽ chi phối dẫn dắt, là tấm gương cho văn hoá dân tộc, dân chúng đi theo,
Văn hoá chế độ đă làm nát văn hoá dân tộc theo một con đường hủ bại nhất chính là sự biến chất của những kẻ có chức, có quyền - Biến chất, suy đồi từ lối sống đến nhơ nhuốc, bệnh hoạn về mặt tư tưởng, tinh thần.
Các biểu hiện của bệnh quyền lực như thế nào, xin đọc tiếp ở các phần tiếp theo.

Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
Gibbs's Avatar
Release: 02-10-2024
Reputation: 74858


Profile:
Join Date: Nov 2006
Posts: 21,947
Last Update: 03-04-2024 : 12:49 Rating: None
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	VBF2024-02-10-1.jpg
Views:	0
Size:	90.5 KB
ID:	2333958  
Gibbs_is_offline
Thanks: 24,948
Thanked 15,557 Times in 6,665 Posts
Mentioned: 161 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 664 Post(s)
Rep Power: 42 Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
The Following 2 Users Say Thank You to Gibbs For This Useful Post:
Da Lat (02-17-2024), luyenchuong3000 (02-16-2024)
Old 03-19-2024   #41
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 21,947
Thanks: 24,948
Thanked 15,557 Times in 6,665 Posts
Mentioned: 161 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 664 Post(s)
Rep Power: 42
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Default

PHẦN 21.
CÁCH MẠNG HAY LÀ CƯỚP CÓ TỔ CHỨC?
Họ tự nhận ḿnh duy nhất là một chính đảng định hướng dẫn dắt xă hội, nhưng chính họ như kẻ mù đang cầm gậy ḍ đường.
Họ đă biến xă hội thành một pḥng LAP khổng lồ để thực hành các thí nghiệm qua một vài cuốn sách của một kẻ hoang tưởng để t́m công thức tạo ra một xă hội thiên đường.
Công thức nào, kết quả đến đâu không quan trọng miễn là phải bảo vệ bằng được sự tồn vong của chế độ.
Đúng là họ bế tắc đường lối, nhưng họ lại dối trá bằng cách đưa ra hết mốc thời gian này đến thời gian khác để hoàn thiện.
Thực ra họ cũng thừa biết, chẳng có con đường nào khác theo quy luật của các gia phát triển trên thế giới, nhưng họ cứ đánh trống múa rối loè bịp, càng kéo dài, câu giờ họ càng vơ vét được thêm, ăn trên ngồi chốc ngày nào hay ngày ấy.
113 năm kể từ khi những người vô sản đầu tiên cầm quyền ở nước Nga, từ các pḥng thí nghiệm đặt trên ở hầu hết các câu châu lục, họ tin tưởng với công thức “quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động” sẽ tạo ra một xă hội không có người bóc lột người, làm bùa bả dẫn dắt, định hướng.
Cùng một công thức nhưng lại tạo ra nhiều biến thái, cái th́ chết yểu như Liên Xô, các quốc gia đông Âu.
Cuba cố gắng giữ được h́nh hài theo công thức “Quyền làm chủ tập thể” nhưng teo tóp của đứa trẻ càng nuôi càng suy dinh dưỡng.
Triều Tiên 🇰🇵 nhà nước vẫn của nhân dân, nhân dân làm chủ theo ngón tay chỉ đạo của bố con nhà Kim, hung hăng trong nỗi thống khổ đến tận cùng như súc vật.
Trung Quốc, Việt Nam từ phiên bản gốc “quyền làm chủ tập thể” được pha trộn thêm những phụ gia mới, mỗi lần điều chỉnh th́ h́nh hài càng gần với xă hội của bọn tư bản giăy chết.
Sau khi Liên Xô tan ră, các nhà sử học đă đánh giá Đảng cộng sản Liên Xô là một băng cướp, chỉ khác rằng chúng không chia tài sản cho nhau mà cùng một ư chí dùng chung để trở thành giai cấp thống trị, tạo ra một nhà nước ăn cướp bằng pháp luật với chuyên chính bằng bạo lực.
Và các nông trang, nông trường, công trường khổng lồ với bánh vẽ “quyền làm chủ tập thể” theo thời gian biến thành những chuồng ḅ mục ruỗng, thối nát không thể ngửi được dưới những bộ năo lănh đạo của những kẻ chuyên quyền, nát rượu, bản chất tư hữu, ăn cắp, chính họ cũng không chịu đựng được nữa.
Và cải tổ là cách gọi mĩ miều, giải pháp cuối cùng để cùng nhau vơ vét, vĩnh biệt quá khứ một thời kỳ lừa đảo bất thành.
Về mặt chính trị cải tổ chỉ là vỏ bọc để tránh xung đột lợi ích của đại bộ phận dân chúng được khoác lên chiếc áo “quyền làm chủ tập thể” nhưng thực chất thông qua cái gọi là “Cổ phần hoá” bọn cướp dưới vỏ bọc lănh đạo vô sản đă lộ nguyên h́nh trở thành những “tư bản đỏ” đưa nước Nga quay về 113 năm trước với một Sa hoàng mới là Putin.
Những kẻ cầm quyền trong nhà nước cộng sản có ba bảo bối cai trị.
Bảo bối chuyên chính bằng bạo lực được tuyệt đối hoá, hết sức độc ác và tàn bạo.
Bảo bối bánh vẽ “quyền làm chủ tập thể”
Bảo bối thế lực thù địch của nhà nước, nhân dân.
Bảo bối thế lực thù địch thực chất là một h́nh thức ngụy biện dối trá để lấp liếm những hành động tội ác, và bao biện cho những sai lầm khách quan, và chủ quan do họ tạo dựng, lấy cớ để đàn áp, thủ tiêu các lực lượng đối kháng.
Họ vẽ ra những bóng ma thù địch, cả bên trong, lẫn bên ngoài.
Tất cả những quốc gia chuyên quyền đều coi Mỹ là con ngáo ộp, đặc biệt là Triều Tiên và Cuba, kể cả người Nga.
Từ đó họ xây dựng lên một kẻ thù không đội trời chung luôn t́m cách hủy hoại, thôn tính đất nước và từ đó mọi người dân không có ư thức bảo vệ đất nước, không thực hiện các chính sách bảo vệ chủ quyền quốc gia và lấy cớ có thể bị xử tội.
Trong nước họ xây dựng các chính sách, các quy định hà khắc, lấy cớ v́ lợi ích nhà nước, nhân dân để đàn áp ngăn cấm các ư kiến trái chiều, phản biện xă hội…
Trong hoàn cảnh không thể ngụy biện cho các yếu tố con người, họ đổ tội cho khách quan, cho thiên tai, địch họa, cho biến động chính trị quốc tế, cho biến đổi của khí hậu, thời tiết.
Ở những quốc gia của bọn kẻ cướp cầm quyền với vẻ ổn định chính trị bên ngoài, không có biểu t́nh, không có chống đối, nhưng các quan hệ kinh tế bất b́nh đẳng, phân hoá giàu nghèo, vấn nạn xă hội, ô nhiễm môi trường, phá hoại tài nguyên… đang dần đẩy nó đến kết cục - họ sẽ cướp đoạt, chiếm đoạt, thậm chí chém giết lẫn nhau, và cái kết theo quy luật lịch sử sẽ là một xă hội đại loạn đưa đất nước quay về một chu kỳ đen tối.
Các nhà nghiên cứu chính trị nhận định, không có thế lực nào bên ngoài có thể tiêu diệt được các chế độ chuyên quyền cộng sản, chỉ có những người cộng sản cầm quyền mới đủ sức tàn ác để cầm dao giết chết đồng chí của ḿnh, và họ sẽ tự diệt lẫn nhau, hoặc t́m một lối thoát văn minh hơn bằng cách tự giải thoát “lột quần, lột áo” với một h́nh hài thật của những kẻ cướp đă được hợp thức hoá giống như ở Liên Xô trước đây.
(C̣n tiếp).
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Old 4 Weeks Ago   #42
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 21,947
Thanks: 24,948
Thanked 15,557 Times in 6,665 Posts
Mentioned: 161 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 664 Post(s)
Rep Power: 42
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Default

PHẦN 22.
HỒNG PHÚC DÂN TỘC.
Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội, gọi tắt là Việt Minh, là liên minh chính trị cánh tả mang danh nghĩa dân tộc chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập ngày 19 tháng 5 năm 1941.
Lịch sử bị chia rẽ về sự ra đời của Việt Minh, một bên cho sự thành lập của Việt Minh là sách lược tập hợp các lực lượng chính trị ở Việt Nam vào thời kỳ 1941 đến 1946 của Hồ Chí Minh.
Phía ngược lại cho rằng đây là một sự lừa đảo, dẫn đến nội chiến, chia rẽ dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử từ khi cướp được chính quyền năm 1945 cho đến nay, dẫn đến độc tài chính trị của đảng cộng sản Việt Nam.
Năm 1936 Măt trận B́nh dân thắng lợi ở nước Pháp, mặt trận thành lập chính phủ do Léon Blum đứng đầu. Chính phủ này đă thi hành một số chính sách đối nội và đối ngoại có tính chất giải phóng hơn cho các thuộc địa.
Việt Nam cũng được thừa hưởng thắng lợi này, chính quyền thuộc địa cho phép các đảng phái chính trị được thành lập, tự do báo chí, ngôn luận… hoạt động công khai.
Đại Việt Quốc gia Xă hội Đảng, Đại Việt Quốc dân Đảng, Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội… được thành lập cùng với Quốc Dân đảng và một số đảng phái khác bao gồm đảng cộng sản Đông Dương được thành lập trước đó.
Năm 1938 Nguyễn Ái Quốc quay lại Trung Quốc lần 3, Trong vai thiếu tá Bát Lộ quân Hồ Quang, Nguyễn Ái Quốc đến công tác tại văn pḥng Bát Lộ quân Quế Lâm, sau đó đi Quư Dương, Côn Minh rồi đến Diên An, căn cứ đầu năo của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Hồng quân Trung Quốc vào mùa đông 1938. Khi này đang là thời ḱ Quốc – Cộng hợp tác trong cuộc kháng chiến chống Nhật, Tưởng Giới Thạch có đề nghị Đảng Cộng sản Trung Quốc cử một đoàn cán bộ đi hướng dẫn cho Quốc Dân Đảng về kỹ thuật chiến đấu du kích. Tổng phụ trách đoàn là Diệp Kiếm Anh. Từ tháng 6 năm 1939, Hồ Quang được gửi tới phái đoàn này làm người phụ trách chính trị. Trên thực tế, ban lănh đạo Đảng Cộng sản Đông Dương lúc này cũng mất liên lạc với ông tới tháng 1 năm 1940 (thời ḱ này lấy bí danh là Trần).
Nguyễn Ái Quốc trở thành thiếu tá Hồ Quang như thế nào?
Hiện nay vẫn chưa được giải mă, có lẽ chỉ những người đồng chí Trung Quốc mới biết rơ điều này.
Hà Khải Quân (Trung Quốc), người phụ trách Pḥng Cứu vong lúc đó có một đoạn hồi kư như sau:
“Hồi đó, Người mang tên Hồ Quang, tiếng nói pha giọng Quảng Đông. Pḥng Cứu vong chúng tôi giống như câu lạc bộ nhưng không hoàn toàn là câu lạc bộ, bởi v́ Pḥng c̣n có nhiệm vụ giáo dục chính trị và văn hóa. Pḥng có nhiều ủy viên như ủy viên kinh tế tài chính, ủy viên y tế, ủy viên văn thể, ủy viên bích báo... Hồ Quang là Ủy viên y tế kiêm Ủy viên bích báo, v́ vậy cũng là một thành viên lănh đạo Pḥng. Tôi c̣n nhớ Hồ Quang từng phụ trách kiểm tra vệ sinh, làm việc rất chu đáo, yêu cầu rất nghiêm khắc... Hồ Quang c̣n phụ trách biên tập tờ Sinh hoạt tiểu báo, một tờ báo nhỏ truyền tay nhau đọc trong nội bộ cơ quan chúng tôi. Bản thảo được chép lại bằng bút lông rồi đóng thành tập. B́a báo do Hồ Quang tŕnh bày, tên báo cũng do đồng chí ấy viết. Nội dung phần lớn là những sinh hoạt trong cơ quan, có biểu dương, có phê b́nh, khoảng 10 ngày ra một số. Ngoài công việc biên tập và chép lại, Hồ Quang c̣n viết rất nhiều bài, có lúc làm cả những bài thơ nho nhỏ theo thể thơ cổ của Trung Quốc”
Ngoài ra THÊM BỐN NGUỒN TIN TỪ 2007 ĐẾN 2014 XÁC NHẬN “Thiếu tá HỒ QUANG (1938-1940), trong đơn vị Tập đoàn quân 18 , Đệ Bát Lộ quân, Giải phóng quân Trung Quốc(PLA) chính là Hồ Chí Minh.” …
BỐN NGUỒN TIN TỪ 2007 ĐẾN 2014:
1- Trên blog “vhqdnvt” của “trường văn hóa quân đội Nguyễn Văn Trỗi” từ 3-8-2007 đă xác nhận :
“Thiếu tá Hồ Quang PLA Trung Quốc( 1938-1940) chính là Hồ Chí Minh”
Từ 1955 về sau nhiều đoàn phái đoàn csVN đă đến viếng “đất thánh QUẾ LÂM” để tỏ ḷng tri ân Trung Quốc đă chứa chấp họ Hồ trước khi về VN “cướp chính quyền 19-8-1945” trong bài : “BÁC HỒ VỚI THÀNH PHỐ QUẾ LÂM” Kháng Chiến – Kiến Quốc.
[TRÍCH]:
“Trong gian bảo tàng, tại vị trí trang trọng có treo ảnh Bác Hồ, phía dưới có ghi: ‘Đồng chí Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, đă làm việc tại ngôi nhà này từ 1938 đến 1940, với bí danh là Hồ Quang, thiếu tá Bát Lộ Quân. Đồng chí đă có những đóng góp cho sự nghiệp kháng Nhật cuả nhân dân Trung Quốc’”.
[HẾT TRÍCH]
2- Trong tập Khảo luận “Hồ Chí Minh sinh b́nh khảo” (T́m hiểu về cuộc đời Hồ Chí Minh, Người dịch: Thái Văn )
“Hồ Chí Minh sinh b́nh khảo” do Giáo sư Hồ Tuấn Hùng, một người đă tốt nghiệp khoa Lịch sử của Trường Đại Học Quốc Lập Đài Loan dành nhiều công sức nghiên cứu trong những năm qua, được Nhà xuất bản Bạch Tượng Văn Hóa ấn hành tại Đài Loan vào ngày 01/11/2008 (mă số ISBN: 9789866820779) đă viết :
“Hồ Chí Minh nửa đời về sau (1933 – 1969) là Hồ Tập Chương, người Đài Loan. Tuy nhiên, sự kiện động trời này chưa từng được lịch sử biết đến, khiến các cho các chuyên gia nghiên cứu hoặc độc giả có hứng thú với nhân vật Hồ Chí Minh vừa sững sờ vừa nghi vấn.”
Đoạn sau đây Giáo sư Hồ Tuấn Hùng nói về “thiếu tá Hồ Quang chính là Hồ Chí Minh”:
[TRÍCH]:
“Vào năm 1939, Hồ Chí Minh ở Ban huấn luyện cán bộ du kích Nam Nhạc, có đầy đủ chứng cứ ghi trong cuốn sách “Thông tin về đồng môn”, đă đưa công khai lư lịch của ông qua phần phụ lục dưới đây:
Tên họ: Hồ Quang. Chức vụ: Thiếu tá. Tuổi: 38. Quê quán: Quảng Đông.
Đơn vi: Tập đoàn quân 18. Tốt nghiệp trường nào?: Lĩnh Nam đại học.
Từng làm công tác ǵ?: Giáo viên trung học, hiệu trưởng trường ngoại ngữ.
Tên họ: Hồ Quang. Hồ Quang chính là bí danh Hồ Chí Minh từ năm 1939 đến 1942, sau khi từ Mạc Tư Khoa về Trung Quốc. Bí danh của Hồ Chí Minh ở Liên Xô là P.C.Lin (Lin là phiên âm của chữ “Lâm”, cũng là họ bên vợ của Hồ Tập Chương tại Đài Loan Lâm Quế muội. “P.C” th́ không rơ có dụng ư ǵ, nhưng chữ “Quang” trong “Hồ Quang” th́ chính là tên người con trai duy nhất của th́ chính là tên người con trai duy nhất của ông [Hồ Tập Chương] ở Đài Loan “Hồ Thự Quang”
3- Trên website “baolamdong.vn” Cơ quan của đảng cộng sản Việt nam tỉnh Lâm đồng ,Nguyễn Hoàng Bích trong bài “Những năm tháng Bác Hồ ở Quế Lâm” đăng ngày 23-4-2014 cũng xác nhận : “Thiếu tá Hồ Quang trong PLA Trung cộng (1938-1940) chính là Hồ Chí Minh”
Những năm tháng Bác Hồ ở Quế Lâm.
[ TRÍCH ]:
“Khi đoàn cựu giáo viên và học sinh Việt Nam tại Trung Quốc về thăm lại trường xưa, các bạn Trung Quốc ở Đại học Sư phạm Quảng Tây toạ lạc trong thành cổ Quế Lâm đă ưu tiên đưa chúng tôi đi thăm nhà 96 Trung Sơn Bắc mà Quốc vụ viện Trung Quốc vừa quyết định công nhận là Di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia. Cả đoàn đă xúc động khi nh́n thấy chân dung Bác Hồ kính yêu treo tại một vị trí trang trọng, phía dưới có ḍng chữ:
“Đồng chí Hồ Chí Minh – Chủ tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trong thời gian 1938-1940 với bí danh Hồ Quang là Thiếu tá Bát lộ quân đă làm việc tại ngôi nhà này. Đồng chí đă có những đóng góp quư báu cho sự nghiệp kháng Nhật của nhân dân Trung Quốc”.
[HẾT TRÍCH]
4- Sơ yếu lư lịch của Hồ Quang (tức Chủ tịch Hồ Chí Minh)
“CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH – NGƯỜI XÂY ĐẮP NỀN MÓNG QUAN HỆ HỮU NGHỊ VIỆT NAM – TRUNG QUỐC (TRƯỚC NĂM 1945)”
Nguồn: Lưu trữ Trung Quốc:
Sơ yếu lư lịch của Hồ Quang (tức Chủ tịch Hồ Chí Minh) tại Lớp huấn luyện Nam Nhạc thuộc tỉnh Hồ Nam.
Năm 1939, Hồ Quang – Phụ trách điện đài – 38 tuổi – Quảng Đông – Thiếu tá – tốt nghiệp Đại học Lĩnh Nam – Giáo viên trường Trung học. Biết ngoại ngữ, quốc ngữ.
Như vậy Nguyễn Ái Quốc đă từng là thiếu tá Hồ Quang trong quân đội giải phóng Trung Quốc (PLA) là sự thật, nhưng ông chỉ đóng vai dưới một cái tên giả, hay sự thật ông là một người Trung Quốc?
Và Trung Quốc tung ra thông tin này có đúng không, hay là ngụy tạo? Có dụng ư ǵ cần làm được sáng tỏ.
(C̣n tiếp)
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Old 4 Weeks Ago   #43
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 21,947
Thanks: 24,948
Thanked 15,557 Times in 6,665 Posts
Mentioned: 161 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 664 Post(s)
Rep Power: 42
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Default

