View Full Version : Sưu tầm
Pages :
1
2
[
3]
4
5
6
7
8
florida80
12-19-2019, 21:05
Cho đến nay, các xă hội phương Tây hiện đại đă có thể tŕ hoăn sự lao dốc tương tự của sự sụp đổ thông qua các nhiên liệu hoá thạch và công nghệ công nghiệp, như việc làm dập đá phiến chứa dầu bằng thủy lực xuất hiện năm 2008, vừa kịp để bù đắp cho việc giá dầu tăng cao. Tuy nhiên Tainter nghi ngờ điều này sẽ không phải luôn luôn đúng. "Hăy tưởng tượng các chi phí nếu chúng ta phải xây dựng một vách ngăn biển xung quanh Manhattan, chỉ để bảo vệ chống băo và thủy triều lên," ông nói. Cuối cùng, đầu tư vào sự phức tạp như là một chiến lược giải quyết khó khăn sẽ đạt đến một điểm làm giảm dần lợi nhuận, làm suy yếu tài chính, dẫn đến khả năng sụp đổ. Đó là, ông nói "trừ khi chúng ta t́m ra một cách để chi trả cho sự phức tạp, giống như tổ tiên chúng ta đă làm khi họ điều hành xă hội qua nhiên liệu hóa thạch."
Cũng tương tự Rome, Homer-Dixon tiên đoán rằng sự sụp đổ của các xă hội phương Tây được thể hiện trước bằng sự rút lui của người dân và các nguồn lực trở về nước họ. Khi các quốc gia nghèo hơn tiếp tục tan ră do có xung đột và thiên tai, những làn sóng di dân khổng lồ sẽ tràn ra khỏi những khu vực tai họa, t́m kiếm nơi ẩn náu ở các quốc gia ổn định hơn. Các xă hội phương Tây sẽ có những hạn chế và thậm chí cấm nhập cư; những bức tường nhiều tỷ đô la và máy bay tuần tra biên pḥng và quân đội; tăng cường an ninh đối với nhập cư; và sự quản chế độc tài và dân túy hơn. "Đó gần như là một nỗ lực tránh bị xâm hại của các quốc gia để duy tŕ khoảng cách và đẩy áp lực trở lại," Homer-Dixon nói.
Trong khi đó, khoảng cách ngày càng tăng giữa người giàu và người nghèo trong những nước phương Tây sẽ đẩy xă hội tiến tới sự mất ổn định hơn nữa từ bên trong. "Đến năm 2050, Mỹ và Anh sẽ tiến triển thành các xă hội hai tầng lớp, một tầng lớp tinh hoa ít người sống một cuộc sống tốt đẹp, và sự suy giảm phúc lợi với đa số dân". Randers nói. "Sự công bằng sẽ sụp đổ".
Dù ở Mỹ, Anh hay bất cứ đâu, những người càng bất măn và sợ bao nhiêu, theo Homer-Dixon, th́ họ càng có khuynh hướng bám víu vào nhóm của họ, bất luận là nhóm tôn giáo, chủng tộc hay quốc gia. Sự phủ nhận, bao gồm cả triển vọng đang nổi lên của sự sụp đổ xă hội, sẽ lan rộng, cũng như sự phủ nhận thực tế dựa trên bằng chứng. Nếu người dân thừa nhận rằng có rắc rối th́ họ sẽ đổ lỗi những rắc rối đó cho những người bên ngoài nhóm của họ, và oán giận họ. "Như vậy người ta đang thiết lập các điều kiện tiên quyết về tâm lư và xă hội cho bạo lực quần chúng", Homer-Dixon nói. Khi bạo lực bản địa cuối cùng nổ ra, hoặc khi một quốc gia khác hoặc nhóm khác quyết định xâm chiếm, th́ sự sụp đổ sẽ khó tránh khỏi.
Châu Âu, do gần với châu Phi, liền đất với Trung Đông và do t́nh trạng gần với các quốc gia bất ổn về chính trị ở phía Đông, sẽ là nơi cảm thấy những áp lực này trước tiên. Hoa Kỳ sẽ có thể giữ được lâu hơn do có các được các đại dương ngăn cách.
Mặt khác, các xă hội phương Tây có thể không bị một kết thúc bạo lực và gay gắt. Trong một số trường hợp, các nền văn minh chỉ đơn giản mờ nhạt đi, trở thành nước b́nh thường của lịch sử một cách không đột ngột ầm ĩ mà là trong rên rỉ. Đế quốc Anh đă đi theo con đường này từ năm 1918, và các quốc gia phương Tây khác có thể cũng sẽ như vậy. Theo thời gian, các nước này sẽ ngày càng trở nên không quan trọng, và với việc bị mờ nhạt dần, sẽ mất đi những giá trị mà ngày nay đang được trân trọng. "Các quốc gia phương Tây sẽ không sụp đổ, nhưng hoạt động trôi chảy và bản chất thân thiện của xă hội sẽ biến mất bởi sự bất công sẽ bùng nổ", Randers lập luận. "Dân chủ, xă hội tự do sẽ thất bại, trong khi các chính phủ mạnh hơn như Trung Quốc sẽ là người chiến thắng."
Một số dự báo và các dấu hiệu cảnh báo sớm này có vẻ quen thuộc, chính xác bởi v́ chúng đang xẩy ra. Trong khi Homer-Dixon không ngạc nhiên trước những sự kiện gần đây của thế giới (v́ ông đă tiên đoán một số trong số đó trong cuốn sách của ông năm 2006), ông không nghĩ rằng những sự tiến triển này sẽ xảy ra trước 2025.
florida80
12-19-2019, 21:06
Tuy nhiên nền văn minh phương Tây không phải là một sự nghiệp thất bại. Bằng cách sử dụng lư trí và khoa học để chỉ dẫn các quyết định, kết hợp với sự lănh đạo phi thường và sự thiện chí đặc biệt, xă hội con người có thể tiến tới mức cao hơn về hạnh phúc và phát triển, Homer-Dixon nói. Ngay cả khi chúng ta phải khắc phục những căng thẳng sắp tới của biến đổi khí hậu, sự gia tăng dân số và giảm năng lượng, chúng ta vẫn có thể duy tŕ xă hội và cải thiện nó. Nhưng điều đó đ̣i hỏi phải chống lại sự thôi thúc tự nhiên, khi đối mặt với những áp lực áp đảo như thế, là trở nên kém hợp tác, kém hào phóng và kém tiếp thu lẽ phải. "Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để chúng ta có thể ǵn giữ được loại thế giới nhân văn trong khi chúng ta thực hiện những thay đổi này?" Homer-Dixon nói.
Bài tiếng Anh đăng trên BBC Future
florida80
12-19-2019, 21:06
Mon Khế Chua - Tạp Ghi Huy Phương
Những người xa quê hương như chúng ta, mỗi lần nghe một tiếng đàn bầu nỉ non, một giọng ḥ khoan nhặt hay một câu vọng cổ thiết tha, không khỏi bùi ngùi, có khi rơi lệ thổn thức nhớ đến quê hương. Người lớn lên sống suốt đời với quê hương, ít khi nh́n thấy quê hương đẹp đẽ, chỉ những người đi xa trở lại như câu chuyện “chốn quê hương đẹp hơn cả” trong sách giáo khoa thư với câu nói quen thuộc “tôi đă đi du lịch ở nhiều nơi, nhưng không nơi nào đẹp bằng quê hương!” mới thấy quư thương quê hương. Chúng ta, những người đă bỏ quê hương ra đi trong nhiều năm, có người thề không bao giờ trở lại quê hương khi ở đó c̣n chế độ Cộng Sản c̣n chế ngự lên đầu lên cổ nhân dân, th́ lại thương nhớ quê hương biết chừng nào, v́ đây không phải là “xa quê hương” mà là “mất quê hương”. Đối với những người đang bước tới tuổi xế chiều, th́ tiếng gọi quê hương c̣n thúc giục mănh liệt hơn nữa, nung nấu tấm ḷng, trăn trở qua những đêm không ngủ, khi gặp phải những cảnh trái ngang không vừa ḷng, khó hoà nhập ví cuộc sống mới, bất măn v́ những việc riêng tư, buồn việc gia đ́nh, hay v́ cách đối xử của con cái.
Chúng ta thử tưởng tượng h́nh ảnh một chiều mùa đông giá buốt ở miền Đông Bắc Hoa Kỳ, một người già ngồi trong cửa sổ nh́n tuyết rơi mà ḷng nhớ đến quê hương xót xa biết chừng nào. Mà không phải chỉ nơi đó, ngày nay ở Nga Xô, Trung Quốc, Úc Đại Lợi, Âu Châu và cả những miền nắng cháy Phi Châu, đâu cũng có người Việt xa xứ thương nhớ quê hương.
Ngày xưa thuở thanh b́nh, một người ở ngay trên quê hương của ḿnh, trưa nghe “một tiếng gà trưa gáy năo nùng” đă thấy buồn, gợi nhớ đến dĩ văng. Bạch Cư Dị mới bị đày đi Giang Châu cùng trong một nước Trung Quốc, một đêm nghe tiếng đàn tỳ trên sông, nghe lời tâm sự của một nàng ca kỷ lưu lạc mà đă “lệ ai chan chứa hơn người, Giang Châu Tư Mă đượm màu áo xanh”. Huống ǵ ta, nơi chân trời góc bể, xa quê hương ngh́n dặm đường mà với những khoảng cách không bao giờ làm ngắn lại được, sẽ đau ḷng biết bao nhiêu? Người về lại với quê hương th́ cũng chừng ấy người với những lượt đi về thường trực tiếp nối, người không muốn về với quê hương th́ chưa về. Người sống xa quê hương như cây trồng trong chậu, có lẽ dù tưới bón tới đâu th́ gốc rễ vẫn không nằm sâu trong đất.
Chúng ta có bao nhiêu điều xót xa v́ t́nh cảnh ly hương như thế mà phải cam chịu, nhưng ḷng ta không bao giờ là không nghĩ, nhớ đến quê hương. Như vậy quê hương phải chăng là tiếng gọi sâu kín nhất trong ḷng mỗi người, để những lúc yếu ḷng v́ ngoại cảnh, một đám mây “hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa”, hay một làn khói trên sông “trên sông khói sóng cho buồn ḷng ai” mà nhớ nhà, nhớ nước.
florida80
12-19-2019, 21:07
Quê hương và quá khứ đă gắn liền với nhau, v́ chúng ta đă có đoạn thời gian quá dài gắn bó với quê hương, dù nghèo đói, chiến tranh. Bỏ quê hương bao giờ cũng là điều bất đắc dĩ. Phải chăng quê hương là chỗ yếu ḷng người ly hương, chỗ “gót d’ Achille” của mỗi một chúng ta nên chế độ ở trong nước luôn luôn t́m cách đánh vào chỗ yếu ấy, chỗ t́nh cảm sâu khuất nhất trong ḷng mỗi người.
Lâu nay chúng ta thấy bao nhiêu lời mời gọi từ trong nước, quanh quẩn trong hai chữ “quê hương”. Nhẹ nhàng th́ phong cảnh quê hương, ca nhạc dân tộc, thực tế và đôi khi thô thiển hơn th́ Saigon ăn chơi, Vũng Tàu du hí, Hà Nội hoa hậu, tinh tế mời gọi hơn th́ “duyên dáng Việt Nam”, “Festival Huế”. Ai lại không muốn về với quê hương, nghe giọng thổ âm thân quen, ăn món ngon quê hương quen miệng từ ngày thơ ấu, đi lại trên con đường làng quen thuộc sau suốt một cuộc đi dài, nhất là khi mái tóc đă hoa râm, tấm thân đă mệt mỏi. Có bao nhiêu người đă trở về, mỗi năm một đôi lần, khi chúng ta đă muốn đi th́ có biết bao động lực và lư do, xây lại nấm mồ cha mẹ, làm lại ngôi nhà thờ, làm lễ măn tang, chúc thọ người thân... Việt Nam hiện nay rẻ của, rẻ người, đồng đô la có thể làm biến dạng một ông già thành người trai trẻ, một người sống trong lăng quên thành một hoàng tử giữa một cung đ́nh.
Người ta nói rằng “Duyên Dáng Việt Nam” là một chương tŕnh nghệ thuật hoàn toàn không mang một sự tuyên truyền chính trị nào, nó không có cờ đỏ, không có h́nh ảnh lănh tụ hay khẩu hiệu tuyên truyền. Nhưng chúng ta cũng nên hiểu rằng nó đă được nhà nước công phu tuyển chọn những giai nhân tuyệt sắc, những y phục đẹp nhất, những kỹ thuật mới mẻ nhất, công phu dàn dựng và một ngân khoản lớn không tiếc tiền trong khi dân t́nh c̣n đói khổ, chế độ c̣n bất công và áp bức c̣n đầy rẫy. Họ đến đây hẳn không v́ lư do thương măi hay để mua vui cho “núm ruột thân thương ngh́n dặm”? Quả là viên thuốc “quê hương” bọc đường ngọt ngào như những ḍng thơ của Nguyễn Trung Quân.
Trên thế giới này có hằng trăm triệu con người có tự do để chọn một nơi khác làm quê hương của ḿnh. Sau ngày 20 tháng 7-1954, một triệu người miền Bắc đă đến miền Nam “xin nhận nơi này làm quê hương”. Sau ngày 30 tháng 4-1975, gần ba triệu người Việt đi t́m một quê hương khác trên khắp quả địa cầu. Dù ai cũng biết “quê hương là chùm khế ngọt”, biết rằng “quê hương mỗi người chỉ một” người ta vẫn đi t́m một quê hương khác để khỏi nếm phải chất chua của chế độ. Bây giờ hầu hết xem quê nhà như một nơi du lịch, đến và ra đi như một người khách lạ. Ở những quê hương thứ hai này, con người rơ ràng đă “lớn nổi thành người”, thứ con người tử tế, có nhân cách, không biết xảo trá hay chiều chuộng ai. Quả đất tṛn, nên đi hết biển có thể trở lại nơi khởi hành, tuy vậy con cá hồi, con chim én c̣n chọn mùa, chọn vùng biển, vùng trời, huống ǵ con người.
Tuy vậy rồi tất cả, đều trở lại nơi không phải là quê hương của ḿnh mà cảm thấy b́nh yên như chính ở quê hương. Nghe mà xót xa thay khi bà con chúng ta đi Việt Nam lúc trở về nơi “ăn nhờ ở đậu” lại có cảm tưởng “trở về nhà”.
“Dù ai nói ngọt nói ngon”, dù ai đem “núm ruột ngàn dặm” chiêu dụ th́ quê hương vẫn là quê hương, nhưng xin hẹn một ngày về chưa phải là hôm nay, và hy vọng của chúng ta sẽ không bao giờ tàn lụi.
Huy Phương
florida80
12-19-2019, 21:08
Chuyện Ba Đồng Xu
Valodia, Sasha và Tanhia là bộ 3 của trường trung học phổ thông của một thành phố nhỏ Xmolenxco chơi với nhau rất thân. Tuy 3 người học khác lớp nhau nhưng cùng trường, Valodia là chàng thanh niên mạnh khoẻ, tế nhị và nhă nhặn với mọi người. C̣n Sasha học dưới một lớp, nhỏ con, nhanh nhẹn và học giỏi. Đôi bạn trai này gần nhà nhau và chơi với nhau từ hồi c̣n nhỏ. Họ đă từng bên nhau trong mọi xó xỉnh của thành phố khi c̣n ấu thơ. Khi lên trung học họ quen với Tanhia, một cô gái mới lớn được xếp vào hàng hoa khôi của trường. Tanhia có đôi mắt xám cùng mái tóc màu hạt dẻ rất nhí nhảnh. Ba người chơi với nhau thân thiết đến nỗi các bạn học của cả trường đều biết. Bọn lơn lớn ở trường thường hay bàn tán về quan hệ của bộ 3 này. Có người th́ cho là Valodia và Tanhia là một cặp, có người th́ cho là Tanhia yêu Sasha… Cuối cùng th́ mọi người chỉ biết là ba người này chơi thân với nhau c̣n hơn cả ruột thịt.
Nói thẳng ra trong trái tim của Valodia lẫn Sasha đều muốn cất giữ h́nh ảnh của người bạn gái thân thương Tanhia cho riêng ḿnh. Nhưng t́nh bạn giữa đôi bạn trai mạnh mẽ đến mức không bao giờ hai người dám nghĩ đến chuyện thổ lộ t́nh yêu với Tanhia. Họ không muốn t́nh bạn giữa 3 người phải tan vỡ. Tanhia cũng vậy, cô biết rằng cả 2 người bạn trai đều rất yêu ḿnh, nhưng chưa một lần nào cô thiên vị ai, v́ cả Valodia và Sasha đều tốt và đáng trân trọng như nhau, hơn nữa 2 người bạn trai lại quá thân thiết và gần gũi.
Thời gian rồi cũng trôi đi mau, 2 người bạn trai ra trường và công tác ngay tại thành phố, c̣n Tanhia th́ đang học năm cuối của trung học. Họ vẫn gặp nhau hàng tuần, đi xem và thường đi khiêu vũ cùng nhau vào những ngày cuối tuần. T́nh cảm vẫn mặn nồng như khi c̣n học trong trường, chỉ có điều là họ gặp gỡ nhau ít hơn.
Rồi chiến tranh xẩy ra, cả Valodia va Sasha đều được gọi nhập ngũ cùng ngày, Tanhia th́ tham gia vào đội cứu thương của quận đoàn. Ngày hôm sau là ngày lên đường ra mặt trận, cả 3 hẹn gặp nhau tại nhà của Tanhia. Tối hôm đó như những lần gặp trước, họ có mặt rất đúng giờ. Nhưng ai cũng trầm lặng và ít nói hơn. May mà Tanhia c̣n chạy qua chạy lại chuẩn bị đồ ăn cho bữa tối. Khi cả 3 đă cùng ngồi bên nhau, im lặng, th́ Sasha cất tiếng:
- Ngày mai là ngày bọn ḿnh lên đường rồi mà ngày về th́ không biết trước, có điều mà có lẽ không phải riêng ḿnh mà chắc là cả Valodia nữa muốn nói với Tanhia rằng bọn anh rất yêu em.
Như đă chuẩn bị cho câu nói từ lâu lắm rồi, Tanhia không hề bối rối ngắt lời:
- Em biết t́nh cảm của hai anh dành cho em từ lâu, em yêu cả hai anh, rất yêu và rất quư trọng t́nh bạn của các anh, t́nh bạn của 3 đứa chúng ḿnh. Em không muốn làm tổn thương một ai cả.
Valodia nói cuối cùng:
- Tanhia, thú thật anh rất muốn có em trong đời, nhưng anh không muốn mất đi t́nh bạn đă có giữa chúng ta. Thật khó, nhưng cũng đến lúc chúng ḿnh phải đối diện với sự thật rồi.
Họ lại im lặng, không khí trầm hẳn xuống. Chẳng c̣n bao lâu nữa là đến giờ phải chia tay. Tanhia đi vào bếp, làm một chiếc bánh ngọt và để vào ḷ, sau đó đi ra và nói với hai người:
- Em đă làm một chiếc bánh ngọt để chúng ta cùng ăn trước lúc chia tay.Trong chiếc bánh đó em có đặt một đồng xu nhỏ, nếu anh nào ăn bánh mà trong đấy có đồng xu th́ em sẽ yêu người may mắn đó, c̣n nếu em nhận được đồng xu th́ có nghĩa măi măi chúng ta chỉ là bạn của nhau như bây giờ, các anh thấy được không?
Chẳng c̣n cách nào hay hơn, thế là mọi người đồng ư. Khi Tanhia mang bánh vào pḥng, th́ thấy Valodia và Sasha đă đứng bên cửa sổ nh́n ra bầu trời tối đen nói chuyện với nhau rất thân mật, có lẽ họ t́m cách để làm giảm nỗi hồi hộp trong ḷng ḿnh. Sau khi Tanhia cắt chiếc bánh ra làm ba , cô mời 2 anh vào bàn. Họ lại im lặng nh́n vào chiếc đĩa đựng bánh đă để sẵn ở giữa bàn. Một phút trôi qua, rồi hai phút… Cuối cùng th́ Tanhia nói:
florida80
12-19-2019, 21:08
- Bây giờ em sẽ quay chiếc đĩa thật mạnh nhé. Khi nào đĩa dừng th́ từng người sẽ nhận lấy phần bánh trước mặt nhé.
Như để phá tan sự im lặng đáng sợ này, Tanhia quay đĩa thật nhanh. Trái tim trong lồng ngực của Valodia và Sasha như muốn vỡ tung v́ hồi hộp. Chiếc đĩa từ từ dừng lại. Vẫn với cá tính quyết đoán của ḿnh Sasha nhận lấy phần bánh trước mặt ḿnh đầu tiên và từ từ cho vào mồm. Rồi đến lượt Valodia và Tanhia lấy phần tiếp theo… Họ nhai từng lần một chậm. thật chậm.
Bỗng Sasha reo lên thật to và lấy từ miệng ḿnh ra một đồng xu, anh lao vào ôm lấy Valodia và sau đó bế bổng Tanhia lên. Trong lúc Sasha đang vui sướng đến tột độ th́ Valodia lặng lẽ vào pḥng vệ sinh rửa mặt, một lúc sau anh quay ra và bắt tay chúc mừng Sasha. Valodia xin về sớm để 2 người ở lại tâm sự. Tiễn anh ra cửa mà nước mắt Tanhia giàn giụa hai hàng, cô ôm Valodia và bỗng oà lên khóc nức nở…
Thời gian 3 năm trôi đi cũng thật là nhanh, Valodia trở về thành phố thân yêu của ḿnh với nỗi buồn vô tận v́ Sasha người bạn từ ấu thơ của ḿnh đă vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường. Tanhia đă biết tin này, trái tim của người con gái như sắt lại. Ngay sáng hôm sau khi về Xmolenxco, Valodia đến thăm lại cô bạn gái Tanhia hồi học sinh của ḿnh. Vẫn căn pḥng này, năm xưa có tiếng cười nói của cả 3 người mà giờ đây chỉ c̣n 2. Valodia kể cho Tanhia về những ngày gian khổ của ḿnh ở chiến trường, kể về sự hy sinh dũng cảm của Sasha trong cùng tiểu đội chiến đấu với ḿnh.
Valodia kể trước lúc tắt thở Sasha đă lấy từ túi ngực ḿnh ra đồng xu năm nào và trao cho Valodia, Sasha ra đi và chỉ muốn trao lại t́nh yêu của ḿnh với Tanhia cho Valodia mà thôi. Tanhia lặng lẽ đi ra phía cửa sổ, nơi mà Valodia va Sasha lần cuối đă đứng đó.
Valodia đứng dậy, anh lại gần Tanhia, đặt một tay lên vai Tanhia, c̣n tay kia anh cho vào túi và lấy ra hai đồng xu nhỏ giống nhau đưa cho Tanhia. Và cũng chính lúc đó Tanhia xoè ḷng bàn tay trái của ḿnh ra, trong đó cũng có một đồng xu y trang như thế. Hai người lặng lẽ ôm lấy nhau, nước mắt Tanhia lại chảy dài như đêm nào đó tiến Valodia về trong khi Sasha vui mừng v́ nhận được đồng xu may mắn của ḿnh.
Sau này Valodia và Tanhia trở thành vợ chồng của nhau, và hàng năm cứ đến ngày mất của Sasha họ lại cùng nhau ra nghĩa trang thăm lại bạn cũ của ḿnh cùng với 3 đồng xu luôn trong tay.
Ba đồng xu thật nhỏ nhưng nó lại tượng trưng cho t́nh bạn và t́nh yêu cao cả của 3 con người cao đẹp. Tại sao lại có 3 đồng xu nhỉ. Khi kể lại chuyện này cho mọi người Tanhia luôn cầm 3 đồng xu đó trong tay:
- Hôm đó, tôi đă cố t́nh chọn 3 đồng xu và đặt vào 3 góc của chiếc bánh, v́ tôi không muốn mất người nào cả. Ai cũng nhận được phần của ḿnh với đồng xu trong ấy. Chỉ có Sasha, anh ấy quá chân thành và quá yêu tôi nên khi cắn phải đồng xu th́ đă reo lên. Trong lúc đó Valodia lặng lẽ vào nhà vệ sinh để lấy đồng xu ra khỏi miệng ḿnh rồi âm thầm cho vào túi quần. C̣n tôi, khi thấy Sasha vui đến tột độ th́ không c̣n đủ can đảm đưa đồng xu của ḿnh ra nữa mà lặng lẽ dấu đi. Nhưng cũng chính hôm đó tôi biết rằng trong đời tôi được chứng kiến một t́nh bạn thật vĩ đại và ḷng cao thượng vô biên của Valodia, v́ tôi biết rằng trong túi Valodia lúc đó đang có đồng xu thứ 3.
Sưu tầm
at 11
florida80
12-19-2019, 21:09
Sống T́nh Liên Đới - Bài 1 - Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Cuộc sống cần sự liên đới. Vạn vật cũng liên đới với nhau để tồn tại. Con người cũng phải liên đới với nhau để phát triển và đem lại hạnh phúc cho nhau. Đó là chân lư, là lẽ sống của muôn loài.
Đó cũng là điều mà nhà thơ Hữu Thỉnh đă nói:
Tôi hỏi đất:
– Đất sống với đất như thế nào?
– Chúng tôi tôn cao nhau.
Tôi hỏi nước:
– Nước sống với nước như thế nào?
– Chúng tôi làm đầy nhau.
Tôi hỏi cỏ:
– Cỏ sống với cỏ như thế nào?
– Chúng tôi đan vào nhau làm nên những chân trời.
Tôi hỏi người:
– Người sống với người như thế nào?
Thật khó để trả lời cho chân lư sống của con người. Con người dường như chẳng đi theo một quy luật nào. Đất sống với nhau luôn bồi đắp cho nhau để tạo thành những đồi núi trùng điệp thơ mộng. Những con nước luôn liên kết với nhau mới tạo thành những ḍng chảy quanh xóm làng thanh b́nh. Từng nhánh cỏ đan xen với nhau mới làm nên một thảm cỏ xanh tươi bát ngát. Nhưng con người lại ích lỷ, thích sống cho bản thân hơn là liên đới tồn tại.
Dẫu biết rằng cuộc đời sẽ đẹp biết bao khi con người biết sống bồi đắp cho nhau, biết sống làm đầy cho nhau những nghĩa cử yêu thương, và biết sống liên kết với nhau tạo nên một thế giới màu xanh của yêu thương và ḥa b́nh. Cuộc đời sẽ bất hạnh nếu con người sống chia rẽ, hiềm khích và tranh giành nhau. Nhưng đáng tiếc con người sống với nhau chỉ toan tính lợi lộc cho bản thân hơn là chia sẻ nhường nhịn lẫn nhau. V́ thế, câu trả lời con người sống với nhau thế nào thật đa dạng.
– Người buôn bán th́ bảo phải cạnh tranh để tồn tại, để kiếm lợi nhuận.
– Người làm chính trị th́ bảo phải khôn ngoan để chiến thắng, để đẩy lui đối thủ.
– Những ca sĩ, những bác sĩ th́ thích chê nhau nhiều hơn là khen nhau, thích loại trừ nhau nhiều hơn là liên đới với nhau.
Xem ra con người vẫn chưa liên đới đủ để tạo nên một sức sống hùng vĩ như đất đă tạo nên những dăy núi trùng điệp. Xem ra con người vẫn chưa xan xẻ với nhau đủ để tạo thành một ḍng chảy t́nh yêu cho mát rượi ḷng nhau. Xem ra con người vẫn con xa cách nhau khiến không thể gần nhau để cùng chung xây thế giới an b́nh thịnh vượng.
Thế giới sẽ đẹp biết bao nếu con người biết liên đới với nhau. Sự liên đới sẽ làm giầu có cho nhau. Sự liên đới sẽ mang lại no ấm cho nhau. Sẽ không c̣n tiếng khóc lẻ loi trong cô đơn tuyệt vọng. Sẽ không c̣n những tranh chấp thị phi nếu con người biết tôn cao nhau và cùng d́u nhau đi tới.
Chúa Giê-su đă sống một cuộc sống yêu thương như thế. Ngài rất bận rộn. Cái bận rộn không phải của công việc cho bản thân mà là bận rộn làm việc cho tha nhân. Ngài sống liên đới với mọi người. Ngài liên đới với tội nhân để thay họ dâng hy lễ đền tội với Chúa Cha. Ngài liên đới với những mảnh đời lao động vất vả khi chính Ngài đă sống ẩn dật tại mái nhà Nagiaret. Nơi đó, Ngài sống như người nghèo khi kiếm sống bằng đôi bàn tay lao động. Ngài liên đới với mọi cảnh cơ hàn của con người khi Ngài dùng đôi tay để xoa dịu mọi nỗi đau của con người. Đôi chân trần của Ngài đă đến với mọi hạng người để nâng đỡ và ủi an họ.
Hôm nay, Chúa vẫn mời gọi chúng ta hăy sống t́nh liên đới với nhau. Hăy ra khỏi cái tôi ích kỷ của ḿnh để đến với tha nhân. Con người sống là sống với ai đó để tồn tại th́ hăy sống liên đới, xan xẻ và yêu thương nhau. Có như vậy chúng ta mới làm lên những kỳ công cho cuộc đời khi không c̣n những kẻ cơ hàn, đói rách bên cạnh chúng ta.
Xin Chúa giúp chúng ta biết sống yêu thương như Chúa. Xin cho đôi chân của chúng ta luôn mau lẹ đến với tha nhân, và đôi tay luôn quảng để nâng đỡ, ủi an những ai đang mang gánh nặng nề v́ cuộc sống lầm than. Amen
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
florida80
12-19-2019, 21:10
Không C̣n Ǵ Để Bán Chỉ Bán... Thân..!. - Trần Nhật Phong ̣(Danlambao)
Thân xác của mẹ Việt Nam đang bị những kẻ cai trị xẻ ra bán từng phần và được nhân danh “phát triển” nhưng thực tế là bán để chia chát lợi nhuận của những kẻ cầm quyền. Nếu hôm nay các bạn tiếp tục "cam chịu" hay "không phải chuyện của tôi" th́ liệu ngày mai sẽ đến ngôi nhà của các bạn, mảnh đất của các bạn sẽ được thu hồi v́ đó là đất “được qui hoạch” hay đất thuộc “bộ quốc pḥng”. Trong một xă hội, mà đất đai, tài sản có thể bị “cướp” bất cứ giờ phút nào th́ các bạn liệu có “an toàn” hay “yên b́nh” hay không?
*
Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi đă có một thời gian khá dài làm nghề lồng tiếng cho các phim bộ Hong Kong và Đài Loan, gần 19 năm làm nghề này, có thể nói tôi đă xem và học được khá nhiều điều hay từ những nhà viết kịch bản của Hong Kong hay Đài Loan, do cơ chế tự do, sức sáng tác của họ thật dồi dào và đôi khi mang đậm những triết lư nhân sinh của người gốc Á.
Tôi nhớ có một lần, pḥng chuyển âm phim bộ nhận lồng tiếng cho một loạt 2,3 vở kịch diễn sân khấu, được thu h́nh và phát hành, có một vở kịch mà tôi nghĩ thích hợp với câu chuyện hôm nay với các bạn, đặc biệt là các bạn đang sinh sống trong một xă hội đang có dấu hiệu bùng phát mănh liệt có thể dẫn tới sự đổ máu v́ những bất công.
Đại khái câu chuyện đó nói về một nhân vật được hư cấu, vốn là một nhà ngôn ngữ học kiêm một soạn giả nổi tiếng ở Thượng Hải, được xem là một thiên tài, về ngôn ngữ ông có khả năng nghe người đối diện nói chuyện qua âm điệu th́ biết ngay là người sinh sống ở vùng nào, làng nào tại Trung Quốc.
Bên cạnh đó ông c̣n là một nhà soạn kịch nổi tiếng, trong một ngày làm việc của ông, ông có thể soạn một lúc 4,5 vở kịch khác nhau, vừa có thể đọc đối thoại cho kịch bản này, vừa có thể tạo ngay bố cục cho kịch bản khác, sức sáng tác dồi dào của ông khiến cho các nhân viết viết tuồng chạy không kịp với các vở kịch được ông viết.
florida80
12-19-2019, 21:10
Được sự kính trọng của hầu hết giới thượng lưu của Thượng Hải, có nhiều bạn bè tốt, nhưng đến cuối đời ông lại trở thành một ông già khùng khùng, điên điên và chết trong sự cô độc trên đường phố ở Hong Kong ở thập niên 60, sau khi trải qua hàng loạt những biến cố theo sự thăng trầm của ḍng lịch sử Trung Hoa.
Tôi thích câu chuyện này, v́ nó mang đậm tính triết lư về cuộc sống, đặc biệt là thời hoàng kim của nhà soạn giả ở Thượng Hải, lúc đó ông tự tin là có thể làm bất cứ điều ǵ như một nhà phù thủy đa năng.
Trong một cuộc ăn nhậu với bạn bè, ông đánh cá với họ rằng, sẽ biến cô gái bán hoa bên ngoài nhà hàng sang trọng nơi ông ăn nhậu, rằng chỉ trong ṿng 3 tháng, ông có thể biến cô trở thành một minh tinh siêu việt nổi tiếng khắp Thượng Hải.
Và ông làm thật, kết quả đúng như lời ông cam đoan, chỉ vài tháng dưới sự nhào nắn của ông, cô gái bán hoa đă trở thành một trong những người đẹp được tung hê, được chào đón vồn vă của giới thượng lưu ở Thượng Hải.
Đương nhiên câu chuyện tránh không khỏi những t́nh cảm nảy sinh ra giữa ông và cô gái bán hoa, và rồi thời cuộc, ghen tuông và cái tôi to lớn đă khiến hai người hợp rồi tan, tan rồi hợp trong bối cảnh nhiễu nhương của nước Trung Hoa thời cận đại.
Một trong những lần căi nhau gay gắt dẫn đến chia tay, cả ông và cô gái bán hoa đă có những lời gây tổn thương nặng nề cho nhau nhưng mang đậm triết lư cuộc sống:
- Không có tôi, th́ giờ này cô chỉ là cô gái bán hoa ở ngoài đường thôi, làm ǵ được như bây giờ, được săn đón nhiệt t́nh của các tài phiệt Thượng Hải.
- Đúng, không có ông tôi vẫn chỉ là cô gái bán hoa, nhưng ít ra ngày xưa tôi c̣n có hoa để bán, bây giờ tôi chả có ǵ để bán nửa ngoại trừ bán… thân.
Lời nói cay đắng của cô gái từ thân phận bán hoa biến thành một thứ gái điếm hạng sang ở Thượng Hải, khiến tôi liên tưởng đến hoàn cảnh của Việt Nam ngày hôm nay, nó không khác ǵ với câu đối thoại trên cả các bạn ạ.
Trước năm 1975, miền Nam Việt Nam tuy chưa là một cường quốc trong khu vực, nhưng ít ra được sự kính trọng của các quốc gia và vùng lănh thổ lân bang, tương tự như cô gái bán hoa, có được sự kính trọng thương mến của những bạn bè xe kéo, bán hàng rong, những con người lam lũ chung xóm.
Và sau năm 1975, tuy mang danh là một quốc gia thống nhất, nhưng dưới sự cai trị của đảng cộng sản, con dân Việt Nam cầm passport CHXHCNVN đi đến đâu th́ bị khinh khi đến đó, và khi không c̣n ǵ để bán th́ chỉ c̣n “cướp” đất để bán, nó cũng không khác ǵ cô gái bán hoa, khi trở thành gái điếm hạng sang, không c̣n ǵ để bán chỉ có bán... trôn nuôi miệng, và bị bạn bè xa lánh.
Khi nợ công chất cao như núi, không c̣n ǵ để xuất cảng, th́ những kẻ cai trị chỉ biết tăng thuế, cướp đất để bán, nghĩ đến chuyện..., lách nợ, mà không đủ khả năng để nghĩ ra giải pháp.
florida80
12-19-2019, 21:11
Hàng dệt may xuất cảng th́ Indonsia, Malaysia và Trung Quốc đè đến ngợp thở, nếu có dịp ra nước ngoài đến những khu shopping lớn, người ta chỉ thấy các mặc hàng quần áo đều xuất phát từ những quốc gia này, hiếm hoi lắm mới nh́n thấy hàng chữ Made In Viet Nam.
Nông, thủy sản th́ trước đây chỉ thua cho Thái Lan, nay th́ thua luôn cho cả Lào, Cam Bốt và Miến Điện, khi các mặc hàng này liên tục bị trả về từ khắp nơi trên thế giới v́ nhiễm độc thủy ngân, nhiễm độc kim loại.
Dầu thô th́ liên tục lỗ lă, giá dầu trên thế giới sụt giảm, từ lổ tới lổ.
Rừng bị tàn phá, biển bị ô nhiễm, đồng bằng sông Cữu Long bị nước mặn xâm nhập, sông Hồng th́ bị hút cát khau thác vô tội vạ. tài nguyên quốc gia không c̣n lấy một cái ǵ gọi là rừng vàng biển bạc.
Việt Nam hôm nay c̣n ǵ để bán ra nước ngoài? Không, không c̣n ǵ cả ngoại trừ ….. đất đai.
Và do đó càng lúc càng có nhiều vụ “cướp” đất diễn ra khắp nơi trên toàn cỏi Việt Nam, từ bắc chí nam, nơi nào cũng có quan chức địa phương, công an, quốc pḥng “cướp” đất đai để bán quyền sử dụng cho nhà đầu tư “nước ngoài” mà thực chất hầu hết là nhà đầu tư “Trung Quốc”.
Hoàn cảnh này có khác ǵ cô gái bán hoa biến thành bán…trôn trong câu chuyện mà tôi kể ở trên đây các bạn?
Thân xác của mẹ Việt Nam đang bị những kẻ cai trị xẻ ra bán từng phần và được nhân danh “phát triển” nhưng thực tế là bán để chia chát lợi nhuận của những kẻ cầm quyền.
Nếu hôm nay các bạn tiếp tục "cam chịu" hay “không phải chuyện của tôi” th́ liệu ngày mai sẽ đến ngôi nhà của các bạn, mảnh đất của các bạn sẽ được thu hồi v́ đó là đất “được qui hoạch” hay đất thuộc “bộ quốc pḥng”.
Trong một xă hội, mà đất đai, tài sản có thể bị “cướp” bất cứ giờ phút nào th́ các bạn liệu có “an toàn” hay “yên b́nh” hay không?
florida80
12-19-2019, 21:11
Chạy!!!!
Cơ hội chạy của các bạn đă chậm rồi, v́ con cái của những quan chức, kẻ cầm quyền đă chạy trước, chúng ôm tài sản chạy qua xứ “tư bản giăy chết” rồi các bạn ạ, nếu các bạn có may mắn chạy thoát, ra đến bên ngoài cũng chỉ đi làm công cho con cháu của chúng v́ chúng có tiền hơn các bạn, nếu các bạn không có khả năng chuyên môn, không có khả năng ngôn ngữ ở xứ sở các bạn chạy đến, th́ các bạn cũng sẽ tiếp tục làm “thân cu li” cho con cháu của những kẻ cầm quyền hiện nay mà thôi.
Giải pháp duy nhất cứu các bạn đă có từ lâu, vấn đề là các bạn có dám dùng giải pháp đó để thay đổi số mạng của các bạn hay không, thay đổi vận mệnh của mẹ Việt Nam hay không th́ tùy các bạn nhé, chúng tôi bên ngoài đă cạn lời, không can đảm một lần chịu đau để đục bỏ khối ung thư, th́ các bạn chỉ chờ ngày vào quan tài mà thôi.
florida80
12-19-2019, 21:12
Giọt Máu Rơi Của Người Lính Chết Trẻ - Phùng Annie Kim
1.
Bà Tư nằm trăn trở hoài trên chiếc giường nệm thấp. Chăn êm nệm ấm, thân thể mát mẻ, thoải mái mà bà vẫn trằn trọc chưa ngủ được. Với cái tuổi tám mươi này, đôi khi bà hay quên những chuyện lặt vặt vừa mới xảy ra như ăn rồi mà nhất định bảo chưa ăn, chưa uống thuốc mà quyết liệt không chịu uống nữa, chưa đi tắm mà bảo vừa tắm xong.Thế mà sáng nay, có một chuyện bà không quên. Quyền, con trai bà cho biết Sơn, thằng cháu nội bên Minnesota gọi phone về báo tin sẽ về Cali thăm bà vào dịp lễ Giáng sinh.
Cả ngày nay, bà nôn nóng, cứ đi ra rồi lại đi vào. Bà cầm quyển lịch trong tay đếm từng ngày. C̣n hơn một tháng nữa. Sao mà lâu quá! Bà bảo Quyền và Quyên phải dọn cái này, dẹp cái kia, sửa soạn nhà cửa để đón thằng nhỏ.
Nói đến bộ nhớ và sức khỏe của bà cụ tuổi ngoài tám mươi như bà Tư kể cũng hiếm. Chuyện quá khứ, bà nhớ vanh vách các chuyện gia đ́nh xa xưa thời ông cố bà sơ nào hay những kỷ niệm thuở hàn vi ở Việt nam. Nếu có bà con nào đến chơi gợi nhắc chuyện xưa, bà kể lan man hàng giờ không dứt và không sót chi tiết nào. Bà thuộc kinh Phật làu làu. Tiền để dành đi cúng chùa, bà đếm chính xác và biết sắp xếp thành từng loại. Bà dặn cô con gái may cái túi lớn phía trước trong áo lót, bà cất tiền và gài kỹ bằng nút bấm.Việc di chuyển, bà đi lại chậm chạp nhưng vững vàng không cần đến cây gậy. Ban đêm, bà không cần đánh thức các con, tự đi restroom trong căn pḥng lớn gần giường ngủ của bà. Bà ăn chay, tập hít thở, đi bộ đều đặn với Quyền mỗi ngày trong khu townhouse. Bà c̣n xỏ kim được bằng sợi chỉ trắng. Tai bà c̣n nghe rơ người khác chuyện tṛ. Mỗi đêm, bà chỉ chợp mắt vài tiếng đồng hồ. Th́ giờ của bà hầu hết là những thời công phu sớm tối trước bàn thờ Phật. Bà tọa thiền, tụng kinh, th́ thầm cầu nguyện dưới ngọn đèn vàng trong căn pḥng ngủ chung quanh trang trí toàn là h́nh, tượng Phật.
Hơn mười năm nay, nhà bà là một cái chùa nhỏ thanh tịnh và yên tĩnh. Bà xuống tóc, tịnh tu tại gia, sống an lạc, mặc các bộ quần áo màu nâu hoặc màu lam. Các con gọi bà bằng "Cô Diệu" thay v́ gọi bằng "Má".
Trong bốn cái cửa "sinh, lăo, bệnh, tử" của cuộc đời ai cũng phải trải qua, bà Tư đă vượt qua cái cửa thứ hai và thứ ba một cách nhẹ nhàng. Ai hỏi bà về tuổi già và bệnh tật, bà nói bà chẳng có bệnh ǵ ngoài bệnh của người già nghĩa là sức khỏe bà một ngày một yếu đi như ngọn đèn dầu, hết dầu th́ đèn tắt.
C̣n cái cửa "tử" cuối cùng? Bà đang chuẩn bị đấy thôi. Ngoài tám mươi rồi, bà Tư không mong kéo dài tuổi thọ thêm nữa. Ai hỏi cụ bà sợ chết không, bà lắc đầu nói chỉ sợ bệnh nằm liệt giường khổ cho cái thân già và cho con cháu. Trước đây, bà thường nói với các con bà chuẩn bị sẵn cho chuyến đi cuối đời nhưng từ khi gặp lại thằng cháu nội sau bốn mươi năm trăn trở v́ nó, bà như được hồi sinh. Bà vui nên càng ngày trông bà càng khỏe ra. Bà yêu đời và ham sống. Vợ chồng thằng Quyền lấy nhau bốn mươi năm không có con, thằng cháu nội đích tôn lưu lạc này như cục vàng quư đối với bà, mang đến tuổi già của bà cả một mùa xuân.
Trong đêm khuya, bà Tư nằm nhớ lại cuộc đời khổ cực của bà trong sáu mươi năm từ lúc lấy ông Tư là hạ sĩ quan nghèo cục Quân nhu thuộc bộ Tổng Tham mưu, lương lậu không đủ nuôi bốn đứa con ăn học, cả nhà sống nhờ vào ḷ bún thủ công của bà. Bà thức khuya dậy sớm làm bún. Ông Tư và các con bà chia phiên nhau vừa đi học, đi làm, vừa chạy Honda bỏ mối bún ở chợ và các quán ăn ở Sài g̣n. Thời chiến tranh leo thang, luật tổng động viên ra đời, Quyền bị đổi ra vùng một chiến thuật ngành quân vận. Quang, đứa con trai thứ hai theo anh ra Đà nẵng nộp đơn vào sư đoàn một không quân phục vụ ngành an ninh và pḥng thủ phi trường. Đêm đêm, bà mẹ già chỉ biết cầu nguyện cho hai đứa con đi lính xa nhà thoát khỏi cảnh bom đạn trong cuộc chiến càng ngày càng khốc liệt.
florida80
12-19-2019, 21:12
Được tin trong một chuyến vận chuyển vũ khí, đoàn xe của Quyền rơi vào ổ phục kích của Việt cộng. Quyền bị gẫy nát một chân, được xếp vào loại tàn phế và được giải ngũ. Bà vui mừng v́ Quyền vừa thoát được bàn tay tử thần, được chuyển vào Sài g̣n cũng là lúc một nỗi lo khác lại đến. Quang t́nh nguyện chuyển sang ngành tác chiến, trở thành xạ thủ trực thăng của phi đoàn 213. Thời gian này, Quang yêu Phượng, cô y tá nổi tiếng là người đẹp của bệnh viện Đà nẵng. Mối t́nh này đă đơm hoa kết trái đó là thằng Sơn, cháu nội của bà Tư bây giờ.
Sáng ngày mười tháng hai năm một chín bảy mốt, trong một phi vụ tại Hạ Lào, gia đ́nh bà được tin chiếc trực thăng U-H1 bị bắn rơi, Quang và phi hành đoàn tổng cộng mười một người đều tử trận, không thể t́m được xác..
Tin con trai tử nạn một cách thảm khốc, sau đó là nhận giấy báo tử chính thức và tiền tử tuất của Quang, ḷng bà mẹ thương con vẫn thầm nuôi niềm hy vọng. Biết đâu chừng thằng Quang c̣n sống sót và sẽ trở về. Quang là một thằng lanh lợi và thông minh. Biết đâu chừng nó nhảy dù ra khỏi máy bay trước khi máy bay trúng đạn, bốc cháy. Biết đâu chừng nó c̣n sống và bị bắt làm tù binh tại Lào hoặc bị đưa ra ngoài Bắc. Biết đâu chừng nó chỉ bị thương ở đầu và mất trí nhớ nên sống lang bạt, không t́m được đường về với gia đ́nh. Bà đi t́m người giúp bà câu trả lời. Bà đi xem bói. Ông thầy bói quả quyết thằng Quang c̣n sống. Số nó đào hoa nếu lấy vợ sớm sẽ có cháu cho bà ẵm bồng. Bà sống, chờ đợi, tin tưởng và hy vọng mỏi ṃn với ba chữ "biết đâu chừng"...
Sau khi mất nước, bà Tư nghe tin đồn có nhiều tù binh Việt Nam Cộng Ḥa được chính phủ Hà nội thả về theo quy ước quốc tế về việc trao đổi tù binh. Quyền nói với bà Tư làm ǵ có chuyện thả tù binh trong khi hàng trăm ngàn sĩ quan, hạ sĩ quan Việt Nam Cộng Ḥa, các viên chức chế độ cũ gọi chung là "ngụy quân", "ngụy quyền" bị kẹt lại, phải ra tŕnh diện và bị giam giữ ở các trại tập trung để "học tập cải tạo". Quyền may mắn là hạ sĩ quan đă giải ngũ nên không nằm trong số đó. Nếu không, bà Tư lại phải lê lết trong các khu rừng để thăm nuôi thằng con tù.
Tin đứa con tử trận chưa làm ráo nước mắt bà mẹ th́ hai năm sau ông Tư mất v́ tai biến mạch máu năo. Thằng Quốc, con trai thứ ba học hành và lớn lên dưới chế độ xă hội chủ nghĩa vừa tốt nghiệp trung học. Năm một chín bảy tám, mặc dù có hai anh đi lính và tử trận dưới chế độ "Mỹ ngụy", nhà nước Cộng sản vẫn bắt con "ngụy" không đủ tiêu chuẩn vào đại học được "ưu tiên" thi hành nghĩa vụ quân sự ở chiến trường Campuchia. Bà khóc hết nước mắt. Bà tính đường lui, trở về quê ở G̣ công cho thằng Quốc trốn nghĩa vụ. Nào ngờ mạng lưới công an ở các xă, huyện c̣n dầy đặc hơn thành phố. Bà bị công an địa phương bắt giam trong trại tù cải tạo lao động thời hạn hai năm v́ tội không thi hành luật pháp và cố t́nh bao che cho tội phạm.
Nếu bị ở tù để cho thằng con không phải đi lính, bà Tư sẵn sàng hy sinh cái mạng già để cứu con. Nào ngờ bọn chúng, một mặt bắt giam bà đi lao động, một mặt ruồng bắt Quốc và làm áp lực để Quốc ra tŕnh diện. Thời đó, cuộc chiến tranh biên giới giữa hai nước Cộng sản Việt nam và Campuchia được sự hậu thuẫn của Trung Quốc càng ngày càng ác liệt. Thằng nhỏ mười tám tuổi vừa tốt nghiệp trung học, không biết ǵ về súng ống trận mạc, không biết ǵ về chiến tranh, không có chút lư tưởng ǵ về tổ quốc, niềm mơ ước duy nhất của nó là được vào đại học thất bại, bà mẹ đang ở tù, Quốc chấp nhận tŕnh diện, lên đường ra trận để bà mẹ già được tha về sớm.
Một năm sau, Long, người đồng đội của Quốc bị thương về phép, kể lại cho gia đ́nh bà Tư về cái chết của Quốc. Trong một chuyến vượt sông Mekong qua ngả Neak Luang phía bắc tỉnh Kompong Cham, chưa kịp tiến vào Phnom Penh, trước khi được tiếp viện, sư đoàn 7 của Quốc đă đụng độ một trận lớn với quân Kmer Đỏ. Toàn bộ sư đoàn bị tiêu diệt chỉ c̣n sống sót một người là Long. Thi thể Quốc và cả sư đoàn được chôn cất ở nghĩa trang liệt sĩ Tây Ninh. Ít lâu sau, giấy báo tử gửi về. Cuối năm giấy chứng nhận là gia đ́nh liệt sĩ đến tay bà. Bà Tư được ủy ban nhân dân truy tặng là "mẹ chiến sĩ", "mẹ anh hùng".
Hàng năm, vào những ngày lễ thương binh liệt sĩ, cán bộ của ủy ban nhân dân đến thăm hỏi, tặng quà và khen thưởng những gia đ́nh liệt sĩ như bà. Bà treo cái khung gỗ có lộng tờ giấy chứng nhận gia đ́nh liệt sĩ h́nh cờ đỏ sao vàng trên tường. Ít hôm sau, bà lấy xuống, cất vào ngăn tủ. Cứ như thế cho đến ngày bà qua Mỹ.
Cuộc đời bà Tư là một chuỗi dài những giọt nước mắt v́ mất mát. Bà chỉ là một bà mẹ Việt nam b́nh thường, nghèo khổ, ít học. Bà không biết ǵ về các từ ngữ chính trị dao to búa lớn như lư tưởng, tổ quốc, ư thức hệ, cộng sản, tư bản, cộng ḥa xă hội chủ nghĩa, độc lập, tự do, hạnh phúc, liệt sĩ, anh hùng, hy sinh... Bà chỉ là một bà mẹ thương con, một nạn nhân chịu nhiều nỗi đau thương trong chiến tranh. Chiến tranh đă làm một đứa con bà bị tàn phế, tật nguyền. Chiến tranh cướp mất hai đứa con bà, một đứa gửi nắm xương tàn trên chiến trường Hạ Lào xa xôi c̣n một đứa được vinh danh là liệt sĩ.
florida80
12-19-2019, 21:13
Trước khi đi Mỹ, Long đưa gia đ́nh bà đă đến nghĩa trang liệt sĩ ở Tây Ninh thăm mộ Quốc. Cơn mưa làm cho con đường đi vào nghĩa trang lầy lội, ướt át. Mộ Quốc và năm người đồng đội nằm ngay gần lối đi, xây quanh nhau thành một ṿng tṛn, chính giữa là một bồn hoa. Trước cái chết, mọi người đều b́nh đẳng. Hàng ngàn những ngôi mộ thấp, mộ bia màu trắng, xây cùng một kiểu. Ḍng chữ màu vàng khắc trên mộ bia "Nơi an nghỉ của liệt sĩ Trần Hưng Quốc, hai mươi tuổi, sinh ngày hai mươi tháng ba năm một chín năm mươi tám, hy sinh tại chiến trường Campuchia".
Năm một ngàn chín trăm tám mươi chín, Quyền may mắn được gia đ́nh bên vợ bảo lănh qua Mỹ. Năm năm sau, Quyền bảo lănh cho bà Tư và Quyên. Quyền muốn bốc mộ Quốc đem tro cốt qua Mỹ nhưng bà Tư lắc đầu:
-Thôi con ơi, thằng Quốc đă nằm xuống nơi mảnh đất Tây Ninh này. Hăy để nó yên nghỉ ở quê hương với đồng đội của nó. Không mang tro cốt nó theo nhưng nó vẫn gần Cô trong những câu kinh tiếng kệ hàng ngày.
Rồi bà ngậm ngùi:
- Cô chỉ c̣n một nỗi ray rứt về số phận thằng Quang ở Hạ Lào. Không một dấu tích ǵ về chiếc máy bay trực thăng bị bắn rớt th́ làm sao biết được. Không chừng nó c̣n sống, không chừng ǵ đắp cho nó một nấm mộ.
2.
Sau một tai nạn xe hơi, chân bên trái bị bó bột làm Phượng đi lại khó khăn phải dùng cây nạng gỗ. Mỗi ngày có một cô "care giver" đến chăm sóc sức khỏe cho Phượng, giúp Phượng ăn uống, tắm rửa, dọn dẹp nhà cửa. Một cô khác đến làm vật lư trị liệu cho cái chân bên phải đă hồi phục dần. Căn nhà bây giờ vắng vẻ chỉ có hai mẹ con. Chị Phương đă dọn về Cali từ lâu. Bà mẹ Phượng mất đă năm năm. Ông Daniel mất năm ngoái. Thằng Sơn ly dị vợ, về ở với Phượng. Nó bận bịu suốt ngày trong bệnh viện. Năm ngoái, lễ Thankgivings hai mẹ con về thăm bà Tư. Năm nay, chân đau, không về được, Phượng nhắc con nhớ lấy phép nghỉ về Cali thăm bà nội vào dịp lễ Giáng sinh. Bà nội già yếu rồi. Bà sống không c̣n bao nhiêu năm nữa.
Từ ngày t́m được tông tích của người cha quá cố, thằng Sơn gắn bó với gia đ́nh bên nội. Vào những ngày nghỉ, Sơn gọi về thăm bà nội, hai bà cháu nói chuyện rất lâu, có khi cả tiếng đồng hồ. Nó nói tiếng Việt giỏi nhờ sống gần bà ngoại từ bé.
Phượng hồi tưởng lại bốn mươi năm trôi qua, ngày đó cả hai đều rất trẻ. Phượng hơn Quang hai tuổi, là y tá ở bệnh viện Đà nẵng, gặp Quang trong một buổi tiệc của sư đoàn hai không quân tổ chức tại câu lạc bộ trong phi trường. Trai tài gái sắc gặp nhau. Quang vừa đẹp trai lại tài hoa, biết chơi đàn guitar, hát rất hay những bản nhạc về lính của nhạc sĩ Nhật Trường. Hai đứa dự định sẽ làm một cái đám cưới đơn giản. Quang sẽ lấy thời gian nghỉ phép đưa Phượng vào Sài G̣n ra mắt gia đ́nh Quang. Thời gian đó Quang bận đi học khóa bắn súng và trở thành người xạ thủ gan ĺ và dũng mănh của không đoàn 41, phi đ̣an 213. Những cuộc hẹn ḥ ở bến sông Hàn, những cuộc đi chơi xa ở đồi Bà Nà, chùa Non Nước, bảo tàng Chàm ở Mỹ Sơn...đưa đến kết quả là Phượng có thai.
Phượng chưa kịp báo tin mừng cho Quang th́ một hôm, người bạn trong phi đoàn của Quang đến cho hay cuộc hành quân 719 Lam Sơn tại Hạ Lào ngày mười tháng hai năm một ngàn chín trăm bảy mốt, chiếc trực thăng U-H1 Huey bị bắn rơi. Tất cả những người có mặt trong chuyến bay gồm hai vị sĩ quan cấp tá, hai phi công, ba phóng viên Mỹ, một phóng viên Nhật, một phóng viên người Việt, hai nhân viên phi hành đoàn trong đó có trung sĩ thiện xạ Trần Vinh Quang, tất cả mười một người đều tử trận.
florida80
12-19-2019, 22:12
Tin đến như một cú sét đánh. Đất trời như nổ tung trước mắt Phượng. Phượng chỉ biết khóc và khóc. Phượng ôm cái bụng bầu ba tháng. Không có một tờ hôn thú. Không có một liên hệ hay tin tức ǵ liên quan với gia đ́nh Quang ở Sài g̣n. Quang chết thật bất ngờ. Quang chết ở lứa tuổi đôi mươi. Quang chết không để lại một dấu tích ǵ ngay cả một hạt bụi. Phượng chỉ c̣n giữ lại những kỷ niệm đẹp của một thời yêu nhau c̣n lưu lại trong kư ức và qua những bức h́nh hẹn ḥ xưa cũ.
Có lúc đau khổ và tuyệt vọng quá, Phượng nghĩ ḿnh không c̣n sức để giữ cái thai, "giọt máu rơi của người lính chết trẻ". Quang đi qua cuộc đời Phượng như một cơn gió thoảng. Có lúc Phượng muốn chết theo Quang nhưng nghĩ đến một sinh vật bé nhỏ đang lớn dần từng ngày trong bụng ḿnh, Phượng không có quyền từ chối trách nhiệm làm mẹ với nó. Có lúc Phượng muốn bỏ cái thai v́ dư luận xă hội, v́ tương lai của người mẹ trẻ nhưng đứa bé kia có tội t́nh ǵ. Nó là mật ngọt của hương vị t́nh yêu đă đơm hoa kết trái. Phượng phải sống để thay Quang bù đắp cho đứa trẻ mồ côi mất t́nh thương cha. Phượng phải sống, sống để nuôi con, v́ con.
Phương làm đơn xin nghỉ việc, ở nhà nghỉ ngơi, dưỡng thai chờ đến ngày sinh nở. Kinh tế gia đ́nh trông mong vào cửa hàng bán thực phẩm lấy từ các PX Mỹ của chị Phương. Chuyện sinh nở và chăm sóc bé đă có bà ngoại. Thằng Sơn ra đời trong sự thương yêu, đùm bọc của mẹ, bà ngoại và d́ Phương. Sơn khỏe mạnh, dễ nuôi, càng lớn nó càng giống Quang. Phượng đặt tên nó là Trần Mỹ Sơn, tên vùng đất lịch sử của người Chàm, một thắng cảnh du lịch ở Đà Nẵng, kỷ niệm một chuyến du lịch ba ngày phép với Quang và cũng là nơi thằng Sơn tượng h́nh trong bụng Phượng.
Thằng Sơn lẩm chẩm biết đi cũng là lúc Phượng phải gửi con cho bà ngoại để đi làm phụ với chị Phương nuôi thằng Sơn. Với vốn liếng sinh ngữ khá và nghề y tá trước đây, Phượng được người quen giới thiệu vào làm tại bệnh viện Hải Quân Mỹ chuyên chữa cho các thương binh Mỹ từ chiến trường chuyển về.
Những ngày đầu tiên chứng kiến những chiếc trực thăng đậu ở sân trước bệnh viện, những nhân viên tải thương vội vă chuyển những chiếc cáng phủ lá cờ Mỹ từ trên trực thăng xuống, những người lính Mỹ giơ tay chào vĩnh biệt, Phượng không cầm được nước mắt. Phượng khóc cho ai, Phượng hay cho những người vợ, những ông bố, bà mẹ ở bên kia bờ đại dương một ngày nào đó sẽ nhận những chiếc quan tài phủ lá cờ Mỹ?
C̣n Quang, người chồng chưa cưới của Phượng, có "hạt bụi nào..." hay chiếc "...ḥm gỗ cài hoa" nào cho anh?
Phượng quen dần với công việc của người y tá lúc nào cũng bận rộn và căng thẳng trong bệnh viện. Là một y tá giỏi, siêng năng, chịu khó học hỏi, Phượng có thêm những đức tính cần thiết đó là sự ân cần, kiên nhẫn và dịu dàng với bệnh nhân. Phượng được bác sĩ Daniel trưởng khoa mổ đặc biệt lưu ư và chấp thuận cho Phượng là y tá phụ trong ê kíp mổ của ông. Có những ca mổ kéo dài đến khuya hoặc những ca trực đêm, Phượng có dịp kể cho ông nghe về cuộc đời bất hạnh của ḿnh. Phượng biết thêm về đời tư của vị bác sĩ ít nói này. Ông lớn hơn Phượng mười hai tuổi, là bác sĩ giỏi trong ngành hải quân, vợ và đứa con gái chết v́ tai nạn xe hơi, ông t́nh nguyện sang Việt nam công tác. Sang năm ông sẽ về Mỹ v́ hết hợp đồng. Với chính sách "Việt nam hóa chiến tranh" và Hiệp Định Paris sắp kư kết, người Mỹ đang chuẩn bị rút dần về nước.
Vào một đêm trực chỉ có vài người y tá, Daniel cùng có mặt, Phượng đă suưt bật khóc v́ cảm động trước lời cầu hôn bất ngờ của Daniel. Vị bác sĩ này thố lộ đă để ư đến cô y tá người Việt nam xinh đẹp và hiền ḥa này trong những ca mổ. Ông t́nh cờ chứng kiến h́nh ảnh Phượng chăm sóc những người thương binh làm ông xúc động. Ông nói không phải chỉ là hoàn thành công việc mà thôi, Phượng đến với các bệnh nhân bằng tất cả trái tim của ḿnh. Cô chia sẻ nỗi đau đớn về thể xác và tinh thần của họ trong từng mũi kim nhẹ nhàng, từng viên thuốc khó uống, từng lời nói an ủi dịu dàng, từng cử chỉ vỗ về, dỗ dành. Những người thương binh Mỹ trong bệnh viện Hải Quân này đều quư mến cô y tá người Việt có cái tên Mỹ Sophie dễ thương này. Họ chưa hiểu hết cảnh đời của Phượng. Chồng Phượng cũng là lính. Cô thương những người lính như thương Quang, thương bản thân và thương cuộc đời bất hạnh của ḿnh.
Phượng chấp nhận lời cầu hôn của Daniel với một điều kiện Daniel bảo lănh bà mẹ, chị Phương và bé Sơn cùng sang Mỹ. Căn nhà lớn năm pḥng ở đường North Smith, Minnesota là tổ ấm của gia đ́nh Phượng. Chị Phương vừa đi học vừa đi làm một thời gian, sau đó chị dọn về Cali mở một tiệm ăn với người yêu cũ. Phượng đi học lại. Bà mẹ ở nhà nội trợ trông nom nhà cửa, chăm sóc Sơn. Daniel làm việc ở United Hospital gần nhà. Bé Sơn càng lớn càng quấn quít Daniel. Suốt ngày Sơn đeo theo ông bố dượng vui tính. Daniel rất thương thằng con nuôi học giỏi và lễ phép. Theo gương học tập và chỉ dạy của ông bố dượng, Sơn học ngành y, sau này trở thành bác sĩ Shawn Tran chuyên khoa mổ tim ở St John s Hospital. Bốn mươi năm trôi qua, cái chết thảm khốc của Quang và niềm đau nỗi khổ của Phượng dần dần phôi pha theo thời gian nhờ vào t́nh yêu, sự bao dung và ḷng tử tế của người chồng Mỹ tốt bụng đă cưu mang gia đ́nh Phượng, mang đến cho Phượng một cuộc sống mới, êm đềm và hạnh phúc.
Một ngày, Phượng nhận được cú phone bất ngờ của chị Phương. Bên kia đầu dây, giọng chị lanh lảnh:
florida80
12-19-2019, 22:13
Phượng ơi, tao nói chuyện này mầy b́nh tĩnh nghe đừng có xỉu nghen. Tao vừa đọc báo. Có người viết về cái chết của thằng Quang chồng mày hồi xửa hồi xưa. Có tấm h́nh thằng Quang chụp hồi c̣n trẻ. Mày tin không, má thằng Quang c̣n sống. Gia đ́nh thằng Quang qua Mỹ ở khu Việt nam gần tiệm của tao. Bài báo kể người ta đào được xác chiếc máy bay rớt và hốt cốt mang về để ở viện bảo tàng nào đó trên Washington D. C.Chuyện dài ḍng lắm. Tao ra bưu điện gửi cho mầy bài báo này liền. Overnight mai mầy nhận được. B́nh tĩnh nghen mậy. Chuyện đâu c̣n đó. Khoan nói cho thằng Sơn biết. Mầy đọc báo xong rồi ḿnh tính.
Suốt đêm qua Phượng mất ngủ, mong cho trời mau sáng để nhận thư tốc hành của bưu điện. Người đưa thư trao b́ thư h́nh con én màu xanh và yêu cầu Phượng kư tên. Tay Phượng run run khi cầm cây viết. Cầm tờ báo trong tay, Phượng lật tới, lật lui, t́m măi mới thấy cột báo. Tấm h́nh Quang hồi hai mươi tuổi, nét mặt đẹp trai, nghiêm nghị, ánh mắt buồn xa xôi, oai vệ trong bộ treillis, túi áo trái có in tên "Quang" màu trắng. Bài báo viết chi tiết về chuyến bay bị bắn rơi ở Hạ Lào, về bà mẹ chồng Phượng chưa hề gặp mặt và một chi tiết quan trọng là viện bảo tàng Newseum ở Washington D. C hiện nay đang lưu trữ hài cốt của những người tử nạn.
Phượng nói với Shawn Phượng về Cali thăm d́ Phương. Hai chị em đến ṭa soạn gặp người phóng viên và xin địa chỉ nhà má Quang. Cuộc gặp gỡ đầu tiên, cả nhà bà Tư nh́n Phượng với cặp mắt ṭ ṃ, xa lạ và nghi ngờ. Bà Tư, vợ chồng Quyền và Quyên không tin có chuyện một người phụ nữ, hơn bốn mươi năm đến gia đ́nh bà tự nhận là vợ của Quang. Họ không tin Quang có một đứa con trai ngoài bốn mươi tuổi. Họ không tin bốn mươi năm trôi qua trên đất nước Mỹ này lại có cuộc gặp gỡ ly kỳ ngoài sự tưởng tượng của mọi người. Khi Phượng đem tất cả h́nh ảnh của Quang và Phượng chụp hồi c̣n trẻ ở Đà nẵng, h́nh thằng Sơn hồi c̣n nhỏ cho đến khi tốt nghiệp ra trường đậu bằng bác sĩ, nhất là tấm h́nh Quyền cung cấp cho người phóng viên đăng trên báo so với tấm h́nh ố vàng Phượng cầm trong tay là một, bà Tư bật khóc nức nở như một đứa trẻ. Xúc động, mừng vui, hạnh phúc dâng trào trong ḷng bà mẹ già vào cuối đời. Từ đó, Phượng thường xuyên gọi điện thoại về Cali thăm bà. Tháng sau, Phượng dẫn Shawn về giới thiệu thằng cháu đích tôn của ḍng họ Trần. Năm ngoái hai mẹ con về Cali. Năm nay, thằng Shawn về một ḿnh thăm bà nội
3.
Sau đây là lời kể chuyện của nhân vật chính Trần Mỹ Sơn.
Tôi tên là Shawn Tran. Daddy đặt tên "Shawn" có nghĩa là "God is gracious ". Daddy nói tôi là ân sủng của Chúa mang đến cho Daddy. "Shawn" nghe giống như tên "Sơn", Trần Mỹ Sơn. Ngoại nói "Mỹ" có nghĩa là đẹp, "Sơn"có nghĩa là ngọn núi. Tên tôi là một ngọn núi đẹp. Mẹ nói Daddy chỉ là cha nuôi, cha ruột của tôi mất từ khi tôi c̣n trong bụng mẹ. Daddy đưa mẹ, bà ngoại, d́ Phương và tôi qua Mỹ. Họ nuôi tôi khôn lớn. Tôi theo học nghề bác sĩ mổ tim của Daddy. Cả nhà ai cũng muốn tôi học nghề này để sau này chữa tim cho mọi người.
Sau chuyến đi Cali thăm d́ Phương, mẹ kể rằng mẹ đă gặp gia đ́nh bà nội ở Cali qua một tờ báo Việt ngữ. Trong chương tŕnh POW (prisoners of war) và MIA (missing in action) t́m hài cốt của những người Mỹ mất tích thời chiến tranh Việt nam, họ đă t́m được những dấu tích về cái chết của ba tôi. Hiện nay, chúng được lưu giữ ở Viện Bảo Tàng Newseum ở Washington D.C. Mẹ đọc bài báo cho tôi nghe. Dù mẹ chưa nói, qua ánh mắt của mẹ, tôi hiểu rằng tôi phải đi một chuyến về Cali với mẹ, đến thăm bà nội, người đàn bà đă khóc nhiều về cái chết của ba tôi.
Từ Cali về, tôi t́m đọc những tài liệu về POW, MIA, những bài viết của các kư giả trong chuyến đào bới t́m dấu tích của chiếc trực thăng lâm nạn, về chiến tranh, cuộc hành quân Lam sơn nhất là về buổi lễ tưởng niệm và vinh danh những người bị mất tích tổ chức ngày mười tháng tám năm hai ngàn mười ở viện Bảo Tàng Newseum.
Bài viết của kư giả Richard Pyle viết về buổi lễ và những người tham dự. Họ là ai? Là những người mẹ, những người vợ, những đứa con đến từ Việt nam, Canada xa xôi, tay cầm những tấm "plaque", đầm đ́a những giọt nước mắt khi ban tổ chức nhắc đến tên tuổi và vinh danh những người thân của họ đă hy sinh. Xạ thủ Trần Vinh Quang không được nhắc đến. Gia đ́nh bà nội, mẹ tôi và tôi không được mời đến. Ban tổ chức buổi tưởng niệm này đâu biết rằng sau bốn mươi năm, gia đ́nh trung sĩ xạ thủ Trần Vinh Quang đang sống ở nước Mỹ? Và tôi, đứa con rơi của xạ thủ Trần Vinh Quang là một công dân Mỹ, t́m được tông tích của bà nội và ba tôi năm ngoái trong một bài báo Việt ngữ ở cộng đồng người Việt ?
Sau khi thăm bà nội ở Cali, tôi đă đến thăm Viện Bảo Tàng Newseum ở Washington D. C. Trong chuyến bay bị bắn rơi ở Hạ Lào, có ba người kư giả Mỹ và một người Nhật. Tôi đă đọc thấy tên tuổi và h́nh ảnh họ được gắn trên bức tường kính gọi là "Journalists Memorial Wall 1971 Vietnam War". Viện bảo tàng này là nơi lưu giữ những chứng tích và vinh danh những kư giả Mỹ và những kư giả quốc tế đă hy sinh trong khi thi hành nhiệm vụ. Điều ǵ đă khiến họ lao vào cái nghề nguy hiểm này? Sự đam mê nghề nghiệp, sự khao khát muốn ghi nhận những tin tức mới, nóng hổi nhất, trung thực nhất. Họ muốn những có "big shot" là những tấm h́nh ư nghĩa, độc đáo, đầy ấn tượng về sự tàn khốc của chiến tranh gửi đến những người ở sau mặt trận. Viện bảo tàng Newseum đă làm công việc đầy tính nhân đạo khi vinh danh những người chiến sĩ không mang súng gan dạ và thầm lặng này.
Nhắc đến bà nội, tôi mê những câu chuyện bà kể về ba tôi. Bà có tài kể chuyện sống động, chi tiết và hấp dẫn. Tôi không ngờ bà nhớ nhiều kỷ niệm về ba tôi đến thế. H́nh như trong ba người con trai, ba tôi là đứa con cứng đầu và làm cho bà khóc nhiều nhất nhưng cũng là đứa con bà thương nhất. Ba t́nh nguyện chuyển ngành an ninh sang học bắn súng để ra tác chiến ngoài mặt trận đối với bà là một sự chọn lựa kinh khủng và ngu xuẩn làm bà đau ḷng. Bà không muốn mất con
florida80
12-19-2019, 22:13
Điều ǵ khiến ba tôi chọn lựa giữa công việc an ninh nhàn nhă ở hậu phương với đời lính gian khổ đầy hiểm nguy ngoài mặt trận? Lư tưởng? Tổ quốc ? Hay cả hai? Lần đầu tiên đi với mẹ về Cali gặp bà nội, bà đă cho tôi nguồn cảm hứng muốn t́m hiểu về ba,về cái chết của ba, về cuộc chiến tranh trên quê hương mà bấy lâu nay tôi hững hờ, quên lăng. Tôi lớn lên ở xứ Mỹ. Tôi không có quá khứ. Tương lai của tôi là những dự tính và ước mơ.
Tôi sinh ra tại Đà nẵng, vùng đất của quê ngoại, trên bản đồ quân sự thuộc vùng một chiến thuật. Cuộc chiến bắt đầu từ năm một chín năm mươi lăm đến một chín bảy lăm. Năm một chín bảy mốt là năm ba tôi mất, lúc đó tôi c̣n trong bụng mẹ được ba tháng tuổi. Thật là trễ tràng làm sao! Hơn bốn mươi năm trôi qua, bây giờ tôi mới có dịp t́m hiểu về chiến tranh ở đất nước tôi và biết đây là cuộc chiến tranh ư thức hệ giữa hai thế lực, hai chủ nghĩa tư bản và cộng sản kéo dài hai mươi năm. Ở miền nam, Mỹ và phe Đồng Minh ủng hộ chế độ Việt Nam Cộng Ḥa. Bên kia ḍng sông Bến Hải, Liện Xô và Trung quốc ủng hộ hai phe, tuy hai mà là một: Cộng sản Bắc Việt và tổ chức Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Trải qua nhiều giai đoạn, cuộc chiến tranh này có những cái tên như là "chiến tranh đặc biệt" (1960-1965) "chiến tranh cục bộ" (1965-1968) "Việt nam hóa chiến tranh" (1969-1972). Ngày ba mươi tháng tư năm một chín bảy lăm là ngày cuộc chiến tranh chấm dứt. Toàn bộ miền Nam rơi vào tay Cộng sản.
"Việt nam hóa chiến tranh" có thể hiểu đây là cuộc chiến của người Việt nam. Có người nói người Mỹ đă bỏ rơi miền Nam và đồng minh. Họ rút lui, không chủ động tham gia cuộc chiến bằng nhân sự. Họ chỉ viện trợ vũ khí. Quân đội Việt Nam Cộng Ḥa phải tự lực chiến đấu. Theo lời mẹ kể, với lư tưởng chiến đấu quyết bảo vệ miền Nam và ḷng yêu nước chân thành, ba tôi t́nh nguyện lao vào cuộc chiến đầy hiểm nguy này và biết rằng sự ra đi không hẹn ngày về.
