Tôi biết gà trong văn chương từ khi tôi c̣n nhỏ. Thật vậy, mấy ai khi c̣n nhỏ không biết câu ca dao “Con gà cục tác lá chanh…” trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư.
Năm 11 tuổi, khi người anh cả tôi bị bắt giam tại lao Thừa Thiên (sau nầy là trường Luật khoa Huế), tôi phải đi thăm nuôi một tuần hai lần, tiếp thể sữa, bánh ḿ, bánh kẹo, v.v… Nhà tôi ở thành phố Quảng Trị, nên tôi phải nghỉ học vào Huế, ở nhờ nhà bà con để đi thăm nuôi anh tôi. Ngoài những ngày thứ hai, thứ năm là ngày đi thăm, những ngày khác tôi chẳng làm ǵ cả, đi chơi lang thang theo lũ bạn trong xóm. Cũng tết năm đó, năm Quí Sửu, tôi không về nhà được.
Sau những ngày cúng giỗ hôm tết, xong xả đâu đó cả rồi, các bà cụ già trong xóm thường tụ họp ở một cái quán nước chè tươi bên bờ hồ Tàng Thơ trong thành nội Huế, chỗ nầy có mấy cây sung mọc gần nhau, có bóng mát, có mấy cái ghế gỗ dài.
Sau tết vài hôm th́ các bà cụ tụ họp ở đó để đánh bài Tới. Bài Tới, thường đánh trong nhà, người đánh ngồi quanh một chiếc chiếu trên giường hay trên bộ ván ngựa. Khi các người đánh ngồi trên một cái cḥi cao ngang đầu người th́ gọi là bài cḥi. Khi các cụ ngồi trên những cái ghế gỗ như ở đây th́ gọi là bài ghế.
Bây giờ th́ Tết qua đă vài tuần, các cụ không c̣n đánh bài ghế nên họ ngồi quanh một bà để nghe bà nầy đọc thơ. Có lẽ các cụ ít người biết chữ quốc ngữ. Người đọc thơ là một người đàn bà trẻ hơn một chút, có lẽ hồi trước có đi học tiểu học nên đọc quốc ngữ cũng thông, mà lại đọc thơ, bà biết đưa giọng lên bỗng xuống trầm nghe cũng hay lắm. Chuyện thơ các cụ thường nghe đọc ở đó là Hạnh Thục Ca hay c̣n gọi là thơ Thất Thủ Kinh Đô, (Có người đọc “Vè Thất Thủ Kinh Đô”, hơi giống Hạnh Thục Ca vậy), (1) Thoại Khanh Châu Tuấn, Bần Nữ Thán, Lục Vân Tiên, Nữ Tú tài, Nhị Thập Tứ Hiếu, Quan Âm Thị Kính, Phan Trần, Phạm Công Cúc Hoa, v.v… Các bà cụ tụ họp ở đó hằng ngày, nghe đọc thơ, uống nước chè tươi (chè xanh).
Tôi thường đi chơi lang tang, qua chỗ mấy cụ đó một ḿnh, đôi khi cũng ngồi lại nghe và cũng xúc động v́ những t́nh tiết đau đớn buồn bă trong thơ.
Quả thật, trước đó, tôi chưa từng biết xúc động v́ tiếng gà gáy ban trưa, ban sáng bao giờ, mặc dù khi c̣n nhỏ lắm, tôi đă nhe bài hát về gà:
“Đêm đă sáng kia ḱa, gà sè sẻ phất cạnh, rột rột, rạc rạc, chân trời rạng đông. Ḱa sao mai đă mọc…” (2)
Tôi c̣n nhớ trước đó một năm, một hôm, khi mấy bà cô già của tôi từ quê ra dự đám giỗ ba tôi, không hiểu sao mấy bà cô già không ngủ được. Nửa đêm họ dậy uống nước trà, kể chuyện xưa. Trong khi đang ngủ mơ màng, tôi nghe một bà cô đọc câu thơ “Con gà nó gáy o o, Phải thuyền ông Trạng đưa cô tôi về cùng!” Có phải đó là hai câu thơ trong truyện Phạm Công Cúc Hoa, nói tới lúc Phạm Công thi đậu trạng nguyên mà Cúc Hoa th́ đă qua đời.