PHẦN 23.
HỒNG PHÚC DÂN TỘC.
Tháng 1 năm 1941 thiếu tá Bát lộ quân Hồ Quang trở về Việt Nam.
Lúc đó tổ chức cộng sản ở trong nước bị đàn áp rất mạnh, chỉ tính từ năm 1939 đến năm 1941 có ba Tổng bí thư bị Pháp bắt và sau đó bị tử h́nh, hoặc chết trong nhà tù đó là Lê Hồng Phong (1942), Hà Huy Tập (1941), Nguyễn Văn Cừ (1941), lúc này Trường Chinh là quyền Tổng Bí thư.
Trong t́nh h́nh bị mất mất phương hướng, mất liên lạc với quốc tế cộng sản, Trường Chính cử Hoàng Văn Thụ sang Trung Quốc để móc nối, và gặp được thiếu tá Hồ Quang, người trước đó có tên hoạt động công khai là Nguyễn Ái Quốc.
Phong trào cộng sản trong nước kể từ khi đảng Cộng Sản Đông Dương thành lập năm 1930 đến năm 1940 bị đàn áp nhưng phát triển rất sâu rộng phải rút vào hoạt động bí mật. Sự phát triển này không hề có bóng dáng công lao của Nguyễn Ái Quốc.
Trong những năm 1931–1935, Nguyễn Ái Quốc bị Trần Phú và sau đó là Hà Huy Tập phê phán về đường lối cải lương "liên minh với tư sản và địa chủ vừa và nhỏ", không đúng đường lối đấu tranh giai cấp của Đệ Tam Quốc.
Trong một bức thư gửi cho tổ chức Đệ Tam Quốc tế vào tháng 3 năm 1935 với nội dung kể về phong trào cách mạng tại Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc đă bị phê phán nặng nề.
Bức thư này có ghi nhận về "tàn dư của tư tưởng dân tộc cách mạng pha trộn với chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa duy tâm của đảng của các đồng chí Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và của đồng chí Nguyễn Ái Quốc".
Trong thư này cũng có đoạn:
“Những tàn dư ấy rất mạnh và tạo thành một chướng ngại nghiêm trọng cho sự phát triển chủ nghĩa cộng sản. Cuộc tranh đấu không nhân nhượng chống những học thuyết cơ hội này của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và của Đảng Thanh niên là rất cần thiết (...). Chúng tôi đề nghị đồng chí Lin viết một cuốn sách để tự phê b́nh những khuyết điểm đă qua" (Lin là bí danh của Nguyễn Ái Quốc tại Liên Xô)
Sau này đảng cộng sản Việt Nam giải thích:
Sở dĩ có việc phê phán này là do bất đồng giữa Nguyễn Ái Quốc và một số đồng chí của ông về các lực lượng tham gia, cần tranh thủ trong hoạt động cách mạng, dẫn đến suy nghĩ cho rằng Nguyễn Ái Quốc ưu tiên giải phóng dân tộc hơn là đấu tranh giai cấp. Vào thời điểm đó, Quốc tế Cộng sản dưới sự lănh đạo của Stalin, đặt đấu tranh giải phóng dân tộc đi cùng với đấu tranh giai cấp.
Liệu lời giải thích này có đúng hay không? Chúng ta sẽ lần theo ḍng sự kiện lịch sử để t́m ra sự thật.
Cũng thời gian này, Nguyễn Ái Quốc bị Ban Lănh đạo Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương viết thư gửi Quốc tế Cộng sản kết tội phải chịu trách nhiệm chính về việc hơn 100 đảng viên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên bị bắt, do việc ông biết Lâm Đức Thụ trước đây là kẻ phản bội mà vẫn tiếp tục sử dụng.
Ông bị buộc phải ở Liên Xô cho đến năm 1938, bị giam lỏng v́ nghi ngờ lư do ông được nhà cầm quyền Hồng Kông trả tự do.
Về chuyện này t́nh tiết thế nào, cũng cần phải được sáng tỏ, cần câu trả lời của sử học.
Vậy những năm từ 1938- 1940 Thiếu tá Hồ Quang đă làm những ǵ, và dưới sự chỉ đạo của ai? Việt Minh thực chất là như thế nào?
Cần phải biết rằng, Trung Quốc từ năm 1912 đến năm 1949 là nhà nước có tên là Trung Hoa dân Quốc do do đảng Quốc Dân cầm quyền hay c̣n gọi là Quốc dân Đảng, với Tưởng Giới Thạch làm lănh tụ.
Quốc dân Đảng với Đảng cộng sản Trung Quốc có lúc hợp tác, có lúc là kẻ thù.
Khi Nhật chưa thôn tính Trung Quốc, đảng Cộng sản Trung Quốc bị nhà nước Trung Hoa dân Quốc liệt vào đảng phái hoạt động ngoài ṿng pháp luật, bị trấn áp.
Đến khi Nhật đánh Trung Quốc hai đảng này bắt tay với nhau gọi là Liên minh Quốc Cộng.
Sở dĩ có liên minh này là do sức ép từ phía Liên Xô với Tưởng Giới Thạch để nhận được vũ khí và hậu cần đánh Phát xít Nhật. Qua đó Liên Xô muốn phong trào cộng sản quốc tế dưới sự dẫn dắt của Liên Xô có cơ hội phát triển ở Trung Quốc.
Trong hoàn cảnh Nguyễn Ái Quốc bị thất thế do bị nghi ngờ của cả phong trào trong nước, và quốc tế cộng sản ông ta đă trở thành thiếu tá Hồ Quang với danh nghĩa một người chống phát xít và bắt đầu chuyển hướng lấy Trung Quốc vừa là địa bàn hoạt động, móc nối với những đảng phái của người Việt Nam chống Pháp không phải là cộng sản đang hoạt động công khai ở Trung Quốc và được Tưởng Giới Thạch bảo vệ.
Về phía đảng Cộng sản Trung Quốc lúc ấy đă nhận thấy tiềm năng của Nguyễn Ái Quốc và muốn tận dụng Nguyễn Ái Quốc trong hoàn cảnh bị dồn vào thế bí để mưu tính lâu dài.
Và trong vỏ bọc thiếu tá Hồ Quang đă được tiếp cận công khai và tạo uy tín với các đảng phái khác của người Việt Nam.
Liên minh Quốc Cộng đánh Nhật là cơ hội để những người cộng sản được hoạt động công khai ở Trung Quốc.
Đảng cộng sản Đông Dương bị đàn áp trong nước, và việc củng cố lại lực lượng đă thúc ép họ phải liên minh, hợp tác với các đảng phái khác và dẫn đến sự ra đời của Việt Minh.
(C̣n tiếp).
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Old 3 Weeks Ago   #44
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 21,947
Thanks: 24,948
Thanked 15,557 Times in 6,665 Posts
Mentioned: 161 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 664 Post(s)
Rep Power: 42
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Default

PHẦN 24.
HỒNG PHÚC DÂN TỘC.
Phong trào chống Pháp t́m con đường độc lập cho Việt Nam không chỉ có những người cộng sản thực hiện, rất nhiều đảng phái và các hội được thành lập hoạt động rất mạnh trong suốt hơn 80 năm người Pháp đô hộ.
Trong đó phải kể đến hai đảng, Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội (gọi tắt Việt Cách -VC) và Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ; chữ Hán: 越南國民黨) (gọi tắt là Việt Quốc - VQ). Đây là hai đảng có tổ chức phát triển rất mạnh lấy đấu tranh bạo lực và được sự giúp đỡ của Tưởng Giới Thạch nên có vũ khí tiến hành các cuộc khởi nghĩa vũ trang rất sớm.
Ngày 10 tháng 2 năm 1930 Việt Nam Quốc dân Đảng tổ chức cuộc tổng khởi nghĩa tại nhiều nơi ở miền Bắc Việt Nam như Yên Bái, Lâm Thao, Hưng Hóa, Hà Nội, Đáp Cầu, Phả Lại, Kiến An, Phụ Dực, Vĩnh Bảo, Thái B́nh,... Tuy nhiên, do tin tức bị lộ, nên cuộc tổng khởi nghĩa chỉ xảy ở Yên Bái, Hưng Hóa, Lâm Thao, Phụ Dực, Vĩnh Bảo. Mặt khác, v́ do thiếu vũ khí và phương tiện liên lạc yếu kém, nên lực lượng khởi nghĩa không cố thủ được lâu dài ở các nơi họ đă đánh chiếm, dẫn đến thất bại.
Trong khi Đảng của những người cộng sản phát triển mạnh ở vùng nông thôn và chủ yếu lôi kéo được giới cần lao đặc biệt là nông dân.
C̣n Việt Quốc và Việt Cách lại phát triển mạnh ở các vùng thành thị, được giới trí thức, và thành phần trung lưu như các địa chủ, tư sản tham gia ủng hộ.
Sau các cuộc khởi nghĩa vũ trang, tiến hành các hoạt động ám sát các quan chức Pháp với đỉnh điểm là cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân Đảng do lănh tụ Nguyễn Thái Học cầm đầu, cùng với Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh do những người Cộng sản phát động bị Pháp đàn áp đi đến thất bại… các đảng phái chống Pháp hầu hết đều chạy sang Trung Quốc lánh nạn và xây dựng lại lực lượng được chính phủ của Tưởng Giới Thạch bao che, ủng hộ, nuôi dưỡng.
Riêng những người cộng sản phải bám trụ ở Việt Nam v́ Tưởng Giới Thạch là người chống cộng sản, nên bị Pháp đàn áp đă trở nên suy yếu đặc biệt là cuối những năm 1939 và đến đầu năm 1941 các lănh đạo đầu năo đều bị bắt và bị hành quyết… Một số khác chạy lên rừng, sang Trung Quốc nhưng phải thay tên, đổi dạng…
Trong t́nh h́nh như vậy, thiếu tá Hồ Quang đă nhận nhiệm vụ phải tiếp xúc, thâm nhập vào các đảng phái của Việt Cách, Việt Quốc để liên kết với họ tạo điều kiện cho những người cộng sản hoạt động ở Trung Quốc một cách công khai và nhiều toan tính khác từ ban lănh đạo của Đảng cộng sản Trung Quốc.
Không phải tự nhiên mà cái tên Nguyễn Ái Quốc bị biến mất và có thông tin Nguyễn Ái Quốc bị chết trong tù do bệnh lao được tung ra vào năm 1932.
Bởi v́ vai tṛ của Nguyễn Ái Quốc chỉ có uy tín từ những năm 1932 về trước.
Sau khi ông được chính quyền Hồng Kông thả, ông quay về Thượng Hải rồi t́m đường sang Liên Xô và ở lại Liên Xô từ năm 1934- 1938, ông không được Liên Xô tin tưởng v́ họ nghi ngờ không biết khoảng trống từ năm 1932- 1934 Nguyễn Ái Quốc làm ǵ ở Trung Quốc sau khi được thả?
Có thể nói cái tên Nguyễn Ái Quốc đă không c̣n có giá trị trong mục đích hoạt động vào thời điểm sau năm 1932 khi ông ra khỏi nhà tù ở Hồng Kông.
Cho nên việc sử sách vẫn nêu đồng chí Nguyễn Ái Quốc đi đến chỗ này, làm những việc kia, gặp gỡ tham gia chỉ đạo phong trào từ những năm 1938 về sau này là hoàn toàn không phù hợp và không chính xác.
Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô năm 1934 dưới cái tên P.C Lin rồi quay trở về Trung Quốc tham gia Bát Lộ Quân với thân phận mới là thiếu tá Hồ Quang càng khẳng định cái tên Nguyễn Ái Quốc là một bất lợi cho con đường hoạt động của ông.
Việc tung tin Nguyễn Ái Quốc đă chết có lẽ để xóa sạch vết tích, tránh việc nghi ngờ thiếu tá Hồ Quang chính là ông?
Đây có thể là một chuyển biến trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc về phương pháp cách mạng, nhưng nó cũng nằm trong mọi toan tính của những người lănh đạo cộng sản Trung Quốc khi sử dụng ông trong vai tṛ thiếu tá Hồ Quang thông qua cái gọi là sự chỉ đạo của quốc tế cộng sản. Quốc tế cộng sản không phải do Stalin của Liên Xô lănh đạo mà chính là âm mưu của Mao Trạch Đông trong tư tưởng bá quyền.
Họ toan tính như thế nào xin đọc tiếp ở các phần sau.
(C̣n tiếp).
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Old 3 Weeks Ago   #45
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 21,947
Thanks: 24,948
Thanked 15,557 Times in 6,665 Posts
Mentioned: 161 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 664 Post(s)
Rep Power: 42
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Default