Vào thời điểm đó, Cộng sản miền Bắc và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam chuyển mục tiêu sang chiến trường Lào và Cam puchia, xây dựng căn cứ địa làm bàn đạp tấn công miền Nam. Cuộc hành quân Lam Sơn 719 bắt đầu vào ngày tám tháng hai năm một chín bảy mốt. Hai ngày sau, chiếc máy bay trực thăng H- U1 Huey không phải là trực thăng chiến đấu hay trực thăng vơ trang có bọc thép tốt và chống đạn xe tăng. Đây chỉ là loại trực thăng vận tải vỏ thép mỏng, vơ trang yếu, chở các phóng viên và các cấp chỉ huy đi thị sát chiến trường. Trong chuyến bay có mười một người, ba tôi là tay súng giỏi nhưng bất ngờ lọt vào mạng lưới pḥng không mạnh và dầy đặc của địch, lại thêm sương mù, chiếc trực thăng trúng đạn và bốc cháy.
Năm 1992, những người trong chương tŕnh POW và MIA có nhiệm vụ t́m kiếm những người Mỹ mất tích đă đến Hạ Lào nơi chiếc trực thăng rớt. Năm 1994, họ tiếp tục công việc đào bới. Cùng với một số tin tức được cung cấp từ những bạn đồng đội trong không đoàn 41, phi đoàn 213 c̣n sống ở Mỹ, họ đă định vị đúng tọa độ và đă t́m được những mảnh kính của máy chụp h́nh, đồng hồ và những mảnh thép vỡ của máy bay. Họ đă sàng lọc những khúc xương cốt lẫn lộn với đất đá và đem về lưu trữ tại Viện Bảo Tàng. Xương cốt này không phải của một ai mà là của mười một người hy sinh trong đó có ba tôi. Nó không thuộc về cá nhân hay gia đ́nh nào, nó thuộc về lịch sử của nước Mỹ.
Món quà tôi mang về cho bà nội lần này là những h́nh ảnh của Viện Bảo Tàng Newseum. Tôi sẽ nói với bà nội ba tôi đă được an nghỉ ở một ngôi nhà gần nhà của Tổng Thống Mỹ. Ngôi nhà ấy vĩ đại, có mười tầng lầu, mười lăm rạp chiếu bóng, mười bốn hành lang và hàng ngày có hàng chục ngàn người đến đây thăm viếng. Bà nội hăy yên ḷng. Con trai cứng đầu của bà được an nghỉ ở một trong những nơi danh dự nhất của nước Mỹ. C̣n một điều nữa, bà nội hăy tin rằng với tất cả chứng cứ về liên hệ huyết thống và h́nh ảnh, với sự công bằng và trung thực, tôi sẽ làm đủ mọi cách để Viện Bảo Tàng Newseum cần phải có một buổi lễ tưởng niệm cho ba tôi. Người cuối cùng phải là người đặc biệt. "The last but not the least". Bà nội hăy giữ sức khỏe để một ngày không xa, gia đ́nh bà nội, mẹ và tôi sẽ đếnViện Bảo Tàng Newseum tham dự buổi lễ vinh danh trung sĩ Trần Vinh Quang. Nỗi đau khổ của bà nội và mẹ sau bốn mươi năm phải được đền bù xứng đáng trong lịch sử nước Mỹ.
Tôi sẽ nói với cậu Quyền lần này tôi muốn cậu dẫn tôi đến thăm một địa danh lịch sử ở khu Little Saigon nơi có cộng đồng người Việt sinh sống đó là tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ "Vietnam War Memorial" ở Westminster. Hai người lính Mỹ, Việt cầm súng đứng bên nhau bên cạnh hai lá cờ Việt, Mỹ vẫn là h́nh ảnh đẹp, oai hùng và ư nghĩa. Trong tâm tôi sẽ không dấy lên chút t́nh cảm căm hận nào.Trái lại, đầy sự ngưỡng mộ và biết ơn. Người lính Việt Nam Cộng Ḥa đó cũng chính là h́nh ảnh của ba tôi ngày xưa. Ba tôi chiến đấu v́ lá cờ vàng cũng như những người lính Mỹ đă chiến đấu v́ nền độc lập, tự do của nước Mỹ và cho nhân loại trong khối tự do.
Năm nay tôi đă bốn mươi ba tuổi. Đă hơn nửa đời người. Không quá muộn màng cho tôi khi tôi t́m về với cội nguồn của gia đ́nh, quê hương và dân tộc mà trước đây tôi như một người xa lạ. Tôi muốn cám ơn bà nội, cậu mợ Quyền, d́ Quyên những thân tộc đă nối lại sợi dây huyết thống thiêng liêng của ḍng họ Trần. Tôi cảm nhận được t́nh thương quá bao la và đặc biệt bà dành cho ba tôi và đứa cháu nội này. Một ngày nào đó bà sẽ từ giă cơi đời. Tôi biết chắc một điều bà sẽ ra đi thanh thản, b́nh yên v́ theo lời di chúc của bà, tôi sẽ thay ba tôi ôm chiếc h́nh của bà trong ngày tang lễ.
Tôi muốn cám ơn bà ngoại, mẹ tôi và d́ Phương đă chăm sóc, nuôi nấng, dạy dỗ tôi từ tấm bé cho đến khi tôi trưởng thành. Những chai sữa ngọt đầu đời là những ngày d́ Phương dăi dầu mưa nắng ngoài chợ trời đem về cho tôi.Tôi nói và đọc được tiếng Việt là nhờ những buổi hai bà cháu cùng ngồi rù ŕ học với nhau ngoài vườn và từ những câu chuyện cổ tích tôi nghe hoài không chán. Và mẹ tôi, người mẹ tuyệt vời, tôi không có lời lẽ nào hơn để ca ngợi bà. Bà đă mạnh mẽ đứng lên vượt lên trên nổi khổ đau giữ lại cho tôi h́nh hài này.
florida80
12-19-2019, 22:14
Từ trong đáy ḷng, tôi chân thành cám ơn Daddy Daniel, cha nuôi người Mỹ của tôi. Ông là cây cổ thụ cho gia đ́nh tôi nương dựa bốn mươi năm qua. Danh vọng, địa vị, tiền bạc, hạnh phúc, t́nh thương tôi có được ngày hôm nay phát xuất từ tấm ḷng nhân hậu và bao dung của ông.
Cuối cùng là những lời xin lỗi muộn màng của tôi với Ba.
Hơn bốn mươi năm qua, trong tâm tưởng, tôi đă quên tôi c̣n một người cha.Tôi không giữ chút kỷ niệm ǵ trong kư ức về ông v́ ông đă ra đi trước khi tôi cất tiếng khóc chào đời.Thật là kỳ diệu khi gặp lại bà nội. Bà là chiếc cầu nối vững vàng, là bàn tay nắm dịu dàng và ấm áp dẫn tôi đến với Ba, là chất keo dính ngọt ngào làm cho h́nh ảnh Ba như sống dậy trong ḷng tôi.Giờ đây, nhắm mắt lại, tôi có thể h́nh dung h́nh ảnh ông hiện ra rơ ràng, thân thiết, gần gũi và đầy t́nh yêu thương.
Tôi rất hănh diện về Ba tôi, người lính Việt Nam Cộng Ḥa, anh dũng, kiêu hùng đă hy sinh trong cuộc chiến tranh bảo vệ miền Nam. Lịch sử Việt Nam măi măi ghi nhớ công ơn ông và những người đồng đội. Ông măi măi là h́nh ảnh đẹp nhất trong ḷng tôi, giọt máu rơi của ông, người lính chết trẻ.
Phùng Annie Kim
at 3:27 PM
florida80
12-19-2019, 22:15
10 Kẻ Thù Của Bộ Năo
Năo là một trong những bộ phận lớn nhất cơ thể và là trung tâm điều khiển mọi hoạt động, chức năng cơ thể, tuy nhiên cũng là một trong những bộ phận dễ tổn thương nhất. Cùng tham khảo 10 loại hành vi có hại cho bộ năo.
• Ăn nhiều đường: Đường có trong hầu hết thức ăn chúng ta ăn mỗi ngày. Ăn quá nhiều đường trong thời gian dài khiến cơ thể giảm khả năng hấp thụ dinh dưỡng và đạm, khiến cơ thể thiếu dinh dưỡng, ảnh hưởng đến phát triển năo.
• Ô nhiễm không khí: Năo cần nhiều ôxy để hoạt động. Thường xuyên phải hít thở không khí ô nhiễm đồng nghĩa lượng ôxy cung cấp cho cơ thể và năo sẽ giảm.
• Ăn quá nhiều không chỉ khiến tăng cân mà c̣n gây áp lực lên các động mạch năo, giảm năng lực thần kinh.
• Nói quá ít: Năo cũng giống cơ bắp, tập luyện sẽ giúp phát triển. Thường xuyên giao tiếp và tham gia các cuộc đối thoại vận dụng trí óc là các bài tập cho năo bộ.
• Thiếu ngủ: Ngủ ít hơn sáu tiếng mỗi ngày là một cảnh báo với bộ năo. Thiếu ngủ thường xuyên khiến các tế bào năo chết, dẫn tới giảm ư thức, có vấn đề về thở và tầm nh́n.
• Lười suy nghĩ sẽ khiến khả năng của năo giảm đi. Hăy giữ năo luôn năng động bằng các h́nh thức như giải ô chữ, sắp chữ...
• Không ăn sáng làm giảm đường huyết, năo không được cung cấp đủ dinh dưỡng. Nếu không ăn sáng trở thành thói quen, năo sẽ bị lăo hóa nhanh chóng.
• Hút thuốc làm co rút các dây thần kinh năo. Hút thuốc cũng là thủ phạm của các bệnh như Alzheimer và Dementia.
• Ngủ trùm đầu khiến cơ thể không hít thở đủ ôxy, nguyên liệu cần thiết cho năo hoạt động.
• Điện thoại cầm tay nói riêng và các thiết bị điện tử nói chung đều tỏa ra bức xạ. Một nghiên cứu của Thụy Điển cho thấy bức xạ từ điện thoại di động gây đau đầu. Nhiều nghiên cứu c̣n gắn dùng điện thoại di động với ung thư, cả ung thư năo.
Nguồn: Plo.vn
florida80
12-19-2019, 22:15
Ông Đéo Thích Nữa !" (Thành Thật Xin Lỗi Nếu Làm Bẩn Tai Các Bạn)
Cách đây 6, 7 năm (2006) tôi đă TỪ BỎ quốc tịch Việt Nam (dĩ nhiên là Việt Nam cộng sản chứ không phải Việt Nam Cộng Hoà) T́m măi mới biết ĐƠN XIN THÔI QUỐC TỊCH VIÊT NAM ở Vietnam consulate (lúc đó ở San Francisco, Los Angeles, Washington DC nhưng bây giờ muốn có đơn này th́ phải vào website của Bộ Nội Vụ)
Tôi gọi điện thoại vào VN consulate in SF nhiều lần nhưng không ai trả lời. Lần sau cùng, bực quá nên nhắn vào máy :
-"Các anh là những thằng vừa hèn vừa vô trách nhiệm".
th́ mấy tiếng sau một cô nhân viên hồi đáp:
-"Xin lỗi v́ máy fax cuả chúng tôi bị hỏng từ ... mấy tháng nay !!!"
sau đó cô fax mẫu đơn cho tôi Đại khái đơn "Kính gửi Chủ Tịch nước CHXHCNVN" chi tiết không khác ǵ mấy so với bản tự khai lư lịch ba đời trong trại cải tạo "Họ và tên, bí danh, ngày tháng năm sinh, nơi sinh, tên cha, tên mẹ, năm ra khỏi VN v...v" Nhưng điều khoản làm mất th́ giờ nhất là:
LƯ DO XIN THÔI QUỐC TỊCH VN. Lần thứ nhất tôi ghi:
"V́ không thấy cần thiết nữa".
Đơn đă bị bác với lư do:
"Câu trả lời không rơ ràng"
Lần thứ hai:
"Tôi và cả gia đ́nh đều mang quốc tịch Mỹ, nên không muốn mang quốc tịch cuả một nước cộng sản, có thể ảnh hưởng tới tương lai con cháu"
Câu trả lời :
"Không chấp nhận v́ lư do mang tính thách thức"
Các bạn cũng nên biết là mỗi lần nộp đơn như vậy, phải trả 40 dollars tiền thị thực chữ kư cho Lănh Sự Quán và tốn rất nhiều th́ giờ thư từ qua lại.
Kiên nhẫn nộp đơn lần thứ ba sau khi tốn 120 dollars, và lần này, ở khoản "Lư do xin thôi quốc tịch VN" gửi chủ tịch nước CHXHCNVN, tôi đă ghi rất rơ ràng:
"ÔNG ĐÉO THÍCH NỮA" (thành thật xin lỗi nếu làm ... bẩn tai các bạn) Thật may mắn, lư do này lại được "chấp thuận" và chủ tịch nước đă kư tên , đóng dấu đàng hoàng giấy chứng nhận tôi không c̣n quốc tịch Việt Nam. Thật đúng tác phong cuả việt cộng, "nhẹ không ưa chỉ ưa nặng" nên đă biến tôi thành một người lỗ măng nhất thế giới khi viết thư cho chủ tịch một nước !!!
Năm 2010 tôi về Việt Nam, vừa đưa passport th́ anh chàng công an nói ngay:
-"Này, tuy anh không c̣n quốc tịch việt nam, nhưng nếu có việc ǵ, chúng tôi sẽ xử anh như một người việt nam đấy nhé"
Sưu tầm
florida80
12-19-2019, 22:16
Sống T́nh Liên Đới - Bài 2 - Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Có một lần dạy giáo lư tôi hỏi các em: Thông thường khi phạm tội điều đầu tiên ḿnh phải làm ǵ?
Một em trả lời: Thưa cha, bỏ chạy ạ!
Nghe cũng lạ những mà sao cũng đúng thế! V́ phản ứng đầu tiên của người thấy ḿnh sai là bỏ chạy, chạy không được th́ đổ tội, đổ tội không được mới nhận tội. Quy luật vẫn là thế.
Có vị linh mục kia thấy một em bé đang kiễng chân lên để nhấn chuông một căn hộ, mà em th́ thấp, lên kiễng măi cũng chẳng với tới. Vị linh mục đó đă đến bế em đó lên để em nhấn chuông. Nhấn xong. Đặt em bé xuống đất, linh mục hỏi: Con c̣n muốn ta giúp ǵ nữa không? Nó liền nói: bỏ chạy! Thế là nó ba chân bốn cẳng bỏ chạy. Hóa ra nó đang nhấn chuông để phá nhà hàng xóm . . . Hú hồn cho vị linh mục.
Con người thường có khuynh hướng chối tội, hay đổ lỗi cho người khác. Đành rằng ai cũng nói “dám làm dám chịu”, thế nhưng, “đào vi thượng sách” vẫn là kế hay. Và nếu không chạy được th́ đổ tội cho người khác, hay hoàn cảnh mà ra.
Từ nguyên thủy Adam- Eva cũng có thái độ ấy. Khi phạm tội họ nghe tiếng chân Chúa nên cũng bỏ chạy. Chạy không được th́ Adam đổ tội cho Eva “Tại người đàn bà này mà tôi ăn trái cấm”. Eva đổ tội cho con rắn . . . .
Nhưng có một Đấng đă không hề phạm tội lại nhận hết tội lỗi về ḿnh. Ngài tự nguyện gánh lấy tội trần gian. Ngài là con chiên vẹn tuyền chịu hiến tế để đền tội cho con người. Vâng, Đức Giê-su thành Nagiaret là Thiên Chúa, là Đấng thánh thiện vô cùng đă mặc lấy thân xác con người. Ngài đă trở nên giống con người mọi sự ngoại trừ tội lỗi. Ngài tự nhận ḿnh là tội nhân khi ḥa ḿnh vào ḍng người tới nhận phép rửa của Gioan. Hành vi này như muốn dạy con người chúng ta hăy biết liên đới trách nhiệm với tha nhân. Liên đới để giúp nhau thăng tiến. Liên đới để sống cảm thông chia sẻ với nhau. T́nh liên đới sẽ giúp con người chung sống ḥa b́nh với nhau và cùng nhau xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.
Người ta thường kể về thị trưởng đầu tiên của thành phố New York với giai thoại như sau: một ngày mùa đông lạnh buốt nọ, ông thị trưởng phải chủ tọa các phiên ṭa. Người ta điệu đến trước mặt ông một ông lăo quần áo tả tơi. Người đàn ông này bị tố cáo là đă ăn cắp một mẩu bánh ḿ. Lời tự biện hộ duy nhất mà người đàn ông khốn khổ đưa ra là: "Gia đ́nh tôi đang chết đói".
Nghe xong lời cáo buộc của cử tọa cũng như lời biện bạch của ông lăo, viên thị trưởng đưa ra phán quyết như sau: "Luật pháp không tha thứ cho bất cứ một hành động xấu nào. Tôi thấy cần phải trừng phạt ông, và h́nh phạt cho tội ăn cắp là ông phải đóng 10 đô la". Vừa công bố bản án, ông thị trưởng rút trong túi của ḿnh ra 10 đô la và trao cho ngẉi đàn ông khốn khổ. Quay xuống cử tọa ông nói tiếp: "Ông lăo đă bồi thường v́ tội ăn cắp của ông. C̣n phần quư vị, tôi yêu cầu mỗi người phải đóng 50 xu tiền phạt v́ sống dửng dưng đến độ để cho trong thành phố của chúng ta c̣n có một người nghèo phải đi ăn cắp". Nói xong, ông ra lệnh cho viên biện lư đi thu tiền và trao tất cả cho ông lăo.
Khi chiếc mũ đă được truyền một ṿng ṭa án và trở về tay ḿnh, ông lăo đếm được tất cả 47 đô la 50 xu.
Nếu cuộc đời con người biết sống có tỉnh liên đới th́ cuộc đời đẹp biết bao! Người ta sẽ “lá lành đùm lá rách”, “chị ngă em nâng”. . .
Nếu cuộc đời ai cũng có trách nhiệm liên đới với người nghèo, người bệnh tật, người bất hạnh th́ cuộc đời hạnh phúc biết bao! Người ta sẽ không có thái độ dửng dưng với nhau nhưng biết chia sẻ giúp đỡ lẫn nhau, và chắc chắn sẽ không có những phận người cô đơn buồn tủi.
florida80
12-19-2019, 22:16
Nếu cuộc đời ai cũng cảm thấy có trách nhiệm với cả những lỗi lầm của người khác th́ xă hội sẽ thăng tiến biết bao. V́ ai cũng nỗ lực sống chu toàn bổn phận của ḿnh, sống gương mẫu và chắc chắn sẽ không làm ǵ để gây gương mù gương xấu cho tha nhân.
Ước ǵ cuộc đời chúng ta cũng được hiến tế cho anh em. Một cuộc hiến tế không bằng máu mà bằng hy sinh từ bỏ thói hư tật xấu, hy sinh hăm dẹp tính xác thịt, hy sinh đễ sống làm gương sáng cho tha nhân. Ước ǵ t́nh liên đới của con người luôn là mối dây hiệp nhất yêu thương để t́nh người măi gắn kết và cùng nhau xây dựng một xă hội ngày một tốt đẹp hơn. Amen
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
florida80
12-20-2019, 20:36
7 món đồ bạn cần vứt ngay để việc dọn dẹp nhà cửa chẳng c̣n khó khăn
Thời điểm sắp chuyển giao từ năm cũ sang năm mới chính là lúc thích hợp để bạn dọn dẹp nhà cửa, bỏ đi những thứ không cần thiết để đón chờ những điều may mắn sắp đến. Nếu cảm thấy món đồ nào cũng cần giữ lại, bạn chắc chắn không nên bỏ qua bài viết
1. Giấy tờ, hóa đơn
Hầu hết chúng ta đều có thói quen giữ lại các loại giấy tờ như: Hóa đơn, tờ hướng dẫn sử dụng và bảo hành, tờ rơi quảng cáo, tập sách, bưu thiếp… pḥng khi “ngày nào đó ḿnh sẽ cần đến chúng”. Nếu bạn thuộc tuưp người này, giờ là lúc bạn cần dành thời gian để rà soát lại xem liệu bạn có c̣n cần chúng không.
Hăy tạo thói quen định kỳ dọn dẹp lại đống giấy tờ của bạn và chỉ giữ lại những thứ thật sự hữu ích trong một ngăn kéo bàn. Tương tự, bạn có thể tập kiểm tra túi và ví mỗi tối để bỏ đi các biên lai, danh sách mua sắm và tờ rơi vô dụng.
2. Sản phẩm đă hết hạn
Việc sử dụng đồ quá hạn cơ bản không hề tốt cho sức khỏe của bạn nên sao phải chần chờ khi bạn có cơ hội xem xét lại từng vật dụng của ḿnh. Hăy ưu tiên kiểm tra hạn của:
•Thuốc
•Gia vị
•Các loại hạt và ngũ cốc
•Mỹ phẩm
Tạo thói quen định kỳ kiểm tra tủ lạnh và tủ chén của bạn ít nhất 1 lần/tháng.
3. Những thứ đă hỏng
Khi máy pha cà phê bị lỗi, đôi giày bị hở keo, thiết bị nào đó hỏng… chúng ta thường kỳ kèo “Ngày mai ḿnh sẽ mang đi sửa” nhưng cuối cùng món đồ vẫn nằm ở đó. Nếu đây là t́nh trạng thường xuyên của bạn, bạn có thể đặt cho ḿnh thời hạn để sửa chữa ví dụ như trong 1 tháng. Sau thời gian đó, nếu món đồ vẫn chưa được sửa th́ có vẻ bạn không c̣n cần đến chúng nữa.
4. Những món quà không mong muốn
Đôi khi mọi người có thể tặng bạn những món bạn không thích. Cách tốt nhất là bạn nên trao đổi với họ về món quà bạn muốn được nhận hoặc công khai danh sách những món bạn yêu thích để mọi người có thể tặng bạn đúng món.
5. Những món được để dành cho một “dịp đặc biệt”
Tâm lư “để dành cho dịp đặc biệt” chẳng những khiến tủ đồ của bạn thêm chật mà c̣n tước đi sự tỏa sáng của món đồ ấy. V́ vậy, hăy chỉ mua các mặt hàng bạn có thể dùng ngay hoặc dùng được trong nhiều dịp, từ thường nhật đến dịp đặc biệt.
florida80
12-20-2019, 20:36
6. Những món có giá trị hoài niệm
Có một sự thật là việc giữ lại những kỷ vật khiến bạn ít trân trọng các kỷ niệm hơn hẳn. Có rất nhiều cách giúp bạn làm sống lại kỷ niệm, chẳng hạn, bạn có thể quay lại nơi chốn bạn từng đi qua, thưởng thức các đặc sản và ḥa ḿnh vào các lễ hội địa phương thay v́ giữ măi món quà lưu niệm. Những món bạn có thể cân nhắc bỏ đi gồm:
•Thư cũ
•Quà tặng từ người yêu cũ
•Đồ chơi thời thơ ấu
•Vé xem phim, buổi ḥa nhạc hoặc buổi triển lăm đă qua
•Quà lưu niệm
Đối với những thứ quá thân thuộc, hăy lưu trữ chúng trong một chiếc hộp đặc biệt. Nguyên tắc là bạn nên giữ tất cả đồ lưu niệm ở một nơi.
7. Những món có thể hữu dụng vào một ngày nào đó
Hăy nhớ là bạn có thể dễ dàng mua, sửa chữa hoặc thay thế hầu hết mọi thứ nên thực sự không đáng để trữ sẵn món nào đó và đợi đến dịp thích hợp mới dùng. Việc tiết kiệm này đôi khi chỉ khiến bạn bị choáng chỗ chứ không thực sự hiệu quả. Hăy dừng việc biến nhà của bạn thành một cửa hàng tạp hóa!
Bạn có thể làm ǵ với những món đồ bạn không dùng?
Không phải mọi món đồ bạn không cần đều đáng bị vứt vào sọt rác. Bạn hoàn toàn có thể:
•Quyên góp chúng cho các nhà t́nh thương, các tổ chức t́nh nguyện…
•Góp sách và tạp chí cũ cho thư viện công cộng.
•Tận dụng để sáng tạo nên những món đồ mới.
•Bán lại.
Lợi ích của việc dọn dẹp:
•Giải phóng không gian sống.
•Giúp những lần dọn dẹp sau nhẹ nhàng hơn.
•Bạn sẽ bớt bị hoài niệm về quá khứ và tập trung tốt cho tương lai hơn.
•Dễ dàng trong việc chuyển nhà hoặc có thêm không gian chứa những món đồ mới có ích hơn.
Hăy biến việc dọn dẹp nhà cửa trở thành niềm vui của bạn. Đây là một cách cực kỳ hiệu quả giúp bạn giải tỏa nguồn năng lượng tiêu cực và làm mới tâm trạng đấy!
Theo Sức khỏe gia đ́nh
florida80
12-20-2019, 20:37
Thảnh thơi đón Tết với bí quyết biến sàn gỗ cũ thành sáng bóng như mới sau 30 phút
Sàn gỗ tuy đẹp nhưng thường xuyên bị bám bụi bẩn và rất khó có thể vệ sinh. Để giải quyết vấn đề này, bạn nên tham khảo ngay một số bí quyết dưới đây để làm sạch sàn gỗ sáng bóng như mới chỉ với những nguyên liệu rẻ bèo.
Rượu
Rượu thường được dùng để uống hoặc làm gia vị trong nấu ăn, tuy nhiên rượu c̣n có thể làm chất tẩy rửa một cách hiệu quả. Lượng cồn có trong rượu sẽ giúp loại bỏ hoàn toàn các vết mực, bút bi, sơn móng tay… đặc biệt là các vết bẩn cứng đầu ở sàn gỗ.
Các bạn hăy lấy một chiếc khăn, sau đó thấm một ít rượu rồi lau lên vết bẩn trên sàn gỗ, để khoảng 10 giây rồi lau lại. Vết bẩn sẽ được đánh bay một cách dễ dàng.
Giấm
Bạn hăy ḥa giấm với nước theo tỷ lệ 1:10 để làm dung dịch lau sàn nhà. Chất axit có trong giấm sẽ tẩy bay các vết bẩn xuất hiện trên mặt sàn.
Quy tŕnh vệ sinh sàn gỗ với giấm:
– Bước 1: Đầu tiên là làm sạch bụi trên bề mặt sàn gỗ. Bạn có thể dùng khăn bông mềm để loại bỏ sạch bụi bám trên sàn gỗ hoặc máy hút bụi để làm công việc này.
– Bước 2: Bạn nên thử lau giấm một ít ra góc nhà để đảm bảo sàn gỗ phù hợp với loại nước lau sàn nhà này, việc này giúp bạn chắc chắn rằng việc lau nhà bằng dung dịch giấm không làm ảnh hưởng đến màu của sàn gỗ. Sau đó thấm dung dịch vào khăn bông rồi lau lên vết bẩn.
– Bước 3: Sau khi lau sạch bạn nên thấm lại bằng khăn khô để đảm bảo sàn gỗ không bị ngấm nước hay đọng nước.
Dầu gội trẻ em
Thanh thoi don Tet voi bi quyet bien san go cu thanh sang bong nhu moi sau 30 phut
Sử dụng dầu gội trẻ em để tẩy các vết bẩn trên sàn gỗ sẽ đảm bảo vừa sạch vừa không làm phai thêm màu tự nhiên của gỗ như khi dùng hóa chất tẩy rửa. V́ chúng có chứa chất Natri Lauryl Sunfat (SLS), đây hợp chất tẩy rửa khá dịu nhẹ, an toàn.
Bạn cho một ít dầu gội trẻ em vào cùng nước lau nhà là bạn đă có một hỗn hợp nước lau sàn nhà sạch bong, sáng bong lại tuyệt đối an toàn với các em bé.
Dầu thông
Đây là một trong những chất tẩy rửa mẹo hàng đầu dành cho sàn gỗ. Muốn cho những vật dụng bằng gỗ nhỏ của bạn được bóng loáng như mới, bạn hăy lấy bông g̣n thấm dầu thông lau lên thật đều lên bề mặt sàn. Sau đó, bạn đợi cho lớp dầu này khô th́ đánh bóng lại bằng nỉ sạch. Cách này c̣n giúp duy tŕ độ bền màu của các vân gỗ
florida80
12-20-2019, 20:38
Ammoniac
Thanh thoi don Tet voi bi quyet bien san go cu thanh sang bong nhu moi sau 30 phut
Kẻ thù của các vết ố chính là ammoniac. Hỗn hợp pha loăng của nước và ammoniac sẽ giúp làm sạch các vết ố do rượu vang, sô cô la và nước trái cây. Để tránh bị ám mùi và chất có hại cho sức khỏe, bạn nhớ lau lại sàn nhà bằng nước lau nhà chuyên dụng nhé.
Loại bỏ các tiếng kêu trên sàn gỗ bằng bột phấn rôm
Sau nhiều năm sử dụng, sàn gỗ thướng sẽ xuất hiện tiếng kêu “cọt kẹt” rất khó chịu. Để khắc phục t́nh trạng này, bạn hăy lấy bột phấn rôm, rắc vào các vết nứt cho đến khi không c̣n phát ra tiếng nữa là được.
Xử lư vết nứt hoặc ố nhỏ trên sàn gỗ
Nếu sàn gỗ nhà bạn bị nứt nhỏ bạn có thể lấy sáp ong cho đầy vào vết nứt đó rồi xoa một lớp xi dùng chuyên cho đồ gỗ mỏng và đều. Hoặc bạn cũng có thể làm kín vết nứt bằng cách lấy keo lỏng trộn với mạt cưa đă rây nhuyễn. Nhưng bạn nên nhớ phải trộn thật kỹ và đều để hỗn hơp trên quyện vào nhau, sau đó bạn đun nóng dung dịch đó lên để nguội chừng 30% và trát vào hỗ hở miết thật phẳng bề mặt.
Khử sạch mùi nước tiểu của thú cưng trên sàn gỗ bằng baking soda
Những gia đ́nh có vật nuôi như chó, mèo sẽ không thể tránh được việc chúng đi vệ sinh lên sàn gỗ, gây ra mùi cực kỳ khó chịu.
Để loại bỏ mùi hôi này, bạn chỉ cần pha một ít baking soda với nước tạo thành hỗn hợp sệt rồi đổ lên vị trí có nước tiểu bám lại. Sau đó, để qua đêm và lau sạch vào ngày hôm sau.
Theo Sức khỏe gia đ́nh
florida80
12-20-2019, 20:38
Khi con gái bắt đầu biết chăm lo nhan sắc, phụ huynh nên làm ǵ?
Khi bước vào tuổi dậy th́, các bạn gái sẽ biết chăm chút cho ngoại h́nh. Nhưng việc này lại làm các bậc phụ huynh lo lắng. Nên làm ǵ khi con gái bắt đầu biết chăm lo nhan sắc, là nỗi niềm chung của nhiều bậc cha mẹ.
Tuổi dậy th́ là giai đoạn quan trọng trong hành tŕnh “trưởng thành” của con cái. Đặc biệt, các bạn gái tuổi này đă bắt đầu chú ư đến ngoại h́nh. Các bạn nữ tuổi teen rất dễ bị ảnh hưởng của các ngôi sao có bề ngoài long lanh. Và trong thời đại công nghệ, việc t́m hiểu các kiến thức làm đẹp, trang điểm,… là quá dễ dàng. Với từ khóa “làm đẹp tuổi dậy th́” bạn có thể t́m được vô số kết quả trên google.
Ngược lại với tâm lư háo hức làm đẹp của con th́ các bậc phụ huynh lại lo âu,và giận dữ khi bắt gặp những món đồ trang điểm trong cặp xách của con. Theo quan niệm cố hữu xưa nay, cha mẹ thường cấm con gái chưng diện sớm v́ sợ sẽ yêu sớm, ảnh hưởng đến việc học tập. Và thường sau khi cấm đoán con cái, các phụ huynh tưởng đă ngăn được cơn khủng hoảng. Nhưng điều đó không giải quyết gốc rễ vấn đề, vậy phụ huynh nên làm ǵ?
Hiểu tâm lư của con
Những bạn gái tuy thân thiết, gần gũi hơn con trai, nhưng khi vào tuổi dậy th́ con gái cũng có những “bí mật”. Bắt đầu có kinh nguyệt, đồng nghĩa với việc bạn nữ đă có thể làm mẹ. Nên tuổi dậy th́ làm thay đổi tâm sinh lư của con gái. Các bạn nữ tuổi teen bắt đầu để ư đến người khác giới, biết xấu hổ v́ bị chê bai ngoại h́nh, hoặc cảm thấy ngưỡng mộ với vẻ xinh xắn của bạn cùng lớp.
Tâm lư chưng diện tuổi teen là điều hoàn toàn b́nh thường. Có thể bắt đầu từ những dấu hiệu nhỏ như: kẹp một chiếc nơ xinh xắn, soi gương nhiều hơn, lựa chọn quần áo khi đi chơi,…
Một đặc điểm tâm lư thú vị ở tuổi này là muốn khẳng định ḿnh là “người lớn”. Trẻ sẽ muốn mau chóng trưởng thành, để có thể được làm những việc “cộp mác” người lớn. Các bạn nữ sẽ bày nhau các biện pháp làm đẹp, truyền tai những địa điểm mua đồ đẹp, đánh son khi lên lớp, trang điểm khi đi chơi.
Phụ huynh không nên đánh đồng chưng diện là yêu sớm,khiến việc học bị chểnh mảng. V́ yêu, rung động là tâm lư b́nh thường của con người. Dù bạn gái không chưng diện, không quan tâm đến vẻ ngoài th́ vẫn có thể thích một bạn trai nào đó.
florida80
12-20-2019, 20:39
Định hướng tư tưởng cho con
Sau khi nắm được tâm lư của con gái ở tuổi dậy th́, các bà mẹ nên định hướng tư tưởng cho con. Giải thích cho con v́ sao không nên trang điểm sớm, những hiểm họa khi con chưng diện sớm, …. Dạy con vẻ đẹp của người con gái không nằm ở vẻ ngoài mà nằm ở sự thông minh, cách cư xử,…
Bên cạnh đó, các bà mẹ không nên cổ súy cho con làm đẹp. Nên kiên quyết từ chối những lần xin tiền mua đồ làm điệu của con. Giải thích cho con hiểu là bạn sẵn sàng giúp con có vẻ ngoài tươm tất, dễ nh́n khi đến trường, đi chơi với bạn bè nhưng không phải là làm đẹp thái quá. Bởi lẽ sự trau chốt tỉ mỉ về ngoại h́nh sẽ làm con đánh mất vẻ hồn nhiên, trong sáng, và nó không hợp lứa tuổi. Có những loại mỹ phẩm, cách làm đẹp chỉ của người trưởng thành, không phải của lứa tuổi học sinh.
Dạy con cách làm đẹp hợp với lứa tuổi
Đừng chỉ chê cách ăn mặc của con mà hăy cùng con đi mua sắm, chọn trang phục làm mẫu cho con. Bạn phải luôn nhắc bản thân rằng con đă đến tuổi làm đẹp, không thể cấm cản nếu con thích mà hăy làm nhà nhà định hướng thẩm mỹ cho con.
Bạn có thể hướng dẫn con cách skin care phù hợp với lứa tuổi bằng những tip sau đây:
Có 5 bước dưỡng da cơ bản là: tẩy trang- rửa mặt-toner-dưỡng ẩm-chống nắng. Với làn da của tuổi dậy th́ chỉ cần sử dụng toner hay lotion là đủ.
Tẩy trang: Nên sử dụng tẩy trang dạng nước, v́ chúng dễ sử dụng, có thể tẩy sạch kem chống nắng, và không gây kích ứng.
Rửa mặt: Nên chọn sửa rửa mặt có độ pH từ 5,5 đến 6, bước này nên làm sau khi tẩy trang để da được sạch nhất.
Dưỡng ẩm: Ở tuổi dậy th́, không nên dưỡng quá nhiều bước, v́ da có thể bị kích ứng. Nếu da quá khô, có thể sử dụng các loại kem dưỡng dạng gel.
Chống nắng: Đây là bước cần thiết để bảo vệ da khỏi tia cực tím. Các loại sữa rửa mặt dạng sữa, mỏng nhẹ sẽ thích hợp với làn da tuổi dậy th́.
florida80
12-20-2019, 20:39
Việc không hiểu, nắm bắt được hành động của con cái khi vào tuổi dậy th́ là câu chuyện muôn thuở của nhiều bậc phụ huynh. Hy vọng câu hỏi nên làm ǵ khi con gái bắt đầu biết chăm lo nhan sắc? của cha mẹ sẽ được giải quyết sau bài viết này.
Theo Sức khỏe gia đ́nh
florida80
12-20-2019, 20:40
5 dấu hiệu cảnh báo bếp gas cần sửa ngay kẻo cả nhà rước họa
Nếu thấy những dấu hiệu này xuất hiện khi sử dụng bếp gas, bạn hăy cảnh giác và gọi thợ sửa ngay kẻo rước họa vào nhà v́ bếp gas đă hư hỏng nặng.
5 dấu hiệu cảnh báo bếp gas cần sửa ngay kẻo cả nhà rước họa
Nếu thấy những dấu hiệu này xuất hiện khi sử dụng bếp gas, bạn hăy cảnh giác và gọi thợ sửa ngay kẻo rước họa vào nhà v́ bếp gas đă hư hỏng nặng.
florida80
12-20-2019, 20:41
Nguồn lửa bất thường
5 dau hieu canh bao bep gas can sua ngay keo ca nha ruoc hoa
Nếu ngọn lửa bếp gas cháy bất thường, có mùi gas thoát ra ngoài, bạn cần lập tức tắt bếp, khoá van b́nh đồng thời kiểm tra lại mâm chia lửa có bị đặt lệch hay không, lau khô sứ đánh điện của bếp. Nếu không thể tự ḿnh xử lư, hăy gọi thợ sữa chữa đến kiểm tra là an toàn nhất.
Cách xử lư khi bếp gas bị ṛ rỉ gas
– Khi ngửi thấy mùi gas trong nhà, tuyệt đối không động đến bất kỳ thiết bị nào có thể phát sinh tia lửa điện, không bật tắt công tắc đèn, quạt, đóng cắt mạch điện, kể cả điện thoại di động.
– Lập tức khóa van b́nh gas, mở cửa lớn, cửa sổ và dùng các phương tiện thông gió thủ công như quạt tay, b́a carton để quạt tản khí gas ra bên ngoài. Nếu quạt máy, quạt thông gió của bếp đang chạy th́ bạn nên để nguyên.
– Sử dụng xà pḥng bít vào chỗ khí gas thoát ra, phun nước vào b́nh, nếu thấy b́nh phồng lên, ngay lập tức chạy thoát ra ngoài, đề pḥng b́nh gas nổ.
5 dau hieu canh bao bep gas can sua ngay keo ca nha ruoc hoa
Đặc biệt, nếu muốn tránh nguy cơ cháy nổ gas, người dùng cần phải nắm được cách sử dụng bếp gas, b́nh gas an toàn. Cụ thể, cần luôn khóa van gas sau khi sử dụng để đảm bảo an toàn cho cả nhà. Khi mua b́nh gas, bạn nên chọn đơn vị phân phối hàng uy tín để tránh dùng phải hàng giả, hàng kém chất lượng. Bên cạnh đó, khi đang thay b́nh gas, bạn tuyệt đối không được sử dụng các thiết bị có thể phát sinh tia lửa điện gần đó như bật lửa, nổ xe máy. Đặc biệt, sau 3 – 5 năm sử dụng, chúng ta cần thay mới van gas, ống dẫn gas.
Theo Sức khỏe gia đ́nh
florida80
12-20-2019, 20:42
Khi về già phụ nữ thường sợ mất đi sự hấp dẫn và nỗi ám ảnh về sự cô đơn… là 2 trong những điều phụ nữ c̣n sợ hơn cả cái chết.
đẹp dần phôi phai
“Cái tuổi nó đuổi xuân đi”, v́ tuổi già không trừ một ai trong chúng ta. Rồi tới một ngày bạn sẽ không dám nh́n vào gương và tuổi già đă lấy đi vóc dáng, làn da… của bạn.
Thay vào đó là những dấu hiệu nếp nhăn do lăo hóa xuất hiện, ngực chảy xệ, tóc bạc… Đó là những điều mà bất cứ người phụ nữ nào cũng sợ.
Họ sẽ sợ ḿnh không c̣n hấp dẫn, sự tự tin về ngoại h́nh cũng sẽ không c̣n. Phải đối mặt với cái chết c̣n không sợ bằng sự già nua và xấu xí.
Sống một ḿnh
Lúc tuổi xế chiều phụ nữ cần hơn bao giờ hết một bờ vai để dựa. Nếu như nửa kia đă khuất núi th́ họ luôn mong muốn sống cùng con cái. Họ thường bị ám ảnh bởi nỗi cô đơn, không có người bên cạnh.
Trở thành gánh nặng cho con
Ngoài nhan sắc, sự cô đơn phụ nữ cũng rất sợ trở thành gánh nặng cho con cái. Nhất là trong trường hợp bệnh tật, họ thường có ước nguyện muốn được “đi nhanh” để con cháu bớt khổ. Chính v́ vậy, con cái cần tạo điều kiện giúp cho cha mẹ thấy ḿnh c̣n có ích.
Tiền sinh hoạt hàng tháng
Sau khi nghỉ hưu phụ nữ thường sợ tiền chi tiêu hàng tháng sẽ giảm sút khiến cho cuộc sống khó khăn hơn. Chính v́ vậy, để chuẩn bị cho tuổi già họ thường tham gia các loại bảo hiểm an sinh, xă hội để dự trù sẵn cho tương lai.
Không ngủ được
Khi về già phụ nữ rất thính ngủ và họ thường ngủ không ngon giấc. Để có một giấc ngủ ngon các chuyên gia y tế thường khuyên uống ít nước trước khi đi ngủ và ăn những thực phẩm có tác dụng an thần, chịu khó đi bộ và tập dưỡng sinh thường xuyên.
florida80
12-20-2019, 20:43
Bệnh tật
Những căn bệnh nan y như ung thư vú, ung thư buồng trứng sẽ trở thành nỗi lo sợ của phụ nữ khi tuổi già đang tới. Để tránh xa căn bệnh này ngay từ bây giờ bạn nên có lối sống lành mạnh, ăn uống khoa họ.
Theo Sức khỏe gia đ́nh
florida80
12-20-2019, 20:43
Cách làm sáng bóng trang sức bằng vàng tại nhà cực đơn giản
Sau một thời gian đeo th́ vàng có thể bị xuống màu mất đi độ sáng bóng. Dưới đây là những cách làm vàng sáng bóng tại nhà như mới mua về
Trang sức Vàng ngày nay trở thành những phụ kiện không thể thiếu đối với mọi người đặc biệt là giới trẻ, những trang sức bằng vàng sẽ tôn lên vẻ sang trọng và đầy đủ về vật chất cho người mang nó. Tuy nhiên sau một thời gian đeo th́ vàng có thể bị xuống màu mất đi độ sáng bóng. Dưới đây là những cách làm vàng sáng bóng tại nhà như mới mua về.
Dùng nước rửa bát
Bước 1: Nhỏ vài giọt nước rửa bát vào một bát nước ấm khuấy đều. Không dùng nước nóng và nước lạnh. Nước nóng có thể làm hỏng các loại đá quư gắn trên trang sức, trong khi nước lạnh sẽ khiến cho các vết bẩn bám chắc hơn vào trang sức.
Bước 2: Ngâm đồ trang sức vào dung dịch trên khoảng 15 phút
Bước 3: Dùng bàn chải đánh răng thật mềm chà nhẹ vào trang sức, đặc biệt những chỗ cáu bẩn.
Bước 4: Cho trang sức vào một rây nhỏ, sạch rồi xả nước ấm qua. Nước ấm sẽ giúp loại bỏ các bụi bẩn c̣n sót lại.
Nếu rửa đồ trang sức trong bồn rửa, bạn hăy nhớ đậy nắp ống thoát nước để pḥng trường hợp bạn vô t́nh làm rơi trang sức.
Bước 5: Dùng vải mềm để thấm thật khô trang sức trước khi đeo lại.
florida80
12-20-2019, 20:44
Dùng kem đánh răng
Cach lam sang bong trang suc bang vang tai nha cuc don gian
Bước 1: Lấy một lượng nhỏ kem đánh răng vào một cái bát với một hoặc hai th́a nước. Kem đánh răng loại bỏ các bụi bẩn tích tụ trên đồ trang sức rất tốt mà không làm hao ṃn chúng.
Bước 2: Dùng bàn chải đánh răng loại lông mềm mịn, quét hỗn hợp trên và chà nhẹ lên trang sức. Ngoài ra, bạn cũng có thể chà trực tiếp kem đánh răng lên trang sức mà không cần pha thêm nước. Tuy nhiên, cách đó khiến cho kem đánh răng rơi vào kẽ trang sức, khó làm sạch.
Bước 3: Rửa sạch lại với nước ấm để loại bỏ các bụi bẩn c̣n xót lại.
Nước sôi + dầu gội đầu
Bước 1: Chuẩn bị một cốc nước ấm, có pha sẵn dầu gội đầu
Bước 2: Bỏ đồ trang sức vàng cần làm sáng bóng vào trong cốc đó
Bước 3: Ngâm khoảng 10 phút
Bước 4: Sau đó lấy trang sức ra
Bước 6: Tiến hành thấm khô, dùng miếng mút xốp hoặc vải nỉ mềm lau cho sáng bóng
Bạn có thể tiến hành cách này 1 tuần 1 lần để làm sáng bóng trang sức
Làm sáng bóng vàng bằng bia
Cách làm: Bạn đổ bia ra một chiếc bát nhỏ sau đó cho số trang sức cần làm sạch vào ngâm chừng 30-40 phút th́ vớt ra. Cuối cùng, lấy vải mỏng lau sạch là được. Bia là nguyên liệu có khả năng làm sáng trang sức tuyệt vời đă được rất nhiều người áp dụng thành công. Chỉ cần thực hiện 1 lần bạn sẽ thấy trang sức của bạn trở nên sáng bóng, hết xỉn màu ngay lập tức.
Giấm trắng
Bước 1: Trộn đều giấm trắng và baking soda thành hỗn hợp đồng nhất, sau đó ngâm trang sức cần làm sáng vào hỗn hợp khoảng 10 phút th́ vớt ra.
Bước 2: Dùng bông tẩy trang hoặc vải mềm chà nhẹ nhàng làm khô, các món trang sức sẽ sáng lên trông thấy.
florida80
12-20-2019, 20:44
Công đoạn cuối cùng: Lau khô
Lau khô chính là công đoạn cuối cùng của mẹo làm mới trang sức bằng vàng. Bạn hăy dùng một chiếc khăn bông mềm lau khô trang sức vàng. Khi lau bạn phải cầm ở mặt trong và phía sau của trang sức và lau thật khô. Tuyệt đối bạn không để nước sót lại trên bề mặt chúng v́ hơi ẩm sẽ khiến vàng bị xỉn màu nhanh chóng, ảnh hưởng đến chất lượng của trang sức.
Một số lưu ư khi sử dụng và làm sạch trang sức vàng:
– Tránh để Vàng tiếp xúc trực tiếp với các hóa chất: Khi bạn sử dụng nhưng trang sức bằng vàng và đặc biệt là vàng tây th́ tuyệt đối không nên để trang sức tiếp xúc trực tiếp hóa chất. Khi tắm rửa hoặc thao kem bạn nên thóa trang sức ra cất và khi đi bơi bạn cũng không nên mang trang sức bởi trong nước hồ bơi chứa clo một loại chất dùng đẻ làm sạch nước cũng có thể khiến cho món trang sức của bạn bị phai màu.
Đối với vàng 24k sẽ không bị oxy hóa tuy nhiên đối với một số loại vàng tây sau một thời gian đeo có thể gây ra phản ứng oxy hóa nên khi thấy các vết ố xuất hiện trên bề mặt trang sức bạn nên làm sạch chúng bằng sữa tắm trẻ em, kem đánh răng…. và khi không dùng tới nên bảo quản trong hộp và tránh tiếp xúc nhiều với không khí.
– Không nên đeo trang sức bằng vàng khi tham gia một số hoạt động có liên quan đến việc tiếp xúc các chất tẩy rửa, hóa chất, hoặc môi trường có sự thay đổi nhiệt độ đột ngột.
– Bạn cũng không nên đeo trang sức vàng ta liên tục trong nhiều giờ và hàng ngày. Chỉ nên sử dụng chúng trong những dịp đặc biệt hoặc vào ngày lễ, tết hay những buổi tiệc quan trong nào đó, để đảm bảo những món đồ trang sức vàng của bạn được bền lâu.
– Trước khi tự làm mới trang sức bằng vàng tại nhà bằng những nguyên liệu có sẵn th́ bạn hăy nhớ thử chúng trên một chỗ nhỏ và khuất trước khi vệ sinh cả món đồ nhé.
Theo Sức khỏe gia đ́nh
florida80
12-20-2019, 21:22
Những vị trí nên đặt MÈO THẦN TÀI để may mắn ập đến, lộc lá quanh năm
Bạn có thể đặt mèo thần tài tại bất kỳ vị trí nào sao cho thuận tiện và đẹp mắt, tuy nhiên phải tuân thủ một nguyên tắc đó là hướng quay ra cửa chính để đón được nhiều may mắn, tiền tài, thành công, hạnh phúc nhất.
Đặt mèo thần tài trong nhà thế nào cho hợp lư:
Nếu bạn đặt chú mèo thần tài màu xanh lá trên bàn học tại pḥng riêng th́ hướng chú ra cửa pḥng, sao cho khi mở cửa có thể nh́n thấy ngay. Hoặc bạn đặt chú mèo màu vàng trên bàn tiếp khách để đón tài lộc th́ hướng ra phía cửa nhà…
Tiếp theo bạn cần loại bỏ hoàn toàn vật cản, sao cho không gian xung quanh chú mèo thần tài được sạch sẽ, thoáng đăng nhất. Bạn có thể đặt mèo thần tài tại kệ pḥng khách, pḥng đọc sách, bàn học, pḥng làm việc…
Với không gian trong nhà bạn nên chọn mèo thần tài không vẫy tay, nhưng nếu bạn kinh doanh tại gia th́ chú mèo vẫy tay lại rất phù hợp, cho dù đó là kinh doanh online th́ chắc chắn chú mèo “đáng yêu” này cũng mang lại nguồn tài lộc dồi dào cho bạn đấy !
Ngoài ra, bạn cần thường xuyên lau chùi, làm sạch chú mèo thần tài, tốt nhất nên làm mỗi ngày để cầu may mắn. Tuyệt đối không để chú dính bụi hay vết bẩn trong nhiều ngày nhé, như thế vận may của bạn sẽ “xách dép” ra đi đấy.
Chú mèo thần tài không chỉ đáng yêu, xinh đẹp với chất liệu gốm, sứ tinh tế, màu sắc đa dạng mà c̣n mang lại nguồn may mắn dồi dào cho gia chủ. Chọn mua chú mèo thần tài và đặt tại vị trí phù hợp trong gia đ́nh để mọi việc thuận lợi và có nhiều tài lộc bạn nhé.
Chọn màu sắc cho mèo thần tài:
Màu tam thể đem lại nguồn may mắn lớn nhất nhưng phân tán thành nhiều vấn đề, màu trắng xua đuổi vận đen; màu đen mang đến sức khỏe, xua đuổi tà ma; màu đỏ tránh quỷ dữ; màu hồng mang lại t́nh duyên; màu xanh lá cây hỗ trợ cho việc học hành; màu vàng cho sự giàu sang, phú quư…Bạn nên lựa chọn màu sắc phù hợp nhất với nhu cầu của ḿnh sau đó bắt đầu nghiên cứu tới hướng đặt sao cho phù hợp.
Những vị trí nên đặt Mèo thần tài để may mắn, lộc lá ập tới liên tục:
Trên bàn thờ thần tài
Ư nghĩa mèo thần tài là mang lại vận may, tiền tài, sự thịnh vượng cho gia chủ. V́ vậy, chủ nhà có thể đặt mèo may mắn trên bàn thờ thần tài. Vị trí đặt ngay ngắn, phù hợp, tránh đặt tùy hứng trên bàn thờ.
Đặt ở cửa hàng bán lẻ
Với những người làm ăn kinh doanh, việc thu hút khách hàng là rất quan trọng. Mèo thần tài Nhật Bản ở trong cửa hàng bán lẻ thường được đặt sao cho hướng mặt và tay về phía cửa khách ra vào, không để vật cản ở khoảng cách từ mèo đến cửa ra vào. Những chú mèo thần tài vẫy tay để mời chào và tiễn khách có thể gây ấn tượng và thu hút nhiều người ghé thăm hơn.
florida80
12-20-2019, 21:23
Đặt ở pḥng khách
Pḥng khách là một trong những không gian quan trọng của gia đ́nh, nơi đón bạn bè, người thân, khách quư. Mèo thần tài thường được đặt ở cửa chính hoặc bàn uống nước.
Đặt ở trong pḥng ngủ
Mèo Thần Tài để trong pḥng ngủ mang ư nghĩa đem đến vận đào hoa. Những người cần cầu t́nh duyên thuận buồn xuôi gió nên đặt hai con mèo tại hướng chính Đông của pḥng ngủ.
Nhung vi tri nen dat MEO THAN TAI de may man ap den, loc la quanh nam
Trên xe hơi
Để mèo Thần Tài trên xe hơi không chỉ mang ư nghĩa cầu may mắn mà c̣n biểu hiện cho sự b́nh an trong mỗi chuyến đi. Thông thường, trên xe hơi người ta sẽ treo mèo Thần Tài ngay ở vị trí gương để tạo sự thoải mái hoặc đặt ở trên đế và để ở đầu xe.
Trên bàn làm việc
Với người làm kinh doanh, mèo thần tài có thể đặt ngay trên bàn làm việc mang ư nghĩa giúp công việc làm ăn thuận buồm xuôi gió. Vị trí đặt xuôi theo hướng bạn quay mặt ra, sạch sẽ, thoáng đăng, không nên có quá nhiều vật cản.
Nhung vi tri nen dat MEO THAN TAI de may man ap den, loc la quanh nam
Trong văn pḥng
Người làm việc văn pḥng cũng có thể đặt mèo Thần Tài để mang lại may mắn, mọi việc suôn sẻ. Khi đặt trên bàn làm việc nên đặt xuôi theo hướng bạn quay mặt ra. Chỗ để mèo cần sạch sẽ, thoáng đăng, không có quá nhiều vật cản.
Tại cửa hàng quy mô lớn
Nhung vi tri nen dat MEO THAN TAI de may man ap den, loc la quanh nam
Tại siêu thị, trung tâm thương mại nên đặt mèo ở quầy tiếp tân hoặc quầy thanh toán. Nơi đặt mèo không nên có vật cản v́ sẽ làm ảnh hưởng đến may mắn, tài lộc.
Đặt ở pḥng khách
Pḥng khách là một trong những không gian quan trọng của gia đ́nh, nơi đón bạn bè, người thân, khách quư. Mèo thần tài thường được đặt ở cửa chính hoặc bàn uống nước.
Đặt ở trong pḥng ngủ
Mèo Thần Tài để trong pḥng ngủ mang ư nghĩa đem đến vận đào hoa. Những người cần cầu t́nh duyên thuận buồn xuôi gió nên đặt hai con mèo tại hướng chính Đông của pḥng ngủ.
Nhung vi tri nen dat MEO THAN TAI de may man ap den, loc la quanh nam
Trên xe hơi
Để mèo Thần Tài trên xe hơi không chỉ mang ư nghĩa cầu may mắn mà c̣n biểu hiện cho sự b́nh an trong mỗi chuyến đi. Thông thường, trên xe hơi người ta sẽ treo mèo Thần Tài ngay ở vị trí gương để tạo sự thoải mái hoặc đặt ở trên đế và để ở đầu xe.
Trên bàn làm việc
Với người làm kinh doanh, mèo thần tài có thể đặt ngay trên bàn làm việc mang ư nghĩa giúp công việc làm ăn thuận buồm xuôi gió. Vị trí đặt xuôi theo hướng bạn quay mặt ra, sạch sẽ, thoáng đăng, không nên có quá nhiều vật cản.
Nhung vi tri nen dat MEO THAN TAI de may man ap den, loc la quanh nam
Trong văn pḥng
Người làm việc văn pḥng cũng có thể đặt mèo Thần Tài để mang lại may mắn, mọi việc suôn sẻ. Khi đặt trên bàn làm việc nên đặt xuôi theo hướng bạn quay mặt ra. Chỗ để mèo cần sạch sẽ, thoáng đăng, không có quá nhiều vật cản.
Tại cửa hàng quy mô lớn
Nhung vi tri nen dat MEO THAN TAI de may man ap den, loc la quanh nam
Tại siêu thị, trung tâm thương mại nên đặt mèo ở quầy tiếp tân hoặc quầy thanh toán. Nơi đặt mèo không nên có vật cản v́ sẽ làm ảnh hưởng đến may mắn, tài lộc.
florida80
12-20-2019, 21:24
Nghiên cứu từ ĐH Texas và Michigan (Mỹ): Dạy con bằng đ̣n roi dễ khiến trẻ mắc bệnh tâm thần
Nhiều bậc phụ huynh thường dạy con bằng đ̣n roi nhưng khoa học đă chứng minh được rằng, dạy con theo phương pháp này không những không tốt cho con mà c̣n khiến trẻ đứng trước nguy cơ mắc bệnh tâm thần.
November 29, 2019
Theo báo cáo năm 2014 của Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF), có khoảng 80% phụ huynh trên thế giới thừa nhận dạy con bằng đ̣n roi. Thế nhưng, theo nghiên cứu từ Đại học Texas và Michigan (Mỹ) công bố trên Tạp chí Tâm lư học Gia đ́nh, phương pháp này sẽ làm tăng các nguy cơ mắc các vấn đề tâm thần ở trẻ.
Kết luận này được đưa ra sau khi các nhà khoa học nghiên cứu dữ liệu 160.000 trẻ trong suốt 50 năm. Cụ thể, khi trẻ bị đánh nhiều, đ̣n roi dường như không có tác dụng ǵ, v́ trẻ sẽ “chứng nào tật nấy” sau khi bị đánh khoảng 10 phút. Ngoài ra, cách dạy con này sẽ khiến trẻ bị gây hấn, hoặc có cảm giác lo âu, trầm cảm và làm tăng nguy cơ mắc các vấn đề tâm thần khác.
Nghien cuu tu DH Texas va Michigan (My): Day con bang don roi de khien tre mac benh tam than
Giáo sư Elizabeth Gershoff chuyên nghiên cứu về phát triển con người và khoa học gia đ́nh tại Đại học Texas cho biết: “Chúng tôi phát hiện đ̣n roi chẳng giúp ǵ mấy trong việc thiết lập kỷ luật cho trẻ nhưng sẽ dấn đến những hệ quả ngoài ư muốn”.
Một nghiên cứu khác của các nhà nghiên cứu tại Đại học Columbia ở New York, cho thấy trẻ em 5 tuổi bị cha mẹ đánh nhiều có khả năng ĺ lợm hơn, phá vỡ các quy tắc khi học tiểu học.
Ngoài việc đánh đập con cái, cha mẹ cũng có thể khiến tâm lư con trở nên bất ổn, bị sai lệch tính cách nếu mắc phải những lỗi dưới đây
florida80
12-20-2019, 21:24
Không thường xuyên ôm hôn con cái
Nghien cuu tu DH Texas va Michigan (My): Day con bang don roi de khien tre mac benh tam than
Trẻ em khát khao được yêu thương, ôm ấp và quan tâm. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng một cái ôm của cha mẹ không chỉ mang lại cảm giác an toàn tuyệt đối cho trẻ, giúp cha mẹ gần gũi với con hơn mà c̣n mang lại nhiều lợi ích khác như giúp con xây dựng cá tính mạnh mẽ, tăng cường hệ thống miễn dịch và mang lại sự cân bằng vững chắc cho hệ thần kinh.
Thường xuyên quát mắng con
Quát mắng cũng giống như việc đánh đập, sẽ gây ảnh hưởng tới tâm lư của trẻ. Việc quát mắng xảy ra thường xuyên sẽ không làm con bạn nghe lời hơn mà đôi khi c̣n phản tác dụng, khiến trẻ ĺ lợm hơn.
Nói dai dẳng
Nghien cuu tu DH Texas va Michigan (My): Day con bang don roi de khien tre mac benh tam than
Nếu dạy con bằng cách nhắc đi nhắc lại một vấn đề, trẻ sẽ trở thành người không có trách nhiệm với hành động của bản thân. Nguyên nhân là do trẻ biết rằng chúng sẽ không cần phải nhớ những ǵ phải làm ngày hôm nay, v́ cha mẹ sẽ cằn nhằn quá nhiều lần, từ đó chúng sẽ không đặt bất kỳ nỗ lực nào vào việc sửa lỗi sai và hành xử có trách nhiệm hơn. Cách tốt nhất là khi con phạm sai lầm, cha mẹ nên chỉ nói một lần kèm theo h́nh phạt bất ḱ và áp dụng h́nh phạt đó khi nào trẻ quên nghe theo lời mẹ.
Dọa con
Nếu thường xuyên dọa trẻ nhưng không thực hiện lời dọa ấy, trẻ sẽ nhanh chóng hiểu được cha mẹ đang không thực sự nghiêm túc. Lâu dần, trẻ sẽ càng ngày càng ĺ lợm, không nghe lời. Chưa kể, việc dọa nạt ban đầu có thể khiến trẻ lo lắng, sợ hăi.
Làm con xấu hổ
Nghien cuu tu DH Texas va Michigan (My): Day con bang don roi de khien tre mac benh tam than
Nếu so sánh con với bạn bè cùng trang lứa hoặc làm con xấu hổ trước mặt người khác, trẻ có thể càng tức giận và tiếp tục phạm lỗi hơn. Ngoài ra, cách này có thể khiến con thu ḿnh lại, trở nên tự ti với bản thân, ngại giao tiếp với người khác hay trầm cảm, không có ư chí vươn lên.
Không lắng nghe ư kiến của con
Không ít cha mẹ thường phạt con ngay khi có ai đó nói về lỗi lầm của con mà không để chúng có cơ hội giải thích hoặc áp đặt suy nghĩ của ḿnh lên con trẻ. Việc này kéo dài sẽ khiến trẻ cảm thấy bị bỏ rơi, hạn chế khả năng sáng tạo của trẻ, thậm chí mất định hướng cuộc đời v́ cho rằng tất cả mọi việc đă được cha mẹ an bài.
Theo Suckhoegiadinh
florida80
12-20-2019, 21:25
11 cách khử mùi giày da mới cực đơn giản đảm bảo hiệu quả 100%
Giày da là một loại phụ kiện không thể thiếu với mỗi người. Tuy nhiên, giày da mới mua về thường có mùi hôi khó chịu, gây ra cảm giác đau đầu và hôi chân. Với 11 mẹo khử mùi đơn giản sau đây sẽ giúp bạn đánh bay mùi hôi giày da mới dễ dàng và hiệu quả.
November 29, 2019
Dùng giấy báo cũ
Những tờ giấy báo cũ tưởng chừng như đă chẳng c̣n có thể sử dụng vào việc ǵ nhưng nó lại có một công dụng khử mùi rất tốt mà bạn không nên bỏ qua. Việc bạn cần làm là ṿ một ít báo cũ rồi để vào trong giày từ 1 – 2 tiếng mỗi ngày sau khi sử dụng xong.
Đảm bảo những mùi hôi của da động vật, mùi hóa chất của giày mới, thậm chí là nấm mốc,.. trong giày cũng sẽ được loại bỏ hoàn toàn.
Trà túi lọc
Nhờ thành phần chính là lá chè xanh hút mùi rất tốt nên sử dụng túi trà để khử mùi hôi giày da mới rất hiệu quả.
Dùng một vài túi trà lọc đặt trong giày để qua đêm và nên sử dụng đi giày mới mua về. Trà có mùi thơm tự nhiên dễ chịu giúp giày khô thoáng và khử hết sạch mùi khó chịu.
Giấm ăn
Giấm ăn ngoài dùng để chế biến c̣n được sử dụng hiệu quả với việc khử mùi. Pha loăng một chút giấm ăn trắng với nước ấm, thấm dung dịch vào một mảnh khăn mềm, lau lên bề mặt giày da mới để khử mùi hiệu quả.
11 cach khu mui giay da moi cuc don gian dam bao hieu qua 100%
Chanh.
Nước chanh có chứa axit citric, là dung dịch tẩy rửa tự nhiên được con người sử dụng từ thời xa xưa đến nay. Đối với giày da, nước chanh cũng có công dụng khử mùi hiệu quả và triệt để.
Cách thực hiện:
Bước 1: Mua 2 – 3 quả chanh tươi ngoài chợ hoặc siêu thị.
Bước 2: Vắt lấy nước chanh, pha với 100ml nước sạch và 3 muỗng giấm trắng.
Bước 3: Đổ hỗn hợp vào một b́nh phun sương cầm tay cỡ nhỏ.
Bước 4: Xịt vào bên trong giày, khoảng 3 – 5 nhát từ vị trí cách giày 30cm.
Bước 5: C̣n lại phần vỏ, hăy cắt thành các lát nhỏ, đặt vào lót giày.
Bước 6: Đợi từ 15 – 30 phút, sau đó dùng khăn khô lau sạch.
Than hoạt tính
Than hoạt tính được biết đến với khả năng lọc sạch những cặn bẩn, vi khuẩn và chất độc hại, khử mùi tận gốc nhờ những phân tử bên trong.
Với khả năng khử mùi vượt trội, than hoạt tính được ứng dụng trong việc khử mùi giày da tận gốc. Cách này rất đơn giản, bạn chỉ cần mua miếng lót giày tăng chiều cao chứa than hoạt tính hoặc sử dụng túi than hoạt tính bỏ vào trong giày da
florida80
12-20-2019, 21:25
Bă cà phê
Bă cà phê được nhiều người sử dụng khử mùi hôi hiệu quả như: khử mùi tủ lạnh, giày da mới…
Để thực hiện, bạn chỉ cần cho bă cà phê vào túi vải, hoặc vào trong đôi tất, rồi bỏ vào trong đôi giày, cà phê sẽ hút hết mùi hôi giày da mới chỉ trong 1 đêm.
Baking Soda
Rắc bột baking soda vào bên trong giày da mới cần khử mùi. Cách này cực kỳ hiệu quả chỉ với 1 muỗng baking soda rắc đều bên trong thân giày. Tác dụng của bột baking soda là hút mùi giày và hút sạch ẩm không cho vi khuẩn tiếp tục phát triển
Phấn rôm
Một cách khử mùi cho giày da mới mà chắc hẳn ít ai nghĩ tới đó là cho giày vào trong tủ lạnh. Bạn hăy cho một chút phấn rôm em bé vào giày, lắc đều và để vào trong một túi ni lông kín hoặc một chiếc túi có khóa sau đó để vào ngăn đá tủ lạnh khoảng 3 – 5 tiếng.
11 cach khu mui giay da moi cuc don gian dam bao hieu qua 100%
Với cách làm này không chỉ giúp bạn loại bỏ hoàn toàn mùi da mới của giày mà nó c̣n có thể khử được sạch sẽ những vi khuẩn gây hại có trong giày để bảo vệ đôi chân của bạn khỏe mạnh hơn.
Gỗ bào hoặc mùn cưa
Gỗ bào hoặc mùn cưa là những nguyên liệu khá phổ biến có khả năng hút ẩm và mồ hôi trên giày da rất hiệu nghiệm. Chỉ cần đặt một lượng vừa phải vào giày da nam và để qua đêm sẽ giúp giày khô thoáng và hết mùi khó chịu.
Cồn
Với mùi hôi khó chịu không thể loại bỏ bằng những cách thông thường, bạn có thể sử dụng cồn để làm sạch. Dùng bông sạch thấm cồn và để giày qua đêm sẽ giúp khử mùi hiệu quả.
Cho giày vào ngăn đá
Cho giày vào ngăn đá tủ lạnh để qua đêm, được cho là cách khử mùi giày mới cũng rất hiệu quả.
Theo Suckhoegiadinh
florida80
12-21-2019, 19:03
Lời Phật Dạy.
Trong Tăng Chi Bộ 10.176, Đức Phật dạy:
-- "Có bốn pháp tịnh hạnh về lời nói:
1) Ở đây, có người đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo. Nếu không biết, người ấy nói: "Tôi không biết"; nếu biết, người ấy nói: "Tôi biết"; nếu không thấy, người ấy nói: "Tôi không thấy"; nếu thấy, người ấy nói: "Tôi thấy". Như vậy lời nói của người ấy không trở thành cố ư vọng ngữ, hoặc nguyên nhân v́ ḿnh, hoặc nguyên nhân v́ người, hoặc nguyên nhân v́ một vài quyền lợi ǵ.
2) Người ấy đoạn tận nói hai lưỡi, từ bỏ nói hai lưỡi. Nghe điều ǵ ở chỗ này, người ấy không đi đến chỗ kia nói, để gây chia rẽ ở những người này; nghe điều ǵ ở chỗ kia, người ấy không đi nói với những người này, để gây chia rẽ ở những người kia. Như vậy người ấy sống ḥa hợp những kẻ ly gián, tăng trưởng những kẻ ḥa hợp, thích thú ḥa hợp, nói những lời đưa đến ḥa hợp.
3) Người ấy đoạn tận lời nói độc ác, từ bỏ lời nói độc ác. Người ấy chỉ dùng những lời nói nhu ḥa, êm tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhă, đẹp ḷng nhiều người, vui ư nhiều người.
4) Người ấy đoạn tận lời nói phù phiếm. Người ấy nói đúng thời, nói chân thật, nói có ư nghĩa, nói Pháp, nói Luật, nói những lời đáng được ǵn giữ. V́ nói hợp thời, nên lời nói thuận lư, có mạch lạc, hệ thống, lợi ích".
Thuvienhoasen.org
florida80
12-21-2019, 19:03
Lời Phật Dạy.
"Hăy ra đi, các tỳ kheo, đem lại sự tốt đẹp cho nhiều người. đem hạnh phúc cho nhiều người. V́ ḷng từ bi, hăy đem lại sự tốt đẹp, lợi ích hạnh phúc cho chư Thiên và nhân lọai, Mỗi người hăy đi mỗi ngă. Này hỡi các tỳ kheo, hăy hoằng dương đạo pháp, ṭan hảo ở đọan đầu, ṭan hảo ở đọan giữa, ṭan hảo ở đọan cuối cùng, ṭan hảo trong cả hai, tinh thần và văn tự. Hăy công bố đời sống thiêng liêng, cao thượng, vừa ṭan thiện, vừa trong sạch. Chính Như Lai cũng phải đi hoằng dương giáo pháp. Hăy phất lên ngọn cờ của bậc Đại Trí. Hăy truyền dạy giáo pháp cao siêu. Hăy mang lại sự tốt đẹp cho người khác. Được vậy là các con đă hoàn tất nhiệm vụ."
Lời Phật Dạy...
florida80
12-21-2019, 19:04
Lời Phật Dạy.
- Nầy Đại Huệ! Tất cả các thứ thịt đều là chất tinh huyết ô uế, người cầu thanh tịnh làm sao nên ăn? Kẻ ăn thịt, chúng sanh thấy đều sợ hăi, người tu từ tâm làm sao nên ăn? Khi gặp bọn thợ săn cùng kẻ hạ tiện làm nghề bắn giết, bẫy lưới tàn hại sanh linh, loài chó trông thấy kinh hăi sủa vang, tất cả cầm thú thảy đều dớn dác trốn chạy. Sở dĩ như thế, bởi các chúng sanh ấy đều nghĩ rằng: những người này lộ vẻ hung ác dường như quỉ La sát, nếu ta đến đó tất bị bắt giết, vậy phải nên xa lánh là hơn. Cũng như thế, người ăn thịt thường bị chúng sanh ghét sợ xa lánh. V́ lẽ đó, bậc Bồ Tát tu hạnh từ bi không nên ăn thịt.
Kinh Lăng Già.
florida80
12-21-2019, 19:05
Lời Phật Dạy.
Đức Phật dạy về ăn chay.
- Nầy Đại Huệ! Tất cả loài hữu t́nh từ vô thỉ đến nay ở trong ṿng sống chết luân hồi vô tận, không có chúng sanh nào chẳng từng làm cha mẹ anh em con cái quyến thuộc, cho đến chủ tớ bạn bè thân thích lẫn nhau. Vậy đối với chúng sanh đă v́ nghiệp lực phải chịu đọa làm thân thủy tộc, cầm thú, nỡ nào bắt nó mà ăn thịt? Bậc Bồ Tát ma ha tát phải quán sát xem tất cả loài hữu t́nh đồng với thân ḿnh, nên nghĩ các thứ thịt kia từ những sanh mạng biết vui khổ thương đau mà có, đâu nỡ an nhiên mà ăn?
- Nầy Đại Huệ! Các bọn La sát nghe ta nói điều nầy c̣n nên dứt trừ sự ăn thịt, huống nữa là người ưa vui theo đạo pháp? Trong mỗi đời, Bồ Tát quán thấy chúng sanh đều là quyến thuộc, thường nghĩ xem đồng như con, nên không ăn tất cả các thứ thịt. Những người bán các thứ thịt trâu ḅ chó ngựa heo dê nơi chợ phố hàng quán, v́ tâm tham lợi nên tạo nghiệp giết hại; thịt là sở do của tâm hạnh tạp uế như thế, làm sao Bồ Tát nên thọ dụng?
Kinh Lăng Già
florida80
12-21-2019, 19:07
Lời Phật Dạy.
Nầy Đại Huệ! Kẻ ưa ăn thịt khi thấy h́nh dáng loài vật đă sanh tâm thèm mùi vị. Bậc Bồ Tát phải thương nghĩ chúng sanh cũng như ḿnh, tại sao vừa thấy h́nh đă muốn ăn thịt? Bởi thế, Bồ Tát phải dứt trừ nhục thực. Người ăn thịt th́ nơi miệng thường hôi nên chư thiên lánh xa, hằng bị Dạ xoa ác quỷ đoạt mất tinh khí. Kẻ ấy giấc ngủ không yên, khi tỉnh dậy lo lắng, tâm nhiều sợ hăi; do tham ăn không biết vừa đủ, nên thêm nhiều tật bịnh, dễ sanh ghẻ độc, bị các loài tế trùng cắn đúc, mà cũng vẫn không biết chán nhàm.
florida80
12-21-2019, 19:08
CHỈ VỀ QUYẾT-ĐỊNH ĐOẠN L̉NG SÁT
"A-nan, lại các chúng-sinh lục-đạo trong các thế-giới, nếu cái tâm không sát, th́ không theo ḍng sinh-tử tiếp-tục. Ông tu phép Tam-muội, cốt ra khỏi trần-lao, nếu không trừ ḷng sát, th́ không thể ra khỏi trần-lao được. Dầu có nhiều trí thiền-định hiện-tiền, nếu không đoạn ḷng sát, th́ chắc phải lạc vào thần-đạo; người bậc trên th́ thành đại-lực-quỷ, người bậc giữa th́ thành phi-hành-dạ-xoa và các loài quỷ-soái, người bậc dưới th́ thành địa-hành la-sát, các loài quỷ-thần kia cũng có đồ-chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành đạo vô-thượng.