Có lẽ câu thơ nghe nửa được nửa mất trong cơn ngủ ngon đă ám ảnh tôi, khiến tôi thấy được cái hay của tiếng gà trong thơ?
Cũng v́ vậy, trong những ngày sau tết, tôi ghé lại quán nước chè của bà cụ già bên mấy gốc sung để nghe đọc thơ và cũng để nghe tiếng gà gáy trong thơ Phạm Công Cúc Hoa.
Bấy giờ Phạm Công đi đánh giặc xa, Cúc Hoa đă qua đời. Hai đứa con của Phạm Công và Cúc Hoa là Nghi Xuân và Tấn Lực ở với bà d́ ghẻ là Tào Thị. Bà nầy nổi tiếng độc ác, đánh đuổi hai đứa con riêng của chồng ra khỏi nhà. Hai đứa nhỏ đi xin kiếm ăn. Tối lại chúng t́m ra mộ mẹ. Ba mẹ con ngồi ôm nhau than thở khóc lóc. Tới khi có tiếng gà gáy sáng, th́ người mẹ phải về lại cơi âm (3). Cảnh mẹ con chia tay rất cảm động:
C̣n đang than thở nỉ non
Xóm xa gà đă ồn ồn gáy lên
“Hai con ở lại cho yên
Mẹ về âm phủ cơi tiên đấy mà”
Cúc Hoa nước mắt ṛng ṛng
Nghe gà gáy giục mà ḷng tái tê
Lấy khăn phủ mặt xưa kia
Viết thư để lại vân vi trách chồng”
Ở nước ta, khu nghĩa địa thường ở xa xóm nhà dân, nên trong thơ mới viết “Xóm xa”. Tiếng gà làm Cúc Hoa nghĩ tới việc xa con nên “nước mắt ṛng ṛng”. Bà lấy cái khăn người ta phủ mặt bà lúc bà chết để viết một bức thư gởi lại trách chồng.
Đâu có phải một ḿnh Cúc Hoa “nước mắt ṛng ṛng” bởi v́ khi đoạn thơ đó được đọc lên, các bà cụ già cũng lấy tay gạt nước mắt vậy. Sau nầy, mỗi khi nghe cơ quan tuyên truyền tán tụng về Mẹ Việt Nam, tôi không rơ bà Mẹ Việt Nam của bộ Thông Tin Chiêu Hồi như thế nào, nhưng với tôi, tôi thường nghĩ đến mẹ tôi và các bà cụ già nghe đọc thơ Phạm Công Cúc Hoa ở bên cạnh những gốc sung bên hồ Tàng Thơ nầy.
Gà cũng đóng một vai tṛ giống như “ngưu đầu mă diện” (đầu trâu, mặt ngựa) dưới âm phủ. Những người độc ác, như Tào Thị, khi chết xuống âm phủ cũng bị gà trừng phạt như trong truyện Phạm Công Cúc Hoa:
“Thấy cảnh hành tội ngoài sân
Chẻ đầu cưa đoạn róc dần thịt xương
Hóa ra là bọn cướp đường
Chết xuống phải tội ngục trường Diêm la
Đàng kia có một đàn gà
Mỏ dài cựa sắc lấy đà xông vô
Mổ lia lịa một bọn tù
Tứ chi gông chặt đầu u mặt bầm
Cơi trần tham lại c̣n thâm
Thấy trứng gà ấp liền cầm hết đi
Cho nên thác xuống âm ty
Bắt cho gà mổ thân thi đêm ngày
Rơ ràng dưới âm phủ có gà, Diêm Vương dùng gà để trừng phạt người ác. Nhưng chắc chi Diêm Vuơng không khoái thịt gà và lâu lâu bảo bồi bếp bắt gà làm thịt nấu cháo ăn chơi.