PHẦN 25.
HỒNG PHÚC DÂN TỘC.
Thiếu tá Hồ Quang làm việc cho Bát Lộ Quân, vậy Bát Lộ Quân là ǵ?
Để đi đến hợp tác, liên minh chống Nhật, “Hồng quân công nông” do Đảng cộng sản lănh đạo phải cải cách biên chế theo mô h́nh quân đội của Trung Hoa dân Quốc do Tưởng Giới Thạch là tổng chỉ huy thống lĩnh cả hai lực lượng này.
Bát lộ quân là một h́nh thức biên chế quân sự của Quốc dân Cách mệnh Quân (Trung Quốc) từ 1929 đến 1937, gồm các quân đoàn, sư đoàn hoặc lữ đoàn độc lập hợp thành.
Trong điều kiện như vậy thiếu tá Hồ Quang có thể đi lại hợp pháp một cách dễ dàng và có thể tiếp xúc với các sĩ quan và quan chức trong bộ máy của nhà nước Trung Hoa dân Quốc thông qua đó xác lập ḷng tin với những đảng phái của Việt Nam chống Pháp đang hoạt động tại Trung Quốc đặc biệt là hai đảng mạnh nhất là Việt Cách và Việt Quốc.
Vào mùa hoa quế năm 1938, thiếu tá Hồ Quang từ căn cứ Diên An - "Thánh địa của cách mạng Trung Quốc" đến Quế Lâm. Theo sự sắp xếp của những đồng chí Trung Quốc.
Bát lộ quân ở Quế Lâm do Chu Đức làm tư lệnh, Diệp Kiếm Anh làm tham mưu trưởng. Họ đă bố trí Hồ Quang làm việc tại Cơ quan đại diện của Bát lộ quân thời kỳ Quốc Cộng hợp tác lần thứ hai cùng nhau chống phát xít Nhật xâm lược, đóng tại nhà số 96 đường Trung Sơn Bắc, nội thành Quế Lâm.
Cần biết thêm rằng, tuy chỉ là một thiếu tá trong Bát Lộ Quân, nhưng Hồ Quang và Chu Ân Lai là những người bạn và biết nhau hơn mười năm về trước khi Hồ Quang hoạt động ở Trung Quốc dưới tên Lư Thụy.
Lúc này Chu Ân Lai đang được Đảng phân công là Bí thư Cục miền Nam và làm công tác Mặt trận thống nhất trong vùng Quốc dân đảng nắm quyền.
Đầu năm 1939, Đảng Cộng sản Trung Quốc đă cử một đoàn giáo quan do tướng Diệp Kiếm Anh dẫn đầu tới Hồ Nam mở lớp huấn luyện về chiến tranh du kích và Hồ Quang đă được đích danh những người lănh đạo đảng cộng sản Trung Quốc điều đến đó.
Sau khởi nghĩa Yên Bái (1930) Pháp ra tay đàn áp, các đảng phái chống Pháp chạy tán tác sang Trung Quốc.
Được sự hỗ trợ và khuyến khích của Trung Hoa Quốc Dân Đảng, từ 15 đến 24 tháng 7 năm 1932, tại Nam Kinh, các nhóm hải ngoại đă họp hội nghị hợp nhất, thành lập một tổ chức chung mang tên Việt Nam Quốc dân Đảng Hải ngoại Biện sự xứ (Bureau d’Outre – Mer du Việt Nam Quốc dân Đảng),
Hàng loạt các đảng phái Quốc dân ra đời, mạnh nhất là Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội do Nguyễn Hải Thần sáng lập năm 1936. Đại Việt Quốc dân đảng do Trương Tử Anh sáng lập 1938. Đại Việt Dân chính Đảng do Nguyễn Tường Tam sáng lập năm 1938. Một lần nữa, Chính phủ Trung Hoa Quốc Dân Đảng đă khuyến cáo và hỗ trợ cho các đảng phái Quốc dân liên minh với nhau để tạo lợi thế chính trị sau này.
Thiếu tá Hồ Quang làm việc tại cơ quan đại diện của Bát Lộ Quân đă có điều kiện tiếp xúc với Lư Tề Thâm, Chủ nhiệm Hành dinh khu Tây Nam Trung Hoa Quốc dân Đảng.
Thông qua Lư Tề Thâm, Hồ Quang đă gặp gỡ được Hồ Ngọc Lăm, Nguyễn Hải Thần và những lănh đạo khác của các đảng phái người Việt chống Pháp lưu vong bên Trung Quốc.
Với tinh thần liên minh tập hợp các đảng phái chống Pháp và chống phát xít, và trong vai tṛ của một người cộng sản Việt Nam đang làm việc cho Bát Lộ Quân nên thiếu tá Hồ Quang được các đảng phái nhiệt liệt đón tiếp.
Họ đơn thuần nghĩ rằng, phong trào cách mạng giành độc lập cho Việt Nam có thêm những người cộng sản với sự hậu thuẫn của Mao và đảng CS Trung Quốc sẽ càng lớn mạnh, phù hợp với xu thế liên minh Quốc - Cộng lúc đó.
Việc đầu tiên Hồ Quang đặt vấn đề để cho những người cộng sản Việt Nam hoạt động trên danh nghĩa “Mặt trận Phản đế”. Người sáng lập “Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội” là Nguyễn Hải Thần tuy không đồng ư nhưng vẫn sẵn sàng hợp tác với những người cộng sản.
Đến đây chúng ta cần t́m hiểu thêm Hồ Ngọc Lăm, Nguyễn Hải Thần và tổ chức “Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội” để thấy thực chất vai tṛ của thiếu tá Hồ Quang lúc đó trong tổ chức này. Từ đó sẽ sáng tỏ, tại sao họ hợp tác với nhau rồi trở thành kẻ thù của nhau khi Việt Nam dành được độc lập (2/9/1945) lúc đó thiếu tá Hồ Quang đă đổi tên thành Hồ Chí Minh.
(C̣n tiếp)
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Old 3 Weeks Ago   #46
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 21,947
Thanks: 24,948
Thanked 15,557 Times in 6,665 Posts
Mentioned: 161 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 664 Post(s)
Rep Power: 42
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Default

PHẦN 26.
HỒNG PHÚC DÂN TỘC.
HỒ HỌC LĂM (1884-1943)
Hồ Học Lăm tên khai sinh là Hồ Xuân Lan quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
Bác ruột Hồ Học Lăm là Hồ Bá Ôn (Án sát tỉnh Nam Định, hy sinh năm 1883 trong trận đánh với Pháp giữ thành Nam Định); và ông là chú họ gần với nhà cách mạng Hồ Tùng Mậu- Hồ Tùng Mậu là cháu đích tôn của Hồ Bá Ôn.
Cha mất sớm v́ bị thực dân Pháp giết hại năm 1886, Hồ Học Lăm lúc này mới được 2 tuổi và người anh là Hồ Xuân Kiêm sống với mẹ. Bà vốn là con gái Tiến sĩ Trần Hữu Dực.
V́ bà thường sắm vai buôn lụa để hoạt động nên có tên là "bà Lụa". Bà cũng là mẹ đỡ đầu của cô Chiêu Thanh (tức Nguyễn Thị Thanh, chị ruột của Nguyễn Tất Thành).
Năm 1908, hưởng ứng phong trào Đông Du, ông sang Nhật học tập.
Ông được Phan Bội Châu cử đi học cùng một số học sinh khác tại Trường vơ bị “Chấn Vũ” tại Tokyo (Nhật Bản). Tại đây ông lấy tên là Hồ Hinh Sơn và học cùng lớp với Tưởng Giới Thạch.
Khi các du học sinh Việt Nam ở Nhật bị trục xuất, ông sang ngụ ở Bắc Kinh (Trung Quốc), rồi xin vào học trường Vơ bị Bắc Kinh, Trường Sĩ quan Bảo Định – Hà Nam, tiếp tục cùng khóa với Tưởng Giới Thạch. Hồ Học Lăm tốt nghiệp năm 1911.
Tốt nghiệp, ông trở thành một sĩ quan cao cấp trong quân đội Trung Quốc, nhưng trong ḷng ông vẫn hướng về tổ quốc. Ông tham gia cuộc cách mạng Tân Hợi – 1911 do Tôn Trung Sơn, lănh tụ Quốc dân Đảng lănh đạo.
Sau ngày Tổng thống Tôn Trung Sơn qua đời (1925), Tưởng Giới Thạch làm binh biến (1927) thay đổi đường lối chính trị, ông vẫn được nể trọng, trở thành một sĩ quan cao cấp của quân đội Tưởng, được điều công tác về Bộ Tổng Tham mưu tại Nam Kinh – Giang Tô.
Khi Hồ Tùng Mậu và các đồng chí thành lập An Nam Cộng sản Đảng tại Hồng Kông, Hồ Học Lăm được mời tham gia nhưng ông đă từ chối v́ ông làm việc cho Quốc dân đảng Trung Quốc.
Năm 1936, ông tham gia tổ chức Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội của Kỳ Ngoại hầu Cường Để và dùng tiền riêng để ra một tờ tạp chí nhỏ bằng chữ Hán lấy tên là Việt Thanh. Nhưng tổ chức này chỉ hoạt động được trong một thời gian ngắn. Tờ Việt Thanh chỉ ra được 3 - 4 số th́ đ́nh bản v́ hết kinh phí.
Năm 1940, ông ốm nặng, phải nằm bệnh viện tại Quế Lâm (Trung Quốc).
Hồ Học Lăm bị suy tim, hen suyễn nặng, mất tại Quế Lâm ngày 8 tháng 3 năm Quư Mùi, tức ngày 12 tháng 4 năm 1943, hưởng thọ 60 tuổi, được rất nhiều sĩ phu thương tiếc.
NGUYỄN HẢI THẦN (1869-1959)
Nguyễn Hải Thần (chữ Hán: 阮海臣; 1869 – 1959), người sáng lập và lănh đạo Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội.
Nguyễn Hải Thần có nguyên danh Vơ Hải Thu (武海秋), bí danh Nguyễn Cẩm Giang, Nguyễn Bá Tú, sinh quán làng Đại Từ, thời Pháp thuộc là xă Đại Từ tổng Khương Đ́nh huyện Thanh Tŕ tỉnh Hà Đông.
Thuở nhỏ ông học chữ Hán. Đỗ Tú tài (sách Khoa cử Việt Nam: Tú tài triều Nguyễn), ông tên thật là Nguyễn Cẩm Giang, tên khác là Vũ Hải Thu thường gọi "ông Tú Đại Từ” (sách Khoa cử Việt Nam: Tú tài triều Nguyễn).
Hưởng ứng phong trào Đông du ông theo Phan Bội Châu sang Nhật Bản hoạt động chống Pháp, hoạt động trong Việt Nam Quang phục Hội (1912-1924). Ông đă học tại trường Chấn Vũ (Tokyo, Nhật Bản).
Khoảng năm 1912–1913, Nguyễn Hải Thần về nước mưu sát Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut nhưng không thành, ông quay trở lại Trung Quốc.
Ngày 13 tháng 3 năm 1915, Nguyễn Hải Thần cùng Hoàng Trọng Mậu và Phan Sào Nam mộ quân từ Quảng Tây (Trung Quốc) đánh đồn Tà Lùng, Cao Bằng. Sự việc cũng thất bại.
Từ năm 1924- 1927 Nguyễn Hải Thần trở thành giảng viên môn chính trị tại trường vơ bị Hoàng Phố (Học viện quân sự đào tạo sĩ quan lục quân của Trung Hoa Dân Quốc hoạt động từ năm 1924-1927. Cơ sở học viện được đặt tại đảo Trường Châu, khu Hoàng Phố, thành phố Quảng Châu. Đảo này c̣n có tên là đảo Hoàng Phố, v́ vậy học viện này có tên gọi như trên.
Nguyễn Hải Thần c̣n nổi tiếng với nghề thầy bói.
Năm 1927, Nguyễn Hải Thần lănh đạo đảng "Việt Nam toàn quốc cách mạng" ở Quảng Đông (Trung Quốc).
Năm 1936, Nguyễn Hải Thần được Hồ Học Lăm, một nhà yêu nước đang làm vơ quan trong quân đội Tưởng Giới Thạch, mời lên Nam Kinh tham gia thành lập Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội, hay c̣n gọi là Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội.
Năm 1940, ông cộng tác với lực lượng Việt Nam Kiến quốc quân của Trần Trung Lập tấn công Pháp ở Đồng Đăng, Lạng Sơn gần biên giới Trung–Việt.
Khoảng năm 1940 ông cùng Lư Đông A lập Đảng Duy dân. Năm 1941, Nguyễn Hải Thần hoạt động ở Tĩnh Tây, (Quảng Tây, Trung Quốc).
Tháng 10 năm 1942 tại Liễu Châu (Trung Hoa), Nguyễn Hải Thần cùng với Nghiêm Kế Tổ, Vũ Hồng Khanh, Nông Kinh Du,... sáng lập Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội, gọi tắt là Việt Cách.
Ngày 20/8/1945, Việt Cách về nước theo 200.000 quân Trung Hoa Dân quốc do tướng Lư Hán chỉ huy sang với danh nghĩa giải giới quân đội Nhật.
Sau ngày 2/9/1945 khi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hoà được thành lập Nguyễn Hải Thần là Phó chủ tịch nước trong chính phủ Liên hiệp lâm thời.
Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa được thành lập vào ngày 28 tháng 8 năm 1945, đây là một chính phủ tạm thời gồm có 4 thành phần:
- Đảng Cộng sản Đông Dương
- Đảng Dân chủ Việt Nam
- Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội (Gọi tắt là Việt Cách, Nguyễn Hải Thần là chủ tịch đảng)
- Không đảng phái
Hồ Chí làm Chủ tịch chính phủ, Nguyễn Hải Thần là Phó Chủ tịch chính phủ.
Gọi là chính phủ lâm thời v́ các đảng phái Việt Nam thống nhất với nhau sẽ có một chính phủ chính thức đại diện cho nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hoà sau kết quả tổng tuyển cử năm 1946.
Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa được thành lập trong sự ấm ức của các đảng phái khác đặc biệt là Việt Quốc không có người trong thành phần chính phủ, và Việt Cách của Nguyễn Hải Thần cũng lên án sự độc tài của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Đông Dương khi họ chiếm hết các vị trí chủ chốt trong chính phủ lâm thời.
Hồ Chí Minh là chủ tịch kiêm Bộ trưởng Bộ ngoại giao, Chu Văn Tấn (Bộ trưởng Bộ Quốc pḥng), Vơ Nguyên Giáp (Bộ trưởng Bộ Nội vụ, kiêm thứ trưởng Bộ Quốc pḥng)…
Mâu thuẫn giữa các đảng phái sau khi Việt Nam dành được độc lập diễn ra như thế nào, và số phận của Nguyễn Hải Thần cùng các nhân vật chính trị liên quan đến cuộc thanh trừng đẫm máu của Hồ Chí Minh để những người cộng sản độc tài quyền lực ra sao, xin đọc tiếp ở các phần sau.
(C̣n tiếp)
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Old 3 Weeks Ago   #47
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 21,947
Thanks: 24,948
Thanked 15,557 Times in 6,665 Posts
Mentioned: 161 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 664 Post(s)
Rep Power: 42
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Default

PHẦN 27.
HỒNG PHÚC DÂN TỘC.
Thời kỳ những năm 1938- 1943 là những năm tháng êm đẹp thuận hoà nhất của các đảng phái hoạt động chống Pháp dành độc lập cho Việt Nam có quan điểm, đường lối và ư thức hệ khác nhau.
Liên minh đảng phái xuất hiện và những người cộng sản được hưởng lợi nhất khi họ móc nối được với nhau sau thời kỳ bị Pháp đàn áp tan tác.
Vào thời điểm ấy những người cộng sản biết không thể một ḿnh đứng ra chống Pháp, nếu tiếp tục hoạt động công khai, đứng độc lập sẽ trở nên cô lập.
Và Thiếu tá Hồ Quang đă được đảng cộng sản Trung Quốc giao cho nhiệm vụ thâm nhập vào các tổ chức, đảng phái này.
Một câu hỏi được đặt ra, thiếu tá Hồ Quang khi tiếp cận với các đảng phái khác họ có biết ông là Nguyễn Ái Quốc hay không?
Theo như tổng hợp từ các nguồn sử sách viết lại, Thiếu tá Hồ Quang chỉ là một con người giả với lư lịch do đảng cộng sản Trung Quốc tạo dựng là đáng tin cậy nhất, c̣n thực chất ông chính là Nguyễn Ái Quốc.
Và trong lư lịch này Hồ Quang là Tên họ: Hồ Quang. Chức vụ: Thiếu tá. Tuổi: 38. Quê quán: Quảng Đông.
Đơn vi: Tập đoàn quân 18. Tốt nghiệp trường: Đại học Lĩnh Nam.
Hồ Học Lăm, Nguyễn Hải Thần chắc chắn biết Thiếu tá Hồ Quang là Nguyễn Ái Quốc, c̣n những thành phần khác có thể không biết v́ họ là những người đi sau và hoàn toàn không có quan hệ với những người cộng sản.
Hơn nữa Nguyễn Ái Quốc là một nhà cách mạng nổi tiếng trong quốc tế cộng sản, cơ quan t́nh báo Liên Xô nắm rơ lai lịch, ngoại h́nh, tính cách của Nguyễn Ái Quốc cho nên sau này khi ông là Hồ Chí Minh nếu là kẻ đội lốt họ đă không để cho ông tồn tại và cộng tác với danh nghĩa chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hoà.
Mặt khác việc Nguyễn Ái Quốc trong cái tên giả thiếu tá Hồ Quang cũng được Hồ Học Lăm, Nguyễn Hải Thần cho là b́nh thường trong hoạt động khi Nguyễn Ái Quốc đă bị chính quyền Tưởng Giới Thạch trục xuất và cấm hoạt động ở Trung Quốc.
Năm 1932 Nguyễn Ái Quốc được nhà cầm quyền Hồng Kông thả và trục xuất lúc ấy ông bị bệnh lao rất nặng cận kề với cái chết. Theo lịch sử đảng cộng sản Việt Nam, ông đến Thượng Hải và bí mật sang Liên Xô vào năm 1934.
Khi sang Liên Xô ông mang bí danh là F.C Lin có vẻ rất khỏe mạnh.
Khả năng rất lớn ông được các đồng chí Trung Quốc bí mật đưa đi chữa bệnh, thời gian này có thể đă có chuyển biến trong nhận thức của ông về phong trào quốc tế cộng sản do Stalin cầm đầu ở Liên Xô không lấy việc giải phóng các nước thuộc địa là mục tiêu tranh đấu, mà gắn với đấu tranh giai cấp.
Hai năm mất tung tích, cùng với những đánh giá không tốt về ông của Trần Phú và Nguyễn văn Cừ gửi cho Liên Xô, nên khi Nguyễn Ái Quốc ở Liên Xô từ năm 1934- 1938 ông được đưa đi học như một h́nh thức quản thúc.
Thế chiến thứ hai xảy ra liên minh giữa những người cộng sản với những nước trong trục chống phát xít h́nh thành đă tạo cơ hội cho Nguyễn Ái Quốc trong cái tên giả thiếu tá Hồ Quang quay lại hoạt động, nhưng dưới sự bảo trợ và theo sách lược chỉ đạo trực tiếp từ những người đồng chí Trung Quốc.
Đây có thể là lư giải hợp lư nhất, để có thể kết luận thiếu tá Hồ Quang chính là Nguyễn Ái Quốc.
Trong xu thế chung, những đảng phái chống Pháp của người Việt Nam tụ tập ở Trung Quốc cũng liên minh với nhau, nhưng không hẳn đă tin nhau hoàn toàn.
Nói đến Việt Cách mà không nói đến Việt Quốc là một khiếm khuyết lớn.
Việt Quốc (Việt Nam Quốc dân Đảng) thực sự mới là đảng phái có sức mạnh về vũ trang và tập hợp được lực lượng chống Pháp sớm nhất.
Việt Quốc được khởi xướng bởi một nhóm những nhà cách mạng trẻ tại Hà Nội, những người bắt đầu xuất bản tài liệu cách mạng vào giữa những năm 1920.
Năm 1927, sau khi nhà xuất bản bị đóng cửa do sự quấy rối và kiểm duyệt của Pháp, Việt Nam Quốc dân Đảng được thành lập dưới sự lănh đạo của Nguyễn Thái Học bằng cách mô phỏng theo Trung Quốc Quốc dân Đảng của Chính phủ Trung Hoa dân Quốc, và được Trung Hoa dân Quốc bảo trợ.
Đảng chính trị này cũng có xu hướng bài cộng sản và không hợp tác với những tổ chức do những người cộng sản thành lập.
Đây mới là đối tượng nguy hiểm nhất với những người cộng sản sau này.
Cần phân biệt, trong khi Việt Quốc là một đảng chính trị, c̣n Việt Cách là một Tổ chức chính trị liên minh giữa các đảng chính trị và Nguyễn Hải Thần được bầu là chủ tịch hội.
Đại hội thành lập Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội được triệu tập tại Liễu Châu, Trung Quốc, gồm các đại biểu của nhiều đảng phái như Việt Nam Quốc dân Đảng, Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội... nhằm tập hợp lực lượng thành một tổ chức thống nhất. Đại hội khai mạc ngày 1 tháng 10 năm 1942 và ngày này được coi là ngày thành lập Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội.
Hội thành lập dưới bảo trợ của tướng Trung Hoa Quốc dân Đảng Trương Phát Khuê. Đại biểu Việt Minh và đảng cộng sản bị loại trừ.
Lúc đầu Việt Cách có xu hướng mềm dẻo hơn, cộng tác với những người cộng sản, nhưng vẫn từ chối không cho những người cộng sản tham gia vào tổ chức.
Đến Tháng Ba năm 1944 Nguyễn Hải Thần chủ tŕ Hội nghị các nhóm cách mạng hải ngoại của đồng minh hội, thành lập ủy ban hành chính, trong đó có ba đại biểu đảng cộng sản là Lê Tùng Sơn, Phạm Văn Đồng, và Hồ Chí Minh.
Nhưng giữa năm 1944 Hồ Chí Minh trở lại Việt Nam, Vũ Hồng Khanh va chạm với Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam. Do đó liên minh này giải tán, Nguyễn Hải Thần vẫn lănh đạo Việt Cách.
Sở dĩ có sự tan ră này chính là do phản đối của Việt Quốc với Nguyễn Hải Thần (Chủ tịch hội) đă bắt tay với những người cộng sản.
(C̣n tiếp)
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Old 3 Weeks Ago   #48
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 21,947
Thanks: 24,948
Thanked 15,557 Times in 6,665 Posts
Mentioned: 161 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 664 Post(s)
Rep Power: 42
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Default

