Bất ổn trong thị trường của các giao dịch mua lại (repo) có thể khiến bất cứ ai đă trải qua cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu lo sợ “toát mồ hôi hột”. Những cải cách hậu khủng hoảng sẽ sớm đối mặt với những thách thức nghiêm trọng.
Trong tuần trước, thị trường repo, trung tâm của cuộc khủng hoảng 12 năm trước, đă thiếu thanh khoản, buộc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ phải can thiệp ngay lập tức bằng cách bơm tiền. Tuần này, nỗi lo về một cuộc khủng hoảng toàn cầu mới đă giảm bớt, mặc dù các ngân hàng vẫn "háo hức" nhận thanh khoản của Fed. Nhưng giai đoạn này cảnh báo rằng các mối nguy hiểm tài chính vẫn đang ŕnh rập. Ở một khía cạnh nào đó, điều này sẽ mang đến một "stress test" (một loại kiểm thử xác định sự ổn định và tính mạnh mẽ của hệ thống) cho những cải cách hậu khủng hoảng.
Cuộc khủng hoảng tài chính đă kết hợp những cơn băo nhỏ thành một siêu băo. Đó là sự tăng vọt của tài sản nợ. Một thời gian dài giá nhà tăng ở Mỹ dẫn đến sự tự măn về những rủi ro của việc cho vay thế chấp. Sự liều lĩnh hơn bao giờ hết thúc đẩy giá tăng, cho đến khi sự hứng thú không c̣n được duy tŕ. Những người đi vay bắt đầu chậm nợ, làm cho những người cho vay bị thua lỗ và t́nh trạng vỡ nợ ngày càng tăng. Phá sản nhà đất của Mỹ đă thực sự bùng nổ do đột biến rút tiền gửi.
Các ngân hàng tự huy động vốn trên cơ sở ngắn hạn không những thông qua tiền gửi không kỳ hạn, mà c̣n trên các thị trường tiền tệ, chẳng hạn như repo. Ngược lại, nhiều tài sản ngân hàng thiếu tính thanh khoản và dài hạn, như các khoản vay cho các công ty và người mua nhà. Sự không phù hợp này khiến các ngân hàng dễ bị tổn thương. Trong cuộc Đại khủng hoảng, nhiều ngân hàng sụp đổ khi những người gửi tiền lo lắng yêu cầu rút tất cả tiền mặt của họ cùng một lúc. Mặc dù bảo hiểm tiền gửi do chính phủ cung cấp hiện bảo vệ chống lại mối nguy này, nhưng nó không mở rộng ra thị trường tiền tệ. Sau đó, vào năm 2008, sự nghi ngờ về t́nh trạng của các ngân hàng và tài sản thế chấp của họ đă nổ ra một cuộc tháo chạy khỏi các thị trường đó, khiến các ngân hàng mạnh hay yếu đều không thể đáo hạn các khoản vay ngắn hạn và có nguy cơ sụp đổ.
Những tai họa này tăng lên bởi tính liên kết của hệ thống tài chính toàn cầu. Ḍng vốn xuyên biên giới tăng vọt trong những năm trước cuộc khủng hoảng, từ 5% GDP toàn cầu năm 1990 lên 20% năm 2007. Tiền từ khắp nơi trên thế giới đổ vào thị trường thế chấp của Mỹ, và v́ lẽ đó ảnh hưởng lan rộng toàn cầu. Lần can thiệp khủng hoảng đầu tiên của Fed là vào tháng 8/2007 để đối phó với t́nh trạng hỗn loạn trên thị trường tiền tệ do những trở ngại tài chính tại các quỹ do ngân hàng Pháp BNP Paribas điều hành.