Sau khi tôi diệt-độ rồi, trong đời mạt-pháp, có nhiều quỷ-thần nầy sôi-nổi trong thế-gian, tự nói rằng ăn thịt, được đạo Bồ-đề. A-nan, tôi khiến hàng tỷ-khưu ăn năm thứ tịnh-nhục, thịt kia đều do thần-lực tôi hóa-sinh ra, vốn không có mạng-căn. Xứ Bà-la-môn các ông, đất-đai phần nhiều nóng-ướt, lại thêm cát đá, rau-cỏ không sinh được; tôi dùng sức đại-bi gia-bị, nhân sức đại-từ-bi, giả gọi là thịt và các ông cũng nhận được cái vị như thịt; làm sao, sau khi Như-lai diệt-độ, người ăn thịt chúng-sinh, lại gọi là Phật-tử! Các ông nên biết những người ăn thịt đó, dầu cho tâm được khai-ngộ, giống như Tam-ma-đề, đều là loài la-sát, quả-báo hết rồi, phải ch́m-đắm trong bể khổ, không phải đệ-tử Phật. Những người như vậy, giết nhau, nuốt nhau, ăn nhau chưa thôi, làm sao, lại được ra khỏi ba cơi. Ông dạy người đời tu phép Tam-ma-đề, thứ nữa, phải đoạn ḷng sát. Ấy gọi là lời dạy rơ-ràng thanh-tịnh, quyết-định thứ hai của các đức Như-lai tiên Phật Thế-tôn.
Vậy nên A-nan, nếu không đoạn ḷng sát mà tu thiền-định, th́ cũng ví-như có người tự bịt lỗ tai, cất tiếng kêu to mà trông-mong người khác không nghe; bọn này gọi là muốn giấu th́ càng lộ. Hàng tỷ-khưu thanh-tịnh và các vị Bồ-tát đi trong đường rẽ, không dẫm cỏ non, huống nữa là lấy tay nhổ cỏ; làm sao đức Đại-bi, lại lấy máu thịt của các chúng-sinh, mà làm đồ-ăn?
*Trích trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm -- Chương III, Quyển VI.
www.thuvienhoasen.or g
florida80
12-21-2019, 19:08
Lời Phật Dạy.
Khi nói về đức tin, Đức Phật đă dạy về 10 cơ sở của đức tin chân chánh:
1) Chớ vội tin điều ǵ, chỉ v́ điều đó là truyền thuyết.
2) Chớ vội tin điều ǵ, chỉ v́ điều đó thuộc về truyền thống.
3) Chớ vội tin điều ǵ, chỉ v́ điều đó được nhiều người nhắc đến hay tuyên truyền.
4) Chớ vội tin điều ǵ, chỉ v́ điều đó được ghi lại trong sách vở hay kinh điển.
5) Chớ vội tin điều ǵ, chỉ v́ điều đó lư luận siêu h́nh.
6) Chớ vội tin điều ǵ, chỉ v́ điều đó phù hợp với lập trường của ḿnh.
7) Chớ vội tin điều ǵ, chỉ v́ điều ấy phù hợp với định kiến của ḿnh.
8) Chớ vội tin điều ǵ, khi điều đó được căn cứ trên những dữ kiện hời hợt.
9) Chớ vội tin điều ǵ, chỉ v́ điều ấy được sức mạnh và quyền uy ủng hộ.
10) Chớ vội tin điều ǵ, chỉ v́ điều ấy được các nhà truyền giáo hay đạo sư của ḿnh tuyên thuyết.
Cái này phải làm thành cái bảng treo lên nhắc nhở mỗi ngày mới được. Chúng ta nghe ai nói ǵ cũng tin. Rồi cứ theo đó mà phê phán. (laugh)
Thân mến.
NR.
florida80
12-21-2019, 19:09
Đức Phật giảng dạy về bốn sự thật căn bản:
Sự có mặt của khổ đau, nguyên do của khổ đau, khả năng diệt khổ để kiến tạo an lạc và giải thoát, và con đường thực hiện diệt khổ và kiến tạo an lạc.
“Ngoài những tai nạn như sinh, già, bệnh, chết, có người c̣n phải gánh chịu biết bao nhiêu khổ đau khác do ḿnh tự tạo ra cho ḿnh. V́ vô minh, nghĩa là v́ nhận thức sai lầm, con người nghĩ, nói và làm những điều có thể tạo ra cho bản thân ḿnh và cho những người xung quanh rất nhiều nỗi khổ. Những đau khổ v́ giận dữ, hờn oán, nghi kỵ, ganh ghét, bất măn ... đều do ta thiếu sáng suốt mà sinh ra. Ta sống trong những khổ đau ấy như sống trong một nhà đang bốc cháy. Phần lớn những khổ đau mà ta chịu đều do ta tự tạo ra cho ta. Ta không thể thoát ra được khổ đau bằng cách cầu cứu một vị thần linh. Ta phải quán chiếu tâm ta và hoàn cảnh ta để loại trừ những nhận thức sai lầm đă từng là nguồn gốc phát sinh ra các khổ đau ấy. Ta phải t́m tới ngọn nguồn của đau khổ th́ ta mới thật sự hiểu được bản chất của đau khổ. Một khi hiểu được bản chất của một niềm đau khổ th́ ta thoát được ra khỏi niềm đau khổ.
Ví dụ có một người kia tới chửi mắng ta. Ta có thể nổi giận và chửi mắng trả lại người ấy. Trong trường hợp này ta khổ mà người ấy cũng khổ. Theo đạo lư tỉnh thức th́ không nên vội nổi giận và chửi mắng người kia. Ta phải b́nh tâm quán chiếu để thấy được v́ sao người kia lại tới chửi mắng ta, nghĩa là ta đi t́m tới cội nguồn của sự giận dữ của người ấy. Do công phu quán chiếu b́nh tĩnh đó mà ta có thể thấy được những nguyên nhân sâu xa và chằng chịt nào đó đưa tới thái độ và hành động hôm nay của người ấy. Nếu ta thật sự có lỗi th́ ta thấy sự chửi mắng đó là kết quả tất nhiên của lỗi lầm ta. Nếu ta quả không có lỗi lầm ǵ th́ chắc chắn đă có một sự hiểu lầm nơi người ấy. Ta quán chiếu để t́m ra và chứng minh được sự hiểu lầm ấy cho người kia thấy. Làm như vậy, ta tránh được khổ đau cho ta và cũng giải tỏa được khổ đau cho người kia.
Tất cả mọi khổ đau của ta, ta đều có thể thoát ra khỏi bằng đường lối quán chiếu ấy, nhưng muốn quán chiếu cho thành công ta phải biết theo dơi hơi thở, biết thực tập sống theo tinh thần giới định tuệ. Giới là những nguyên tắc sống cho an lạc. Có sống theo các nguyên tắc này, ta mới thực hiện được định. Định là nếp sống có tỉnh thức, có chú tâm. Có tỉnh thức và chú tâm ta mới có khả năng quán chiếu về thực tánh của tâm ta và của hoàn cảnh, và có quán chiếu ta mới có Tuệ. Tuệ tức là sự hiểu biết.
Một khi đă có hiểu biết, ta có thể thương yêu và tha thứ. Cuộc đời sẽ bớt khổ rất nhiều khi ta có hiểu biết. Nếu không hiểu biết, ta không thể thương yêu và tha thứ. Cho nên con đường giải thoát chân thật là con đường thực hiện sự hiểu biết. Hiểu biết là trí tuệ, là bát nhă.
Mà trí tuệ chỉ có thể do quán chiếu đem lại. Con đường giới, định và tuệ v́ vậy là con đường duy nhất đưa tới giải thoát”.
Đức Phậtlặng yên một lát rồi mỉm cười. Người nói tiếp:
“Nhưng khổ đau chỉ là một mặt của sự sống. Sự sống c̣n có một mặt khác: đó là sự có mặt của những mầu nhiệm trong cuộc đời, và nếu con người được tiếp xúc với những mầu nhiệm ấy, con người sẽ có niềm vui và sự an lạc. Khi tâm ta được giải thoát, ta tiếp xúc ngay được với những mầu nhiệm ấy. Nếu ta chứng nghiệm được sự thật về vô thường, vô ngă và duyên sinh th́ ta có thể thấy được rằng tất cả đều là mầu nhiệm: từ tâm ư ta, thân thể ta cho đến cành tre tím, bông cúc vàng, ḍng sông trong, mặt trăng sáng.
Chỉ v́ ta tự giam hăm ta trong thế giới khổ đau cho nên ta mới không xúc tiếp được với thực tại mầu nhiệm. Phá được vô minh rồi, ta sẽ thênh thang trong thế giới của an lạc, của giải thoát, của niết bàn. Niết bàn là sự chấm dứt của vô minh, tham đắm và giận hờn. Niết bàn cũng là sự hiển lộ của niềm an lạc và giải thoát. Quư vị cứ thử ra nh́n một ḍng sông trong hay một tia nắng sớm. Qúy vị sẽ thấy ḿnh đă tiếp xúc được với thế giới của an lạc và giải thoát chưa. Nếu bị giam hăm trong ngục tù của phiền năo, ta vẫn c̣n chưa tiếp xúc thật sự được với những nhiệm mầu của vũ trụ, trong đó có hơi thở ta, thân và tâm ta. Phá giặc phiền năo bằng phép quán chiếu, đó là con đường tôi đă t́m ra được. Tôi đă thực nghiệm, đă thành công và đă chỉ bày cho nhiều người khác. Nhiều người thực hành theo phương pháp ấy cũng đă thành công”.
C̣n tiếp.
florida80
12-21-2019, 19:10
Người tu chánh định, cốt để ra khỏi trần lao, nếu tâm sát hại chẳng trừ, th́ chẳng thể ra khỏi, dẫu có nhiều trí thiền định hiện tiền, mà chẳng dứt sát hại, ắt phải lạc vào đạo qủy thần. Hạng trên thành tựu đại lực qủy, hạng giữa thành phi hành dạ xoa và các loại qủy soái, hạng dưới thành địa hành la sát. Các loài qủy thần kia cũng có đồ chúng, mỗi mỗi đều xưng đă thành đạo vô thượng, sau khi ta diệt độ, trong đời mạt pháp, loại qủy thần này sôi nổi trên thế gian, tự nói ăn thịt cũng được đạo Bồ Đề....
".....Các ngươi nên biết, những người ăn thịt, dù được khai ngộ tựa như Tam Ma Địa, nhưng đều là giống La Sát, khi hết phước báu, ắt phải ch́m đắm trong biển khổ, chẳng phải đệ tử Phật. Những người như thế, giết nhau nuốt nhau, ăn nhau không thôi, làm sao ra được khỏi luân hồi.
"Ngươi dạy người đời tu Tam Ma Địa, phải dứt trừ sát sanh, ấy là lời dạy rơ ràng trong sạch, gọi là nghĩa quyết định thứ hai của chư Phật !
"A Nan ! Nếu chẳng dứt sát hại mà tu thiền định, cũng như có người tự bịt lỗ tai, lớn tiếng kêu to mà mong người khác chẳng nghe, bọn này gọi là muốn giấu mà càng lộ. Hàng Tỳ Kheo trong sạch và chư Bồ Tát, đi trong đường tẻ c̣n chẳng dẫm lên cỏ, huống là nhổ cỏ. Làm sao người có ḷng đại bi lại ăn thịt chúng sanh ?
"Nếu Tỳ Kheo chẳng mặc tơ lụa, chẳng mang dày dép da cừu, chẳng ăn những tô lạc đề hồ.. thuộc bộ phận thân thể của chúng sanh, th́ Tỳ Kheo nầy nơi thế gian gọi là chơn giải thoát, khi nợ xưa trả sạch th́ chẳng sanh vào ba cơi. Tại sao ? V́ những bộ phận thân thể của chúng sanh để ăn mặc, th́ phải trả nợ chúng sanh. Như người ăn lúa thóc từ đất mọc th́ chân chẳng ĺa đất. Cũng vậy, người mà đối với thân thể của chúng sinh đều chẳng ăn chẳng mặc, ta nói người này là chơn giải thoát." [2]
Lời Phật dạy.
florida80
12-21-2019, 19:10
Lời Phật Dạy.
"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nguyên nhân, do chính dục làm nhân, vua tranh đoạt với vua, Sát-đế-lỵ tranh đoạt với Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn tranh đoạt với Bà-la-môn, gia chủ tranh đoạt với gia chủ; mẹ tranh đoạt với con, con tranh đoạt với mẹ; cha tranh đoạt với con, con tranh đoạt với cha; anh em tranh đoạt với anh em; anh tranh đoạt với chị; chị tranh đoạt với anh; bạn bè tranh đoạt với bạn bè. Khi chúng dấn ḿnh vào tranh chấp, tranh luận, tranh đoạt, chúng tấn công nhau bằng tay, chúng tấn công nhau bằng gạch đá, chúng tấn công nhau bằng gậy gộc, chúng tấn công nhau bằng đao kiếm. Ở đây, chúng đi đến tử vong, đi đến đau khổ gần như tử vong". (Trung Bộ I. 87)
Lời dạy về Ḥa B́nh của Đức Phật.
florida80
12-21-2019, 19:11
Lời Phật Dạy.
"Này Hiền giả, theo lời dạy của Ta, trong thế giới với chư Thiên, Mara và Phạm thiên, với các chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, không có tranh luận với ai ở đời". (Trung Bộ I. 109A)
"Thắng trận sanh thù oán,
Bại trận nếm khổ đau,
Ai bỏ thắng, bỏ bại,
Tịch tịnh hưởng an lạc". (Tương Ưng I. 102)
Lời dạy về Ḥa B́nh của Đức Phật.
florida80
12-21-2019, 19:12
Lời Phật Dạy.
"Này Tỷ-kheo, do bất cứ nhân duyên ǵ, một số hư luận vọng tưởng ám ảnh một người, nếu ở đây không có ǵ đáng hoan hỷ, đáng đón mừng, đáng chấp thủ, thời như vậy là sự đoạn tận tham tùy miên, sự đoạn tận sân tùy miên, sự đoạn tận kiến tùy miên, sự đoạn tận nghi tùy miên, sự đoạn tận mạn tùy miên, sự đoạn tận hữu ái tùy miên, sự đoạn tận vô minh tùy miên, sự đoạn tận chấp trượng chấp kiếm, đấu tranh, tránh tranh, luận tranh, kháng tranh, ly gián ngữ, vọng ngữ. Chính ở nơi đây, những ác bất thiện pháp này đều được tiêu diệt, không c̣n dư tàn". (Trung Bộ I. 110)
Lời dạy về Ḥa B́nh của Đức Phật.
florida80
12-21-2019, 19:12
Lời Phật Dạy.
Đức Phật trong khi quan sát tâm trí của mọi loài chúng sanh, ngài đă tuyên bố rằng,
"Mọi loài thương tự ngă của ḿnh là tối thượng. Nếu chúng ta thương tự ngă của chúng ta, chớ có làm hại tự ngă của người. Mọi loài cầu an lạc. Hại người để cầu an lạc cho ḿnh thật là hạ sách. Đừng hại người mới là thượng sách đem lại hạnh phúc cho ḿnh. Đối với ta, chỉ những ai thật sự không làm hại một ai, mới xứng danh là vị "Bất hại".
Bậc Thánh, bậc có trí không hại một chúng sanh nào. Hành động các vị ấy, thân nghiệp, khẩu nghiệp hay ư nghiệp hoàn toàn bất hại. Đó là lư do tại sao các vị ấy được gọi là các bậc Thánh...."
Lời dạy về ḥa b́nh của Đức Phật.
florida80
12-21-2019, 19:13
khi cùng nhau bàn cải để cùng thấy một SỰ THẬT
th́ cái đó là để tiến đến một H̉A B̀NH VĨNH CỮU chứ không phải để THUA hay THẮNG. Chỉ v́:
SỰ THẬT CHẲNG THUỘC VỀ AI MÀ LÀ CHUNG CHO TẤT CẢ
Đức PHẬT từ bỏ cung vàng điện ngọc, giảng đạo, thuyết pháp cho đến hơi thở cuối cùng
cũng chỉ để cho chúng sanh ra khỏi VÔ MINH để thấy SỰ THẬT.
Người PHẬT TỬ có TRÍ HUỆ do đó không đem chiêu bài H̉A B̀NH giả dối tạm bợ
làm khó khăn cho các vị BỒ TÁT muốn kiên tŕ giúp đỡ chúng sanh ra khỏi VÔ MINH.
Chúng ta chỉ chống đối những hành vi BẠO ĐỘNG mà thôi.
Chứ không chống đối TỰ DO TƯ TƯỞNG, TỰ DO TRANH LUẬN.
florida80
12-21-2019, 19:14
Đức Phật từ bỏ cung vàng điện ngọc, giảng đạo, thuyết pháp... chứ không Gáy Sảng cho đến hơi ...gáy cuối cùng!
Người phàm phu có trí huệ tàm tạm cũng không hiểu bậy bạ ư nghĩa HB của Phật hay người khác như là "chiêu bài giả dối tạm bợ". Người ta thường lẫn lộn giữa Bồ Nông với Bồ Tát. Bồ Tát không có bạo động hay bạo mồm Gáy Sảng ̉ÓO như gà ...
florida80
12-21-2019, 19:15
Lời Phật Dạy.
"Này các Tỷ-kheo, nếu có sợ hăi ǵ khởi lên, chúng khởi lên cho người ngu, chớ không phải cho người trí. Nếu có thất vọng ǵ khởi lên, chúng khởi lên cho người ngu, chớ không phải khởi lên cho người trí. Nếu có tai họa ǵ khởi lên, chúng khởi lên cho người ngu, chớ không phải cho người trí". (Trung Bộ III. 188)
Lời dạy của Đức Phật.
florida80
12-21-2019, 19:15
Lời Phật Dạy.
"Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận sát sinh, từ bỏ sát sinh. Này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử từ bỏ sát sinh, đem (sự) không sợ hăi cho vô lượng chúng sinh, đem (sự) không hận thù cho vô lượng chúng sinh, đem (sự) không hại cho vô lượng chúng sinh; sau khi cho vô lượng chúng sinh, không sợ hăi, không hận thù, không hại, vị ấy sẽ được san sẻ vô lượng không sợ hăi, không hận thù, không hại. Này các Tỷ-kheo, đây là bố thí thứ nhất, là đại bố thí, được biết là tối sơ, được biết là lâu ngày, không bị những Sa-môn, Bà-la-môn có trí khinh thường". (Tăng Chi III. A. 229)
Lời dạy của Đức Phật về sát sinh.
florida80
12-21-2019, 19:16
Lời Phật Dạy.
"Này các Tỷ-kheo, có sáu pháp này cần phải ghi nhớ, tạo thành tương ái, tạo thành tương kính, đưa đến ḥa đồng, đưa đến không tranh luận, ḥa hợp nhất trí. Thế nào là sáu? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo an trú từ thân hành đối với các vị đồng Phạm hạnh, cả trước mặt lẫn sau lưng. Pháp này cần phải ghi nhớ, tạo thành tương ái, tạo thành tương kính, đưa đến ḥa đồng, đưa đến không tranh luận, ḥa hợp, nhất trí. Lại nữa, này các Tỷ- kheo, Tỷ-kheo an trú từ khẩu hành... an trú từ ư hành đối với các vị đồng Phạm hạnh, cả trước mặt lẫn sau lưng. Pháp này cần phải ghi nhớ, tạo thành tương ái, tạo thành tương kính, đưa đến ḥa đồng, đưa đến không tranh luận, ḥa hợp nhất trí. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, đối với các tài vật nhận được đúng pháp, hợp pháp, cho đến những tài vật thâu nhận chỉ trong b́nh bát, Tỷ-kheo không phải là người không san sẻ các tài vật nhận được như vậy, phải là người san sẻ dùng chung với các vị đồng Phạm hạnh có giới đức. Pháp này... (như trên) ... đưa đến không tranh luận, ḥa hợp, nhất trí."
florida80
12-21-2019, 19:16
Lời Phật Dạy.
"Này các Tỷ-kheo, nếu sát sanh được thực hiện, được luyện tập, được làm cho sung măn, đưa đến địa ngục, sẽ đưa đến loài bàng sanh, đưa đến cơi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ (sabbalahuso) của sát sinh, là được làm người với tuổi thọ ngắn". (Tăng Chi III A. 230)
florida80
12-21-2019, 19:17
Re: Lời Phật Dạy.
Pháp này đưa đến không tranh luận, ḥa hợp, nhất trí. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, đối với các giới luật không có vi phạm, không có tỳ vết, không có vẩn đục, không có uế tạp, giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp trước, đưa đến Thiền định, Tỷ-kheo sống thành tựu trong các giới luật ấy với các vị đồng Phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng. Pháp này... (như trên)... ḥa hợp, nhất trí. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, đối với các tri kiến, thuộc về bậc Thánh, có khả năng hướng thượng, khiến người thực hành chân chánh diệt tận khổ đau, Tỷ-kheo sống thành tựu tri kiến như vậy, cùng với các vị đồng Phạm hạnh, cả trước mặt lẫn sau lưng. Pháp này cần phải ghi nhớ, tạo thành tương ái, tạo thành tương kính, đưa đến ḥa đồng, đưa đến không tranh luận, ḥa hợp, nhất trí. Này các Tỷ-kheo, có sáu pháp này, cần phải ghi nhớ, tạo thành tương ái, tạo thành tương kính, đưa đến ḥa đồng, đưa đến không tranh luận, ḥa hợp, nhất trí". (Trung Bộ I. 321 B)
Lời dạy của Đức Phật.
florida80
12-21-2019, 19:18
Re: Lời Phật Dạy.
Quote Originally Posted by blackcolor View Post
Hi NR.
Hiện tại, tôi đang 1 ăn trường chay. Một đắc điểm là tôi ăn chay giữa 1 hoàn cảnh là tất cả mọi người quanh tôi không 1 ai ăn chay, ngay cả nhà tôi. Tôi thấy những người cùng ăn chay có nhiều điểm tương đồng... ! thế thôi. Chứ tôi không nghĩ tôi là người tốt, cũng như không nghĩ ăn chay là tốt, chỉ đơn giản nó hợp với tôi. Đối với tôi không có "kẻ sấu, kẻ tốt", "kẻ vĩ đại hay hèn",... Với tôi chỉ có 2 loai: một là "chơi" với tôi ( họ là tất cả của tôi ), hai là "không chơi" với tôi ( có thể không liên can tới tôi, hoặc chống lại tôi, tôi không quan tâm ). "Kiếm tiền" là tṛ giải trí vui thích nhất của tôi, cuộc sống của tôi là những người "chơi với" tôi.
Chào BCL.
Không ai ăn chay mà bạn ăn chay là hay quá rồi. (laugh). Thật ra, NR không nghĩ ăn chay là xấu hay tốt. NR chỉ nghĩ là nên ăn chay v́ thương xót chúng sanh. Vậy thôi (smile).
Cảm ơn bạn chia xẽ quan điểm này. Lần đầu tiên, NR nghe phân tích như vậy. Một lọai chơi và một lọai không chơi (laugh) (vổ tay)
Thân mến.
florida80
12-21-2019, 19:19
Lời Phật Dạy.
"Này các Tỷ - kheo, các Thầy nghĩ thế nào? Trong khi các Thầy sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau bằng binh khí miệng lưỡi, trong khi ấy các Thầy có an trú từ thân hành đối với các vị đồng Phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng không? Các Thầy có an trú từ khẩu hành đối với các vị đồng Phạm hạnh, cả trước mặt lẫn sau lưng không? Các Thầy có an trú từ ư hành đối với các vị đồng Phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng không?" - "Bạch Thế Tôn, không". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy đă chấp nhận rằng, trong khi các Thầy sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau bằng binh khí miệng lưỡi, trong khi ấy không an trú từ thân hành đối với các vị đồng Phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng, không an trú từ khẩu hành đối với các vị đồng Phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng, không an trú từ ư hành đối với các vị đồng Phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng. Như vậy, này các kẻ ngu kia, do biết ǵ, do thấy ǵ các Thầy sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau với những binh khí miệng lưỡi, và các Thầy không tự thông cảm nhau, không chấp nhận ḥa giải. Như vậy, này các kẻ ngu kia, các Thầy sẽ phải chịu bất hạnh, đau khổ trong một thời gian dài ". (Trung Bộ I. 321A-321B)
florida80
12-21-2019, 19:19
Lời Phật Dạy.
"Tiếng thương yêu có nhiều nghĩa, ta phải xét cho kỹ về bản chất của từng loại thương yêu. Cuộc đời cần đến đến sự thương yêu, nhưng không phải là thứ thương yêu dựa trên căn bản của dục vọng, của đam mê và vướng mắc, của phân biệt và kỳ thị. Có một thứ t́nh thương mà cuộc đời rất cần đến, đó là ḷng từ bi. Từ là maitri, c̣n bi là karuna.
T́nh thương mà người đời thường nói tới là t́nh thương giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ và chồng, giữa những người cùng trong họ hàng, cùng thân tộc, cùng giai cấp hoặc cùng quốc gia. V́ t́nh thương ấy c̣n dựa vào ư niệm “tôi” và “của tôi” cho nên bản chất của nó c̣n là sự vướng mắc và phân biệt. Người ta chỉ muốn thương cha của ḿnh, thương mẹ của ḿnh, thương chồng của ḿnh, thương vợ của ḿnh, thương con của ḿnh, thương cháu của ḿnh, thương họ hàng của ḿnh, thương đất nước của ḿnh, cho nên người ta c̣n vướng mắc và phân biệt. Vướng mắc cho nên lo lắng về những bất trắc có thể xảy đến dù chúng chưa xảy đến, vướng mắc cho nên phải gánh chịu sầu đau và thất vọng mỗi khi có những bất trắc xảy đến. Phân biệt cho nên có thái độ nghi kỵ, hờ hững và ghét bỏ đối với những người ḿnh không thương. Vướng mắc và phân biệt đều là những nguyên nhân của khổ đau, khổ đau cho ḿnh và cho người. Đại vương, thứ t́nh thương mà muôn loài đang khao khát là ḷng từ bi. Từ là thứ t́nh thương có thể đem đến an vui cho kẻ khác, bi là thứ t́nh thương có thể làm vơi đi những khổ đau của kẻ khác.
Từ và bi là thứ t́nh thương không có điều kiện, không bắt buộc và không đ̣i hỏi bất cứ một sự đền đáp nào. Trong từ bi, người được thương không phải chỉ là cha ta, mẹ ta, vợ ta, chồng ta, con ta, huyết thống ta, giai cấp ta ... Kẻ được thương là tất cả mọi người và mọi loài. Trong từ và bi không có sự phân biệt ta và không ta, của ta và của không của ta. V́ không phân biệt nên không có vướng mắc. Từ và Bi chỉ đem lại niềm vui và làm giảm đi nổi khổ; Từ và Bi không gây lo lắng sầu khổ và thất vọng. Thiếu từ bi, cuộc đời sẽ khô khan, khổ đau và buồn chán như đại vương nói. Có từ bi, cuộc đời sẽ có an lạc, hạnh phúc và tươi vui..."
Lời Phật Dạy.
Đường Xưa Mây Trắng.
florida80
12-21-2019, 19:20
Lời Phật Dạy.
Đức Phật dạy: “Ḷng tham và dục vọng là những nhân của khổ đau. Mọi sự mọi vật đều đổi thay không sớm th́ muộn, vậy chớ nên tham đắm vào bất cứ vật ǵ. Mà cần phải tinh cần nỗ lực tu hành, cải đổi thân tâm để t́m thấy hạnh phúc miên viễn.”
www.quangduc.com
florida80
12-21-2019, 19:20
Lời Phật Dạy: Điều quan yếu nhất là phải nắm lấy tâm ư của ḿnh. Phải học phương pháp theo dơi hơi thở và quán niệm về bốn lănh vực thân thể, cảm thọ tâm ư và đối tượng tâm ư. Quán niệm như thế nào để càng ngày càng thấy phát triển nơi ḿnh các đức khiêm nhường, thanh thản, buông bỏ, thanh bần và an lạc. Khi những phẩm chất ấy của tâm ư được phát triển, ḿnh có thể an tâm là ḿnh đang đi trên con đường chánh pháp, con đường tỉnh thức và giác ngộ.
Trích Dẫn: Đường Xưa Mây Trắng:
Nguyên Tác: The Old Path White Cloud
Tác Giả: Thiền Sư Nhất Hạnh.
florida80
12-21-2019, 19:21
: Lời Phật Dạy.
Lời dạy của ta không phải đến để tin, mà đến để thấy và thực hành"
Lời dạy của Đức Phật.
(My teaching is not to come and believe, but to come, see and practise).
www.quangduc.com
florida80
12-21-2019, 19:22
Lời Đức Phật dạy cho các cư sĩ.
"Ở đây này các Gia chủ, người phạm giới sống trái với luật sẽ bị tiêu hao tiền của rất nhiều, v́ sống phóng dật. Đó là điều nguy hiểm thứ nhất cho những ai phạm giới, sống trái giới luật.
"Lại nữa, này các Gia chủ, người phạm giới, sống trái giới luật bị tiếng dữ đồn xa. Đó là điều nguy hiểm thứ hai cho những ai phạm giới, sống trái giới luật.
"Lại nữa, này các Gia chủ, người phạm giới, sống trái giới luật khi vào đồ chúng nào, hoặc Sát-đế-lỵ, hoặc Bà-la-môn, hoặc Gia chủ, hoặc Sa-môn, người ấy đi vào với tâm thân sợ hăi bối rối. Đó là điều nguy hiểm thứ ba cho những ai phạm giới, sống trái giới luật.
"Lại nữa, này các Gia chủ, người phạm giới, sống trái với luật sẽ chết với tâm hồn rối loạn. Đó là điều nguy hiểm thứ tư cho những ai phạm giới, sống trái giới luật.
"Lại nữa, này các Gia chủ, người phạm giới, sống trái giới luật sau khi thân hoại mạng chung, sẽ bị sanh vào khổ cảnh, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Đó là điều nguy hiểm thứ năm cho những ai phạm giới, sống trái giới luật.
"Này các Gia chủ, đó là năm điều nguy hiểm cho những ai phạm giới, sống trái giới luật.
"Này các Gia chủ, có năm sự lợi ích cho những ai giữ giới, sống theo giới luật. Thế nào là năm?
"Ở đây này các Gia chủ, người giữ giới, sống theo giới luật sẽ có tiền của dồi dào, v́ sống không phóng dật. Đó là sự lợi ích thứ nhất cho những ai giữ giới, sống theo giới luật".
"Lại nữa, này các Gia chủ, người giữ giới sống theo giới luật được tiếng tốt đồn xa. Đó là sự lợi ích thứ hai cho những ai giữ giới, sống theo giới luật.
"Lại nữa, này các Gia chủ, người giữ giới, sống theo giới luật khi đi vào đồ chúng nào, hoặc Sát-đế-lỵ, hoặc Bà-la-môn, hoặc Gia chủ, hoặc Sa-môn, người ấy đi vào với tâm thần không sợ hăi, không bối rối. Đó là lợi ích thứ ba cho những ai giữ giới, sống theo giới luật.
"Lại nữa, này các Gia chủ, người giữ giới sống theo giới luật, sau khi thân hoại mệnh chung với tâm hồn không rối loạn. Đó là sự lợi ích thứ tư cho những ai giữ giới, sống theo giới luật.
Lại nữa, này các Gia chủ, người giữ giới sống theo giới luật, sau khi thân hoại mạng chung sẽ được sanh vào thiện thú, thiên giới, c ơi đời này. Đó là sự lợi ích thứ năm cho những ai giữ giới, sống theo giới luật. Này các Gia chủ, đó là năm sự lợi ích cho những ai giữ giới, sống theo giới luật”.
florida80
12-21-2019, 20:38
Thường Xuyên Căi Cọ Với Người Thân Làm Tăng Nguy Cơ Tử Vong
Một nghiên cứu từ Đan Mạch cho thấy những người thường xuyên căi vă với gia đ́nh hay bạn bè, hoặc quá lo lắng cho những người thân yêu của họ có nguy cơ chết sớm ở độ tuổi trung niên gấp ba lần so với những người ít tranh căi hơn.
Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện ra nam giới thất nghiệp tỏ ra đặc biệt dễ bị ảnh hưởng bởi stress do những va chạm thường xuyên với bạn bè và gia đ́nh.
"Thỉnh thoảng xảy ra căi cọ là chuyện b́nh thường, nhưng lúc nào cũng trong t́nh trạng đó th́ hết sức nguy hiểm", nhà nghiên cứu Rikke Lund, phó giáo sư y tế xă hội học thuộc đại học Copenhagen cho biết. Gần 10.000 người đàn ông và phụ nữ độ tuổi 36-52 đă tham gia vào nghiên cứu, được khởi động vào năm 2000. Họ được hỏi những câu hỏi về các mối quan hệ xă hội thường ngày của ḿnh, mức độ xảy ra mâu thuẫn giữa họ với bạn đời, con cái, bạn bè hay hàng xóm, cũng như liệu họ có cảm thấy lo lắng hay đ̣i hỏi ǵ với bạn bè và người thân hay không. Qua nghiên cứu, cứ 10 người th́ có 1 người cho biết bạn đời hoặc con cái thường xuyên đ̣i hỏi hoặc khiến họ thấy không an tâm, và cứ 20 người th́ có 1 người cho biết thường xuyên căi cọ với bạn đời hoặc con cái.
11 năm sau, 196 người phụ nữ (tương đương 4%) và 226 người đàn ông (tương đương 6%) đă qua đời. Khoảng một nửa trong số này chết v́ ung thư, và số c̣n lại là do bệnh tim, tai nạn, tự tử và bệnh gan do lạm dụng đồ uống có cồn. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng, những người đă đề cập đến việc thường xuyên xảy ra mâu thuẫn với những người khác trong đời sống xă hội của họ có nguy cơ tử vong cao gấp 2-3 lần trong suốt thời gian nghiên cứu so với những người ít có mâu thuẫn hơn. Những người bày tỏ sự lo lắng hoặc đ̣i hỏi với bạn đời hoặc con cái cũng có nhiều hơn 50-100% nguy cơ tử vong. “Lo lắng cho người khác chứng tỏ chúng ta yêu thương và quan tâm đến họ. Nhưng điều này không tốt cho sức khỏe khi nó chiếm hết thời gian của bạn", phó giáo sư Lund cho biết. Kết quả nghiên cứu được đưa ra khi các nhân tố khác ảnh hưởng tới nguy cơ tử vong được kiểm soát như giới tính, tuổi tác, việc làm, tầng lớp xă hội, tiền sử bệnh tật nghiêm trọng.
Sự căng thẳng thường xuyên trong các mối quan hệ xă hội nhiều khả năng làm tăng nguy cơ tử vong của con người theo nhiều cách khác nhau. Các nghiên cứu trước đây đă đề cập đến mối liên hệ giữa căng thẳng trong quan hệ xă hội và sức khỏe, và một số đă chỉ ra tỷ lệ mắc bệnh tim cao hơn ở những người hay chịu áp lực hoặc quá lo lắng bởi các quan hệ xă hội. Những người thường xuyên bị áp lực có xu hướng thực hiện các hành vi có hại cho sức khỏe như hút thuốc và nghiện rượu, hoặc trở nên phiền muộn và bị béo ph́.
Những yếu tố này sẽ làm tăng nguy cơ tử vong sớm của họ. Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng sự thất nghiệp làm gia tăng sự căng thẳng trong các mối quan hệ xă hội. Những người thất nghiệp có nguy cơ chết sớm cao hơn những người cũng trải qua căng thẳng tương tự nhưng đă có việc làm.“Việc trải qua những mối quan hệ xă hội căng thẳng có thể gây ra những triệu chứng trên cơ thể như tăng huyết áp. Các triệu chứng này là một phần lời giải thích cho mối liên hệ giữa sự căng thẳng và khả năng tử vong sau đó 10 năm", nghiên cứu cho biết.
Sưu tầm
florida80
12-22-2019, 20:45
GIÚP NGƯỜI VỪA MỚI QUA ĐỜI
(Tạp A Hàm quyển 2 Kinh 638 trang 606, 607; Vấn Đề Sinh Tử)
Theo một số sách viết không chủ trương có khoảng thời gian từ khi chết đến lúc tái sinh, nghĩa là sau khi chết tái sinh liền vào một trong sáu cơi; nhưng theo Kinh sách Tây Tạng lại viết: “Sau khi chết, có trạng thái của “Thân Trung Ấm”, tức là có người sau khi chết tái sinh liền, có người tái sinh sau 1, 2, 3, 4 . . . ngày cho đến chậm nhất là 49 ngày”, như vậy có trái nhau không? Chúng ta thấy đức Phật đă đề cập nhiều đến những người có ác nghiệp nặng đọa Địa ngục nhanh như phóng thanh kiếm xuống nước, những người làm thiện, có tu sinh lên Trời nhanh như tên bắn, dúng là liền sau khi lâm chung tái sinh ngay. Nhưng chúng ta không thấy đức Phật đề cập đến trường hợp của người b́nh thường, v́ vấn đề này vô ích, mất thời giờ nên đă không được đức Phật đề cập tới, như vậy, việc này chỉ để giải thích thêm chi tiết cho việc tái sinh, không có ǵ gọi là trái ngược cả. Ngoài ra, t́m kiếm trong Kinh điển, chúng tôi thấy trong Tạp A Hàm, quyển 2, Kinh số 640, trang 606 ḍng thứ 15, trang 607 ḍng thứ 10, đức Phật có nói tới chữ “Thân Trung Ấm”. Do đó, chúng tôi viết bài “Giúp người vừa mới qua đời” để cống hiến người đọc thêm lợi lạc.
Theo quyển “Vấn Đề Sinh Tử”, dịch từ cuốn “Thân Trung Ấm” (Bardo Thodol) do Tổ Liên-Hoa Tây Tạng (Padma Sambhava) dùng Thần thông nh́n nhiều người từ lúc vừa mới chết tới hết 49 ngày mà viết ra vào thế kỷ thứ 8 Dương lịch; sau được Ngài Lạt-Ma Rigzin Karma Lingpa t́m thấy và truyền tới ngày nay. Sau đây là những điểm căn bản cần thiết để giúp cho người quá cố.
Người chết trải qua 3 giai đoạn: lúc lâm chung, lúc tiếp dẫn, và lúc tái sinh.
I). Giai đoạn 1: Lâm chung. Ba ngày đầu
1). Đối với những người đặc biệt.
Đối với những người đă tạo nghiệp đặc biệt, đều chuyển ngay sau khi qua đời, có 2 loại người:
1- Người Tu hành: Trường hợp các vị Thiền-Sư đạt đạo, các vị tu Tịnh Độ, v.v…biết trước ngày giờ lâm chung. Các vị này nhập vào đại định ḥa hợp cùng Pháp thân Phật thoát khỏi ṿng sinh tử, hoặc được Phật A Di Đà đến tiếp dẫn.
2- Người phạm tội Ngũ nghịch, đại ác: Những người này đọa sinh ngay tức khắc xuống Địa ngục sau khi chết.
2). Đối với những người b́nh thường.
Giai đoạn lâm chung kéo dài từ lúc tim ngừng đập cho đến hết 3 ngày. Sau khi chết, thần thức thấy :
1- Thấy thân thể nặng nề, lạnh lẽo: V́ do đất, nước, gió, lửa bắt đầu tan ră (Thân thể phân hóa).
2- Thấy ánh sáng chói ḷa.
Ánh sáng này là Pháp Thân Phật, hiện ra trong chớp mắt hoặc lâu tới một giờ tùy theo phúc duyên của người chết. Nếu Thần thức tỉnh táo nhận ra Pháp Thân Phật, Thần thức sẽ nhập ánh sáng chói ḷa và thoát ṿng sinh tử. Nhưng đối với người không tu, không dễ nh́n ra Pháp Thân Phật, hoặc có thấy được cũng v́ vô minh mà sinh tâm sợ hăi, né tránh. Nếu cơ hội qua mất, tiếp theo là:
3- Thấy tối tăm.
Khi ánh sáng chói ḷa biến mất, th́ mù mịt tối đen, Thần thức (hay Hương linh) của người chết lúc này như trong đêm tối u mê; sau đó Thần thức tỉnh lại, thấy thân nhân tụ tập nói chuyện, buồn rầu, khóc than v.v..., lúc này Thần thức chưa biết là đă chết. Thần thức liền nói chuyện hỏi han, nhưng như chẳng ai để ư và nói chuyện cùng Thần thức, có khi Thần thức cảm thấy bực bội v́ sự việc như thế; trải qua thời gian khá lâu như thế, Thần thức mới hiểu ra là đă chết rồi.
3). Các điều cần để ư làm:
1- Ngay từ khi vừa tắt thở, tim ngừng đập, nên có người nhắc nhở Thần thức (Nếu có Tăng, Ni hoặc thân nhân hiểu đạo mà người chết tin cẩn trước kia th́ càng tốt), nói với người chết rằng:
- Cụ ... (tên người chết) nay đă chết rồi, Cụ ... hăy b́nh tĩnh, mạnh dạn ra đi; Cụ ... đừng luyến tiếc những ǵ đă qua, Cụ ... nhớ rằng có sinh th́ có chết là lẽ đương nhiên. Khi có nhân duyên th́ hội tụ, khi hết nhân duyên th́ tan ră; không có ǵ phải sợ hăi khi thân không c̣n nữa và tan hoại, Cụ ... hăy b́nh tĩnh chấp nhận ra đi, Cụ... hăy nhớ niệm Phật A Di Đà để xin Phật đến tiếp dẫn. Sau đó chúng ta niệm Phật để Thần thức niệm theo; “Nam mô tiếp dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật, Nam mô A Di Đà Phật, Nam Mô…”.
2- Thỉnh mời Chư Tăng Ni trong việc hành lễ. Chúng ta nên dùng tư tưởng trong sạch, an tĩnh, ḷng từ bi dẫn dắt Thần thức đến cơi an vui, đó là những giọt nước trong mát khiến Thần thức cảm thấy dễ chịu.
3- Thân nhân người chết nên quy y Tam Bảo, ăn chay, đọc Kinh, cúng dường, bố thí, phóng sinh, ấn tống Kinh sách Phật, v. v..., các việc làm này nên kéo dài trong suốt 49 ngày, nhất là niệm Phật, tụng Kinh; sau đó hồi hướng phúc đức này cho người chết. Nói: “Tôi nguyện (làm việc ǵ?) và xin hồi hướng công đức cho Thần thức (tên người chết) được về nơi an lành”, phúc đức này tạo điều kiện cho Thần thức dễ siêu thoát.
4- Thân nhân không nên than khóc và kể lể chuyện luyến ái. Thần thức nghe thấy sẽ khổ sở, quyến luyến, hoang mang và không c̣n sáng suốt b́nh tâm để siêu thoát; Thần thức sẽ phải ở lâu trong Thân Trung Ấm, và phải chịu nhiều cảnh sợ hăi.
5- Không nên gây tiếng động ồn ào hoặc có mặt người không thiện cảm với người chết trước kia đến gần, sẽ làm cho hoang mang khó chịu, v́ Thần thức rất nhạy cảm.
6- Tuyệt đối không giết súc vật để làm ma cho người chết, v́ đây là gây nghiệp dữ, xấu cho cả người chết lẫn người sống.
II). Giai đoạn 2: Tiếp Dẫn
Từ ngày thứ 4 đến hết ngày 17
Sau khi tim ngừng đập hết 3 ngày, Thần thức bắt đầu Thân Trung Ấm, nghĩa là “ấm” trước đă hết, “ấm” sau chưa sinh có thân chuyển hóa nơi khoảng giữa gọi là Thân Trung Ấm, thân này có thể kéo dài tới ngày thứ 49 sau khi chết. Giai đoạn hai ở vào thời gian tiếp dẫn của chư Phật, kéo dài 14 ngày, tùy theo phúc duyên, nghiệp cảm đă tạo ra trong suốt đời người quá cố, Thần thức có thể rời Thân Trung ấm.
1). Các việc cần làm.
1- Niệm Phật: Hộ niệm cho Thần thức nương theo lời niệm Phật để khi Phật tới dễ dàng ḥa nhập tiếp dẫn.
2- Tụng Kinh A Di Đà: Để nhắc nhở thần thức chú tâm nhận sự tiếp dẫn của Phật A Di Đà về cơi An Lạc.
3- Tụng Kinh Cầu Siêu: Trợ duyên cho Thần thức, lời Kinh nhắc nhở về vô thường, để Thần thức dễ siêu thoát.
4- Nhắc nhở Thần thức: Những lúc không niệm Phật tụng Kinh, chúng ta thường xuyên nên nhắc nhở Thần thức về các hiện tượng xảy ra trong giai đoạn 14 ngày này để cho Thần thức biết, hiểu và hành động theo lời chúng ta nhắc nhở là:
- Thần thức không nên thích ánh sáng mờ nhạt, v́ đó là các cảnh xấu, nơi không tốt.
- Thần thức không nên sợ hăi ánh sáng chói ḷa, v́ đó là hào quang Phật, nên ḥa nhập.
Tùy theo đức Phật nào xuất hiện mà khuyên bảo Thần thức theo lịch tŕnh dưới đây.
2). Lịch tŕnh 14 ngày tiếp dẫn. Có các Phật:
01- Ngày thứ tư (Sau 3 ngày tức sau 72 giờ tính từ lúc tim ngừng đập):
Đại Nhật Quang Như-Lai (Phật Vairocana) hiện ra ngồi trên Sư tử với thân sắc sáng trắng rực rỡ chói ḷa. Đồng thời cũng có ánh sáng trắng êm dịu của cơi Trời tươi đẹp với thành quách, cung điện . . . . Nếu Thần thức biết nương vào hào quang rực rỡ sẽ thoát khỏi luân hồi về nơi cực lạc; ngược lại nếu nương theo ánh sáng trắng êm dịu, sẽ sinh cơi Trời. V́ thiếu phúc, v́ ít làm lành lánh ác, không chịu tu lúc c̣n sống, nên hầu hết sợ ánh sáng trắng, đó là chưa nói đến ánh sáng trắng chói ḷa, Thần thức sợ hăi quay mặt đi chỗ khác, hoặc không dám nh́n, nên qua ngày kế tiếp.
02- Ngày thứ năm: Bất Động Như-Lai ( Phật Akshobhya) hiện ra ngồi trên lưng Voi với toàn thân sắc lam sáng chói, đồng thời Thần thức cũng thấy màu khói đen tối của Địa ngục. Khuyên Thần thức niệm “Nam mô A Di Đà Phật” và đến nương vào hào quang chói sáng màu lam sẽ được giải thoát khỏi sinh tử được về cơi vĩnh hằng. Khuyên Thần thức đừng đến gần màu đen tối sẽ vào Địa ngục khổ sở, nếu ngần ngại, Thần thức bước sang ngày sau.
03- Ngày thứ sáu: Bảo Sinh Như-Lai (Phật Ratnasambhava) hiện ra ngồi trên ḿnh Ngựa, với toàn thân sắc vàng chói ḷa. Đồng thời thần thức cũng thấy ánh sáng màu lam nhạt của cơi Người. Khuyên Thần thức niệm “Nam mô Phật” và đến nương hào quang vàng rực rỡ được giải thoát khỏi luân hồi về nơi cực lạc; ngược lại, Thần thức chọn cảnh màu lam tái sinh lại cơi Người; nếu vẫn chưa đi, bước sang ngày tiếp.
04- Ngày thứ bảy: Vô Lượng Quang Như-Lai (Phật Amitabha) hay Phật A Di Đà hiện ngồi trên ḿnh Công, tỏa ánh sáng màu đỏ chói, có Bồ-Tát Quán Thế-Âm và Đại Thế-Chí hai bên; đồng thời Thần thức cũng thấy màu vàng nhạt của cơi Ngạ Quỷ. Khuyên Thần thức niệm “Nam mô A Di Đà Phật” và tiến đến nương hào quang đỏ chói th́ siêu thoát khỏi sáu cơi được về nơi Tịnh Độ An Lạc. Khuyên Thần thức đừng đến gần màu vàng nhạt sẽ bị đọa làm Ngạ Quỷ (Ma Quỷ); nếu chưa chịu đi, Thần thức bước qua ngày kế.
05- Ngày thứ tám: Bất Không Thành Tựu Như-Lai (Phật Amoghasiđhi) hiện ra ngồi trên thần Điểu, với toàn thân sắc màu lục sáng chói. Đồng thời Thần thức cũng thấy màu đỏ nhạt của cảnh giới Thần. Khuyên Thần thức niệm “Nam mô Phật” và đến nương hào quang màu lục sáng chói sẽ giải thoát khỏi sinh tử, được đến cơi Phật vĩnh cửu. Nếu Thần thức đến gần màu đỏ nhạt vào cơi Thần. Nếu vẫn chưa quyết đi, Thần thức bước sang ngày sau.
06- Ngày thứ chín: Tất cả 5 vị Phật kể trên cùng hiện ra với hào quang 5 màu rực rỡ nêu trên. Đồng thời, Thần thức cũng lại thấy 6 cảnh giới khác nhau với màu nhạt dễ chịu là: sắc trắng cơi Trời, sắc đỏ cơi Thần, sắc lam cơi Người, sắc vàng cơi Ngạ Quỷ, sắc lục cơi Súc Sinh, sắc xám đen cơi Địa Ngục. Khuyên Thần thức niệm “Nam mô Phật” và đến ḥa nhập vào các hào quang sáng chói của Phật sẽ thoát khỏi trầm luân được về cơi Phật đời đời an lạc. Khuyên Thần thức đừng đến gần các màu mờ nhạt đen tối sẽ bị đọa vào nơi xấu; nếu chưa đi, bước qua ngày tiếp.
07- Ngày thứ mười: Chư vị Bồ-Tát hiện ra trong ánh sáng chói ḷa để tiếp dẫn, đồng thời thần thức cũng thấy màu lục u tối của cơi Súc Sinh. Khuyên Thần thức niệm “Nam Mô Phật” và đến gần ánh sáng chói ḷa sẽ được Bồ Tát tiếp đón về cơi Phật thoát khỏi luân hồi. Khuyên Thần thức đừng đến gần màu lục nhạt sẽ bị vào cơi xấu Súc Sinh; nếu chưa đi, bước sang ngày kế.
Từ đây: bắt đầu những cảnh dữ tợn làm cho Thần thức sợ hăi.
08- Ngày thứ mười một: Phật Heruka hiện ra thân sắc sáng trắng, có 3 đầu, 6 tay, 4 chân; mặt giữa màu nâu, mặt bên phải màu trắng, mặt bên trái màu đỏ. Khuyên Thần thức đừng sợ hăi Phật 3 đầu 6 tay 4 chân, đây là nghiệp quả sinh ra, hăy quy y Phật và niệm “Nam mô Phật” để được Phật tiếp dẫn sẽ thoát khỏi sinh tử; nếu không chịu làm, bước qua ngày sau.
09- Ngày thứ mười hai: Phật Vajra-Heruka hiện ra thân sắc xanh dương sáng (nước biển), cũng 3 đầu, 6 tay, 4 chân; mặt giữa màu xanh đậm, mặt bên phải màu trắng, mặt bên trái màu đỏ. Khuyên Thần thức không nên sợ hăi Phật 3 đầu 6 tay 4 chân, đây là nghiệp qủa sinh ra, hăy quy y Phật và niệm “Nam mô Phật” để được tiếp dẫn về cơi Phật sẽ thoát khỏi trầm luân; nếu không, thần thức bước qua ngày tiếp.
10- Ngày thứ mười ba: Phật Ratna-Heruka hiện ra toàn thân màu vàng, cũng 3 đầu, 6 tay, 4 chân; mặt giữa màu đỏ, mặt bên phải màu trắng, mặt bên trái màu lam. Khuyên Thần thức đừng sợ hăi Phật 3 đầu 6 tay 4 chân, đây là nghiệp quả sinh ra, hăy quy y Phật và niệm “Nam mô Phật” để được tiếp dẫn về cơi Phật thoát khỏi sáu cơi; nếu không, bước qua ngày kế.
11- Ngày thứ mười bốn: Phật Padma-Heruka hiện toàn thân sắc đỏ sáng, có 3 đầu, 6 tay, 4 chân; mặt giữa màu đỏ, mặt bên phải màu trắng, mặt bên trái màu lam. Khuyên Thần thức đừng sợ hăi Phật 3 đầu 6 tay 4 chân, đây là nghiệp quả sinh ra, hăy niệm “Nam mô Phật” để được tiếp dẫn về cơi Phật thoát khỏi luân hồi; nếu không bước qua ngày sau.
12- Ngày thứ mười lăm: Phật Karma-Heruka hiện toàn thân màu xanh lục sáng có 3 đầu, 6 tay, 4 chân; mặt giữa xanh lá cây, mặt bên phải màu trắng, mặt bên trái màu đỏ. Khuyên Thần thức đừng sợ hăi Phật 3 đầu 6 tay 4 chân, đây là nghiệp quả sinh ra, hăy quy y Phật và niệm “Nam mô Phật” để được tiếp dẫn về cơi Phật thoát khỏi sinh tử; nếu không, bước qua ngày tiếp.
13- Ngày thứ mười sáu: Tám vị Trời trấn giữ 8 hướng xung quanh để tiếp dẫn:
-Trời Kerima: sắc trắng trấn giữ hướng Đông.
-Trời Pramoha: sắc đỏ trần giữ hướng Tây.
-Trời Tseurima: sắc vàng trấn giữ hướng Nam.
-Trời Petali: sắc đen trấn giữ hướng Bắc.
-Trời Pukkase: sắc đỏ trấn giữ hướng Đông Nam.
-Trời Ghamari: sắc xanh đậm trấn giữ hướng Tây Nam.
-Trời Tsandhali: sắc vàng nhạt trấn giữ hướng Tây Bắc.
-Trời Smasha: sắc xanh dương trấn giữ hướng Đông Bắc.
Khuyên Thần thức đừng sợ, hăy niệm “Nam mô Phật” để được tiếp dẫn về nơi an lành, nếu không sẽ bước qua ngày kế.
14- Ngày thứ mười bảy: Tất cả chư Phật, chư Bồ-Tát, chư Thiên (nêu trên) đồng xuất hiện để tiếp dẫn Thần thức về các cơi Phật. Khuyên Thần thức niệm “Nam mô Phật” và đến nương ánh sáng của Phật, sẽ được tiếp dẫn về cơi Phật vĩnh hằng. Nếu lúc c̣n sống, người không hiểu, không tin Phật pháp hoàn toàn, đến khi chết đi, Thần thức thấy cảnh này sẽ bối rối, nghi ngại, sợ hăi, không dám nh́n, huống là nương theo ư? Bỏ qua cơ hội về cơi vĩnh hằng, tiếc thay; do đó Thần thức bước qua giai đoạn thọ sinh.
Chúng ta không biết Thần thức của người chết đă siêu thoát hoặc tái sinh hay chưa, nên chúng ta tiếp tục nhắc nhở Thần thức giai đoạn thọ sinh dưới đây.
florida80
12-22-2019, 20:47
III). Giai đoạn 3: Thụ sinh (tái sinh)
Từ ngày 18 đến ngày 49 (Trong 32 ngày).
Thời gian thọ sinh vào 6 cơi (Trời, Thần, Người, Ngạ Quỷ, Súc sinh, và Địa ngục) lâu mau tùy theo nghiệp của mỗi người đă tạo trong khi c̣n sống. Thần thức không biết là ḿnh đang tiến gần đến chỗ phải thọ sinh, giai đoạn này rất rùng rợn, Thần thức sẽ thấy:
1). Thần thức gặp Diêm Vương.
Diêm vương có mặt dữ dằn (tợn), Thần thức thấy Diêm Vương sinh ra khiếp sợ hăi hùng, Diêm Vương tra hỏi các việc làm ác của người chết. Rồi bị quỷ tốt tra tấn hành hạ, làm cho Thần thức đau đớn, khổ sở, chết đi sống lại v.v... (Thần thức: bị tra tấn đau đớn, khiếp sợ cũng như trong ác mộng).
Đến đây, ngoài việc niệm Phật, tụng Kinh, nhắc nhở Thần thức b́nh tĩnh, không sợ hăi, nhất tâm (một ḷng) niệm Phật. Chúng ta c̣n cần trợ lực cho người chết bằng cách cho Thần thức biết là hiện tại Thần thức đang bước vào giai đoạn bắt buộc phải thọ sinh. Những cảnh của Thân Trung Ấm chỉ là chiêm bao, Diêm Vương ngục tốt chính là do nghiệp duyên biến hiện ra. Bây giờ Thần thức không c̣n xác thân hữu h́nh nữa, Thần thức không nên sợ hăi trước cảnh tra tấn; Thần thức phải luôn luôn niệm “Nam mô Phật”, th́ ác mộng sẽ tan biến.
Rồi Thần thức thấy nhiều cảnh khủng khiếp như:
- Gặp lửa cháy dữ dội.
- Gặp cuồng phong băo lụt khủng khiếp.
- Gặp các loại ác thú đuổi bắt v.v...
2). Thần thức thọ sinh:
Tùy theo nghiệp duyên của mỗi người, Thần thức sẽ thấy một trong những cảnh tướng khác nhau sau đây mà phải thọ sinh chậm nhất là ngày thứ 49:
1- Có Thần thức thấy: VƯỜN CÂY ĐẸP ĐẼ liền sinh vào cơi Thần.
2- Có Thần thức thấy: CẢNH SÚC VẬT, RỪNG RÚ rồi thọ sinh vào Súc sinh.
3- Có Thần thức thấy: ĐI TRONG HOANG ĐỊA U MINH, liền sinh vào loài Ma quỷ.
4- Có Thần thức thấy: LỬA CHÁY NGÚT TRỜI, liền sinh vào Địa ngục.
5- Có Thần thức thấy: hai NAM NỮ ĐANG VUI ĐÙA, rồi thọ sinh vào cơi Người.
6- Có Thần thức thấy: THÀNH QUÁCH CUNG ĐIỆN ĐẸP ĐẼ, liền sinh cơi Trời.
3). Điều cần biết:
1- Cơi Trời: cảnh đẹp có nhiều hồ, nhiều cây cối, nơi đó là cảnh Trời không có Phật pháp.
2- Cơi Trời: cảnh đẹp có thành quách, nhiều cung điện lộng lẫy, nơi đây có Phật pháp đang lưu hành như cơi Đạo Lợi, Đâu Suất thuộc Dục giới, cơi Phạm Thiên thuộc Sơ thiền Sắc giới.
Lời bàn:
Chúng ta không có Thần Thông, do đó không biết rơ ràng từng ngày mà Thần thức đang trải qua, và cũng không biết lúc nào Thần thức đi khỏi, nên chúng ta phải theo dơi chương tŕnh 49 ngày cho Thần thức. Nhưng giai đoạn thứ hai, tiếp dẫn, từ ngày thứ tư đến hết ngày thứ 17, chúng ta có thể căn cứ vào lịch tŕnh các đức Phật xuất hiện để nhắc nhở, hướng dẫn người chết.
Từ lâu, các Chùa thường làm lễ cầu siêu mỗi tuần một lần trong 7 tuần cho người qúa cố, sự việc này rất tốt, nhưng c̣n thiếu sự hướng dẫn Thần thức. Thiết tưởng, thân nhân của người qúa cố nên biết mà trám vào bằng niệm Phật, hướng dẫn nhắc nhở thần thức các ngày không có niệm Phật, tụng Kinh cầu siêu tại Chùa, như vậy người quá cố sẽ hưởng được nhiều lợi lạc.
Mong rằng, những ai lưu luyến thương xót người thân, và muốn cho người ra đi có được kiếp sau ở nơi tốt đẹp. Những ai mong cho người thân thương ra đi sẽ không phải đầy ải vào cơi khổ sở Địa ngục, Ngạ Quỷ, Súc sinh; th́ đây là cẩm nang tóm gọn, theo đó chúng ta có thể giúp người ra đi một cách thiết thực. Một điểm nữa là chính người Phật tử chúng ta, mỗi người cũng nên biết cẩm nang này và ghi nhớ cho chính bản thân ḿnh sau này vậy
florida80
12-22-2019, 20:49
Phật Giáo Có Đường Lối Riêng” là một cuốn sách rống lên tiếng nói sư tử của đạo Phật. Đă ai là người tu theo Phật Giáo sẽ tự hào khi ḿnh là một Phật tử và c̣n tự hào hơn khi biết rằng con đường của Phật Giáo là một con đường giải thoát cụ thể, như đức Phật đă thường nói: “Đạo ta không có thời gian, đến để mà thấy”. Sự giải thoát cụ thể rơ ràng, thiết thực, đơn giản không bị pha trộn bởi bất kỳ pháp môn nào của bất kỳ tôn giáo nào trên thế giới.
florida80
12-22-2019, 20:49
Lời cầu nguyện
1. Nếu như tôi đă làm cho ai đau khổ hoặc tổn thương bằng lời nói hay hành động, tôi xin thành tâm sấm hối. Nguyện cho oan trái giữa tôi và họ đều được hóa giải hết, và tôi cũng hoàn toàn tha thứ cho những ai đă từng làm cho tôi đau khổ, tổn thương bằng lời nói hay hành động…
Cầu mong cho thân tôi không sát sanh, không đạo tặc, không tà dâm, khẩu không nói dối, khoe khoang, đâm thọc, chửi rủa, ư không tham lam, sân hận, tà kiến, không ganh ghét, đố kị, ích kỷ, kiêu mạn, biết khiêm hạ, tôn kính mọi người,… Thường thấy lỗi ḿnh không thấy lỗi người và luôn luôn giữ vững tâm được b́nh thản trước nghịch cảnh của cuộc đời dù bị chửi mắng, đánh đập hay mưu hại…
Nguyện xin ơn trên chư Phật, chư Đại Bồ Tát từ bi gia tŕ cho chúng con từ nay cho đến ngày thành phật bao nhiêu tội chướng đều đươc tiêu trừ… Tất cả lo sợ, bệnh hoạn, tai nạn, phiền năo, oan trái, khổ đau đều được giải thoát. Sống đời đạo đức, yên vui trong chánh pháp, xa ĺa mọi ác nghiệp, tu nhiều thiện nghiệp, luôn luôn giữ vững chí nguyện tu hành. Thường thân cận chư phật, được Phật thọ kư tu bồ tát đạo, hết thảy hạnh nguyện đều được viên măn, nguyện khắp pháp giới chúng sanh đồng thành phật đạo…
2. Cầu mong cho sư trưởng, huynh đệ, ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, em, bà con ḍng họ, kẻ oán người thân của tôi,… đừng có oan trái với chúng sanh, không khổ tâm, giữ ǵn thân tâm thường được thanh tịnh, an lạc,… Nguyện xin chư Phật, chư Đại Bồ Tát từ bi gia tŕ cho sư trưởng, huynh đệ, ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, em, bà con ḍng họ, kẻ oán người thân của chúng con từ nay cho đến ngày thành phật bao nhiêu tội chướng đều được tiêu trừ, tất cả lo sợ, bệnh hoạn, tai nạn, phiền năo, oan trái, khổ đau đều được giải thoát sống đời đạo đức, yên vui trong chánh pháp, phát tâm bồ đề, tin sâu lư nhân quả, tu đạo bồ tát độ thoát chúng sanh,…
3. Cầu mong cho hết thảy chúng sanh trong đường Thiên, Nhơn, A Tu Ta, Súc Sanh, Ngạ quỷ, Địa Ngục đừng có oan trái lẫn nhau,, không khổ thân, không khổ tâm, giữ ǵn thân tâm thường được thanh tịnh, an lạc Nguyện xin ơn trên Tam Bảo từ bi gia hộ hết thảy chúng sanh trong đường Thiên, Nhơn, A Tu La, Súc Sanh, Ngạ quỷ, Địa Ngục từ nay cho đến ngày thành phật bao nhiêu oan trái, tội chướng đều được tiêu trừ,… tất cả phiền năo, thống khổ đều được giải thoát, tùy ư sanh về tịnh độ của chư Phật, hạnh nguyện Bồ Tát thành tựu viên măn, được kim cang tâm, thành bậc chánh giác, rộng độ chúng sanh đồng thành phật đạo,…
4. Nguyện cho tất cả chúng sinh ở hướng Đông đừng có oan trái lẫn nhau, hăy cho được sự yên vui. Nguyện cho tất cả chúng sinh ở hướng Tây đừng có oan trái lẫn nhau, hăy cho được sự yên vui. Nguyện cho tất cả chúng sinh ở hướng Nam đừng có oan trái lẫn nhau, hăy cho được sự yên vui. Nguyện cho tất cả chúng sinh ở hướng Bắc đừng có oan trài lẫn nhau, hăy cho được sự yên vui. Nguyện cho tất cả chúng sinh ở hướng Trên đừng có oan trái lẫn nhau, hăy cho được sự yên vui. Nguyện cho tất cả chúng sinh ở hướng Dưới đừng có oan trái lẫn nhau, hăy cho được sự yên vui. Nguyện cho tất cả chúng sinh ở khắp Mười Hướng đừng có oan trái lẫn nhau, hăy cho được sự yên vui.
(Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật)
(Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật)
(Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật)
(Nam Mô A Di Đà Phật)
(Nam Mô A Di Đà Phật)
(Nam Mô A Di Đà Phật)
florida80
12-22-2019, 20:50
Thế Nào Là Thái Độ Đúng Khi Hành Thiền?
Sayadaw U Tejaniya
1. Khi hành thiền: Không quá chú tâm. Không kiểm soát hay áp chế tâm. Đừng cố tạo điều ǵ. Đừng cưỡng ép, kiềm chế hay ngăn ngừa kinh nghiệm đang xảy ra.
2. Tại sao phải quá chú tâm khi hành thiền? Có phải do mong muốn điều ǵ xảy ra? Hay muốn chấm dứt điều ǵ đang xảy ra? Thường th́ chúng ta mắc phải những lỗi này.
3. Không cố gắng tạo ra bất kỳ điều ǵ, mà cũng không loại bỏ bất kỳ điều ǵ đang xảy ra. Luôn hay biết những ǵ sinh khởi, chấm dứt hay đang xảy ra.
4. Hiện giờ tâm đang ở đâu? Đang quan sát bên trong tâm và thân của ḿnh hay đang quan sát bên ngoài.
5. Chỉ khi nào tâm quan sát không có tham, sân hoặc lo âu, sợ sệt th́ tâm thiền mới khởi sinh.
6. Cố tạo ra điều ǵ mới là tham. Cố loại bỏ những ǵ đang xảy ra là sân. Không hay biết điều ǵ đang xảy ra hay đă chấm dứt là si.
7. Đừng kỳ vọng. Đừng mong muốn. Đừng lo lắng, băn khoăn. V́ tâm mong cầu, ham muốn hay lo lắng th́ pháp hành sẽ bị trở ngại.
8. Luôn kiểm tra lại thái độ trong khi hành thiền.
9. Việc hành thiền là chấp nhận, thư giăn và quan sát bất kỳ điều ǵ xảy ra cho dù là tốt hay xấu.
10. Sẽ là không công bằng nếu chỉ muốn có những kinh nghiệm tốt và không muốn có những kinh nghiệm khó chịu xảy ra (cho dù là nhỏ nhất).
11. Đừng hành thiền với tâm mong cầu điều ǵ xảy ra. Mong cầu điều ǵ chỉ làm cho tâm thêm căng thẳng và mệt mỏi.
12. Pháp hành sẽ không c̣n đúng nếu chúng ta cố gắng tạo ra kinh nghiệm mà ḿnh mong muốn. Hăy chỉ hay biết và quan sát những ǵ đang xảy ra đúng với bản chất của nó.
13. Nếu thấy tâm mệt mỏi nghĩa là có sự mất quân b́nh. Việc hành thiền sẽ trở nên khó khăn nếu tâm bị căng thẳng. Khi tâm hay thân mệt mỏi, hăy kiểm tra xem có thái độ chân chánh trong việc quan sát hay không?
14. Tâm và thân phải được thoải mái. Tâm thiền phải luôn thư giăn và b́nh an. Tâm nhẹ nhàng, rỗng rang sẽ giúp cho việc hành thiền tốt đẹp.
15. Hăy tự hỏi: Tâm đang làm ǵ? Đang suy nghĩ hay đang hay biết?
16. Đừng cảm thấy bị quấy rầy bởi tâm suy nghĩ. Hành thiền không phải để ngăn ngừa tâm suy nghĩ, mà để nhận ra suy nghĩ khi nó vừa khởi sinh.
17. Tâm quan sát có sự hay biết một cách sâu sắc hay chỉ hời hợt?
18. Không cần loại bỏ phiền năo. Chỉ cần hay biết, ghi nhận phiền năo khi chúng sinh khởi, v́ mục đích của việc hành thiền là quan sát và học hỏi bản chất của phiền năo và các hiện tượng diễn ra trên tâm và thân.
19. Đối tượng không quan trọng. Tâm ở đằng sau đang quan sát đối tượng th́ quan trọng hơn.
20. Chỉ khi có đức tin, tinh tấn mới sinh khởi. Chỉ khi có tinh tấn, niệm sẽ liên tục. Chỉ khi niệm liên tục, định mới được thiết lập. Chỉ khi định được thiết lập, sự hiểu biết thực sự mới đến. Khi sự hiểu biết thực sự đă có, đức tin sẽ được tăng trưởng.
21. Chỉ quan sát những ǵ đang xảy ra trong thời khắc hiện tại. Không trở lui về quá khứ, mà cũng không hướng đến tương lai.
florida80
12-22-2019, 20:51
LỜI NGƯỜI IN SÁCH
(XIN ĐỌC TRƯỚC KHI XEM SÁCH)
Nam Mô A Di Đà Phật!
Quyển sách "ÂM LUẬT VÔ T̀NH" này nói về những cảnh trừng phạt tại địa ngục do bà Thượng Quan Ngọc Hoa nương nhờ Phật lực nhiều lần đi xuống địa ngục xem mà viết lại. Những ai không tin tưởng tôi tha thiết xin quư vị cũng đừng buông lời phỉ báng! Tôi thành tâm mong cầu quư vị đừng buông lời phỉ báng, chê cười, bởi v́ đây là vấn đề Nhân Quả rất thâm trọng, hiểu biết b́nh thường của chúng ta không biết hết được. Quư vị không thích có thể không xem, nhưng xin đừng phỉ báng, cũng là để tránh tổn hại cho các vị vậy. Thành tâm mong cầu quư vị hoan hỉ!
Quư bạn có thể tải sách dưới dạng PDF:
http://www.mediafire.com/file/2xe8ul...%25A7.pdf/file
florida80
12-22-2019, 20:52
Thói quen chướng ngại văng sinh
Đạo lư căn bản nhất của Phật giáo là Nhân Quả.
Thói quen đời này tức Nhân sẽ đưa đến cuộc sống mai sau tức Quả. Thói quen
cũng được gọi chính xác hơn là tập khí. Tập khí ảnh hưởng từ đời này qua đời 3
khác. Giữa Nhân và Quả có Duyên (nhiều loại khác nhau) làm Quả tới mau hay
chậm.
Quư bạn có thể tải (download) bài này để tham khảo dưới link sau đây:
http://www.mediafire.com/file/i506b3..._sanh.pdf/file
florida80
12-22-2019, 20:54
Tờ di chúc mẫu cho phật tử
Trích từ link:[url]http://trangnghiemtinhdo.ne t/?page_id=2352TỜ DI CHÚC Ngày tháng nămTôi, ____________________ _________________, với tinh thần tỉnh táo, làm giấy di chúc này cho những người thân của tôi để làm theo nếu v́ bất cứ lư do ǵ mà tôi không thể quyết định cho sức khỏe của tôi. Kính Gởi Đến Thân Quyến Cùng Những Người Lo Lắng Cho Tôi: Khi tôi chết và trong khoảng thời gian chuyển tiếp cho kiếp sống mới, tôi không mong ước sinh lại làm ngạ quỷ hay súc sanh. Tôi không muốn phải chịu đau khổ. Ngược lại, tôi muốn theo Phật A Di Đà để đến Cực Lạc. Hỡi những người thân và bạn của tôi: để cho tôi khỏi phải đau khổ, tôi mong muốn được quư vị giúp đở cho tôi được ở trong trạng thái b́nh lặng và thanh thản để chuẩn bị đi đến Cực Lạc. Trong trường hợp Tôi bị đau v́ bệnh nan y mà các Bác Sĩ thấy không thể lành, Tôi yêu cầu không cần chữa nữa. Nếu tôi đang ở bệnh viện trong lúc này, tôi mong được xin về ____________________ __________________ tại địa chỉ ____________________ ____________________ ; số phôn ____________. Làm ơn tthông báo cho thân nhân tôi sau đây biết: ____________________ ____________________ __________ __ Khi về chùa, làm ơn đặt tôi vào vị trí thoải mái và tự nhiên nhất mà tôi có thể nằm. Thầy và Thân nhân tôi sẽ hướng dẫn người khác niệm “A Di Đà Phật”. Nếu trường hợp tôi bất tỉnh và không c̣n biết ǵ nữa về những ǵ xung quanh tôi. _______________ và những người thân tôi chỉ định sẽ có toàn quyền quyết định về sức khỏe của tôi. Nếu không thể liên lạc được với vị này, làm ơn mời các Thầy có thể niệm “A Di Đà Phật” hoặc các vị Phật Tử nào có thể niệm Phật giúp tôi niệm “A Di Đà Phật” cho đến lúc có thể gọi được người thân do tôi chỉ định.Trong ṿng 8 tiếng đồng hồ sau khi tôi chết, tôi muốn yêu cầu bạn bè và thân quyến của tôi phải làm những điều sau: 1. Không được đụng hoặc dời chuyển cơ thể và giường của tôi đang nằm. 2. Không được thay áo quần của tôi. 3. Không được di chuyển tôi ra khỏi giường nếu tôi đang nằm trên giường. 4. Không được đặt nước đá hay bất cứ vật ǵ trên cơ thể tôi. 5. Không được thổi gió trực tiếp vào cơ thể tôi. 6. Không cho các mùi như rượu, các loại hành, hẹ, tỏi v v… bay vào pḥng. 7. Không được hút thuốc, khóc la hay nói chuyện trong pḥng. Mục đích yêu cầu của tôi là tạo một bầu không khí an lành mà tôi có thể nghĩ yên lành, thanh thản và b́nh an. Tôi chỉ thích nghe một âm thanh, đó là tiếng niệm “A Di Đà Phật” để cho Ngài đón tôi về thế giới Cực Lạc. Nếu tôi qua đời tại chùa, gia đ́nh tôi sẽ luân phiên nhau niệm “A Di Đà Phật” trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Sau đó quí vị có thể di chuyển tôi hoặc rửa ǵ đó th́ tùy ư. Đây là thời điểm cực tối quan trọng để niệm Phật giúp cho thân tôi không bệnh khổ, tâm tôi không tham luyến. Tất cả các thủ tục lo đám có thể lo sau. Nếu tôi qua đời tại bệnh viện, làm ơn theo quy luật của bệnh viện và niệm “A Di Đà Phật” cho tôi càng nhiều càng tốt. Trong thời gian tôi đau nặng và trong khoảng bốn mươi chín ngày sau khi tôi qua đời, tất cả thành viên trong thân nhân tôi phải ăn chay. Tôi không muốn có sự chết chóc nào xảy ra chỉ v́ cái chết của tôi. Tất cả thực phẩm tại đám phải là đồ chay. Không được xử dụng rượu hoặc chất men. Tất cả các thứ phải đơn giản và không tốn kém phung phí. Tôi không mong muốn phí phạm một điều ǵ. Trong bốn mươi chín ngày sau khi tôi chết, tôi chân thành yêu cầu thân nhân và bạn bè tôi cầu nguyện cho tôi về Cực Lạc, và làm các phước thiện như cúng Phật, Pháp, Tăng, in ấn kinh sách, giúp đở người nghèo, phóng sanh v.v.. Những phước báo này sẻ giúp tôi được thêm các nghiệp tốt, và giúp tôi đến Cực Lạc như ư mong muốn. Điều quan trọng nhất là thân nhân của tôi phải thành thật niệm “A Di Đà Phật” cho tôi. Để cho tôi có thể thành công và b́nh yên đến được Cực Lạc Quốc, những điểm yêu cầu trên phải được thực hành. Những điều này không những có lợi cho tôi mà c̣n cho những người có quan hệ nữa. Với cách này, tôi mong mọi người học được và tin tưởng vào Phật Pháp. Kết quả, ai cũng được về miền Cực Lạc. Nguyện cầu A Di Đà Phật hộ độ cho tất cả chúng ta! Những chỉ dẫn nói lên quyền của tôi yêu cầu hoặc từ chối sự chửa bệnh. Do đó, Tôi mong mỏi gia quyến của tôi, bác sỉ, và tất cả những ai lo lắng cho sức khỏe của tôi làm theo quyền của luật pháp và đạo đức mà tôi mơ ước và yêu cầu. Kư Tên_________________ _______________Ngày_ ________ ________ Tên, họ, pháp danh:Nhân Chứng: Tôi chứng thực là người kư bản di chúc này hoặc yêu cầu người khác kư bản giấy này thay họ, làm việc này dưới sự chứng giám của tôi và người này rất là khỏe và tỉnh táo và không bị áp lực hoặc dưới sự ảnh hưởng của chất say. Kư Tên_________________ _______________Ngày_ ________ ________Tên, họ, pháp danh
florida80
12-22-2019, 20:55
Tâm Linh Cảm Ứng Giữa Người Mẹ Và Thai Nhi
Tiết Đ́nh là một nhạc công. Khi mang thai cô bắt đầu có niềm tin chân chánh đối với Phật giáo nên phát tâm nghiêm tŕ ngũ giới, tập tu theo pháp Phật và quyết định giáo dục thai nhi theo Phật giáo.