PHẦN 28.
HỒNG PHÚC DÂN TỘC.
Nguyễn Ái Quốc trong vai thiếu tá Hồ Quang đă dùng uy tín của ḿnh để thuyết phục các đảng phái khác cho những người cộng sản tham gia vào liên minh Việt Nam độc lập vận động đồng minh hội bất thành.
Tuy vậy, ông cũng được sự giúp đỡ của họ đặc biệt là Nguyễn Hải Thần và Hồ Học Lăm để móc nối với các đồng chí của ḿnh ở trong nước.
Ngày 28/01/1941 ông trở về nước sau 30 năm bôn ba ở hải ngoại trong vai tṛ người của Quốc tế cộng sản.
Nhưng phải hiểu bản chất Quốc tế cộng sản lúc này theo nghĩa hẹp đó là trên danh nghĩa, c̣n thực chất ông theo đường lối và được chỉ đạo trực tiếp của Đảng cộng sản Trung Quốc.
Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông đều có mưu đồ sử dụng các đảng phái Việt Nam cho mục đích lâu dài.
Một Việt Nam độc lập sẽ đứng về bên nào trong ṿng cương tỏa của Trung Quốc sau này là mục đích của họ.
Chính v́ vậy Trung Hoa dân Quốc ra sức ủng hộ và bảo trợ cho Việt Quốc, Việt Cách.
Mao Trạch Đông và đảng cộng sản Trung Quốc tất nhiên phải nuôi dưỡng những người cộng sản Việt Nam.
Sự phát triển và liên minh của những đảng phái thân Trung Hoa dân Quốc khiến Mao rất lo lắng, thúc đẩy những người cộng sản phải có hành động quyết liệt hơn.
Và thiếu tá Hồ Quang đă vứt bỏ bộ quân phục Bát Lộ Quân hiện nguyên h́nh là Nguyễn Ái Quốc và đổi tên thành Hồ Chí Minh trở về Việt Nam trực tiếp lănh đạo phong trào trong nước.
Cần nhắc lại, trước khi Hồ Chí Minh về nước phong trào cộng sản ở Việt Nam bị Pháp đàn áp, và trở nên mất liên lạc và mất phương hướng, nên khi họ móc nối được với nhau và dưới sự bảo trợ của các đồng chí Trung Quốc thông qua Nguyễn Ái Quốc một người trong Quốc tế cộng sản khiến uy tín của Nguyễn Ái Quốc rất cao trước các đồng chí của ḿnh ở trong nước.
Hồ Chí Minh về đến Cao Bằng năm ấy ông 51 tuổi, để râu dài nh́n già hơn tuổi, Trường Chinh quyền Tổng bí thư lúc đó 34 tuổi, Vơ Nguyên Giáp 30 tuổi, Phạm Văn Đồng 35 tuổi, Hoàng Văn Thụ 35 … đều rất trẻ, và hầu hết không được đào tạo cơ bản như các tổng bí thư Trần Phú, Lê Hồng Phong… đều qua Liên Xô học ở đại học Đông Phương.
Họ hầu như chỉ hoạt động trong nước và có rất ít kinh nghiệm trong lănh đạo phong trào cách mạng, và không biết nhiều về Nguyễn Ái Quốc, nên mọi chỉ đạo của Hồ Chí Minh, một người của Quốc tế cộng sản họ đều răm rắp thực hiện.
Tất cả họ đều kính trọng Hồ Chí Minh và gọi ông là bác Hồ, và từ đấy “bác Hồ” đă trở thành tên gọi của những người cộng sản đối với Hồ Chí Minh, và họ nhân rộng ra trong công tác tuyên truyền để xây dựng thần tượng Hồ Chí Minh trong xă hội, và nhân dân cũng từ đó tất thảy già, trẻ, trai, gái, mọi thành phần, giai cấp đều gọi Hồ Chí Minh là bác Hồ.
Ở Cao Bằng Hồ Chí Minh sống ở Pác Bó
Pác Bó nằm ngay sát biên giới Việt - Trung, chỉ cách một quả núi là đất Trung Quốc.
Hồ Chí Minh chọn địa điểm này cho hai mục đích, an ninh và đi lại. Có động một bước là chạy sang Trung Quốc, và tiện cho việc giao thông khi ông đi nhận chỉ đạo từ các đồng chí Trung Quốc.
Việc đầu tiên Hồ Chí Minh chỉ đạo cho Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Vơ Nguyên Giáp… là đảng phải rút vào hoạt động bí mật, xây dựng một liên minh tập hợp tất cả các thành phần, đảng phái, giai cấp trong xă hội …
Những quan điểm từ lư luận đấu tranh giai cấp, xoá bỏ giai cấp bóc lột… không được dùng trong công tác tuyên truyền vận động…
Ông yêu cầu gấp rút chuẩn bị hội nghị trung ương 8 để tập hợp lực lượng và quyết định những chủ trương, sách lược trong giai đoạn mới.
(c̣n tiếp)
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Old 2 Weeks Ago   #49
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 21,947
Thanks: 24,948
Thanked 15,557 Times in 6,665 Posts
Mentioned: 161 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 664 Post(s)
Rep Power: 42
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Default

PHẦN 29.
HỒNG PHÚC DÂN TỘC.
Trước ngày 2/9/1945 ở Việt Nam loạn các đảng phái.
Trên con đường t́m kiếm độc lập những người yêu nước t́m đến các quốc gia bảo trợ theo cách riêng của họ.
Phan Bội Châu tiếp cận với Nhật Bản lập ra Việt Nam Quang phục hội.
Việt Quốc, Việt Cách nương nhờ hy vọng sự giúp đỡ của Trung Hoa dân Quốc.
Những người cộng sản lấy Quốc tế cộng sản do Liên Xô lănh đạo với học thuyết mác xít c̣n đi xa hơn không những dành độc lập c̣n chủ trương xây dựng một nhà nước cộng sản, đánh đổ cả thực dân và phong kiến.
Ngoài những hội và đảng chính trị lớn như đă nêu ở trên, c̣n có đến hàng chục Đảng phái của đủ các thành phần được tạo ra, nói chính xác họ chỉ là những nhóm, những tổ chức tự phát có nhiệt huyết, nhưng không có tôn chỉ, và tổ chức chặt chẽ.
Không ít các nhóm đảng phái này chỉ là “chân gỗ” do các đảng chính trị lớn đứng đằng sau thành lập để tạo ra hiệu ứng lôi kéo các thành phần trong xă hội và dễ lũng đoạn thao túng.
Đến năm 1945 có thể kể đến những cái tên:
- Phục quốc Hội, Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội (1939) của Cường Để - Tan ră năm 1945.
- Đảng Đại Việt Quốc xă (1936) của Nguyễn Xuân Tiếu - Bị chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa giải tán và tan ră năm 1946.
- Đại Việt Dân chính Đảng (1938) của Nguyễn Tường Tam, sáp nhập với Việt Nam Quốc dân Đảng tháng 5 năm 1945.
- Đảng Nhân dân Cách mạng (1940) của Trần Văn
Ân, tan ră năm 1941, sáp nhập hoàn toàn với Việt Nam Quốc gia Độc lập Đảng tháng 5 năm 1945.
-Đại Việt Quốc dân đảng (1939) của Trương Tử Anh - Tan ră năm 1965, tái lập năm 1972, tan ră lần thứ 2 năm 1975, tái lập lần thứ 2 năm 1995. Hiện tại h́nh thành nhiều hệ phái khác nhau.
- Đại Việt Phục hưng Hội (1942) của Ngô Đ́nh Diệm- Tan ră năm 1945.
- Đảng Đại Việt Duy dân (1943) của Lư Đông A - Tự giải tán năm 1946
- Đảng Dân chủ Việt Nam (1944) của Dương Đức Hiền do những người cộng sản tạo ra - Giải thể 1988.
…………….
Trong hoàn cảnh như vậy, việc lôi kéo các đảng phái khác tập hợp vào lực lượng chính trị của ḿnh hoặc đánh phá, phân hoá các đảng phái chính trị đối lập đă được những người cộng sản Việt Nam thực hiện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các đồng chí Trung Quốc được Hồ Chí Minh thực hiện một cách hoàn hảo, theo một mưu kế bài bản kể từ khi ông trong vai thiếu tá Hồ Quang xâm nhập vào.
Đây là một mũi tên bắn đi với nhiều mục đích.
Thứ nhất, thông qua Hồ Học Lăm, Nguyễn Hải Thần mà tên tuổi Hồ Chí Minh sẽ được số đông người Việt Nam biết đến rất có lợi cho h́nh ảnh Hồ Chí Minh như một người yêu nước có thể tập hợp được các lực lượng.
Thứ hai, việc Nguyễn Hải Thần, Hồ Học Lăm cộng tác với Nguyễn Ái Quốc một người Cộng sản đă khiến cho các đảng phái khác trong liên minh nghi ngờ và đi đến chia rẽ.
Tính cách lănh tụ, hào hiệp, quảng đại của Nguyễn Hải Thần đă bị lợi dụng và hủy hoại sự nghiệp chính trị của ông.
Ngay sau khi về nước, tháng 5/1941 Hồ Chí Minh triệu tập hội nghị trung ương 8 bàn về thành lập một mặt trận tập hợp các thành phần, giai cấp, đảng phái trong xă hội liên minh chống Pháp, và cũng đề cập đến phương thức đấu tranh vũ trang cướp chính quyền.
Và mặt trận này được đặt tên là ǵ? Đă được ông và các đồng chí tính toán rất kỹ.
Trước đó tổ chức Việt Nam Quang phục Hội hầu như tan ră thành các nhóm hoạt động riêng rẽ. Một bộ phận h́nh thành nên tổ chức Tâm Tâm Xă, sau đó chuyển thành Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội.
Măi đến giữa thập niên 1930, với sự giúp đỡ của Matsui Iwane, một tướng lĩnh cao cấp Lục quân Đế quốc Nhật Bản, Hoàng thân Cường Để nhiều lần từ Nhật Bản sang Trung Quốc để liên lạc lại với các nhóm Quang phục Hội, nhằm tái lập lại tổ chức.
Từ năm 1936, tổ chức hoạt động trở lại với tên Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội (chữ Nho: 越南獨立運動同盟會) đến năm 1938 th́ mật thám Pháp ở Nam Kỳ phát hiện sự hoạt động của Hội dưới tên Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội.
Tuy nhiên măi đến ngày 12 tháng 3 năm 1939 ở Thượng Hải, Trung Hoa dưới sự lănh đạo của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và sự ủng hộ của Nhật Bản Hội mới chính thức ra mắt. Tổ chức này phát triển mạnh ở Nam Kỳ, nhất là trong cộng đồng Cao Đài nên một vị chức sắc Cao Đài là Trần Quang Vinh được bầu là phó hội trưởng. Những tên tuổi khác tham gia trong Hội là Trần Phúc An (Trần Hy Thánh), Hoàng Lương (Đỗ Văn Tuân), Đoàn Kiểm Điểm. Ban Chấp hành Trung ương của Hội có:
Ủy viên Tổ chức: Vũ Hải Thu (Nguyễn Hải Thần)
Ủy viên Tài chánh: Trần Hữu Công (Nguyễn Thức Canh tức Trần Trọng Khắc)
Ủy viên Tuyên truyền: Trương Anh Mẫn (Nguyễn Thượng Hiền)
Ủy viên Ngoại giao: Trần Hy Thánh (Trần Văn An, c̣n có tên tiếng Nhật là Shibata)
Ủy viên Huấn luyện: Hồ Học Lăm
Ủy viên Nội vụ và Nghiên cứu: Hoàng Nam Hùng
Tổng Thư kư: Đặng Nguyên Hùng.
Hoàng Nam Hùng được bổ nhiệm tập hợp nhân sự ở Trung Hoa; Mai Văn Thông ở Xiêm; Trần Quang Vinh và Trần Văn Ân ở Nam Kỳ; Ngô Đ́nh Diệm và Phan Thúc Ngô ở Trung Kỳ; Dương Bá Trạc, Nguyễn Xuân Chữ và Lê Toàn ở Bắc Kỳ.
Có thể thấy, Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh hội có hai cái tên Hồ Học Lăm, Nguyễn Hải Thần trong tổ chức và tập hợp được rất nhiều nhân sĩ, trí thức của Việt Nam lúc đó.
Như một kiểu “đánh lận con đen”, ngày 19/5/1941 tổ chức “Việt Nam Độc lập Đồng minh hội” hay c̣n gọi là Việt Minh do những người cộng sản thành lập ra đời và Hồ Chí Minh là Chủ tịch.
Theo Hoàng Văn Hoan, Hồ Chí Minh đă mập mờ khi đặt tên để mọi người dễ nhầm lẫn giữa “Việt Nam Độc lập Đồng minh hội” và “Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội” cao thủ hơn Hồ Chí Minh đă mời Hồ Học Lăm tham gia nhưng ông từ chối.
(C̣n tiếp).
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Old 2 Weeks Ago   #50
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 21,947
Thanks: 24,948
Thanked 15,557 Times in 6,665 Posts
Mentioned: 161 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 664 Post(s)
Rep Power: 42
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Default

