Hanna
11-16-2016, 16:59
VBF-Càng nghĩ th́ càng thấy người tỵ nạn gốc Việt c̣n may mắn hơn rất nhiều người trên thế giới. Họ đă chạy được qua các nước để từ đó xin tị nạn đi các nước Mỹ, Úc, Canada... Càng nghĩ càng thấy vất vả và khổ sở có nhiều người chết mà cũng chẳng có người nhà... Bài viết dưới là của người đă sang được Úc theo dạng tỵ nạn.
Chia sẻ của chị Đài Lê – người sáng lập ra DAWN, một tổ chức phát triển lănh đạo đa dạng văn hóa, và là hội đồng viên của Hội đồng Thành phố Fairfield.
Mỗi khi có 1 câu chuyện về những người tị nạn xuất hiện trên báo chí, nó đều làm tôi đau. Tôi nh́n vào gương và nói với bản thân: “Đó chính là ḿnh”.
Khi Thủ tướng hay Bộ trưởng Di trú công bố nhưng quy định mới được ban hành để cấm cửa những người tị nạn bằng đường biển, tôi bảo ḿnh: “À, không phải là về tôi nữa. Nó liên quan đến một nhóm người khác.”
Tôi cố gắng nói với bản thân rằng những quy định ngặt nghèo đó cần được ban hành để chúng ta có thể bảo vệ đường biên giới và Chính phủ của chúng ta có quyền quyết định ai được vào đất nước này.
Sau tất cả, tôi đă bỏ lại bộ đồ tôi mang trên người khi đặt chân đến đây với tư cách là một người tị nạn Việt Nam từ Hồng Kông năm 1979. Hiện nay tôi là một người Úc mới. Một quy định khắt khe nữa sẽ không ảnh hưởng đến tôi.
Nhưng nếu tôi tiếp tục với suy nghĩ như vậy, tôi đang chối bỏ nguồn gốc của ḿnh, và hoàn cảnh đă tạo nên căn tính mới của tôi.
http://intermati.com/hanna/2016/11m/15d/82.jpg
Đài Lê và gia đ́nh
Khi mẹ của tôi buộc phải trốn chạy cùng ba đứa con khi Sài G̣n thất thủ, bà đă không có chọn lựa.
Quê hương nơi bà sinh ra đă thất thủ. Để tồn tại, bà phải trốn chạy như hàng trăm và hàng ngh́n người Việt Nam đă bỏ chạy sau khi chiến tranh kết thúc vào tháng 4/1975.
Nếu như Chính phủ Úc thực hiện những chính sách đẩy ngược thuyền vào thập niên 70 th́ điều ǵ có thể xảy ra cho những người tị nạn Việt Nam như mẹ và ba chị em tôi?
Liệu chúng tôi vẫn ở những trại tị nạn? Hay chúng tôi có thể mất mạng trên biển, như hàng ngh́n người tị nạn Việt Nam đi thuyền theo hướng Malaysia, nơi chính sách đẩy ngược thuyền được áp dụng thời đó?
Sau khi rời khỏi Sài G̣n trên một chiếc thuyền, chúng tôi sống hai năm tại một trại tị nạn ở Philippines.
Năm 1979, chúng tôi tiếp tục một hành tŕnh trên biển nữa và hướng đến Hồng Kông v́ chúng tôi nghe bảo rằng nó là cánh cửa về phía Tây.
Người tị nạn Việt Nam bắt đầu đến Hồng Kông sau tháng 4/1975.
Số lượng đạt đỉnh điểm năm 1979, khi 600 – 1000 người đến ḥn đảo nhỏ này mỗi ngày và khi đó nó có dân số khoảng 5 triệu người.
Để hiểu rơ hơn, Australia có dân số hơn Hồng Kông 7 lần.
Mật độ dân số cao, đi cùng với các vấn đề kinh tế, xă hội đáng lẽ khiến Hồng Kông phải khó tiếp nhận người xin tị nạn hơn.
Nhưng Chính phủ Hồng Kông đă dựng nơi cư trú khẩn cấp cho hàng trăm, hàng ngh́n người Việt tới đây bằng thuyền, trong đó có gia đ́nh tôi.