Chúng ta hăy nghe Tiết Đ́nh thuật lại câu chuyện giao cảm tâm linh thần kỳ giữa hai mẹ con họ:
“Sau khi kết hôn, v́ muốn đứa con sinh ra được khỏe mạnh thông minh nên tôi rất chú trọng ẩm thực, lo tập luyện, chuẩn bị chu đáo đủ cách. Thấy trong “Kinh Địa Tạng” ghi rằng: “Chúng sinh ở cơi Ta Bà, đời vị lai, những người sắp sinh con, nếu trong 7 ngày mà tụng kinh Địa Tạng bất khả tư ngh́ này và niệm danh hiệu Bồ-tát Địa Tạng đủ vạn biến th́ đứa con dù nam hay nữ, đời trước có ương báo…cũng liền được thoát khỏi, an lạc dễ nuôi, thọ mệnh tăng”…
Đoạn kinh này đă ban cho tôi sự chỉ đạo quư báu. Tôi tin tưởng và cảm thấy được khích lệ rất lớn. V́ vậy tôi quyết tâm nuôi dưỡng, đào tạo ra một đứa bé “băng thanh ngọc khiết” có tư chất thanh cao, nhất quyết hun đúc trí tuệ và phúc đức cho nó theo Phật pháp.
Trong thời kỳ mới hoài thai, tôi bắt đầu v́ con mà tụng “Kinh Địa Tạng”. Do thân thể chưa quen, không thoải mái, nên tôi chỉ thành kính tụng vào mười ngày trai (mùng 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30).
Thoạt đầu, tôi chỉ nghĩ đơn giản là làm vậy có thể giúp cho sinh mệnh bé bỏng vừa tượng h́nh trong bụng có thể được nghe bộ kinh bất hủ của Phật thuyết. Tôi quyết tâm v́ bé mà tiến hành việc thai giáo tốt đẹp nhất nên ḷng cảm thấy rất hạnh phúc tự hào, niềm vui này thật khó mà diễn tả hết được. Tôi luôn cầu Chư Phật, Bồ-tát đại từ đại bi, ban cho tôi một đứa con như nguyện.
Mang thai được bốn tháng, nhờ thiện tri thức khai thị, được người nhà dốc toàn lực ủng hộ và chăm sóc, tôi triệt để tin lời Phật nên hoàn toàn ăn chay. Ăn chay không những giúp tôi có dinh dưỡng tốt, thanh sạch, mà cũng chẳng bị mệt mỏi khó chịu; ngược lại c̣n khiến tôi mặt mày luôn hồng hào tươi tắn, thân tâm an vui, tinh thần thể lực sung măn.
Sau đó, tôi tiến bộ hơn, có thể v́ con mỗi ngày tụng một bộ “Kinh Địa Tạng”, siêng năng không lười. Tôi đối với những điều Phật dạy trong kinh vững tin không nghi. Tôi tụng kinh âm thanh rơ ràng, ngày ngày bầu bạn cùng thai nhi đang dần lớn lên, trong ḷng sung măn niềm an lạc hân hoan chưa từng có v́ kinh nghiệm đang thực hành. Ḷng tôi luôn mong mỏi khát khao sớm được nh́n thấy mặt con.
Thời gian thấm thoát trôi qua, mùa hạ đến tỏa khí nóng oi bức khó chịu. Nhưng tôi vẫn không lười biếng, vẫn nỗ lực dụng công, ra sức thanh tâm quả dục, nghĩa là: “Tai chẳng nghe tiếng ác, mắt chẳng nh́n việc ác, tinh tấn không lười, luôn dùng chánh niệm hộ tâm”, mỗi ngày v́ thai nhi tụng kinh, tận lực làm một người mẹ đúng nghĩa.
Hôm nọ, khi tôi tụng xong bộ “Kinh Địa Tạng” th́ cảm thấy cổ họng khô đau, liền tiến đến tủ lạnh định lấy kem ăn giải lao, thưởng công cho ḿnh đă “cực khổ” tụng niệm năy giờ. Nhưng ngay giây phút tôi mở tủ lạnh ra, đột nhiên trong đầu tôi vang lên tiếng nói:
– Mẹ ơi, xin đừng ăn kem, con sẽ rất lạnh!
Việc này quả thật bất ngờ, khiến tôi tưởng chừng ḿnh nghe lầm, ḷng cảm thấy rất kỳ quái nên mới thầm nghĩ: “Đây có lẽ do ḿnh tự nghĩ lẩn thẩn, hoặc là một dạng tự kỷ ám thị mà thôi!”. V́ vậy, tôi không chú ư và quyết định: “Nghỉ một chút, lát nữa sẽ ăn vậy”.
Nghỉ ngơi xong, tôi lại đến mở tủ lạnh lần nữa. Thật không ngờ, cảm thọ lúc năy lại xuất hiện:
– Mẹ ơi, đừng ăn kem, con sẽ rất lạnh đó!
Câu nói này một lần nữa vang lên mănh liệt trong óc tôi, lần này đă khơi gợi được sự chú ư của tôi. Rơ ràng là thai nhi trong bụng đang dùng “tâm nói chuyện” với tôi và “mách” cho tôi biết những cảm thọ khổ vui của nó….Giao cảm kỳ diệu này đă khiến tôi hiểu sâu sắc thai nhi và tôi đang “tâm tâm tương thông, tâm tâm tương tri”. “Kinh Địa Tạng” đă giúp tôi và con liên lạc mật thiết mầu nhiệm cùng nhau. Mẹ con chúng tôi đồng hiểu nhau qua “ngôn ngữ nội tâm”, cùng cảm thọ, kết thành thiện duyên mẫu tử cực kỳ thâm sâu huyền diệu trong đời này!.
Tôi đă từng dùng tâm chân thành, tâm cung kính tụng “Phật Thuyết Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Kinh”. Trong kinh diễn tả: “Khi con ở trong thai, nếu mẹ ăn nóng, con khổ như nóng địa ngục. Nếu mẹ ăn lạnh, con khổ như lạnh địa ngục, cả ngày thống khổ…Dựa theo đoạn văn kinh kia, giây phút tôi và con “tâm linh cảm ứng” đă chứng thực giải rơ. Điều này khiến tôi vô cùng xúc động, măi măi không thể quên. Lời Phật đúng là chân ngữ, thật ngữ mà! Đây cũng ứng hợp với những điều trong sách thuốc “Thiên kim phương” nói: “Trong lúc mang thai mà ăn cực nóng hay cực lạnh là cấm kỵ”.
Từ đó v́ thai nhi, bất kể tiết trời nóng bức ra sao, tôi cũng không dùng qua thức ăn lạnh nào nữa.
Cục cưng sinh ra được hai tuần, theo thói quen tôi cho bé ăn Hoàng Liên – một loại thuốc bắc, khiến bé đi tả không ngừng. Ngắm nh́n bé ốm gầy không c̣n sức lực, ḷng tôi nóng như lửa đốt, cực kỳ bất an…Tôi áp mặt vào vầng trán tái nhợt của con, ưu tư trăm mối, tâm rối như tơ… th́ ngay lúc đó trong đầu tôi chợt xuất hiện câu nói:
– Mẹ ơi, đừng dùng trứng gà nữa! Ăn trứng gà đối với con rất là không tốt!
Tôi bừng tỉnh ra, chính là bé cưng đang nói với tôi. Tôi hoàn toàn ăn chay đúng theo trong Kinh Địa Tạng đă dạy, nhưng do để thúc sữa, chị dâu tôi đă ngày ngày làm rượu trứng gà cho tôi uống. Lần này, tôi bắt đầu thưởng thức cuộc đối thoại tâm linh thú vị cùng con. Tôi khởi ư nghĩ trong tâm:
– Con cưng à, mẹ phải làm sao th́ con mới an ổn đây?
Bé lập tức hồi đáp:
– Mẹ hăy mau tụng 7 bộ kinh Địa Tạng hồi hướng cho oan gia trái chủ của con…
Không chút chậm trễ, tôi lo tụng cho xong 7 bộ kinh. Sau đó, tôi “hỏi” bé:
– Mẹ đă tụng xong 7 bộ rồi, c̣n muốn mẹ làm ǵ cho con nữa không?
Bé “đáp”:
– Bắt đầu từ nay, mỗi ngày mẹ hăy tụng cho con một bộ kinh Địa Tạng nhé.
Tôi lại hỏi:
– Tụng đến bao giờ mới ngừng?
Bé “trả lời”:
– Tụng đến khi con có thể tụng kinh được th́ ngừng.
– Thế bao giờ con mới có thể tụng kinh được?
– Bảy tuổi!
Tôi hoát nhiên tỉnh ra. Từ đó, hàng ngày tôi tụng kinh không ngừng. Tôi tụng đến hôm thứ hai th́ chứng đi tả của bé liền dứt hẳn.
Khi tôi viết đến ḍng chữ này th́ bé nhà tôi đă được hơn hai tháng tuổi rồi, thân thể mạnh khỏe, an ổn dễ nuôi. Đồng thời, để hoàn thành lời hứa với con, tôi hàng ngày v́ bé mà tụng kinh Địa Tạng, bảy năm sẽ là 2.555 bộ kinh. Tôi và chồng tin sâu, be có thể dùng nhân duyên này để hóa độ chúng tôi tinh tấn tu hành.
Tôi hiểu sâu đây là cả nhà chúng tôi cùng chung sức hoàn thành đạo nghiệp. Tùy theo con ngày càng trưởng thành mà đạo nghiệp chúng tôi ngày càng tinh tấn…đồng thời thiện hạnh, thiện đức của chúng tôi cũng tăng trưởng theo. Điều này đối với cả gia đ́nh chúng tôi mà nói, quả là an vui hạnh phúc biết dường nào.
(Cư sĩ Tiết Đ́nh kính thuật.)
Giải thích của Cư sĩ Quả Khanh: Con và mẹ là do nhân duyên cực sâu mà chiêu cảm t́nh thâm. Trong thời kỳ hoài thai, mẹ cùng con thực sự nương nhau, lien quan từ máu huyết, xương thịt, tinh thần….cho đến thể chất.
V́ thai nhi mà đọc tụng kinh điển Đại thừa chính là thai giáo tốt nhất. Tôi đă gặp nhiều vị khi mang thai mà đọc tụng các kinh Địa Tạng hay Lương Hoàng Sám hay kinh Đại thừa khác….đứa con sinh ra thật xinh đẹp, thông minh mạnh khỏe, an lạc dễ nuôi.
Đây là bài viết tự thuật chân thành của một người mẹ ở Thượng Hải. Lúc con bà sinh ra 45 ngày th́ tôi có gặp được cả ba người nhà họ và đích thân kiểm nghiệm. Nội dung câu chuyện này hoàn toàn có thật và rất đáng tin cậy.
(Cư sĩ Quả Khanh – Hạnh Đoan dịch)
florida80
12-22-2019, 20:58
Ăn Thịt Là Nguồn Gốc Của Tai Kiếp
Phật Giáo có ba thời đại là Chánh Pháp, Tượng Pháp và Mạt Pháp. Đó là do nghiệp báo của chúng sinh chiêu cảm mà ra. Ở thời Chánh Pháp, con người được phước báo rất lớn, rất dầy, và trí huệ cũng rất cao. Ở mặt đất th́ nước giống như sữa vậy, rất bổ dưỡng, và nơi nào nước cũng rất tốt. Tới thời Tượng Pháp th́ nước uống mất đi chất bổ dưỡng.
Hiện tại thời Mạt Pháp th́ nước không c̣n chất bổ nữa, trái lại trộn lẫn đủ thứ chất độc. Có người nói: “Chúng tôi uống nước đă có bỏ thuốc khử độc rồi”. Tuy vậy nước vẫn c̣n độc, không cách ǵ trừ hết được.
Trên thế giới, hiện giờ chất độc càng ngày càng gia tăng, khiến cho không khí bị ô nhiễm. V́ người ta dùng chất độc quá nhiều nên độc tố thấm dần vào thân người, rồi trải qua sự biến hóa trong cơ thể, khi ḿnh thở ra th́ chất độc đó lại trở ngược về trong không khí. Hiện tại trong hư không đầy dẫy độc khí.
Chúng ta biết bom nguyên tử, bom khinh khí là thứ tối nguy hiểm, nhưng những thứ đó c̣n thua độc khí do miệng ḿnh phóng ra. Bởi vậy thế giới này càng ngày càng trở nên vô cùng nguy hiểm. V́ bị độc khí đó xông ướp nên mỗi ngày con người giống như “sống trong cơn say, chết trong giấc mộng” vậy. Ăn uống, cờ bạc, rượu chè, lừa bịp, trộm cắp, không có chuyện xấu xa ǵ mà họ không biết làm. Đó là t́nh trạng độc hại vô cùng, hết sức nguy hiểm vậy.
Bây giờ muốn thế giới tiêu hết chất độc th́ phải có biện pháp ǵ? Tức là phải ăn chay, đừng ăn thịt! Ăn chay th́ chất độc sẽ giảm bớt đi. Nếu muốn thế giới này hoàn toàn hết độc th́ mọi người đừng ăn thịt, chỉ ăn chay. Bởi v́ trong thịt có chất độc, mà chất độc này lại rất vi tế, nên dù ăn vào ḿnh cũng không nhận biết được là có chất độc. Song, từ từ ḿnh sẽ trúng phải chất độc của thịt, lợi hại đến độ không có thứ thuốc nào có thể cứu nổi, bởi v́ trong thịt chất chứa sự oán hận rất sâu dày. Cho nên người xưa nói rằng:
“Thiên bách niên lai oản lư canh,
Oán thâm tự hải hận nan b́nh.
Dục tri thế thượng đao binh kiếp,
Thả thính đồ môn dạ bán thanh.”
Dịch là:
“Ngàn năm oán hận ngập bát canh,
Oán sâu như biển, hận khó tan.
Muốn biết v́ sao có chiến tranh,
Hăy nghe ḷ thịt, lúc nửa đêm!”
Miếng thịt trong tô canh tuy nhỏ, nhưng thật sự trong đó chất chứa sự thù hằn sâu như biển cả vậy. Người đập lộn với người, nhà này đánh nhau với nhà kia, nước này xâu xé nước kia, địa cầu này tiêu hủy địa cầu khác; gây nên chiến tranh như vậy đều là do ăn thịt mà ra. Tất cả những tai nạn đao binh, thủy hỏa, tật dịch lưu hành, đều là do ăn thịt mà thành. Nếu muốn hiểu rơ đạo lư th́ lúc nửa đêm hăy tới nhà người đồ tể mà lắng nghe: lắng nghe tiếng rống đau đớn của con heo bị thọc huyết, lắng nghe tiếng khóc uất ức của con trâu hay con dê bị giết.
Tóm lại, con vật nào bị giết th́ con đó khóc la rên siết. Lúc khóc la chính là lúc mà nó phóng độc khí ra. Một mặt phóng độc khí, một mặt khóc than nói rằng: “Tốt lắm! Bây giờ tụi bây giết tao, trong tương lai tao sẽ giết lại tụi bây. Nợ này chẳng bao giờ phủi sạch được! Tụi bây giết tao, tao sẽ giết lại tụi bây, tụi bây ăn thịt tao, tao sẽ ăn thịt lại tụi bây!” Do ḷng oán hờn, thù hận chất chứa như vậy nên mới tạo thành đủ thứ tai họa.
Nếu con người ăn chay trường th́ những oan nghiệt đó sẽ tiêu trừ, bao nhiêu đao gươm sẽ trở thành nhung gấm, sự hung hiểm sẽ trở thành kiết tường. V́ thế, ḿnh phải t́m cách cứu văn thời Mạt Pháp sắp tới đây!
SÁT SANH VÀ BỆNH TẬT
(Khai thị của Ḥa thượng TUYÊN HÓA tại Viện Đại Học Hawaii ngày 21-07-1989)
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều người thích việc sát sinh và có rất ít người tôn trọng sự sống. Đa số chỉ biết làm thế nào để giết, chứ hoàn toàn thờ ơ với việc phóng sinh. Khi bạn giết một sinh vật, sinh vật ấy cũng muốn giết bạn. Sự báo thù lẫn nhau dẫn đến sự tái sinh luân hồi trong đời ngũ trược ác thế. Sự báo oán lẫn nhau vậy đến khi nào mới chấm dứt? Người xưa từng nói: “Trăm ngàn năm nay khi nh́n vào bát canh thịt, mối hận ngh́n năm lớn như biển khó tiêu trừ. Nếu muốn biết rơ chuyện binh đao chém giết nhau trên đời, th́ hăy lắng nghe tiếng kêu than của súc vật lúc nửa đêm ở ḷ sát sinh” (Thiên bách niên lai oán lư canh, oán thâm tự hải hận nan b́nh, dục tri thế thương đao binh kiếp, thí thức thính đồ môn dạ bán thinh).
Chúng ta nên đặt nền tảng đạo lư của cuộc sống chúng ta trên những lời của Khổng Phu Tử: “Đă thấy sự sống của nó rồi th́ không nỡ nào thấy cái chết của nó. Đă nghe tiếng kêu của nó rồi th́ không nỡ nào ăn thịt nó. Do vậy, người quân tử nên tránh xa nhà bếp”. (Kiến kỳ sinh bất nhẫn kiến kỳ tử. Văn kỳ thanh bất nhẫn thực kỳ nhục. Thị dĩ quân tử viễn bào trù dă). Dù hàng trăm ngàn năm nay, bát canh thịt c̣n đó. Quư vị đă ăn rồi, và tôi cũng thế. Bát canh này là thịt hầm, nó chứa đựng sự oán hận sâu hơn biển, rất khó làm tiêu trừ. Để chuyển hóa ḷng oán hận này không phải dễ dàng ǵ. Bạn có muốn biết tại sao trên thế giới lại có chiến tranh, lụt lội, hạn hán dịch bệnh? Nguyên nhân nào gây ra sự đau khổ, giết chóc, thảm sát đổ máu trong chiến tranh? Tại sao người ta lại t́m kiếm nhau măi để trả thù. Bởi v́ họ đă gieo quá nhiều việc chết chóc. Nếu bạn chưa hiểu, xin hăy đến gần ḷ sát sinh súc vật, và lắng nghe tiếng kêu thét của súc vật vào lúc nửa đêm ở đó. Tiếng heo kêu thét, tiếng dê cừu khóc, tiếng ḅ trâu rống. Tất cả đó là sự van xin: “Xin Ông tha mạng cho con!” nhưng ta giả vờ không nghe, không thấy lời kêu than ấy chúng ta cứ tiến hành giết không cần 1 giây suy nghĩ. Khi ta vừa giết chúng th́ một niềm sân hận từ những con heo, ḅ, dê bị giết khởi dậy, niệm ấy dẫn chúng t́m người giết để báo thù trong tương lai. Điều này dẫn đến những thảm trạng như chiến tranh trên thế giới, và mọi thứ tai ương, tử vong. Tất cả đều do việc sát hại sinh mạng mà tạo nên.
Tuy vậy, ngay nơi sự báo oán có khi c̣n chưa đủ. Hiện nay, tai họa lớn nhất là bệnh ung thư (cancer) là một loại bệnh tật quái dị. Tại sao bệnh này lại xuất hiện? V́ người ta ăn quá nhiều thịt. Hiện nay không khí bị ô nhiễm nặng nề, trái đất bị ô nhiễm và nước cũng bị ô nhiễm. Không khí ô nhiễm, nước ô nhiễm, đất ô nhiễm này tạo nên một thứ độc tố. Khi súc vật ăn những thực vật có độc tố. Chất độc ngấm dần vào cơ thể của nó. Mặc dù chất độc vẫn ở yên trong cơ thể chúng nó không gây tác hại ǵ, nhưng nếu ta ăn thịt chúng chất độc sẽ truyền sang cơ thể ta, khiến cho ta mắc phải vô số bệnh quái dị, khó trị liệu vô cùng.
Những bệnh khó trị liệu này không phải ngẫu nhiên mà có. Đằng sau nó là những oan hồn kêu than đ̣i trả mạng. Vậy nên bây giờ có rất nhiều oan hồn quanh quẩn khắp nơi, cố gắng t́m cách bắt người khác trả mạng hay làm cho họ khổ đau bằng cách gây ra vô số bệnh tật quái lạ. Những oan hồn vất vưởng này là những bào thai bị nạo, bị phá thai trước khi nó có được một cuộc sống hoàn chỉnh như người. V́ vậy, nó rất căm hận, nó có thể làm đóng nghẽn tim người, làm nát gan, thận, túi mật người. Nó có thể phá hủy ngũ tạng của bạn khiến bạn phải chết dù bạn chưa muốn chết. Tại sao nó hiểm độc như thế? V́ bạn đă giết hại nó trước bây giờ nó muốn trả thù. Những căn bệnh gây nên bởi ma oán th́ không thể chữa lành bởi bất kỳ bác sĩ nào cả. Dù bác sĩ Đông Y hay Tây Y đều chữa không được. Việc bạn có thể làm là không ăn uống ǵ cả rồi chờ chết. Sau khi bạn trút hơi thở cuối cùng, lại đến phiên bạn t́m báo thù. Những ǵ tôi nói là lời chân thành nhất.
Nếu tôi nói nữa có lẽ có người sẽ không muốn nghe. Tuy nhiên tôi có khuyết điểm là tôi muốn nói cho dù người ta thích nghe hay không thích nghe. Tôi đặc biệt thích nói những điều mà mọi người không muốn nghe. Do vậy, nên các bạn ở đây nên chuẩn bị tâm lư. Bạn nên nói với chính ḿnh: “Ta chẳng muốn nghe nhưng ta sẽ kiên nhẫn một chút để nghe ông ta nói ǵ”.
Điều tôi muốn nói là tôi sẽ giải thích chữ “thịt” – Tiếng Hán là “Nhục” 肉 , có bộ “khẩu” 口 nhưng nét dưới bị mất đi, có nghĩa là mở miệng. Tại sao lại mở miệng? Là để ăn người. Cho nên trong chữ thịt “Nhục” 肉) có hai người – chữ “Nhân” 人 . Một người bên trong 人 và một người bên ngoài 人. Chữ này biểu thị ư niệm “thịt” là không thể tách rời được miệng người. Tuy nhiên Người không thể bị dính mắc, không tách rời ra khỏi “thịt” được. Chữ này biểu tượng con người ăn thịt và con người đang bị kẻ khác ăn thịt ḿnh. Cái đầu của một người đi ra từ cái miệng và người khác th́ đang ở trong miệng. Nhưng v́ cái miệng không đóng, nên người ấy có thể đi ra. Có thể ra đi nên có thể làm người trở lại, khi làm người rồi, anh ta sẽ t́m và ăn thịt lại người đă ăn thịt ḿnh. Ăn sống nuốt tươi lẫn nhau. V́ thế nên có hai chữ “Nhân” (người) trong chữ “Nhục” kế bên dưới chữ “Nhân” là người ở trong bao trùm người ở ngoài “Người bên trong, người bên ngoài che đậy bắt giữ lẫn nhau (lư biên tráo trước ngoại biên nhân) “Chúng sinh ăn thịt lẫn nhau”, nếu quan sát kỹ đó là người ăn thịt người. (Chúng sinh hoàn cật chúng sinh nhục – Tử tế tư lương thị nhân cật nhân)
V́ đó là người ăn thịt người, có lẽ nào người ấy là bạn ta. Ta chẳng biết! Có lẽ nào đó là bà con ruột thịt của ta. Ta chẳng biết! Có lẽ nào đó là cha ta, mẹ ta, tổ tiên ông bà ḿnh. Ta chẳng hay. Cái không biết này làm nảy sinh vô số vấn đề. Do vậy tốt nhất là mọi người chẳng nên ăn thịt.
Mặc khác, không ăn thịt là một yếu tố tối quan trọng để ngăn ngừa bệnh tật. Không sinh bệnh. Không nóng tính. Nếu bạn không nóng giận, th́ tác nhân gây nghiệp muốn báo thù bằng cách làm cho bạn bị bệnh sẽ khó khăn khi t́m gặp bạn. Bởi v́ ngay khi bạn nổi nóng, là có một lỗ hổng để ma oán chen vào. Mỗi khi ma oán kiếm được lối vào, bệnh t́nh của bạn càng lúc càng trở nên nghiêm trọng.
Nếu bạn muốn khỏe mạnh, sống lâu, không bệnh hoạn, điều chủ yếu là không nên ăn thịt, không nóng giận, không hút thuốc, uống rượu. Đây là những cách để có được khỏe mạnh.
Chẳng nên rước vào ḿnh một thứ bệnh tật để tự hủy hoại thân mạng ḿnh. Nếu bạn làm thế là bạn sẽ phải t́m một bác sĩ để trao cho ông ta tiền, mà ông ta vẫn không thể chữa lành bệnh cho bạn. Đó phải chăng là nỗi phiền muộn lớn lao của chúng ta?
Ḥa thượng Tuyên Hóa
florida80
12-22-2019, 20:59
T́m được mộ và xác chúa Jesus
Về việc các nhà khảo cổ, sử học và bác học thế giới đă t́m ra được mộ của Chúa Jesus và xác của Ngài, tin này được xác thực bởi đài CNN của Mỹ. Xác Chúa cùng vợ con đă được chứng minh theo mẫu DNA qua phương thức khoa học.
Các bạn đọc nghĩ ǵ xin cho biết ư kiến nha.
Nếu sự thật về Chúa chứng minh theo phương thức khoa học th́ cuốn "Kinh Thánh" do Đại đế La Mă Constantine soạn viết gần hai ngàn năm qua về Chúa là sai hoàn toàn.
Chúa Jesus là con người b́nh thường như chúng ta, Ngài thuộc ḍng dơi nhà vua Do Thái có vợ sanh con như người b́nh thường. V́ chống lại La Mă nên Ngài bị tụi La Mă giết chết và được chôn cất đàng hoàng như chúng ta mà thôi không như cuốn "Kinh Thánh" nói Ngài chết sống lại cứu nhân độ thế và được bay trên trời như chúng ta biết từ trước đến giờ.
Cuốn phim về "Mộ Chúa Jesus" được đạo diễn và chủ làm phim xác định đây không phải là phim giả thuyết mà tài liệu thật về Chúa Jesus.
*** Despite such clear passages showing that Christ was NOT physically resurrected, millions are confused and deceived. Consider this email recently received by The Restored Church of God:
“Why is everyone so against finding [the] Jesus Tomb? It has to be somewhere. Jesus’ body has to be on earth, it could not have physically gone to heaven. Our universe is at least 26 billion light years big, and even if his body traveled at the speed of light, he would still be traveling for 26 billion light years more (minus 2,000 years). The body would not survive the minute it got out of the atmosphere for lack of oxygen.”
Đúng, muốn bay lên trời th́ phải 26 tỷ năm, giờ có lẻ Chúa vẫn c̣n lảng vảng ở đâu đó gần trái đất ḿnh thôi chớ chưa lên trời được đâu, c̣n xa xôi lắm các bạn ơi.
florida80
12-22-2019, 21:00
Chúa Giesu là người Da Trắng Tóc Đỏ ?
Chúa Giê Su là người da trắng tóc đỏ ?
Các bức họa mô tả chân dung Chúa Giê Su thay đổi rất nhiều tùy vào nền văn hoá Kitô giáo khác nhau. Một số vẫn cho thấy Chúa Giêsu tóc nâu mắt xanh, tượng trưng cho nền văn hoá của họ, trong khi những người khác lại cho rằng Chúa Giê-su giống người Ả Rập. Một số thậm chí c̣n cho rằng Chúa Jesus là người da đen.
Mặc dù có nhiều màu sắc về Chúa Kitô trong các biểu tượng qua nhiều năm, nhưng có một điểm đặc biệt vắng mặt ngay cả trong thần thái chủng tộc Ấn-Âu chủ yếu thường mô tả Chúa Ki Tô. Đó là điều mà Quỹ Bảo tồn Nhà Thờ Anh Quốc đă t́m cách sửa chữa vào ngày Chủ Nhật Quốc Gia Củ Gừng hay Chủ Nhật Quốc Gia Tóc Đỏ.
Trước ngày lễ Củ Gừng ngày lễ Ginger hay ngày lễ Tóc Đỏ, nhóm phát hành bức ảnh kính màu của gương mặt Chúa Giê Su với mái tóc vàng dâu bồng bềnh xuất hiện trong Nhà thờ Chúa Ba Ngôi ở Sunderland, một thị trấn nhỏ ở miền bắc nước Anh. Mặc dù không phải nói đó là bằng chứng dứt khoát về nguồn gốc của Chúa Giê-su. Theo The Mirror, đó là Chúa Giêsu Tóc Đỏ duy nhất được t́m thấy ở bất cứ nơi nào trong Vương quốc Anh.
Đấng KiTô tóc Đỏ là một phần của cấu trúc nhà thờ trong hơn 150 năm. Thiết kế lần đầu tiên bởi nghệ sĩ kính màu William Wailes nổi tiếng vào năm 1857, anh đă vẽ lại h́nh ảnh Chúa Giêsu giống như trong các nhà thờ trên khắp đất nước nhiều lần. Sự biểu hiện đặc biệt này của Đức Ki Tô, v́ một lư do nào đó, dường như đă xuất hiện một cách khác biệt, mặc dù không rơ là Wailes đă đưa ra một quyết định có ư thức để miêu tả Chúa Jesus tóc đỏ Chúa Giê-su Tóc Đỏ - hoặc nếu chỉ có một lỗi nào đó trong quá tŕnh nghệ thuật.
Biểu tượng Chúa Giesu người Do Thái, Emmaus Nicopolis, Israel.
Trong thời cổ đại và thời trung cổ ở Châu Âu, có thể có một mối liên hệ thậm chí mạnh mẽ hơn giữa người Do Thái và người Tóc Đỏ. Điển h́nh là Esau, Vua David, Shylock và Judas thường được mô tả với mái Tóc đỏ, nổi bật lên nhờ nguồn gốc Trung Đông của dân Do Thái, theo Ernest Abel, tác giả của các Bệnh Di Truyền người Do Thái: A Layman’s Guide.
" Có một tỷ lệ cao hơn về người Do Thái Tóc Đỏ hơn bạn có thể mong đợi từ thực tế rằng họ đến từ Trung Đông và hầu hết mọi người ở Trung Đông có mái tóc màu tối. "
Chủng tộc Tóc Đỏ ?
Nếu Chúa Jesus có Tóc Đỏ, ông ấy sẽ là một trong số khoảng 1 đến 2 phần trăm dân số ngày nay mang gien di truyền bị đột biến đó.
Nguồn http://www.inquisitr.com/1867433/was...ial-depiction/
[H́nh ảnh qua Giáo Hội Chúa Ba Ngôi và Thư viện H́nh ảnh / Getty Images của De Agostini]
florida80
12-22-2019, 21:01
Bảy Hội Thánh trong sách Khải Huyền
Lịch sử của Hội Thánh đă có nhiều bước phát triển sai lệch. Tuy vậy, cho đến hôm nay, Đức Chúa Trời vẫn luôn khôi phục lại Hội Thánh theo đúng kế hoạch của Ngài. Một bước quan trọng của sự khôi phục này chính là công cuộc Cải Chánh ở nước Đức cách đây đúng 500 năm. Nhưng đó có phải là kết thúc không? Kinh Thánh đă cho biết trước cụ thể từng bước phát triển của Hội Thánh trong 2000 năm qua, để hôm nay chúng ta có thể quyết định đi con đường của Đức Chúa Trời.
Lời mở đầu
Nhiều người biết năm nay là kỷ niệm 500 năm ngày Cải Chánh Giáo Hội. Trong h́nh này, Martin Luther đứng trước hoàng đế Karl V của nước Đức. Kể từ lúc đó, nước Đức và cả Châu Âu đă thay đổi rất nhiều. Điều này đă xảy ra như thế nào? Điều quan trọng hơn mà chúng ta phải thấy rằng Kinh Thánh đă cho biết trước từng bước phát triển của Hội Thánh trong 2000 năm qua.
Hôm nay, chúng ta đi đến sách Khải Huyền, sách ghi lại các khải thị mà Chúa đă ban cho sứ đồ Giăng khi ông bị lưu đày ở đảo Bát-mô. Ông là sứ đồ cuối cùng c̣n sống. Lúc đó, các Hội Thánh bị tản lạc khắp nơi và đang bị tụt dốc. Trong t́nh huống này, Chúa Giê-su đă chỉ ra cho Giăng biết những điều quan trọng. Tối nay, chúng ta muốn xem xét những điều này.
Một hôm, ông đă nghe tiếng người nói với ḿnh nên quay lại xem th́ thấy “ … bảy chân đèn bằng vàng, giữa những chân đèn có ai giống như Con Người mặc áo dài, thắt đai bằng vàng ngang ngực” (Khải huyền 1:13). Con Người và bảy chân đèn ở đây là trọng tâm của sách Khải Huyền. Con Người này chính là Chúa Giê-su. Tại sao chúng tôi lại thuyết tŕnh về đức tin nơi Chúa Giê-su ở trong trường đại học? Chúng tôi không phải là những nhà thần học, cũng không quan trọng hiểu biết về Kinh Thánh. Tuy nhiên, chúng tôi có những kinh nghiệm giống như kinh nghiệm của sứ đồ Phao-lô, ông đă được Đức Chúa Trời kêu gọi và Ngài đă bày tỏ Chúa Giê-su trong ông. Đó là lời chứng mà tôi và những người trong nhóm Kinh Thánh đă làm chứng trong trường đại học. Đối với chúng tôi, điều quan trọng không phải là hiểu biết hay sự dạy dỗ về Kinh Thánh, mà là quen biết Chúa, trải nghiệm Ngài. Chính Giăng cũng đă thấy Chúa Giê-su ở đảo Bát-mô. Ông cũng đă thấy bảy chân đèn bằng vàng. Bảy chân đèn này hoàn toàn được làm bằng vàng. Cái h́nh này được xuất phát từ sách Xuất Ai Cập Kư, là một phần trong Lều Tạm mà Đức Chúa Trời đă bày tỏ. Chân đèn này dùng để thắp sáng trong Đền Tạm. Đây không phải là chân đèn b́nh thường mà phức tạp hơn nhiều. Nó được làm bằng một khối vàng lớn, bao gồm nhiều nhánh đèn với nhiều nụ hoa và đài hoa hạnh nhân. Khải huyền 1:20 cho biết chân đèn này chính là Hội Thánh. Lúc đó, một thành phố chỉ có một Hội Thánh. Tại sao chân đèn này được gọi là Hội Thánh? Chúa Giê-su đă nói trong Ma-thi-ơ 5:14 “các ngươi là ánh sáng của thế giới”. Hội Thánh phải bày tỏ ánh sáng về Đức Chúa Trời và ư của Ngài. Chân đèn này không chỉ được bọc vàng mà được làm từ một khối vàng lớn. Có nghĩa là Hội Thánh của Đấng Christ phải được bản tính của Đức Chúa Trời, kinh nghiệm với Chúa, nhân tính của Chúa và sự công bằng của Ngài đổ đầy cách hoàn toàn. Trong bài này, chúng ta sẽ t́m hiểu xem Hội Thánh ngày nay tương xứng với h́nh này như thế nào.
Bây giờ, chúng ta xem bảy thư mà Giăng gửi cho bảy Hội Thánh trong sách Khải Huyền. Ngày nay, bảy Hội Thánh này thuộc nước Thổ Nhĩ Kỳ. Tên của bảy Hội Thánh là tên của bảy thành phố: Ê-phê-sô, Si-miệc nơ, Bẹt-găm, Thi-a-ti-rơ, Sạt-đe, Phi-la-đen-phi và Lao-đi-xê. Bảy thư này đều có ư nghĩa, tất cả đều là lời của Chúa Giê-su, Ngài muốn khiển trách Hội Thánh của Ngài. Các thư này nói lên nguyên lư thuộc linh của Hội Thánh ngày nay. Bảy lá thư này đă nói tiên tri về toàn bộ sự phát triển Hội Thánh của Chúa trong 2000 năm qua. Chỉ cần 2 chương thôi nhưng đă mô tả được toàn bộ lịch sử phát triển của Hội Thánh trong 2000 năm qua. Thật là ấn tượng! Tại sao lại là số 7? V́ số 7 trong Kinh Thánh mô tả công việc trọn vẹn của Đức Chúa Trời. Cũng như Đức Chúa Trời đă phục hồi lại trái đất trong bảy ngày th́ bảy Hội Thánh cũng cho biết Đức Chúa Trời sẽ khôi phục lại Hội Thánh và làm nó trọn vẹn như thế nào. Các thư này rất quan trọng đối với chúng ta. Chúng ta phải hiểu và biết áp dụng nó.
Hội Thánh Ê-phê-sô
Chúng ta hăy bắt đầu với thư gửi cho Hội Thánh Ê-phê-sô. Cái tên “Ê-phê-sô” nghĩa là “đáng khao khát” và cũng có nghĩa là “bị buông ra”. Chúng ta sẽ thấy mỗi tên của thành phố đều có một nghĩa quan trọng đối với thời kỳ phát triển của Hội Thánh. Trong thư này, Chúa Giê-su giới thiệu Ngài là Đấng có bảy ngôi sao trong tay phải Ngài. Có nghĩa là lúc đó, Chúa có nhiều người dẫn dắt trung tín trong Hội Thánh, điển h́nh là các sứ đồ. Sau đó, Chúa cũng cho biết là trong thời gian này, Hội Thánh đă từ bỏ t́nh yêu ban đầu. Chúa nói: “Ta có điều trách ngươi, đó là ngươi đă bỏ t́nh yêu ban đầu”. T́nh yêu ban đầu là t́nh yêu tốt nhất dành cho Chúa Giê-su. V́ vậy mà Chúa nói: “Hăy ăn năn!”. Đây không phải là sự ăn năn như lúc mới tin Chúa mà đây là sự ăn năn thường xuyên mỗi khi chúng ta rời xa t́nh yêu ban đầu dành cho Chúa. Chúng ta thấy vào thời đó Hội Thánh đă không c̣n t́nh yêu ban đầu đối với Chúa. Trong thư gửi cho Ti-mô-thê, Phao lô cho biết tất cả các Hội Thánh ở Tiểu Á đă rời bỏ ông (xem 2.Ti-mô-thê 1:15). Họ đă rời bỏ một người anh em hoàn toàn tuyệt đối cho Đấng Christ. Tại sao? Tại v́ họ đă từ bỏ t́nh yêu ban đầu, là t́nh yêu tuyệt đối dành cho Chúa. Có cái ǵ đó đă len lỏi vào giữa họ và Đấng Christ. Chúa cũng nói: “nếu ngươi không ăn năn th́ Ta sẽ cất chân đèn của ngươi khỏi chỗ nó”. Nếu t́nh trạng Hội Thánh như vậy th́ Hội Thánh không c̣n là lời chứng của Chúa và cũng không c̣n ánh sáng của thế giới.
Tuy nhiên, Hội Thánh này cũng có một điều mà Đức Chúa Trời đẹp ḷng là họ ghét những việc làm của đảng Ni-cô-La mà Ngài cũng ghét nữa. Việc làm của đảng Ni-cô-la là ǵ? Trong tiếng Hy Lạp, từ Ni-cô-la bao gồm hai từ “Ni-cô” có nghĩa là “thống trị” và “la” có nghĩa là “dân”. Như vậy, đảng Ni-cô-la là phần thiểu số đang thống trị dân Chúa. Đó chính là hệ thống hàng giáo phẩm - giáo dân. Ngày nay, chúng ta thấy rằng hệ thống này đă trở nên phổ biến trong Cơ Đốc giáo. Lúc đó, Hội Thánh Ê-phê-sô đă ghét đảng Ni-cô-la này và đă không chấp nhận nó.
Bây giờ chúng ta hăy xem sơ đồ của lịch sử Hội Thánh từ thời Hội Thánh ban đầu cho đến khi Chúa Giê-su trở lại. Lá thư gửi cho Hội Thánh Ê-phê-sô là thời kỳ ban đầu của Hội Thánh cho đến hết thế kỷ thứ nhất. Vào thời đó, Giăng là sứ đồ cuối cùng c̣n đang sống. Trong thời kỳ này, chúng ta thấy Hội Thánh đă bắt đầu sa ngă v́ Hội Thánh đă từ bỏ t́nh yêu ban đầu dành cho Chúa. Tóm lại, Hội Thánh Ê-phê-sô tượng trưng cho các Hội Thánh trong thời các sứ đồ. Thật ra, Chúa muốn Hội Thánh phải luôn vinh hiển cho đến khi Chúa trở lại và phải có t́nh yêu ban đầu, cũng như không được sa ngă. Tuy nhiên chúng ta thấy là ngay trong thế kỷ đầu th́ Hội Thánh đă bắt đầu tụt dốc.
Hội Thánh Si-miệc-nơ
Bây giờ chúng ta đi đến với thư thứ hai để t́m hiểu xem Chúa Giê-su muốn nói ǵ với chúng ta. Từ “Si-miệc-nơ” theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là một dược. Trong Kinh Thánh, từ “một dược” có liên quan rất nhiều đến chịu khổ. Ví dụ, một dược được nhắc đến khi Chúa chịu đóng đinh. Hơn nữa, từ “một dược” cũng liên quan đến từ “cay đắng”. Nếu đọc thư này th́ cũng có thể hiểu nghĩa của từ “Si-miệc-nơ”. Chúa Giê-su nói: “Ta biết sự hoạn nạn, nghèo khó,...những lời phỉ báng... ngục tù”. Nhưng đặc biệt là hoàn toàn không có một lời phê b́nh nào của Chúa. Điều này nói lên rằng Đức Chúa Trời đánh giá rất cao khi dân Ngài sẵn sàng chịu khổ v́ Ngài. Rồi Chúa Giê-su nói Ngài là “Đấng đă chết nhưng đă sống lại” và khích lệ Hội Thánh “trung tín cho đến chết”. Điều này cho biết rất rơ là trong thời gian này sẽ có rất nhiều người tử đạo, nhưng với một lời hứa là “măo miện của sự sống”. Có nghĩa là sẽ sống lại và sẽ cùng trị v́ với Chúa.
Ở đây, Chúa Giê-su cũng cho biết họ sẽ gặp hoạn nạn trong 10 ngày. Lịch sử cho biết là từ khi thời kỳ của mười hai sứ đồ sắp kết thúc, th́ có mười cuộc bức hại các Cơ Đốc nhân rất lớn trong đế chế của La Mă. Tôi liệt kê 10 hoàng đế La Mă ở đây, bắt đầu là Nero. Người ta nói hắn là hoàng đế La Mă tàn bạo nhất. Hắn đă bắt Cơ Đốc nhân làm đuốc thắp sáng và đóng đinh các Cơ Đốc nhân. Người kế tiếp là Domitian, là người đă bắt Giăng đi lưu đày. Người thứ bảy là Decius đă bắt đầu bức hại các Cơ Đốc nhân trên toàn đế chế La Mă. Chính phủ đă tổ chức sự bức hại đó. Hoàng đế thứ mười là Diocletian đă tiến hành các cuộc bức hại Cơ Đốc nhân hết sức tàn bạo. Mục tiêu của hắn là loại bỏ cái tên Giê-su Christ ra khỏi trái đất này. Hắn đă ra lệnh cho đốt toàn bộ sách của Cơ Đốc nhân, đặc biệt là Kinh Thánh. Nếu ai bị phát hiện đang đọc Kinh Thánh th́ sẽ bị bỏ vào tù. Các Cơ Đốc nhân trên toàn đế chế La Mă bị giết bởi thú dữ, bởi ŕu, và đóng đinh... Vậy ai đă đứng sau các cuộc bức hại Cơ Đốc nhân này? Kinh Thánh nói rơ là ma quỷ. Chúa Giê-su không nói là các hoàng đế mà Ngài nói là ma quỷ. V́ Hội Thánh là cái mà ma quỷ muốn hủy diệt. Trong các giai đoạn của đế chế La Mă, hắn t́m mọi cách để làm điều đó.
Như vậy, trên sơ đồ là thời kỳ Hội Thánh Si-miệc-nơ. Chỉ một ḿnh cái tên “Si-miệc-nơ” đă là một lời tiên tri rất rơ ràng về những ǵ sẽ xảy ra: Hội Thánh sẽ bị bức hại bởi các hoàng đế La Mă, và đặc biệt là bởi 10 cái tên hoàng đế được liệt kê ở đây. Thời kỳ này được kết thúc vào năm 313 SCN. Chính xác vào thời gian đó th́ chúng ta thấy có một sự phát triển khác
florida80
12-22-2019, 21:02
Người Công Giáo Kỳ Thị Người Do Thái Ở San Juan Guatemalan
http://www.ticotimes.net/2014/08/29/orthodox-jewish-community-leaves-guatemalan-village-after-clashing-with-mayan-population
GUATEMALA CITY — A community of 230 Orthodox Jews from several countries Thursday began leaving the Guatemalan indigenous village where they lived for six years after claims and counterclaims of discrimination and threats.Their exit from San Juan La Laguna, on the banks of Lake Atitlán and 200 kilometers (125 miles) from the capital Guatemala City, follows a meeting Wednesday in which Jewish and indigenous representatives failed to reach an agreement.“We are a people of peace and in order to avoid an incident we’ve already begun to leave the village,” Misael Santos, a representative from the Jewish community, told AFP.
They had received threats, Santos said.
“We have a right to be there, but they threatened us with lynching if we don’t leave the village,” he added.Most members of the small Jewish community are from the United States, Israel, the U.K. and Russia, and around 40 are Guatemalan. Approximately half are children.
Since October, the local indigenous population has accused the Orthodox Jews of discriminating against them and of violating Mayan customs.
The Council of Indigenous Elders said the Jewish community “wanted to impose their religion” and was undermining the Catholic faith that is predominant in the village.
“We act in self-defense and to respect our rights as indigenous people. The [Guatemalan] Constitution protects us because we need to conserve and preserve our culture,” council spokesman Miguel Vásquez told AFP.
florida80
12-22-2019, 21:04
Kế hoạch của Đức Chúa Trời (phần 1/2)
Khải thị về việc xây dựng của Đức Chúa Trời
Chúng ta thấy trong toàn Kinh Thánh Đức Chúa Trời đă luôn muốn xậy một cái ǵ đó. Ban đầu, Ngài đă dựng Ê-va từ xương sườn của A-đam, kế đến là con tàu Nô-ê, Đền Tạm vào thời Môi-se và cuối cùng là đền thờ tại Giê-ru-sa-lem vào thời vua Sa-lô-môn (tham khảo bài viết „Việc xây dựng của Đức Chúa Trời“ ở http://www.angospel.com/hoi-thanh/80...chua-troi.html) . Tất cả những điều này chỉ là một h́nh ảnh cho kế hoạch mà Đức Chúa Trời đă lập từ ban đầu: đó là xây dựng Hội Thánh của Ngài trong thời đại của chúng ta. Tuy nhiên, v́ con người bị sa ngă nên đă "bị hỏng" và do đó trở thành vô dụng cho việc xây dựng Đức Chúa Trời, nên Chúa Cứu Thế Giê-su đă đến để cứu chuộc chúng ta khỏi tội lỗi. Sự cứu rỗi không phải là mục tiêu duy nhất của Đức Chúa Trời như nhiều người nghĩ , nhưng chỉ nhằm để "sửa chữa" con người. Nó phải xảy ra để Đức Chúa Trời có thể thể tiếp tục thực hiện mục đích mà Đức Chúa Trời đă lập trước khi tạo dựng thế giới và để ngày nay có thể hoàn tất mục đích này cùng với chúng ta Hội Thánh của Ngài.
Các câu Kinh Thánh liên quan đến bài viết:
Đức Chúa Trời đă mua Hội Thánh bằng chính huyết ḿnh (xem Công Vụ 20:28).
„Và bày tỏ cho mọi người thấy kế hoạch mầu nhiệm đă được giữ kín qua các thời đại trong Đức Chúa Trời, Đấng tạo dựng muôn vật. Bây giờ, qua Hội Thánh, sự khôn ngoan vô hạn của Đức Chúa Trời được bày tỏ cho những kẻ thống lĩnh, những quyền lực trong các nơi trên trời, theo mục đích đời đời mà Ngài đă hoàn tất trong Đấng Christ Jêsus, Chúa chúng ta“ (Ê-phê-sô 3:9-11)
„C̣n Ta,Ta bảo ngươi rằng: Ngươi là Phi -e-rơ, Ta sẽ lập Hội Thánh của Ta trên đá nầy, các cửa âm phủ chẳng thắng được Hội Thánh“ (Ma-thi-ơ 16:18).
Hội Thánh hoàn toàn từ Đấng Christ
Việc tạo dựng Ê-va từ xương sườn của A-đam là một h́nh ảnh của việc xây dựng Hội Thánh hôm nay. Cũng như A-đam phải rơi vào giấc ngủ sâu để Ê-va được tao dựng th́ Chúa Jesus Christ cũng phải chết trên thập giá, để Ngài có được Hội Thánh (Ê-phê-sô 5:25-27). Nhưng sau đó Chúa đă phục sinh để ban sự sống của chính Ngài cho Hội Thánh
Cũng như Ê-va chỉ được tạo nên từ xương sườn của A-đam th́ Hội Thánh chỉ có thể được xây dựng bằng sự sống đến từ Đấng Christ. Trong tiếng Hy Lạp, từ „xương“ c̣n có nghĩa là „sự sống“ (life). Chúng ta không được sử dụng cách khác như ư tưởng hay cách thức của loài người, như dùng người có tài ăn nói, ăn uống, ca nhạc, disco, thể thao,.. để thu hút người. Nếu Hội Thánh được xây bằng quyền năng của sự sống bất diệt của Đấng Christ (Hê-bơ-rơ 7:16) th́ không ǵ có thể cản trở Hội Thánh được. Cuối cùng Đấng Christ chỉ chấp nhận những ǵ đến từ Ngài, giống như A-đam đă nói: „Người nầy là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi mà ra“ (Sáng Thế Kư 2:23).
An
florida80
12-22-2019, 21:06
Chúa Jesus là Vua
Đối với nhiều người không tin Chúa th́ Jesus chỉ là một vĩ nhân, mộtngười tốt, hay là người sáng lập ra một tôn giáo nàođó. C̣n những người tin Ngài, Ngài là Đấng Cứu Rỗi,đă chết để chuộc tội cho nhân loại và là một ngườigiúp đỡ họ trong cơn gian nan. Chính v́ nghĩ vậy nên khiphạm tội hay gặp khó khăn, chúng ta mới đến với Ngàiđể Ngài cứu. C̣n trong đời sống hằng ngày, th́ Chúađi đường Chúa, tôi đi đường tôi. Nếu tôi không cóvấn đề ǵ th́ tôi không cần ai cứu cả.
Tuy nhiên, ít người ư thức được Jesus là Vua. Nhiều chỗ trong KinhThánh cho biết rằng Jesus sẽ đến trái đất lần thứhai với tư cách là Vua của tất cả các vua và là Chúacủa các chúa. Ngài sẽ trị v́ đời đời trên trái đất.Tôi xin dẫn chứng vài chỗ trong Kinh Thánh.
Thi Thiên 2:
Khoảng 1000 nămtrước CN, Đức Chúa Trời đă mạc khải cho Đa-vít thấyNgài sẽ lập một vị vua cai trị toàn bộ địa cầu,cung vua đặt tại núi Si-ôn, tại thành phố Giê-ru-sa-lêncủa Israel.
"Dầu vậy, Ta đă lập Vua của Ta trên Si-ôn là núi thánh Ta.
Tôi sẽ truyền ra mạng lệnh của CHÚA: „CHÚA phán cùng tôi rằng: Ngươilà Con Ta; Ngày nay Ta đă sanh Con.
Hăy cầu Ta, Ta sẽ ban cho Con các nước làm cơ nghiệp, và các nơi tận cùng của trái đất làm tài sản.
Con sẽ dùng cây gậy sắt mà đập bể chúng nó; Con sẽ làm vỡ nát chúngnó khác nào b́nh gốm
V́ vậy, hỡi cácvua, hăy khôn ngoan; Hỡi các quan xét thế gian, hăy chịusự dạy dỗ.
Hăy phục vụ CHÚA cách kính sợ, bà mừng rỡ cách run rẩy
Hăy hôn Con, e Người nổi giận, Và các ngươi hư mất trong đườngchăng; V́ cơn thạnh nộ Người sắp nổi lên. Phàm kẻ nào nương náu ḿnh nơi Người có phước thay!“ (ThiThiên 2:6-12)
Đoạn này là mộtcuộc đối thoại giữa Chúa Cha (từ „Ta“) và Chúa Con(từ „Con“). Trong Công Vụ. 4: 24-27;13:33 và Hê-bơ-rơ1:5, các sứ đồ đă trích dẫn Thi Thiên 2 để làm chứng về Chúa Jesus.
Như vậy, qua Thi Thiên 2, chúng ta thấy Chúa Jesus được chỉ định làmvua trị v́ tất cả các nước và cả trái đất thuộcvề Ngài. Ngài sẽ trừng phạt các quốc gia, „Con sẽdùng cây gậy sắt mà đập bể chúng nó; Con sẽ làm vỡnát chúng nó khác nào b́nh gốm“.
Lúc đó nguyên thủ của các nước, kể cả tổng thống Mỹ, Nga, sẽrun rẩy và khiếp sợ trước Ngài. Mọi người phải quỳgối khi nghe đến Danh của Ngài „Cũng v́ đó nên Đức Chúa Trời đă đem Ngài lên rất cao, và ban cho Ngài danhtrên hết mọi danh, để khi nghe đến danh Đức ChúaJêsus, mọi đầu gối trên trời, dưới đất, bên dưới đất, thảy đều qú xuống“ (Phi-líp 2:9-10).
Đa-ni-ên 2
Trong đoạn này,tiên tri Đa-ni-ên mô tả trước quá tŕnh lịch sử của các đế chế lớn của loài người: By-ba-lôn, Ba Tư, HyLạp, La Mă, nền dân chủ công ḥa. Tiếp theo của nền dân chủ cộng ḥa là vương quốc của Đức Chúa Trời,vương quốc này sẽ tồn tại đời đời trên trái đất.
Đa-ni-ên 2:44„Trong đời các vua nầy, Chúa của các tầng trời sẽ dựng nên một nước không bao giờ bị hủy diệt, quyền nước ấy không bao giờ để thuộc về một dân tộckhác; song nó sẽ đánh tan và hủy diệt hết các nướctrước kia, mà ḿnh th́ đứng đời đời“.
Các bạn có thể đọc bài viết „Chúa Jesus trở lại khi nào“để hiểu pho tượng trong Đa-ni-ên 2.
Khải Huyền 11:15„Từ nay nước của thế giới thuộc về Chúa chúng ta và Đấng Christ của Ngài, Ngài sẽ trị v́ đời đời“.Khi Chúa trở lại th́ tất cả các quốc gia đều thuộcvề Ngài và Ngài sẽ trị v́ đời đời trên trái đất.
Không chỉ Đấng Christ mà những người trung tín với Chúa cũng sẽ trị v́ đời đời trên trái đất (Khải Huyền 22:5, KhảiHuyền 2:26-27, Khải Huyền 3:21)
Tóm lại, chúng ta hăy biết khôn ngoan, đừng giỡn mặt với Chúa. Hăyhọc để Chúa tể trị trong cuộc sống mỗi ngày và làm theo những ǵ Ngài nói với chúng ta. Nếu không khi Chúa trở lại, chúng ta sẽ gặp vấn đề lớn, v́ Ngài sẽ phán xét tất cả chúng ta. Ngài chỉ chấp nhận những ǵ theo ư Ngài thôi.
Ngoài ra, chúng ta đừng mong đợi một ngày nào đó lên trên trời. Nhiều chỗ trong Kinh Thánh, đặc biệt là Khải Huyền 21:1-5 cho biết Đức Chúa Trời sẽ „dọn nhà“ xuống trái đất để ở măi măi giữa loài người. Lúc đó sẽ trên trái đất sẽ có công lư, ḥa b́nh. Trừ Chúa ra, ai đủ tư cách để trị v́ trên trái đất này? Có nguyên thủ của quốc gia nào có thể giải quyết mọi bất công, tham nhũng, tội ác trên trái đất? Chỉ ḿnh Chúa Jesus là niềm hy vọng duy nhất của trái đất này. V́ thế chúng ta hăy cầu nguyện „Vua Jesus ơi, hăy đến mau! Xin vương quốc của Chúa mau đến trái đất này!“.
florida80
12-22-2019, 21:08
Đạo và Đời
Đạo và Đời thường đi đôi với nhau tuy mơi người là một Tư Tưỡng, Ư Thích trái ngược nhau
Người ta CHỐNG NGHỊCH nhau, CHỐNG NGHỊCH Đạo Lư cũa Đức Chúa Trời v́ người ta KHÔNG HIỄU, vô t́nh HIỄU SAI, and/or CỐ T̀NH LÔI KÉO người khác HIỄU SAI Cho một MỤC ĐÍCH Riêng Tư nào đó
thật là KHÔNG CÔNG BẰNG và KHÔNG PHĂI ĐẠO... cho việc làm bôi bác, tàn ác này
tui không Chống Đối, hay Đă kích ai că; v́ Đất, Trời KHÔNG DO con người TẠO RA,
->> con người có NÓI G̀ cũng KHÔNG THAY ĐƠI ĐƯỢC Đất cũng như Trời
nhưng con người CHỐNG NGHỊCH lại Đấng toàn năng tạo nên Đất, Trời ...
->> th́ con người KHÓ GIỮ Được An Toàn cho sự Sống cũa con người ...
Ai Đạp / ĐÁ vào MŨI NHỌN th́ người đó PHĂI CHỊU Nhức Nhói ...
xin cho tui một cơ hội Đưa ra vài Trích Đoạn Kinh Thánh ĐỄ ÁP DỤNG / Thực Hành vào Đời Sống cũa con người... SỐNG... ĐỄ CHỨNG MINH Tính Xác Thật / Linh Động cũa Kinh Thánh trong Đời Sống con người, cũng như ĐỄ CHỨNG MINH những Suy Nghĩ Sai Lầm, and/or tư tưỡng ÁC Độc cũa kẽ CHỐNG NGHỊCH lại Đấng Trọn LÀNH, Thánh Thiện
ps: các bạn tham gia topic này, please FOLLOW FORUM RULES, đừng dùng ngôn ngữ thô bạo, tục tĩu đễ tấn công, chữi bới nhau đễ topic tui mỡ ra ... Bị Xoá
cám ơn
++++++++++++++++++++ +
Có Đức Chúa Trời hay Không ???
kẽ Vô Thần thường QUĂ QUYẾT Là KHÔNG cÓ Đức Chúa Trời
“Thượng Đế (TĐ) sao vụng về thế! ”
Đó là câu mà anh chị em vô thần thường dùng để khích bác những người tin TĐ. Chắc là ư họ nói nếu TĐ là toàn thiện, toàn mĩ, th́ tại sao TĐ tạo ra sự đau khổ, chết chóc và những sự bất toàn? ???
Đức Chúa Trời là Đấng toàn năng, trọn lành ... đă tạo ra con người theo H́nh và Ănh Tượng cũa Đức Chúa Trời, Sáng Thế Kư 1:26; khiến cho những người Sống ngay lành theo Lời Răn Dạy cũa Đức Chúa Trời = 10 Điều Răn cũa Đức Chúa Trời Được Trỡ Thành những Thánh Nhân Ngay Lành, Trong Sáng, Tuyệt Đẹp...
bằng chứng rơ ràng là Mẹ Maria, và các Thánh Nhân Nam cũng như Nữ khác .., Thánh Nhân nào cũng Ngay Lành, Trong Sáng, Tuyệt Đẹp,
v́ Đức Chúa Trời và các Thánh ỡ trên Trời Đẹp nên tà Thần, Satan, nguyên thuỹ là Thần Ánh Sáng Ban Mai ... Thèm Muốn Cạnh Tranh / Được Làm Đức Chúa Trời ... CHỐNG NGHỊCH lại Đức Chúa Trời và ĐĂ Bị Thua mới trỡ thành thương tật, XẤU XÍ ...
và v́ Đức Chúa Trời, Đấng toàn năng, PHÁN XÉT CÔNG BẰNG ... PHĂI CHẤP THUẬN cho tà Thần, ma Quỹ, bè đăng cũa Kẽ Ác, Giết Người tung hoành khắp thế gian ... Đễ các Thánh Nhân, những con người, những tạo vật HOÀN HĂO cũa Đấng toàn năng, trọn lành ... Va Chạm, Chiến Đấu & CHIẾN THẮNG...
con người, tạo vật HOÀN HĂO cũa Đấng toàn năng, trọn lành ->> PHĂI KHỐNG CHẾ Được kẽ Ác Giết Người.., th́ con người, tạo vật cũa Đấng toàn năng mới Được Gọi là Hoàn Hăo, Xứng Đáng Được Vinh Danh theo CÔNG TRẠNG .. THÀNH TÍCH cũa những con người Được Trỡ Thành Thánh Nhân
trong Gian Nan Thữ Thách, Đói bụng tí, Đau Khỗ tí màh KHÔNG VƯỢT QUA Được .., Phăi Cúi Đầu Quỳ Lạy, Cúng Thí tà Thần, Ngạ Quỹ.. th́ sao xứng đáng gọi là Con cũa Đức Chúa Trời, Hoàn Hăo ???
???
nếu tin rằng TĐ là Nguồn Tạo Hóa (NTH), đă tạo nên mọi loài, kể cả Vũ Trụ (VT); và nếu biết được VT lớn cỡ nào, th́ biết mỗi cá nhân chúng ta bé mọn cỡ nào, từ đó suy ra kiến thức của loài người bé mọn cỡ nào so với sự toàn tri của TĐ.
Kinh nghiệm và suy luận cho thấy:
1- Tinh thần quan trọng hơn thể xác (vật chất).
2- Hạnh phúc chỉ được nhận biết sau khi đă trải qua đau khổ.
3- Tinh thần có lẽ trường tồn, bất diệt. Vật chất th́ phù du, chóng qua.
4- Hạnh phúc cho tinh thần chỉ nằm trong t́nh thương yêu nhau.
5- Càng cố thâu tóm của cải (vật chất) cách bất công, th́ càng bị khinh tởm (bất hạnh). Ḷng tham th́ vô đáy, không bao giờ được thỏa măn (bất hạnh).
6- Đời người có giới hạn, phù du. ???
Phăi NÓI cho CHÍNH XÁC là Thời Gian THỮ THÁCH Đễ Tuyễn Chọn con người LÀM CON Thánh cÓ Giới Hạn .. Chóng Qua ... phù du... dzach dzị dzà dzị dzạch... what ever... tui ghét phù du... nghe giống chữ ba tàu
hic hic hic ... cái tay cũa tui, cây viết cũa tui ... KHÔNG PHĂI là TUI ...
TỰ cái TAY tui.., TỰ cây Viết KHÔNG VIẾT chữ.., KHÔNG VẼ ... và cũng KHÔNG Thễ LÀM Ra cái đách ǵ că ...
nhưng
cái tay cũa tui, cây viết cũa tui DỰA VÀO Ư THÍCH cũa TUI ... LÀM THEO Ư MUỐN, QUYỀN LỰC từ trong con người SỐNG ĐỘNG cũa tui
th́
cái tay cũa tui, cây viết cũa tui ... SẼ VẠCH RA MUÔN NGÀN LỜI THƠ, Ư NHẠC, TRANH ĂNH ... MUÔN NGÀN ẤN TƯỢNG, Ư TƯỠNG, ƯỚC MUỐN, LỆNH TRUYỀN ...
màh
TỰ cái TAY tui.., TỰ cây Viết tui KHÔNG VIẾT chữ.., KHÔNG VẼ ... và cũng KHÔNG Thễ LÀM Ra cái đách ǵ că
những con vật ăn cơ như con ḅ ... nói chữ cho nó sang ... là ĂN CHAY ... KHÔNG ĂN THỊT ... muôn đời con ḅ vẫn là con ḅ ... vẫn bị trẽ con xơ mũi kéo ra đồng làm ruộng giúp cha mẹ ...
nhưng
các Tiên Tri, Thánh Nhân ngày đêm LÀM Theo Ư cũa Đức Chúa Trời.., kêu cầu Danh Đức Chúa Trời màh các Tiên Tri, các Thánh Nhân ĐĂ LÀM ra những PHÉP LẠ màh những người KHÔNG LÀM Theo Ư cũa Đức Chúa Trời.., KHÔNG kêu cầu Danh Đức Chúa Trời ..KHÔNG THỄ LÀM ĐƯỢC
cũng vậy,
những người TU Phật, LÀM THEO LỜI DẠY cũa Phật, ngày đêm TỤNG NIỆM, KHẤN HỨA... những ǵ với Phật... màh LÀM RA... NÓI RA... Những ĐIỀU LẠ... HUYỀN BÍ...
do đó,
->> người CG CẦN PHĂI nghiên Cứu Thánh Kinh, Thi Hành, Sống theo các Điều Luật, Nghi Lễ Đức Chúa Trời, Chúa Jesus Đă Thành Lập, vẠch Ra, Truyền Lệnh cho con người PHĂI THI HÀNH.. Đễ con người Có Thễ HIỆP THÔNG cùng Đức Chúa Trời, chứ người CG KHÔNG SO SÁNH kiến thức con người với kiến thức Đức Chúa Trời
Vậy ai càng chịu đau khổ về thể xác ở đời nầy; th́ càng cảm thấy hạnh phúc khi xác đă chết; v́ khi đó linh hồn không c̣n bị áp lực của vật chất (thể xác) nữa. Những áp lực đó là: đói khát, bệnh tật, thiếu tiện nghi, trọng lực, nhiệt độ.. Những ĐIỀU kỳ LẠ Làm Thay Đơi TRÁI NGƯỢC Trạng Thái Tự Nhiên Sau khi thân xác Chết, do đâu màh có ???
:hello:
con người Được Đức Chúa Trời tạo ra, và con người Được Đức Chúa Trời Mời Gọi Làm Con Thánh..,
v́ con người CHỐNG NGHỊCH lại Đấng Thánh toàn năng nên khi Đấng Thánh toàn năng Gọi ai.. là kẽ CHỐNG NGHỊCH lại Đấng Thánh toàn năng đó PHĂI LĂN Ra CHẾT
cái CHẾT đầu tiên chĩ TÁCH RỜI Linh Hồn và Thân Xác con người... NGĂN CHẶN mọi Hành Động con người Đă và Mong Muốn Làm khi thân xác c̣n Sống ... Hoàn Toàn KHÔNG cÓ Nghĩa là ĐĂ Giăi Thoát Được những Đau Khỗ Vướng Mắc trước khi thân xác con người CHẾT
người CHẾT... Linh HỖN Bước vào Thế Giới Vô H́nh, nơi có sự Hiện Diện cũa Vô Số tà Thần, ma Quỹ..
những Điều Thiền Sư, những người hay Thiền, KHI C̣n Sống thường hay, Niệm Chú, Khấn Hứa bằng Tiếng Lạ ... Bước vào Thế Giới Vô H́nh, Sẽ HIỄU Được Tiếng Lạ.. những điều họ thường tụng niệm màh Lănh Nghiệp
Đời màh nhễ ???
Đời Dạy con người Luật Gieo Nhân nào th́ Lănh Quă Đó,
Phật cũng dạy Phật tữ Luật Nhân Quă, Nghiệp Báo
Phật KHÔNG Nói Chơi / KHÔNG Nói XẠO về chuyện ma Quỹ Hành H́nh người trong các tầng Địa Ngục, nhễ ???
Nếu KHÔNG có Đức Chúa Trời, Đấng Thánh, tà Thần, ma Quỹ... ai là người NGU chịu NHỊN ĂN.., KIÊNG CỮ.., Nhường Nhịn.. Đũ Điều rùi Dâng Tặng những lời Cầu, and/or Cúng Thí ???
???
Vậy ai càng chịu đau khổ về thể xác ở đời nầy; th́ càng cảm thấy hạnh phúc khi xác đă chết; v́ khi đó linh hồn không c̣n bị áp lực của vật chất (thể xác) nữa. Những áp lực đó là: đói khát, bệnh tật, thiếu tiện nghi, trọng lực, nhiệt độ
V́ thế, ta nên coi sự đau khổ ở đời nầy như là điều kiện, hoặc phương tiện để hưởng hạnh phúc sau khi xác đă chết; đó là luật công bằng tuyệt đối của NTH; .. ???
Lư Luận KHÔNG ĐÚNG SỰ THẬT...
Tự LỪA DỐI Băn Thân, CHỐI BƠ Sự Thật th́ KHÔNG cÓ Cách Nào Giăi Quyết được VẤN ĐỄ ...
và
muôn đời Sẽ Phăi Ch́m Đắm trong cănh Khỗ v́ KHÔNG BIẾT Sự Thật ĐỄ THOÁT RA, nhễ ???
cho nên chớ vội trách “Ông Trời sao bất công!”; và ai khôn ngoan lo tạo hạnh phúc cho phần tinh thần bằng ḷng mến Chúa và yêu người càng nhiều th́ càng được hạnh phúc nhiều khi c̣n sống cũng như sau khi xác đă chết... ???
ông, bà, cha, mẹ người Việt Nam dạy, và Đời cũng Dạy con người là :
NÓI PHĂI Có Sách, MÁCH PHĂI Có Chứng Cớ
tiếng ing gờ lít gọi là : Action is much Louder than Words
&
tiếng Việt Nam gọi là : Hành Động CÓ HIỆU QUĂ HƠN Lời Nói
do vậy, cái miệng nói mến Chúa và yêu người màh KHÔNG Đưa Ra Luật Lệ, HÀNH ĐỘNG CHIẾU THEO QUY LUẬT cũa Đức Chúa Trời... th́ KHÔNG cÓ Kết Quă
Và người viết tin rằng khi xác đă chết th́ linh hồn (kiến thức, ư muốn, t́nh cảm, trí nhớ...) được thong dong đi du ngoạn khắp VT, rộng vô biên, với tâm t́nh yêu Thiên Nhiên (mến Chúa) và thưởng thức nét đẹp của mọi tạo vật, ḱ công của Nguồn Tạo Hóa. Nghĩ đến đó thôi, người viết đă thấy thèm, như đă từng thèm đời sống tự do của các loài chim. Nhờ thế mà ḿnh không hề sợ chết, một thứ hạnh phúc mà ít ai biết hưởng khi c̣n sống.
C̣n ai tham lam, ráng thâu tóm quyền bính, của cải, danh lợi... là những thứ chóng tàn. Đến ngày thân xác không c̣n sống, th́ họ tiếc nuối và đau khổ biết bao, lại thêm bao oan khiên, cừu hận mà họ đă tạo ra trong cuộc đời; khi đó họ cảm thấy dễ chịu không? Đó mới chính là “hỏa ngục”. ???
florida80
12-22-2019, 21:09
có chuyện buồn cười dzị sao ???
Đời Dạy con người Hiễu Biết rằng khi con người KHÔNG TỰ TẠO Ra Chốn An Vui Đễ An Nghĩ.., và ngày nào con người KHÔNG cÓ Chũ Quyền, KHÔNG ĐŨ Sức Mạnh Đễ Cướp Chũ Quyền... hay KHÔNG cÓ sự CHẤP THUẬN / ĐỒNG Ư cũa Chũ nhà th́ con người KHÔNG ĐƯỢC BƯỚC CHÂN Vào ...
khi con người c̣n Sống, giữa người với người màh c̣n có luật lệ = Xin Visa, că Đống thũ tục + Tiền Cước Phí Đễ Xin du lịch, Ghé Trọ ...
khi con người c̣n Sống, Cộng hết tất că Trí Khôn, Phương Tiện Tối Tân nhất cũa loài người, loài người cũng KHÔNG THỄ Bước Chân vào Nước Trời được...
và
Cộng hết tất că Trí Khôn, Phương Tiện Tối Tân nhất cũa loài người, loài người cũng KHÔNG ĐŨ KHĂ NĂNG ĐỄ CHỐNG CỰ Lại tà Thần, ma Quỹ
dzị
khi thân xác con người Chết, một thân, một ḿnh, một người Chết ...
->> làm sao một người CHỐNG NGHỊCH lại Đấng Thánh toàn năng muh PHĂI Chết ... Lại Có Thễ Được Tự Do Đi Đây Đó trong Thế Giới Vô H́nh nơi có Sự HiỆn Diện cũa các tà Thần, ma Quỹ ???
->> làm sao một người CHỐNG NGHỊCH lại Đấng Thánh toàn năng muh PHĂI Chết ... Lại Có Thễ Được Tự Do Đi Lên Trời khi tà Thần, ma Quỹ Khôn Lanh, Quyền Phép hơn sức lực cũa loài người c̣n KHÔNG LÊN TRỜI Được ???