PHẦN 30.
Ngày 19/5/1941 “Việt Nam độc lập đồng minh hội” được những người cộng sản thành lập, trước t́nh h́nh như vậy các đảng phái khác cũng nhóm họp dưới sự bảo trợ của Trung Hoa dân Quốc dể thành lập một liên minh mới thay thế cho liên minh “Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh hội” được thành lập năm 1936.
Ngày 1/10/1942 các đảng phái nhóm họp tại Liễu Châu, Trung Quốc bao gồm: Việt Nam Quốc dân Đảng, Đại Việt và các đảng nhỏ khác…
“Việt Nam độc lập đồng minh” của những người cộng sản, theo như trong lịch sử đảng cộng sản Việt Nam viết có cử người đến tham gia là Phạm Văn Đồng, Vơ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoan…
Trên thực tế thông tin này không có ǵ được kiểm chứng.
Chỉ biết rằng Hồ Chí Minh vào sát thời điểm này quay lại Trung Quốc và bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt vào ngày 18/8/1942 tức là chỉ trước hơn một tháng các đảng phái khác nhóm họp ở Liễu Châu, Trung Quốc.
Vậy Hồ Chí Minh sang Trung Quốc làm ǵ?
Đến bây giờ vẫn chưa có câu trả lời chính xác của chính quyền cộng sản Việt Nam và những nhà nghiên cứu về Hồ Chí Minh trong nằm trong hệ thống quản lư của họ đưa ra giải thích như sau:
“Nguyên nhân sâu xa là do chính quyền Tưởng từng biết Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc, đồng thời rất lo sợ sự hợp tác giữa Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam với Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhất là khi biết Người có mối quan hệ khá mật thiết với Chu Ân Lai. Một lư do nữa là chính quyền Tưởng bắt giam Hồ Chí Minh nhằm ḱm hăm bước tiến của cách mạng Việt Nam, ḥng tạo cho các tổ chức của phía Tưởng có thêm thời gian phát triển lực lượng để thực hiện kế hoạch “Hoa quân nhập Việt”, đồng thời tạo thêm sức ép với các bên liên quan, trực tiếp là Đảng Cộng sản Trung Quốc. C̣n yếu tố trực tiếp, có tính chất nguyên cớ chính là giấy tờ tuỳ thân quá hạn nên Người bị t́nh nghi là gián điệp”.
Và họ cũng giải thích thêm:
Cuối tháng 8/1942, Người đi Trung Quốc nhằm gây dựng, phát triển quan hệ và t́m sự ủng hộ của Đồng minh, tạo thêm sức mạnh cho cách mạng nước nhà. Trong hành trang của người có:
- Danh thiếp mang tên Người là Hồ chí Minh, dưới tên là hàng chữ "Kư giả Thông tấn xă Quốc tế”.
- Giấy giới thiệu của Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội (Việt Minh) và giấy giới thiệu của “Phân hội Việt Nam quốc tế chống xâm lược”….
Qua hai chi tiết này cho thấy như sau:
Như vậy tên Hồ Chí Minh trong danh thiếp cũng như giấy đi đường là do chính quyền Tưởng Giới Thạch cấp đă có từ trước lúc ông về nước năm 1941, vậy tổ chức nào đă đứng ra bảo lănh hoặc làm thủ tục cho việc ông xin cấp giấy thông hành khi hoạt động bên Trung Quốc dưới tên Hồ Chí Minh?
Mục đích của việc Hồ Chí Minh t́m sự ủng hộ của đồng minh thực chất là ông muốn đến Liễu Châu tham ra vào hội nghị với tư cách chủ tịch của “Việt Nam Độc lập Đồng minh hội” để có vị trí lănh đạo và tiếng nói trong tổ chức này.
Việc chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt và cho ông ngồi tù hơn một năm (8/1942- 9/1943) v́ t́nh nghi là gián điệp, đặt ra một câu hỏi Hồ Chí Minh làm gián điệp cho ai?
Tất nhiên kẻ thù của Tưởng Giới Thạch là đảng cộng sản Trung Quốc là Mao Trạch Đông th́ Hồ Chí Minh là gián điệp phải cho họ, chứ c̣n ai nữa.
Và hơn nữa, Nguyễn Ái Quốc thành Thiếu tá Hồ Quang rồi đến Hồ Chí Minh là một hành tŕnh được tính toán kỹ lưỡng và chuẩn bị rất chu đáo của những người cộng sản với vai tṛ chỉ đạo của những đồng chí Trung Quốc cho một chiến lược, âm mưu lâu dài.
Việc chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt Nguyễn Ái Quốc trước thời điểm các đảng phái không phải cộng sản được bảo trợ của Trung Hoa dân Quốc nhóm họp hơn một tháng, mục đích nhằm ngăn chặn Hồ Chí Minh có mặt và tham gia vào tổ chức này như một điệp viên của đảng cộng sản Trung Quốc cài cắm vào để “ném đá” hội nghị.
Đại hội thành lập Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội được triệu tập tại Liễu Châu, Trung Quốc, gồm các đại biểu của nhiều đảng phái như Việt Nam Quốc dân Đảng, Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội... nhằm tập hợp lực lượng thành một tổ chức thống nhất. Đại hội khai mạc ngày 1 tháng 10 năm 1942 và ngày này được coi là ngày thành lập Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội. Hội thành lập dưới bảo trợ của tướng Trung Hoa Quốc dân Đảng Trương Phát Khuê. Đại biểu Việt Minh và đảng cộng sản bị loại trừ.
Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương gồm bảy người là:
Trương Bội Công,
Nguyễn Hải Thần,
Vũ Hồng Khanh,
Nghiêm Kế Tổ,
Trần Báo,
Nông Kinh Du,
Trương Trung Phụng.
Các ủy viên thường vụ là Trương Bội Công, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, nhưng có thế lực nhất v́ được chính phủ Trùng Khánh hậu thuẫn là Vũ Hồng Khanh và Nghiêm Kế Tổ.
Cờ của Hội là nền đỏ, góc tư trên màu lam với ba vạch trắng.
Và âm mưu của những người cộng sản về việc làm sao Việt Cách phải nhập vào Việt Minh để trở thành một tổ chức thống nhất dưới sự lănh đạo của họ đă được Nghị quyết Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (họp từ ngày 25 đến 28 tháng 12 năm 1943) viết:
“Đó là một bước tiến của việc vận động cách mạng Việt Nam ở nước ngoài. Tuy quan niệm của đoàn thể này lộn xộn, nhưng họ cũng chủ trương chống Nhật - Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập. Trong cuộc cách mạng dân tộc giải phóng này, việc đoàn kết các lực lượng cách mạng to nhỏ và trong ngoài là một việc rất cần thiết. Vậy Đảng ta phải hết sức vận động cho Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội và Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội hợp lại làm một, đặng mau tập trung lực lượng cách mạng Việt Nam đánh đuổi phát xít Nhật - Pháp."
(C̣n tiếp)
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Old 2 Weeks Ago   #51
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 21,947
Thanks: 24,948
Thanked 15,557 Times in 6,665 Posts
Mentioned: 161 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 664 Post(s)
Rep Power: 42
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Default

PHẦN 31.
Hồ Chí Minh được chính quyền Tưởng Giới Thạch thả vào tháng 9/1943, quay trở về Việt Nam trong t́nh h́nh thế giới bắt đầu có chuyển biến khi phe đồng minh có những chiến thắng quan trọng trước trục phát xít trên khắp các mặt trận từ Châu Âu đến Châu Á - Thái B́nh Dương, chuyển sang phản công, xu thế bại trận của trục phát xít bắt đầu xuất hiện.
Phe Đồng Minh phía Tây đă giải phóng toàn bộ Pháp và Bỉ và đang chiến đấu ở biên giới phía tây của Đức. Ở phía đông, quân Xô viết chỉ cách Berlin 65 km, sau khi đẩy lùi quân Phát xít khỏi Ba Lan, Romania, và Bulgaria. Sự thất bại của Đức gần như đă ngă ngũ. Vấn đề c̣n lại là cục diện hậu chiến của châu Âu
Đầu mùa Xuân năm 1945 khi biết số phận của trục phát xít sắp đến hồi kết thúc, ba nguyên thủ của Anh, Mỹ, Liên Xô nhóm họp ở Hội nghị Yalta, c̣n gọi là Hội nghị Crimea với tên mă Argonaut, diễn ra ngày từ 4 đến ngày 11 tháng 2 năm 1945.
Tại Yalta, họ đă thỏa thuận phân chia lại thế giới sau khi thế chiến thứ hai kết thúc.
Ba cường quốc thống nhất mục đích là tiêu diệt tận gốc Chủ nghĩa Phát xít Đức và Chủ nghĩa quân phiệt Nhật.
Cụ thể:
- Liên Xô sẽ tham gia chiến tranh chống Nhật tại Châu Á sau khi chiến tranh ở châu Âu kết thúc.
- Ba cường quốc thống nhất sẽ thành lập một tổ chức để giữ ǵn ḥa b́nh và an ninh thế giới (mà sau này là Liên Hợp Quốc).
- Hội nghị đă thông qua các quyết định quan trọng về việc phân chia ảnh hưởng của 2 cường quốc Liên Xô và Hoa Kỳ.
Theo đó, Liên Xô duy tŕ ảnh hưởng Đông Âu, Đông Đức, Đông Berlin, quần đảo Kuril, Bắc Triều Tiên, Đông Bắc Trung Quốc và Mông Cổ;
Hoa Kỳ cũng duy tŕ ảnh hưởng ở phần c̣n lại của châu Âu (Tây Âu), Tây Đức, Tây Berlin, Nam Triều Tiên, phần c̣n lại của Nhật Bản, ở bán đảo Triều Tiên, quân đội Liên Xô chiếm đóng miền Bắc, quân đội Mỹ chiếm đóng miền Nam lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới quân sự, nhằm tạo cơ sở cho việc ǵn giữ trật tự thế giới sau khi chiến tranh kết thúc.
Anh, Pháp được khôi phục khu vực ảnh hưởng cũ.
Áo và Phần Lan trở thành nước trung lập. Vùng Măn Châu, đảo Đài Loan và quần đảo Bành Hồ được trao trả lại cho Trung Quốc.
Như vậy là đă rơ, theo sự phân chia này Bán đảo Đông Dương vẫn thuộc về nước Pháp quản lư theo thỏa thuận Yalta sau khi thế chiến thứ hai kết thúc.
Nhưng thực tế việc này phức tạp hơn rất nhiều.
Bán đảo Đông Dương từ năm 1940 về trước là thuộc địa của Pháp, nhưng khi nước Pháp bại trận trước phát xít Đức,ngày 22.6.1940, Pháp kư thỏa thuận ngừng bắn với Đức Quốc Xă, Chính phủ Vichy được thành lập, thừa kế hầu hết các vùng lănh thổ hải ngoại của Pháp, bao gồm cả Đông Dương.
Thực chất chính phủ này chẳng có quyền hành và lực lượng, nó chỉ là chính phủ bù nh́n của người Đức.
Và bán đảo Đông Dương trở thành mồi ngon cho phát xít Nhật, khi lực lượng quân sự của Pháp ở Đông Dương bị cô lập và không c̣n chỗ dựa từ chính quốc.
Nhật bắt đầu tiến hành thôn tính Đông Dương.
Ngày 18/6/1940, Nhật gửi cho Toàn quyền Catơru yêu cầu Pháp đóng cửa biên giới Việt-Trung, đ́nh chỉ việc vận chuyển xăng dầu, phương tiện chiến tranh cho Tưởng Giới Thạch theo đường Hải Pḥng-Vân Nam.
Tiếp đó, ngày 2/8/1940, Nhật yêu cầu Pháp cho Nhật vào Đông Dương, sử dụng các sân bay để tiến công miền Nam Trung Quốc, đặt nền kinh tế Đông Dương phục vụ cho guồng máy chiến tranh của Nhật.
Ngày 30/8/1940, Pháp và Nhật kí Hiệp định chính trị Tô-ki-ô, trong đó Pháp chấp nhận hầu hết các yêu cầu của Nhật.
Theo đó ngày 22/9/1940, chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương chấp nhận các điều khoản đă kư kết. Song, ngày 23/9/1940 quân Nhật vẫn vượt qua biên giới Việt-Trung đánh chiếm Lạng Sơn, ném bom Hải Pḥng, đổ bộ lên Đồ Sơn. Trước nguy cơ Nhật tràn vào Đông Dương, Pháp đă bố trí lực lượng khá mạnh ở Lạng Sơn, nhưng chỉ trong 3 ngày từ 22 đến 25/9/1940, quân Pháp đă bị thất bại nặng nề.
Phát xít Nhật thay Pháp chi phối Đông Dương.
Sau khi vào Đông Dương, Nhật liên tục ép Pháp nhượng bộ, kư kết các hiệp ước có lợi cho Nhật trên tất cả các mặt kinh tế, quân sự, văn hóa tư tư tưởng, trên cơ sở đó từng bước chi phối Đông Dương.
Về kinh tế:
Hiệp định Tô-ki-ô, ngày 6/5/1941, phía Pháp thừa nhận địa vị đặc biệt ưu đăi của Nhật trong các quan hệ kinh tế với Đông Dương, từng bước thực hiện âm mưu độc chiếm Đông Dương.
Theo đó Nhật được sử dụng mọi phương tiện giao thông, kiểm soát hệ thống đường sắt, tàu biển tại các cảng ở Đông Dương với trọng tải 200.000 tấn.
Từ năm 1940 đến 1945 chính quyền thực dân Pháp phải đóng cho Nhật Bản một số tiền là 723.786.000 đồng. Ngoài ra, Nhật Bản cũng yêu cầu chính quyền Pháp phải để 50% giá trị nhập khẩu và 15% giá trị xuất khẩu của Đông Dương cho các công ty thương mại của Nhật. Chính v́ vậy, hầu hết các mặt hàng xuất khẩu của Đông Dương trong hai năm 1942-1943 như than, kẽm, cao su, xi măng đều được xuất sang Nhật. Tính đến năm 1941 các ngành khai khoáng chính ở Đông Dương như: măng-gan, sắt, phốt-phát, quặng crôm…, tư bản Nhật chiếm gần 50% số vốn đầu tư của các công ty nước ngoài.
Về quân sự:
Pháp buộc phải kí với Nhật từ hiệp định quân sự này đến hiệp ước quân sự khác.
Hiệp định ngày 29/7/1941 với danh nghĩa “pḥng thủ chung Đông Dương”, Nhật được tự do đi lại trên khắp lănh thổ Đông Dương không hạn chế về số lượng.
Tiếp đến là hiệp định quân sự ngày 8/12/1941 nêu rơ chính quyền thực dân Pháp phải cung cấp các phương tiện chiến tranh thiết lập các cơ sở quân sự, cung cấp vật chất cho quân đội Nhật. Chính quyền thực dân Pháp cam kết đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân Đông Dương, bảo đảm an ninh cho quân Nhật. Về phía thực dân Pháp v́ không đủ sức phản kháng nên đă chấp nhận các yêu sách của Nhật, đồng thời Pháp cũng dựa hơi Nhật để đàn áp phong trào đấu tranh dành độc lập.
Về chính trị:
Nhật giữ nguyên bộ máy cai trị của Pháp trên toàn Đông Dương, quản lư hành chính vẫn do người Pháp cai quản.
Nhật cho phục hồi các tổ chức thân Nhật ở Việt Nam nhưng bị Pháp đàn áp trong những năm 1940-1941 như Hội Phục Quốc, Cao Đài, Ḥa Hảo… giúp đỡ các nhóm Đại Việt dân chính, Đại Việt quốc xă, Đảng Việt Nam ái quốc…với mục đích khi thời cơ đến sẽ dùng lực lượng này để lật đổ Pháp.
Xă hội Việt Nam từ những năm 1940 đến năm 1946 như một mớ ḅng bong trong toàn tính của các nước lớn.
Người Việt bị chia rẽ, các đảng phái được thành lập hỗn loạn dưới sự bảo trợ của các nước lớn hy vọng dựa vào họ để dành độc lập từ tay Pháp.
Thật là ấu trĩ, chẳng có nền độc lập thực sự nào khi phải núp dưới bóng ngoại bang.
Cho dù Đảng phái nào cướp được chính quyền, tuyên bố dành độc lập cho đất nước cũng chỉ là giả hiệu.
Một Việt Nam độc lập trong một t́nh thế như thế không lệ thuộc nước lớn này cũng lệ thuộc nước lớn khác.
Lần mở từng trang lịch sử sẽ cho chúng ta thấy nỗi đau của dân tộc Việt Nam c̣n kéo dài măi cho đến bây giờ.
(C̣n tiếp).
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Old 2 Weeks Ago   #52
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 21,947
Thanks: 24,948
Thanked 15,557 Times in 6,665 Posts
Mentioned: 161 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 664 Post(s)
Rep Power: 42
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Default