C̣n trên Thiên Đ́nh th́ sao?
Ngọc Hoàng Thượng Đế cũng có nuôi gà vậy!
Khi cóc dẫn một đoàn quân lên kiện Trời v́ Trời lâu ngày không mưa làm cho trăm loài dưới dương gian khốn khổ. V́ những lời nói cứng cỏi của Cóc, Ngọc Hoàng Thượng Đế bực lắm, bèn sai gà của Trời ra mổ chết chú Cóc hỗn xược kia. Gà Trời tưởng dễ ăn, hung hăng xông tới th́ Cóc ra lệnh cho Cáo. Cáo chồm tới cắn cổ gà tha đi mất. Mất gà, không biết Trời có ra lệnh cho vợ Trời là bà Tây Vương Mẫu xông ra chưởi cóc như Hồng Đào chưởi mất gà hay không, nhưng có điều Ngọc Hoàng Thượng Đế chắc phải nuôi con gà khác để có gà nấu cháo ăn chơi!
Gà không chỉ ở trong t́nh cảm, sinh hoạt ăn uống của người Việt mà c̣n nằm trong những ẩn dụ, ví von nói lên trí khôn của người Việt. Cái trí khôn đó, thường xuất hiện trong tục ngữ.
Ví dụ, khi tổ tiên chúng ta nói “Gà nhà bôi mặt đá nhau” là muốn nói tới t́nh nghĩa anh em, chị em, sự xáo trộn, tranh đấu, giành giật nhau giữa những người trong gia đ́nh, họ hàng.
Khi c̣n nhỏ, cha mẹ c̣n mạnh khỏe, nuôi nấng các con th́ không sao. Đến khi cha mẹ già, có ít nhiều tài sản để lại th́ anh chị em tranh giành, thưa kiện nhau. Anh em ruột “muối mặt” đưa nhau ra ṭa, giống như “Gà nhà bôi mặt đá nhau!” vậy. Muốn gà một sân đá nhau, phải lấy lọ nghẹ bôi mặt chúng, không biết nhau chúng mới chọi nhau. Người cùng một nhà đấu đá nhau, không cần bôi mặt! Người c̣n thua gà!!!
Ở lăng cụ Phan (bội Châu) trên đầu giốc Bến Ngự, cụ có dựng bia cho hai con chó của cụ. Cụ khen rằng “Thấy không phải chủ, thời xem bằng cừu thù, chẳng bao giờ v́ miếng ngon dẫn dụ, thiệt là trí đó.
Ư cụ Phan muốn phê phán những người theo Tây, không trung thành với đất nước. Họ c̣n thua… chó. Họ chính là những người tục ngữ gọi là “Cơng rắn cắn gà nhà”. Con gà cũng biết bảo vệ “giang sơn” của ḿnh, không cho gà lạ đến cướp đoạt hay “khai thác” mảnh vườn của chúng. Vậy nên ông bà mới bảo rằng “Chó ỉ thế nhà, gà ỉ thế vườn.” Không phải ỉ thế, có thể thay tiếng ỉ bằng tiếng giữ. “Chó giữ nhà, gà giữ vườn.” Đó chỉ là một cách nói.
Những kẻ không biết phân biệt cái đúng cái sai th́ gọi là “gà mờ”. Ngu ngốc làm không xong việc ǵ được cả th́ gọi là “gà chết”. Đó cũng là một thứ “gà dịch, gà toi”.
Người Việt rất hiếu khách, khi có khách xa đến nhà th́ lo làm vịt, làm gà đăi khách: “Khách đến nhà không gà th́ vịt”. Bây giờ, văn minh hơn, và để tiện lợi hơn th́ mời nhau ra nhà hàng.