???
florida80
12-22-2019, 21:13
Ông Môshê vị lănh đạo tài đức đưa dân Israel ra khỏi Ai Cập
Ông Môshê vị lănh đạo tài đức đưa dân Israel ra khỏi Ai Cập
Khi đọc lại lịch sử cuộc giải phóng dân Israel khỏi kiếp sống nô lệ bên Ai Cập, chúng ta không thể không nói đến ông Môshê người lănh đạo cuộc xuất hành của dân Israel. Giavê Thiên Chúa đă chọn ông cho sứ mạng quan trọng này, và ông đă là người luôn luôn sống trong thái độ lắng nghe, đối thoại và tuân hành các lệnh truyền của Thiên Chúa.
Cùng với các lệnh truyền liên quan tới cách cử hành Lễ Vượt Qua là luật cắt b́ cho nam giới của những gia đ́nh ngoại kiều muốn mừng lễ, và luật dâng hiến con đực đầu ḷng của loài vật cũng như loài người cho Giavê. Con đầu ḷng của lừa th́ lấy một con chiên chuộc lại, nếu không chuộc th́ đánh găy ót nó. C̣n mọi con đầu ḷng của loài người th́ chuộc lại.
Chúng ta đang ở trong mùa xuân khoảng năm 1350 trước công nguyên. Sau khi cử hành lễ Vượt Qua dân Do thái vội vă lên đường. Họ lấy áo choàng quảy bột chưa dậy men đem theo.
Từ Pitom ông Môshê dẫn dân vượt qua biển Sậy để vào sa mạc, rồi từ đó t́m đường vào đất Canaan. Nghĩa là ông không theo con đường gần nhất chạy đọc bờ biển Địa Trung Hải, v́ nó đầy các đồn bót kiểm soát của người Ai Cập cũng như của người Philitinh, nhưng sau khi vào sa mạc ông dẫn dân đi xuống phía nam bán đảo Sinai.
Ra khỏi Ai Cập họ đóng trại tại Succot rồi tại Etam ven sa mạc. Sau đó Giavê lại ra lệnh cho họ quay lại đóng trại đối diện với Pi Hakhirot, giữa Micdon và biển đối diện với Baal Saphon, bên bờ biển.
Sau khi cho dân Israel ra đi, Pharaô Ai Cập hối tiếc để mất số nhân lực khổng lồ phục vụ toàn dân Ai Cập. Ông thắng chiến xa và đem quân đuổi theo người Do thái. Khi thấy Pharaô và quan quân Ai Cập dân Israel thất kinh hồn vía, kêu khóc và trách móc ông Môshê tại sao lại đem họ ra khỏi Ai Cập để vào chết trong sa mạc, v́ thà làm nô lệ cho người Ai Cập hơn là chết trong sa mạc khô cằn này. Ông Môshê trấn an họ, v́ Thiên Chúa sẽ chiến đấu cho họ.
Giavê ra lệnh cho dân Do thái nhổ trại. Người bảo Môshê cầm gậy giơ tay trên Biển rẽ nước ra cho có lối đi khô ráo để con cái Israel đi qua. Thiên sứ của Thiên Chúa đang đi phía trước rời chỗ đi đàng sau họ và cột mây bỏ phía trước mà đứng về phía sau và tỏa mịt mù chặn lối người Ai Cập. Thiên Chúa cho gió thổi mạnh suốt đêm khiến biển hóa thành đất khô cạn. Con cái Israel đi vào giữa sang bờ bên kia. Khi họ đă qua hết ngựa xe của quan quân Ai Cập bắt đầu đuổi theo họ. Giavê ra lệnh cho ông Môshê giơ tay trên mặt biển, và biển lấp lại như cũ chôn vùi toàn đạo binh Ai Cập. Dân Israel kính sợ Giavê và tin vào ông Môshê. Bấy giờ ông Môshê cùng với con cái Israel hát mừng Giavê bài ca và cũng là lời cầu cảm tạ chúc tụng và tuyên xưng niềm tin nơi Giavê như chúng ta có thể đọc trong chương 15 sách Xuất Hành.
”Tôi xin hát mừng Chúa, Đấng cao cả uy hùng: kỵ binh cùng chiến mă Người xô xuống đại dương. Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi. Người là Chúa tôi thờ, xin dâng lời Vinh chúc, Người là Chúa tổ tiên, xin mừng câu tán tụng. Người là trang chiến binh, danh Người là Đức Chúa. Xa mă Pharaô Người xô xuống ḷng biển, tướng dũng với binh hùng chết ch́m trong Biển Sậy. Vực thẳm vùi lấp chúng, chúng ch́m xuống nước sâu chẳng khác nào ḥn đá. Lậy Chúa, tay hữu Ngài đă biểu dương sức mạnh. Tay hữu Ngài lậy Chúa đă nghiền nát địch quân. Lấy dũng lực uy hùng, Chúa quật ngă đối phương; Ngài nổi cơn thịnh nộ, thiêu chúng cháy như rơm... Ai trong bậc thần minh được như Ngài lậy Chúa? Ai sánh được như Ngài, Đấng rạng ngời thánh thiện, lập chiến công khủng khiếp, làm nên việc diệu kỳ? Tay hữu Ngài giơ lên, đất rẽ ra nuốt chúng. C̣n dân đă chuộc về Ngài, Ngài yêu thương d́u đắt, lấy quyền lực dẫn đưa tới đất thiêng Ngài ngự... ”
Phần cuối của thánh thi nói tới nỗi kinh sợ của các dân tộc Philitinh, Êđom, Moab, Canaan và biến cố dân Israel tiến vào miền Đất Hứa: ”Ngài cho dân tiến vào định cư họ trên núi, núi gia nghiệp của Ngài. Lậy Chúa, chính nơi đây Ngài chọn làm chỗ ở. Đây cũng là đền thánh tự tay Ngài lập nên. Chúa là vua hiển trị đến muôn thuở muôn đời.”
Bài thánh thi chứng minh cho thấy v́ Israel là dân riêng Chúa chọn nên Ngài giải thoát họ.
Cuộc hành tŕnh cam go trong sa mạc, với nắng cháy ban ngày giá buốt ban đêm, thiếu thốn lương thực và nước uống, khiến cho dân Israel nhớ lại bánh thịt của kiếp sống nô lệ bên Ai Cập, và họ than trách ông Môshê. Thiên Chúa cho biết chính Ngài sẽ nuôi dân Israel và ban bánh thịt cho họ: đó là bánh manna và thịt chim cút.
Tại Rơphiđim dân khát nước lại kêu trách ông Môshê khiến ông phải kêu lên cùng Chúa: ”Con phải làm ǵ cho dân này bây giờ? Chỉ một chút nữa là họ ném đá con!” Thiên Chúa phán: ”Ngươi hăy đi lên phiá trước dân, đem theo một số kỳ mục Israel; cầm lấy cây gậy ngươi đă dùng để đập sông Nil và đi đi. C̣n Ta, Ta sẽ đứng ở đàng kia trước mặt ngươi, trên tảng đá ở núi Khôrép. Ngươi sẽ đập vào tảng đá. Từ tảng đá nước sẽ chảy ra cho dân uống”. Ông Môshê đă làm như vậy trước các kỳ mục Israel. Ông đặt tên cho nơi ấy là Maxa và Mêriba, nghĩa là thử thách và gây sự.
Tại Rơphiđim dân Israel cũng phải đương đầu với người Amalếch tới đánh họ. Trong khi ông Giosuê và một số người Israel giao tranh với người Amalếch, ông Môshê đứng trên núi giang tay cầu nguyện cho dân Israel. Khi ông giơ tay lên th́ người Israel thắng thế, khi ông hạ tay xuống th́ quân Amalếch thắng thế. Nhưng ông Môshê mỏi tay, v́ thế người ta lấy một ḥn đá để ông ngồi, c̣n ông Aharon và ông Khua th́ đỡ tay ông mỗi người một bên. Nhờ vậy ông Môshê cứ giơ tay được măi cho tới khi mặt trời lặn và dân Israel chiến thắng người Amalếch, như có thể đọc trong chương 17 sách Xuất Hành. Đây là một trong các h́nh ảnh rất đẹp và ư nghĩa của ông Môshê, vị lănh đạo cầu nguyện cho dân trong cuộc chiến.
Tuy nhiên, biến cố quan trọng nhất là sự kiện Giavê Thiên Chúa kư kết giao ước với dân Israel tại núi Sinai, để Ngài là Chúa của họ và họ trở thành dân riêng của Ngài, như tŕnh thuật trong chương 19 sách Xuất Hành. Thiên Chúa truyền cho ông Môshê nói với dân: ”Hôm nay và ngày mai phải giữ ḿnh cho khỏi nhiễm uế, phải giặt quần áo, và đến ngày kia phải sẵn sàng, v́ ngày kia Giavê sẽ ngự xống trên núi Sinai trước mắt toàn dân”. Thiên Chúa cũng dặn ông Môshê định ranh giới và bảo họ không được vượt giới hạn đó kẻo phải chết.
Đến ngày thứ ba, ngay từ sáng, có sấm chớp và mây mù dầy đặc trên núi và có tiếng tù và thổi rất mạnh. Toàn dân trong trại đều run sợ. Ông Môshê đưa dân ra khỏi trại để nghênh đón Thiên Chúa, họ đứng dưới chân núi. Cả núi Sinai nghi ngút khói, v́ Giavê ngự trong đám lửa mà xuống; khói bốc lên như khói ḷ lửa, và cả núi rung chuyển rất mạnh. Ông Môshê nói và Thiên Chúa trả lời trong tiếng sấm. Giavê ngự xuống trên núi Sinai, trên đỉnh núi. Người gọi ông Môshê lên đỉnh núi và ông đi lên... Thiên Chúa phán tất cả những lời sau đây: ”Ta là Giavê, Thiên Chúa của ngươi, đă đưa ngươi ra khỏi Ai Cập, khỏi cảnh nô lệ. Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta. Ngươi không được tạc tượng, vẽ h́nh bất cứ vật ǵ ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất để mà thờ. Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: v́ Ta Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi là một vị thần ghen tương. Đối với những kẻ ghét Ta, Ta sẽ phạt con cháu đến ba bốn đời v́ tội lỗi của cha ông. C̣n với những ai yêu mến Ta và giữ mệnh lệnh của Ta, th́ Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời. Ngươi không được dùng danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi một cách bất xứng, v́ Đức Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng. Ngươi hăy nhớ ngày sabát, mà coi đó là ngày thánh. Trong sáu ngày ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. C̣n ngày thứ bảy là ngày sabát kính Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó ngươi không được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi. V́ trong sáu ngày Đức Chúa đă dựng nên trời đất, biển khơi và muôn loài trong đó, nhưng Người đă nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy Đức Chúa đă chúc phúc cho ngày sabát và coi đó là ngày thánh. Ngươi hăy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi. Ngươi không được giết người. Ngươi không được ngoại t́nh. Ngươi không được trộm cắp. Ngươi không được làm chứng gian hại người. Ngươi không được ham muốn nhà người ta, ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con ḅ con lừa hay bất cứ vật ǵ của người ta”.
Khi nghe tiếng sấm sét, tiếng tù và, khi thấy ánh lửa và núi bốc khói, toàn dân sợ hăi run rẩy và đứng xa xa. Họ nói với ông Moshê: ”Xin chính ông nói với chúng tôi, chúng tôi mới dám nghe, nhưng xin Thiên Chúa đừng nói với chúng tôi, kẻo chúng tôi chết mất!”. Ông Môshê bảo dân: ”Đừng sợ hăi, v́ Thiên Chúa đến để thử thách anh em và làm cho anh em luôn kính sợ Người, ngơ hầu anh em đừng phạm tội.” Dân đứng xa xa, c̣n ông Môshê th́ tiến lại gần đám mây đen, nơi Thiên Chúa đang ngự” (Xh 20,1-21).
Chính giao ước này là nguồn gốc mọi tương quan của dân Israel với Thiên Chúa. Và ông Môshê, vị lănh đạo là người trung gian giữa Thiên Chúa và dân Người, trong tư thế của kẻ được nói chuyện mặt giáp mặt với Thiên Chúa và chuyển đạt cho dân mọi ước muốn và lệnh truyền của Thiên Chúa. Có thể nói cả cuộc đời ông là một cuộc đối thoại thân t́nh với Thiên Chúa, một kinh nguyện dài và liên lỉ.
(Thần Học Kinh Thánh bài số 1195)
florida80
12-22-2019, 21:14
Tại sao bạn không đến với tác giả của Kinh Thánh?
Cách đây bảy năm, tôi thông công với các sinh viên trong trường đại học về một đoạn Kinh Thánh. Khi thấy họ nói khác với những điều tôi đă nghe và đă đọc trong sách giải nghĩa Kinh Thánh, tôi rất bất b́nh nên tranh luận khá gây gắt với họ. Họ càng giải thích, tôi càng “căi tới bến”. Họ mới nói với tôi rằng: “Tranh luận với nhau không có ích ǵ. Tại sao bạn lại không đến gặp trực tiếp tác giả của Kinh Thánh để hỏi. Tác giả của Kinh Thánh là Chúa Jesus, Ngài không ở đâu xa mà đang sống trong bạn. Bạn nên hỏi Ngài nghĩ ǵ khi Ngài nói như vậy. Chỉ những ǵ Ngài nghĩ mới có giá trị thôi”...
Mời các bạn đọc tiếp bài viết này ở đây: http://www.angospel.com/chia-se/tai-...inh-thanh.html.
florida80
12-22-2019, 21:17
Nhà Thờ Kính
The Crystal Cathedral
BTTVHQN sưu tầm & giới thiệu
“Nhà thờ kính” (The Crystal Cathedral) là nhà thờ Tin Lành ở thành phố Garden Grove, Orange County, California, Hoa Kỳ, do kiến trúc sư Philip Johnson vẽ kiểu, được xây dựng với trên 10,000 tấm kính và có sức chứa 2,736 chổ ngồi. Tuy được gọi là “Cathedral” nhưng đây không phải là nhà thờ “chính toà” như cách gọi của người Công giáo. Nhà thờ này được khởi công vào năm 1977 và hoàn thành năm 1980, chi phí xây dựng là 18 triệu USD. Cây đại phong cầm trong nhà thờ là một trong những cây đàn lớn nhất thế giới do gia đ́nh anh em Ruffatti ở Ư sản xuất (Fratelli Ruffatti). Họ cũng là nhà sản xuất đàn Đại phong cầm cho Đền Thờ Đức Mẹ Fatima ở Bồ Đào Nha.
http://bttvhqn.blogspot.com/2011/01/nha-tho-kinh.html
Reply With Quote Reply With Quote Multi-Quote This Message Thanks Blog this Post .
--------------------------------------------------------------------------------
+ Reply to Thread
Quick Navigation T́m hiểu về Công Giáo Top
florida80
12-22-2019, 21:18
Thờ H́nh Tượng
Lời Chúa có chép trong Bible và trong Mười Điều Răn Chúa cắm thờ h́nh tượng.
Tại sao Công Giáo thờ h́nh tượng ? dám thây đổi bản Mười Điều Răn của Chúa
Khi hỏi giáo dân về Mười Điều Răn có chép trong sách nào ở trong Kinh Thánh th́
không có ai biết, tại sao ?
Các bạn vào Catholic website này để biết thật bản Mười Điều Răn thật Chúa ban cho
chúng ta.
http://www.catholic.org/bible/ten_commandments.php
florida80
12-22-2019, 21:18
Ban đầu Đức Chúa Trời tạo nên trời và đất
Chắc chắn, Chúa đă sắp trở lại và sự trở lại của Chúa đă đứng trước cửa rồi. Nhiều dấu hiệu như t́nh trạng trái đất, t́nh trạng các Cơ Đốc nhân và t́nh trạng của Hội Thánh cho chúng ta biết rằng Chúa sắp kết thúc thời đại này và rất có nhiều khả năng chúng ta là thế hệ cuối cùng. Chính v́ vậy, nó không phải là chuyện nhỏ để chúng ta có thêm một năm nữa để Chúa chuẩn bị chúng ta cho sự trở lại của Ngài. Đừng nghĩ rằng chúng ta c̣n rất nhiều thời gian!...
Qua Sáng Thế Kư 1, Đức Chúa Trời không muốn chúng ta hiểu trái đất này đă được tạo ra như thế nào mà qua những câu này, Ngài muốn chúng ta hiểu được t́nh trạng của ḿnh ra sao...
Mời cái bạn đọc tiếp ở: http://www.angospel.com/chia-se/104-...oi-va-dat.html
florida80
12-22-2019, 21:19
Điều ǵ sẽ đến với nhân loại?
Hôm nay chúng tôi muốn đề cập đến câu hỏi: Điều ǵ sẽ đến với nhân loại? Chúng ta có thể t́m thấy câu trả lời trong Kinh Thánh, v́ Kinh Thánh là lời của Đức Chúa Trời.
Có lẽ một số người chờ đợi để biết ngày nào là tận thế. Tuy nhiên, một ngày như vậy chúng ta không thể tính được, v́ Kinh Thánh nói rằng chúng ta không thể biết Đấng Christ trở lại vào ngày nào và giờ nào (Ma-thi-ơ 24:36). Nhưng nó không có nghĩa là chúng ta không biết điều ǵ sẽ đến với chúng ta. Tuy không biết ngày và giờ, nhưng Kinh Thánh cho chúng ta biết một số dấu hiệu để nhận biết thời đại này sẽ kết thúc khi nào và ra sao, cũng như khi nào Đấng Christ đến trái đất này lần thứ hai. Hôm nay chúng ta sẽ xem xét kỹ những dấu hiệu này.
Lần đến đầu tiên của Đấng Christ
"Đấng Christ" trong tiếng Do Thái (Hebrew) có nghĩa là Đấng Mê-si. Qua nhiều chỗ trong Cựu Ước, Đức Chúa Trời đă hứa rằng Đấng này sẽ đến.Trước khi xem xét các điều tiên tri về lần đến thứ hai của Đấng Christ, chúng ta phải thấy rơ rằng tất cả những điều tiên tri về lần đến đầu tiên của Ngài đă được ứng nghiệm hoàn toàn. Việc Đấng Christ đến trái đất này cách đây khoảng 2000 năm đă được báo trước. Từ rất lâu trước khi Ngài đến, Kinh Thánh đă bày tỏ vô số những lời tiên tri mà Chúa Giê-su Christ phải thực hiện trọn vẹn. Xin nêu vài ví dụ ở dưới đây:
Trong sách tiên tri Đa-ni-ên (khoảng năm 600 trước CN), Kinh Thánh đă cho biết cụ thể về thời gian mà Đấng Christ đến lần đầu tiên. Đấng Christ đă tuân thủ chính xác thời gian này. Trong phần sau chúng ta sẽ xem xét điều này kỹ hơn.
Vào khoảng năm 700 trước CN, tiên tri Mi-chê đă cho biết Đấng Christ được sinh ra ở đâu, cụ thể là ở Bết-lê-hem. Lời tiên tri này cũng đă được ứng nghiệm.
Kinh Thánh có bao gồm nhiều chi tiết về gia phả của Đấng Christ. Nhiều thế kỷ trước khi Ngài sinh ra, Kinh Thánh đă cho biết trước ai sẽ là mẹ, là bà ngoại, bà cố,... của Chúa Giê-su. Tất cả đều đă xảy ra một cách chính xác.
Nhiều người biết chuyện Giu-đa phản bội Chúa Giê-su trước khi Ngài chịu đóng đinh. Nhưng vào khoảng năm 700 trước CN, Xa-cha-ri không những cho biết rằng Chúa Giê-su sẽ bị Giu-đa phản mà c̣n cho biết trước số tiền mà Giu-đa nhận để phản Đấng Christ là 30 nén bạc. Chi tiết này cũng đă được ứng nghiệm chính xác.
Kinh Thánh cũng có vô số chi tiết về việc Đấng Christ chịu chết trên thập tự giá. Khoảng 1000 năm trước CN, vua Đa-vít đă nói tiên tri rằng Đấng Christ sẽ chết như thế nào. Thậm chí ông c̣n nhắc đến chuyện áo quần của Đấng Christ lúc Ngài bị đóng đinh sẽ ra sao. Điều tiên tri này cũng đă được ứng nghiệm chính xác.
Nhiều tiên tri lớn đă làm chứng về việc Đấng Christ phục sinh từ những kẻ chết. Tiên tri Giô-na c̣n cho biết rằng Đấng Christ sẽ sống lại vào ngày thứ ba. Điều này đă xảy ra và đă được nhiều người xác nhận.
Như vậy, chúng ta thấy Đấng Christ đă làm ứng nghiệm hoàn toàn mọi điều tiên tri về lần đến đầu tiên của Ngài. Không có điều nào mà không xảy ra. Cũng như Ngài đă thực hiện chính xác mọi lời tiên tri này, Ngài cũng sẽ làm ứng nghiệm chính xác mọi lời tiên tri
về lần đến thứ hai. Những ǵ đă được mô tả trong Kinh Thánh sẽ phải xảy ra. Bây giờ chúng ta xem xét vài điều tiên tri kỹ hơn.
Nước Israel
"Nhưng hăy học bài học từ cây vả: Khi cành trở nên mềm, ra lá th́ các ngươi biết mùa hè sắp đến. Cũng vậy, khi các ngươi thấy tất cả những điều nầy th́ biết rằng nó đă đến gần, đang ở ngay trước cửa" (Ma-thi-ơ 24:32-33).
Ở đây, Chúa Giê-su nói đến tận thế đă gần đến, đang ở trước cửa. Ngài dùng h́nh ảnh cây vả. Trong Kinh Thánh, cây vả là h́nh ảnh ám chỉ nước Israel. Nhiều tiên tri như Ô-suê, Ê-sai, Giê-rê-mi đă dùng h́nh ảnh này để nói tiên tri về nước Israel. Như vậy trong đoạn trên, Chúa Giê-su cũng nói đến nước Israel: Khi cành của cây vả thức dậy sau khi ngủ đông (cành trở nên mềm) th́ mùa hè sắp đến. Qua dụ ngôn này, Chúa Giê-su ám chỉ điều ǵ? Ngài nói đến sự thay đổi nào? Vào năm 70 sau CN, Jerusalem bị quân của tướng La Mă là Titus phá hủy hoàn toàn, đến nỗi từ lúc đó trở đi nước Israel bị xóa sổ khỏi bản đồ thế giới. Hơn 1800 năm đă không có nước Israel nào trên trái đất. Chỉ vào năm 1948, quốc gia Israel mới được thành lập trở lại. Cây vả đă thức dậy sau khi ngủ đông và mọc lá mới. Như vậy chúng ta biết từ năm 1948, tận thế đă ở trước cửa. Nhưng Kinh Thánh cũng cho chúng ta các dấu hiệu khác để chúng ta biết ḿnh đang ở thời gian nào và để chúng ta có thể chuẩn bị.
Mời các bạn đọc tiếp bài này ở đây: http://www.angospel.com/duc-tin/132-dieu-gi-se-den.html.
Có minh họa bằng sơ đồ thời gian.
florida80
12-22-2019, 21:20
Những Câu Chuyện Sưu Tầm về Tin-Lành
Phục Vụ Kẻ Khác
Một ngày nọ có người hỏi nhạc trưởng tài danh Hoa Kỳ Leonard Bernstein: “Thưa Nhạc sĩ, chân nào trong dàn nhạc khó t́m người chơi nhất?”
Bernstein trả lời: “Vĩ cầm thứ hai (second violin). Tôi có thể t́m nhiều người chấp nhận chân vĩ cầm thứ nhất, nhưng t́m được người cùng nhiệt t́nh bằng ḷng chơi vĩ cầm thứ hai, kèn Tây (French horn) thứ hai, sáo thứ hai, th́ thật là khó. Tuy nhiên, nếu không có người đàn vĩ cầm thứ hai, th́ chúng ta không có sự ḥa hợp âm điệu.”
Chế độ xă hội của loài người dựa trên sự phân biệt về ḍng dơi, địa vị, giàu có, thứ bậc. Đa số người ta thích ḿnh được tài giỏi hơn thiên hạ, ít ai chịu lănh địa vị khiêm nhường. Khi Đức Chúa Giê-su giáng thế, Ngài có thể chọn địa vị cao sang, quyền quư, nhưng không; Ngài chọn địa vị thấp kém nhất, khiêm nhường nhất trong xă hội – sinh ra trong máng cỏ lừa ăn! Thay v́ nắm giữ quyền lực thiên đàng, Ngài trở nên một người trong chúng ta. “Ngài phải trở nên giống như anh em Ngài trong mọi mặt để làm vị thượng tế, đầy ḷng thương xót và thành tín trước mặt Đức Chúa Trời để đền tội cho dân chúng” (Hê-bơ-rơ 2:17, BDM).
Lời dạy về sự khiêm tốn là bài học áp dụng cho tất cả chúng ta, những người theo bước chân Đức Chúa Giê-su. “Ta có ḷng nhu ḿ, khiêm nhường; nên hăy gánh lấy ách của ta, và học theo ta; th́ linh hồn [tâm hồn] các ngươi sẽ được yên nghỉ” (Ma-thi-ơ 11:29). Muốn tuân theo lề lối thiên thượng, chúng ta cần khắc phục những bản chất cố hữu của con người – tự cao tự đại, tham vọng ích kỷ. Như thế, chúng ta sẽ nhận được b́nh an trên bước đường phục vụ Chúa.
Thay v́ bon chen, tranh giành quyền lợi cho cá nhân ḿnh, người Cơ Đốc chấp nhận thiệt tḥi bản thân; xem người khác là quan trọng hơn ḿnh. Noi gương Chúa Giê-su, bổn phận của chúng ta là phục vụ đồng loại. “Kẻ nào muốn làm lớn, th́ sẽ làm đầy tớ các ngươi; c̣n kẻ nào muốn làm đầu, th́ sẽ làm tôi mọi các ngươi. Ấy vậy, Con người [Giê-su] đă đến, không phải để người ta hầu việc ḿnh, song để ḿnh hầu việc người ta, và phó sự sống ḿnh làm giá chuộc nhiều người” (Ma-thi-ơ 20:26-28).
Tổng thống Abraham Lincoln được mệnh danh là một trong những nhân vật vĩ đại của thế giới. Ông được các sử gia tuyên dương công trạng, không phải v́ ông là tổng thống của nước Hoa Kỳ giàu mạnh, mà v́ ông giải phóng dân da đen khỏi ách nô lệ. Đối với ông, mọi người sinh ra đều tự do, b́nh đẳng. Phương châm của ông là: “Không gây ác cảm với một ai; có ḷng từ ái với mọi người.” (With malice toward none; with charity for all). Kinh Thánh dạy, “Tôi tớ của Chúa không nên ưa sự tranh cạnh; nhưng phải ở tử tế với mọi người” (II Ti-mô-thê 2:24).
Thế mới biết, người vĩ đại không phải là người đứng đầu, giàu sang nhất, thông minh nhất, tâm linh thông sáng nhất, hoặc đạo đức nhất – mà là người hết ḷng phục vụ kẻ khác.
Đào Thanh Khiết
florida80
12-22-2019, 21:21
Re: Những Câu Chuyện Sưu Tầm về Tin-Lành
Dấu Hiệu Của Thời Đại Ngày Nay
Những chuyến bay đêm thường không thú vị lắm. Suốt chặng đường bay, nh́n ra ngoài cửa bạn chỉ thấy toàn một màu tối sẫm. Hầu hết hành khách đều ngủ, hay ít ra là ngồi trong trạng thái thư giăn, v́ vậy cũng khó cho bạn làm quen.
Nhưng ít ra bạn cũng có thời gian đọc sách hay suy tư. Tôi đă nghĩ nhiều về thời đại chúng ta đang sống giống như những chuyến bay đêm như thế nào? Đặc biệt khi máy bay của bạn gần đến nơi hạ cánh. Bạn bắt đầu thấy những điểm sáng. Lúc đầu chỉ loáng thoáng, rồi càng lúc càng nhiều hơn.
Th́nh ĺnh ánh sáng đèn chan ḥa khắp nơi và bạn biết ḿnh sắp về đến nhà. Kinh Thánh bật điểm sáng về thời gian của chúng ta đang sống. Kinh Thánh cho biết khi bạn thấy những chuyện chắc chắn nào đó xảy ra, đó là những dấu hiệu của thời điểm.
Bạn có thể biết rằng ḿnh sắp đến gần cuối đường. Ngày nay, chúng ta có những chứng cớ rơ ràng là thời điểm của hành tinh này sắp hết. Hăy xem lời dự đoán trong Kinh Thánh, “Sẽ có các điềm lạ trong mặt trời, mặt trăng, cùng các ngôi sao; c̣n dưới đất, dân các nước sầu năo rối loạn v́ biển nổi tiếng om ṣm và sóng đào.
Người ta nhân trong khi đợi việc hung dữ xảy ra cho thế gian, th́ thất kinh mất vía, v́ các thế lực trên trời sẽ rúng động” (Lu-ca 21:25-26). Bạn hăy nh́n xem những sự việc đang xảy ra trên chính trường thế giới cũng như sự đổi thay của thiên nhiên. Có bao nhiêu cuộc chiến tranh tương tàn, giông băo, sóng thần, động đất, và những tai ương, thảm họa khác cứ dồn dập để báo hiệu cho chúng ta biết thời gian không c̣n bao lâu nữa trên trái đất này. Kinh Thánh cũng dự đoán những hiện tượng xă hội trên thế giới “V́ người ta đều tư kỷ, tham tiền, khoe khoang, xấc xược, hay nói xấu, nghịch cha mẹ, bội bạc, không tin kính, vô t́nh, khó ḥa thuận, hay phao vu, không tiết độ, dữ tợn, thù người lành, lường thầy, phản bạn, hay nóng giận, lên ḿnh kiêu ngạo, ưa thích sự vui chơi hơn là yêu mến Đức Chúa Trời” (2 Ti-mô-thê 3:2-4).
Những hiện tượng khác cũng được tiên đoán trong lănh vực lao động và kinh tế như, “Anh em đă thâu trữ tiền của trong những ngày sau rốt! Ḱa, tiền công con gặt gặt ruộng anh em, mà anh em đă ăn gian, nó kêu oan và tiếng kêu của con gặt đă thấu đến tai Chúa. . .” (Gia-cơ 5:3, 4).
Nghe giống như một bản tin tức buổi chiều phải không bạn? Chúng ta đang hướng về đâu? Trên đây chỉ là một số trong rất nhiều dấu hiệu được báo trước trong Kinh Thánh nói về thời kỳ của chúng ta.
Những người biết nghĩ ở khắp nơi đang thắc mắc “Tất cả những việc này có ư nói ǵ?” và “Thế giới của chúng ta hiện đang làm ǵ?” Kinh Thánh nói, “Cũng vậy, khi các ngươi thấy những điều ấy xảy ra, hăy biết nước Đức Chúa Trời gần đến” (Lu-ca 21:31).
Trong khi không một ai có thể biết ngày và giờ Chúa trở lại, chúng ta có thể biết ngày ấy đang gần kề. Và hăy nhớ những lời Chúa Giê-su dạy, “Vậy, hăy tỉnh thức luôn và cầu nguyện, để các ngươi được tránh khỏi các tai nạn sẽ xảy ra, và đứng trước mặt Con người” (Lu-ca 21:36).
Hăy đón nh́n những tia sáng. Chúng là những tín hiệu cho bạn biết hành tŕnh của bạn sắp chấm dứt. Và nếu Chúa Giê-su là vị phi công của bạn, bạn có thể yên tâm có một cuộc hạ cánh an toàn!
By Bob DuBose
florida80
12-22-2019, 21:21
Chuyện Con Sư Tử và Bầy Trâu
(Một Bài Học Về Đoàn Kết)
Có một bầy trâu mười con sống chung nhau trên một ngọn đồi của một cánh rừng già hoang vắng. Chúng được nổi tiếng nhất là thương yêu nhau. Chúng yêu nhau một cách tha thiết lạ lùng. Mọi ngày chúng cùng nhau quây quần ăn chung một đám cỏ. Cũng trên đỉnh đồi ấy có một con sư tử lảng vảng ŕnh ṃ để t́m mồi. Nó biết nó thừa sức hạ sát bầy trâu ấy từng con một, nhưng nó sợ không dám tấn công đàn lúc cả mười con trâu cùng đứng chung nhau trên một đám cỏ với hai mươi cái sừng to lớn và nhọn hoắc.
Con sư tử nghĩ: "Phải chi một trong những chú trâu này đi lạc bầy, th́ ḿnh thịt liền và chén một bữa cho đă!". Nghĩ như vậy nó kiên tâm ŕnh rập bầy trâu suốt mấy tháng trường. Nó cứ quanh đi quẩn lại "phục kích" trong cánh rừng ấy nhưng chẳng bao giờ gặp một con trâu lẻ loi.
Bầy trâu càng thương yêu nhau khắng khít với nhau, và cứ vui vẻ vây quanh nhau đứng nhá những ngọn cỏ ngon lành. Tuy nhiên, một hôm có một con trâu dậy đi ăn sớm hơn những con kia. Và nó quen thói cứ làm như vậy trong nhiều ngày. Sau cùng, một trong những con trâu "anh chị" tố cáo nó rằng: "Tại sao mày lại dậy sớm hơn chúng tao để xơi cả những ngọn cỏ xanh tươi và non mướt hơn hết." "Nhưng mà", con trâu kia đáp, "ấy là tại các anh dậy trễ! Nếu tôi dậy sớm th́ có mắc mớ ǵ các anh đâu? Cỏ nào cũng vậy chớ".
bầy trâu gồm chín con trâu kia dầu cho là con trâu ấy đă lén lút giành phần ăn tốt hơn hết. Chúng bèn biểu quyết thà giải tán cái "ngưu hội" ấy và mạnh ai nấy chiếm một phần đất để kiếm ăn là hơn. Chẳng bao lâu, cả mười con trâu chia nhau hùng cứ mười đỉnh đồi. Sư tử thấy vậy thật mừng hết lớn. Nó tự nhủ: "Đây là thời cơ mà ḿnh mong đợi bấy lâu nay".
Nó cứ đón từng con trâu một, hạ sát một cách dễ dàng và mỗi lần như thế là được một bữa chén hả hê. Chỉ trong một thời gian ngắn cả mười con trâu to lớn kia đều lần lượt chui vào bụng con sư tử.
Hỡi các bạn thanh niên thân mến trong Chúa, hăy nghe đây lời Chúa cảnh cáo chúng ta rằng: "...kẻ thù nghịch anh em là ma quỉ, như sư tử rống, đi ŕnh ṃ chung quanh anh em, t́m kiếm người nào có thể nuốt được".
florida80
12-22-2019, 21:22
Đôi bàn tay
Một người đàn ông có đến hơn 90 tuổi đang ngồi một cách yếu ớt trên băng ghế công viên. Ông không hề nhúc chích, chỉ ngồi cuối đầu xuống và nh́n chăm chú vào đôi bàn tay ḿnh. Khi tôi đến bên và ngồi xuống cạnh bên, dường như ông không hề nhận ra sự hiện diện của tôi, càng ngồi lâu, tôi càng thắc mắc và lo lắng không biết ông có ổn không.
Cuối cùng, không hẳn là tôi muốn quấy rầy ông, nhưng v́ muốn xem ông có khỏe không, nên tôi hỏi thăm ông một câu, rằng không biết ông có khỏe không, mọi việc có ổn không. Ông ngước đầu lên, nh́n tôi và mỉm cười.
"Ồ vâng, tôi khỏe, cảm ơn anh đă có lời hỏi thăm," ông nói với một giọng rơ ràng.
"Thật sự cháu không có ư làm phiền ông, nhưng v́ ông cứ ngồi đây mà nh́n hoài vào tay ḿnh như thế, cháu không biết ông đang suy nghĩ ǵ, cháu muốn biết chắc rằng ông vẫn khỏe," tôi giải thích với ông như vậy.
Ông hỏi lại tôi, "Thế anh có bao giờ nh́n vào đôi tay của ḿnh chưa? Ta muốn hỏi anh có từng thật sự nh́n vào đôi tay ấy?"
Tôi từ từ mở bàn tay ra và nh́n chúng. Tôi lật đi lật lại đôi bàn tay ḿnh, hết nh́n trong ḷng bàn tay đến bên ngoài. Không, tôi đoán rằng chưa khi nào tôi thật sự nh́n vào bàn tay ḿnh như lúc này -- khi ông hỏi câu hỏi ấy với tôi.
Thế rồi ông mỉm cười và liên hệ đến câu chuyện này.
Hăy dừng lại và suy nghĩ một chút về đôi bàn tay của ḿnh, chúng đă giúp đỡ, phục vụ anh như thế nào trong suốt những năm tháng qua.
Đôi tay nhăn nheo và yếu ớt này của ta đă là một công cụ hữu ích mà ta đă dùng suốt cả cuộc đời ḿnh, để với tới, rồi nắm lấy và ôm trọn cả cuộc đời này.
Chúng đă nâng đỡ và giúp ta bám níu cho khỏi ngă khi ta c̣n là đứa bé bước đi không vững. Chúng đút thức ăn vào miệng ta và mặc áo quần cho ta. Khi c̣n là một đứa trẻ, mẹ đă dạy ta chắp đôi tay này để cầu nguyện với Chúa. Chúng cột giày cho ta và giúp ta mang ủng.
Chúng lau khô nước mắt những đứa con ta và âu yếm nâng niu t́nh yêu của cuộc đời ta. Chúng đă cầm vũ khí và lau nước mắt cho ta khi ta phải lên đường vào chiến trận. Chúng đă bị dơ bẩn, bị thương và trầy xước, bị sưng phồng lên và có khi bị bẻ cong nữa.
Chúng thật đă lúng túng và vụng về khi ta cố gắng bồng đứa con trai mới sanh. Được trang trí bằng chiếc nhẫn cưới, chúng đă tỏ cho cả thế giới biết rằng ta đă kết ước và yêu thương một ai đó rất đặc biệt.
Chúng đă viết những lá thư về nhà. Và chúng đă từng run rẩy khi ta chôn cất cha mẹ ta và vợ ta, và chúng cũng đă run run xúc động khi đưa con gái ta đi giữa hàng ghế nhà thờ trong lễ cưới của nó.
Tuy nhiên, chúng mạnh mẽ và rắn chắc lắm. Chúng đă nắm tay các con cái ta, an ủi những người hàng xóm láng giềng, và tung ra những nắm đấm của sự tức giận khi ta không hiểu được vấn đề.
Chúng che mặt ta, chải đầu ta, và tắm rửa cho cả thân thể ta. Có khi chúng trở nên nhớp nháp và ướt lạnh, bị bẻ cong và găy, khô ráp và chảy máu.
Và cho đến một ngày, khi hầu hết các bộ phận trên cơ thể ta không c̣n hoạt động tốt như trước nữa, th́ đôi bàn tay này lại giúp ta chống để đứng dậy, đở thân thể ta khi nằm xuống, và một lần nữa, chúng tiếp tục chắp lại trong khi ta cầu nguyện. Đôi bàn tay này đă đánh dấu những nơi ta đă đi qua và sự khó nhọc của cuộc đời ta.
Những điều quan trọng hơn, đó là Chúa sẽ với tới và nắm đôi tay này khi Ngài dẫn ta về nhà Cha. Và Ngài sẽ không quan tâm đến việc đôi tay này đă từng ở những đâu hay đă làm những ǵ. Những ǵ Ngài quan tâm là đôi tay này thuộc về ai và Ngài yêu thương bàn tay này như thế nào. Và với bàn tay này, Ngài sẽ đưa ta đến bên Ngài, và rồi ta sẽ dùng chúng để chạm đến khuôn mặt yêu thương của Đấng Christ. Ôi, ngày đó mới tuyệt vời làm sao!
Suy gẫm
Chúa đă ban cho mỗi chúng ta một cuộc sống, trang bị cho chúng ta một cơ thể để hoạt động. Đôi bàn tay là một bộ phận đặc biệt đa năng, giúp chúng ta làm rất nhiều việc khác nhau. Chúa yêu thương và ban tặng cho chúng ta những khả năng, Ngài chắc cũng ao uớc chúng ta sử dụng chúng cách ích lợi và kết quả.
Có thể đôi tay bạn dùng để giúp đỡ, bố thí, có thể chúng được dùng để làm những công việc nặng nhọc giúp đỡ cha mẹ, người thân yêu, cũng có khi chúng được bạn dùng để đánh đàn cho nhà thờ... Và cũng có thể lắm, chính đôi tay đó lại muốn gom tóm lợi ích cho riêng ḿnh, muốn chạm vào tiền bạc của người khác, muốn chỉ vào ai đó để đổ lỗi chăng?
Bạn hăy nh́n vào đôi tay ḿnh, và trả lời với Chúa rằng chúng đă và đang được sử dụng như thế nào? Và hăy sử dụng chúng với ḷng biết ơn Chúa!
Món Súp Tâm Linh
Lannguyen
florida80
12-22-2019, 21:22
Huyết của Chúa Jesus
Một đêm nọ, trong buổi truyền giảng tại nhà thờ, có một phụ nữ trẻ được sự cảm động của Chúa và đă bằng ḷng tin nhận Ngài. Người phụ nữ đó có một quá khứ thật xấu xa. Cô đă từng nghiện rượu, ma túy và làm nghề măi dâm. Nhưng nay, đời sống cô đă có những thay đổi rất rơ rệt.
Thời gian trôi qua, cô trở nên một tín đồ rất mạnh mẽ trong hội thánh. Cô tham gia vào công việc hầu việc Chúa, dạy dỗ lời Chúa cho các em nhi đồng. Không lâu sau đó, cô được người con trai của vị mục sư chủ tọa hội thánh để ư. Mối quan hệ của họ dần dần phát triển, và rồi đến lúc họ chuẩn bị để làm lễ cưới. Và đây chính là lúc nhiều vấn đề nảy sinh. Một nửa hội thánh không đồng ư cho một cô gái có quá khứ đen tối như cô trở thành vợ của con trai một mục sư. Hội thánh bắt đầu nảy sinh nhiều bất đồng quan điểm và tranh căi về việc này.
Cuối cùng, họ quyết định họp nhau lại để bàn về vấn đề này.
V́ mọi người cứ tranh căi và không khí càng lúc càng căng thẳng, cuộc họp dường như chẳng đi đến đâu. Cô gái nọ buồn quá đỗi khi mọi chuyện xấu xa trong quá khứ của ḿnh bị mọi người đem ra bàn bạc.
Cô bật khóc. Người con trai của vị mục sư đứng lên, anh bắt đầu nói chuyện với mọi người. Anh không thể chịu đựng được sự đau đớn mà vợ chưa cưới của ḿnh đang phải chịu đựng. Anh nói "Thưa quư ông bà anh chị em, thật ra quá khứ của cô ấy không phải là việc mà quí vị đang xem xét và bàn luận ở đây, mà bây giờ quư vị đang tranh căi và bàn luận trên khả năng bôi xóa tội lỗi của huyết Chúa Jesus. Ngày hôm nay, quư vị đă nghi ngờ quyền năng tha tội của huyết báu mà Chúa Jesus đă đổ ra v́ chúng ta. Vậy th́, huyết của Ngài có quyền bôi xóa hết tội lỗi chúng ta hay không?"
Cả hội thánh bắt đầu khóc khi họ nhận ra họ đang chối bỏ quyền năng huyết báu của Chúa Jesus, con Đức Chúa Trời.
Và ngày nay, các con cái Chúa cũng thường đem những quá khứ của anh em ḿnh để chống lại họ.
Tha thứ là một nền tảng quan trọng trong Phúc Âm mà Chúa Jesus đă ban cho chúng ta. Nếu huyết Ngài không thể xóa sạch mọi tội lỗi của người khác, th́ huyết ấy cũng không thể nào xóa sạch tội lỗi của chúng ta. Nếu như đây là sự thật, th́ tất cả chúng ta đang ở trong sự hoạn nạn lớn.
Điều ǵ có thể xóa sạch mọi tội lỗi của chúng ta? Không có ǵ khác hơn, chỉ do huyết của Chúa Jesus mà thôi. Bạn có tin điều ấy không?
I Giăng 1:7
huyết của Đức Chúa Jêsus, Con Ngài, làm sạch mọi tội chúng ta.
[Niềm Tin]
florida80
12-22-2019, 21:23
Những hạt ngọc trai
Câu chuyện kể về một cô bé tóc vàng rất dễ thương, cô bé chỉ khoảng năm tuổi. Trong lúc cùng mẹ đứng chờ tính tiền tại quầy thu ngân, cô bé nh́n thấy một chuỗi ngọc trai lấp lánh đựng trong một chiếc hộp màu hồng làm bằng kim loại.
"Ô, mẹ ơi, mẹ mua cho con chuỗi hạt đó đi, mẹ mua nó cho con đi."
Người mẹ nh́n bảng giá được gắn trên đáy chiếc hộp, rồi bà quay lại nh́n cô con gái ḿnh - lúc đó đang ngước mắt lên nh́n mẹ mong chờ được đồng ư. "Một đồng 95 cent, gần hai đồng lận con à. Nếu con thật sự thích nó, mẹ sẽ có một vài việc lặt vặt cho con làm và con sẽ nhanh chóng để dành đủ tiền để tự mua nó. Chỉ c̣n có một tuần nữa là đến sinh nhật con rồi, và bà ngoại có thể cho con một ít tiền lẻ nữa đấy."
Vừa về đến nhà, Jenny đổ hết đóng tiền lẻ để dành bấy lâu và đếm: chỉ được có 17 cent thôi. Sau bữa ăn tối, cô bé cố gắng làm thêm nhiều việc lặt vặt trong nhà hơn nhiệm vụ hàng ngày của ḿnh. Rồi cô bé c̣n sang nhà người hàng xóm và hỏi bà McJames có muốn cô giúp bà nhổ cỏ trong vườn không, và bà chỉ cần trả cho cô bé 10 cent mà thôi. Vào ngày sinh nhật của cô bé, bà ngoại lại cho thêm được 1 đồng nữa, vậy là cuối cùng Jenny cũng đă kiếm được đủ tiền để mua chuỗi ngọc trai đó.
Jenny quí chuỗi ngọc trai vô cùng. Nó làm cho cô bé thấy ḿnh lớn lên và xinh đẹp hẳn ra. Đi đâu cô bé cũng đeo nó bên ḿnh: đi học trường Chúa nhật, đến trường mẫu giáo, thậm chí khi đi ngủ nữa. Jenny chỉ cởi nó ra khi cô bé đi bơi hoặc là khi tắm mà thôi. Bởi v́ mẹ Jenny bảo rằng, nếu chuỗi ngọc trai này bị ướt, nó sẽ ra teng và làm bẩn trên cổ cô bé.
Ba Jenny rất thương cô bé. Mỗi đêm khi Jenny chuẩn bị đi ngủ, ông thường dừng tất cả công việc đang làm, đến bên giường Jenny và kể chuyện cho cô bé nghe.
Vào một buổi tối nọ, khi ba Jenny kết thúc câu chuyện buổi tối, ông hỏi con gái, "Con có thương ba không, Jenny?"
"Dạ có chứ, ba cũng biết là con rất thương ba mà."
"Vậy th́ con có thể cho ba chuỗi hạt ngọc trai của con được không?"
"Ôi ba ơi, thôi ba đừng lấy chuỗi ngọc của con. Nhưng mà ba có thể lấy con ngựa trắng trong số các đồ chơi của con. Nó có cái đuôi màu hồng đó , ba nhớ không? Ba đă tặng con con ngựa đó. Con rất thích nó."
"Cũng được, con yêu, ba thương con lắm, con ngủ ngon nhé." Và người ba cuối xuống hôn nhẹ trên má Jenny trước khi rời đi.
Một tuần sau, khi kể xong câu chuyện, ba của Jenny lại hỏi:
"Con có thương ba không?"
"Ba ơi, ba biết là con thương ba nhiều lắm mà.'"
"Vậy th́ con cho ba cái chuỗi ngọc trai của con đi."
"Ôi, ba đừng lấy chuỗi ngọc trai của con. Nhưng mà ba có thể lấy con búp bê của con. Con búp bê mới toanh mà con được tặng trong ngày sinh nhật đó. Nó đẹp lắm, và ba cũng có thể lấy luôn chiếc mền màu vàng với cái giường ngủ của con búp bê nữa."
"Thôi cũng được. Con ngủ ngon nhé. Chúa ban phước cho con,con gái cưng. Ba yêu con lắm." Và như thường lệ, ông lại hôn nhẹ lên má Jenny trước khi rời khỏi giường cô bé.
Vài hôm sau, khi ba Jenny đến bên giường thấy Jenny đang ngồi xếp bằng trên giường. Khi ông đến, ông thấy chiếc cằm của Jenny run run, một giọt nước mắt đang chảy dài xuống má cô con gái bé bỏng.
"Sao thế con? Chuyện ǵ xảy ra với con vậy, Jenny?"
Jenny không nói ǵ, cô bé đưa bàn tay bé nhỏ của ḿnh về phía cha. Và khi cô mở bàn tay của ḿnh ra, bên trong là chuỗi ngọc trai bé xíu mà cô iu quí. Với một giọng run run, cô nói "Nó đây nè ba, con giao nó cho ba".
Người ba Jenny nh́n con gái vô cùng cảm động. Ông đưa tay ra nhận chuổi ngọc trai rẻ tiền từ tay con và ông tḥ vào túi ḿnh lấy ra một chiếc hộp bọc nhung màu xanh, bên trong là một chuỗi ngọc trai tinh khiết. Ông trao nó cho đứa con gái yêu quư của ḿnh, Jenny. Ông đă giữ nó từ lâu lắm rồi. Ông chỉ chờ cho Jenny sẵn ḷng từ bỏ chuỗi ngọc trai rẻ tiền kia th́ ông sẽ trao chuỗi ngọc thật này cho con gái ḿnh.
Cha Jenny cũng giống Cha chúng ta trên trời. Chúa đang chờ đợi chúng ta từ bỏ những thứ tạm bợ ở thế gian này và t́m kiếm Ngài trước. Ngài sẽ mở các cửa trên Thiên Đàng và đổ phước xuống cho chúng ta đến nỗi không có chỗ chứa.
Bạn có vui ḷng dâng thời gian, tiền bạc, sức lực và khả năng của ḿnh để Chúa sử dụng không?
Ma 3:10
Các ngươi hăy đem hết thảy phần mười vào kho, hầu cho có lương thực trong nhà ta; và từ nay các ngươi khá lấy điều nầy mà thử ta, Đức Giê-hô-va vạn quân phán, xem ta có mở các cửa sổ trên trời cho các ngươi, đổ phước xuống cho các ngươi đến nỗi không chỗ chứa chăng!
Sưu tầm
florida80
12-22-2019, 21:23
Default Re: Những Câu Chuyện Sưu Tầm về Tin-Lành
Thập Giá Là Một Điều Cơ Bản
Thập giá của Đấng Christ là điều mang tính cách mạng nhất từng xuất hiện giữa ṿng loài người.
Thập giá của thời La Mă xa xưa không biết đến sự thỏa hiệp nào; nó chưa bao giờ nhượng bộ ai. Nó được biết đến bởi khả năng giết chết kẻ thù ḿnh và khiến anh ta câm lặng măi măi. Nó không tha cho Đấng Christ, mà c̣n giết chết Ngài như bao người khác. Ngài c̣n sống lúc họ treo Ngài lên trên thập giá, và hoàn toàn đă chết lúc họ đưa Ngài xuống sáu giờ sau đó. Đó là cái thập giá đầu tiên xuất hiện trong lịch sử Cơ Đốc.
Sau khi Đấng Christ sống lại từ cơi chết, các sứ đồ đi ra và rao giảng sứ điệp của Ngài, và điều mà họ rao giảng là thập giá. Bất cứ nơi nào họ đi ra trên thế giới rộng lớn này, họ mang theo thập giá, và cùng một quyền năng mang tính cách mạng đó (quyền năng phục sinh Đấng Christ - ND) đi với họ. Sứ điệp cơ bản của thập giá đă biến đổi Sau-lơ ở Tạt-sơ, và biến ông từ một con người dữ tợn, chuyên bắt bớ Cơ Đốc nhân trở thành một tín hữu mềm mại và một sứ đồ của đức tin. Quyền năng của thập giá biến đổi người xấu thành người tốt. Quyền năng đó tháo gỡ mọi sự trói buộc của ngoại giáo và thay đổi hoàn toàn cái nh́n của thế giới phương Tây về đạo đức và tinh thần. Thập giá đă làm tất cả những điều này và sẽ tiếp tục làm cho đến chừng nào nó vẫn c̣n được xem là thập giá theo ư nghĩa ban đầu của ḿnh. Sức mạnh của nó mất đi khi nó bị biến đổi từ một vật của sự chết sang một vật của cái đẹp. Khi con người biến nó thành biểu tượng, đeo nó quanh cổ họ như một món đồ trang sức hay đưa nó ra trước mặt họ như là một thứ bùa chú giúp tránh khỏi ma quỷ; rồi th́ nó trở thành một biểu tượng yếu ớt xét ở mức độ tốt nhất, và ở mức độ tệ nhất th́ nó rơ ràng là một vật thờ cúng. Như thế, ngày nay thập giá được tôn sùng bởi hàng triệu người hoàn toàn không biết tí ǵ về quyền năng của nó.
Thập giá hoàn tất mục đích của nó bằng cách hủy diệt mẫu h́nh đă có sẵn, của nạn nhân, và tạo nên một mẫu h́nh khác, của chính nó. V́ thế nó luôn có phương cách của ḿnh. Nó thắng bằng cách đánh bại đối thủ và áp đặt ư muốn ḿnh lên anh ta. Nó luôn luôn chiếm ưu thế. Nó không bao giờ thỏa hiệp, không bao giờ đổi chác, hay hội ư, không bao giờ đầu hàng một điểm nào v́ lợi ích của ḥa b́nh. Nó không quan tâm đến ḥa b́nh; nó chỉ quan tâm đến việc kết thúc kẻ thù ḿnh nhanh hết mức có thể.
V́ biết rất rơ mọi điều này, Đấng Christ đă phán, "Nếu ai muốn theo ta, th́ phải liều ḿnh, vác thập tự giá ḿnh mà theo ta." V́ thế, thập giá không chỉ đưa sự sống Đấng Christ trên trần gian này đến chỗ kết thúc, nó cũng chấm dứt đời sống đầu tiên, đời sống cũ, của mỗi người là người thực sự theo Ngài. Nó tiêu diệt mẫu h́nh cũ, mẫu h́nh A-đam, trong đời sống người tin, và chấm dứt nó. Rồi th́ Đức Chúa Trời, Đấng đă khiến Đấng Christ từ kẻ chết sống lại, làm cho người tin sống lại và đời sống mới bắt đầu.
Điều này hoàn toàn là Cơ Đốc giáo thật, dầu chúng ta không thể nhận ra sự bất đồng tinh vi của quan niệm này với quan niệm của những người Tin Lành ngày nay. Nhưng chúng ta không dám đề cao vị trí của ḿnh. Thập giá vượt quá mọi sự đánh giá của con người và đối với thập giá đó, mọi tư tưởng cuối cùng phải chịu sự đoán xét. Sự lănh đạo nông cạn và thế tục sẽ sửa đổi thập giá để làm vừa ḷng hậu duệ của các thánh nhân, những con người tiêu khiển trong cuồng dại, những người sẵn sàng bày tṛ vui của họ ngay cả trong nơi rất thánh; nhưng làm như thế tức là chuốc lấy thảm họa thuộc linh và liều lĩnh trước cơn thịnh nộ của Chiên Con biến thành Sư Tử.
Chúng ta phải làm một điều ǵ đó về thập giá, và chúng ta chỉ có thể làm một trong hai điều mà thôi - chạy trốn nó hay chết trên nó. Và nếu chúng ta dại dột chạy trốn nó, bởi hành động đó, chúng ta sẽ quăng xa mọi niềm tin của cha ông và biến Cơ Đốc giáo thành một thứ ǵ đó khác hơn bản chất thực của nó. Rồi th́ chúng ta sẽ chỉ c̣n lại một ngôn ngữ sáo rỗng về sự cứu rỗi; quyền năng sẽ ĺa bỏ cùng với sự ĺa bỏ thập giá thật của chúng ta.
Nếu chúng ta khôn ngoan, chúng ta sẽ làm điều mà Đức Chúa Jêsus đă làm: Vác thập giá và xem thường sự xấu hổ của nó v́ niềm vui đang được đặt ở phía trước chúng ta. Làm việc này tức là trao phó trọn vẹn kiểu đời sống cũ cho thập giá để bị tiêu hủy đi và xây dựng lại đời sống mới trong quyền năng của sự sống đời đời. Và chúng ta sẽ thấy rằng điều đó c̣n tuyệt vời hơn cả thơ ca, hơn cả những bài thánh thi ngọt ngào và cảm xúc hân hoan. Thập giá sẽ cắt sâu vào đời sống chúng ta, nơi nó gây đau đớn nhiều nhất, nó không dung tha chúng ta cũng như những danh tiếng tốt mà chúng ta đă cẩn thận gây dựng. Nó sẽ đánh bại chúng ta và chấm dứt đời sống ích kỷ của chúng ta. Chỉ khi đó chúng ta mới có thể sống lại trong sự đầy trọn của sự sống để h́nh thành một mẫu h́nh sống hoàn toàn mới và tự do, tràn đầy những công việc tốt lành. Thái độ sai lạc về thập giá mà chúng ta thấy trong giới chính thống hiện đại không chứng minh rằng Đức Chúa Trời đă thay đổi, hay Đấng Christ đă giảm nhẹ đ̣i hỏi của Ngài về việc chúng ta phải vác thập giá ḿnh; nó có nghĩa là Cơ Đốc giáo ngày nay đă đi khỏi những tiêu chuẩn của Thánh Kinh Tân Ước. Cho đến nay, quả thật chúng ta đă đi xa, xa đến độ không có ǵ khác ngoài một cuộc tân cải chánh mới có thể khôi phục và trả thập giá về đúng vị trí của nó trong thần học cũng như trong sự sống của Hội Thánh.
A. W. Tozer
florida80
12-22-2019, 21:24
This is a neat story.
A little girl stood near a small church from which she had been turned away because
it was "too crowded." I can't go to Sunday School," she sobbed
to the pastor as he walked by.
Seeing her shabby, unkempt appearance, the pastor guessed the reason and,
taking her by the hand, took her inside and found a place for her in the Sunday school class.
The child was so happy that they found room for her, and she went to bed that night
thinking of the children who have no place to worship Jesus Some two years later,
this child lay dead in one of the poor tenement buildings.
Her parents called for the kindhearted pastor who had befriended their
daughter to handle the final arrangements. As her poor little body was being moved,
a worn and crumpled red purse was found which seemed to have been rummaged from
some trash dump. Inside was found 57 cents and a note, scribbled in childish handwriting,
which read: "This is to help build the little church bigger so more children
can go to Sunday School. "For two years she had saved for this offering of
love When the pastor tearfully read that note, he knew instantly what he would do.
Carrying this note and the cracked, red pocketbook to the pulpit, he told the story
of her unselfish love and devotion He challenged his deacons to get busy and raise
enough money for the larger building.But the story does not end there...
A newspaper learned of the story and published It. It was read by a wealthy realtor
who offered them a parcel of land worth many thousands. When told that the church could not
pay so much, he offered to sell it to the little church for 57 cents.
Church members made large donations. Checks came from far and wide.
Within five years the little girl's gift had increased to $250,000.00--
a huge sum for that time (near the turn of the century).
Her unselfish love had paid large dividends. When you are in the city of Philadelphia,
look up Temple Baptist Church, with a seating capacity of 3,300.
And be sure to visit Temple University, where thousands of students are educated.
Have a look, too, at the Good Samaritan Hospital and at a Sunday School
building which houses hundreds of beautiful children, built so that no child in
the area will ever need to be left outside during Sunday school time. In one of
the rooms of this building may be seen the picture of the sweet face of the little
girl whose 57 cents, so sacrificially saved, made such remarkable history. Alongside
of it is a portrait of her kind pastor, Dr. Russell H. Conwell, author of the book,
"Acres of Diamonds".
This is a true story, which goes to show WHAT GOD CAN DO WITH 57 CENTS
florida80
12-22-2019, 21:24
Chúa có thể làm ǵ với 57 xu?
Vào một buổi sáng Chúa nhật, tại một ngôi nhà thờ nhỏ kia, có một cô bé nhỏ đang đứng khóc thút thít. Cô bé không được vào lớp học Kinh Thánh v́ lớp học đă quá đông đúc, không c̣n chỗ cho cô bé nữa.
Bất chợt ông mục sư đi ngang qua, cô bé ̣a khóc nức nở, "Ông mục sư ơi, con không được vào lớp trường Chúa nhật học."
Nh́n cô bé con mặt mày lấm lem, đầu tóc rối bù, ông mục sư dường như hiểu được vấn đề. Ông cầm tay dẫn cô bé vào lớp trường Chúa nhật, t́m một chỗ ngồi để cô bé được học Kinh Thánh vào buổi sáng hôm đó.
Đứa trẻ rất cảm động về những ǵ ông mục sư đă làm. Hôm đó, cho đến khi đi ngủ, nó vẫn tiếp tục nghĩ về những đứa trẻ giống ḿnh, chúng nó cũng không có điều kiện để được học biết về Chúa Giê-xu.
Khoảng hai năm sau đó, cô bé nọ qua đời trong một căn pḥng tồi tàn, nằm trong một chung cư đông đúc. Ba mẹ cô gọi ông mục sư - vốn là người đă làm bạn với con gái của ông bà suốt những năm qua - đến làm lễ tang cho con gái nhỏ của họ.
Khi thân thể bé bỏng của cô bé được dời ra khỏi giường, mọi người chợt thấy một chiếc ví sờn rách, cũ kỹ rơi ra. Có lẽ chiếc ví được nhặt đâu đó từ những đống đồ cũ bị người ta vứt đi.
Trong ví là 57 xu và một mảnh giấy nhàu nát với những nét chữ nguệch ngoạc, "Món tiền này dùng để xây dựng một ngôi nhà thờ lớn hơn, đủ chỗ cho tất cả những đứa trẻ có thể đến học trường Chúa nhật". Đó là số tiền dâng mà cô bé đă dành dụm trong suốt hai năm qua.
Khi đọc những ḍng chữ đơn sơ ấy, ông mục sư đă khóc. Ông lập tức hiểu ra ḿnh cần phải làm điều ǵ. Cầm tờ giấy của cô bé nhỏ và quyển sổ soạn bài giảng cũ kỹ của ḿnh, ông mục sư bước lên toà giảng. Ông kể lại toàn bộ câu chuyện về t́nh yêu không vị kỷ và sự dâng hiến của cô bé. Và ông đưa ra một thách thức với ban trị sự là làm sao có thể quyên góp đủ tiền để xây dựng một ngôi nhà thờ lớn hơn.
Nhưng câu chuyện không chỉ dừng lại tại đó!
Một tờ báo biết được câu chuyện cảm động này đă đăng trên số báo của họ. Rồi một người buôn bán bất động sản đọc được câu chuyện kể trên đă dâng hiến một mảnh đất trị giá hàng ngàn dollar. Ông ta chủ động liên hệ với hội thánh, và khi được hội thánh cho biết là không đủ ngân quĩ để mua mảnh đất đó của ông, ông mỉm cười và nói rằng ông bán nó với giá 57 xu.
Trong lúc đó, các tín hữu trong nhà thờ cũng đă quyên góp được một số tiền lớn. Nhiều người ở khắp nơi khi nghe được về câu chuyện trên đă rộng ḷng dâng hiến cho hội thánh trong việc xây dựng nhà thờ mới. Trong ṿng 5 năm, món quà của cô bé nhỏ đă gia tăng lên đến 250,000 dollar, một số tiền rất lớn vào lúc bấy giờ. T́nh yêu không vị kỷ của cô bé đă đem lại một kết quả to lớn.
Khi bạn có dịp đến thành phố Philadelphia, hăy thăm nhà thờ Temple Baptist với hơn 3300 chỗ ngồi, và một trường đại học với hàng trăm sinh viên đang được huấn luyện
Cũng hăy đến thăm bệnh viện Good Samaritan, và ṭa nhà dành riêng cho trường Chúa nhật với hàng trăm giáo viên dạy các lớp trường Chúa nhật, hầu cho không một đứa trẻ nào trong vùng mong muốn học trường Chúa nhật lại bị bỏ rơi.
Trong một pḥng của toà nhà này, bạn sẽ thấy một bức chân dung với khuôn mặt dịu dàng của một cô bé, chính là người mà chỉ với chỉ 57 xu được dành dụm trong sự hi sinh, đă làm nên một sự kiện vĩ đại.
Bên cạnh bức ảnh đó là tấm h́nh của vị mục sư đáng kính của cô bé, tiến sĩ Russell H. Conwell, tác giả cuốn sách "Những cánh đồng kim cương."
Suy gẫm
Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta cảm thấy thất vọng v́ nghĩ rằng ḿnh không có khả năng làm thay đổi hoàn cảnh hiện tại. Cần nhớ rằng nếu tự sức ḿnh th́ chúng ta sẽ chẳng làm được ǵ, nhưng với sự hướng dẫn và quan pḥng của Chúa, chúng ta sẽ luôn đạt được những kết quả thật phi thường.
Đừng bao giờ thất vọng khi cuộc sống làm cho chúng ta cảm thấy ḿnh vô giá trị, nhưng hăy vui mừng và biết rằng Chúa Toàn Năng có thể làm được những việc vô cùng to lớn qua đời sống của chính mỗi người, nếu chúng ta bằng ḷng dâng ḿnh cho Chúa, để Chúa hướng dẫn mọi lối trong cuộc đời ḿnh.
Bạn có sẵn sàng không?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Vả, Đức Chúa Trời, bởi quyền lực cảm động trong chúng ta, có thể làm trổi hơn vô cùng mọi việc chúng ta cầu xin hoặc suy tưởng. (Ê-phê-so 3:20).
Món Súp Tâm Linh
florida80
12-22-2019, 21:25
Viên gạch
Charles là một thanh niên trẻ tuổi khá thành công trong công việc. Anh ta vừa tậu được một chiếc xe mới. Anh lái xe trên con đường ở vùng ngoại ô, chiếc Jaguar lướt nhanh thật êm ái. Charles xem chừng có những đứa trẻ đang chạy chơi hai bên đường không, giữa những hàng xe đang đậu kia. Bất chợt Charles lái xe chậm lại v́ anh cảm giác h́nh như ḿnh vừa nh́n thấy một cái ǵ đó ở phía trước.
Khi lái xe ngang qua, anh chẳng thấy một đứa trẻ nào cả. Thay vào đó, một cục gạch bay thẳng vào cánh cửa xe của anh. Charles thắng gấp và anh lái xe lùi lại chỗ viên gạch vừa được ném ra.
Charles tức giận nhảy ra khỏi xe, chộp lấy đứa trẻ đứng gần ḿnh nhất và gằn giọng, "Mày là ai hả? Mày làm cái khỉ ǵ thế? Cái xe của tao mới tinh như vậy, mày ném cục gạch vô th́ có biết tao phải tốn bao nhiêu tiền để sửa không hả? Tại sao mày lại làm như thế, nhóc con?"
Cậu bé năn nỉ giải thích. "Thưa chú, cháu xin lỗi. Cháu không biết phải làm ǵ khác nữa. Cháu đành phải quăng cục gạch ra bởi v́ chẳng ai chịu dừng lại giúp cháu cả." Nước mắt lăn dài trên má, cậu bé chỉ về hướng những chiếc xe đang đậu đằng kia.
"Em trai cháu ở đằng kia ḱa," cậu bé nói. "Nó bị tuột thắng và ngă khỏi chiếc xe lăn, mà cháu th́ không biết làm sao để bế nó lên cả." Vừa khóc, cậu bé vừa hỏi Charles, "chú có thể làm ơn bế em cháu đặt vào xe lăn giúp cháu được không ạ? Nó đang đau lắm, mà nó nặng quá cháu không bế lên nổi."
Không đợi đứa trẻ nói thêm, Charles cố gắng nuốt nhanh cái nghẹn ngào trong cổ họng và anh vội vàng đến bên, đỡ đứa em dậy, đặt nó vào chiếc xe lăn, rồi anh lấy chiếc khăn tay yêu quư của ḿnh phủi bụi đất dính trên người đứa bé, xem xét những vết trầy xước trên người nó. Anh nh́n đứa bé từ đầu đến chân, để chắc chắn rằng nó không bị làm sao cả.
"Cám ơn chú, xin Chúa ban phước lại trên chú," đứa bé mừng rỡ nói với người khách lạ. Sửng sốt trước lời nói của đứa trẻ, Charles đứng im nh́n cậu bé nhỏ đẩy chiếc xe lăn cùng đứa em tật nguyền hướng về nhà.
Charles trở lại chiếc xe của ḿnh, bước chân anh như nặng nề quá đỗi. Vết lơm trên cửa xe vẫn c̣n đó, nhưng anh chẳng màng đến chuyện mang xe đi sửa nữa. Anh muốn giữ cái vết xước ấy để nhắc nhở chính ḿnh một điều: Đừng chạy qua cuộc đời quá nhanh, đến nỗi người khác phải quăng cục gạch vào ḿnh để gây sự chú ư.
Suy gẫm
Chúa đang th́ thầm nói với mỗi chúng ta. Thỉnh thoảng khi chúng ta không có thời gian để lắng nghe Chúa, Ngài phải ném những "viên gạch" để chúng ta dừng lại, chú ư đến những ǵ Ngài muốn nói với chúng ta. Tất cả đều là sự lựa chọn của chúng ta: Lắng nghe tiếng th́ thầm... hay chờ đợi một viên gạch được ném ra!
Bạn có dành thời gian tỉnh lặng để lắng nghe điều Chúa đương phán với bạn không?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
ISa 3:10
Đức Giê-hô-va đến đứng tại đó, gọi như các lần trước: Hỡi Sa-mu-ên! hỡi Sa-mu-ên! Sa-mu-ên thưa: Xin hăy phán, kẻ tôi tớ Ngài đương nghe!
Lannguyen
florida80
12-22-2019, 21:25
Chiếc cầu
Có một chiếc cầu bắc ngang qua một ḍng sông rộng lớn. Hầu như suốt ngày hai nhịp cầu được mở ra, nằm song song với hai bờ để tàu bè qua lại được dễ dàng. Nhưng cũng có những lúc nhất định trong ngày, hai nhịp cầu được nối lại bắc ngang qua sông để cho những chuyến tàu lửa chạy qua.
Người gác cầu ngồi trong một căn nhà nhỏ bên bờ sông để điều khiển hoạt động của hai nhịp cầu. Vào một đêm nọ, khi ông đang chờ chuyến tàu cuối cùng trong ngày đi qua, ông nh́n vào màn đêm mờ tối và thấy từ xa ánh đèn của đoàn tàu đang tiến lại gần.
Ông bước về trạm điều khiển, chờ cho đến khi đoàn tàu đến đúng khoảng cách quy định th́ ông sẽ xoay hai nhịp cầu lại bắc ngang qua sông. Và khi hai nhịp cầu đă vào vị trí, bất ngờ, ông hốt hoảng nhận ra cái khóa an toàn nối hai nhịp cầu với nhau không hoạt động được nữa. Nếu chiếc cầu không có thiết bị khóa an toàn này, nó sẽ lắc lư và làm đoàn tàu trượt khỏi đường ray và lao xuống sông. Đây là chuyến tàu chở khách, với rất nhiều hành khách trên toa.
Ông vội chạy thật nhanh qua bờ bên kia, ở đó có một đ̣n bẩy điều khiển bằng tay mà ông có thể dùng sức để giữ cái khóa an toàn. Ông sẽ phải giữ chặt cái đ̣n bẩy này cho đến khi đoàn tàu đi qua.
Từ đằng xa, ông có thể nghe thấy đoàn tàu đang tiến lại gần. Ông dùng hết sức của ḿnh giữ thật chặt đ̣n bẩy. Ông đè cả thân ḿnh lên trên nó, cố gắng giữ cái khóa an toàn của hai nhịp cầu khi đoàn tàu đi qua. Rất nhiều mạng sống trên tàu phụ thuộc hoàn toàn vào sức mạnh của ông lúc này!
Bất chợt, phía bên kia chiếc cầu từ hướng trạm điều khiển, ông nghe một tiếng gọi vang lên khiến cả người ông trở nên lạnh toát. "Ba ơi, ba ở đâu?" Đứa con trai 4 tuổi của ông đang vượt qua chiếc cầu để t́m ông. Phản ứng đầu tiên của ông là hét gọi con "Con ơi chạy nhanh lên, chạy nhanh lên".
Nhưng đoàn tàu đă đến rất gần. Đôi chân bé nhỏ sẽ không thể nào giúp con ông tự ḿnh vượt qua chiếc cầu trước khi đoàn tàu tới. Ông muốn rời khỏi chiếc đ̣n bẩy, chạy thật nhanh đến để bồng đứa con yêu dấu của ḿnh chạy đi an toàn. Nhưng ông cũng nhận ra rằng ông không thể nào rời khỏi vị trí đó vào lúc này. Hoặc là tất cả mọi người trên đoàn tàu hoặc đứa con yêu dấu của ông sẽ phải chết.
Trong tích tắc, ông đă phải quyết định!
Đoàn tàu lướt nhanh qua trên chiếc cầu một cách an toàn. Không một ai trên đoàn tàu hay biết rằng có một cơ thể bé nhỏ đă bị hất tung xuống ḍng sông một cách không thương tiếc bởi đoàn tàu mà họ đang ở trên đó. Cũng chẳng ai quan tâm đến h́nh ảnh một người đàn ông đau khổ tột cùng nhưng tay vẫn bám chặt chiếc đ̣n bẩy khi đoàn tàu chạy qua. Họ cũng không nh́n thấy được những bước đi thất thểu của ông trên đường trở về nhà để nói cho vợ nghe về cái chết đau thương của đứa con yêu dấu.
Nếu bạn hiểu được cái cảm xúc của người đàn ông này khi chứng kiến cái chết của con ḿnh th́ bạn cũng bắt đầu hiểu sự đau đớn của Cha chúng ta trên trời khi Ngài hi sinh Con độc sanh của Ngài để làm nhịp cầu kéo chúng ta đến sự sống đời đời.
Câu hỏi suy gẫm
+ Có bao giờ bạn tự hỏi rằng tại sao Đức Chúa Trời lại làm cho đất rún động, bầu trời trở nên tối tăm khi Chúa Giêxu chết trên thập tự giá?
Đức Chúa Trời sẽ cảm thấy như thế nào khi chúng ta lướt qua trong đời này mà chẳng hề nghĩ về những ǵ mà Ngài đă làm cho chúng ta qua Đức Chúa Giêxu?
+ Lần cuối cùng mà bạn cảm tạ Chúa về sự hi sinh của Con Ngài là khi nào? Bạn sẽ làm ǵ đối với ơn cứu chuộc mà Chúa dành cho bạn?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Giang 3:16
V́ Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đă ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời
florida80
12-22-2019, 21:26
Những Câu Chuyện Sưu Tầm về Tin-Lành
Tà linh béo
Mỗi khi gặp gỡ một người anh em to béo hay ăn, một chị em trong Hội thánh thường giơ tay cầu nguyện cho anh ta: - Tà linh béo, hăy cút xéo khỏi con người này, nhân danh Chúa Jê-sus!
Nhưng chẳng có ǵ thay đổi cả. Hết lần này lần khác không có kết quả, người chị em kia thất vọng đến hỏi mục sư: - Sao vậy mục sư, sao tà linh đuổi không chịu đi?
Và người mục sư bèn nhắc lại cho chị một câu trong Kinh thánh
- Nhưng thứ quỉ nầy nếu không cầu nguyện và không KIÊNG ĂN th́ chẳng trừ nó được.