Tháng 2/1945 thỏa thuận Yalta được kư kết giữa ba nước Anh, Mỹ, Liên Xô lúc này nước Pháp đă được giải phóng khỏi Đức Quốc xă (8/1944) dù rằng Pháp không được mời tham gia hội nghị, nhưng ba nước này cũng vẫn thỏa thuận để Pháp vẫn có quyền lợi tại các thuộc địa do Pháp cai trị.
Ngay sau đó người Nhật đă quyết định thay đổi, phá bỏ các hiệp định đă kư với Pháp như đă nêu trong phần 31.
Nhật muốn trực tiếp cai quản Đông Dương và xây dựng một chính phủ của người Việt thân Nhật trong lâu dài dù thế chiến thứ hai có thể kết thúc như thế nào, và tương lai nước Nhật ra làm sao.
Tháng 3/1945 Nhật tấn công Pháp trên khắp Đông Dương, về tương quan lực lượng hai bên không chênh nhau là mấy, nhưng quân Nhật dĩ nhiên là thiện chiến hơn đặc biệt là lục quân v́ họ có kinh nghiệm trận mạc.
Phía Pháp không có bất kỳ sự kháng cự nào, quân Nhật nhanh chóng chiếm được Phủ Toàn quyền Đông Dương, giam giữ Toàn quyền Đông Dương và hầu hết các quan chức cao cấp của thực dân Pháp.
Đến chiều ngày 10 tháng 3, quân Pháp đầu hàng, phát xít Nhật làm chủ các vùng đô thị lớn như Hà Nội, Hải Pḥng, Huế, Sài G̣n và nhiều tỉnh lỵ,… Những đơn vị quân Pháp c̣n cố thủ ở Cà Mau, Biển Hồ (Campuchia), một số vùng ở Bắc Đông Dương cũng lần lượt bị thất thủ, chỉ c̣n một số tàn quân chạy qua biên giới Việt–Trung.
Với sự kiện này, lực lượng quân sự Pháp hoàn toàn tan ră, bộ máy thống trị của thực dân Pháp đầu hàng, bị cầm tù hoặc làm việc cho phát xít Nhật. Toàn bộ Đông Dương đă trở thành thuộc địa của phát xít Nhật.
Người Pháp có vẻ khôn ngoan và họ hiểu t́nh h́nh theo những suy nghĩ chiến lược, khi biết trục phát xít sẽ chỉ tồn tại theo tháng không phải theo năm.
Người Pháp hạ súng đầu hàng tránh một cuộc đổ máu không cần thiết và toan tính cho một kế hoạch có tính thực tế được sự bảo trợ của Anh, Mỹ, Liên Xô.
Sau khi Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương, người Nhật tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam.
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố Đế quốc Việt Nam độc lập với sự cộng tác với Đế quốc Nhật Bản.
Ngày 11 Tháng Ba năm 1945, vua Bảo Đại gặp mặt Cố vấn tối cao của Nhật là đại sứ Yokoyama Masayuki tại điện Kiến Trung để kư bản Tuyên cáo Việt Nam độc lập.
Cùng đi với Yokoyama là Tổng lănh sự Konagaya Akira và Lănh sự Watanabe Taizo.
Bản tuyên cáo đó có chữ kư của sáu vị Thượng thư trong Cơ mật Viện là Phạm Quỳnh, Hồ Đắc Khải, Ưng Úy, Bùi Bằng Đoàn, Trần Thanh Đạt và Trương Như Đính, nguyên văn chiếu chỉ đề ngày 27 Tháng Giêng ta năm thứ 20 niên hiệu Bảo Đại:
“Cứ theo t́nh h́nh thế giới nói chung và hiện t́nh Á Châu, chính phủ Việt Nam long trọng công bố rằng: Kể từ ngày hôm nay, Ḥa ước Bảo hộ kư kết với nước Pháp được hủy bỏ và vô hiệu hóa. Việt Nam thu hồi hoàn toàn chủ quyền của một Quốc gia Độc lập.”
Theo đó triều đ́nh Huế tuyên bố hủy bỏ Ḥa ước Patenôtre kư với Pháp năm 1884 vốn áp đặt nền bảo hộ của Pháp lên toàn cơi nước Việt Nam.
Tuy nhiên, do văn bản được Nhật Bản soạn thảo nên đoạn sau của Tuyên cáo được cài thêm khẩu hiệu về Khối thịnh vượng chung Đại Đông Á, cũng như vai tṛ lănh đạo và quyền trưng dụng mọi tài sản của Việt Nam sẽ thuộc về Đế quốc Nhật Bản:
“Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập và theo như lời tuyên ngôn chung của Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vượng chung.
Vậy Chính phủ Việt Nam một ḷng tin cậy ḷng thành ở Nhật Bản đế quốc, quyết chí hợp tác với nước Nhật, đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên.
Chính phủ Đế Quốc Việt Nam hoạt động như thế nào, và cái gọi là cách mạng tháng 8 cướp chính quyền và thành lập nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hoà vào 2/9/1945 diễn biến và thực chất ra làm sao, xin đọc tiếp ở các phần sau.
(C̣n tiếp).
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Old 1 Week Ago   #53
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 21,947
Thanks: 24,948
Thanked 15,557 Times in 6,665 Posts
Mentioned: 161 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 664 Post(s)
Rep Power: 42
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Default

Hồ chí Minh bị chính phủ Tưởng giới Thạch bắt và giam giữ từ tháng 8/1942 đến tháng 9/1943.
Về nguyên nhân tại sao ông bị bắt đă được nêu trong phần 30, nhưng lư do ǵ ông được được thả ra?
Theo tư liệu công bố nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam được trích dẫn như sau:
- Khi nhận được tin Bác bị bắt, nhân danh các đoàn thể cứu quốc, Trung ương Đảng ta lập tức viết một loạt kiến nghị bằng chữ Hán và chữ Pháp, gửi tới chính quyền Tưởng Giới Thạch, các cơ quan quốc tế ở Trùng Khánh như Sứ quán Mỹ, Đoàn cố vấn Liên Xô, các cơ quan thông tấn báo chí... phát động chiến dịch đ̣i thả Hồ Chí Minh, đại biểu của phong trào cách mạng Việt Nam bị bắt nhầm.
Những kiến nghị đó đă phát huy tác dụng.
A.Patti, Thiếu tá, Trưởng pḥng Đông Dương thuộc Cơ quan T́nh báo chiến lược Mỹ (OSS) thừa nhận, Sứ quán Mỹ ở Trùng Khánh chuyển về Washington các bản kiến nghị trên.
C̣n Phân xă TASS ở Trùng Khánh đă điện thúc giục Chính phủ Tưởng Giới Thạch trả tự do cho Hồ Chí Minh... Nhận được kiến nghị, Viện trưởng Viện Lập pháp (Quốc hội) Tôn Khoa đă chuyển tới Ngô Thiết Thành, Chánh văn pḥng Trung ương Quốc dân đảng. Ngô Thiết Thành đă gửi điện cho Tỉnh trưởng Quảng Tây, chỉ thị: “Xét rơ rồi phóng thích”. Nhưng khi đó, Bác đang bị giải trên đường nên lệnh trên không thực hiện được.
Biết tin đồng chí Hồ Chí Minh bị giam cầm, Đảng Cộng sản Trung Quốc cử Chu Ân Lai bàn bạc với Chính phủ Quốc dân đảng.
Thay mặt lănh đạo đảng, Chu Ân Lai t́m gặp Phùng Ngọc Tường, viên tướng của quân đội Tưởng Giới Thạch có khuynh hướng thân Cộng sản, đề nghị ông ta t́m cách cứu Hồ Chí Minh. Trong khi đó, đoàn cố vấn Liên Xô ở Trùng Khánh cũng nhờ tướng Phùng Ngọc Tường t́m cách khuyên Tưởng Giới Thạch trả tự do cho Bác. Phùng Ngọc Tường gặp và chất vấn Tưởng Giới Thạch:
“Hồ Chí Minh là Cộng sản hay không tạm chưa bàn đến. Mà dù có là Cộng sản Việt Nam, liệu chúng ta có cần và có quyền bắt giam người của Đảng Cộng sản ngoại quốc hay không?
Thành viên trong đoàn cố vấn Liên Xô ở Trùng Khánh chẳng phải là Cộng sản đó sao, tại sao chúng ta không bắt giữ họ? Việt Nam ủng hộ Trung Quốc kháng chiến. Vậy, coi Hồ Chí Minh là bạn chứ tại sao lại là tội phạm?...”.
Ông ta yêu cầu Tưởng Giới Thạch trả tự do cho Hồ Chí Minh với tư cách là người bạn của nước Đồng minh.
Qua nhiều thông tin, tướng Trương Phát Khuê, Tư lệnh Đệ tứ chiến khu đóng tại Liễu Châu biết được Hồ Chí Minh là lănh tụ hết sức có uy tín với phong trào cách mạng Việt Nam. Ông ta muốn tranh thủ được sự ủng hộ của các đoàn thể ở Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Nhật nên muốn trả tự do cho Hồ Chí Minh.
Đầu tháng 9/1943, nhân dịp Hầu, Chủ nhiệm Cục Chính trị của Đệ tứ chiến khu về Trùng Khánh họp, Trương Phát Khuê giao Hầu báo cáo ư kiến của ông lên nhà đương cục tối cao. Lúc này, Tưởng Giới Thạch đă nhận được nhiều thông tin về việc bắt giam Hồ Chí Minh, lại đang chịu nhiều áp lực về sự việc trên nên khi nghe Hầu báo cáo, ông ta lệnh cho Đệ tứ chiến khu trả tự do cho Bác.
Từ Trùng Khánh trở về, Hầu chủ nhiệm thực hiện mệnh lệnh, đưa Hồ Chí Minh ra khỏi trại giam, nhưng lưu lại Cục Chính trị “để xem xét cảm hóa”.
Ngày 10/9/1943, sau 1 năm 14 ngày bị giam giữ, “tự do trở lại” với Bác.
Có bao nhiêu phần trăm sự thật trong tư liệu này cần có thêm bằng chứng xác thực từ nhiều nguồn.
Nhưng có một lư do chính để chính quyền Tưởng Giới Thạch thả Hồ Chí Minh chính là từ sự tác động của người Mỹ, khi Hồ Chí Minh đă đồng ư cộng tác với họ.
Chính v́ vậy khi được thả ra, trở về nước thông qua thiếu tá Archimedes L.A Patti, Trưởng pḥng Đông Dương thuộc Cơ quan T́nh báo chiến lược Mỹ (OSS) Hồ Chí Minh cố gắng thuyết phục Mỹ tiếp tục chính sách chống thực dân của Mỹ đối với Đông Dương.
Ông t́m cách làm Mỹ tin rằng, ông không phải là một phái viên của Quốc tế Cộng sản mà là một người Quốc gia - Xă hội mong muốn giải thoát đất nước khỏi ách đô hộ của ngoại bang.
Thông qua OSS, Hồ Chí Minh gửi một bức điện cho Tổng thống Mỹ Truman yêu cầu Mỹ đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ Lâm thời đồng thời Mỹ và Chính phủ Lâm thời sẽ có đại diện trong Ủy ban Liên tịch các nước Đồng Minh giải quyết các vấn đề liên quan đến Việt Nam.
Việt Minh hy vọng tranh thủ được sự có mặt của Mỹ trong cuộc thương lượng giữa Trung Quốc và Pháp về Đông Dương v́ hai nước này có thể làm nguy hại đến nền độc lập và toàn vẹn lănh thổ của Việt Nam đồng thời khuyến khích các nước Đồng Minh công nhận Chính phủ Lâm thời là đại diện duy nhất và hợp pháp của Việt Nam trong các vấn đề liên quan đến chủ quyền của Việt Nam.
Việt Minh lo ngại việc không được các nước Đồng Minh công nhận sẽ làm suy yếu địa vị lănh đạo của họ và có lợi cho Việt Cách, Việt Quốc trong việc thành lập chính phủ của các lực lượng này.
Hồ Chí Minh nói với chỉ huy OSS tại miền Bắc, Archimedes L.A Patti, rằng ông theo chủ nghĩa Lenin, tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp và xin gia nhập Đệ Tam Quốc tế v́ đây là những cá nhân và tổ chức duy nhất quan tâm đến vấn đề thuộc địa.
Ông không thấy có sự lựa chọn nào khác. Nhưng trong nhiều năm sau đó những tổ chức này cũng không có hành động ǵ v́ nền độc lập của các dân tộc thuộc địa. Trước mắt, ông đặt nhiều tin tưởng vào sự giúp đỡ của Mỹ trước khi có thể hy vọng vào sự giúp đỡ của Liên Xô.
Người Mỹ muốn sử dụng các tổ chức người Việt vào các hoạt động quân sự chống Nhật tại Việt Nam, Hồ Chí Minh đă thiết lập mối quan hệ với các cơ quan t́nh báo Hoa Kỳ đồng thời chỉ thị cho Việt Minh làm tất cả để giải cứu các phi công gặp nạn trong chiến tranh với Nhật Bản, cung cấp các tin tức t́nh báo cho OSS (Cơ quan T́nh báo chiến lược Hoa Kỳ), tiến hành một số hoạt động tuyên truyền cho Trung Hoa Dân quốc và Văn pḥng Thông tin Chiến tranh Hoa Kỳ (OWI). Đổi lại, cơ quan t́nh báo Hoa Kỳ OSS (U.S Office of Strategic Services) cung cấp vũ khí, phương tiện liên lạc, giúp đỡ y tế, cố vấn và huấn luyện quân đội quy mô nhỏ cho Việt Minh.
Ngày 16 tháng 7 năm 1945, nhóm Con Nai thuộc cơ quan t́nh báo Mỹ OSS do Thiếu tá Allison K. Thomas chỉ huy nhảy dù xuống vùng lân cận làng Kim Lung cách Tuyên Quang 20 dặm về phía đông. Nhóm t́nh báo Con Nai được lực lượng Việt Minh tại Tuyên Quang gồm khoảng 200 người đón tiếp. Trong ṿng một tháng, nhóm Con Nai đă huấn luyện cho lực lượng Việt Minh cách sử dụng những vũ khí Mỹ và chiến thuật du kích.
Nhưng người Mỹ có con mắt tinh đời, sau khi phát hiện tính hai mặt và bản chất cộng sản trong con người Hồ Chí Minh, Mỹ không đáp lại nguyện vọng của Hồ Chí Minh. Cuối tháng 9 năm 1946, Mỹ rút tất cả các nhân viên t́nh báo tại Việt Nam về nước, chấm dứt liên hệ với chính phủ Hồ Chí Minh.
(C̣n tiếp)
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Old 1 Week Ago   #54
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 21,947
Thanks: 24,948
Thanked 15,557 Times in 6,665 Posts
Mentioned: 161 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 664 Post(s)
Rep Power: 42
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Default

PHẦN 34.