Mặc dù có những sự e ngại từ một số người dân, hầu hết mọi người đều đón chào chúng tôi.
http://intermati.com/hanna/2016/11m/15d/83.jpg
Đài Lê khi c̣n nhỏ
“Có một sự đồng cảm và cảm thương trong cộng đồng người dân ở đây cho những người tị nạn Việt Nam v́ chúng tôi được thấy khi Sài G̣n thất thủ trên truyền h́nh,” Tôi được Eddia Chan kể, ông là một bảo vệ tại một chi nhánh của chính quyền Hồng Kông lúc đó.
Trong 30 năm, kư ức của tôi về Hồng Kông đều về tôi: sự khó khăn và chật chội của cuộc sống ở trại tị nạn, thiếu thức ăn và giáo dục và việc là một đứa trẻ phía sau song sắt.
Tuy nhiên, quay trở lại Hồng Kông gần đây, tôi hiểu hơn nhiều về thách thức mà Chính phủ Hồng Kông phải đối diện khi quản lư việc tái định cư của người tị nạn Việt Nam.
“Chúng tôi đă phải lo cho một thảm họa do con người tạo ra ở diện rộng,” Talbot Bashal, người từng quản lư trại tị nạn, cho tôi biết. “Tất cả mọi người hợp sức lại để cứu giúp.”
Chúng tôi ở Hồng Kông 9 tháng. Mỗi ngày tôi rời trại đi làm mở một nhà máy, ủi những chiếc áo phông hàng hiệu và lắp ráp đồng hồ. Tôi khi đó chỉ mới 10 tuổi.
Chúng tôi may mắn khi được UNHCR duyệt hồ sơ và định cư ở Úc.
Giữa thập niên 80, các nước như Mỹ, Canada và Pháp nhận người tị nạn chậm hơn và Hồng Kông bị bỏ mặc phải đối phó với khủng hoảng.
Một số người phải ở lại trong các trại tị nạn nhiều năm cho đến thập niên 90, Hồng Kông quyết định cho họ hồi hương.
Một số người có thể tranh luận rằng việc buộc hồi hương là không nhân đạo nhưng thực tế chỉ ra rằng Chính phủ Hồng Kông đă không đẩy ngược một chiếc thuyền của người tị nạn nào trong suốt thời gian cuộc di tản diễn ra.
V́ thế, tôi và hàng trăm ngh́n người tị nạn Việt Nam cảm thấy hàm ơn.
Tại Úc, việc tái định cư của người xin tị nạn là một chính sách và vấn đề chính trị phức tạp.
Trong những thập kỷ gần đây nhiều lănh đạo chính trị đă xử lư nó nhưng một trận bóng đá, đá vấn đề từ một khung thành đến khung thành kế tiếp.
http://intermati.com/hanna/2016/11m/15d/84.jpg
Cuộc sống cơ cực của 3 mẹ con trong thời gian tị nạn
Và trong nhưng năm trở lại đây, không có một chính sách nào được công bố thật sự tạo ra ảnh hưởng đối với những con người đang chịu đựng và những cuộc chiến khiến mọi người phải chạy khỏi mái nhà của ḿnh.
Trong khi đề nghị cấm một người xin tị nạn không bao giờ có thể vào Úc đáng lẽ được nhắm đến những người muốn mua chỗ trên những con tàu bất hợp pháp. Nó bị nhiều người chỉ trích là một chính sách xấu và chính trị xấu, là cách của những chính khách như Pauline Hanson.
Đài Lê trở lại Hồng Kông sau 30 năm để t́m hiểu làm thế nào nơi này lại chịu được với những người tị nạn Việt Nam đặt chân đến đây.
Trong khi cô đại điện cho một bộ phận người Úc sợ những người như ḿnh – những người nh́n khác và nói khác họ – chính sách cấm người xin tị nạn chỉ tạo sự chia cắt trong xă hội chúng ta.
Tại thời điểm khi chúng ta có rất ít sự đa dạng trong những người đại diện lănh đạo chính trị của chúng ta, th́ những công bố như vậy chia rẽ sự giàu có và đa dạng của xă hội hơn nữa.
Tôi không nghi ngờ rằng có “những kẻ buôn người” lợi dụng sự đau khổ của mọi người.
Nhưng đối với những người chạy khỏi những vùng có chiến sự, th́ những “kẻ buôn người” này cho họ cơ hội để chèo đến một cuộc sống an toàn và tốt đẹp hơn.