Nhầm
Thiên sứ đến giờ thị sát bốc điện thoại lên và gọi cho tầng 1 ở Địa ngục. Như thường lệ phải có quỉ sứ trực điện trả lời, nhưng hôm nay măi không ai nhấc máy. Chuyển sang gọi cho số máy tầng 2, cũng im như vậy. Gọi sang số máy của tầng 3 địa ngục, măi 15 phút sau mới có một quỉ nhấc máy, vừa alô vừa thở hổn hển: - Ai gọi đấy, hỏi có việc ǵ?
- Này, chúng mày ở dưới đó sao biến đi đâu hết rồi?
- Ối ông ơi, chỗ chúng tôi đang gặp đại họa. Một game thủ vừa phải xuống đây, mà nó ngỡ là rơi vào máy chủ mới, bây giờ đang đánh đến mức thứ ba rồi!
Chúa tha được
Một thanh niên mới tin nhận Chúa trong buổi nhóm, đầy ḷng vui sướng, sẵn sàng gặp ai trong Hội thánh cũng ôm hôn. Bỗng nhiên anh để ư thấy một người đầy vẻ cau có bực dọc, bèn đến gần mà tươi cười bắt chuyện:
- Chúa Jê-sus vừa cứu tôi! Chúa tha hết tội cho tôi rồi!
Người kia sầm mặt, vặc lại: - Tôi là chấp sự đây này!
Người thanh niên kia vẫn không dừng lại, cố lấy lời động viên
- Anh đừng lo, chuyện đấy Chúa cũng tha được mà.
Ḅ cũng phải khóc
Phiên chợ làng hôm đó có một bác nông dân dắt theo một con ḅ sữa trông c̣n rất phong độ. Ông để nó nằm ngay giữa chợ, và cắm một bảng giá đề giá rất đắt. Nhưng khi cả chợ xúm lại xem và bàn tán, th́ bác nông dân ra thêm một điều kiện, là bác sẽ tặng không con ḅ này cho ai có thể vừa làm cho nó cười, vừa làm cho nó khóc, vừa dọa được nó phát sợ phải bỏ chạy.
cow
Con ḅ nằm đó uể oải nhai cỏ với thái độ bất cần đời, và chẳng một cố gắng nào của đám đông hiếu kỳ có thể khiến nó quan tâm. Đến chiều, bỗng nhiên có một người nhỏ bé gầy g̣ tiến đến cạnh con ḅ, nói thầm vào tai nó một điều ǵ đó. Bỗng nhiên con ḅ phá lên cười sằng sặc.
Thấy chuyện lạ xảy ra, cả chợ liền chạy lại xem. Th́ người đàn ông kia đi ṿng sang phía tai bên kia, và lại nói thầm vào tai ḅ một câu nữa. Lần này con ḅ bỗng khóc rống lên.Người đàn ông thủng thẳng đi ṿng quanh con ḅ một lần nữa, và lại ghé tai con ḅ nói thầm một câu thứ ba. Và con ḅ sợ hăi vùng đứng dậy và bỏ chạy trước cặp mắt ngạc nhiên của cả đám đông.
Cả chợ liền vây lấy người đàn ông: - anh đă nói những điều ǵ cho con ḅ nghe vậy?
Anh này từ tốn đáp:
- Câu đầu tiên, tôi hỏi nó “ḅ ơi mày có biết một mục sư Ngũ tuần được nhận lương là bao nhiêu không?” – và mọi người xung quanh cùng phá lên cười.
- Câu thứ hai, tôi hỏi nó “ḅ ơi mày có biết một mục sư Ngũ tuần phải làm việc nhiều như thế nào không?” – lần này cả đám đông ai cũng ứa nước mắt ái ngại.
-Thế c̣n câu thứ ba, anh nói với nó cái ǵ?
- Lần thứ ba, tôi chỉ hỏi “ḅ ơi mày có muốn làm mục sư Ngũ tuần không?”
Chú thích: ở nước Nga có một giai đoạn các Hội thánh Ngũ tuần là các Hội thánh không được chính thức công nhận.
Tinlanh.Ru sưu tầm và dịch
florida80
12-22-2019, 21:26
Thư giăn
Viết bởi Hong An
thien-su-tre-em-cuoi
*Một tín đồ nọ bị đắm tàu và lạc vào một ḥn đảo không có người ở. Một năm sau mới có tàu đến đón anh ta. Họ nh́n thấy trên ḥn đảo ngôi nhà anh ta đă kịp xây với sân, vườn, chuồng dê, tóm lại là đủ cả. Xa đằng sau ngôi nhà, lại có hai nhà thờ. Người ta bèn hỏi: “Tại sao phải có hai nhà thờ?”
“Đây là nhà thờ của tôi, c̣n kia là nhà thờ của phái khác mà tôi không bao giờ đi.”
*Một cụ già nào đó đă nhận xét một câu như thế này: “A-đam là người đàn ông đầu tiên đă phải phàn nàn về đồ ăn mà vợ cho ḿnh ăn.”
Bà nội thăm hỏi đứa cháu ḿnh: “Bố mày vẫn c̣n nhớ đến Chúa mỗi khi ngồi vào bàn ăn đấy chứ?” – “Vâng”, đứa trẻ trả lời, “mới chiều hôm qua thôi, khi ngồi vào bàn ăn bố cháu c̣n nói – Chúa ơi, lại là món cháo mạch à!”
*Sáng chủ nhật, cậu con trai thức dậy và có cuộc tranh luận với mẹ ḿnh
“Mẹ ơi con chẳng đi Hội thánh đâu, toàn gặp những người thọc mạch chuyện người khác thôi”
“Kệ họ, con phải đi Hội thánh, con ạ”
“Mẹ ơi nhưng ở đó chẳng ai yêu con cả, chẳng ai chào đón con cả”
“Nhưng có Chúa yêu con, con nhất định phải đi Hội thánh”
“Mẹ xem có lư do nào khác có sức thuyết phục hơn không”
“Con nhất định phải đi, con là mục sư Hội thánh cơ mà”
*Một tín đồ đến gặp mục sư: “Mục sư ơi, con bị mất xe đạp, không biết có ai trong Hội thánh đă lấy mà con không biết làm cách nào để phát hiện được là ai đă làm chuyện đó”
“Ồ, rất đơn giản, - ông mục sư đáp, con hăy đọc trước mặt tất cả mọi người Mười điều răn, khi đọc đến điều răn “ngươi chớ trộm cướp” – nếu thấy ai đỏ mặt lên th́ đó là thủ phạm.
Sau đó ít lâu ông mục sư gặp lại người kia, bèn hỏi xem anh ta đă t́m ra được kẻ trộm chưa.
“Ồ không”, - người kia bối rối trả lời, “mọi chuyện lại xảy ra khác hẳn. Khi con đọc đến điều răn – “Ngươi chớ phạm tội tà dâm” th́ con nhớ ra được ḿnh để quên xe đạp ở chỗ nào.”
*Một người chết và hồn anh ta ĺa khỏi xác. Anh ta đến nơi có hai cánh cửa, một đề chữ “thiên đàng”, một đề “địa ngục”. Sau cánh cửa “thiên đàng” văng vẳng tiếng hát thánh ca, thoang thoảng mùi hoa, và thấp thoáng bóng người đi lại như bay với đôi cánh trắng.
“Ôi chao, chỗ này buồn tẻ thật, cả đời chỉ có hát thánh ca và ngửi hoa thôi à”, người này nghĩ thầm và quyết định nghé nh́n xem có ǵ sau cánh cửa “địa ngục”. Anh ta thấy một đám đông đang vui say sưa trong tiếng nhạc dập d́nh, đầy khói thuốc, men rượu và tiếng những cô gái đang cười đùa eo éo mời gọi.
“Đây rồi, đúng là những thứ ḿnh quen ḿnh thích” – anh ta nghĩ vậy và liền tiến bước vào luôn. Nhưng vừa khi anh ta đặt chân vào sau ngưỡng cửa, đám đông náo nhộn lúc năy biến mất, và một lũ quỉ sứ chạy ào lại và trói anh ta đem đi đến chỗ có những vạc dầu cháy.
“Dừng lại”, - anh này kêu lên, “tôi thấy và đến chỗ đám hội có bia rượu và con gái cơ mà”.
Lũ quỉ cười phá lên: “À, đấy chỉ là quảng cáo thôi”
(sưu tầm và dịch - Tinlanh.Ru)
florida80
12-22-2019, 21:27
Bạn không thể rao giảng Tin lành với nắm đấm
Viết bởi Administrator
Có bao giờ các bạn thấy một hoạ sĩ nào bán một bức tranh có Chúa Jê-sus được vẽ với hai tay đang nắm đấm không? Không! Người ta sẽ chẳng mua một bức tranh như vậy, vậy mà nhiều nhà truyền giảng vẫn có hai tay nắm đấm và tâm trí cũng nắm đấm như vậy trong khi giảng các bài giảng của ḿnh.
Bạn không thể giảng Tin lành với nắm đấm.
Bạn không thể giảng Tin lành với mặt mũi cau có.
Bạn không thể giảng Tin lành với sự tức tối.
Tin lành - đó là Tin tức Tốt lành, và các bạn cũng phải cư xử một cách tương xứng. Không có lư do nào để biện hộ cho việc con người phải rời khỏi buổi nghe giảng ra về với tấm ḷng trống rỗng, nặng nề, bị chỉ trích làm cho xấu hổ, hoặc yếu đuối, bởi v́ Tin lành là Tin tức Tốt lành đến từ trời. Đó không phải là một tin tức hiện thời như trong các tờ báo, mà Nó sản sinh ra những biến đổi vĩnh cửu trong thế giới và trong bạn. Nếu đó thật sự là Tin lành, th́ Nó sẽ làm ḷng bạn tràn đầy sự vui mừng. Các thiên sứ đă công bố Tin tức Tốt lành v́ họ biết rằng vương quốc của Đức Chúa Trời đă đến để ở cùng với con người. Đó là một vương quốc, nơi mà sự công b́nh, sự b́nh an và sự vui mừng cai trị trong ḷng con người. Những tín đồ là những con người hạnh phúc nhất thế gian. Giả sử không có cả Đức Chúa Trời và sự cứu rỗi đi nữa, th́ tuyệt vời hơn cả vẫn là sống với đức tin vào Tin lành và chết với nụ cười trên môi, thay v́ sống như một kẻ phê b́nh hoài nghi với mọi người và với mọi sự. Đừng có tức giận, hăy vui mừng! Tin lành đă đến với các bạn!
T.L. Osborn
(trích từ sách "Vàng của Đức Chúa Trời" do Kevin McNulty biên soạn - ND - T.Q.H. Tinlanh.Ru )
Lannguyen
florida80
12-22-2019, 21:27
Những Con Ếch
Bạn có biết rằng
NHỮNG CON ẾCH uống nước qua da của chúng không? Thay v́ nuốt nước bằng những cái miệng của chúng, th́ những con ếch hấp thụ hơi ẩm qua làn da của chúng. Những con ếch cũng nhận khí ô-xy qua làn da của chúng, mà giúp chúng thở tốt hơn trong nước.
NHỮNG CON ẾCH ăn với những đôi mắt nhắm lại không? Đôi mắt giúp con ếch nuốt bằng cách đi sâu vào trong đầu của nó và đẩy thức ăn xuống họng của nó.
NHỮNG CON ẾCH có thể nhăy 20 lần dài hơn chính chiều dài của chúng không? Giống như một con người nhảy qua bốn chiếc xe buưt trường học trong một cái nhảy!
NHỮNG CON ẾCH có những cái lưỡi dính không? Những con ếch không dùng những bàn tay của chúng để bắt lấy thức ăn chúng chỉ đưa những cái lưỡi của chúng ra! Những con ruồi, con muổi, và những sâu bọ ngon bụng khác th́ dính vào cái đuôi lưỡi và được kép vào trong miệng của con ếch làm thức ăn buổi tối.
VÀI CON ẾCH mang lấy ngụy trang không? Những lằn và điểm chấm giúp những con ếch trộn lẫn vào những vùng tự nhiên xung quanh của chúng. Vài con ếch c̣n có thể thay đổi màu tùy thuộc vào địa phương hay thời tiết của nó.
NHỮNG CON ẾCH lột da không? Những con ếch lột da chúng mỗi tuần một lần. Rồi chúng ăn lớp da cũ để dùng lại những chất dinh dưỡng tụ ở bên trong.
NHỮNG CON ẾCH có thể sống tới 40 tuổi không? Hầu hết những con ếch sống từ 4 đến 15 năm.
Một con ếch không luôn là một con ếch không? Mỗi con ếch bắt đầu từ một cái trứng nhỏ mà nở thành con ṇng nọc. Con ṇng nọc có một cái đầu tṛn và một cái đuôi và sống trong nước như một con cá. Con ṇng nọc ăn nhiều khi thân của nó thay đổi và sinh ra những bộ phận mới. Sau ba tới bốn tháng, con ṇng nọc có bốn chân và không c̣n đuôi và có thể sống trên đất - rồi nó trở thành con ếch!
THẬT TUYỆT DIỆU!
Bạn có biết rằng bạn cũng có thể trở thành một sinh vật mới không? Bạn không thể có một cái đuôi và sống trong nước, nhưng Thượng Đế có thể ban cho bạn một cuộc đời mới. Đôi khi bạn có làm những việc mà gây cho bạn cảm thấy xấu hổ bên trong không? Có thể bạn muốn đóng vai một người nào đó ở trường học hay nói dối với cha mẹ của bạn. Thượng Đế gọi những điều xấu đó là tội lỗi. Mọi người được sinh ra và biết làm thế nào để có tội, và mọi người làm tội phải bị trừng phạt. Nhưng Thượng Đế, người mà yêu mến chúng ta, không muốn chúng ta làm tội. Ngài muốn chúng ta giống như Ngài - yêu thương, nhân từ, và tốt lành. Cũng giống như một con ṇng nọc thay đổi thành một con ếch, Thượng Đế có thể giúp bạn trở thành giống như Ngài. Thượng Đế đă cho Con duy nhất của Ngài, Chúa Giê-xu, xuống thế gian để làm người, cũng giống như chúng ta, ngoại trừ Chúa Giê-xu không bao giờ có tội. Dù vậy, Ngài chọn sự chết để cho Ngài có thể chuộc lại h́nh phạt của sự chết cho chúng ta. Ba ngày sau khi Ngài chết, Thượng Đế đă sống lại!
Bạn có muốn được một cuộc đời mới và sạch tội không? Nếu vậy th́ bạn chỉ cần tin vào điều mà Chúa Giê-xu đă làm cho bạn. Hăy nói với Thượng Đế rằng bạn lấy làm tiếc cho những tội lỗi của bạn và hăy cám ơn Ngài về việc cho Chúa Giê-xu xuống để cứu bạn. Kinh Thánh nói rằng, "Vậy nếu ai ở trong Đấng Christ, th́ nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đă qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới!" (2 Cô-rinh-tô 5:17). Thượng Đế sẽ thay đổi bạn từ bên trong để làm bạn trở thành một sinh vật mới hoàn toàn - cũng giống như một con ṇng nọc đổi thành một con ếch. Để làm điều này, bạn có thể cầu nguyện vài điều giống như vầy:
Thượng Đế thân mến, con lấy làm tiếc v́ những điều xấu con làm. Cám ơn Ngài đă gởi Chúa Giê-xu xuống chuộc lấy h́nh phạt v́ những tội lỗi của con. Xin vui ḷng thay đổi con từ bên trong và giúp con tránh xa tội lỗi để con có thể sống một cuộc đời mới trong sạch cho Ngài. A-men.
Chuyển ngữ: Ngô Ngọc Di
florida80
12-22-2019, 21:28
Hành Tŕnh Về Hy Vọng
Có một cuộc gặp gỡ trong cuộc sống mà hầu như tất cả mọi người đều muốn tránh. Nỗi sợ hăi của sự kiện này đánh đúng vào t́nh cảm của chúng ta và chúng ta muốn giả vờ sự kiện này không tồn tại. Bạn có thể nhận biết được điều này. Tuy nhiên hầu hết những nỗi sợ của chúng ta trông giống như tảng băng. Loại sợ hăi nhất đó là sự chết.
Nhưng bạn có thể nói, "Ồ, không! Tôi không sợ chết. Tôi không nghĩ về điều này nhiều". Có lẽ đó là một trong những điều chứng tỏ nỗi sợ hăi của chúng ta. Chúng ta càng cao tuổi, th́ thực tại của cái chết hiện ra lù lù trước mặt. Chúng ta đa ơvà chẳng bao lâu sẽ đối diện với cái chết của vài người bạn thân và người thân trong gia đ́nh. Và chúng ta bắt đầu suy nghĩ nhiều về cái chết riêng tư của chúng ta.
Cú điện thoại vào nửa đêm đă thay đổi mọi sự trong đời sống của ba má Susan. Tin tức về Susan, con gái thiếu nhi đă qua đời v́ giai đoạn cuối của căn bệnh đă làm cho họ giật ḿnh. Nhanh như gió v́ cú sốc qúa khủng khiếp, ba má Susan chạy lao đến bệnh viện, nhưng qúa trễ. Má của Susan hỏi, "Bác sĩ Jim, qúa nhiều năm- qúa nhiều năm, Susan của tôi, nó ở đây với tôi, và bây giờ- bây giờ, nó đă đi. Tôi không có ai hết, bác sĩ Jim tại sao điều này xảy ra, tại sao? Thật vậy, một trong những nỗi khó khăn nhất đối với ba má của Susan là nhớ Susan đă thường là một cô bé Cơ Đốc, sống tích cực làm sao. Bây giờ cô bé đă đi. Hầu như qúa nhiều không thể chịu đựng được. Má của Susan nói tiếp, "Susan của tôi, nó là cô bé dễ thương. Nó c̣n qúa trẻ. No ùkhông đau ốm trong thời gian qúa lâu. Bác sĩ Jim, tôi không biết làm sao tôi có thể tiêáp tục sống một ḿnh".
"Bác sĩ Jim cố trấn an bà, "Bà phải tiếp tục v́ Susan. Cô bé thật sự không phải đi luôn. Bà ta cứ khăng khăng, "Nó đi rồi". Bác sĩ Jim nói, "Không – không có điều ǵ có thể đánh mất đi những kỷ niệm mà bà và chồng bà có với cô bé – thậm chí không phải cái chết có thể đánh mất những kỷ niệm qúy báu của chúng ta- hàng ngàn điều nhỏ nhặt mà chúng ta không bao giờ quên. Tôi cố suy nghĩ – Tôi thích suy nghĩ cái chết như cuộc hành tŕnh. Bà có biết tôi định nói cái ǵ không? Bà ta chất vấn, "Như là đi xa phải không?" "Đúng rồi- như là đi du lịch xa – chuyến hành tŕnh xa quê hương. Cái chết chỉ là chuyến hành tŕnh- hành tŕnh đến hy vọng. Mặc dù người chết vắng mặt – xa chúng ta về thể xác- chỉ là thể xác, nhưng những kỷ niệm luôn ở trong tâm trí của chúng ta. Hồn linh của Susan luôn ở với chúng ta. Linh hồn của cô ở với Đức Chúa Trời, Cha Thiên Thươnïg măi măi, bởi v́ Chúa Giê-xu đa ơđắc thắng tử thần. Có nghĩa là cái chết bị hủy diệt. Có nghĩa phần mộ của bạn và tôi, và những phâàn mộ của những người thân chúng ta một ngày nào đo ùsẽ trống. Aùnh sáng của Chúa sống lại hướng dẫn chúng ta qua bóng tối. Sự chết bị chinh phục. Tất cả đều bị chinh phục". Bác sĩ Jim nói, Và hăy nghe đây, "Cách đayâ 2000 năm, Đức Chúa Trời đă sai con Trai duy nhất của Ngài, là Chúa Giê-xu đến trần gian bởi v́ Ngài yêu chúng ta trong khi chúng c̣n là tội nhân đáng bị h́nh phạt chết. Nhưng Chúa Giê-xu bằng ḷng chết thế cho chúng ta trên thập tự giá. Sau 3 ngày, Ngài đă đắc thắng tử thần và sống lại.
Nỗi đau buồn mà chúng ta cảm nhận về cái chết của người thân không đau thương bằng sự thống khổ của Con Người Giê-xu. Tuy nhiên, Chúa đă sống lại là niềm Hy Vọng cho nhân loại, mở đươnøg cho chuyến hành tŕnh đến sự sống đời đời – chuyến hành tŕnh về Hy Vọng. Bởi đức tin, chúng ta tham gia vào chuyến hành tŕnh về Hy Vọng trong sự b́nh an. Chúng ta suy nghĩ không có sự chết – chỉ chết về thân xác –hồn linh luôn ở với Đức Chúa Trời. Khi bác sĩ Jim nói xong, má của Susan đáp lại, "Tôi cảm nhận được Lời của Đức Chúa Trời, bởi v́ đó là những ǵ đa ơxảy ra". Thật vậy, quyền năng lời của Đức Chúa Trời đụng đến đời sống bà. Bà bắt đầu t́m kiếm mối liên hiệp gần gĩu với Đức Chúa Trời hơn. Bà tin rằng Chúa Giê-xu đa ơđắc thắng tử thần và phần mộ để ban cho cô bé món quà sự sống đời đời.
Các bạn thân mến! Chúa Giê-xu t́m kiếm chúng ta để đảm bảo cho chúng ta. Thân xác ở đời này thích nghi hoàn hảo với nhu cầu thể xác vật chất tồn tại này. Thân thể trên trời mà chúng ta tồn tại ở trên trời sẽ thích ứng hoàn hảo với những nhu cầu theo kinh nghiệm thuộc linh. Qua mối liên kết với Chúa Giê-xu, chúng ta nhận được thân thể thuộc linh không hề hư nát.
Bạn có tin điều này không? Nếu bạn chưa từng tiếp nhận Chúa Giê-xu là Cứu Chúa, Ngài đến gơ cửa ḷng bạn ngay hôm nay. Hăy để Ngài ngự vào ḷng là Chúa, là Chủ của bạn. Khi Đấng Sống đến nói chuyện với bạn, hăy để Ngài đồng hành với bạn trên con đường đời này. Hăy đi với Ngài v́ Ngài dẫn dắt trên con đường thiện – con đường đến Hy Vọng. Để làm như vậy, bạn chỉ nói lời cầu nguyện như thế này, "Lạy Đức Chúa Giê-xu Christ, con cần đến Ngài, là Đấng đă chết trên thập tự giá v́ tội lỗi của con và tiêu trừ sự chết. Bởi sự sống lại của Ngài, Ngài đem lại sự sống bất diệt để ai chết trong Ngài sẽ được ở trong b́nh an và hy vọng. Con tin Ngài là Chúa và Chủ đời sống con ngay bây giờ. Amen".
Do Lê Ái Huệ chuyển ngữ.
florida80
12-22-2019, 21:29
Khi Bạn Gặp Phải Một Ngày Xấu
Walter Elias cảm thấy vô cùng ớn lạnh.
Walter, một cậu bé nhạy cảm lớn lên trong một thành phố cho đến lúc cậu lên năm, th́ gia đ́nh chuyển nhà về miền quê. Hai năm sau, vào một ngày kia, Walter đi dạo qua khu vườn táo th́ cậu ngạc nhiên khi phát hiện con chim cú đậu trên nhành cây là là gần mặt đất.
Rồi Walter nhớ ba cậu đă từng kể chim cú thường đi ăn đêm, nhưng ban ngày th́ ngủ, vậy là cậu rón rén bước đến chỗ con cú đang ngủ.
Cậu tự nghĩ, "Ḿnh sẽ có con vật yêu qúy này thật là tuyệt!". V́ vậy, núp phía sau, cậu lén lút tiến đến gần và chụp ngay đôi chân con cú.
Úi chà! Cả hai đều giật ḿnh. Qúa hoảng hốt, con cú cuống lên. Đôi cánh vỗ phần phật, rồi nó kêu rít lên, và vật lộn cách giận dữ, con cú cố làm mọi cách để trốn thoát.
Walter cũng hoảng hồn khiếp sợ. Cậu vẫn giữ chặt lấy con cú. Cuối cùng trong kinh hoàng, cậu ném con cú xuống đất rồi giày đạp cho đến khi con cú chết đi. Khi cuộc vật lộn kết thúc và tim cậu bớt đập th́nh thịch, Walter nh́n xuống con vật bị dập nát và đầy máu . Và rồi cậu khóc.
Cảm thấy sợ hăi, cậu chạy ra khỏi vườn, nhưng sau đó cậu trở lại chôn cất con chim cú. Suốt nhiều tháng, cậu vẫn nằm mơ về con chim mà cậu muốn nó là con vật yêu qúy của ḿnh, nhưng trong nỗi hoảng sợ cậu đă giết nó.
Qúa hổ thẹn không thể nói cho ai nghe, cậu giữ bí mật cho ḿnh. Chỉ sau vài năm cậu chia xẻ điều này.
Có lẽ không có điều nào khác hơn nỗi đau đớn này đă giúp tạo Walter một con người xứng đáng. Không bao giờ cậu có thể làm con cú sống lại được nữa, nhưng cậu đă làm mọi con vật trong rừng trở nên sinh động qua những bức vẽ của ḿnh và thành lập trung tâm giải trí thật kỳ diệu mang chính tên cậu.
Qúa Hổ Thẹn Không Thể Nói Cho Ai, Cậu Giữ Bí Mật Cho Ḿnh.
Họ và tên của cậu là Walter Elias Disney
Có bao giờ bạn thất bại hay cảm thấy ḿnh như vậy không? Bạn có từng làm điều ǵ mà sau đó bạn cảm thấy khiếp sợ không? Hay bạn có từng trải thất bại trong công việc hay trong đời sống riêng tư không? Hay bạn có từng kinh nghiệm sự đổ vỡ trong quan hệ mà làm cho bạn cảm thấy thiếu hụt không? Hay bạn có lẽ từng kinh nghiệm nguyền tật, khuyết tật, bệnh tật hay suy sụp tinh thần mà khiến bạn trở nên hư hỏng không?
Nếu vậy, hoan nghênh đón chào loài người. Khi chúng ta thất bại hay cảm thấy dường như thất bại, chúng ta thường có khuynh hướng nghĩ ḿnh là người vô ích, bỏ đi. Không phải như vậy. Mỗi người chúng ta đều thất bại ở khía cạnh nào đó. Tất cả chúng ta đều đối diện những trở ngại không lúc này th́ lúc khác, và cảm thấy dường như chúng ta đang sống suy sụp. Thật vậy, mỗi người đều có câu chuyện về đời sống.
Khi tôi là một thiếu niên, gia đ́nh tôi tan ră. Cuối cùng ba má tôi ly dị. Vào thời đó khó mà chấp nhận vụ ly dị như ngày nay, và tôi cảm thấy thật hổ thẹn và bấp bênh, không nơi ẩn náu.
Và khi làm điều ǵ sai trái, tôi mắc tội và biết ḿnh thật khiếm khuyết. Tôi hiểu được ư nghĩa như thế nào là vật lộn trong kinh doanh và rồi gần như thất bại. Và tôi cũng biết được những năm tháng bệnh hoạn và tai họa trên gia đ́nh tôi.
Tôi không thể nói là ḿnh thích rắc rối. Và cũng không nói ḿnh chịu đựng lâu được. Nhưng một điều mà tôi biết: Bạn và tôi có thể vượt lên trên những lần thất bại, những lúc rủi ro, và những hoàn cảnh tiêu cực.
Walter Disney đă biến ác mộng thời thơ ấu của ḿnh thành giấc mơ đẹp, và rồi trở thành hiện thực. Bạn và tôi cũng có thể làm được như vậy, nếu chúng ta thật sự mong muốn và kiên nhẫn. Điều đó không phải là dễ. Thật là hiếm có. Không phải chỉ cho Walter Disney. Nhưng rơ ràng là cậu ta đă bẩy lần khánh kiệt và tinh thần suy xụp trước khi cậu nhận ra giấc mơ của ḿnh và đă thành đạt.
Ở đây, làm thế nào bạn có thể biến ngày xấu thành ngày tốt đẹp.
Hăy Chấp Nhận Chính Ḿnh Là Con Người
Trước hết, hăy chấp nhận ḿnh là con người. Hăy nhận ra rằng thất bại là tốt dù không cảm thấy tốt. Đó là kinh nghiệm trong con người chúng ta. Bạn không cần phải trọn vẹn tỏ ra ḿnh là xứng đáng. Bạn chỉ cần là bạn.
Đừng Tŕ Hoăn
Điều thứ hai, khi bạn ngă, đừng tŕ hoăn. Hăy nhận ra rằng thất bại thật sự là khi không đứng dậy một lần nữa sau khi đă bị quật ngă nhiều lần. V́ vậy, hăy đứng dậy, quyết định cần Thượng Đế giúp đỡ để bạn sống xứng đáng và bạn có thể góp phần vào giá trị của nhân loại.
Hăy Học Biết Qua Kinh Nghiệm
Điều thứ ba, hăy học biết những thử thách và những thất bại. Hăy biến chúng thành những kinh nghiệm học hỏi mà bạn có thể sử dụng như những bước tiến trên con đường đến thành công hoàn toàn. Những khó khăn và thất bại có thể là những người thầy vĩ đại.
Hăy Biết Tin Cậy Nơi Thượng Đế
Điều thứ tư, hăy tin cậy nơi Thượng Đế. Hăy chấp nhận những thất vọng của bạn như những lần gặp Thượng Đế, biết rằng Ngài đang dùng những thất bại này để kéo bạn gần chính Ngài hơn, và làm cho đời sống bạn phong phú và ngày càng tăng trưởng hơn. Và dù nếu bạn không cảm nhận như vậy, hăy cám ơn Thượng Đế những bài học mà Ngài muốn dạy bạn qua những kinh nghiệm đau đớn đó.
Điều thất bại thật sự là khi không đứng dậy một lần nữa sau khi đă bị quật ngă nhiều lần.
Đừng Từ Bỏ
Điều thứ năm. Đừng từ bỏ. Người ta kể câu chuyện về buổi hoà nhạc do một nhà dương cầm danh tiếng, Paderewski tổ chức. Bên trong thánh đường đă đầy nghẹt khán giả đang rạo rực mong chờ nhạc sĩ nổi tiếng bước vào.
Một cậu bé 9 tuổi, nóng ḷng không thể chờ đợi được và nh́n thấy cây dương cầm hiệu Steinway thật bóng loáng trên sân khấu, cậu lẩn mặt ba má và t́m đường tiến về phía bục sân khấu.
Sau khi quan sát kỹ chiếc đàn dương cầm lộng lẫy, hoàn toàn không chú ư tới thánh đường đầy nghẹt, cậu bé ngồi vào ghế đàn và biểu diễn bản nhạc hay nhất của ḿnh - "Những Chiếc Đũa!"
Lúc đầu khán giả dường như chết lịm há hốc miệng ra. Vài người bắt đầu cười khúc khích. Những người khác th́ kêu ca giận dữ, rồi sau đó chỉ chỏ hỏi "Nhóc đó con của ai?" Ai đó phải kéo nó ra khỏi đây đi chớ!"
Trở lại sân khấu, nhà dương cầm danh tiếng Paderewski nh́n lên thấy mọi thứ sắp rối tung lên. Nhanh nhẹn dàn xếp t́nh h́nh, ông yên tịnh bước nhanh về phía cậu bé và chơi bản nhạc giao hưởng ḥa với bản nhạc "Những Chiếc Đũa" của cậu bé.
Paderewski th́ thầm vào tai cậu bé, "Hăy tiếp tục", "Đừng dừng lại. Cứ chơi đi. Cháu đang chơi đàn rất tuyệt. Chỉ có điều là đừng từ bỏ!".
Và đó cũng chính là những ǵ mà Đức Chúa Giê Xu Christ, Con Trai Thượng Đế, làm cho chúng ta khi chúng ta thuận phục ḷng ḿnh và đời sống ḿnh cho Ngài. Ngài ngồi bên cạnh chúng ta, cho dù hoàn cảnh của chúng ta có ra sao, và Ngài phán êm dịu, "Đừng dừng lại. Hăy tiếp tục chơi. Đừng từ bỏ. Ta ở đây bên cạnh con để giúp con, khuyến khích con, làm cho cuộc sống con trở nên phong phú. Chỉ có điều đừng từ bỏ. Hăy tin Ta th́ Ta sẽ làm cuộc sống con tươi đẹp.
Translated by Esther L.
florida80
12-22-2019, 21:30
Sức Mạnh Của T́nh Thương
Les Brown, một kỹ thuật viên phụ trách pḥng cấp cứu, đang trên đường lái xe về nhà sau một ngày làm việc cực nhọc th́ anh ta nghe cú điện thoại khẩn trên đài phân h́nh của ḿnh. Một em bé đang ngột thở và cần cấp cứu.
Viên cảnh sát phái đội quân cứu chữa đến hiện trường ngoại trừ Les, v́ họ biết rằng anh ta chỉ cách xa hiện trường vài dăy nhà, và có thể đến đó sớm hơn. Anh ta nhắn đài thông báo cho viên cảnh sát biết anh ta cũng đang trên đường đến đó. Khi anh cố rời khỏi xa lộ, th́ anh không thể ra được. Chiếc xe kéo đào đường hầm sâu ngay phía cổng vào.
Les lái xe qua một bên, nhảy ra khỏi xe và hét lên ra hiệu tài xế đang lái xe kéo, "Có một em bé gặp nguy phía dưới đường cái. Tôi phải đến đó gấp!"
Ngay lập tức, gă đàn ông lấp đầy đường hầm mà ông đă đào suốt ngày hôm ấy, và lấp xong, ông ta vẫy tay gọi Les băng qua đường. Les chạy vội về phía có tiếng gọi. Đến đó, anh thấy bà mẹ cuống cuồng đang chờ kêu cứu. Bà mẹ đang ôm em bé tím ngắt. Les kéo đứa bé ra khỏi tay bà mẹ, đặt nó trên đầu gối ḿnh và cẩn thận vỗ nhẹ nơi lưng em bé và một cái nút rời ra khỏi miệng em bé. Bà mẹ bớt đi phần đau đớn khi đứa bé hít thở trở lại.
Đêm hôm sau, trên đường về nhà Les để ư đến tài xế xe kéo đang làm việc tại lối cổng vào để nói cho ông ta nghe những ǵ đă xảy ra. Khi gă đàn ông nh́n thấy Les, ông nhảy ra khỏi xe và lúc này ông lại hét lên, "Đứa bé hôm qua anh cứu Đó là ..là con tôi! Con của tôi! Con của tôi!
Ở đây chúng ta bắt gặp t́nh yêu thương chân thật bằng hành động và t́nh yêu thương như vậy bao trùm nhiều mặt. Lời Thánh Kinh có chép, t́nh yêu thương hay nhịn nhục, hay hiểu biết, hay nhơn từ và hay tha thứ. T́nh yêu thương chẳng ghen tị, chẳng lên ḿnh kiêu ngạo, chẳng khoe ḿnh, chẳng kiếm tư lợi, chẳng nghi ngờ sự dữ và chẳng nóng giận. Và t́nh yêu thương cũng không lưu trữ những điều sai. "T́nh yêu thương luôn bảo vệ, luôn tin tưởng, luôn hy vọng, và luôn nín chịu. T́nh yêu thương chẳng hề hư mất bao giờ. 1
Loại t́nh thương này th́ thường chăm sóc, trao gởi, thổ lộ tâm sự và có ḷng thương xót - tất cả những điều này chứa đựng ḷng quan tâm - và làm cho đời sống đáng sống. Không có loại t́nh thương này chúng ta có thể tồn tại nhưng chúng ta không thể sống cách đầy trọn.
Chỉ Có Những Người Được Yêu Mới T́m Thấy T́nh Yêu Tăng Trưởng.
Cuộc thử nghiệm bằng khoa học và kinh nghiệm cho thấy rằng những em bé không nhận đủ t́nh thương, thiếu sự chăm sóc và ǵn giữ, th́ có thể chết. Những trẻ em không cảm thấy được thương yêu th́ trở nên hiếu chiến hoặc xa lánh. Những thiếu niên có thể cuối cùng đi đến thất vọng chán nản, tự tử, thuốc phiện hoặc ngồi tù. Những người lớn có thể [tro thanh nhung] nạn nhân của thói nghiện hoặc do những thói quen v́ nổ lực cách vô ích để lấp đầy lỗ hỗng trong ḷng họ và làm giảm đi nỗi đau đớn trong cuộc sống hời hợt của ḿnhï. Hoặc là họ có thể đau yếu về - thể xác, xúc cảm, và tinh thần.
Vài người không cảm thấy được yêu thương, th́ cảm thấy kém thiếu và bất lực vàsử dụng sức kiềm chế như là vật thay thế tầm thường để có năng lực.
Những người khác không cảm thấy được yêu, đặc biệt các trẻ em, th́ ngây thơ dại dột thay thế t́nh thương yêu của ba mẹ trong quan hệ t́nh cảm lăng mạn và trong hôn nhân. Nhưng không có người chồng hay người vợ nào có thể đáp ứng nhu cầu yêu thương mẫu tử không được thỏa măn của bạn tri kỷ ḿnh thời thơ ấu. Những người khác th́ thay thế t́nh dục bằng t́nh yêu và để lại dấu vết nạn nhân trong những lần cố lấp đầy khoảng trống và tránh đối phó những nguyên nhân gây nên nỗi ḷng trống rỗng và cô đơn.
Lúc đó làm thế nào chúng ta t́m thấy t́nh yêu mà chúng ta cần và có năng lực sống thật sự?
Phục Hồi
Điều thứ nhất, hăy nhận ra rằng ḿnh không thể t́m thấy câu trả lời nào trong danh vọng, tiền tài, trong sự cổ vũ hoan nghênh của quần chúng, trong t́nh dục, trong t́nh yêu lăng mạn như "Tiếng Chuông và Tiếng Huưt Sáo", trong thành công hay trong sự tán thành ngoài sự phục hồi. Sự thật rơ ràng là chỉ có những người được yêu mới t́m thấy t́nh yêu thương thật, và nói khác đi, "chúng ta t́m thấy t́nh thương trong ḷng hoặc chúng ta không thể t́m thấy!".
Tính Chân Thật
Điều thứ hai, phục hồi bắt đầu khi chúng ta thừa nhận sự thật cho chính ḿnh và cho một người bạn đáng tin cậy hoặc cho hai-- là chúng ta không cảm thấy được thương yêu hoặc chúng ta không cảm thấy được yêu khi c̣n nhỏ và chúng ta mất nhiều th́ giờ để nổ lực t́m kiếm t́nh yêu một cách sai lầm.
Cảm Xúc
Điều thứ ba, chúng ta cũng cần nhận thức rằng chúng ta bồi đắp nỗi giận dữ, hổ thẹn, đau thương, và buồn bă v́ mất mát t́nh thương mà chúng ta chưa bao giờ nhận. Chúng ta cần tiếp xúc tất cả những t́nh cảm đă bị chôn vùi này và gạt bỏ chúng bằng cách biểu lộ chúng cách có sáng tạo và nếu cần, th́ có thể liên lạc với nhà tư vấn đáng tin cậy để được giúp đỡ. Nếu chúng ta không làm điều này, chúng ta sẽ không tránh khỏi gây ảnh hưởng xấu đến những người thân của ḿnh.
Những Nguyên Nhân Gây Nên
Điều thứ tư, khi nỗi ḷng cô đơn và trống rỗng cứ hành hạ chúng ta, chúng ta cần nhận ra rằng tất cả là do thiếu t́nh thương khi c̣n thơ ấu. Nếu như vậy, thật quan trọng là đừng cố làm ǵ mất cảm giác đau đớn bằng vô số hoạt động, bằng cách bận rộn, bằng cách thi hành nhiệm vụ, bằng t́nh dục, hay bằng bất cứ sự lạm dụng thức ăn nào hay chất hôn mê nào . Những điều cần thiết là tái tạo t́nh phụ mẫu lành mạnh và đáp ứng nhu cầu theo phương thức lành mạnh- và không mong chờ người khác lấp đầy khoảng trống trong cuộc sống của chúng ta.
Trách Nhiệm
Điều thứ năm, khi chúng ta nhận thức rằng chúng ta không nhận đủ t́nh thương phụ mẫu, chúng ta không nên đuổi thừa rủa ba mẹ v́ họ có thể yêu thương chúng ta ở một mức độ mà họ được yêu thương. Chúng ta không muốn hối tiếc cho bản thân ḿnh, nhưng nhận trách nhiệm tái tạo t́nh phụ mẫu và đáp ứng nhu cầu theo phương thức lành mạnh -- và một lần nữa, không mong đợi người khác làm điều này cho chúng ta.
Chấp Nhận
Điều thứ sáu, để tái tạo t́nh phụ mẫu, chúng ta cần phải cởi mở và thành thật cách can đảm trong quan hệ được khẳng định an toàn, đáng tin cậy và không phán đoán (không lăng mạn) vàphải có trách nhiệm đối với những người trong quan hệ. Khi chúng ta thừa nhận những điểm yếu của ḿnh với những người đáng tin cậy, chúng ta sẽ t́m thấy ḿnh được thương yêu và được chấp nhận. Bằng t́nh thương và chấp nhận, dần dần chúng ta học biết yêu thương và chấp nhận chính ḿnh cách mạnh mẽ. Chỉ đến một mức độ nào đó chúng ta cảm nhận ḿnh được thương yêu và được chấp nhận th́ chúng ta mới có thể yêu và chấp nhận bất cứ người khác. Để làm điều này cách hữu hiệu th́ nên tham gia vào nhóm phục hồi theo mười hai bước an toàn..
Khuyên Bảo
Điều thứ bảy, đối với những ai bị lạm dụng về thể xác, về cảm xúc, về tinh thần và về t́nh dục, th́ cần phải được tư vấn khuyên bảo để giải quyết nỗi sợ hăi và như vậy chúng ta có thể học biết phân biệt rơ và nhận ra t́nh thương yêu lành mạnh và ḷng tin tưởng nhau.
T́nh Yêu Thương Thiên Thượng
Điều thứ tám, trên hết chúng ta nhận biết rằng chỉ có Thượng Đế, Cha Thiên Thượng yêu thương chúng ta biết bao và chấp nhận chúng ta. V́ vậy, chúng ta có thể cảm nhận và kinh nghiệm t́nh thương yêu của Thượng Đế và sự khẳng định của Ngài là chúng ta đang hiện diện trên trái đất này.
Hàng năm, đặc biệt vào lễ Giáng Sinh và lễ Phục Sinh, chúng ta được nhắc đến t́nh yêu thương của Thượng Đế đối với chúng ta. Thượng Đế tỏ ḷng yêu thương Ngài đối với bạn và tôi đến nỗi Ngài đă ban Con Trai của Ngài là Chúa Giê Xu đến thế gian và được sinh ra trong chuồng chiên máng cỏ tại thành Bết Lê Hem và rồi chết trên thập tự giá để đền tội thế cho bạn và tôi. Để biết và cảm nhận t́nh yêu này, chúng ta cần chấp nhận món qùa tha thứ tội lỗi của Thượng Đế bằng cách xưng nhận tội lỗi của ḿnh với Ngài và mời Chúa Giê Xu ngự vào ḷng làm Chúa và Chủ cuộc đời chúng ta.
Và rồi chính chúng ta cần thường xuyên nhắc lại và cảm ơn Thượng Đế về t́nh yêu thương cao cả của Ngài và cầu nguyện rằng chúng ta sẽ học biết yêu thương và chấp nhận chính ḿnh như Ngài yêu thương và chấp nhận chúng ta. Và cũng cần h́nh dung chính ḿnh như là em bé nằm trong bàn tay Chúa Giê Xu và được Ngài ban phước như Ngài đă làm cho các em bé khi Ngài c̣n ở trên đất.
Phải mất thời gian để thực hiện những bước này, nhưng trung tín làm theo th́ bạn sẽ thấy ḿnh mong muốn được yêu thương. Và rồi bạn có thể nói với Chúa Giê Xu, "Ngài đă cứu cuộc đời của con! Cuộc đời của con!".
1. See 1 Corinthians 13:1-8.
Do Lê Ái Huệ chuyển ngữ
florida80
12-22-2019, 21:34
Đặc Ân Của Sự Khích Lệ
Bởi Clyde M Narramore
Tom cười nở rộ khi vị thầy giáo dạy Anh Ngữ ở trung học trao cho anh ta bài làm của anh đă được chấm điểm.
"Đây là việc ưu tú," được viết trên đó.
Tom thoáng nh́n vào lời ghi nhận nhiều lần, rồi cẩn thận đặt nó vào trong tập của ḿnh. Sau giờ học vị thầy giáo nói, "Tom, anh là một học sinh rất tốt và anh đang đi một hành tŕnh rất xa trong đời. Anh có bao giờ suy nghi tới việc học đại học không?"
Nhưng cho tới năm nay, Tom đă và đang bị kiêng đói những lời khuyến khích. Xuất thân từ một gia đ́nh hư hoại, anh ta đang bị đẩy đưa từ nhà này đến nhà khác. Phần nhiều thời gian của anh ta khi ở trung học là la cà với một bọn gần như bụi đời vô luật pháp và những kẻ thua thiệt. Điều xa cách nhất trong tâm trí của anh là học đại học. Nhưng năm nay anh ta có một người thầy giáo Anh Ngữ mà không bao giờ bỏ bê việc khuyến khích anh ta.
Những năm đă trôi qua, và Tom bây giờ đă có vợ, có một gia đ́nh, và - bạn có biết không - anh là một vị giáo sư dạy Anh Ngữ ở đại học. "Khi tôi nh́n lại," Tom nói, "Tôi đặt để sự thành công của tôi vào vị thầy giáo trung học đó. Khi bà mới bắt đầu khích lệ tôi, tôi cảm thấy vui sướng và hơi hổ thẹn. Không một ai đă khích lệ tôi như vậy, và trước khi năm đó trôi qua, tôi đă cảm thấy rằng ḿnh đáng một cái ǵ đó và rằng ḿnh muốn đi học đại học."
Sự khuyến khích - một trong những điều quan trọng nhất trong đời! Nó nâng chúng ta lên trên một sự hiện hữu tầm thường và bộc lộ ra những tiềm năng hứng thú. Nó giúp chúng ta vượt qua nh?ng lúc khó khăn. Và nó thách thức chúng ta trở nên những con người chúng ta được tạo dựng nên!
Mỗi ngày chúng ta nghe hay đọc về những lực sĩ tài giỏi, những nhạc sĩ điêu luyện, những họa sĩ tài ba, những thương gia thành công, và những chính trị gia nỗi tiếng. Chúng ta xem họ trên ti-vi và đọc về họ trong báo chí. Và tôi thiết nghĩ chúng ta tất cả đều ước mong chúng ta cũng có thể là người giỏi nhất trong một lănh vực nào đó. Nhưng bạn có bao giờ suy xét chính ḿnh trở nên một người hay khích lệ "nỗi tiếng" không? Kinh Thánh Tân Ước ghi nhận những sinh hoạt c?a một người như vậy. Tên ông là Barnabas, mà có nghĩa là "Con trai của sự khích lệ".
"Các sứ đồ đă gởi thơ
tới người Gentiles ở An-ti-ốt: và khi
họ đọc thơ, họ vui mừng
v́ sự khích lệ từ đó."
Một ngày kia một bà lảo, vừa góa phụ và đơn độc, rất thất vọng. Bà đă t́m tới vợ của vị mục sư để t́m lời an ủi. Sau khi lắng nghe một cách hết ḷng, bà vợ của vị mục sư người thường xuyên khuyến khích người khác nói, "Tôi nghĩ tôi có thể giúp đở bà, nhưng bà sẽ phải hứa với tôi điều đơn giản mà tôi sẽ yêu cầu bà trong bao thơ này." Sau khi thảo luận và trấn an rằng "toa thuốc" trong bao thơ sẽ không làm tổn hại bà ta hay bất cứ người nào khác, bà đă mở bao thơ dán kín ra. Tờ giấy đơn giản nói rằng, "Hăy đi tới tiệm bán hoa và cây kiểng gần nhất và chọn những hạt giống cho loại hoa mà bà thích nhất. Trồng đủ hoa để có thể cho ít nhất một thành viên trong hội thánh của bà mỗi tuần, những ai đang bệnh hoạn, đang trong t́nh trạng thất vọng, hay những ai chỉ cần đến một sự khích lệ,
Nghi ngờ về hiệu lực của nó, bà đă theo lời khuyên của vị cố vấn của ḿnh. Trong một vài tháng, bà đem hoa đến cho người này người kia trong hội thánh của ḿnh. Nếu bạn hỏi bà khi nào sự thất vọng của bà được cất đi, bà sẽ khó mà nói cho bạn biết lúc nào. Có phải sau năm cái ôm an ủi đầu tiên và những lời cám ơn chân thành? Hay là năm cái sau đó? Dù ǵ đi nữa, bà đă khuyến khích những người khác, và họ đă đáp lại bà sự khích lệ.
Bạn có thể không là một lực sĩ chuyên nghiệp hay một cố vấn gia được huấn luyện, nhưng "mùa khích lệ" luôn luôn đang bắt đầu, và bạn hơn cả đủ điều kiện để gia nhập đội nếu bạn muốn trở nên một trong những người hay nhất thế giới!
Sự khuyến khích làm những ǵ
Sự khuyến khích ngăn trở chúng ta khỏi bỏ cuộc. "Vậy, khi các người đó đă từ giă Hội thánh, xuống thành An-ti-ốt, nhóm hết thảy anh em lại và trao thơ cho. " (Công-vụ các Sứ-đồ 15:30)
Bạn có bao giờ xem một người chạy đường dài chưa? Nếu có, bạn có để ư ṿng đua sau cùng hay "chặn đường về dích" là khi anh ta tăng tốc độ và kết thúc mạnh mẽ trong khi những người hâm mộ ḥ la, mặc dù người chạy đă cảm thấy anh "không c̣n lại ǵ hết" chỉ vài phút trước đó. Khi anh ta đă được một nguồn xung độ năng lượng mới. Cái ǵ đă làm nên sự khác biệt? Sự huấn luyện, sự bền bĩ, và sự khích lệ.
Sự khích lệ là một lực thuộc linh hùng mạnh không kém trong đời sống của tất cả những ai đang "chạy đua" cho Đấng Christ. Sự khuyến khích nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta đang có một "đám mây lớn gồm những chứng nhân" vây trên thiên đàng ḥ vui ủng hộ chúng ta hoàn tất cách trung tín như là họ đă làm.
Nếu bạn có bao giờ nhận một cú điện thoại từ một người bạn thân phá tan đi một buổi tối cô đơn, thất vọng, hay một ngày khó khăn ở sở làm, bạn biết được quyền năng của sự khích lệ đầu tay. Những lời khuyến khích làm mạnh mẽ những tấm ḷng bị yếu ṃn đi bởi chướng ngại, cho chúng ta có sự can đảm để tiếp tục, và nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta không đơn độc - có người quan tâm.
Sự khích lệ làm chúng ta có thể tiến về phía trước. Đức Chúa Trời bảo Môi-se "hăy truyền mạng lệnh cho Giô-xuê, làm cho người vững ḷng bền chí hơn; v́ ấy là người phải đi qua trước mặt dân này, khiến chúng nhận lấy xứ mà ngươi sẽ thấy" (Phục Truyền 3:28). Có nhiều điều mà Môi-se đă có thể làm. Nhưng Đức Chúa Trời biết những ǵ mà Giô-suê cần nhất - sự khích lệ. Và điều này thật đúng cho bạn và tôi và những người xung quanh chúng ta. Chúng ta tất cả đều cần sự khích lệ.
Tôi nhớ ngày mà tôi đang nói chuyện với một bà nọ người mà đă đang chỉ trích vị mục sư của bà. Tôi liền hỏi bà có khuyến khích ông không. "Ông ta?" bà thoát lên. " Ông ta không cần được khuyến khích. Ông lúc nào cũng nỗi bật lên bảo người này người kia cái ǵ phải làm mà!"
"À," Tôi nói, "đó có lẽ chính là loại người mà cần nó."
Trẻ em mà được khuyến khích mỗi ngày thành tựu nhiều hơn những em cứ nghe hoài những lời chỉ trích từ cha mẹ và thầy cô giáo. Không có giới hạn nào những ǵ mà trẻ em hay các nhân viên sẽ cố gắng để làm khi họ nhận được sự khích lệ thường xuyên.
Sự khích lệ dẹp đi sự sợ hăi và khuyến khích hành vi can đảm. Phần lớn nhiều người có thể làm nhiều hơn họ đang làm bây giờ nếu họ chỉ được khích lệ. Một cô con dâu, một anh họ, hay một người hàng xóm có thể thực sự được tận dụng nếu anh ta hay cô ta được khuyến khích. Và bạn là người có thể làm những chuyện đó xảy ra nếu bạn chỉ nói những lời đó!
"Bấy giờ, Giô-na-than, con trai của Sau-lơ đứng dậy, đi đến cùng Đa-vít ở trong rừng, làm cho người vững ḷng tin cậy nơi Đức Chúa Trời, mà rằng: Chớ sợ chi, v́ tay của Sau-lơ, cha tôi, sẽ chẳng đụng đến anh đâu. Anh sẽ làm vua Y-sơ-ra-ên, c̣n tôi sẽ làm tể tướng anh; Sau-lơ, cha tôi, cũng biết rơ điều đó" (1 Sa-mu-ên 23:16-17).
Giô-na-than thật là một phước hạnh đối với bạn của anh, Đa-vít. Và bạn có thể làm như vậy đối với những người mà bạn biết.
Khi chúng ta khuyến khích những người khác, chúng ta có thể trở thành một tấm gương của Chúa với "da th?t". Cha Thiên Thượng của chúng ta dùng bạn và tôi để khuyến khích lẫn nhau - sự khích lệ đến với chúng ta qua sự đọc Kinh Thánh, những thời giờ tỉnh nguyện. Nhưng sự khích lệ nhân tánh là một cách khác mà Chúa dùng để ban phước và dạy dỗ dân sự Ngài. Chúa đặt dân sự Ngài trong những nơi dự kiến để khích lệ những người khác với những lời phải lẽ vào những lúc có cần.
Sự khích lệ giúp chúng ta thiết lập bộ diện về sự kêu gọi của chúng ta. Trong sách Sử Kư 2, chúng ta đọc về Giô-sê đặt để những thầy tế lễ vào chức vụ của họ. Nhưng ông đă không chỉ ban cho họ những chức vụ. Ông "khuyên giục chúng về việc của đền Đức Giê-hô-va" (2 Sử Kư 35:2). Mỗi một chúng ta cần biết rằng việc làm của chúng ta là quan trọng và chúng ta cần được khích lệ. Thật khác làm sao những ai mà không bao giờ dường như biết họ thuộc về đâu hay những việc làm hàng ngày của họ có can hệ ǵ không.
"Khi một người cảm nhận sự khích lệ
và trên hết mọi điều, anh ta thường có
sự phán xét tốt hơn."
C̣n bạn th́ sao? Bạn có được khích lệ nhiều không khi lớn lên? Nếu không, bạn có thể phá tan cái chu kỳ đó. Bạn có biết một đứa trẻ đang cần lắm sự đáp ứng và ủng hộ? Hăy giang rộng tới em trẻ, và t́m cách khích lệ em ta. Người ta thường đi sai laic bởi v́ không được khích lệ. Sợ hăi, họ thường làm những ǵ dễ hơn hay những ǵ được nhiều người biết tới. Nhưng khi một người được khuyến khích, anh ta sẳn sàng hơn để chọn những sự lựa chọn khó khăn và trở thành một người chíến thắng. Anh ta cũng dấn thân vào phục vụ Chúa và người khác. Nhưng không có một tầm nh́n về những tiềm năng, anh ta sẽ không (Công-vụ các Sứ-đồ 11:23).
Sự khích lệ dẫn đến những sự lựa chọn tốt. Người ta có khuynh hướng quyết định dựa trên những cảm xúc, hơn là những ǵ họ biết. V́ thế, nếu một người bị bất mản, anh ta có khuynh hướng bỏ cuộc và làm rất ít, hay là lựa chọn cách nghèo nàn. Nhưng khi một người cảm thấy được khích lệ và trên hết mọi điều đó, anh ta thường phán xét tốt hơn. Anh ta tiến tới trên cơ bản những sự kiện thật và trên những tài năng Chúa ban hơn là trên những cảm giác tiêu cực hoặc lẫn lộn.
Những lời khuyến khích giúp chúng ta ḥa ḿnh với nhau. Hăy để ư phần này trong Kinh Thánh: "Xin Đức Chúa Trời hay nhịn nhục và yên ủi ban cho anh em được đồng ḷng ở với nhau theo Đức Chúa Jêsus Christ" (Rô-ma 15:5).
Sự khuyến khích giúp tạo ra một bầu không khí lành mạnh mà người ta có thể sống và làm việc trong sự hài ḥa. Nếu, lấy ví dụ, bạn thăm 10 gia đ́nh khác nhau trong một tuần, bạn sẽ thấy rằng những thành viên trong gia đ́nh mà ḥa hợp với nhau tốt nhất là những người mà trong gia đ́nh sự khích lệ là ưu tiên trong ngày.
Sự khích lệ giữ chúng ta khỏi những sự chọn lựa hư hoại. Nó đặt thứ tự ưu tiên trên những chương tŕnh đáng làm hơn là những hành động vô ích và tội lỗi. Lấy ví dụ, Jack. Cậu ta là một thiếu niên rong chơi khắp phố làm được hầu như không điều ǵ hết. Không lâu, anh ta có liên hệ đến ba cậu trai nữa không làm ra ǵ. Ai để ư kỹ càng đến cậu ta đều biết rằng cậu ta đang ở ngả tư đường trong cuộc dời ḿnh. Nếu không có ai can thiệp, Jack có thể dễ dàng gia nhập băng đảng hay những hoạt động tội ác. Nhưng may thay cho Jack, d́ của cậu đă đến sống với gia đ́nh được vài tháng. Bà trở nên thích cậu bé và khuyến khích cậu ở mỗi ngă rẽ.
"Jack," bà nói, "D́ tin là con sẽ trở thành một bác sĩ giỏi - có lẽ là một bác sĩ giải phẩu. Con thông minh, không dở về khoa học, và con có khéo léo tay chân. Sao con không đặt mục tiêu của ḿnh trở thành bác sĩ giải phẩu tốt nhất trong tiểu bang?"
Jack nháy mắt vài lần và nói, "Vậy à?"
Nhưng anh ta cứ suy nghĩ về những ǵ bà d́ của ḿnh đă nói. Với sự khích lệ hàng ngày của bà, cậu bé đă sẳn ḷng đi trại hè Cơ-Đốc năm sau đó nơi mà cậu đă nhận được những liều thuốc khích lệ mỗi ngày. Khi trở về nhà, cậu ta trở nên một người mới. Cậu ta bắt đầu học vào mùa thu với một mục đích và ham muốn mới. Sau khi xong trung học, Jack vào một trường đại học Cơ Đốc giáo, rồi lên trường y-khoa. Sự khuyến khích của bà d́ đă hướng dẫn anh ta khỏi một đời sống không mục đích tới một đời sống hạnh phúc, thỏa ḷng và có kết quả. Một sự hướng dẫn tốt được t́m trong sách Hê-bơ-rơ: "Nhưng hằng ngày anh em hăy khuyên bảo lẫn nhau, đang khi c̣n gọi là "Ngày nay," hầu cho trong anh em không ai bị tội lỗi dỗ dành mà cứng ḷng" (Hê-bê-rơ 3:13).
Sự khích lệ giúp chính chúng ta trở nên những người hay khích lệ. Đừng mắc lầm về việc này. Sự khích lệ có tính chất hay lây. Cách đây một thời gian, một sinh viên đại học tham dự một sinh hoạt của thanh niên. Mới đối với nhóm này, anh ta đă không biết rằng thứ Sáu là "tối pizza". Không có đủ tiền, anh ta nói nhỏ nhẹ, "Tôi nghĩ tôi sẽ bỏ qua tối nay." Vị mục sư giới thanh niên hiểu biết cảm nhận được hoàn cảnh tài chánh của anh ta - dù ǵ, ông cũng đă từng là một học sinh trước kia - và nói, "Không sao, tôi bao tối nay." Đói bụng chinh phục sự bối rối và cậu sinh viên đă cảm ơn nhận lấy miếng pizza với điều kiện rằng anh sẽ trả lại vị mục sư tuần tới. Sự đáp ứng của vị mục sư làm ngạc nhiên anh ta. Quay mặt đối mặt để tăng phần ảnh hưởng, ông nói, "Xin đừng trả tôi bằng tiền. Nhưng nếu anh muốn trả tôi, anh có thể làm một cách khác tốt hơn. Một ngày nào đó anh sẽ ở trong một hoàn cảnh mà một người nào khác có ít tiền. Mua cho họ bửa ăn tối, kể cho họ câu chuyện này, và gợi ư họ làm như vậy."
Cậu học sinh không bao giờ quên câu chuyện đó - thực sự, anh ta đă kể lại nhiều lần. Có phải sự khuyến khích có tính chất hay lây không? Bạn chắc là thế. Truyền thống hay khích lệ nào mà bạn có thể bắt đầu, thậm chí ngày hôm nay?
Ít người trong cánh đồng
Dường như lạ có quá ít người trong thế gian này khuyến khích những người khác. Bạn có thể nghĩ rằng v́ sự khuyến khích là một trong những điều quan trọng trong đời, nhiều người đang bận rộn thi hành nó. Nhưng đó không là t́nh trạng thực tại. Rất hiếm mà t́m được một người mà thường hay khuyến khích người khác.
Stephanie, một người mẹ, một ngày nọ nói, "Tôi không bao giờ nhớ có ai khuyến khích tôi trong suốt những năm trưởng thành. Bạn có lẽ nghĩ rằng một người nào đó đă đưa ra những nhận xét khuyến khích. Nhưng tôi nghĩ họ đều đang nghĩ về chính họ. May thay, tôi lấy chồng một người đàn ông tuyệt vời mà khích lệ tôi nhiều lắm mỗi ngày. Khi chúng tôi mới cưới nhau, tôi đă không tin rằng anh ta thực sư có ư muốn nói những ǵ anh ta nói. Sự khích lệ và những lời khen ngợi là xa lạ đối với tôi. Nhưng, dĩ nhiên, bây giờ tôi không nghĩ là tôi có thể sống mà không có nó."
Nói tóm lại, khi bạn trở nên một người hay khích lệ, bạn sẽ khám phá ra bạn là một "giống hiếm có." Nhưng điều đó chỉ làm cho công vụ khuyến khích của bạn càng có nhiều ư nghĩa hơn. Nó thật là một kỷ vật bất thường.
Có người nói rằng cần phải tới bảy lời tích cực để tương phản một lời tiêu cực. Hăy nh́n xung quanh, bạn sẽ để ư thấy rằng người ta đang đói kém sự khích lệ. Nhiều người nhận được rất ít hay không một lời khích lệ nào trong một tuần. Hăy chọn làm một người hay khích lệ, và bạn sẽ ban ra một sự phục vụ mà ít người làm, nhưng triệu triệu người ao ước. Nhưng liệu chúng ta có thể học hỏi để trở thành những người hay khích lệ hay không nếu chúng ta chính ḿnh không được khuyến khích đủ? Câu trả lời là một cái "yes" nhấn mạnh. Nói đ̣i hỏi sự hiểu biết và nhiều sự trưởng thành, nhưng chúng ta tất cả đều có thể làm được.
"Thích người ta v́ những điểm mạnh của họ,
Đừng không thích người ta v́ những yếu điểm của họ."
Tại sao một vài người không khích lệ người khác
Suốt ngày chúng ta đi ṿng ṿng đụng chạm lẩn nhau. Một vài sự va chạm sản sinh ra những kết quả tích cực bởi v́ người kia nay những lời khích lệ. Trái lại, có một vài người mà chúng ta chạm vai với nhưng ước muốn đă không. Họ ít khi có một lời khích lệ để ban cho - thực sự, họ có thể tiêu cực, hay chỉ trích, cạnh tranh, hay không quan tâm.
Tại sao những người này KHÔNG thể khuyến khích những người khác? Có một số lư do. Hăy cùng nhau xem xét một vài:
Họ có lẽ đă không biết được tầm quan trọng của việc khuyến khích một người khác. Họ đă không ngừng mà suy nghĩ đến những ǵ mà sự khuyến khích có thể đạt được. Họ bị thu hút bởi chính ḿnh họ.
Có một ví dụ tuyệt vời của mối liên hệ này đă được ghi lại trong sách Ru-tơ, đoạn hai, câu bốn. Boaz, người chủ, đă chào đón kẻ làm công cho ḿnh bằng lời, "Đức Chúa Trời ở cùng ngươi," và những người làm công đáp lại, "Đức Chúa Trời ban phước cho người". Thật là một cách hay để bắt đầu một ngày làm việc! Tuy nhiên một số chủ sở bỏ bê tầm quan trọng của một người hay khích lệ người khác trong sở làm của họ. Cũng thật như vậy đối với những bậc làm cha mẹ, những vị mục sư, và nhiều người khác nữa.
Họ có lẽ đă không nhận đủ những sự khuyến khích khi c̣n là con trẻ. Nó có vẻ xa lạ đối với họ. Nó chỉ không là một phần của cách sống hàng ngày. Những người này có thể có khuynh hướng hay nhận thức những yếu đuối sai lầm ở người khác và chỉ chúng ra. Nhưng họ không cân bằng điều này với những lời khuyến khích và khen ngợi. Tôi có một câu thông ngôn mà tôi thích:
Thích người ta v́ những điểm mạnh của họ; đừng không thích người ta v́ những yếu điểm của họ.
Chúng ta nên luôn có thể t́m được những điều để khuyến khích người khác.
Họ có thể có một h́nh ảnh tiêu cực về chính ḿnh. Anh ta có thể nghĩ quá nhỏ nhen về chính ḿnh đến nỗi anh chỉ không thể với tới những người khác. Tôi là ai? Anh ta nghĩ, và nếu anh ta phải trả lời câu hỏi của chính ḿnh, câu trả lời rất có khuynh hướng là, tôi không là ai cả. Và rồi, thái độ này thường thường liên hệ đến những kinh nghiệm trước kia của anh ta. Một quan niệm lành mạnh về chính ḿnh đă không được gây dựng và hổ tương bởi cha mẹ và những người khác mà đă có thể giúp anh ta phát triển những cảm giác tích cực về chính ḿnh. Bây giờ, là một người trưởng thành, anh ta có rất ít sự khích lệ để chia xẻ.
Họ có thể có ít hoặc không có chút vui thỏa nào của Đức Chúa Trời trong đời sống của họ. Họ có thể là Cơ Đốc Nhân, nhưng v́ lư do nào đó họ đă không phát triển về mặt thuộc linh. Họ không để Chúa khuyến khích họ từ lời của Ngài và qua sự tương giao với Ngài trong sự cầu nguyện và qua sự thông công với những Cơ Đốc Nhân khác. Những người như vậy thường thường không nh́n lên Chúa và trông cậy Ngài hướng dẫn họ. V́ thế họ thấy rất ít, nếu có, những trường hợp Chúa đang làm việc trong đời sống của họ mà nhờ đó để khuyến khích những người khác.
May thay, con người có thể thay đổi. Với thời gian và sự tận hiến, một người mà chưa bao giờ có thể khuyến khích người khác có thể trở thành một người hay khuyến khích giỏi.
Người hay khuyến khích tối hậu
Có nhiều người mà khuyến khích chúng ta, nhưng nguồn gốc tối hậu của mọi sự khích lệ là Chúa, Đấng tạo ra chúng ta. V́ thế để tôi chia xẻ những nền tảng tối hậu của sự khuyến khích - sự khích lệ của Chúa cho chúng ta. Ngay sau khi Ngài đặt người đàn ông và đàn bà đầu tiên vào vườn Ê-đen, Đức Chúa Trời khuyến khích họ kết quả và sanh sôi nảy nở khắp đất. Chúa bảo Adam đặt tên cho tất cả các loài vật. Và Ngài ban Adam và Ê-va cho nhau để yêu thương, tương ttợ và khuyến khích nhau. Ngài đă không bỏ thác họ trong vườn một ḿnh. Ngài có mặt ở đó với họ. Chúng ta nên được khích lệ biết rằng Chúa, Đấng tạo nên vũ trụ, đă ban quà cho mỗi chúng ta và muốn mỗi chúng ta sống một đời sống có ư nghĩa và kết quả.
Nhưng sự khích lệ của Chúa đă không ngững ở việc tạo ra chúng ta và ban quà cho chúng ta. Khi A-đam và Ê-va đă phạm tội (Rô-ma 3:23), Ngài đă không để họ trong sự thất bại. Ngài đă theo đuổi họ và cung cấp họ một lối thoát.
Đức Chúa Trời đă ban Con Một của Ngài, Chúa Giê-xu Christ, đến trái đất để chết cho chúng ta và trở thành đấng trung bảo cao cả. Thực vậy, Chúa nói trong lời của Ngài, Kinh Thánh, "V́ chỉ có một Đức Chúa Trời, và một Đấng trung bảo giữa Đức Chúa Trời và con người, Chúa Giê-xu Christ" (I Ti-mô-thê 2:5). Một trong những sứ điệp rơ ràng nhất trong Kinh Thánh là Giăng 3:16: "V́ Đức Chúa TRời yêu thương thế gian đến nỗi đă ban Con Một của Ngài hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời."
Bây giờ chúng ta đang bắt đầu cảm thấy ĐƯỢC KHÍCH LỆ! Mặc dù chúng ta tội lỗi, Chúa vẫn ở cùng chúng ta. Chúng ta có thể liên hệ một cách cá nhân với Ngài và được tha tội và sống như là những con trai và con gái của Ngài.
Điều này có vẻ dễ dàng, nhưng cho vài người nó hơi khó. Dầu ǵ họ cảm thấy họ cần phải làm việc để được sự cứu rỗi - làm ǵ đó để hưởng được nó. Nhưng điều đó không đúng; sự cứu rỗi là hoàn toàn thuộc về Chúa. Chính Ngài cho chúng ta đức tin nhỏ nhon mà chúng ta cần để bước tới và nói, "Chúa, con không hiểu hết tất cả, nhưng con tin Chúa, và con chắc chắn cần Ngài vào trong đời sống con ngay bây giờ. Xin tha thứ con v́ những tội lỗi của con và làm Chúa và Đấng Cứu rỗi con."
Đáng là thế nào cho sự khích lệ! Thật là khó mà hiểu được. Chúng ta quá nhỏ - nhỏ dưới tầm kính hiển vi - trong khi Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa chúng ta và Vua của muôn vua. Nhưng giờ đây chúng ta trở nên một với Ngài cho đến muôn đời!
Giao ước vĩnh hằng của bạn được bảo đảm trong phần này của Lời Chúa: "Ta ban cho nó sự sống đời đời; nó chẳng chết mất bao giờ, và chẳng ai cướp nó khỏi tay ta" (Giăng 10:28).
"Hăy trông cậy nơi Chúa:
Hăy bền chí, và Ngài
sẽ làm cho bạn thêm vững ḷng."
Bây giờ bạn đă làm điều đó! Chúa đă ban cho bạn sự cứu rỗi, bạn đă đón nhận nó, và giờ bạn được dự phần trong gia đ́nh của Chúa!
Từ nay trở đi chúng ta không bao giờ ở một ḿnh. Chúa đă hứa với chúng ta, "Ta sẽ không bao giờ bỏ ngươi đâu" (Hê-bơ-rơ 12:5).
Thật là một sự khích lệ và bảo đảm! Bất kể chúng ta ở đâu, trong t́nh trạng nào, sức khỏe chúng ta ra sao, hay t́nh cảnh chúng ta thế nào, Chúa ở cùng chúng ta. Thật vậy, Đức Thánh Linh ngự trong chúng ta. Tôi luôn luôn vui sướng với câu này: "V́ tôi chắc rằng bất kỳ sự chết, sự sống, các thiên sứ, các kẻ cầm quyền, việc bây giờ, việc hầu đến, quyền phép, bề cao, hay là bề sâu, hoặc một vật nào, chẳng có thể phân rẽ chúng ta khỏi sự yêu thương mà Đức Chúa Trời đă chứng cho chúng ta trong Đức Chúa Jêsus Christ, là Chúa chúng ta" (Rô-ma 8:38, 39).
Chức vụ mới của bạn trong Đấng Christ cũng có nghĩa là Ngài sẽ hướng dẫn bạn suốt cuộc đời - dù chuyện ǵ xảy ra. Khi bạn đọc Lời Chúa mỗi ngày, cầu nguyện với Ngài và giao trọn mỗi 24 giờ cho Ngài. Hăy lắng nghe những lời khuyến khích này:
"Ta há không có phán dặn ngươi sao? Hăy vững ḷng bền chí, chớ run sợ, chớ kinh khủng; v́ Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi vẫn ở cùng ngươi trong mọi nơi ngươi đi" (Giô-suê 1:9).
"Hăy trông đợi Đức Giê-hô-va; Hăy vững ḷng bền chí! Phải, hăy trông đợi Đức Giê-hô-va" (Thi-Thiên 27:14).
"Hăy trao gánh nặng ngươi cho Đức Giê-hô-va, Ngài sẽ nâng đỡ ngươi; Ngài sẽ chẳng hề cho người công b́nh bị rúng động" (Thi-Thiên 55:22).
"Tôi tin chắc rằng Đấng đă khởi làm việc lành trong anh em, sẽ làm trọn hết cho đến ngày của Đức Chúa Jêsus Christ" (Phi-líp 1:6).
Phạm lỗi? Vâng, chúng ta thảy đều phạm lỗi, nhưng Chúa ở đó để tha thứ và dẫn dắt. Châm-ngôn 3:5-6 bảo đảm với chúng ta rằng, "Hết ḷng trông cậy Đức Giê-Hô-Va, chớ nương cậy nơi sự thông sáng của con; trong mọi việc hăy nhận biết Ngài, th́ Ngài sẽ hướng dẫn mọi lối của con." Quá thường trong đời chúng ta không thể phân biệt giữa sự bắt đầu và sự kết thúc, chúng ta cũng không hiểu được chuyện ǵ đang xảy ra, nhưng Đức Chúa Trời hiểu biết mọi sự và chắc chắn Ngài sẽ hướng dẫn mọi lối nẽo của chúng ta.
Bạn thân mến, phải đ̣i hỏi nhiều tập sách mới có thể giải thích hết tất cả những ǵ Chúa làm cho chúng ta. Nhưng một trong những điều quan trong nhất là rằng Ngài sẽ dẫn chúng ta về nhà trên thiên đàng với Ngài. Khi các môn đồ Ngài chứng kiến Đấng Christ thăng thiên, Ngài nói với họ, "Ta đi sắm sẵn cho các ngươi một chỗ. Khi ta đă đi, và sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi, ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với ta, hầu cho ta ở đâu th́ các ngươi cũng ở đó" (Giăng 14:2, 3). Điều đó dẫn bạn và tôi từ khi sanh ra tới khi chết khi chúng ta được thả ra để ở trong sự hiện diện thánh của Ngài cho đến đời đời. BÂY GIỜ ĐÓ LÀ SỰ KHUYẾN KHÍCH!
Khi bạn đi trong đời, sự khích lệ lớn lao này mà Chúa cho bạn sẽ giúp cho bạn khuyến khích những người khác!