Nhà nước Đế Quốc Việt Nam được thành lập theo mô h́nh nhà nước quân chủ lập hiến của Nhật Bản, và tại sao người Nhật lại chọn Bảo Đại làm vua và Trần Trọng Kim là thủ tướng?
Sử sách, truyền thông sau này ít nhắc đến một nhân vật đó là Kỳ Ngoại hầu - Cường Để (chữ Hán: 畿外侯•彊㭽; 1882 – 1951) là Hoàng thân nhà Nguyễn (cháu 4 đời của Nguyễn Phúc Cảnh), và là một nhà cách mạng Việt Nam vào đầu thế kỷ 20.
V́ là ḍng dơi chính thống trong Hoàng tộc nên nhiều nhà ái quốc như Phan Đ́nh Phùng, Phan Bội Châu đă có kế hoạch liên lạc với gia đ́nh ông để lập lại ngôi vua, thay cho vua Khải Định v́ vị vua này hợp tác với thực dân Pháp. Tuy nhiên v́ lư do tuổi già, cha ông từ chối, nhưng giới thiệu ông thay mặt gia đ́nh tham gia phong trào. Biệt danh Nguyễn Trung Hưng (阮中興) của ông có từ đó. Khi Phan Đ́nh Phùng mất, khả năng đấu tranh bằng lực lượng vũ trang cũng không c̣n, ông chuyển sang hoạt động chính trị.
Năm 1906, ông trốn sang Nhật và cùng với Phan Bội Châu cổ động phong trào Đông Du. Là một Hoàng thân nhà Nguyễn, ông có tư tưởng quân chủ lập hiến và nhận làm người lănh đạo Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội. Địa bàn ảnh hưởng của ông mạnh nhất trong giới giáo dân Cao Đài. Thời gian ở Nhật ông giả dạng là người Tàu hoặc Nhật và dùng một số bí danh như Lâm Đức Thuận (chữ Hán: 林徳順, Hayashi Tokujun), Nam Nhất Hùng (chữ Hán: 南一雄, Minami Kazuo) để tránh sự theo dơi của nhà chức trách Nhật và Pháp.
Năm 1910, người Nhật do muốn vay 300 triệu franc từ chính phủ Pháp nên chấp thuận yêu sách của Pháp trục xuất ông và Phan Bội Châu, cũng như các học viên thuộc phong trào Duy Tân tại Nhật. Ông phải rời bỏ Nhật sang Trung Quốc và lưu lạc một thời gian ở Xiêm và sang cả Âu Châu. Các học viên của phong trào Duy Tân cũng theo ông sang Trung Quốc tiếp tục hoạt động phản kháng Pháp, đa số sau này không trở về Việt Nam mà trở thành công chức trong bộ máy chính quyền ở Trung Quốc, hoặc làm quan nhỏ như quan huyện ở địa phương.
Năm 1915 ông trở về Nhật Bản, cư ngụ ở phường Ômori, Tokyo, giao du với những chính khách Nhật như Inukai Tsuyoshi, Kashiwabara Buntaro, và Matsui Iwane. Những nhân vật này cũng tham gia hiệp hội Kissaragi-Kai với chủ trương ủng hộ tinh thần và tài chính cho Cường Để.
V́ trông cậy vào người Nhật, ông ủng hộ quân đội Đế quốc Nhật Bản đưa quân vào Việt Nam thời Chiến tranh thế giới thứ hai v́ nghĩ họ có thể giải phóng đất nước khỏi tay thực dân Pháp.
Tuy nhiên sau đó v́ thấy Nhật Bản không thật t́nh muốn giúp người Việt mà chỉ muốn tranh giành ảnh hưởng với các cường quốc Tây phương tại Á Đông, ông đă thất vọng.
Năm 1925, Phan Bội Châu bị bắt, bị an trí ở Bến Ngự. Cường Để tiếp tục làm Hội chủ Việt Nam Quang phục Hội cho đến năm 1939, và Quang Phục Hội được cải tổ thành Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội, thường được gọi tắt là Việt Nam Phục Quốc hội.
Tại Việt Nam, những người đấu tranh cho độc lập dân tộc đă h́nh thành nên phong trào Cường Để vào những năm 1940 chủ yếu hoạt động ở miền Trung gồm có cựu Thượng thư Bộ Lại Ngô Đ́nh Diệm, Bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ, Bác sĩ Lê Toàn, Vũ Đ́nh Di, Kỹ sư Vũ Văn An.
Thời cuộc đă không ủng hộ Cường Để khi Nhật bắt tay với Pháp, bỏ rơi Kiến quốc quân khiến Trần Trung Lập hy sinh ngày 26/12/1940 tại Lục B́nh, Lạng Sơn. Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, ai cũng tưởng Nhật đưa Cường Để về làm vua nhưng Nhật lại dùng lá bài Bảo Đại nên phong trào Cường Để dần suy tàn.
Ông mất ngày 6 tháng 4 năm 1951, tại Tokyo, Nhật Bản, do bệnh ung thư gan. Tên ông từng được đặt cho một con đường tại Quận 1, Sài G̣n dưới thời Việt Nam Cộng ḥa. Sau năm 1975, đại lộ Cường Để trở thành một phần đường Đinh Tiên Hoàng, đến năm 1980 lại được cắt phần lớn sang đường Tôn Đức Thắng.
Việc lựa chọn nội các cho nhà nước Đế Quốc Việt Nam được người Nhật đưa ra nhiều phương án.
Và Hoàng thân Cường Đề lúc đầu được đặt vào vị trí nhà vua cùng với ông Ngô Đ́nh Diệm giữ chức thủ tướng.
Nhưng sau đó bị loại bỏ, Hoàng thân Cường Đề tuy hợp tác và muốn nước Nhật Bản bảo trợ để chống Pháp nhưng ông có phẩm chất của một nhà cách mạng kiên cường, thực sự v́ dân tộc tất nhiên sẽ khó bị điều khiển hơn.
Mặt khác nếu đặt Hoàng thân Cường Đề lên làm vua sẽ có nhiều xáo trộn đặc biệt là tính chính danh của ông, v́ Bảo Đại đang thực sự là vua với đầy đủ tư cách theo truyền thống và pháp lư, về con người Bảo Đại cũng dễ bị uốn nắn và đă quen làm một ông vua bù nh́n.
Lựa chọn Bảo Đại người Nhật muốn cho người dân Việt Nam thấy, trao trả độc lập cho Việt Nam một cách thực tâm, không can thiệp vào vẫn đề nội bộ, giữ nguyên trạng hệ thống đang hoạt động.
Chính v́ vậy phương án đưa Hoàng thân Cường Đề lên làm vua bị loại bỏ.
Nhà nước quân chủ lập hiến thực quyền nằm trong tay thủ tướng, đây chính là điều người Nhật quan tâm.
Họ muốn chọn một thủ tướng thực tài để xây dựng nội các và có khả năng điều hành bộ máy chính phủ.
Huỳnh Thúc Kháng là một nhân vật quan trọng trong phong trào Duy Tân, được Nhật mời đầu tiên, nhưng ông đă từ chối v́ không muốn phục vụ cho quân đội nước ngoài đang chiếm đóng nước ḿnh. Trước đó, năm 1943, nhà yêu nước Nguyễn An Ninh đang bị cầm tù ở Côn Đảo, được một viên tướng Nhật ra đảo mời hợp tác nhưng ông cũng kiên quyết từ chối.
Sau này tên được người Nhật lựa chọn, theo tác giả Daniel Grandcléme, có quan đại thần Phạm Quỳnh được chỉ định tạm quyền nhưng ông này quá thân Pháp, ngoài ra ông ta thấy ngay "nền độc lập" của Đế quốc Việt Nam có những giới hạn khắt khe giống như hồi c̣n chế độ bảo hộ Pháp: Không được tự chủ về ngoại giao, không có quân đội, không có độc lập tài chính... Do vậy, quân Nhật quyết định không bổ nhiệm Phạm Quỳnh và chọn một nhân vật ôn hoà hơn và gần gũi với Nhật Bản.
Vua Bảo Đại muốn giới thiệu Ngô Đ́nh Diệm vào vị trí này nhưng người Nhật cũng không tán thành v́ trước đó họ có đặt phương án Hoàng thân Cường Đề làm vua và Ngô Đ́nh Diệm làm thủ tướng rồi loại bỏ.
Người Nhật tính toán không thể để vị trí thủ tướng lại do vua chỉ định, họ muốn tách ra độc lập.
Ngô Đ́nh Diệm đă từng làm Thượng thư Bộ Lại trong triều đ́nh nhà Nguyễn dưới thời vua Bảo Đại nên không thể được ngồi vào ghế thủ tướng là điều dễ hiểu.
Người Nhật đă vạch ra phương án và lựa chọn nó, đó là Vua Bảo Đại cùng đi với nội các do Trần Trọng Kim làm thủ tướng.
Trần Trọng Kim là ai? Chính phủ của ông ta sẽ hoạt động như thế nào? Xin đọc tiếp ở các phần sau.
(C̣n tiếp).
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Old 1 Week Ago   #55
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 21,947
Thanks: 24,948
Thanked 15,557 Times in 6,665 Posts
Mentioned: 161 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 664 Post(s)
Rep Power: 42
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Default

PHẦN 35.
HỒNG PHÚC DÂN TỘC.
Trần Trọng Kim (1883- 1953) là một giáo học, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu sử học, văn học, tôn giáo Việt Nam, bút hiệu Lệ Thần.
Ông là tác giả của nhiều cuốn sách về lịch sử, văn hóa như Việt Nam sử lược, Việt Nam văn phạm, Nho giáo,...
Trần Trọng Kim.
Trần Trọng Kim, sinh năm 1883 (Quư Mùi) tại làng Kiều Lĩnh, xă Đan Phố (nay là xă Xuân Phổ), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Cha ông là Trần Bá Huân (1838-1894), đă từng tham gia từ rất sớm phong trào Cần Vương do Phan Đ́nh Phùng lănh đạo.
Vào năm 1897, ông theo học tại Trường Pháp-Việt Nam Định và học chữ Pháp.
Năm 1900, ông thi đỗ vào Trường Thông ngôn và đến năm 1903 th́ tốt nghiệp.
Năm 1904, ông làm Thông sự ở Ninh B́nh.
Năm 1905, v́ hiếu học nên ông qua Pháp học trường Thương mại ở Lyon.
Năm 1906, nhân có Hội chợ đấu xảo tại Marseille, Pháp, ông xin làm một chân thợ khảm để được đi với Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936) sang dự.
Sau hội chợ, ông xin ở lại để học thêm tại các trường ở Ardèche, Lyon rồi tiếp tục học ở Trường thuộc địa. Năm 1909, ông vào học trường Sư phạm Melun (École Normale dinstituteurs de Melun, đă đóng cửa năm 2015 sau 135 năm hoạt động) và tốt nghiệp ngày 31 tháng 7 năm 1911 rồi về nước.
Ông lần lượt dạy Trường trung học Bảo hộ (c̣n gọi là Trường Bưởi, nay là Trường Chu Văn An - Hà Nội), Trường Hậu bổ và Trường nam Sư phạm.
Ông là nhà sư phạm mẫu mực, có uy tín trong xă hội, giữ nhiều chức vụ trong ngành giáo dục thời Pháp thuộc như:
Thanh tra Tiểu học (1921)
Trưởng ban Soạn thảo Sách Giáo khoa Tiểu học (1924), dạy Trường Sư phạm thực hành 1931
Giám đốc các trường nam tiểu học tại Hà Nội (1939)
Từ thập niên 1910 đến thập niên 1940, ông cũng viết nhiều sách về sư phạm và lịch sử.
Ngoài ra ông c̣n tham gia các hoạt động xă hội. Ông là Phó trưởng ban Ban Văn học của Hội Khai trí Tiến Đức, Nghị viên Viện Dân biểu Bắc Kỳ, Trưởng ban nghiên cứu Phật học của Hội Bắc kỳ Phật giáo.
Chính quyền Cộng sản gán cho ông là một nhà hoạt động chính trị (Họ cho ông là đảng viên của đảng chính trị Đại Việt Quốc gia Xă hội Đảng) nhưng không hiểu biết về chính trị, một thủ tướng của một nhà nước bù nh́n và c̣n nặng lời hơn nói ông là tay sai, Việt gian phản quốc, quyết tâm phục vụ quan thầy Nhật Bản….
Thực sự ông có phải là người như thế, và chính quyền cộng sản gán cho ông nhiều điều xấu xa, thậm chí cả tội ác có liên quan đến nạn đói năm 1945 có mục đích ǵ, đâu là sự thật?
Lần theo những ǵ tư liệu c̣n lại và góc nh́n khách quan từ nhiều phía, sẽ thấy đây là một âm mưu có tính chủ đích, và bị bóp méo của bộ máy tuyên truyền.
Trong hồi kư của “Một cơn gió bụi” ông có viết:
“Tôi là một người nước Việt Nam, lẽ nào ḷng tôi lại không rung động theo với dịp rung động của những người ái quốc trong nước? Nhưng v́ hoàn cảnh khó khăn, ḷng người ly tán, nhiều người lại muốn lợi dụng cái tiếng ái quốc để làm cái mối tư lợi cho ḿnh, v́ vậy mà tôi chán nản không dự vào đảng phái nào cả, mà cũng không hành động về phương diện chính trị. Ngoài những lúc làm những công việc hàng ngày phải làm, khi rỗi răi gặp những bạn thân, nói đến chuyện thiên hạ sự và việc nước nhà, th́ tôi cũng nói chuyện phiếm và mong cho nước nhà chóng được giải phóng”.
Cho nên họ nói ông là một nhà chính trị chuyên nghiệp, có tham gia vào các hoạt động và là đảng viên của một đảng chính trị là không đúng sự thật.
Vậy tại sao ông lại trở thành thủ tướng của Đế Quốc Việt Nam?
Người Nhật muốn Việt Nam nằm trong vùng ảnh hưởng của họ xét về quy luật của tự nhiên“Cá lớn nuốt cá bé” không dưới h́nh thức này cũng dưới h́nh thức khác là một quy luật bất biến của xă hội loài người chẳng có ǵ là xấu.
Việt Nam lúc đó chẳng cứ ǵ Nhật Bản, c̣n có người Pháp, người Tàu, người Mỹ, người Nga sau này đều có ư đồ kéo Việt Nam vào ảnh hưởng của họ.
Những người cộng sản họ lên án sự xâm lược của nước ngoài, nhưng sử sách tuyên truyền họ vẫn ca ngợi các triều đại, các ông vua phong kiến “Mở mang bờ cơi” đi lấy đất của Chăm Pa, Chân Lạp…
Xâm lược là xấu, hay tốt cũng chỉ là do cái lưỡi mà ra, nh́n nhận bản chất của xâm lược theo góc độ giải phóng, hay thôn tính phải theo những quan điểm cụ thể… chính v́ thế Liên Hợp Quốc sau này mới phải đưa vào hiến chương định nghĩa thế nào là xâm lược để có thể phán xét theo nguyên tắc thống nhất và ứng xử theo luật pháp quốc tế.
Không thể để lẫn lộn, nhầm lẫn về đánh giá các xung đột và lợi dụng xung đột.
Họ lên án nhà Nguyễn để mất đất, là nhà nước bù nh́n, tay sai cho người Pháp.
Nhưng khi họ dành được độc lập và sau trận chiến Điện Biên Phủ kết thúc bằng Hiệp định Genevo 1954 tự họ cũng nhận thấy nền độc lập của Việt Nam đă không được như họ tuyên truyền, và Việt Nam rơi vào quỹ đạo Liên Xô, Trung Quốc trong tham vọng bành trướng của chủ nghĩa cộng sản…
Lê Duẩn TBT đảng CS Việt Nam đă từng cay đắng nói “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc” và măi đến sau này mới dám nói lên sự thật với người Trung Quốc “Các ông đă bán đứng chúng tôi ở hội nghị Genevo”
Lê Duẩn mạnh mồm như vậy v́ lúc ấy Việt Nam nấp dưới cái ô bảo trợ của Liên Xô thông qua Hiệp ước Hữu nghị Xô - Việt năm 1978, trong đó tại điều 6 có ghi:
“Trong trường hợp một trong các bên trở thành đối tượng của một cuộc tấn công hoặc đe dọa tấn công, các bên kư kết sẽ ngay lập tức bắt đầu tham vấn lẫn nhau để loại bỏ mối đe doạ đó và thực hiện các biện pháp pháp hiệu quả phù hợp đảm bảo hoà b́nh và an ninh cho quốc gia của hai bên”
Dân tộc Việt Nam nói cụ thể hơn là người Việt Nam có khao khát độc lập mănh liệt, hơn 80 năm người Pháp đô hộ những người Việt Nam yêu nước hết lớp này đến lớp khác, đủ các loại thành phần đi t́m nền độc lập cho Việt Nam, xương máu của các cuộc khởi nghĩa vũ trang không đem lại kết quả v́ vũ khí lạc hậu, đường lối bế tắc…
Người Việt Nam có thừa ư trí, ḷng can đảm nhưng không có nhà tư tưởng.
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có văn hoá, nhưng văn hoá Việt Nam không dựa trên một nền giáo dục mở mang, không dạy con người có ư thức tự chủ, tư tưởng tự do phóng khoáng, không dạy con người về vận động bằng các kiến thức khoa học… giáo dục của Việt Nam chủ yếu dạy con người đối xử theo các mối quan hệ trên dưới, nặng về ư thức ứng xử một cách nghi lễ, nặng về h́nh thức, không chú trọng đến mặt chủ động, chỉ quan tâm đến khuôn phép…
Một dân tộc với nền tảng giáo dục như vậy, phải dám đương đầu với sự thật để cùng nhau sửa đổi, không phải để lợi dụng cắn xé, bới móc lẫn nhau, cuối cùng thế hệ sau lại đi vào vết xe đổ của thế hệ trước.
Điều này dẫn đến hậu quả tất yếu, dân tộc Việt Nam có độc lập và rồi lại mất độc lập, có nhà nước nhưng nhà nước nào cũng không bền vững, triều đại nào kéo dài thực chất là chấp nhận dưới sự bảo trợ, lệ thuộc của quốc gia khác.
Sự lệ thuộc vào nước láng giềng phương Bắc, có vẻ b́nh yên, thái b́nh, nhưng để phát triển có sức mạnh tự cường, xa rời sự lệ thuộc lại là điều không thể…. Và dần đi đến suy tàn…
Trong hoàn cảnh nước Việt Nam như vậy, những người yêu nước Việt Nam t́m cách sự bảo trợ của các thế lực bên ngoài để đánh đổ thực dân Pháp t́m độc lập cho Việt Nam là điều tất yếu.
Người t́m sự hỗ trợ về sức mạnh vũ khí, người đi t́m đường lối để học hỏi, người th́ đi cầu viện ngoại bang đem quân đến giải phóng…
Với phương pháp như vậy, ranh giới giữa người yêu nước có tính thần dân tộc và với những người được cho là tay sai, bù nh́n, kẻ liếm gót khó có thể phân định và thực tế lịch sử đă trở lời, những kẻ nào to mồm nhất, vỗ ngực nói về tính tự lực, tự cường, nói về độc lập tự do chính là những kẻ lệ thuộc, bám đít ngoại bang, bán đứng chứ không phải bán rẻ dân tộc một cách có hệ thống nhất.
Bối cảnh một nước Việt Nam như vậy, không đơn giản và cực kỳ nguy hiểm chỉ là sự bới móc, lấy lịch sử ra chứng minh ai là kẻ bù nh́n, ai là kẻ liếm gót.
Vai tṛ của nghiên cứu lịch sử là t́m nguyên nhân để thấy bản chất, phê phán sự sai lầm, mục đích không phải là lên án mà là bài học kinh nghiệm, sự phán xét cuối cùng thuộc về nhân dân, thuộc về quy luật nhân quả.
(C̣n tiếp).
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Old 5 Days Ago   #56
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 21,947
Thanks: 24,948
Thanked 15,557 Times in 6,665 Posts
Mentioned: 161 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 664 Post(s)
Rep Power: 42
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Default