Và những người xin tị nạn này sẵn sàng chuẩn bị đón nhận rủi ro thiệt mạng trên biển như mẹ tôi và hàng ngh́n người tị nạn Việt Nam đă làm sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc.
Đài Lê, viết cho Earshot/Australiaplus
Chia sẻ của chị Đài Lê – người sáng lập ra DAWN, một tổ chức phát triển lănh đạo đa dạng văn hóa, và là hội đồng viên của Hội đồng Thành phố Fairfield.
Mỗi khi có 1 câu chuyện về những người tị nạn xuất hiện trên báo chí, nó đều làm tôi đau. Tôi nh́n vào gương và nói với bản thân: “Đó chính là ḿnh”.
Khi Thủ tướng hay Bộ trưởng Di trú công bố nhưng quy định mới được ban hành để cấm cửa những người tị nạn bằng đường biển, tôi bảo ḿnh: “À, không phải là về tôi nữa. Nó liên quan đến một nhóm người khác.”
Tôi cố gắng nói với bản thân rằng những quy định ngặt nghèo đó cần được ban hành để chúng ta có thể bảo vệ đường biên giới và Chính phủ của chúng ta có quyền quyết định ai được vào đất nước này.
Sau tất cả, tôi đă bỏ lại bộ đồ tôi mang trên người khi đặt chân đến đây với tư cách là một người tị nạn Việt Nam từ Hồng Kông năm 1979. Hiện nay tôi là một người Úc mới. Một quy định khắt khe nữa sẽ không ảnh hưởng đến tôi.
Nhưng nếu tôi tiếp tục với suy nghĩ như vậy, tôi đang chối bỏ nguồn gốc của ḿnh, và hoàn cảnh đă tạo nên căn tính mới của tôi.
http://intermati.com/hanna/2016/11m/15d/82.jpg
Đài Lê và gia đ́nh
Khi mẹ của tôi buộc phải trốn chạy cùng ba đứa con khi Sài G̣n thất thủ, bà đă không có chọn lựa.
Quê hương nơi bà sinh ra đă thất thủ. Để tồn tại, bà phải trốn chạy như hàng trăm và hàng ngh́n người Việt Nam đă bỏ chạy sau khi chiến tranh kết thúc vào tháng 4/1975.
Nếu như Chính phủ Úc thực hiện những chính sách đẩy ngược thuyền vào thập niên 70 th́ điều ǵ có thể xảy ra cho những người tị nạn Việt Nam như mẹ và ba chị em tôi?
Liệu chúng tôi vẫn ở những trại tị nạn? Hay chúng tôi có thể mất mạng trên biển, như hàng ngh́n người tị nạn Việt Nam đi thuyền theo hướng Malaysia, nơi chính sách đẩy ngược thuyền được áp dụng thời đó?
Sau khi rời khỏi Sài G̣n trên một chiếc thuyền, chúng tôi sống hai năm tại một trại tị nạn ở Philippines.
Năm 1979, chúng tôi tiếp tục một hành tŕnh trên biển nữa và hướng đến Hồng Kông v́ chúng tôi nghe bảo rằng nó là cánh cửa về phía Tây.
Người tị nạn Việt Nam bắt đầu đến Hồng Kông sau tháng 4/1975.
Số lượng đạt đỉnh điểm năm 1979, khi 600 – 1000 người đến ḥn đảo nhỏ này mỗi ngày và khi đó nó có dân số khoảng 5 triệu người.
Để hiểu rơ hơn, Australia có dân số hơn Hồng Kông 7 lần.
Mật độ dân số cao, đi cùng với các vấn đề kinh tế, xă hội đáng lẽ khiến Hồng Kông phải khó tiếp nhận người xin tị nạn hơn.
Nhưng Chính phủ Hồng Kông đă dựng nơi cư trú khẩn cấp cho hàng trăm, hàng ngh́n người Việt tới đây bằng thuyền, trong đó có gia đ́nh tôi.
Mặc dù có những sự e ngại từ một số người dân, hầu hết mọi người đều đón chào chúng tôi.
http://intermati.com/hanna/2016/11m/15d/83.jpg
Đài Lê khi c̣n nhỏ
“Có một sự đồng cảm và cảm thương trong cộng đồng người dân ở đây cho những người tị nạn Việt Nam v́ chúng tôi được thấy khi Sài G̣n thất thủ trên truyền h́nh,” Tôi được Eddia Chan kể, ông là một bảo vệ tại một chi nhánh của chính quyền Hồng Kông lúc đó.