Kinh Thánh nói rằng khi chúng ta được khích lệ và an ủi, chúng ta có thể an ủi những người khác: "Chúc tạ Đức Chúa Trời, Cha Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, là Cha hay thương xót, là Đức Chúa Trời ban mọi sự yên ủi. Ngài yên ủi chúng tôi trong mọi sự khốn nạn, hầu cho nhơn sự yên ủi mà Ngài đă yên ủi chúng tôi, th́ chúng tôi cũng có thể yên ủi kẻ khác trong sự khốn nạn nào họ gặp! V́ như những sự đau đớn của Đấng Christ chan chứa trong chúng tôi thể nào, th́ sự yên ủi của chúng tôi bởi Đấng Christ mà chứa chan cũng thể ấy" (2 Cô-rinh-tô 1:3-5).
Khi chúng ta đă cảm nhận được sự an ủi và khích lệ của Chúa, chúng ta nhận mệnh lệnh đi khuyến khích người khác. I Tê-la-sô-ni-ca 5:11 nói, "Vậy th́ anh em hăy khuyên bảo nhau, gây dựng cho nhau, như anh em vẫn thường làm."
Ai cần nó?
Mọi người mà bạn biết, mọi người mà bạn gặp, đều cần sự khích lệ.
Chồng và vợ
Đôi khi những người đàn ông và đàn bà mà là những người hay khuyến khích trong nơi công cộng lại không biết đến nhu cầu khích lệ chồng hay vợ của ḿnh.
Một phụ nữ có nói với tôi, "Tôi không khuyến khích chồng tôi. Ông ta đă có cái đầu to tướng rồi." Vợ của ông đă không thấy dưới cái bề ngoài quá tự tin của ông là nhu cầu của ông cần được khích lệ và ủng hộ. Ông ta không nghi ngờ ǵ cảm thấy không an toàn và phản ảnh nó trong "cái đầu to tướng" của chính ḿnh. Thực vậy, một trong những phước hạnh lớn của hôn nhân là có một người phối ngẫu mà thông hiểu và khích lệ bạn.
Cha mẹ
Không đứa con nào nên phải trải qua một ngày mà không nghe cha hoặc mẹ nó, hoặc cả hai, nói những lời ấm áp, nâng đở và khuyến khích.
"Ồ, nhưng ước chi ông biết con cái tôi khó chịu đến dường nào," tôi đă nghe một vị phụ huynh nói, "ông sẽ khó mà nói được những lời tốt đẹp với chúng nó." Có lẽ như vậy, nhưng những trẻ em này là chính những người cần đến sự khích lệ của cha mẹ chúng nhiều nhất. Chúng không dễ ǵ nhận dược nhiều khích lệ từ bất cứ ai khác, đặc biệt nếu chúng là những đứa hay ngổ nghịch. Nhưng bạn có thể hầu như nh́n thấy một đứa trẻ thay đổi khi cha hay mẹ bắt đầu khen tặng nó. Điều ngược lại cũng đúng. Cứ giữ kín những lời khen tặng khỏi một đứa trẻ và nó sẽ héo ṃn bên trong và hành vi của nó sẽ bắt đầu tỏ lộ cách nó cảm xúc.
Sự khích lệ cần thiết cho sự lớn lên và trưởng thành về t́nh cảm cũng như đồ ăn là cần thiết cho sự phát triển và khỏe mạnh của thân thể.
florida80
12-22-2019, 21:34
Anh chị em
"Đó là em trai tôi," Mary nói với bạn của cô khi cậu trai bắt đầu thổi kèn. Khi cậu bé chơi xong, cô ta vội vă bước tới và nói, "Em chơi hay lắm, Bill."
Không phải tất cả những anh em trai hay chị em gái đều như vầy. Nhưng chúng cần được dạy để khuyến khích lẫn nhau. Gia đ́nh là một trung tâm học hỏi nơi mà những thói quen suốt đời được h́nh thành.
Ông bà
Một ngày nọ một người phụ nữ chỉ về phía một em gái nhỏ dễ thương và nói với tôi, "Đó là cháu ngoại của tôi." Có cả thế giới của ḷng hảnh diện trong lời của bà. Rồi bà nó thêm, "tôi phải cứ nói cho cháu biết cháu đẹp thế nào, bởi v́ mẹ cháu cứ nói với nó, "mẹ ước ǵ con không xấu đến như vậy."
Hầu hết những người mẹ không như vầy. Nhưng một vài người như thế, và hậu quả là trẻ con trải qua đời chịu phải một quan niệm không lành mạnh về chính ḿnh. Không phải lúc nào cũng liên hệ đến diện mạo của đứa trẻ. "Mày ngu vậy," hay "chậm", hay "vụng về", một vị phụ huynh có lẽ nói vậy. Không bao lâu đứa trẻ cảm thấy điều này đúng và nó trở nên tự tỏ rơ trong đời sống của đứa trẻ. Ông bà có thể làm những điều kỳ diệu cho các cháu của ḿnh bằng cách ban phát ra nhiều những lời khích lệ và ngợi khen.
"Không có ǵ thúc đẩy một người
đến mức độ kết quả tốt hơn là được biết
rằng chính ḿnh được coi trọng."
Trẻ em và các cháu có thể khích lệ tương tự đối với ông bà của ḿnh. Có ít điều trong đời sống mà nâng đở những công dân lăo thành hơn là những lời yêu thương, quư trọng, và khuyến khích từ những con cái và cháu chắt của họ.
Công nhân viên
Không có cách tốt hơn để đem ra những điểm tốt nhất trong một nhân viên là làm cho anh ta cảm thấy có khả năng và quan trọng trong công việc làm. Tôi biết một người mà ít khi đi ngang qua một cái bàn trong cơ quan của anh mà không ngừng lại để tỏ bày sự quư trọng của ḿnh đối với những thành viên trong sở.
Nó đ̣i hỏi ít thời giờ hay sự cố gắng chỉ để để ư đến một người hay nói một điều ǵ mà làm cho anh ta biết rằng bạn biết anh ta có mặt đó và là một phần quan trọng trong cơ quan.
Nói một cách khác, người chủ mà đă học được giá trị của việc khen ngợi và khuyến khích nhân viên của ḿnh là đang làm cho chính anh ta một ân huệ lớn. Bởi v́ không ǵ thúc đẩy một người đến mức độ kết quả tốt hơn là biềt rằng chính ḿnh được coi trọng.
Các học sinh
Một vài trẻ em không biết như thế nào là được sự ban phước một lời khuyến khích từ cha mẹ khi rời khỏi nhà vào buổi sáng. Hơn thế nữa, người thầy giáo cần phải để ư đến tầm quan trọng của một lời giúp đở và một nụ cười đối với trẻ em mà ở trong lớp học của ông ta nhiều giờ mỗi ngày.
Nhiều người trẻ lớn lên trở thành người tốt hơn và thành công hơn trong đời nếu không bởi v́ một người thầy giáo đă dang đón em với sự khích lệ.
Mục sư và tín đồ
Trong mỗi buổi thờ phượng có những người mà ít khi được ai khuyến khích. Thật là một cơ hội cho vị mục sư dể thi hành cái "ân tứ giúp đở" ở mức độ giảng dạy của ông ta.
Không một vị mục sư nào sẽ có đủ tất cả các giờ để đáp ứng mọi nhu cầu của mọi thành viên trong hội thánh, cho dù ông ta đă được trang bị để làm. Nhưng có những lúc nào đó ông có thể làm được, và một trong những điều quan trọng không đ̣i hỏi lắm nhiều thời gian.
Một bài giảng khuyến khích con người. Nó đem cho họ sự hy vọng và giúp họ thấy những điều kỳ diệu mà Chúa dành cho họ trong đời sống. Ngay cả một sứ điệp rất thẳng thắn, thành thật về tội lỗi và thất bại của chúng ta cũng nên kết thúc bằng một nốt khích lệ không thể tưởng được. Chúng ta có thể khác. Chúa đă tha thứ chúng ta. Hăy tiến tới phía trước!
Và đừng quên mục sư của bạn. Ông ta cũng cần sự khuyến khích.
Những Bước Đầu Để Trở Thành Người Hay Khuyến Khích Hay Nhất Thế Giới
Nghiên cứu cho chúng ta biết rằng thường thường đ̣i hỏi khoảng 30 đến 60 ngày để h́nh thành những thói quen mới nhất nếu hành vi muốn có đó được thực hành mỗi ngày. Sao không nhận thách thức đó để khuyến khích chỉ một người mỗi ngày. Ai bạn có thể khuyến khích? Không có một sự kết thúc cho những khả năng có thể xảy ra.
Với thời gian, Chúa sẽ bắt đầu cho bạn một con mắt và tấm ḷng nhạy bén đối với những người cần sự khuyến khích nhất. Có lẽ cháu ngoại của bạn hay một người bạn cùng sở làm đang trải qua một thời kỳ khó khăn. Có lẽ bạn biết một gia đ́nh đang đương đầu với sự mất mát việc làm hay mất mát một người thương.
Sự khuyến khích có thể trở thành một sự mạo hiểm thú vị. Nhưng hăy cẩn thận, nó rất là dễ làm thành thói quen! Hăy thử khuyến khích những người khác trong một tháng hay hai và bạn sẽ bắt đầu cảm thấy như bạn và Chúa có một điều bí mật lớn. Qua sự cầu nguyện, Chúa cũng sẽ đặt để trong ḷng bạn những ai cần được khuyến khích nhiều nhất. Nói cái khác, bạn đang lắng nghe và quan sát một cách có ư định.
Những người hay khuyến khích lắng nghe những người cần được khuyến khích. Họ chẳng bao lâu bắt đầu phát triển một sự hiểu biết nâng cao về những người mà cần đến một trong những điều quan trọng của đời sống - SỰ KHUYẾN KHÍCH!
Tiến sĩ Clyde Narramore là người sáng lập Hội Cơ Đốc Nhân Narramore, là Chủ Tịch trong nữa thế kỷ, và là một giảng viên nỗi tiếng ở hội đồng và trên ra-đi-ô, và là một tác giả.
florida80
12-22-2019, 21:35
Một Quốc Gia Dưới Quyền Thượng Đế
Annette LaPlaca
Từ ngày đầu tiên của lớp mẫu giáo, những đứa trẻ của Mỹ đă được dạy, qua nhiều thập niên, để những bàn tay của chúng lên trái tim chúng và lập lại lời tuyên thệ:
Tôi nguyện trung thành với lá cờ
của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ,
và với nền cộng-ḥa mà nó tượng trưng cho,
một dân tộc dưới quyền Thượng Đế, không phân chia,
với tự do và công bằng cho tất cả.
Gần đây, lời hứa nguyện quen thuộc này đă đến dưới sự công kích, với những quan ṭa cụ thể tuyên bố nó trái hiến pháp để lập lại lời hứa nguyện trong một trường học công cộng. Cuộc tranh luận tập trung vào đoạn văn "một quốc gia dưới quyền Thượng Đế," bởi v́ những người Mỹ đă giữ những ư nghĩ khác biệt xa với người mà Thượng Đế là - hay là Ngài có tồn tại hay không. Những người Mỹ mà từ bỏ Thượng Đế th́ bị xúc phạm bởi thành ngữ này về sự lănh đạo của Thượng Đế.
Cho dù nước Mỹ có chọn để xem như chính nó là "một quốc gia dưới quyền Thượng Đế" hay không đi nữa, th́ nước Mỹ cũng đă ở "dưới quyền" quyền lực và khả năng của Thượng Đế - và cũng như mỗi quốc gia khác. Kinh Thánh dạy rằng Thượng Đế là Đấng Tạo Dựng của thế giới - và của những quốc gia và những chính quyền: "V́ muôn vật đă được dựng nên trong Ngài, bất luận trên trời, dưới đất, vật thấy được, vật không thấy được, hoặc ngôi vua, hoặc quyền cai trị, hoặc chấp chánh, hoặc cầm quyền, đều là bởi Ngài và v́ Ngài mà được dựng nên cả" (Cô-lô-se 1:16). Chúng ta nợ về sự kính trọng với chính quyền của chúng ta bởi v́ phía sau nó Thượng Đế là quyền lực tuyệt đối: "Mọi người phải vâng phục các đấng cầm quyền trên ḿnh; v́ chẳng có quyền nào mà không đến bởi Đức Chúa Trời, các quyền đều bởi Đức Chúa Trời chỉ định" (Rô-ma 13:1).
Cho dù quốc gia của chúng ta quyết định để chấp nhận hay bỏ qua sự thật này, bạn cũng phải làm một quyết định - bạn sẽ nhận biết Thượng Đế là một đấng tạo hóa không, mà nơi công b́nh của người đó là Đức Chúa Trời cai trị mọi việc, gồm có cuộc đời của bạn trong đó? Kinh Thánh dạy rằng Thượng Đế đă tạo dựng con người để có một mối quan hệ yêu thương với chính Ngài. Nhưng tội lỗi của chúng ta chia rẽ chúng ta khỏi Đấng Tạo Hóa thiêng liêng và trong sạch của chúng ta. V́ vậy Thượng Đế đă tạo nên một con đường để dời đi chướng ngại này bằng cách ban cho Con của Ngài để chuộc lấy h́nh phạt mà chúng ta phải chịu. Giăng 3:16 nói với chúng ta rằng, "V́ Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đă ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời."
Hăy tin vào điều đó hôm nay! Nếu bạn chưa bao giờ thừa nhận quyền lực của Thượng Đế trong cuộc đời của bạn, hăy làm nó ngay bây giờ bằng cách nói những lời này từ tấm ḷng của bạn: "Thượng Đế, con biết rằng Ngài là quyền năng tuyệt đối. Con lấy làm hối tiếc rằng con đă lờ đi Ngài và đi theo con đường của chính con. Cám ơn Ngài đă tạo nên con đường cho con có một mối quan hệ với Ngài qua Chúa Giê-xu. Hăy giúp con quay bỏ đi những chọn lựa tội lỗi và chỉ sống cho Ngài. A-men."
Nếu bạn đă tin vào Thượng Đế, bạn sẽ t́m thấy rằng Ngài là quyền lực nhân từ, khôn ngoan, và yêu thương tuyệt đối. Bạn đă chọn sự trung thành tuyệt đối và trở thành một phần trong gia đ́nh của Ngài. Bạn, như là một cá nhân, ở "dưới quyền Thượng Đế."
Chuyển ngữ: Ngô Ngọc Di
florida80
12-22-2019, 21:35
BA CÂY CỔ THỤ
Trong một khu rừng, ba cây cổ thụ sừng sững vươn cao trên một đỉnh đồi. Chúng đang bàn với nhau về ước mơ trong tương lai của ḿnh.
Cây thứ nhứt nói: “Tôi hy vọng rằng trong tương lai, tôi sẽ được dùng làm hộp đựng châu báu. Tôi sẽ mang đầy ấp nào vàng, bạc và ngọc thạch quư giá. Tôi sẽ được chạm trỗ tinh vi, và mọi người sẽ trầm trồ về vẽ đẹp lộng lẩy của tôi”.
Cây thứ nh́ nói: “Ước rằng, một ngày nào đó tôi sẽ được dùng làm một chiếc tàu lớn với đầy đủ tiện nghi. Tôi sẽ chở các ông vua và bà hoàng đi khắp cùng trái đất. Mọi người sẽ vui vẽ b́nh an v́ sự vững chắc của thân tàu”.
Cuối cùng cây thứ ba tâm sự: “Tôi muốn trở nên một cây thẳng nhứt và cao nhứt trong khu rừng nầy. Mọi người sẽ nh́n thấy tôi đứng ngạo nghễ trên đỉnh đồi với những cành lá xum xuê. Tôi nghĩ là ḿnh có thể đụng tới trời và gần với Chúa. Tôi sẽ là một cây lớn nhất từ xưa đến nay và mọi người trầm trồ chiêm ngưỡng”
Sau nhiều năm nôn nă chờ đợi, ước mơ của chúng sắp thành sự thật, khi một nhóm thợ rừng đến với chúng.
Một người đến với cây thứ nhứt, ông ta nói rằng: “Cây nầy có vẻ to lớn và rắng chắc, tôi sẽ bán gỗ nó cho xưởng mộc,” và ông ta hạ nó xuống. Cây rất vui mừng v́ nghĩ rằng xưởng mộc sẽ dùng gỗ ḿnh để đóng những hộp đựng châu báu.
Tại gốc cây thứ nh́, một người khác nói: “Cây nầy trông tốt quá, tôi nghĩ nên bán nó cho xưởng đóng tàu”. Cây rất hân hoan v́ biết rằng nó sẽ được dùng để đóng một chiếc tàu lớn.
Cây thứ ba rất lo ngại khi thấy thợ rừng cầm búa đến, v́ một khi bị hạ xuống th́ mộng đẹp của nó sẽ tan vở. Người thợ rừng nh́n cây nầy và nói: “Tôi không có dự định đặc biệt ǵ về cây nầy, nhưng tôi chọn nó”. Và ông ta hạ nó xuống.
Khi cây thứ nhứt được đưa đến xưởng mộc, người ta đă dùng ván nó đóng thành cái máng ăn gia súc, chất cỏ khô vào đó và để trong một nhà chuồng. Thế là chẳng có điều ǵ đúng với ư nguyện. Cây thứ nh́ được dùng để đóng thành một chiếc thuyền đánh cá nhỏ. Mơ ước trở thành một chiếc thuyền lớn để chở ông vua bà hoàng đi khắp nơi đă chấm dứt. Cây thứ ba được xẻ thành nhiều mănh lớn, để trơ trọi trong kho. Thế rồi mơ ước của chúng cũng trôi theo thời gian và bị quên lăng đi.
Thế rồi, vào một ngày nọ có một người đàn ông và một phụ nữ vào trong nhà chuồng. Nàng sanh con và đặt Con Trẻ nằm trên lớp cỏ khô trong máng ăn súc vật được làm thành từ thân cây thứ nhứt. Người đàn ông muốn có một cái nôi cho Con Trẻ và đă tạm dùng máng cỏ để thay thế. Bấy giờ cây thứ nhứt đă nhận thức được điều quan trọng của việc xảy ra, đó là nó được chứa đựng một “Kho Tàng” quư báu nhứt trên thể gian cho nhân loại.
Qua nhiều năm sau, một nhóm người dùng chiếc thuyềân đánh cá, đă tạo ra từ thân cây thứ hai. Một người trên chiếc thuyền mệt mơi ngủ say. Khi thuyền ra khơi, một cơn băo nổi lên. Chiếc thuyền nghĩ rằng ḿnh không đủ vững chắc để bảo vệ nhóm người nầy an toàn. Mọi người đánh thức ” Người” đang ngủ say, người đó đứng dậy, bảo “Hăy yên lặng”. Băo liền dứt ngay. Ngay lúc nầy, cây thứ hai mới nhận biết rằng ḿnh đang chở “Vua trên muôn vua” trên chiếc thuyền của ḿnh.
Cuối cùng, một vài người đến mang những mănh gỗ từ thân cây thứ ba. Những mănh gỗ đó được một “Người” đàn ông vác trên vai, đi qua các đường phố dưới sự nhạo cười chế diểu của mọi người. Khi đến nơi đă định, “Người” đàn ông đó bị đóng đinh vào hai mănh gỗ làm thành h́nh chử thập, dựng lên trên đỉnh đồi cho đến chết. Đến Chúa Nhật, cây thứ ba mới hiểu được nó đă đủ sức đứng cao trên đỉnh đồi và được kề cận với Chúa, v́ chính Jesus đă bị đóng đinh trên thân nó.
Bài học về câu chuyện nầy là, khi mọi việc không xảy ra theo như điều bạn suy tính, th́ nhớ rằng Chúa đă có chương tŕnh sẵn cho bạn. Nếu tin cậy Chúa hết ḷng, Ngài sẽ ban cho bạn những món quà vượt quá sự suy tưởng. Mỗi cây đều được trọn niềm mơ ước, nhưng không như điều chúng suy tính. Chúng ta không cần hiểu chương tŕnh của Chúa định cho chúng ta là ǵ, nhưng chỉ cần hiểu rằng chương tŕnh của Ngài lúc nào cũng tốt nhứt cho chúng ta. . .
florida80
12-22-2019, 21:36
Những Câu Chuyện Sưu Tầm về Tin-Lành
Một vị thanh tra đang hỏi các học sinh về thuyết vô thần và dạy các em không tin có Thượng Đế. Tay cầm viên phấn, vị thanh tra hỏi:
- Các em có thấy viên phấn nầy không? - "Dạ thấy", các em đáp.
- Các em có thấy tấm bảng đen trên tường không? - "Dạ thấy".
- Các em có thấy người giáo viên đang đứng kia không? - "Dạ thấy"
Đây là câu hỏi chót, rất quan trọng, có ảnh hưỡng đến tương lai của các em. Hăy nghe cho rơ, suy nghĩ thật kỹ, rồi trả lời. "Các em có thấy Thượng Đế không?" - "Dạ không thấy", các em đáp.
Vị thanh tra rất hài ḷng về câu trả lời của học sinh, rồi kết luận: Vũ trụ nầy không có Đức Chúa Trời.
Bấy giờ, vị giáo viên bèn đứng lên, xin phép vị thanh tra được lập lại các câu hỏi lúc nảy.
- Các em có thấy viên phấn nầy không? - "Dạ thấy", các em đáp.
- Các em có thấy tấm bảng đen trên tường không? - "Dạ thấy".
- Các em có thấy vị thanh tra đang đứng kia không? - "Dạ thấy"
Đây là câu hỏi chót, rất quan trọng, có ảnh hưỡng đến tương lai của các em. Hăy nghe cho rơ, suy nghĩ thật kỹ, rồi trả lời. "Các em có thấy trí khôn của vị thanh tra không?" - "Dạ không thấy", các em đáp.
Người giáo viên kết luận: Như vậy là vị thanh tra nầy không có trí khôn; v́ không có trí khôn nên không "thấy" và không tin có Đức Chúa Trời.
florida80
12-22-2019, 21:36
Re: Những Câu Chuyện Sưu Tầm về Tin-Lành
Đôi bàn tay
Một người đàn ông có đến hơn 90 tuổi đang ngồi một cách yếu ớt trên băng ghế công viên. Ông không hề nhúc chích, chỉ ngồi cuối đầu xuống và nh́n chăm chú vào đôi bàn tay ḿnh. Khi tôi đến bên và ngồi xuống cạnh bên, dường như ông không hề nhận ra sự hiện diện của tôi, càng ngồi lâu, tôi càng thắc mắc và lo lắng không biết ông có ổn không.
Cuối cùng, không hẳn là tôi muốn quấy rầy ông, nhưng v́ muốn xem ông có khỏe không, nên tôi hỏi thăm ông một câu, rằng không biết ông có khỏe không, mọi việc có ổn không. Ông ngước đầu lên, nh́n tôi và mỉm cười.
"Ồ vâng, tôi khỏe, cảm ơn anh đă có lời hỏi thăm," ông nói với một giọng rơ ràng.
"Thật sự cháu không có ư làm phiền ông, nhưng v́ ông cứ ngồi đây mà nh́n hoài vào tay ḿnh như thế, cháu không biết ông đang suy nghĩ ǵ, cháu muốn biết chắc rằng ông vẫn khỏe," tôi giải thích với ông như vậy.
Ông hỏi lại tôi, "Thế anh có bao giờ nh́n vào đôi tay của ḿnh chưa? Ta muốn hỏi anh có từng thật sự nh́n vào đôi tay ấy?"
Tôi từ từ mở bàn tay ra và nh́n chúng. Tôi lật đi lật lại đôi bàn tay ḿnh, hết nh́n trong ḷng bàn tay đến bên ngoài. Không, tôi đoán rằng chưa khi nào tôi thật sự nh́n vào bàn tay ḿnh như lúc này -- khi ông hỏi câu hỏi ấy với tôi.
Thế rồi ông mỉm cười và liên hệ đến câu chuyện này.
Hăy dừng lại và suy nghĩ một chút về đôi bàn tay của ḿnh, chúng đă giúp đỡ, phục vụ anh như thế nào trong suốt những năm tháng qua.
Đôi tay nhăn nheo và yếu ớt này của ta đă là một công cụ hữu ích mà ta đă dùng suốt cả cuộc đời ḿnh, để với tới, rồi nắm lấy và ôm trọn cả cuộc đời này.
Chúng đă nâng đỡ và giúp ta bám níu cho khỏi ngă khi ta c̣n là đứa bé bước đi không vững. Chúng đút thức ăn vào miệng ta và mặc áo quần cho ta. Khi c̣n là một đứa trẻ, mẹ đă dạy ta chắp đôi tay này để cầu nguyện với Chúa. Chúng cột giày cho ta và giúp ta mang ủng.
Chúng lau khô nước mắt những đứa con ta và âu yếm nâng niu t́nh yêu của cuộc đời ta. Chúng đă cầm vũ khí và lau nước mắt cho ta khi ta phải lên đường vào chiến trận. Chúng đă bị dơ bẩn, bị thương và trầy xước, bị sưng phồng lên và có khi bị bẻ cong nữa.
Chúng thật đă lúng túng và vụng về khi ta cố gắng bồng đứa con trai mới sanh. Được trang trí bằng chiếc nhẫn cưới, chúng đă tỏ cho cả thế giới biết rằng ta đă kết ước và yêu thương một ai đó rất đặc biệt.
Chúng đă viết những lá thư về nhà. Và chúng đă từng run rẩy khi ta chôn cất cha mẹ ta và vợ ta, và chúng cũng đă run run xúc động khi đưa con gái ta đi giữa hàng ghế nhà thờ trong lễ cưới của nó.
Tuy nhiên, chúng mạnh mẽ và rắn chắc lắm. Chúng đă nắm tay các con cái ta, an ủi những người hàng xóm láng giềng, và tung ra những nắm đấm của sự tức giận khi ta không hiểu được vấn đề.
Chúng che mặt ta, chải đầu ta, và tắm rửa cho cả thân thể ta. Có khi chúng trở nên nhớp nháp và ướt lạnh, bị bẻ cong và găy, khô ráp và chảy máu.
Và cho đến một ngày, khi hầu hết các bộ phận trên cơ thể ta không c̣n hoạt động tốt như trước nữa, th́ đôi bàn tay này lại giúp ta chống để đứng dậy, đở thân thể ta khi nằm xuống, và một lần nữa, chúng tiếp tục chắp lại trong khi ta cầu nguyện. Đôi bàn tay này đă đánh dấu những nơi ta đă đi qua và sự khó nhọc của cuộc đời ta.
Những điều quan trọng hơn, đó là Chúa sẽ với tới và nắm đôi tay này khi Ngài dẫn ta về nhà Cha. Và Ngài sẽ không quan tâm đến việc đôi tay này đă từng ở những đâu hay đă làm những ǵ. Những ǵ Ngài quan tâm là đôi tay này thuộc về ai và Ngài yêu thương bàn tay này như thế nào. Và với bàn tay này, Ngài sẽ đưa ta đến bên Ngài, và rồi ta sẽ dùng chúng để chạm đến khuôn mặt yêu thương của Đấng Christ. Ôi, ngày đó mới tuyệt vời làm sao!
Suy gẫm
Chúa đă ban cho mỗi chúng ta một cuộc sống, trang bị cho chúng ta một cơ thể để hoạt động. Đôi bàn tay là một bộ phận đặc biệt đa năng, giúp chúng ta làm rất nhiều việc khác nhau. Chúa yêu thương và ban tặng cho chúng ta những khả năng, Ngài chắc cũng ao uớc chúng ta sử dụng chúng cách ích lợi và kết quả.
Có thể đôi tay bạn dùng để giúp đỡ, bố thí, có thể chúng được dùng để làm những công việc nặng nhọc giúp đỡ cha mẹ, người thân yêu, cũng có khi chúng được bạn dùng để đánh đàn cho nhà thờ... Và cũng có thể lắm, chính đôi tay đó lại muốn gom tóm lợi ích cho riêng ḿnh, muốn chạm vào tiền bạc của người khác, muốn chỉ vào ai đó để đổ lỗi chăng?
Bạn hăy nh́n vào đôi tay ḿnh, và trả lời với Chúa rằng chúng đă và đang được sử dụng như thế nào? Và hăy sử dụng chúng với ḷng biết ơn Chúa!
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Ephêsô 5:16
Hăy lợi dụng th́ giờ, v́ những ngày là xấu.
Sưu tầm
florida80
12-22-2019, 21:37
Hăy Sống Thỏa Ḷng
Ông Đỗ Tấn Minh, Tallahassee, FL.
Một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng ngày nọ có một con ruồi, một con lừa, và một con rùa già gặp gở nhau và chia xẽ cho nhau về kinh nghiệm sống của ḿnh.
Trước hết, con ruồi than thân trách phận cho đời sống ngắn ngủi của ḿnh như sau: “Nếu mà tôi có được nhiều thời gian, có lẽ mọi sự sẽ dễ dàng hơn. Các bạn cứ nghĩ xem, chỉ trong ṿng 24 tiếng đồng hồ, tôi phải được sinh ra, phải lớn lên, phải học hỏi kinh nghiệm, phải hưởng thụ cuộc sống, phải đau khổ, phải già, rồi cuối cùng phải chết. Tất cả chỉ diển ra trong một ngày một đêm mà thôi”.
Con lừa quanh năm suốt tháng phải quần quật với những công việc nặng nhọc th́ lại phàn nàn: "Giả như tôi chỉ có 24 tiếng đồng hồ để sống như chú ruồi th́ có lẽ tôi sẽ hạnh phúc hơn, bởi v́ thú vui nào tôi cũng nếm thử được một chút và cực nhọc nào tôi cũng chỉ chịu đựng trong một khoảnh khắc thôi."
Đến lượt con rùa già, nó uể oải phát biểu rằng: "Tôi đă sống đựợc gần 300 tuổi nhưng tôi vẫn thấy không đủ th́ giờ để kể hết nhưng kinh nghiệm tôi đă trải qua. Khi được 200 tuổi, tôi đă ao ước được chết cho rồi. Nhưng tôi vẫn phải kéo lê đời sống cho đến hôm nay. Tôi thấy tội nghiệp cho chú ruồi, nhưng tôi lại hơi ghen tị với ông bạn lừa”.
Qua sự chia xẽ này, dường như không có ai thỏa măn đời sống của ḿnh. Kẻ này th́ than phiền sống quá ít, kẻ kia th́ ngán ngẩm v́ sống quá lâu. Thế rồi lừa, rùa và ruồi rủ nhau đến vấn kế con nhện, v́ nhện được xem là con vật thông thái. Sau khi lắng nghe hết mọi lời kể lể, con nhện mới dơng dạt ban cho mỗi vị khách một lời khuyên. Với con rùa già, nhện nói như sau: " Hởi cụ rùa, đừng phàn nàn nữa. Thử hỏi có ai trên đời này được giàu kinh nghiệm bằng cụ chưa"?
Quay sang con ruồi, nhện ta ra càu nhàu: “Này chú ruồi, chú cũng đừng than thân trách phận nữa. Thử hỏi có ai hưởng được nhiều tṛ vui bằng chú không?”
Riêng với con lừa, th́ lời cảnh cáo của con nhện có vẽ nặng nề hơn: "C̣n ông bạn lừa, tôi không có lời khuyên nào cho ông bạn, v́ ông bạn là kẻ bất măn suốt đời. Ông bạn vừa muốn sống lâu như cụ rùa lại vừa muốn sống ngắn ngủi như chú ruồi. Trời nào có thể làm vừa ḷng ông bạn được!”
Câu chuyện ngụ ngôn trên đây minh họa phần nào sự bất măn thường xuyên trong tâm hồn con người đối với mọi t́nh huống của đời sống: nghèo hèn hay sang trọng, dốt nát hay thông minh, thành công hay thất bại, bệnh hoạn hay mạnh khỏe. Tâm lư chung của con người là không bao giờ cảm thấy hoàn toàn bằng ḷng với chính ḿnh, với tha nhân và với đời sống. Bởi vậy, tục ngữ Việt Nam có câu:
“Đứng núi này, trông núi nọ”
Và người Mỹ cũng thường nói:
“The grass always seems greener across the river”, hoặc
“The apples on the other side of the wall are the sweetest”
Có lẽ sự bất măn và không bằng ḷng chính ḿnh là biểu hiện một thiếu sót lớn lao trong tâm hồn con người: đó là thiếu sót T́nh Yêu. Khi có t́nh yêu, người ta sẽ không c̣n bất măn. Khi có t́nh yêu, dường như người ta không c̣n màng đến thời gian nữa. Một tác giả nào đó đă viết: "Thời gian quá chậm đối với những kẽ chờ đợi và sợ hăi. Thời gian lại quá dài đối với những kẽ than phiền. Nhưng đối với những người đang yêu, th́ thời gian không c̣n nữa”.
Có chấp nhận chính ḿnh, có yêu thương chính ḿnh, chúng ta sẽ không c̣n than thân trách phận nữa. Có yêu thương tha nhân, chúng ta sẽ thấy được tha nhân là nguồn hạnh phúc của ḿnh. Có yêu đời, chúng ta mới thấy đời dễ thương hơn.
Sự thỏa ḷng chính là điều mà mỗi Cơ Đốc Nhân nên theo đuổi. Con người hữu hạn, đời người đau khổ, niềm vui và hạnh phúc thật của chúng ta đến từ chỗ chúng ta biết nương dựa nơi Chúa, biết sử dụng đúng những năm tháng Đức Chúa Trời ban cho và cuối cùng là sống bằng ḷng với những ǵ chúng ta nhận được qua t́nh yêu của Ngài.
Trong sự thỏa ḷng, chúng ta:“Hăy vui mừng măi măi, cầu nguyện không thôi, phàm việc ǵ cũng phải tạ ơn Chúa” (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:16-18a).
Lannguyen
florida80
12-22-2019, 21:37
: Những Câu Chuyện Sưu Tầm về Tin-Lành
Người đời thường nói rằng phụ nữ hay nuối tiếc về những ǵ đă qua. Thật vậy cứ mỗi lần Lan nghĩ đến bài hát của Nhạc sĩ Xuân Hồng, hai câu sau đây luôn đưa Lan trở về kỷ niệm của quê mẹ dấu yêu.
"Mẹ Việt Nam ơi, Mẹ Việt Nam ơi!
Đi con đi qua khắp nẻo đường, nghe đau thương ch́m trong khói sương."
Ngày tuổi nhỏ quê ngoại Lan ỏ tận ngoại ô thành phố nên vào buổi sớm mai trông thật vui, thơ mộng, nhưng mong manh như làn sương c̣n đọng trên lá, trên hoa. Những sớm mai đó, mùa Xuân hay mùa Đông, thời gian không c̣n rơ rệt nữa trong hồi tưởng của Lan.
Ở đây, Nigeria có những lúc hoàng hôn buông xuống, Lan đă nhớ thật nhiều quê cũ thân yêu. Những lúc đó, Lan đă không ngăn được những giọt lệ buồn lăn trên má. Dù đắm ḿnh trong cái thanh tịnh buổi sớm để nghe tiếng gió thổi ŕ rào tṛ chuyện với chú chim hay đón hoàng hôn ch́m dần vào màn đêm đơn lẻ nhường lại cho ṿm trời trang trí với ngàn Sao, Lan nghe như có tiếng th́ thầm "Hăy lắng nghe đi em, một câu chuyện ngàn năm xưa vẫn c̣n lập lại bằng tiếng gió vi vu với ngàn Sao soi sáng, với vầng Trăng chiếu lung linh trên cây lá như lan rộng măi trong không gian". Và con tàu vũ trụ vẫn đang lướt nhanh và không dừng lại trong gịng sông không gian.
Thực tế chúng ta thấy rằng sống trên đời này là một cuộc chiến đấu không ngừng giữa thiện và ác, giữa tự do và nô lệ, giữa ân sủng và tội lỗi. Nh́n khách quan và sâu xa hơn, chúng ta phải nói rằng lịch sử thường lặp lại. Lư do lịch sử thường lặp lại v́ lịch sử được kết hợp bởi những biến cố do con người chủ động. Con người ở mọi thời đại, qua bao nhiêu thế hệ chúng ta luôn có những lầm lẫn giống nhau là việc rất thường, có khác chăng là ở mức độ và h́nh thức mà thôi. Nhưng trong cuộc chiến từng ngày đó chúng ta biết rơ rằng Thiên Chúa vẫn luôn có mặt để nâng đỡ chúng ta. Người trong thế gian không tin Chúa, họ không khác ǵ bị mù, lần ṃ trong bóng tối, họ đi vào sự hư mất mà không biết.
Thời gian th́ hữu hạn, chỉ có t́nh yêu thương là vĩnh viển. Chúng ta cần nên nh́n lại, trong cái hữu hạn của ḿnh, bao nhiêu điều hay đă có, bao nhiêu c̣n đang cố gắng để làm, và người Cơ đốc chúng ta điều quan trọng là có làm đúng theo ư Chúa hay không? V́ những việc chúng ta làm sẽ đưa ra ánh sáng, cả vũ trụ sẽ thấy dù tốt hay xấu.
Có người nói chỉ cần có tiền là có hạnh phúc. Có phải thật vậy hay không? Tiền bạc có thể giúp cho chúng ta trong cuộc sống, chỉ có tính cách tạm thời chứ không mua được hạnh phúc, theo Lan th́ không có ǵ xứng đáng và hạnh phúc là hơn việc vâng theo tiếng gọi của Chúa. Chúng ta chỉ thật sự được hạnh phúc nhờ niềm vui trong Chúa mà thôi, v́ niềm vui trong Chúa tựa như ánh b́nh minh chiếu trên muôn hoa đang đua nở đẹp tươi chứ không như ánh nắng ở mức độ cao và dữ dội, gây cảm giác căng thẳng, khó chịu, nắng hè gay gắt thiêu trụi cây lá trên giữa tuyệt mù sa mạc hoang vu.
Người Cơ đốc chúng ta đă hiểu rơ và công nhận rằng có một sự mầu nhiệm của t́nh yêu thương và sự hy sinh chịu chết của Đức Chúa Jesus là một sự việc quá nhiệm mầu. Thánh Kinh đă dùng nhiều h́nh ảnh để giải thích, nhưng có lẽ chúng ta sẽ không thể nào hiểu rơ được. Làm sao ḷng hy sinh cứu nhân loại khỏi sự chết của Ngài hai ngàn năm trước vẫn ảnh hưởng được đến đời sống của chúng ta hôm nay cho đến ngàn sau? Thánh Kinh đă dạy rơ một câu đơn giản rằng, " Đức Chúa Jesus chết đă thế cho chúng ta." Mỗi lần suy nghĩ đến t́nh yêu thương của Đức Chúa Jesus, mỗi lần nghĩ đến h́nh ảnh thập giá và nơi Chúa chịu đóng đinh, chúng ta phải luôn nhớ rằng v́ Đức Chúa Jesus đă chịu chết để ban cho chúng ta sự sống lại ngày sau.
Chúng ta thường bị cám dỗ mà sống lưng chừng, cầu an, thế nào cũng xong thôi. Ma quỷ đă dùng mọi cách để cám dỗ, nhưng khi nó đe dọa cũng không đáng sợ bằng khi nó nịnh hót và hứa hẹn đủ điều bằng những lời th́ thầm ru ngủ chúng ta!
Sứ đồ Phao-lô đă chép vào Thánh kinh, "Ga-la-ti 2:20 Tôi đă bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ, mà tôi sống, không phải là tôi sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi; nay tôi c̣n sống trong xác thịt, ấy là tôi sống trong đức tin của Con Đức Chúa Trời, là Đấng đă yêu tôi, và đă phó chính ḿnh Ngài v́ tôi".
Tiền có thể mua vật chất những ǵ chúng ta thích ở trần gian, nhưng tiền không thể mua được tài năng, hạnh phúc, danh dự của chúng ta, nhất là không thể mua được t́nh yêu và ơn Cứu Rỗi của Đức Chúa Jesus.
Sự giàu sang có thể thay đổi, nhưng sự khôn ngoan giúp chúng ta sống thoả vui trong t́nh yêu Thiên Chúa ngay trong đời này đến vĩnh cửu mai sau.
Trên bước đường chia xẽ Lời của Đức Chúa Trời và ơn Cứu rỗi của Ngài, Lan đă thật sự đối diện với cuộc đời, có người lắng nghe, vui vẻ, có người phản bác chê bai! Lan nhận thấy những ǵ Lan học qua sự dạy dỗ của Đức Thánh Linh đă giúp Lan thật nhiều, Lan xin chép vào đây chia sẽ với quư bạn, đồng bào việt Nam yêu thương của Lan từ trên khắp nơi trên đất và trên cố hương yêu quư Việt-Nam.
Lời hát, lời nói của chúng ta dù đă bay theo mây, gió, nhưng chúng ta và cả vũ trụ sẽ nghe lại lời chúng ta nói. Khi đó, không c̣n có cơ hội để ăn năn nữa. Ngay bây giờ, hăy chuẩn bị sẵn sàng để gặp Đức Chúa Trời trong ngày phán xét của Đức Chúa Jesus. Lan xin hẹn gặp lại quư vị và quư bạn trong niềm vui Thiên quốc.
Hội Thánh là của Đức Chúa Trời; khi mà Đức Chúa Trời đă lập th́ không ai phá đổ được. V́ ai phá đổ hội thánh tức là đụng đến, phá đổ thân thể của Đấng Christ.
Thánh Kinh chép:
Anh em hăy giữ lấy ḿnh, và luôn cả bầy mà Đức Thánh Linh đă lập anh em làm kẻ coi sóc, để chăn Hội Thánh của Đức Chúa Trời, mà Ngài đă mua bằng chính huyết ḿnh (Công Vụ 20:28).
florida80
12-22-2019, 21:38
Cái Bông Tuyết Nhỏ
Phía trên cao băng đá, có một cái bông tuyết nhỏ sống trên những đám mây của mùa đông. Cái bông-tuyết này có một cái lỗ h́nh-ngôi-sao ở giữa và sáu cánh tay đưa ra mà nh́n giống như những cây thông bé nhỏ. Tất cả những cái bông-tuyết đều có sáu cánh tay, dĩ nhiên, nhưng không phải tất cả chúng nó đều nh́n giống như những cây thông bé nhỏ cả. Hơn thế, chỉ có một số ít là có h́nh-ngôi-sao ở giữa. Cái bông-tuyết này th́ đặc biệt. Tên của nó là Glitter.
Glitter đă lớn lên kế bên cửa nhà của ông Flip, một cái bông-tuyết già khó tính, với những cánh tay vuông. Glitter rất thích nói chuyện với ông Flip.
"Cậu đă được tạo nên cách đặc biệt, Glitter. Không có cái bông-tuyết nào nh́n giống như bạn cả," ông Flip đă nói với cậu bé một lần.
"Có những bông-tuyết nào giống như ông không, Flip?" Glitter hỏi.
"Không! Tôi là một-loại-duy-nhất, cậu bé." Ông Flip tiếp tục, "Cậu có thể nh́n chung quanh đám mây mà chúng ta đang sống ở đây, nhưng cậu sẽ không bao giờ t́m được hai cái bông tuyết giống nhau đâu."
Glitter suy nghĩ về điều này trong một lúc. "Đấng Tạo Hóa của chúng ta phải thật sự quan tâm đến chúng ta nếu Ngài đă tạo nên mỗi chúng ta cách đặc biệt."
"Đúng vậy," ông Flip đáp lại. "Ngài chắc chắn là như vậy."
Bất th́nh ĺnh một cơn gió lồng lộng thổi qua đám mây. "Ô! Thật là vui!" Glitter đă la lên khi cậu đă bám vào một trong những cánh tay mạnh mẻ của ông Flip. Cơn gió đă mang họ ra khỏi đám mây và đi vào bầu trời mở rộng. Glitter có thể thấy tất cả xung quanh him những h́nh dạng khác nhau của những người bạn bông-tuyết của cậu ta trong khi họ đang bay trong cơn gió. Glitter chưa bao giờ thấy điều ǵ thật đẹp như thế này. Cậu vui mừng rằng Đấng Tạo Hóa đă tạo nên cậu để làm một phần của bầu trời mùa đông dễ thương này.
Ông Flip and cậu bé Glitter cách chậm chạp cuốn đi xuống qua không khí mùa đông tươi mới. Glitter nh́n về phía mặt đất và một cái thở hổn hển của sự kích động đă đi vào cổ họng của cậu. "Hăy nh́n ḱa, ông Flip! Hăy nh́n vào những màu sắc!"
Đó là sự thật. Phía dưới những bông-tuyết, những đứa trẻ đă tụ tập đông đúc để đi trợt băng trên một cái hồ đông đá nhỏ, đang xoay ṿng và lượn trong những cái áo khoác màu sắc tươi sáng của chúng. Khi những bông tuyết đến gần hơn, Glitter đă không thể cầm được sự vui cười. Không có đứa trẻ nào nh́n giống như đứa trẻ nào hết! Vài đứa có da sậm và vài đứa có những tàn nhan. Vài đứa có những cái răng to, và vài đứa có những cặp mắt xanh lá cây. Ở chỗ này chỗ kia th́ có một cái đuôi tóc vàng đưa ra từ dưới cái nón, hay những cái mũ len che cái lỗ tai giữ cái tóc quăn đen ở đó.
"Tất cả những đứa trẻ đều khác nhau, ông Flip. Đấng Tạo Hóa cũng phải tạo nên họ cách đặc biệt!" Glitter nói lớn.
Ông Flip trả lời cách nhẹ nhàng khi họ đậu lên trên tà áo của một cô gái nhỏ có tóc-đỏ nhỏ, "Đúng vậy. Và Đấng Tạo Hóa yêu thương từng người họ."
Bạn có biết rằng Thượng Đế tạo nên bạn cách đặc biệt không? Và Ngài yêu thương bạn là người trong hiện tại! Thực vậy, Thượng Đế yêu thương bạn nhiều đến nỗi mà Ngài muốn ở cùng vơí bạn măi măi. Kinh Thánh nói rằng: "V́ Đức Chúa Trời đă yêu thương thế gian [gồm có bạn!], đến nỗi Ngài đă ban Con Một của Ngài [Chúa Giê-xu], hầu cho hể ai tin Con ấy th́ không bị hư mất, nhưng được sự sống đời đời [có nghĩa là măi măi!]" (Giăng 3:16). Nếu bạn muốn sống đời với Thượng Đế trên Thiên Đàng, chỉ tin rằng Chúa Giê-xu đă chết thế cho h́nh phạt về những tội lỗi của bạn rồi (những tội lỗi là những điều xấu mà chúng ta làm) và Ngài đă trở lại sự sống. Hăy cầu xin Thượng Đế giúp bạn sống một cuộc đời mới, trong sạch cho Ngài.
Bạn không cần phải là người lớn hơn, thông minh hơn, hay đẹp hơn chính bạn bây giờ. Thượng Đế yêu thương bạn là người mà Ngài đă tạo nên và Ngài muốn ở cùng bạn măi măi - bắt đầu từ hôm nay! Bạn chỉ cần nói điều này với Thượng Đế với hết cả tấm ḷng của bạn:
Kính thưa Thượng Đế, con cám ơn Ngài đă tạo nên con đặc biệt và thương yêu con nhiều đến nỗi mà Ngài đă ban gởi Chúa Giê-xu xuống chết cho những tội lỗi của con. Xin Ngài hăy vui ḷng vào cuộc đời con ngay bây giờ và giúp con sống cho Ngài. A-men.
Những tài liệu Kinh Thánh tham khảo: ESV
Chuyển ngữ: Ngô Ngọc Di
florida80
12-22-2019, 21:39
Hăy Là Những Nhánh Nho Sinh Hoa Trái
Ông luật sư kia mới mở văn pḥng luật tại một trung tâm thương mại khá khang trang và nhộn nhịp người mua sắm. Vào ngày khai trương, trong lúc đang lau bụi bặm trên bàn giấy và xếp mấy quyển sách luật vào kệ sách, ông luật sư bỗng nghe có tiếng chân người ngoài cửa bước vào. Ông giả vờ như không thấy, ngồi xuống ghế và nhắc vội ống nghe điện thoại lên nói thật to:
"Hello, đây là văn pḥng luật sư X… Dạ vâng, từ ngày tốt nghiệp Tiến Sĩ luật khoa đến giờ tôi đă thắng nhiều vụ kiện lớn. Tôi đươc rất nhiều thân chủ tin tưởng. Đặc biệt, các công ty danh tiếng đều nhờ cậy đến tôi. Tôi luôn dành 10% khoản thu nhập rất cao của tôi để trợ giúp cho các công việc từ thiện."
Có tiếng gơ cửa, ông luật sư quay lại, thấy một người thanh niên đang đứng chờ từ năy giờ, ông mới lịch sự nói vào ống nghe điện thoại:
- Dạ xin lỗi bà, bây giờ tôi phải tiếp một thân chủ vứa mới đến. Lát nữa tôi sẽ gọi lại để hầu chuyện bà.
Quay về phía người thanh niên, ông hỏi: "Anh cần ǵ?"
Người thanh niên nói: "Thưa luật sư, có phải hôm nay là ngày đầu tiên văn pḥng của ông bắt đầu làm việc không?"
Ông luật sư mừng rỡ như bắt được vàng: "Đúng, đúng... thế anh cần tôi giúp vụ kiện nào?"
Người thanh niên trả lời: "Dạ thưa không. Tôi là chuyên viên của hảng địện thoại được gởi đến để gắn đường dây điện thọai cho văn pḥng ông."
Trong sách Tin Lành Giăng 15:5, Chúa Giê-su có phán rằng: "Ta là gốc nho, các ngươi là nhánh. Ai cứ ở trong ta và ta trong họ th́ sinh ra lắm trái, v́ ngoài ta, các ngươi chẵng làm chi được”. Vâng, đối với Cơ Đốc Nhân chúng ta, Chúa Giê-su chính là cây nho, và chúng ta là những nhánh nho. Cây và nhánh có chung một ḍng nhựa, nên có cùng một sự sống. Càng gắn bó với cây, nhánh càng sinh nhiều hoa trái. Nếu nhánh chỉ giả vờ gắn liền với cây th́ không thể nào sinh hoa trái được. Ví như đường dây đ́ện thoại của ông luật sư; không có sự nối liền đường dây với tổng đài th́ không thể có liên lạc đối thọai; mà không có liên lạc đối thoại th́ làm ǵ có thân chủ để nhận tiền thù lao.
Điều đặc biệt của cây nho là muốn sinh nhiều trái hơn, những nhánh của nó phải chịu đau đớn v́ cắt tỉa, v́ có cắt tỉa và vun xới, nhánh mới đâm hoa kết quả. Khi Chúa Giê-su chịu bị đóng đinh trên cây thập tự, và sườn bị ngọn giáo đâm thấu, Ngài như một thân nho trơ trụi, rồi từ đó Hội Thánh của Ngài được sinh ra, đơm bông kết trái dồi dào.
Cũng như những nhánh nho, mỗi Cơ Đốc Nhân cũng phải được cắt tỉa, vun xới bằng chính sự hy sinh và đau khổ bởi những thử thách trong đời sống th́ mới đơm bông, kết trái. Điều quan trọng là chúng ta hăy ở trong Chúa v́ ngoài Ngài ra, chúng ta chẵng làm chi được. Ở trong Chúa và kết nối với Ngài qua đường dây cầu nguyện để chúng ta tiếp nhận được sức sống và khả năng kết trái từ nơi Ngài. Chúa Giê-su đă dạy: "Ví bằng các ngươi cứ ở trong ta, và những lời ta ở trong các ngươi, hăy cầu xin mọi điều ḿnh muốn, th́ sẽ được điều đó” (Mathiơ 15:7).
Nếu Chúa Cứu Thế Giê-su là Gốc Nho đích thực và Người Trồng Nho là chính Đức Chúa Trời, th́ chúng ta, những Cơ Đốc Nhân, hăy là những nhánh nho căng nhựa sống, để dâng hiến cho đời những chùm nho tươi tốt, ngon ngọt.
Nguyện xin Chúa cắt tỉa chúng ta khỏi những gian dối và giả h́nh, để cây đời chúng ta trổ sinh nhiều hoa thơm, trái tốt. Cũng xin Chúa giúp chúng ta can đảm, dám sống theo những đ̣i hỏi cắt tỉa của Ngài. Amen.
Ông Đỗ Tấn Minh, Tallahassee, FL.
florida80
12-22-2019, 21:39
GIÚP NGƯỜI
Lê Thy viết theo một tài liệu sưu tầm trên internet
Chuyện xảy ra tại một làng quê xứ Tô Cách Lan (Scotland) . Nơi đó có một người rất nghèo tên là Fleming . Một hôm, đang làm việc ngoài đồng, bỗng ông nghe một tiếng kêu cứu phát ra từ một bải śnh lầy gần đó. Ông vội vă quăng bỏ tất cả dụng cụ, chạy về hướng bải lầy. Đến nơi ông thấy một cậu bé đă bị lún nửa thân h́nh trong đống bùn đen . Cậu bé kinh hoàng tột độ, vừa la hét vừa cố gắng cựa quậy để mong thoát ra cơn hiểm nghèo . Nhưng cậu càng cựa quậy th́ càng bị lún sâu hơn. May thay, ông Fleming đến vừa kịp lúc để cứu cậu bé ra khỏi cái chết khủng khiếp đó.
Ngày hôm sau, một cổ xe thật sang trọng dừng trước căn nhà ông Fleming. Một ông qúi phái từ trên xe bước xuống và tự giới thiệu là cha của cậu bé được ông Fleming cứu ngày hôm qua.
Ông ấy nói vơí ông Fleming:
- Ông đă cứu mạng con tôi, tôi đến đây để đền ơn ông !
Ông Fleming xua tay từ chối:
- Tôi không thể nhận sự đền ơn đó của ông. Gặp người bị nạn th́ bổn phận của tôi là phải cứu họ.
Vừa lúc đó, con trai của ông Fleming bước vào nhà. Ông nhà giàu hỏi:
- Có phải con trai ông không ?
Ông Fleming kiêu hănh trả lời :
- Vâng, chính nó !
- V́ ông cứ nhất định không chịu nhận số tiền đền ơn của tôi, bây giờ tôi muốn bàn với ông một việc như sau. Tôi xin ông chấp nhận cho tôi lo chuyện học của cháu. Tôi sẽ đưa cháu vào học cùng trường với con tôi. Nếu cháu thông minh, siêng năng th́ cháu sẽ trở thành người hữu dụng để cho chúng ta hănh diện v́ cháu.
Ông nhà giàu thực hiện đúng lời hứa. Con ông Fleming được vào học ở trường nổi tiếng nhất và đă tốt nghiệp trường Ykhoa Bệnh viện St-Mary tại Luân Đôn rồi sau đó được cả thế giới biết đến dưới cái tên Sir Alexender Fleming, người khám phá ra thuốc trụ sinh Penicillin.
Những năm về sau, cậu bé con ông nhà giàu suưt chết trong bải śnh năm nào lại bị nhiễm bệnh sưng phổi. Và lần nầy th́ làm sao ông được cứu ? – Chính « Penicillin » đă cứu sống ông.
Vậy các bạn và các em có biết ông nhà giàu đó tên ǵ không ? – Đó là Lord Randolph Churchill !
Và cậu bé con của ông là ai ? – Sir Winston Churchill !
Nên mở ḷng với tha nhân, bạn bè ! Cho dù những ngựi được ḿnh giúp sẽ không đền đáp được, thậm chí c̣n lấy oán báo ơn, nhưng ḿnh cũng sẽ được đền bù bằng Ơn Phước của Thượng Đế ban cho
"Cái ǵ tôi đă tiêu xài, bây giờ không c̣n nữa,
Cái ǵ tôi đă mua sắm, bây giờ tôi phải để lại cho người khác,
Chỉ cái ǵ tôi đă cho, thuộc về của tôi."
Đừng bao giờ phí phạm bất cứ một giây phút nào để nghĩ đến kẻ thù hoặc người ḿnh ghét
florida80
12-22-2019, 21:40
Mùa Thu Tới
“Đêm nay Thu sang cùng heo may
Đêm nay sương lam mờ chân mây!
Tiếng hát thật buồn từ máy thu băng đưa Lan trở về vùng kỷ niệm ngày xưa… ngoài song cửa hàng cây thay màu áo! Chiếc áo màu xanh mát của mùa Hè như hy vọng của đời học sinh, của t́nh yêu giờ đổi sang màu vàng Thu e ấp, kiều diễm, một bức tranh đẹp tuyệt vời của Đấng Tạo Hoá.
Ngày đó… một quyển Kinh Thánh thật cũ, phai màu gần như rách nát đă gợi sự chú ư của Lan khi bước vào pḥng ăn để t́m một ly cà phê … nh́n quanh đó không thấy ai, Lan nh́n quyển Kinh Thánh thật nhanh “King James Version” phai màu làm cho Lan suy nghĩ miên man.
-Chúa ơi, Có phải Chúa đưa đến cho con một người bạn cùng lư tưởng? Con cảm ơn Chúa.
Nhờ anh Bob t́m hiểu ai là chủ nhân của quyển Kinh Thánh đó, ba hôm sau anh Bob t́m Lan và nói với Lan:
- Immanuel, một thanh niên trẻ mới đổi đến đây làm việc đó Lan.
- Immanuel? Lan ít nghe người có tên đó. Cảm ơn anh Bob đă giúp Lan nhé.
D́ của Lan thường nói một quyển Kinh Thánh củ kỷ thường thuộc về một người có đời sống tâm linh rất cao… Lan cũng nghĩ như vậy.
Tan sở làm chiều hôm đó, Lan đi t́m một quyển “King James Version” mới, có sách dẫn "concordance", Lời Chúa nói viết màu đỏ, Lan nhờ ghi ngoài b́a chữ “Immanuel” màu vàng thật đẹp. Sáng hôm sau Lan mang vào sở làm và để bên cạnh quyển Kinh Thánh của Immanuel với tấm thiệp nhỏ: “Welcome Immanuel and God Bless you! Xin chào mừng Immanuel và nguyện xin Chúa thêm ơn cho bạn."
Một tuần sau … Lan đang ngồi soạn bài học Kinh Thánh cho lớp học phụ nữ tối hôm đó, Lan nh́n lên thấy một thanh niên trẻ tuổi, có nụ cười tràn lên ánh mắt, người đó đưa tay bắt tay Lan và giới thiệu:
-Chào chị, tôi là Immanuel.
-Ô, anh chính là chủ nhân của quyển Kinh Thánh nằm cô đơn ở đây mỗi sáng?
-Vâng, chính tôi.
Immanuel trao tặng cho Lan một chậu bằng sành nhỏ xinh xắn, không là chậu hoa mà là chậu lá mùa Thu, những chiếc lá màu vàng và màu đỏ nh́n giống như lá thật vậy. Rất đẹp.
-Xin Lan nhận món quà nhỏ này nhé, tôi cảm ơn Lan đă chào mừng tôi với quyển Kinh Thánh, một kỷ niệm tuyệt vời, tôi sẽ giữ măi kỷ vật của Lan.
- Xin cảm ơn Immanuel và nguyện Chúa ở cùng và xin Đức Thánh Linh d́u dắt chúng ta.
Từ đó… Immanuel và Lan trở thành bạn làm việc chung, chị em trong Chúa, hợp tính và hợp ư nhau, và nhất là cả hai yêu Chúa nhiệt t́nh.
Immanuel quư Lan như chị, Lan yêu thương Immanuel như người em trai nhỏ, Chúa đă đưa đến cho Lan để cùng chia sẻ vui buồn trên chiến trường tâm linh.
Immanuel và Lan t́m đủ mọi cách và những th́ giờ có được để làm chứng về Chúa cho người trong sở làm và ngoài phố.
Có nhiều lúc Immanuel thật buồn và nói:
- Công ty này có bốn trăm nhân viên, mà gần như cả bốn trăm người cùng muốn đi vào đêm đen!
-Ḿnh cứ làm công việc gieo giống với tất cả ḷng tin yêu Chúa và yêu người, Chúa sẽ cho kết quả như ư Ngài Immanuel ạ, đừng lo lắng nhé? Lan nói để khuyến khích Immanuel và an ủi chính ḿnh.
Cảm ơn Chúa, Immanuel và Lan làm việc nhờ được tín nhiệm trong công ty và nhờ Đức Thánh Linh vùa giúp nên ông sếp lớn (Giám đốc) và các ông sếp dưới quyền đều không ai làm khó dễ về việc mang Kinh Thánh, học và cầu nguyện trong sở làm, có người phản bác lại, có người chịu nghe và tin Chúa, có vài người đến khuyên Immanuel và Lan nên bỏ cuộc, v́ họ nghĩ sẽ có hại mà thôi!
Immanuel và Lan cười nhỏ nhẹ đáp:
- Trước mặt Thượng Đế, chúng tôi nên vâng lời quư bạn hay vâng Lời Thượng Đế ? (Công vụ sứ đồ 4: 19; Acts 4: 19).
Immanuel thường nói:
-Chúng ta như chiếc xe đang chạy trên xa lộ quá nhiều xe, chúng ta không thể dừng lại được, v́ chúng ta đang sống trong một thời điểm thật quan trọng, nếu chúng ta để thời giờ và dịp tiện qua đi, nó sẽ không trở lại. Thiên Chúa đă ban cho chúng ta trí óc để quyết định mọi việc, nhất là đời sống tâm linh, tương giao với Chúa, chúng ta đă ư thức được sự hiện hữu của Ngài và giúp chúng ta hăng hái chia sẻ với mọi người về t́nh yêu và chương tŕnh cứu rỗi của Ngài.
Mùa Thu lại đến, khi xin được trợ cấp của một trường Thần học ở California, Immanuel từ giả Lan để lên đường … ngày chia tay, Lan mời Immanuel đến nhà Lan ăn cơm, hôm đó Immanuel đến sớm, Lan c̣n đang nghe nhạc Việt nam, Lan giải nghĩa cho Immanuel hai câu hát về Thu:
“Đêm nay Thu sang cùng heo may
Đêm nay sương lam mờ chân mây …”
-Nhạc Việt Nam hay và ư nghĩa quá, Immanuel nói.
Immanuel tặng Lan quyển sổ nhỏ có địa chỉ trường thần học và địa chỉ điện thư để liên lạc, mở ra xem, Lan thật cảm động, một chiếc lá mùa Thu vàng ép vào đó.
Immanuel nói: - Đừng quên tôi!
Lan cúi đầu dấu đôi mắt ướt và nắm chặt tay Immanuel nói đùa:
- Chị sẽ nhớ cậu em trai vào mỗi mùa Thu tới, chịu không?
- Ngày gặp lại nhau, Immanuel muốn chị gọi là cậu em hay là ông Mục sư?
-Immanuel sẽ măi măi là em của chị Lan.
Những bức điện thư đi về đêù đặn, Immanuel rất tiến bộ trong việc học và hay gửi cho Lan nhiều bài học và tài liệu dưỡng linh, một món quà cho chị Lan vào lễ Chúa Giáng Sinh, nhưng không quên kèm theo trong đó hai chiếc lá mùa Thu màu vàng và đỏ thật dễ thương với lời viết:
-Những chiếc là này Immanuel đă nhặt trước sân trường và để dành tặng chị.
Lan rất quư những chiếc lá mùa Thu đó và nhớ thương người em trong Chúa của ḿnh thật nhiều !
Mùa Thu lại trở về, hàng cây ngoài sân đă khoát áo vàng Thu, Lan thấy thật buồn, Thu lại về đây, nhưng Immanuel sẽ không gửi chị Lan những chiếc lá nhặt trước sân trường nữa!
Immanuel đă mang theo mộng ước, ḷng yêu Chúa nhiệt t́nh, tha thiết với sự mất c̣n của mọi người chưa nghe, biết Chúa, Immanuel để lại cho Lan những kỷ niệm ngày cũ và nỗi đau xót nhớ thương lúc nào cũng như c̣n quá mới …đi vào ḷng đất qua một chứng bệnh mà y khoa c̣n chịu thua!
Lan t́m an ủi qua Lời Kinh Thánh dạy:
Giăng 11: 25 Đức Chúa Giê-su bảo: "Chính Ta là sự sống lại và sự sống, người nào tin Ta, dù có chết cũng sẽ sống. 26. C̣n ai sống mà tin Ta sẽ chẳng bao giờ chết, con tin điều ấy không?"
-Immanuel ơi, em đă làm tṛn sứ mệnh Chúa giao em, chị c̣n đi… đi như người lạc vào rừng Thu, không có gió heo may, không có sương lam, nhưng có ḍng lệ tuôn trên má chị, trước mặt chị những chiếc lá màu vàng, màu đỏ mờ đi, chị nhớ dáng em cười…
Lan cúi đầu và nh́n theo những chiếc lá vàng rơi đang bị gió cuốn bay nhanh… Lan nghẹn ngào th́ thầm qua ḍng lệ:
-Immanuel, mùa Thu tới rồi em biết không?
Lannguyen
florida80
12-22-2019, 21:40
Ai Hơn Ai?
Trong một khu vườn tuyệt đẹp kia có nhiều loại hoa đua nhau khoe màu tranh sắc: Hoa Hồng, hoa Hướng Dương, hoa Vạn Thọ, hoa Cúc, kể cả vài cụm bông Móng Tay và bông Mười Giờ.
Một ngày kia, có người đến nh́n ngắm những bông hoa đẹp, rồi lấy một cây thước ra đo chiều cao, chiều dài cũng như đếm số các nụ hoa. Xong ông ta bỏ đi.
Ư thức về chiều cao và độ lớn của ḿnh, hoa Hướng Dương càng vươn cổ lên cao và nói: "Trong khắp khu vườn, không hoa nào lớn mạnh như chúng tôi". Nghe nói thế, hoa Hồng lên tiếng: "Nhưng không hoa nào đẹp và tỏa hương thơm ngát như chúng tôi". Không chịu thua ai, hoa Vạn Thọ góp lời: "Hai người nói thế nghe sao phải, to lớn và thơm tho nào có ư nghĩa ǵ. Hai người làm ǵ có được nhiều bông hoa như chúng tôi".
Nghe những loại hoa trên tranh luận, các loại hoa Cúc, hoa Móng Tay và hoa Mười Giờ cảm thấy tủi phận. Hoa Móng Tay t́m lời an ủi hoa Mười Giờ: "Bọn ḿnh không đẹp, không thơm, nhưng được cái là dễ trồng nên được nhiều người ưa thích".
Sau đó, khu vườn trở lại yên lặng trong khoảnh khắc. Nhưng hoa Cúc phá tan sự im lặng nặng nề với những phát biểu sau đây: "Sao các anh, các chị lại có thể suy nghĩ thế? Bởi đâu các anh các chị lại tranh nhau về chiều cao, về độ lớn, về vẻ đẹp, về hương thơm. Anh chị quên rằng: Dù lớn hay nhỏ, dù mạnh hay yếu, dù đỏ hay vàng, mọi bông hoa đều nhận lănh h́nh hài, vẻ đẹp và hương thơm từ bàn tay của Đấng Tạo Hóa và dưới mắt Người chúng ta đều như sau. Mỗi chúng ta đều được Người ban cho đồng đều ánh sáng và hơi ấm của mặt trời. Mỗi bông hoa đều được Người cho mưa rơi xuống gốc và sương sa trên ḿnh như nhau. Đó là Mầu Nhiệm của ḷng quảng đại và khoan nhân của Thiên Chúa".
Sự phân b́, ghen tuông đă và đang làm khổ đau cho con người cũng bằng tính tự cao, tự đại hay ít ra tính phân b́, ghen ghét cũng làm cho chúng ta không được thư thái, b́nh an. V́ thế, có người đă đề ra những phương pháp sau đây như những điều kiện để được hưởng sự b́nh an trong tâm hồn:
- Nếu tôi không muốn so sánh ḿnh với người khác, tôi sẽ cảm thấy hạnh phúc với những ǵ tốt đẹp nơi tôi.
- Nếu tôi không làm nô lệ cho sự thành công, tôi có thể sản xuất những thành quả tốt đẹp kẻ khác chờ đợi nơi tôi.
- Nếu tôi không để ḿnh bị vướng vào mạng lưới của sự cạnh tranh, tôi sẽ thông phần và chia sẻ được những cái tốt đẹp hàm ẩn trong tất cả mọi người.
Trích sách Lẽ Sống
florida80
12-22-2019, 21:41
Hương Vị Của Khói
Để đả phá tính ích kỷ, người Ả Rập thường kể câu chuyện như sau:
Tai một khu phố nọ, có không biết bao nhiêu cửa hàng ăn uống mọc lên. Hương vị bốc lên từ các cửa hàng này thu hút những người giàu lẫn kẻ nghèo. Những người giàu đến đây để thưởng thức những của ngon vật lạ, c̣n những người nghèo th́ chỉ mong ăn được chút cơm thừa canh cặn hay cùng lắm là chỉ để hít thở được hương vị thơm ngon bốc lên từ các nhà bếp...
Một hôm, có một người nghèo mon men đến một cửa hàng. Trên tay anh cầm một ổ bánh ḿ. Anh người nghèo này có ư nghĩ độc đáo: thay v́ chầu chực hưởng phần ăn thừa của thực khách, anh bèn leo lên mái nhà, rồi ngồi cạnh ống khói của nhà bếp. Anh vừa nhai bánh ḿ vừa hít thở làn khói bốc ra từ nhà bếp, anh nhai ngấu nghiến ổ bánh ḿ mà tưởng tượng như ḿnh đang thưởng thức những của ngon được dọn trên bàn thượng khách.
Nhưng không may cho anh, v́ hôm đó người chủ nhà hàng gặp nhiều rắc rối trong công việc làm ăn cho nên không có được bộ mặt vui tươi cho mấy. Thế là ông sai những người hầu bàn lôi cổ người ăn xin xuống khỏi mái nhà và yêu cầu trả tiền. Ông lư luận với người ăn xin như sau: "Khói bốc ra từ nhà bếp của ta không phải là khói chùa, nhà ngươi đă thưởng thức làn khói đầy hương vị đó, yêu cầu nhà ngươi trả tiền cho ta".
Người ăn xin không chịu trả tiền. Nội vụ đă được đem ra trước ṭa án. Quan đầu tỉnh phải nhức đầu v́ vụ án này. Ông cho triệu tất các bực thức giả trong toàn tỉnh để giúp ông giải quyết vụ án. Những người này đưa ra hai ư kiến xem ra đều có lư cả: một bên nói rằng khói bốc ra từ cửa hàng, do đó nó là chủ hữu của ông chủ cửa hàng. Những người khác th́ cho rằng khói cũng như không khí là của mọi người, thành ra người ăn xin có quyền hưởng mà không phải trả đồng xu nào.
Sau khi đă bàn bạc và cân nhắc, quan đầu tỉnh mới đưa ra phán quyết như sau: "Người nghèo đă hưởng khói mà không đụng đến thức ăn, cho nên anh ta hăy lấy một đồng bạc, ra giữa công viên, gơ đồng bạc vào ghế đá, âm thanh của đồng bạc sẽ lan ra. Người chủ cửa hàng muốn đ̣i tiền của khói, ông hăy lắng nghe âm thanh ấy".
Người kể câu chuyện ngụ ngôn trên đây có lẽ muốn nói với chúng ta rằng sự ích kỷ không mang lại cho chúng ta một lợi lộc nào.
Nhưng sự ích kỷ không bao giờ mang tính chất trung lập. Nghĩa là khi tôi khép kín tâm hồn, khi tôi chỉ biết nghĩ đến ḿnh, không những tôi làm cho người khác bớt hạnh phúc, mà chính tôi cũng chết đi một phần trong tôi. T́nh liên đới không phải là một thứ xa xỉ phẩm được thêm vào tương quan giữa người với người hoặc như một thứ tô điểm phụ thuộc cho nhân cách của tôi, mà là đ̣i hỏi thiết yếu của ơn gọi làm ngựi. Tôi càng nên người hơn khi tôi sống cho tha nhân. Tôi càng trở nên phong phú hơn khi tôi trao ban...
Chúa Giêsu đă mạc khải cho chúng ta ơn gọi đích thực của con người: đó là sống trọn vẹn cho tha nhân. "Này là Người, này là con người với đầy đủ tính người". Đó phải là ư nghĩa của lời tuyên bố của Philato khi ông cho tŕnh diện trước đám đông một Chúa Giêsu với tấm thân không c̣n h́nh tượng của con người nữa và nói: "Này là người...". Con người chỉ thể hiện được trọn vẹn tính người khi con người tiêu hao hoàn toàn v́ người khác, khi con người sống hoàn toàn cho người khác...
Đó là định luật của T́nh Yêu mà Chúa Giê su đă mạc khải cho chúng ta: Ai đi t́m mạng sống ḿnh, người đó sẽ mất. Ai mất mạng sống ḿnh, người đó sẽ t́m gặp lại.
Trích sách Lẽ Sống
florida80
12-22-2019, 21:41
Con Chó Tên Sam
Câu chuyện về một con cho săn chim tên là Sam. Chó Sam đă dạy cho người chủ nó sự vui thích hóa hợp cùng thiên nhiên qua nỗi say mê dễ lây khi t́m thấy và chỉ chỗ những con chim. Thường th́ chó và chủ chia nhau những bữa ăn trưa nấu sẵn trong một khu vườn trồng táo bỏ hoang và ngủ say sưa sau đó.
Trong một buổi chiều sâm sẩm tối, chó Sam và người chủ lạc nhau. Cả hai đều không quen thuộc với vùng đất. Người chủ gọi và thổi c̣i, nhưng không thấy dấu hiệu ǵ của Sam. Người đàn ông phải về thành phố v́ một cái hẹn quan trọng và sẽ không thể trở lại cho tới ngày hôm sau. Làm thế nào ông có thể để con chó tín cẩn đi lang thang một ḿnh suốt đêm được? Oâng tự hỏi, nếu Sam trở lại và không thấy ai hết; nó có lẽ sẽ đi rong t́m và không chừng bị lạc mất luôn? Đoạn người đàn ông nhớ lại một mánh lới mà vị huấn luyện chó già nua đă truyền lại cho ḿnh. Oâng mở nút chiếc áo phủ ngoài, cởi ra cái áo sơ-mi của ḿnh và đặt nó trên mặt đất, dưới những nhánh của một bụi cây nhỏ. Hôm sau khi trở lại, ông thấy chó Sam nằm cuốn đuôi với cái mũi nó vùi dưới cánh tay áo chiếc sơ-mi. Chó Sam ngửng đầu và vẫy đuôi như muốn nói với người chủ, “Tôi đă kiên nhẫn chờ ông suốt cả đêm qua trong cảm giác cô đơn và bị bỏ mặc.”
Bạn đă từng cảm thấy lẻ loi và bị bỏ rơi không? Cô đơn là một vấn đề thông thường trong nền văn hóa tân tiến của chúng ta và người Cơ-đốc cũng không thoát khỏi điều đó. Nếu lúc nào những cảm giác đó đến, chúng ta có một thứ để an ủi tốt hơn cái áo sơ-mi cũ. Chúng ta có thể cuộn ḿnh với Lời của Đức Chúa Trời trong Kinh-thánh để được nhắc nhớ về những Hứa ngôn và các lẽï thật quư báu của Thiên Chúa, dùng cho cá nhân, phù hợp, và mang tính trường cửu:
1) ”V́ chính Đức Chúa Trời có phán rằng: Ta sẽ chẳng ĺa ngươi đâu, chẳng bỏ ngươi đâu.” (Hêb 13:5b).
2) “Có một người bạn gần gụi hơn anh em ruột” (Châm ngôn 18:24b).
3) “Đức Thánh Linh thật sự đang ngự trong anh chị em” (I Cô-rin-tô 6:19a).