Ngày 17/6/1940 nước Pháp rơi vào tay phát xít Đức.
Một ngày sau tức ngày 18/6/1940 quân Nhật nhảy vào Đông Dương tấn công quân Pháp.
Người Pháp chống đối yếu ớt sau đó phải chấp nhận kư Hiệp ước Tokyo như đă đề cập trong phần 31.
Lúc đó trục phát xít đang trong thế áp đảo, làm mưa làm gió ở châu Âu, châu Phi, châu Á.
Tại Đông Dương người Nhật bắt người Pháp khai thác tài nguyên cống nạp cho họ, và bóc lột người bản xứ thông qua sưu thuế, cho nên họ giữ nguyên cơ cấu chính quyền do người pháp tạo dựng là hợp lư.
Đến cuối những năm 1943 trên các mặt trận gió đă đổi chiều, quân đồng minh chuyển sang phản công, người Nhật bắt đầu có ư nghĩ phải trực tiếp cai quản Đông Dương không chỉ đơn thuần chỉ v́ mục đích kinh tế c̣n phải gây ảnh hưởng về chính trị và họ đă mưu tính cần phải hất cẳng Pháp ra khỏi Đông Dương xây dựng một nhà nước thân Nhật.
Tháng 8/1944 nước Pháp được giải phóng, trước t́nh h́nh người Pháp dựa vào sức mạnh của đồng minh sẽ quay trở lại phản công ở Đông Dương.
Kế hoạch đảo chính Pháp và xây dựng một nhà nước Việt Nam độc lập thân Nhật được người Nhật gấp rút xúc tiến.
Ngày 9/3/1945 Nhật tấn công Pháp trên toàn Đông Dương, người Pháp đă khôn khéo đầu hàng nhanh chóng tránh một cuộc đổ máu vô ích v́ họ đă tiên lượng được ngày sụp đổ của nước Nhật.
Sau khi chiếm được Đông Dương, người Nhật tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam, và nhà nước mang tên Đế Quốc Việt Nam ra đời như đă đề cập trong phần 32.
Đến đây một câu hỏi được đặt ra, tại sao người Nhật không chọn ai khác mà chọn Trần Trọng Kim làm thủ tướng?
Việc người Nhật giữ Bảo Đại làm vua đă được phân tích ở phần 32 cho nên không đề cập đến nữa.
Sử sách của chế độ cộng sản cứ động đến tư bản, đế quốc, thực dân, phong kiến là rêu rao chẳng có ǵ tốt đẹp, tất cả chỉ là dă tâm độc ác, áp bức và bóc lột.
Những người Việt Nam làm việc, cộng tác với các thành phần này đều là tay sai, bù nh́n, liếm gót, phản nước hại dân…
Nhưng chẳng có kẻ nào trong chính quyền cộng sản trả lời chính xác câu hỏi: Tại sao thực dân, đế quốc xấu xa như thế họ lại giàu mạnh? Tại sao tất cả những người yêu nước Việt Nam phải ra nước ngoài, đến châu Âu, Nhật Bản, Mỹ để học hỏi, khẩn cầu sự hỗ trợ t́m con đường độc lập cho Việt Nam, trong đó có Hồ Chí Minh?
Người Nhật trao trả độc lập cho Việt Nam có bao nhiêu % mưu đồ biến Việt Nam thành lệ thuộc và bao nhiêu % họ có thành ư muốn nhà nước Đế Quốc Việt Nam có một chính phủ hoạt động hiệu quả, với các cá nhân có đầy đủ năng lực, phẩm chất điều hành quốc gia?
Lần theo các tư liệu lịch sử, bối cảnh quốc tế và xă hội Việt Nam lúc đó chúng ta sẽ càng ngày, càng t́m ra sự thật, và càng thấy thật đau thương khi dân tộc Việt Nam có cơ hội để thành quốc gia phát triển hội nhập với thế giới, cuối cùng đến phút chót lại đánh rơi cơ hội ngh́n năm có một đế quay về ngh́n năm Bắc thuộc.
Nước Nhật trở thành đế quốc hùng mạnh sau thời kỳ Minh trị, cởi bỏ những giáo lư, giáo điều phương Đông hướng đến các giá trị tư tưởng và giáo dục từ phương Tây, xây dựng một nhà nước quân chủ với một hiến pháp mới…
Họ bê nguyên mẫu h́nh thái nhà nước Nhật Bản áp dụng cho nhà nước Đế Quốc Việt Nam đấy là điều tất nhiên và là hướng đi đúng đắn.
Chính v́ vậy, việc giữ nguyên ngôi báu cho Bảo Đại là một tính toán hợp lư và có thiện ư.
Trong t́nh h́nh xă hội Việt Nam đang loạn các đảng phái, hầu hết bị ảnh hưởng và nương cậy vào Trung Hoa dân Quốc, cùng với việc du nhập chủ nghĩa cộng sản từ Liên Xô, những người được cho là thành phần trí thức vẫn không thoát nhận thức từ nền giáo dục Nho giáo, một số khác do người Pháp đào tạo lại không tin vào người Pháp sẽ đem đến độc lập cho Việt Nam, họ chấp nhận làm việc cho người Pháp để mưu sinh… hỏi trong đám người theo đảng này, đảng kia, giữa các đảng lại đấu đá với nhau về đường lối… người Nhật sẽ chọn ai làm thủ tướng?
Rơ ràng người Nhật sẽ không t́m những kẻ có tiếng tăm trong số các đảng phái hiện có lúc ấy là hoàn toàn có lư.
Dù là một chính phủ bù nh́n hay ǵ đi nữa, với tính cách của người Nhật họ cần những người có thực lực về tŕnh độ, có phẩm chất cống hiến, tự trọng, có kỹ năng quản trị, được đào tạo theo Tây học để điều hành chính phủ.
Và Trần Trọng Kim là người Nhật t́m ra và nhắm tới.
Trần Trọng Kim có đầy đủ yếu tố hội tụ theo tiêu chí của người Nhật, ông không theo một đảng phái nào, là một người nghiên cứu lịch sử ông ủng hộ một nhà nước quân chủ v́ cho đấy là một nhà nước phù hợp nhất, không phải như nhà cầm quyền cộng sản bêu riếu ông là người có đầu óc nô lệ muốn duy tŕ một xă hội phong kiến lỗi thời…
Trong phần nói về tiểu sử thân thế Trần Trọng Kim ở phần 35 đă xác nhận tính logic để trả lời câu hỏi: Tại sao người Nhật chọn ông làm thủ tướng của nhà nước Đế Quốc Việt Nam.
(C̣n tiếp)
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Old 3 Days Ago   #57
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 21,947
Thanks: 24,948
Thanked 15,557 Times in 6,665 Posts
Mentioned: 161 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 664 Post(s)
Rep Power: 42
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8Gibbs Reputation Uy Tín Level 8
Default

PHẦN 37.
HỒNG PHÚC DÂN TỘC.
Người Nhật nhắm đích đến Trần Trọng Kim và tiếp cận ông một cách khéo léo v́ họ không muốn ông hiểu lầm mà từ chối sự lựa chọn của họ.
Sau Hiệp ước Tokyo trên danh nghĩa người Pháp vẫn cai quản Đông Dương quản lư hành chính. Mật thám Pháp vẫn theo dơi các cá nhân và đảng phái chính trị có tư tưởng chống Pháp. Những người có quan hệ với người Nhật cũng nằm trong số đó.
Tuy nhiên những người này cũng được tự do hơn, và mật thám Pháp chỉ gây khó dễ khi dựa vào các nguyên cớ khác tránh sự can thiệp của Nhật.
Trần Trọng Kim là nhà sư phạm mẫu mực, có uy tín trong xă hội, giữ nhiều chức vụ trong ngành giáo dục thời Pháp thuộc như: Thanh tra Tiểu học (1921)
Trưởng ban Soạn thảo Sách Giáo khoa Tiểu học (1924), dạy Trường Sư phạm thực hành 1931
Giám đốc các trường nam tiểu học tại Hà Nội (1939)
Từ thập niên 1910 đến thập niên 1940, ông cũng viết nhiều sách về sư phạm và lịch sử. Ngoài ra ông c̣n tham gia các hoạt động xă hội. Ông là Phó trưởng ban Ban Văn học của Hội Khai trí Tiến Đức, Nghị viên Viện Dân biểu Bắc Kỳ, Trưởng ban nghiên cứu Phật học của Hội Bắc kỳ Phật giáo…
Vị trí xă hội và công việc cho nên ông tiếp xúc nhiều với khách quốc tế nghiên cứu về lịch sử, văn hoá, giáo dục trong đó có cả người Nhật cho nên mật thám Pháp vẫn bí mật theo dơi ông.
Tháng 10/ 1943 Hiến binh Nhật gặp Trần Trọng Kim nói, người Pháp có ư định bắt ông và khuyên ông nên lánh sang nơi Hiến binh Nhật đóng.
Tại đây ông gặp Dương Bá Trạc.
Theo như trong cuốn “Một cơn gió bụi” Trần Trọng Kim có viết:
Ông Dương Bá Trạc là một nhà văn học, đỗ cử nhân từ thủa mới 16 tuổi, v́ t́nh nước mà bỏ không ra làm quan, theo ông Phan Bội Châu đi làm cách mệnh, đă từng phải đày ra Côn Lôn và phải cưỡng bách lưu trú mấy năm ở nam kỳ. Ông cùng với tôi là bạn làm bộ Việt Nam Tự Điển ở ban văn học hội Khai Trí Tiến Đức.
Tôi trông thấy ông Dương, cười bảo:
- Sao bác lại vào đây?.
Ông Dương nói:
- Ḿnh đi ra ngoài đường định lui về quê, bị bọn hiến binh Nhật mời lên xe đưa vào đây. Nghe đâu ở ngoài phố họ bắt lung tung cả, chưa biết rơ những ai.
Sau một lúc chuyện tṛ về t́nh cảnh của nhau, ông Dương nói:
- Bây giờ chúng ta lâm vào cảnh này thật là khó quá. Dù rồi ra chúng ta có về nhà nữa, người Pháp cũng chẳng để yên. Chi bằng chúng ta nói với hiến binh Nhật cho chúng ta ra ngoài để gặp ông Cường Để, ta sẽ bàn cách làm việc ǵ có ích lợi cho tương lai nước nhà.
- Ông Cường Để th́ chỉ có bác quen mà thôi, và nghe nói ông ấy đă ủy quyền cho ông Ngô Đ́nh Diệm và Huỳnh Thúc Kháng tổ chức mọi việc, tôi chạy theo ông ấy th́ có ích ǵ?
- Ông Cường Để là người chính phủ Nhật Bản đă giúp đỡ, ta ra cùng làm việc với ông ấy, rồi xin cùng người Nhật cho cả ông Huỳnh Thúc Kháng và ông Ngô Đ́nh Diệm ra nữa, ta sẽ lập thành một cơ quan ở hải ngoại, thu thập hết thảy những nhà cách mệnh đă ở ngoài về một chổ th́ sự hành động của ta sẽ có ư nghĩa lắm. Chẳng hơn là cứ lẩn nấp ở trong nước, để cho người Pháp chực bắt bớ.
Tôi nghe ông Dương nói cũng bùi tai, liền bàn nhau viết thư xin người Nhật giúp chúng tôi ra ngoài.
Cách mấy hôm, viên thiếu tá hiến binh Nhật ở Hà Nội đến thăm chúng tôi và nói:
- Việc các ông xin ra ngoài là rất phải, để tôi vào Sài g̣n hỏi ư kiến tư lệnh bộ trong ấy, lệnh trên định thế nào, tôi sẽ nói cho các ông biết.
Chúng tôi đợi ở khách sạn đến gần ba tuần lễ, viên thiếu tá mới trở về và đến nói cho chúng tôi biết:
- Tư lệnh bộ cho hay các ông đi đâu bây giờ cũng không tiện, chỉ có ra Chiêu Nam Đảo (Bây giờ là Singapore) là yên ổn hơn cả. Các ông ra đấy rồi ông Cường Để cũng sắp về đấy cùng các người khác nữa sẽ họp nhau làm việc, rất là thuận tiện.
Chúng tôi nghĩ miễn là ḿnh thoát ra khỏi cái cảnh eo hẹp này là được, vậy có ra Chiêu Nam Đảo cũng chả sao. Chúng tôi nhận đi.
Rơ ràng là người Nhật đă có tính toán và xây dựng kịch bản để lôi kéo Trần Trọng Kim và Dương Bá Trạc làm việc cho họ và chuẩn bị nhân sự cho nội các của nhà nước Đế Quốc Việt Nam sau khi họ tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam.
Thông qua Dương Bá Trạc người Nhật đă thành công kéo Trần Trọng Kim hợp tác và làm việc với họ.
Về phần Trần Trọng Kim trong cái gọi bước đường cùng vào một thời điểm t́nh trạng xă hội Việt Nam phức tạp như thế, ông miễn cưỡng hợp tác với người Nhật, hy vọng mong manh vào sự biến đổi của thời cuộc.
Hỏi ông có thực sự tin tưởng vào nền độc lập của Việt Nam một cách hoàn toàn dựa trên sự bảo trợ của Pháp, người Nhật hay người Tàu … ông nói thẳng chẳng bao giờ có điều đó, nó chỉ là ảo tưởng.
Nhưng có cơ hội Việt Nam trở thành nước có độc lập dù trên danh nghĩa cũng phải tận dụng cơ hội này.
Ông viết:
Trong khi nước Pháp đang bị cái nạn chiến tranh, người Pháp đối với người Việt Nam không đổi thái độ chút nào, mà người Nhật th́ lại muốn lợi dụng ḷng ái quốc của người Việt Nam để quyến dụ người ta theo ḿnh.
Người Việt Nam không phải là không hiểu cái tâm địa người Nhật, song có nhiều người muốn thừa cái cơ hội hiện tại mà phá vỡ cái khuôn khổ bé hẹp nó ràng buộc ḿnh đă bao lâu để gây ra cái không khí mới, rồi sau thế nào cũng t́m cách đối phó.
Phần nhiều người trí thức trong nước đều có cái quan niệm ấy, nhưng v́ thế lực không đủ, cho nên không ai hành động ǵ cả, trừ một bọn người hoặc v́ ḷng nóng nảy, hoặc v́ ḷng ham danh lợi chạy theo người Nhật.
Nước Nhật Bản trước vốn là một nước đồng văn đồng hóa ở Á Đông, nhưng về sau đă theo Âu Hóa, dùng những phương pháp quỉ quyệt để mở rộng chủ nghĩa đế quốc của họ, trước đă thôn tính Cao Ly và Măn Châu, sau lại muốn xâm lược nước Tàu và các nước khác ở Á Đông đă bị người Âu Châu chiếm giữ.
Người Nhật tuy dùng khẩu hiệu đồng minh cộng nhục và lấy danh nghĩa giải phóng các dân tộc bị hà hiếp, nhưng thâm ư là muốn thu hết quyền lợi về ḿnh.
Bởi vậy chính sách của họ thấy đầy những sự trái ngược, nói một đàng làm một nẻo. Cái chính sách ấy là chính sách bá đạo rất thịnh hành ở thế giới ngày nay. Dùng lời nhân nghĩa để nhử người ta vào cḥng của ḿnh mà thống trị cho dễ, chứ sự thực th́ chỉ v́ lợi mà thôi, không có ǵ là danh nghĩa cả.
Trong hoàn cảnh khó khăn ấy tôi phải nén ḿnh ngồi yên. Song ḿnh muốn ngồi yên mà người ta không để cho yên. Hết người này đến nói chuyện lập hội này, người khác đến nói chuyện lập đảng nọ. Đảng với hội ǵ mà tinh thần không có, sự tổ chức chẳng đâu ra đâu th́ càng nhiều đảng và hội bao nhiêu lại càng thêm rối việc bấy nhiêu, chứ có ích ǵ? Bởi vậy đối với ai, tôi cũng lấy ḷng ngay thẳng mà đáp lại, nhưng không đồng ư với ai cả.
(C̣n tiếp)
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Reply
Page 3 of 3 12 3

User Tag List


Facebook Comments


 
iPad Tablet Menu

HOME

Breaking News

Society News

VietOversea

World News

Business News

Other News

History

Car News

Computer News

Game News

USA News

Mobile News

Music News

Movies News

Sport News

ZONE 1

ZONE 2

Phim Bộ

Phim Lẻ

Ca Nhạc

Thơ Ca

Help Me

Sport Live

Stranger Stories

Comedy Stories

Cooking Chat

Nice Pictures

Fashion

School

Travelling

Funny Videos

NEWS 24h

HOT 3 Days

NEWS 3 Days

HOT 7 Days

NEWS 7 Days

HOT 30 Days

NEWS 30 Days

Member News

Tin Sôi Nổi Nhất 24h Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 3 Ngày Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 7 Ngày Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 14 Ngày Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 30 Ngày Qua
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.


All times are GMT. The time now is 18:04.
VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2006 - 2024
User Alert System provided by Advanced User Tagging (Pro) - vBulletin Mods & Addons Copyright © 2024 DragonByte Technologies Ltd.
Log Out Unregistered

Page generated in 0.10927 seconds with 15 queries