Trong 30 năm, kư ức của tôi về Hồng Kông đều về tôi: sự khó khăn và chật chội của cuộc sống ở trại tị nạn, thiếu thức ăn và giáo dục và việc là một đứa trẻ phía sau song sắt.
Tuy nhiên, quay trở lại Hồng Kông gần đây, tôi hiểu hơn nhiều về thách thức mà Chính phủ Hồng Kông phải đối diện khi quản lư việc tái định cư của người tị nạn Việt Nam.
“Chúng tôi đă phải lo cho một thảm họa do con người tạo ra ở diện rộng,” Talbot Bashal, người từng quản lư trại tị nạn, cho tôi biết. “Tất cả mọi người hợp sức lại để cứu giúp.”
Chúng tôi ở Hồng Kông 9 tháng. Mỗi ngày tôi rời trại đi làm mở một nhà máy, ủi những chiếc áo phông hàng hiệu và lắp ráp đồng hồ. Tôi khi đó chỉ mới 10 tuổi.
Chúng tôi may mắn khi được UNHCR duyệt hồ sơ và định cư ở Úc.
Giữa thập niên 80, các nước như Mỹ, Canada và Pháp nhận người tị nạn chậm hơn và Hồng Kông bị bỏ mặc phải đối phó với khủng hoảng.
Một số người phải ở lại trong các trại tị nạn nhiều năm cho đến thập niên 90, Hồng Kông quyết định cho họ hồi hương.
Một số người có thể tranh luận rằng việc buộc hồi hương là không nhân đạo nhưng thực tế chỉ ra rằng Chính phủ Hồng Kông đă không đẩy ngược một chiếc thuyền của người tị nạn nào trong suốt thời gian cuộc di tản diễn ra.
V́ thế, tôi và hàng trăm ngh́n người tị nạn Việt Nam cảm thấy hàm ơn.
Tại Úc, việc tái định cư của người xin tị nạn là một chính sách và vấn đề chính trị phức tạp.
Trong những thập kỷ gần đây nhiều lănh đạo chính trị đă xử lư nó nhưng một trận bóng đá, đá vấn đề từ một khung thành đến khung thành kế tiếp.
http://intermati.com/hanna/2016/11m/15d/84.jpg
Cuộc sống cơ cực của 3 mẹ con trong thời gian tị nạn
Và trong nhưng năm trở lại đây, không có một chính sách nào được công bố thật sự tạo ra ảnh hưởng đối với những con người đang chịu đựng và những cuộc chiến khiến mọi người phải chạy khỏi mái nhà của ḿnh.
Trong khi đề nghị cấm một người xin tị nạn không bao giờ có thể vào Úc đáng lẽ được nhắm đến những người muốn mua chỗ trên những con tàu bất hợp pháp. Nó bị nhiều người chỉ trích là một chính sách xấu và chính trị xấu, là cách của những chính khách như Pauline Hanson.
Đài Lê trở lại Hồng Kông sau 30 năm để t́m hiểu làm thế nào nơi này lại chịu được với những người tị nạn Việt Nam đặt chân đến đây.
Trong khi cô đại điện cho một bộ phận người Úc sợ những người như ḿnh – những người nh́n khác và nói khác họ – chính sách cấm người xin tị nạn chỉ tạo sự chia cắt trong xă hội chúng ta.
Tại thời điểm khi chúng ta có rất ít sự đa dạng trong những người đại diện lănh đạo chính trị của chúng ta, th́ những công bố như vậy chia rẽ sự giàu có và đa dạng của xă hội hơn nữa.
Tôi không nghi ngờ rằng có “những kẻ buôn người” lợi dụng sự đau khổ của mọi người.
Nhưng đối với những người chạy khỏi những vùng có chiến sự, th́ những “kẻ buôn người” này cho họ cơ hội để chèo đến một cuộc sống an toàn và tốt đẹp hơn.
Và những người xin tị nạn này sẵn sàng chuẩn bị đón nhận rủi ro thiệt mạng trên biển như mẹ tôi và hàng ngh́n người tị nạn Việt Nam đă làm sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc.
Đài Lê, viết cho Earshot/Australiaplus