Nguyễn Khuyến có khách đến nhà, nhưng không có ǵ đăi đằng khách được, bèn làm bài thơ “Bạn đến chơi nhà” để “tạ lỗi” rất khéo:
“Đă bấy lâu nay bác đến nhà
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu tṛ tiếp khách trầu không có,
Bác đến chơi đây ta với ta.
Việc ăn uống là điều dễ gây mất ḷng. Tục ngữ bảo là “Miếng ăn là miếng tồi tàn, Mất ăn một miếng lộn gan lên đầu.” Huống ǵ bạn cụ Nguyễn đế thăm mà… không được mời ăn ǵ cả: Chợ th́ xa, cá không lưới được, gà không bắt được. Bầu mướp cũng không. Thậm chí “Miếng trầu là đầu đầu câu chuyện” cũng không có nữa. Cụ chỉ có một tấm ḷng với bạn. Đối với người Việt, “một tấm ḷng” là đủ rồi.
Các cô, các bà thường hay ganh nhau, tranh cạnh nhau rằng “tao đẹp hơn nó, nó xấu hơn tao” th́ cũng giống như “Gà ghét nhau tiếng gáy” (tục ngữ -tn). Những bà cô nào hay khoe khoang cái tôi th́ bị gọi là “Gà múa mỏ” (tn). Tục xưa, khi hai bên kư kết điều ǵ, bán đất bán nhà… th́ kư một tờ hợp đồng, “thuận mua vừa bán”, coi như ai cũng được lợi. Để mừng cái “thắng lợi” đó, người ta thường làm gà để “liên hoan”. V́ vậy mới có câu tục ngữ “bút sa, gà chết”. Trong nhà gia chủ thường nuôi gà, vịt, heo dê. Heo dê là súc, khác với gà vịt là cầm đă đành mà ngay gà vịt cũng khác nhau. Gà sống trên khô, vịt sống dưới nước. V́ vậy, nếu ông chủ bà chủ nói ǵ khác nhau th́ tục ngữ bảo là “Ông nói gà, bà nói vịt.”
Tục ngữ có câu “Trông gà hóa quốc”. Chim quốc, c̣n gọi là chim cuốc (Ai xui con cuốc gọi vào hè - Nguyễn Khuyến), theo dă sử là hiện thân của Vua Thục Phán bị mất nước. Chim quốc giống nhưng nhỏ hơn gà, không thuần hóa để nuôi trong nhà được, thường xuất hiện ở bụi tre, bờ rào. Người ta dễ lầm với gà. Trong Phạm Công Cúc Hoa cũng có câu:
Phu nhân nén tiếng thở dài
Lắc đầu xẳng giọng nói ngay một hồi:
"Rể ta đô đốc cao ngôi
Có đâu con nó cuộc đời lang thang
Tướng công suy ngẫm lằng nhằng
Trông gà hóa cuốc, nh́n thằng thành ông
Cho trẻ bát gạo là xong
Gọi là có chút tỏ ḷng xót xa”.
Cũng giống như chim cu ấp trứng chim tu hú, đôi khi người ta cũng cho gà mái ấp trứng vịt. Khi trứng nở ra thành vịt, lội xuống nước, gà “mẹ” đi trên bờ kiếm mồi kêu “tục tục”. Vị con thấy thế cũng chạy lên với mẹ gà, trông cũng đầm ấm như mẹ con thật. Người th́ khác. Mấy bà d́ ghẻ thường ghét và rầy la con chồng, nên ca dao mới bảo “Mẹ gà con vịt chít chiu, Mấy đời d́ ghẻ nâng niu con chồng.” Vậy là người mà c̣n thua gà đấy nhé!
Khi ai nói một điều ǵ không đúng với sự thật, th́ người ta bảo rằng “Bụt trên ṭa gà nào mổ mắt!” Nhựng người con trai thiếu tài cán, không dám xông pha ra với đời, chỉ quanh quẩn trong nhà, sống nhờ cha mẹ, như anh chàng Thân trong tiẻu thuyết “Đoạn Tuyệt” của Nhất Linh th́ đúng là “Gà què ăn quẫn cối xay.”