Bị đe dọa bởi "trải nghiệm cận tử", các chính phủ đă đưa ra "stress test" thường xuyên và khiến các ngân hàng chấp nhận "bản di chúc sống": lên kế hoạch tự giải thể trong trường hợp thất bại để không gây nguy hiểm cho toàn bộ hệ thống. Các ngân hàng trung ương đă thêm các chỉ số rủi ro tín dụng vào bảng điều khiển chính sách của ḿnh. Các nhà quản lư cũng nâng cao yêu cầu về vốn và thanh khoản của ngân hàng: "bộ đệm" lớn hơn chống lại thua lỗ và thiếu hụt thanh khoản. Trong các nền kinh tế tiên tiến, bảng cân đối kế toán của ngân hàng tốt hơn hơn so với năm 2007 và không có bong bóng nợ rơ ràng nào bị thổi phồng.
Tuy nhiên, tất cả điều này cũng không đảm bảo sự ổn định như kỳ vọng. Sau khủng hoảng, cả chính phủ và thị trường đều chấp nhận vay mượn rủi ro. Mặc dù đă giảm nợ hộ gia đ́nh, các công ty đă nhận nợ đủ để duy tŕ khoản vay tư nhân cao; chẳng hạn, ở mức 150% GDP Mỹ, gần bằng mức của năm 2004. Ở Mỹ, thị trường cho vay kinh doanh hợp vốn đă bùng nổ, lên tới hơn 1 triệu đô la vào năm 2018 và các tiêu chuẩn cho vay đă giảm. Nhiều khoản vay được gộp vào chứng khoán nợ. Các cơ quan quản lư đă từ chối can thiệp.
Khi mối đe dọa đột biến rút tiền gửi chuyển từ người gửi tiền sang thị trường tiền tệ, rủi ro hệ thống có thể đang h́nh thành trong các tổ chức phi ngân hàng. Các công ty bảo hiểm ở một số quốc gia, bao gồm Nhật Bản và Hàn Quốc, đă "quét sạch" hàng trăm tỷ đô la trái phiếu nước ngoài, pḥng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái trên cơ sở ngắn hạn. Nếu trong một cuộc khủng hoảng, các quỹ này không thể gia hạn các khoản bảo hiểm của ḿnh, họ có thể phải chịu những tổn thất đáng kể. Lỗ hổng của những công ty tưởng chừng vững mạnh có thể gây ra rủi ro cho các ngân hàng lớn nhưng đang bị đánh giá thấp.
Những mối nguy chưa rơ ràng này phát sinh v́ tài chính vẫn đang toàn cầu hóa. Các món nợ tài chính xuyên biên giới đang tồn tại, mặc dù thấp hơn so với trước cuộc khủng hoảng, vẫn vượt xa định mức trong lịch sử. Sự hỗn loạn khôn lường ở một "góc" của hệ thống tài chính rất có thể xoay chuyển thành một thảm họa.
Những xáo trộn trong thị trường repo minh chứng cho mối đe dọa gây ra bởi những điều chưa rơ ràng này. Những người theo dơi thị trường đổ lỗi cho cuộc khủng hoảng tiền mặt đối với nhu cầu thanh toán hóa đơn thuế doanh nghiệp cùng lúc với việc hút nhiều nợ chính phủ mới hơn b́nh thường. Nhưng các ngân hàng đă sớm nhận thức được những yếu tố này.
Thảm họa chưa hiện ra "ngay trước mắt". Nhưng thế giới đă không để tâm đến sự nguy hiểm tất cả phải đối mặt vào năm 2007 cho đến khi quá muộn. Có nhiều cách để kiểm soát rủi ro tài chính. Cuộc đại khủng hoảng đă thuyết phục nhiều người rằng chủ nghĩa tư bản tài chính vốn đă nguy hiểm, nhưng trong 40 năm sau đó, các cuộc khủng hoảng không thường xuyên là một minh chứng cho sự kiểm soát vốn và điều tiết tài chính hà khắc. Kể từ khi băi bỏ quy định của thập niên 1970 và 1980, đáng ngại là các cuộc khủng hoảng đă trở nên phổ biến. Sau nhiều thập kỷ kể từ bây giờ, chúng ta có thể nh́n lại những ǵ đă xảy ra. Lo lắng bởi biến động repo không phải là một điều xa vời.
VietBF © sưu tầm