Diều hâu thường bát chim chích ăn thịt, cũng như khi gà mẹ thấy có diều hâu đảo lộn trên trời th́ lo gọi gà con tới, núp dưới hai cánh gà mẹ đang x̣e ra che cho gà con. Ca dao có câu đùa, nói ngược:
. . . . . . .
“Chim chích cán cổ diều hâu
Gà con tha quạ biết đâu mà t́m,
Bong bóng th́ ch́m,
Gỗ lim th́ nổi.
Khi gặp điều ǵ kinh sợ th́ da thịt người nổi lên từng hột nhỏ như đầu hạt gạo, giống như da gà nên người ta gọi là “sợ nổi da gà”. Khi gặp việc lo lắng quá, quay quắt qúa th́ người ta bảo là như “gà ăn bọ xít.” V́ con bọ xít khi bị tấn công, nó tiết ra một chất nước cay nồng.
Người nông dân Việt Nam thường nghèo khổ nên ổ trứng gà của họ là một gia tài lớn. Gà mẹ đẻ ra gà con. Gà con lớn lên đem bán thịt hay có gà mái để xây thêm một ổ gà nữa, chẳng bao lâu mà kiếm được một chút vốn. V́ vậy, theo phong tục người Việt ta ngày xưa, ăn trộm trứng gà là một tội lớn, bởi gà không có trứng th́ c̣n ǵ sinh lợi. Trong ư nghĩa đó, trong ca dao, những việc sau đây bị lên án nặng nề, coi là thất đức:
“Thứ nhứt ăn trộm trứng gà
Thứ nh́ thuế chợ, thứ ba đưa đ̣.
Lấy thuế chợ cũng là một tội lớn v́ thuế thâu từ những người buôn bán nhỏ nhặt, lèo tèo ít lá rau, vài củ khoai, vài con cá, lợi ích chẳng bao nhiêu! Thu thuế họ th́ tội nghiẹp quá!
Thế nhưng tại sao đưa đ̣ sang sông cũng là một tội lớn nữa th́ tôi chư t́m hiểu ra! Ai biết chỉ giùm.
Chăm sóc việc nội trợ, ăn uống, giặt giũ, nuôi gà nuôi lợn là việc của người vợ. Làm nhà, sửa nhà là việc lớn, là việc của người đàn ông. Tổ tiên phân tích rơ ràng “Gà đàn bà, nhà đàn ông”.
Về bệnh th́ ngày xưa người ta đă có bệnh mồng gà. Đó là bệnh phong t́nh của người đàn bà, cũng không nguy hiểm lắm, chữa trị được. Mấy lâu nay, bỗng xảy ra bệnh “Cúm gà” khiến nhiều người chết.
Ngày trước, khi chuyển sang mùa thu, trời đổi gió, gà hay bị “mắc phong”, cũng chỉ là bệnh thường, một thứ cúm. Trị theo cách ngoại khoa th́ lấy nước tỏi, xức vào miệng gà, chỗ bị lở đỏ, gà sẽ hết hay cho gà uống nước, pha chút nước tỏi, gà cũng hết bệnh. Có khi không trị được, gà chết hàng loạt th́ gọi là dịch gà, toi gà, gà toi. Từ dịch gà sang dịch người, là “cúm gà”, cũng chết hàng loạt.
Khi vô trại cải tạo được vài tháng, trời trở lạnh, có gió, hàng loạt tù cải tạo chúng tôi cũng bị cúm, nhức đầu, sổ mũi. Cán bộ Việt Cộng tập trung chúng tôi lại, phát cho ít múi tỏi, biểu về giả nhỏ xức vào mũi, bệnh sẽ hết. Điều nầy lạ quá, có nghe nói như “chuyện đời xưa” chớ chưa áp dụng bao giờ. Mấy chục năm nay, thiếu ǵ thuốc tây tiện dụng mà phải dùng tỏi. Có người nói đùa, nghe cũng đau: “Người mà coi như gà!”