4) “Cha sẽ ban cho các ngươi một Đấng cố vấn khác để ở với các ngươi cho đến đời đời” (Giă14:16b)
Buồn thay cho những người c̣n ở ngoài Chúa Cứu Thế không có được những nguồn lợi tuyệt diệu đó. Họ không c̣n chỗ nào để quay về khi bị tràn ngập bởi những cảm giác cô đơn là sự thường đưa đến chán nản, nghiện ngập, hoặc cả tự tử nữa. Điều này thúc dục tất cả chúng ta nếu có thể, chia xẻ nhiều hơn nữa với mọi người về “một sự vui mừng lớn cho muôn dân chưa từng loan ra.” (Lu-ca 2:10,TLB).
Bill Bright
florida80
12-22-2019, 21:42
Nhắm đích
Sally đă thuật lại cho chúng tôi nghe một kinh nghiệm mà cô học được trong một lớp ngoại khóa với tiến sĩ Smith. Cô kể rằng tiến sĩ Smith là diễn giả nổi tiếng với những bài giảng rất tinh tế.
Một ngày nọ, khi bước vào lớp, Sally nhận thấy rằng hôm nay lớp sẽ có một tṛ vui ǵ đấy. Trên tường là một tấm bia lớn, và trên chiếc bàn gần đó có rất nhiều phi tiêu. Tiến sĩ Smith bảo với tất cả học sinh rằng hăy vẽ h́nh của người nào mà bạn ghét nhất, hoặc là h́nh của ai làm cho bạn tức giận, và ông cho phép họ ném phi tiêu vào h́nh vẽ đó.
Cô bạn của Sally vẽ h́nh cô gái đă "cướp" mất người yêu của cô. Một người khác th́ vẽ h́nh đứa em trai của ḿnh. Sally cũng vẽ bức h́nh của một người bạn cũ, cô dồn công sức để vẽ sao cho thật giống, ngay cả những cái mụn trên mặt cô bạn. Xong xuôi, Sally có vẻ rất hài ḷng với tác phẩm của ḿnh...
Cả lớp xếp hàng và bắt đầu ném phi tiêu, mọi người cười nói rôm rả và không khí có vẻ rất vui nhộn. Một số học sinh ném phi tiêu rất mạnh đến nỗi tấm h́nh của họ bị rách toạc cả ra. Sally chờ tới lượt ḿnh... Và cô đă rất thất vọng khi tiến sĩ Smith đề nghị mọi người dừng lại và trở về chỗ ngồi v́ thời gian có hạn.
Trong khi Sally ngồi nghĩ và hậm hực trong ḷng v́ không có cơ hội để ném phi tiêu vào h́nh kẻ ḿnh ghét, th́ tiến sĩ Smith bắt đầu gỡ tấm bia ra khỏi tường.
Và sau tấm bia đó là bức h́nh của Chúa Jesus...
Một sự im lặng bao trùm cả lớp học khi các học sinh trong lớp nh́n thấy bức h́nh của Chúa Jesus bị rách nham nhở trên tường; Những cái lỗ và những dấu lởm chởm trên mặt Chúa, và hai mắt Chúa bị đâm thủng.
Tiến sĩ Smith chỉ nói một câu, "Hễ các ngươi đă làm việc đó cho một người trong những người rất hèn mọn nầy của anh em ta, ấy là đă làm cho chính ḿnh ta vậy."
Tất cả mọi người đều im lặng, nước mắt chảy dài trên khuôn mặt của những học sinh trong lớp, mọi người nh́n vào bức ảnh của Chúa và suy gẫm cho bản thân ḿnh.
Câu hỏi suy gẫm
Hăy nghĩ về người mà bạn ghét nhất! Bạn đang đối xử với người đó như thế nào?
Mathio 25:40
"... Quả thật, ta nói cùng các ngươi, hễ các ngươi đă làm việc đó cho một người trong những người rất hèn mọn nầy của anh em ta, ấy là đă làm cho chính ḿnh ta vậy."
Sưu tầm
florida80
12-22-2019, 21:42
John Powell, một giảng-sư tại trường đại-học Loyola tại Chicago, viết về một sinh-viên tên là Tommy trong lớp học “Thần-học Đức-tin” của ông như sau:
Cách đây khoảng mười hai năm, tôi đứng quan-sát các sinh-viên của tôi sắp hàng vào học buổi đầu-tiên của lớp “Thần-học Đức-tin” của tôi. Đó là ngày đầu-tiên tôi gặp Tommy. Cả đôi mắt lẫn trí-óc tôi bị giật một cái. Cậu ta đang chải mái tóc vàng chảy dài quá vai đến một gang tay.
Đây là lần đầu-tiên tôi thấy một câu trai có mái tóc dài đến như thế. Tôi đoán chừng đấy là mốt mới. Trí của tôi nói với tôi rằng không phải những ǵ mọc trên đầu một người là đáng kể, nhưng những ǵ chứa bên trong cái đầu ấy mới là điều đáng kể; dầu vậy, ngày hôm ấy, tôi chưa sẵn-sàng cho điều này, và cảm-xúc tôi bị xáo-trộn. Tôi tức-th́ sắp hạng Tommy vào dưới vần “K” tức kỳ-cục, rất kỳ-cục.
Rồi Tommy hiện nguyên h́nh là “kẻ vô-thần nội-trú” trong lớp học “Thần-học Đức-tin” của tôi. Cậu ta liên-tục phản-kháng, dè bỉu, hoặc chê-trách về sự khả-tín của một Đức Chúa Cha có t́nh yêu-thương vô-điều-kiện. Chúng tôi sinh-hoạt với nhau tương-đối là ḥa-b́nh suốt một tam-cá-nguyệt, cho dù tôi phải công-nhận rằng có những lúc, cậu ta là một cục nợ nặng ngồi cuối lớp.
Vào cuối khóa học, khi cậu ta đến để trao bài thi cuối khóa, với một giọng nói đượm chút ngờ-vực, cậu ta hỏi tôi , “ Thầy có nghĩ rằng tôi có thể t́m thấy Chúa không?” Tôi tức-th́ quyết-định ngay là phải áp-dụng một màn trị-liệu bằng phương-pháp chấn-động. “ C̣n khuya!” Tôi nói một cách mạnh-mẽ. Cậu ta đáp lời” Ô, vậy mà em cứ tưởng là thầy đang cố rao bán điều ấy chứ.”
Tôi cố-ư đợi cho cậu ta bước ra khỏi cửa lớp khoảng năm bước , rồi mới gọi vói ra, “ Tommy! Tôi không nghĩ rằng em sẽ gặp Chúa, nhưng tôi chắc-chắn trăm phần trăm rằng Chúa sẽ t́m thấy em!”.
Cậu ta hơi nhún vai, rồi bước ra khỏi lóp và ra khỏi cuộc đời tôi. Tôi cảm thấy hơi thất-vọng khi thoáng nghĩ rằng cậu ta đă không bắt được câu gợi ư khéo-léo của tôi :” Chúa sẽ t́m thấy em!” Ít ra cũng c̣n được câu khéo-léo, tôi nghĩ vậy.
Sau đó tôi nghe tin rằng Tommay đă ra trường, và tôi cảm thấy thật nhẹ-nhơm. Rồi một tin buồn đến. Tôi nghe nói rằng Tommy bị bệnh ung-thư không chữa được. Nhưng trước khi tôi t́m đến gặp Tommy, th́ cậu ta đă đến gặp tôi trước. Khi cậu bước vào văn-pḥng, tôi thấy thân-thể cậu thật quá tiều-tuỵ, và mái tóc dài đă rụng hết v́ tác-dụng của cuộc trị-liệu dược-phẩm, nhưng cặp mắt cậu ngời sáng, và tôi tin rằng đây là lần đầu-tiên tôi nghe giọng cậu mang vẻ rắn-rỏi.
“Ồ Tommy, Tôi thường nghĩ đến em luôn. Nghe nói em bị bệnh.” Tôi thốt lên.
“Vâng, em bệnh, mà bệnh nặng lắm. Em bị ung-thư cả hai buồng phổi. Em chỉ c̣n được vài tuần nữa mà thôi.”
“Em có thể nói về chuyện này được không ?” tôi hỏi.
“Được chứ, thầy muốn biết về điều ǵ ?” cậu ta trả lời.
“Em có cảm-tưởng như thế nào khi biết rằng ḿnh đang chết trong lúc chỉ mới hai mươi bốn tuổi ?”
“Ờ, có khi c̣n tệ hơn nữa đó.”
“Chẳng hạn như ?”
“ Dạ, chẳng hạn như ḿnh đang ở tuổi năm mươi mà không có một giá-trị nào hay một lư-tưởng nào hết; hay là đă năm mươi tuổi rồi mà c̣n nghĩ rằng rượu chè, đàn-bà hấp-dẫn, và kiếm nhiều tiền là những điều thực-sự “thành-công lớn” trong cuộc đời.”
( Tôi bắt đầu làm một cuộc lục-soát hồ-sơ trong tâm-tưởng những hồ-sơ đánh dấu mẫu-tự “K” mà tôi đă xếp Tommy thuộc loại kỳ-cục ở đó. Tôi thấy h́nh như là bất-kỳ những ai mà tôi cố phân-hạng họ để có cớ chối-bỏ họ, th́ Chúa luôn gửi họ trở lại để dạy-dỗ tôi.)
Tom nói “Nhưng điều em thực-sự muốn gặp thầy để nói, là cái điều mà thầy đă nói với em ngày cuối-cùng của lớp học.”
(Cậu ta nhớ!) Cậu nói tiếp,” em hỏi thầy rằng thầy có nghĩ em sẽ t́m thấy Chúa không, th́ thầy nói, “C̣n khuya!” khiến em ngạc-nhiên. Rồi thầy nói, “ Nhưng Chúa sẽ t́m gặp em.” Em nghĩ về điều này rất nhiều, cho dù sự t́m-kiếm Chúa của em trong thời-gian ấy thật là mănh-liệt.”
(Câu nói khéo-léo của tôi….Cậu ta có nghĩ về câu này rất nhiều!)
“Nhưng khi bác-sĩ cắt bỏ một cục từ trong bụng em và cho em biết là cục này có mầm bệnh, th́ đó là lúc em trở nên nghiêm-trang trong việc đi t́m Chúa. Và khi mầm bệnh lan qua những cơ-quan trọng-yếu của em, th́ em thực sự đă dùng nắm tay đẫm máu của ḿnh mà đập cánh cửa bằng đồng của thiên-đàng, nhưng Đức Chúa Trời đă không xuất-hiện. Sự thật là, chẳng có chuyện ǵ xẩy ra hết. thầy đă từng bao giờ cố-gắng hết sức ḿnh để xin một điều ǵ trong một thờI-gian rất lâu mà không có kết-quả ǵ chưa ? Ḿnh trở nên bị ớn về mặt tâm-lư; và chán không c̣n muốn cố-gắng nữa. Và thầy sẽ bỏ cuộc. Rồi, một hôm em thức dậy và thay v́ kêu-cầu một vài lời khiếu-nại vô-ích qua bức tường cao để cầu đến một vị Chúa mà có thể có mặt hay không có mặt, em chỉ bỏ cuộc một cách đơn-giản. Em đă quyết-định là thực ra em không quan-tâm đến Chúa, hay đến một đời sống sau khi chết, hay bất-kỳ những ǵ giống như vậy. Em đă quyết-định là em sẽ dùng những th́-giờ c̣n lại của em để làm những điều ǵ có ích. Em nghĩ về thầy và lớp học của thầy, và em nhớ một điều nữa thầy có nói: “ Sự đau-buồn căn-bản là khi sống hết một đời sống mà không yêu-thương một ai. Nhưng cũng có một điều đau-buồn không kém là khi sống qua hết một đời và từ-giă cơi đời này mà chưa từng bao giờ nói với những người ḿnh yêu-thương là ḿnh đă yêu-thương họ. “ Bởi vậy em mới bắt đầu với điều khó làm nhất, đó là đốI với ba của em. Khi em đến gặp ba em th́ ông đang đọc báo.
“ Thưa ba.”
“Ờ, ǵ đó?” Ba em hỏi em mà không hề hạ tờ báo xuống.
“Ba, con muốn nói chuyện với ba.”
“ Rồi, nói đi.”
“ Con muốn nói là điều này quan-trọng lắm.”
Tờ báo từ-từ hạ xuống độ ba phân Anh. “ Ǵ đó?”
“ Ba, con thương ba. Con chỉ muốn cho ba biết điều ấy.”
(Tom cười với tôi và nói với một sự thỏa-măn rơ-rệt, như thể em cảm thấy một sự hân-hoan ấm-áp và bí-mật đang tuôn chảy bên trong .)
“ Tờ báo run-rẩy rơi xuống sàn nhà. Rồi ba của em làm hai điều mà em nhớ là ông chưa từng bao giờ làm trước đây. Ông khóc và ôm lấy em. Hai cha con nói chuyện với nhau suốt đêm, mặc dù cha em phải đi làm vào buổi sáng ngày hôm sau. Em cảm thấy rất sung-sướng được gần-gũi với ba em, được thấy những giọt nước mắt của ông, cảm-nhận được ṿng tay ôm-ấp của ông, và được nghe ông nói những lời yêu-thương em. Đối với mẹ và em của em th́ sự việc dễ-dàng hơn. Họ cùng khóc với em, và mọi người ôm lấy nhau, bắt đầu nói cho nhau nghe những điều thật tốt-đẹp. Chúng em chia-xẻ với nhau những điều chúng em đă giữ kín quá nhiều năm.
Em chỉ lấy làm tiếc có một điều – là em đă đợi quá lâu để làm điều ấy. Lúc ấy em chỉ mới bắt đầu mở tấm ḷng ra cho tất-cả những người mà em đă từng gần-gũi họ trước đó. RồI cho đến một hôm, khi em quay lại th́ thấy Đức Chúa Trời đă đứng sẵn ở đó ! Khi em nài-nỉ với Ngài th́ Chúa đă không đến với em. Em đoán là em đă làm giống như một người dạy thú đang giơ cái ṿng lửa cho thú nhảy qua; và thúc-dục “ Lẹ đi, nhảy qua đi mà. Lẹ đi, tôi cho Người ba ngày, ba tuần nghe.”
Rơ-ràng là Đức Chúa Trời làm việc theo cách riêng của Ngài và theo th́-giờ riêng của Ngài. Nhưng điều quan-trọng là Ngài lúc nào cũng có mặt. Chúa đă t́m thấy em . Thầy nói đúng. Chúa t́m em ngay cả khi em đă không c̣n đi t́m kiếm Ngài nữa.”
“Tommy này,” tôi thực-sư nghẹn-ngào, “tôi nghĩ rằng em đang nói một điều thật là quan-trọng và lớn-lao hơn là em nghĩ. Ít ra là đối với tôi, điều em đang nói là cách chắc-chắn nhất để t́m thấy Chúa là đừng biến Ngài thành vật sở-hữu riêng của ḿnh, hay là chỉ một người giải-quyết vấn-đề, hay chỉ là một nguồn an-ủi cấp-tốc mỗi khi ḿnh cần đến, nhưng là mở ḷng ra để yêu-thương người khác. Em biết không, sứ-đồ Giăng đă nói đến điều này rồi. Ông nói rằng: ‘Đức Chúa Trời là t́nh-yêu, và hễ ai sống yêu-thương th́ đang sống với Đức Chúa Trời và Ngài sống trong người ấy.’
Em Tom này, em có thể làm điều này cho tôi được không? Em biết không, khi em ở trong lớp của tôi th́ em quả là một cục nợ. Nhưng (tôi cười) bây giờ em có thể đền-bù lại tất-cả cho tôi được rồi đó. Em có vui ḷng đến lớp học Thần-học Đức-tin bây giờ của tôi và nói cho họ nghe những điều em vừa mới nói cho tôi nghe không? Nếu tôi nói cho họ nghe th́ sẽ không có hiệu-quả bằng một nửa so với việc chính em nói.”
“Ô.. em sẵn-sàng nói chuyện với thầy, nhưng không chắc là em đă sẵn-sàng để nói chuyện với lớp học của thầy không.”
“ Em Tom này, em suy-nghĩ về chuyện đó nghe. Nếu khi nào em sẵn-sàng th́ em gọi cho tôi.”
Một vài ngày sau, Tom gọi cho tôi, nói rằng em sẵn-sàng nói chuyện với lớp học, và em muốn làm điều ấy cho Chúa và cho tôi. Chúng tôi hẹn ngày, nhưng Tom không bao giờ đến được ngày hẹn ấy.
Em có một cuộc hẹn khác, một cuộc hẹn quan-trọng hơn nhiều so với cuộc hẹn em đă hứa với tôi và lớp học của tôi. Dĩ-nhiên là đời-sống của em không phải v́ cái chết của em mà chấm-dứt, nhưng chỉ biến-đổi mà thôi. Em đă bước một bước dài từ đức-tin vào trong khải-tượng. Em đă t́m thấy một cuộc sống tươi-đẹp hơn bất-cứ một đời sống nào mà mắt trần tai thịt của con người đă từng thấy và nghe qua, đẹp hơn hẳn những ǵ trí-óc con người có thể tưởng-tượng nổi. Trước khi em chết, em có nói chuyện với tôi một lần cuối. “Em không thể đến nổi lớp của thầy,” em nói vậy. Tôi nói “ Vâng , tôi biết.” “ Thầy có thể kể cho họ nghe dùm em không ? Thầy có thể nói cho …toàn-thể thế-giới dùm em không ?” “Tôi sẽ nói, em Tom ạ. Tôi sẽ nói cho họ biết. Tôi sẽ gắng hết sức.”
Thế nên, với tất-cả những ai đă có ḷng tốt lắng nghe lời nói t́nh-yêu đơn-sơ này, tôi xin có lời cám-ơn quư-vị.
Và em Tommy ơi, ở một nơi nào đó trong cánh đồng xanh tươi rực-rỡ nắng ấm của thiên-đàng, xin em cho tôi nói rằng tôi đă kể cho họ nghe rồI, bằng hết sức mà tôi có thể làm được, Tommy ạ.
Johnpowell.tommy.tes timony.Vietnamese
florida80
12-22-2019, 21:43
Trắc Nghiệm Khôn Ngoan
Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln nổi tiếng là một người khôn ngoan. Một lần nọ Lincolnbị lâm vào một thế bí là phải làm vừa ḷng một nhà chính trị, v́ vậy ông ra lệnh phải dời chỗ đóng quân của mấy trung đoàn Bộ binh. Bộ Trưởng Chiến Tranh lúc ấy làEdwin Stanton, nhận được lệnh nhưng không chịu thi hành. Ông nói: “Tổng thống điên rồí!”
Sau đó có người thuật lại cho Lincoln nghe lời Bộ Trưởng Edwin Stanton, Lincoln nói: “Nếu ông Stanton bảo tôi là điên, th́ không chừng đúng đó, v́ nhận xét của ông ta thường là rất chính xác. Để xem thử.” Lincoln cho mời Stanton tới và hai người nói chuyện. Lincoln nhận ngay ra lỗi lầm của ḿnh và vội vàng rút lại lệnh đă ban ra.
Thánh Linh của Chúa thường khi không thực hiện được những điều Ngài muốn làm v́ tính kiêu căng, bướng bỉnh và không muốn thay đổi đă khiến ta trở nên khó dạy. Nhận ḿnh sai lầm không phải là dễ, nhưng người khôn ngoan bao giờ cũng có thái độ cởi mở. Chúng ta hay bị sai lầm, phán đoán vội vă, ích kỷ, nhất là không tự thấy lỗi lầm của ḿnh.
Mỗi khi bị chỉ trích phê b́nh, hăy đến thưa với Chúa rằng: “Lạy Chúa nhưng điều họ nói có đúng hay không?” Nếu có, hăy bằng ḷng sửa đổi lại, v́ có sửa đổi như vậy, bạn mới đáng gọi là người khôn được.
Có người đưa ra trắc nghiệm sau đây:
Bạn thử trả lời có hay không, đúng hay sai đối với ba câu hỏi sau đây:
Bạn có dễ dạy không? Trả lời có hay không.
Bạn có sẵn sàng sửa chữa những ǵ ḿnh làm sai hay không? Trả lời có hay không.
Khi nhận một lời quở trách, bạn có biết ơn người nói lời đó không? Trả lời có hay không.
florida80
12-22-2019, 21:46
The Story of Steve Janke: God Saved Me at Vietnam
Dear Friends,
In 1971 I was in Vietnam as a 21 year old young man. I was stationed at Cam Ranh Bay and worked security police around the vast Air Force Base. I was in the wardog program and had a German shepherd to keep me company during the long nights.
On May 23rd we were attacked. A sapper team attempted to penetrate my position outside the POL area where we stored our jet fuel. It was there and then the Holy Spirit convicted me as I wondered what would happen to me if I died. It was during this fierce attack that I asked The Lord Jesus Christ to come into my heart and save me. Though I had been a church member during my life I did not know Christ in a personal way until this night. The Lord graciously spared my life that night and other nights and brought me home safely.
Vietnam to this day holds a special place in my heart for it was the birthplace of my spiritual life with God. I pray for the underground church there and want to return some day to that land and people. I have been in fulltime ministry the last 25 years.
Sincerely In Christ,
Pastor Steve Janke/ N.J.
Câu Chuyện của Steve Janke: Chúa Cứu Tôi Tại Việt Nam
Các bạn thân mến,
Vào năm 1971, tôi ở tại Việt Nam khi c̣n là một người thanh niên 21 tuổi. Tôi được đặt căn cứ tại Vịnh Cam Ranh và làm viên cảnh sát trật tự ṿng quanh Căn cứ Không-quân rộng lớn. Tôi đă ở trong chương tŕnh huấn luyện chó săn và có một con chó bẹt-giê làm bạn với tôi trong suốt những đêm dài.
Vào ngày 23 tháng Năm chúng tôi đă bị tấn công. Một đội công binh đă cố gắng xâm nhập vị trí của tôi bên ngoài vùng POL nơi mà chúng tôi chứa đựng nhiên liệu máy bay của chúng tôi. Tại đó và lúc đó Đức Thánh Linh đă làm cho tôi nhận thức thấy tội tôi khi tôi muốn biết điều ǵ sẽ xảy ra cho tôi nếu tôi chết. Đúng vào lúc trong giữa cuộc tấn công mănh liệt rằng tôi đă mời Chúa Giê-xu Christ vào trong ḷng tôi và cứu lấy tôi. Mặc dù tôi đă là một thành viên đi nhà thờ suốt cuộc đời tôi, nhưng tôi đă không biết về Đấng Christ bằng một cách cá nhân cho đến đêm tối này. Thượng Đế đă nhân từ cứu sống tôi đêm đó và những đêm khác nữa, và đă mang tôi về nhà cách an toàn.
Việt Nam cho đến ngày nay giữ một nơi đặc biệt trong ḷng tôi bởi v́ nó là nơi sinh ra của đời sống tâm linh tôi với Thượng Đế. Tôi cầu nguyện cho hội thánh tư gia ở đó và muốn trở lại vào ngày nào đó tới vùng đất và dân ở đó. Tôi đă làm mục sư trong 25 năm qua.
Thật hết ḷng trong Đấng Christ,
Mục sư Steve Janke/ N.J.
Chuyển ngữ: Ngô Ngọc Di (Hopeway.org)
florida80
12-23-2019, 21:47
Toa thuốc bổ gan thận
THÁNG 5 NĂM 2011
Câu hỏi 104 - Toa thuốc bổ gan thận cho người lớn tuổi pḥng chữa bệnh đau cột sống, lưng, xương, chân gối đau tê nhức, mỏi, yếu :
Ba Kích, Đỗ Trọng, Ngưu Tất, mỗi thứ 3 chỉ (12g).
Sắc 4 chén cạn c̣n 1 chén uống nóng lúc tối.
Ba vị này phối hợp làm hạ khí ngăn nghẹn ở ngực, chữa bệnh đau nhức lưng, chân, đầu gối, mệt mỏi, chóng mặt, rối loạn áp huyết, thần kinh suy nhược, bụng dưới lạnh đầy, đau từ lưng xuống xương cùng, đau thần kinh tọa đến gót chân.
Ngoài việc chữa bằng thuốc, cần tập bài Dậm Chân Phía Trước Phía Sau/Chachcha 5 phút, Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng 100 lần, Cúi Ngửa 4 Nhịp 20 lần. Mỗi ngày tập 3 lần.
Nếu đang có những chứng bệnh kể trên mà tây y không t́m ra bệnh...chúng ta nên uống mỗi tối 1 thang luôn 10 tối.
C̣n chúng ta muốn pḥng ngừa được những bệnh kể trên, mỗi cuối tuần uống 1 lần
Công dụng của Ba Kích :
Trị thủy thủng, di mộng tinh, đau bụng dưới, đau buốt trong xương, tử cung lạnh, tiểu không tự chủ, gân xương mềm yếu, thận hư, tê bại, suy nhược thần kinh, mất ngủ, phong thấp đau nhức.....
Công dụng của Đỗ Trọng :
Trị đau nhức lưng, cột sống, chân, gối, không đi được, đau đầu chóng mặt... do thận hư.
Công dụng của Ngưu Tất :
Bổ gan thận, mạnh gân cơ, tiêu trừ ứ huyết, dẫn máu thông từ lưng xuống chân.
Thân
doducngoc
Xin xem:
https://www.youtube.com/watch?v=Sc1yHY1UegM
florida80
12-23-2019, 21:49
Cách cứu người tai biến mạch máu năo b́nh phục tức khắc
Tai biến mạch máu năo và đột quỵ là 2 chứng bệnh vô cùng nguy hiểm nó đến bất ngờ khiến người bệnh có thể chết bất đắc kỳ tử nếu không biết cách cấp cứu kịp thời.
Khi trong nhà có người bị tai biến mạch máu năo hay đột quỵ bất ngờ trong trường hợp khẩn cấp này những người xung quanh người bệnh thường lúng túng, bấn loạn không biết cách xử lư. Thậm chí có người bị chết oan do sự sơ xuất và không biết cáchxử lư của người thân.
Do đó cách cấp cứu người tai biến mạch máu năo và đột quỵ cần có kỹ thuật và đúng phương pháp.
Bài thơ dạy cách cấp cứu tai biến mạch máu năo và đột quỵ b́nh phục tức khắc
Dưới đây là bài thơ dậy cách cấp cứu người tai biến mạch máu năo và đột quỵ b́nh phục tức khắc trước khi bạn cần mang người bệnh đến bệnh viện để bác sĩ thăm khám và điều trị.
Mạch máu năo, đứt đi là nguy hiểm
Không chết liền, cũng tàn tật suốt đời
Vậy bà con, hăy cố gắng kịp thời
Đâu ngồi đó, đừng chuyển thân động đậy.
Đầu ngón tay, châm máu ra mười ngón
Bóp nặn ra, năm mười phút tỉnh liền
Nếu miệng c̣n méo mó, mắt xéo xiên
Liền tiếp vuốt, hai vành tai ửng đỏ.
Rồi kim chích, nặn máu ra dưới chót
Mười phút sau, miệng mắt trở b́nh thường
Vài giờ sau, mới đụng đến thân người
Th́ mạch máu không vỡ tung nguy hại.
Điều cấm kỵ, không cạo, xông, thoa bóp
Không chở đi cứu cấp chạy ḷng ṿng
Mạch máu đầu, càng bể vỡ ở bên trong
Càng nguy kịch, cho bệnh nhân khó cứu.
Mong bà con hăy lưu tâm chú ư
Đừng coi thường, bệnh tai biến bất ngờ
Phương pháp nầy, cứu nhiều kẻ hết ngay
Nên mách bảo cứu giúp người làm phước
florida80
12-23-2019, 21:51
Trung Tâm Đạo Trời Thái Bỉnh
Muốn biết Thất Phản Cữu Hoàn và Đại Thừa Cữu Chuyễn th́ vào tập và
T́m hiểu Pháp Thiền của Đời Tân Xuân Thu Minh Đức xin vào link:
Theo Luật Chuyển động của Trời Đất th́ Thời Hồng Dương Kỳ sấp chấm dứt,dể nhường lại cho Bạch Dương Kỳ cũng là Kỹ Nguyên DI-LẠC ra đời .V́ vậy Bánh xe Pháp Luân của Phật Thích Ca sấp ngừng chuyển cho nên kinh điển của Ngài cũng ngừng quây.Sẽ có Đạo Trời,Pháp Phật và Thánh Kinh Mới ra đời để phù hơp cho Đời Tân Xuân Thu sau nầy.
Đây là pháp Tập cho những Linh Căn được Trời Phật Chọn để vào nước Nam-Bang hoặc Hội Long Hoa sau nầy
Đây cũng là thời kỳ ân xá của Trời Phật nên Đức DI-Lạc ban xuống thế gian bí pháp để luyện tập hầu chịu đựng nổi Thời Khí,và sự thay đổi của Trời Đất
Ai có Tai nghe th́ Nghe
Có mắt Thấy th́ Thấy
Trời Phật Chúa Không Bỏ Ai
Tại Ai kia bỏ Trời Phật Chúa mà Thôi
Trời Phật Chúa cho nhiều phương tiện để nương theo mà về
Trời Phật Chúa chỉ có 1
Phương tiện th́ nhiều,
các bạn nên chọn phương tiện nào nhanh nhất để về
Nếu không sẽ trể v́ ngày thay đổi gần kề.
http://daotroithaibinhcente r.com
Vào link dưới đây để tập Như-Ư pháp môn bộ I
http://www.facebook.com/media/set/?s...1&l=d68dad252a
Như ư pháp vương II (Đây là bộ thứ II bước vào Tâm Pháp )
vào link để tập thiền định Pháp Vương Như ư II
http://www.facebook.com/media/set/?s...1&l=d60380cfd1
onlyboy2k@gmail.com
florida80
12-23-2019, 21:52
Vài Nét Về Đức Huỳnh Giáo Chủ
" Huệ Lựu bút kư tả rồi,
Đặng cho thiên hạ dấu soi để đời. "
Người sáng lập Đạo Phật Giáo Ḥa Hảo là Đức Thầy tục danh Huỳnh Phú Sổ. Sanh ngày 25 tháng 11 năm Kỷ Mùi (15-1-1920) tại làng Ḥa Hảo,tỉnh Châu Đốc, một tỉnh xa xôi giáp biên thùy Việt Miên Nam Việt.
Ngài là trưởng nam của Đức Ông Huỳnh Công Bộ và Đức Bà Lê Thị Nhậm ; một gia đ́nh trung lưu, nhiều phúc hậu và nhiều uy tín với nhân dân địa phương.
Thuở nhỏ, vừa học đến hết bậc tiểu học th́ đau ốm liên miên, nên Ngài phải rời nhà trường về dưỡng bịnh. Từ 15 đến 18 tuổi, Ngài không lúc nào dứt được cơn đau và không một lương y nào trị được.
Năm 1939, sau khi hướng dẫn thân phụ đi viếng các am động miền Thất sơn và Tà lơn – những núi non được nổi tiếng linh thiêng hùng vĩ – Ngài tỏ ra đại ngộ. Ngày 18 5 Kỷ Măo, (1939) Ngài chính thức mở Đạo. Bắt đầu là công việc chữa bịnh. Ngài chữa lành được các chứng hiểm nghèo với phương pháp thật giản đơn là chỉ dùng lá cây, nước lă, giấy vàng, khiến cho các Bác sĩ Tây y, các dược sư Đông y lẫn các danh gia phù thủy đều phải kinh dị.
Song song với việc chữa bịnh, Ngài thuyết pháp thao thao bất tuyệt. Nhiều thi sĩ văn gia hoặc luật gia nghe tiếng, đến chất vấn, đều phải nhận Ngài là một bậc siêu phàm.
Cũng từ năm 1939, Ngài sáng tác thật nhiều kệ giảng, nội dung tiên tri chiến cuộc sẽ tràn lan, nhân loại sẽ điêu linh và kêu gọi mọi người nên bỏ dữ về lành, thực hành tứ ân, trau dồi thiền tịnh để trở thành thiện nhân trong xă hội và tiến đến sự nhập diệu cơi đạo.
Nh́n qua công đức giảng dân cứu chúng, người ta thấy Ngài chữa được hằng vạn chứng hiểm nghèo, thuyết pháp hằng ngàn lần trước đại đa thính chúng và sáng tác sáu quyển Kệ Giảng cùng với hằng trăm bài thi ca, văn có giá trị siêu việt.
Văn chương của Ngài cực kỳ b́nh dân nhưng rất hàm súc hấp dẫn. Ngài viết không cần giấy nháp.
Giáo Pháp của Đức Giáo Chủ tuy cao siêu nhưng không kém phần thực tế, có thể áp dụng cho bất cứ nơi nào trên thế gian. Ngài là một nhà đại cách mạng tôn giáo. V́ trước khi Ngài ra đời, Đao Phật Việt Nam bị đ́nh đốn sai lạc, và Đạo Phật Thế giới chưa nói tới việc canh tân. Ngài đă cắt bỏ tất cả những nghi lễ phiền toái mà nguyên căn không phải của Đức Thích Ca chủ trương, đồng thời c̣n canh tân nhiều điểm trong phương pháp thực hành đạo Phật mà trước kia không hề có.
Nhờ Giáo Pháp thích thời đó nên chỉ trong một thời gian ngắn, Ngài thu phục được hai triệu tín đồ tại miền Nam Việt Nam và ảnh hưởng mỗi lúc càng lan rộng thêm ra.
V́ Ngài được thiên hạ quá hoan nghinh nên nhà đương cuộc bắt đầu để ư đến sự bành trướng lạ thường của phong trào tôn giáo Phật Giáo Ḥa Hảo, nên một biện pháp chánh trị đă được đem ra thi hành và Ngài phải bị lưu trú tại làng Nhơn Nghĩa (Cần thơ).
Ở đây, Ngài lại được người ta tôn sùng hơn trước nữa, làm cho nhà cầm quyền phải đem Ngài an trí tại nhà thương Chợ quán. Sau đó, Ngài lại bị dời về Bạc Liêu đến năm 1942.
Khi người Nhựt nhúng tay vào thời cuộc Đông dương trong hồi thế giới chiến tranh kỳ nh́, họ cưởng bách đem Ngài về Saig̣n th́ Ngài buộc ḷng tá túc tại Hiến binh Nhựt để chờ đợi thời cơ thuận tiện ra gánh vác việc nước nhà. Khi đó Ngài có làm câu đối để diễn tả hoàn cảnh của ḿnh :
Trương Tiên qui Hớn phi thần Hớn
Quan Đế cư Tào bất đê Tào
Sở dĩ người Nhựt muốn thi ân với Ngài là v́ họ muốn gây cảm t́nh với khối tín đồ khổng lồ của Ngài để sau nầy có thể lợi dụng. Nhưng đă là một người sáng suốt th́ Ngài đâu có để cho bọn Nhựt lôi cuốn trong việc chuẩn bị của họ chống Đồng minh.
Sau cuộc đảo chánh mùng 9 tháng 3 dương lịch 1945,Ngài giữ một thái độ hết sức dè dặt v́ Ngài biết chắc chắn rằng người Nhựt thế nào cũng thất trận. Lúc đó,Ngài nói một lời tiên tri rất b́nh dị " Nhật bổn ăn không hết con gà ". Mà thiệt vậy ! V́ năm Dậu (con gà) mà cũng là năm 1945 chưa hết, th́ số phận nước Nhựt đă được định đoạt.
Năm 1945, " V́ ḷng từ ái chứa chan, thương bá tánh đến hồi tai họa ", nên Ngài đứng ra bảo vệ quốc gia và cứu nguy dân chúng. Ngài từng thành lập Phật Giáo Liên Hiệp Hội để đoàn kết đạo Phật, và Việt Nam Độc Lập Vận Động Hội để vận động cuộc độc lập nước nhà.
Sau khi Nhựt Hoàng đầu hàng Đồng minh không điều kiện, nước Việt Nam phải sống một thời kỳ bất ổn, Đồng bào Việt Nam đương lo sợ cảnh dịch chủ tái nô, Đức Huỳnh giáo Chủ liền hiệp với các lănh tụ đảng phái và tôn giáo để thành lập Mặt trận Quốc gia Thống Nhứt hầu lên tiếng với ngoại bang. Mặt trận này lại xáp nhập vào mặt trận Việt minh mà chính Đức Huỳnh Giáo Chủ là vị đại diện đầu tiên ở Nam Việt.
Sau sự thất sách của Hồ chí Minh với Hiệp ước mùng 6 tháng ba năm 1946, tạo cơ hội thuận tiện cho thực dân trở lại, Đức Huỳnh Giáo Chủ liên kết với các lănh tụ quốc gia để thành lập Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp.
Mặt trận nầy được quần chúng nhiệt liệt hoan nghinh nên lại bị Việt minh giở ngón độc tài giải tán. Họ liền thành lập Liên Hiệp quốc dân Việt Nam Hội để che đậy màu sắc đỏ của đệ tam quốc tế và để làm cho quần chúng quên cái dĩ văng đẫm máu của các tướng Cộng sản hồi cuối năm 1945.
Năm 1946, v́ muốn gây cuộc đoàn kết giữa các tầng lớp đồng bào, Ngài ưng thuận tham gia ủy ban hành chánh với trách vụ Uûy viên đặc biệt.
Ngài liên kết các chiến sĩ quốc gia với khối tín đồ Phật Giáo Ḥa Hảo để thành lập Việt Nam Dân Chủ Xă Hội Đảng (21- 9 -46), với chủ trương công bằng xă hội và dân chủ hóa nước Việt Nam. Ngài chẳng những là một nhà cách mạng tôn giáo anh minh mà c̣n là một nhà lănh tụ chánh trị đa tài. Đọc Tuyên ngôn, Chương tŕnh của Đảng Dân Xă do Ngài đưa ra, dù cho đối phương hay những người khó tánh, đều phải công nhận Ngài có một bộ óc cải tiến vượt bực và nhận định sáng suốt phi thường.
Đồng thời, Ngài cũng gởi người ra hải ngoại, đoàn kết với các nhà cách mạng quốc gia lưu vong để thành Mặt Trận Thống Nhứt Toàn quốc. Giải pháp quốc gia cũng do công tŕnh của Ngài và các nhà cách mạng xuất dương mà thực hiện đến ngày nay.
Bởi đường lối của Ngài trái ngược với chủ trương Cộng sản và bởi Giáo thuyết của Ngài có thể gây đổ vỡ cho chủ nghĩa vô thần, Cộng sản đă t́m mọi cách làm hại Ngài, nhưng họ đều không làm ǵ Ngài được.
Đầu năm 1947, các tín đồ Phật giáo Ḥa Hảo ở miền Tây chống lại chủ trương độc đoán của các Ủy ban Việt minh v́ họ áp dụng chính sách độc tài trong sự tổ chức và cai trị quần chúng. Muốn tránh cuộc cốt nhục tương tàn, Đức Huỳnh Giáo Chủ về miền Tây Nam Việt với hảo ư trấn tĩnh ḷng phẫn nộ của tín đồ P. G. H. H. và để giảng ḥa hầu đoàn kết chống thực dân cho hiệu lực. Nhưng ngày 16 4 47, Uûy ban Hành chánh Việt minh âm mưu bắt Ngài tại Đốc Vàng (vùng Đồng Tháp).
Từ đó không ai rơ tin tức chi về Đức Huỳnh Giáo Chủ, nhưng toàn thể tín đồ của Ngài không ai tin rằng Việt cộng có thể làm hại Ngài được. Và muôn người như một, đang mong đợi một ngày về trong sứ mạng vinh quang nhất của Ngài.
Quyển sách Cách Tu Hiền sau đây là một trong nhiều tác phẩm của Ngài, đă được tái bản trên 300 lần với ấn lượng trên 800.000 quyển bằng tiếng Việt Nam. Nó ngắn gọn nhưng đủ, rơ những điều cần thiết trong nghi thức tu hành theo đạo Phật Giáo Ḥa Hảo.
Thánh địa Ḥa Hảo, ngày 1 1 1966.
Ban Phổ Thông Giáo Lư Trung Ương Giáo Hội P. G. H. H.
(nhiệm kỳ I, 1964 – 1966)
Kính đề
Photo: Cây chuối kiểng khổng lồ tại chùa Thầy tức An Ḥa Tự tại Thánh Địa trổ hoa ngày Đại Lễ Kỷ Niệm Năm thứ 65 Ngày Đức Huỳnh Giáo Chủ Khai Sáng Phật Giáo Ḥa Hảo (July 5th-2004)
florida80
12-23-2019, 21:53
T́m hiểu về: Vai tṛ của Phụ nữ trong Hồi giáo (Islam)
T́m hiểu về: Vai tṛ của Phụ nữ trong Hồi giáo (Islam)
Cũng như nhiều tôn giáo nói chung, đối với người phụ nữ ở chừng mực nhất định nào đó đều được coi là một thực thể không hoàn chỉnh. Nhưng nội dung Thiên kinh Qur’an và những lời thuyết đạo của Thiên sứ Muhammad cho thấy người phụ nữ Muslim có giá trị sống như nam giới và b́nh đẳng với người đàn ông. Tuy nhiên, những người ngoài Muslim nh́n nhận c̣n phiến diện, được hiểu rằng trong xă hội Hồi giáo thân phận người phụ nữ thấp kém hơn đàn ông?
Không phải chỉ có riêng trong gia đ́nh và xă hội Hồi giáo, mà lịch sử xă hội con người nói chung, tự nó đă phân rơ sự khác nhau về chức năng của người phụ nữ với người đàn ông; tính “b́nh đẳng” và sự “đồng dạng” là hai mặt khác nhau. Để hiểu đúng thân trạng người phụ nữ trong xă hội Hồi giáo, chúng ta thử t́m hiểu những điều do Allah ban phát, đă được ghi nhận trong chương IV Thiên kinh Qur’an – điều nói về phụ nữ, rằng:
“… Người đàn ông là trụ cột (của gia đ́nh) trên người đàn bà bởi v́ Allah ban cho người này sức lực hơn, bởi v́ họ chỉ dùng tài sản của họ vào việc cấp dưỡng gia đ́nh. Do đó, người đàn bà đức hạnh nên phục tùng chồng và trông coi (nhà cửa) trong lúc chồng vắng mặt và đối với các bà vợ mà các ngươi sợ họ thất tiết và bướng bỉnh (trước hết) hăy cảnh cáo họ, (kế đó) từ chối ăn nằm với họ, và (cuối cùng) đánh họ (nhẹ tay), bởi thế họ chịu nghe th́ các ngươi chớ kiếm chuyện (rày rà) với họ;
“… Việc con cái của các ngươi hưởng gia tài (như sau). Phần của con trai bằng hai phần con gái. Nhưng nếu chỉ con gái và số con gái nhiều hơn hai, th́ phần của tất cả các con gái là hai phần ba (2/3) của gia tài để lại; và nếu chỉ có một đứa con gái th́ phần của nữ là một nửa (1/2) gia tài để lại. Nếu người chết có con, th́ cả cha lẫn mẹ mỗi người được hưởng một phần sáu (1/6 của gia tài để lại). Nhưng nếu (người chết) không có con và chỉ có cha mẹ là người thừa kế, th́ người mẹ được hưởng một phần ba (1/3) của gia tài để lại. Nếu người chết có đông anh, chị em th́ người mẹ được hưởng một phần sáu (1/6);
“… Nếu các ngươi muốn lấy vợ sau thay cho người vợ trước và các người đă cho mỗi bà đống vàng (Qintar) làm quà cưới, th́ các ngươi không được phép lấy lại một tí nào cả”. Và, “Các ngươi không được phép cưỡng bức vợ để thừa hưởng gia tài của họ, cũng không được nhốt (hành hạ) họ để lấy lại một phần nào tiền cưới (Mahr) mà các ngươi đă tặng cho họ, ngoại trừ trường hợp họ công khai phạm tội thông gian. Ngược lại, hăy sống chung với họ một cách tử tế;
“… Và nếu hai người (đàn ông và đàn bà) trong các người phạm tội thông gian, th́ hăy phạt cả hai thật nặng”. Thực tiễn trong xă hội Hồi giáo cho thấy, người đàn ông có trách nhiệm nuôi nấng, xây dựng gia đ́nh không chỉ ở góc cạnh đạo đức mà nó là những điều ràng buộc bởi giáo luật. Người đàn ông là người duy nhất lo toan đời sống cho vợ và cho gia đ́nh. Đồng thời, c̣n có bổn phận đóng góp tài chánh cho mọi hoạt động từ thiện – xă hội. Đổi lại, người phụ nữ không gánh vác bất cứ một trách nhiệm tài chính nào, ngoài việc tiêu xài cho riêng bản thân ḿnh. Nói như vậy có nghĩa là, người phụ nữ luôn nhận được sự cung phụng: nếu người phụ nữ ấy là mẹ th́ các con là người cung phụng; nếu người phụ nữ ấy là vợ th́ sẽ được người chồng cung phụng hoặc nếu là con gái th́ được người cha chu cấp… Mặt khác, người phụ nữ Muslim được hưởng dụng một số đặc quyền mà ở đàn ông không có, như: miễn dâng lễ nguyện, hoăn nhịn chay trong thời gian kinh ḱ và sanh đẻ; miễn dâng lễ nguyện tập thể và Thánh lễ trưa ngày thứ 6 và hăy làm chu đáo trách nhiệm lo toan công việc nội trợ, chăm sóc chồng con và giữ ǵn mối liên hệ vật chất vững chắc trong gia đ́nh. Và, đó là qui lệ mà người vợ phải biết vâng lời chồng. Về hôn nhân, một người phụ nữ goá phụ hoặc đă li dị, có thể cưới bất ḱ người đàn ông nào họ thấy thích hợp. Một phần không thể không có khi cưới vợ là người rể phải có một khoảng tiền (quà cưới) cho cô dâu; khác với nhiều dân tộc và tôn giáo, “tiền cưới của người Muslim là tài sản thuộc sở hữu riêng của cô dâu (vợ)”…
Đối với Hồi giáo, vai tṛ của người phụ nữ là một cái ǵ đó mang tính duy nhất, những ǵ sáng tạo, những ǵ thiêng liêng và không giống được trong mọi hệ thống khác nó. Những ǵ giáo luật Hồi giáo qui định cho người phụ nữ Muslim nó hoàn toàn phù hợp với bản chất của họ, không phải như những người ngoài Muslim ngộ nhận. Hồi giáo vẫn nh́n nhận phụ nữ là một thực thể b́nh đẳng xă hội, v́ nếu người đàn ông là cha, th́ người phụ nữ là mẹ, nhưng thiên chức làm mẹ là rất cao cả và rất thiêng liêng! Ngược lại, người Muslim không quan niệm phụ nữ là sản phẩm của tội lỗi hoặc mầm mống của tội lỗi xă hội.
Thực tiễn cho thấy, người phụ nữ Muslim b́nh đẳng với nam giới ở nhiều lĩnh vực, ngang hàng với đàn ông trong việc gánh vác trọng trách cá nhân và xă hội. Ngày nay, dưới xă hội hiện đại, nhiều phụ nữ Muslim đứng ra gánh vác trọng trách (người đứng đầu Chính phủ) của một số quốc gia như: Thổ Nhĩ Ḱ, Pakistan, Bangladesh và Indonesia. Ở thập niên đầu của thế kỉ XXI, một sự kiện quan trọng cho thấy vai tṛ của người phụ nữ Muslim trong xă hội ngang bằng với đàn ông, đó là: Ngày 29 tháng 6 năm 2006, tại Kuwait đă diễn ra một cuộc bầu cử Quốc hội lịch sử, trong tổng số 149 ứng viên tham gia tranh cử vào 50 ghế Quốc hội nước này, có đến 28 người là phụ nữ.
Đi ngược lại lịch sử Hồi giáo, người phụ nữ Muslim buổi đầu cũng đă tháp tùng với các chiến binh trong những cuộc giao chiến. Quan điểm của bà Hindi (vợ của Abu Sufyan, sau này trở thành một tướng quân trong những người lănh đạo Hồi giáo), đề nghị với giới lănh đạo Makkah và được giới lănh đạo Makkah đồng ư, tổ chức một đội quân phụ nữ, cùng đoàn chiến binh của Makkah giao chiến với người Muslim ở trận Uhud hoặc ở bộ lạc Hawazin, khi biết tin đại quân Hồi giáo đem quân tấn công bộ lạc, trong khi chiêu mộ binh lực để chống trả quân Hồi giáo, Malik một tướng trẻ của Banu Hawazin cũng tuyển mộ một đội quân nữ cùng nghinh chiến (trong đội quân nữ đó có bà Shayma là chị nuôi của Thiên sứ Muhammad, lúc ông ở bộ tộc Sa’d ibn Bakr), là một minh chứng… Họ hoàn toàn không bị giam cầm sau song cửa hoặc bị coi là những sanh linh không có tâm hồn.
Theo đó, quyền tự do ngôn luận của phụ nữ trong Hồi giáo cũng được tôn trọng và bảo vệ như nam giới. Ư kiến của phụ nữ luôn được tôn trọng, được xem xét và càng không thể bị gạt bỏ v́ lí do phụ nữ. Mặt nữa, người phụ nữ Hồi giáo rất trân trọng và luôn ǵn giữ truyền thống của tấm mạng che mặt, nó không chỉ làm tăng thêm cái duyên dáng và cái đẹp của người phụ nữ, mà hơn thế nữa là bản năng tự kiềm chế những hành vi, không bộc lộ những cử chỉ duyên dáng và hấp dẫn của thân xác làm kích thích sự đam mê của bất ḱ người đàn ông nào ngoài ông chồng. Tấm mạng che mặt c̣n là điều kiện có thể làm cho người phụ nữ Hồi giáo tránh được những giây phút xao ḷng, vượt lên những cám dỗ và sự đam mê nhằm ǵn giữ tính vẹn toàn của người phụ nữ, bảo toàn cái trong sáng, sự trinh trắng về đức hạnh và phẩm giá cuộc sống trong xă hội.
Nói về vị trí người phụ nữ trong xă hội Hồi giáo, B. Aisha Lemu viết: “Phụ nữ trong Islam, ngang bằng với đàn ông về đạo đức và trí tuệ, được khuyến khích hành đạo và phát triển các mặt kiến thức trong cả cuộc đời. Trong quan hệ nam giới cả hai phái phải khiêm tốn trong xử sự, ăn mặc và với đạo đức nghiêm túc, tức là không khuyến khích việc trai gái gặp nhau tùy tiện; quan hệ của cô với chồng dựa trên t́nh yêu thương từ hai phía. Người chồng có trách nhiệm bảo vệ vợ và con cái, và vợ tôn trọng chồng như người chủ trong gia đ́nh. Cô ấy có trách nhiệm chăm sóc gia đ́nh và giáo dục con cái khi chúng c̣n nhỏ. Cô ấy có thể sỡ hữu tài sản riêng, làm kinh doanh và có quyền thừa kế” (“Woman in Islam” nguyên bản tiếng Anh của B.Aisha Lemu và Fatima Heren, trang 14).
Xuất phát từ các bảo đảm do Allah ban chođă được ghi nhận trong chương IV của Thiên kinh Qur’an cùng với một số những dữ kiện lịch sử nói trên đây, đă cho thấy thân phận người phụ nữ trong xă hội Hồi giáo không bao giờ thấp kém hơn người đàn ông.
Tóm lại, với một người Muslim là phụ nữ, Allah không đặt nặng trách nhiệm như đàn ông, bởi người đàn ông là người duy nhất gánh vác trách nhiệm chu cấp, lo toan bảo đảm cuộc sống không chỉ cho người vợ và cho cả gia đ́nh mà c̣n có bổn phận đóng góp tài chính cho hoạt động xă hội. Ngược lại, người phụ nữ chỉ làm phận sự chăm sóc chồng con, nhắc nhở con cháu chuyện học hành, đến thánh đường dâng lễ nguyện. Không bắt buộc đến thánh đường lễ nguyện tập thể và lễ nguyện mỗi ngày thứ sáu; không gánh vác, lo toan tài chính cho gia đ́nh… Mặt nữa, phụ nữ Muslim được nh́n nhận là một sanh linh, có quyền sống và b́nh đẳng trong sự sống của con người; họ được quyền thừa kế gia sản của cha mẹ để lại mà xă hội trước kỉ nguyên Hồi giáo, người phụ nữ các dân tộc Ả Rập không có quyền này bởi chính họ chỉ được xem là một thứ tài sản của đàn ông. Như đă biết, kinh Qur’An ghi nhận những điều này không chỉ là một dạng thức qui định mà giáo luật Hồi giáo có tất cả các biện pháp để bảo đảm thực thi như là những điều khoản của đức tin vào Allah (Thượng đế). Và, Hồi giáo (Islam) không bao giờ dung nạp những con người có thái độ thành kiến với phụ nữ; luôn lên án thái độ coi thường và coi phụ nữ thấp kém hơn đàn ông./.
Trần Tiến Thành
florida80
12-23-2019, 21:58
15 ngộ nhận sai lầm về người Hồi giáo có thể bạn đă từng mắc phải
Các thành viên IS đều là người Hồi giáo? Người Hồi giáo thường cực đoan, những kẻ ném bom toàn là người Hồi giáo? Khi nói đến những người theo đạo Hồi, có rất nhiều suy nghĩ phổ biến đă bị chứng minh là hoàn toàn sai lầm.
1. Người Hồi giáo sống ở Trung Đông
Phần lớn người Hồi giáo (khoảng 1 tỉ người) sống ở châu Á, nhiều nhất là ở Nam Á và Đông Nam Á. Hơn 300 triệu người Hồi giáo sống ở hạ Sahara, châu Phi. Bốn quốc gia đông người Hồi giáo nhất là Indonesia, Pakistan, Ấn Độ, và Bangladesh, mỗi nước có hơn 100 triệu tín đồ của tôn giáo này. Trung Đông là một thuật ngữ mơ hồ và thường tiêu cực, không phản ánh chính xác được nơi người Hồi giáo sinh sống. Phần lớn người sống ở Bắc Phi, bán đảo Ả Rập, và Tây Nam Á là tín đồ đạo Hồi, nhưng họ chỉ chiếm khoảng 20 % tổng số người Hồi giáo.
2. Tín đồ Hồi giáo là người Ả Rập
Một người Ả Rập là một người nói tiếng Ả Rập như là ngôn ngữ bản xứ của ḿnh, và chỉ 20 % tín đồ Hồi giáo là người Ả Rập. Hàng triệu người Ả Rập là tín đồ Cơ Đốc giáo. Có khoảng 300 triệu người nói tiếng Ả rập trên thế giới ngày nay. Tiếng Ả Rập là ngôn ngữ chính của 23 quốc gia. Người Thổ Nhĩ Kỳ, người Iran, người Indonesia, người Pakistan và những tín đồ Hồi giáo khác có thể cảm thấy khó chịu nếu bạn nghĩ họ là dân Ả Rập.3. Người Hồi giáo không tin Chúa Jesus và không thích Ngài
Người Hồi giáo vô cùng kính trọng Chúa Jesus với tư cách nhà tiên tri của Chúa Trời và rất coi trọng các bài giảng của Ngài. Họ thường đặt tên con trai của ḿnh theo tên Chúa Jesus, mà bên họ gọi là Isa, mặc dù họ không chấp nhận Ngài là con Đức Chúa Trời hay Ngài chết trên cây thập tự v́ tội lỗi của nhân loại. Tuy nhiên, Kinh Coran nhắc đến Chúa Jesus 93 lần, dạy rằng Ngài đă thực hiện các phép màu, Ngài được sinh ra bởi một trinh nữ, và Ngài sẽ trở lại với tư cách đấng cứu độ.
4. Người Hồi giáo thờ phụng mặt trăng và thần mặt trăng ?
Có một số nhóm Cơ Đốc giáo dạy rằng thánh Allah được tôn sùng là thần mặt trăng. Những người khác nhầm từ Allah trong tiếng Ả Rập mang nghĩa “thần mặt trăng” v́ đạo Hồi sử dụng biểu tượng trăng lưỡi liềm. Đây là một kết luận rất khiếm nhă với người Hồi giáo. Allah là một từ trong tiếng Ả Rập nghĩa là Thiên Chúa, rất giống với từ El trong tiếng Hebrew và từ Elah trong tiếng Aram. Tín ngưỡng cơ bản nhất trong đạo Hồi là thờ phụng một Thiên Chúa đích thực. Ngoài ra, những người Cơ Đốc giáo nói tiếng Ả Rập và người Do Thái cũng sử dụng từ Allah để chỉ Thiên Chúa, tất cả các bản dịch của Kinh thánh trong tiếng Ả Rập cũng vậy. Không c̣n từ nào khác trong tiếng Ả Rập mang nghĩa Thiên Chúa. Việc dùng trăng lưỡi liềm như một biểu tượng của đạo Hồi đến từ phong tục theo âm lịch của người Hồi giáo.
5. Người Hồi giáo ủng hộ bạo lực và khủng bố ?
Phần lớn tín đồ Hồi giáo đều là người ngoan đạo, ôn ḥa, họ phải chịu đựng bạo lực và khủng bố nhiều hơn những người ngoại đạo. 93 % người Hồi giáo không ủng hộ những quan điểm khủng bố cực đoan.
6. Các thành viên IS là người Hồi giáo ?
Dù không ít thành viên thuộc lực lượng Nhà nước Hồi giáo tự xưng IS xuất thân từ người Hồi giáo, nhưng nạn nhân số một của nhóm khủng bố này lại chính là tín đồ Hồi giáo. Các thành viên IS rơ ràng đă phớt lờ Kinh Coran. IS và những nhóm cực đoan khác mang những trích đoạn của Kinh Coran ra khỏi ngữ cảnh vốn có và nhân danh chúng để giết người vô tội. Những kẻ lănh đạo đă thay đổi một chút và/hoặc giải thích sai một cách có chủ đích lời dạy trong Kinh Coran và truyền thông tin này tới các thành viên IS mới và c̣n trẻ tuổi.
7. Tất cả người Hồi giáo đều giống nhau và họ thuộc một trong hai ḍng Sunni hoặc Shia ?
Giống như Cơ Đốc giáo, đạo Hồi cũng có nhiều ḍng. Hai ḍng chính là Sunni và Shia, nhưng c̣n có hàng ngàn ḍng nhỏ, mỗi ḍng có học thuyết khác biệt và hệ tư tưởng riêng.
8. Đạo Hồi áp bức phụ nữ ?
Phần lớn những cuộc áp bức phụ nữ được đưa ra công khai thường do phong tục và truyền thống địa phương. Phụ nữ Hồi giáo có người đă làm tổng thống và thủ tướng. T́nh trạng bạo lực với phụ nữ và cưỡng ép họ không được phép trong đạo Hồi. Sự quan tâm dành cho các góa phụ, trẻ em mồ côi, và người nghèo là một trong những bài giảng quan trọng nhất của Hồi giáo. Không may, vẫn c̣n nhiều phụ nữ bị áp bức. Tuy nhiên, đây là một vấn đề toàn cầu và không chỉ phụ nữ theo đạo Hồi mới bị áp bức. Tỷ lệ lạm dụng phụ nữ ở người Hồi giáo không hề cao hơn so với ở người ngoại đạo.
9. Người Hồi giáo ngu dốt và không coi trọng giáo dục ?
Người Hồi giáo rất coi trọng giáo dục. Nhiều tín đồ đạo đạo Hồi có tŕnh độ tri thức cao với bằng cử nhân và thạc sỹ. Nhiều người nói được nhiều ngôn ngữ. Cho đến thời đại công nghiệp, các trường đại học Hồi giáo đă đứng đầu thế giới về toán học, y học, khoa học, luật, kiến trúc, và nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác. Phương pháp khoa học của thế giới có nền tảng dựa trên tiến bộ khoa học của người Hồi giáo. Những người theo đạo Hồi coi Kinh Coran như niềm khích lệ để t́m kiếm kiến thức về thế giới xung quanh họ. Nhiều người Hồi giáo học ở các trường đại học nổi tiếng thế giới, tuy nhiên, ngày nay, phần lớn người theo đạo Hồi đều nghèo túng và thiếu cơ hội giáo dục.
10. Người Hồi giáo ít coi trọng phụ nữ, cuộc sống gia đ́nh và trẻ em ?
Cộng đồng người Hồi giáo trên khắp thế giới rất coi trọng cuộc sống gia đ́nh. Các thế hệ của một gia đ́nh sống cùng nhau, thường trong cùng ngôi nhà. Những thành viên lớn tuổi được chăm sóc chu đáo; điều này được xem là một vinh dự, không phải gánh nặng. Việc đưa họ vào viện dưỡng lăo sẽ là nỗi xấu hổ của con cháu. Trẻ em được quan tâm trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống và thường là trung tâm của những buổi sum họp gia đ́nh.
florida80
12-23-2019, 21:58
11. Người Hồi giáo ít coi trọng văn hóa và nghệ thuật
Khi châu Âu vẫn c̣n ở trong thời kỳ Đen tối, các xă hội Hồi giáo đă đạt được những tiến bộ trong y học, toán học, vật lư, thiên văn học, địa lư, kiến trúc, nghệ thuật và văn học. Trên thực tế, thời kỳ Phục hưng đă diễn ra như một kết quả của cả kiến thức cổ đại lẫn kiến thức mới lấy từ các đại học Hồi giáo.
12 Người Hồi giáo thờ phụng Mohamed ?
Người Hồi giáo tin rằng Muhammad là nhà tiên tri cuối cùng mà Thiên Chúa gửi xuống để dẫn dắt nhân loại. Muhammad được xem là minh chứng vĩ đại nhất của một người Hồi giáo ngoan đạo. Ông được mọi người vô cùng kính mến, nhưng không được thờ phụng. Việc thờ phụng chỉ dành cho Thiên Chúa, và những người theo đạo Hồi bị nghiêm cấm thờ phụng bất cứ ai hoặc bất cứ vật ǵ khác. Người Hồi giáo có thể kỷ niệm ngày sinh của Muhammad theo cùng cách người Mỹ kỷ niệm Ngày Martin Luther King hay Ngày Columbus.
13. Người Hồi giáo nói dối rằng đạo Hồi là một tôn giáo ḥa b́nh ?
Phần lớn người Hồi giáo đều ôn ḥa, ngoan đạo, không thích bạo lực và luôn cố gắng kính trọng Thiên Chúa trong cuộc sống. Những học giả Hồi giáo nghiên cứu Kinh Coran giải thích đạo Hồi là một tôn giáo ḥa b́nh, và phần lớn người Hồi giáo cũng tin vậy, họ đều muốn để người khác sống theo ước muốn. Truyền thông đă đưa tin giật gân về một số lượng nhỏ những nhóm cực đoan ưa bạo lực làm mọi người thật sự hiểu nhầm Hồi giáo là một cộng đồng muốn thống trị toàn cầu bằng vũ lực.
14. Chúng ta chưa bao giờ nghe thấy tin người Hồi giáo chống khủng bố ?
Lời nói dối này được lặp lại thường xuyên trên truyền thông. Các nhóm Hồi giáo lớn và những học giả Hồi giáo liên tục lên án quan điểm cực đoan của những người theo đạo Hồi ưa bạo lực, đồng thời bác bỏ triệt để và kêu gọi chống khủng bố. Hăy tra từ khóa “Muslims against terrorism” (người Hồi giáo chống khủng bố) trên Google và bạn sẽ thấy bằng chứng.
15. Hồi giáo đang phát triển nhanh hơn bất cứ tôn giáo nào khác ?
Hồi giáo đang phát triển nhanh hơn bất cứ tôn giáo nào khác.
Theo Ohay
florida80
12-23-2019, 22:00
Giám đốc FBI: Donald Trump đă “lầm to” về người Hồi giáo ở Mỹ
Các quan chức tư pháp Mỹ cho biết, những người Hồi giáo ở Mỹ thường xuyên báo cáo với giới chức về những người đồng hương Hồi giáo mà họ lo ngại sẽ trở thành đối tượng cực đoan. Điều này trái ngược với nhận xét của ông Trump hồi đầu tuần.
Trong cuộc trả lời phỏng vấn kênh CNN sau vụ xả súng tại hộp đêm ở Orlando làm 49 người thiệt mạng, ứng viên đảng Cộng ḥa Donald Trump cho rằng: “V́ một vài lư do nào đó, cộng đồng người Hồi giáo đă không báo cáo lại những trường hợp như vậy”....xin vào link dưới đây để xem thêm
http://infonet.vn/infonet-post201410.info
florida80
12-23-2019, 22:00
Do Thái giáo cực đoan.
Bị ép buộc kết hôn ở tuổi 17, ngày nay bà ESTI Weinstein đả có đủ can đảm để quay lưng lại với các giáo phái bảo thủ cực đoan Do thái giáo. Nhưng với giá quá đắc.
Câu chuyện của bà ESTI Weinstein đả gây tiếng vang và làm chấn động cả nước Do Thái, sau khi người ta phát hiện ra bà đả chết vì tự tử tại làng Ashdod, phía nam thành phố Tel Aviv (Do Thái).
Nguyên nhân ? Sau khi rời khỏi giáo phái bảo thủ cực đoan Do thái giáo Hasidic, mà theo luật của nhóm nầy thì bà đả mất hoàn toàn quyền thăm nuôi 7 đứa con của bà.Tuy nhiên trước khi qua đời bà đả để lại nhửng trang giấy kể lại cuộc sống của bà giửa lòng nhóm "Haredim" có nghỉa là "hảy kính sợ Thiên Chúa".
Sự kết liểu cuộc sống một cách đau buồn của một tín đồ thuộc phái bảo thủ cực đoan Do Thái giáo đả làm tái bùng nổ một cuộc tranh luận đả có từ ngày lập quốc giửa người Do Thái thế tục và các giáo sỉ DTG cực đoan.
Sau khi từ trần, bà ESTI Weinstein đả để lại một bản thảo của gần 200 trang có tựa đề "Tỏ bày" với nội dung kể lại sinh hoạt hàng ngày của bà trong nhóm "Haredim". Tám năm trước đây, khi bà quyết định quay lưng lại với các giáo phái "Haredim", hành động nầy đả khiến các thành viên trong gia đ́nh cắt đứt mọi quan hệ với bà, đây là một điều thực tế rất phổ biến ở hầu hết các tín đồ DTG chính thống cực đoan đối những thành viên trong nhóm muốn trở về với thế tục. Và nhửng bạn bè, thân quen củng lần lượt trở nên xa lạ và quay lưng lại với bà . Bà đả mang sự đau khổ, rẻ rún này suốt tám năm qua trước khi quyết định kết liểu đời bà. Bà viết: "Chính nơi đây tôi đă sinh ra nhửng đứa con gái của tôi và củng chính nơi đây tôi chết v́ chúng"
ảnh bà ESTI Weinstein
Thông qua một số trích đoạn sâu sắc đau lòng đă được công bố trên báo chí Do Thái, bà ESTI Weinstein cho biết bà đă kết hôn ở năm 17 tuổi với một người đàn ông mà bà chỉ gặp một lần duy nhất. Chồng của bà đă bắt buộc bà phải tuân phục các nguyên tắc của nhóm Hasidim: im lặng vâng lời, chăm sóc của gia đ́nh. Tệ hơn nữa, bà buộc phải sinh con tối thiểu mổi nâm một lần. Cuộc hôn nhân cưỡng ép cùng với những áp lực liên tục của các giáo sĩ Do Thái giáo cực đoan đả đẩy bà quay lưng lại với họ.
Khi hay tin bà qua đời, gia đình quyết định tổ chức một tang lễ theo các nghi thức của đạo Do Thái. Nhưng bà ESTI Weinstein đả trối lại muốn tang lễ của bà phải được cử hành khác đi. Do đó bạn bè theo quan điểm thế quyền của bà đả huy động đấu tranh đòi hỏi tang lể phải được thực hiện theo nguyện vọng của bà và cuối cùng họ đả giành chiến thắng . Tại Do Thái, đối với cộng đồng thế tục (laïc), bà ESTI Weinstein trở thành một biểu tượng, nữ anh hùng dân tộc, bằng chứng là hôm thứ Ba vừa qua trong đám tang của bà có đông đảo nhửng người từ xa đến tham dự.
GOOGLE lược dịch
florida80
12-23-2019, 22:42
TIN VUI CHO CẢ CON CHIÊN VÀ PHẬT TỬ
Đây là bức h́nh ở trong chánh điện (Jesus Shrine) của nhà thờ St Isaac's Cathedral ở St. Petersburg, NGA. Đây là một trong 1 nhà thờ lớn nhất của CHÍNH THỐNG GIÁO, và CHÍNH THỐNG GIÁO là một trong những GIÁO HỘI PHƯƠNG ĐÔNG xưa củ nhất của CHÚA JESUS, c̣n có trước cả giáo hội LA MĂ.
Nh́n bức h́nh này của CHÚA ta thấy có 2 dấu ấn của PHẬT GIÁO rơ rệt:
1) BÀN TAY PHẢI CHÚA BẮT ẤN CAM LỒ CỦA PHẬT.
2) CHÚA KHOÁC Y TRỆCH VAI HỮU GIỐNG CÁC CHƯ TĂNG CỦA PHẬT.
(Thử hỏi mấy ông GIÁO HOÀNG, mấy ông thầy tu DO THÁI GIÁO có bao giờ khoác y như thế này không?)
Đây là một bằng chứng hùng hồn cho thấy:
CHA CHÚA LÀ PHẬT!
Từ nay CON PHẬT, CON CHÚA là CÙNG GỈNG HỌ rồi đó nha
C̣n ai cho ḿnh thuộc gịng giống JEHOVAH của DO THÁI GIÁO
th́ hăy về DO THÁI mà chơi với PALESTINE đi hí!
Thân ái.
florida80
12-23-2019, 22:43
Niệm Phật không phải…:
1)Niệm Phật không phải để cầu xin Phật ban cho một điều ước nào đó.
2)Niệm Phật không phải để tăng thêm sức mạnh, thêm can đảm để đối phó với kẻ thù. Cho nên trong Phật Giáo trải qua hơn 2500 năm, không hề có chuyện một đ̣an quân lâm trận dương cao biểu tượng hay h́nh Đức Phật để hăng máu, can đảm xông lên chém giết kẻ thù.
3)Niệm Phật không phải là để van xin Phật ban cho môt giải pháp để giải quyết một t́nh thế khó khăn.
4)Niệm Phật không phải để xin Phật ban bố phép mầu, vặn cổ kẻ thù giúp chúng ta.
5)Niệm Phật không phải là quỵ lụy khóc than, trở nên hèn kém đối với Phật.
6)Niệm Phật không phải xin Phật chỉ lối, đưa đường cho chúng ta buôn may, bán đắt.
7)Niệm Phật không phải để dông dài kể lể, tâm sự chuyện kín, chuyện riêng tư với Phật.
8)Niệm Phật không giống như cầu nguyện, van vái Thần Linh.
9)Niệm Phật không phải để trở nên đời đời kiếp kiếp làm tôi đ̣i cho Phật.
10)Niệm Phật nhất thiết không phải để quên đời.
Niệm Phật để…:
1)Niệm Phật để tâm hồn thanh thản.
2)Niệm Phật để an trụ tâm. Đang nóng nảy, niệm Phật ḷng dịu hẳn xuống. Đang tức giận niệm Phật, lửa Sân từ từ hạ. Đang điên cuồng, niệm Phật tự nhiên bớt điên cuồng. Đang thù hận, niệm Phật hận thù hóa giải. Tham lam, niệm Phật bớt tham. Kẻ hung hăng, niệm Phật bớt hung hăng.
3)Niệm Phật để không cho niệm Ác nảy sinh. Nếu niệm Ác đă nảy sinh th́ không cho nó phát triển. Do đó Chư Tổ nói rằng “Niệm Phật quên niệm Ma”. Khi niệm Phật th́ tà ma, quỷ thần sẽ lánh xa.
4)Niệm Phật để giữ ǵn Thân-Khẩu-Ư.
5)Niệm Phật là phương thuật giữ ǵn Chánh Niệm.
6)Niệm Phật tới vô niệm chính là Thiền. Lúc đó sẽ không c̣n Chỗ Niệm (năng) và Người Niệm (sở), hành giả hiển lộ Phật tánh có sẵn trong con người ḿnh và đi vào trạng thái Định.
7)Niệm Phật để nuôi dưỡng ḷng Từ Bi.
8)Niệm Phật riết rồi trở thành Phật chứ không phải trở thành nô lệ hay tôi tớ cho Phật.
9)Niệm Phật cũng là phép điều ḥa hơi thở cho nhẹ nhàng. Đi, đứng, nằm ngồi đều có thể niệm Phật. Cho nên niệm Phật cũng là phép trị liệu, bảo vệ sức khỏe.
10)Niệm Phật để giải trừ bớt Ác Nghiệp gây tạo trong quá khứ.
11)Niệm Phật để lúc lâm chung chẳng c̣n lo sợ. Chẳng cần phải nhờ ai cứu rỗi.Một ḿnh thẳng tiến lên Thế Giới Cực Lạc của Phật A Di Đà.
12)Càng niệm Phật đầu óc càng trong trắng, ḷng dạ thảo ngay, tâm tính hiền từ.
13)Kẻ ác khẩu, nói năng hung dữ chuyên niệm Phật sẽ giải trừ được khẩu nghiệp. Niệm Phật khiến ta không vấp ngă trong lời nói. Một lời nói lầm lỡ có thể tiêu tan sự nghiệp.
14)Niệm Phật khiến lời nói dịu dàng, khiếm tốn do đó không gây thù chuốc oán, không bị “vạ miệng”.
15)Mặt mày hung dữ, niệm Phật trở nên hiền từ, dễ coi. Niệm Phật để chuyển nghiệp.
16)Niệm Phật khiến đi đứng dịu dàng, cử chỉ khoan thai.
17)Niệm Phật có thể ngăn chặn được cám dỗ điên cuồng.
18)Chán nản, thất vọng năo nề, cùng đường không lối thoát muốn tự tử chết cho rồi, niệm Phật khiến tâm địa b́nh ổn từ đó mà t́m ra giải đáp hợp lư.
19)Lâm vào ṿng lao lư, tù tội mỗi tối nên ngồi ở tư thế “bán già”, xoay mặt vào tường niệm Phật khoảng nửa tiếng đồng hồ, sẽ thấy tâm hồn thanh thản, thời gian ở tù qua nhanh, không phạm thêm tội lỗi, may mắn ân xá, giảm án sẽ tới. Nhờ niệm Phật mà sau khi ở tù ra lấy lại tự tin để xây dựng cuộc đời mới. Đây không phải là chuyện bịa đặt v́ người viết bài này đă từng ở tù 9 năm. Những năm cuối cùng, tuyệt vọng, chán nản muốn tự tử chết, sau trở sang nghiên cứu Phật pháp, chuyên chú niệm Phật, kể cả tụng kinh và giờ đây dù bao gian khổ vẫn sống khơi khới và sống đẹp.
20)Trong một đám đông hỗn lọan, đâm chém, phẫn nộ, cuồng điên, niệm Phật khiến ta b́nh tĩnh, không hăng máu lao vào chuyện thị phi, hoặc a ṭng theo phe này phe kia, bênh-chống, khiến sau này hối không kịp. Tâm b́nh thế giới b́nh là như thế. Xin nhớ cho b́nh an là chân hạnh phúc.
florida80
12-23-2019, 22:57
Lời nguyện trước và sau khi niệm phật
TRƯỚC KHI NIỆM PHẬT:
1.Niệm: Nam Mô A Di Đà Phật
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
(3 lần – mỗi lần 1 lạy)
2. Quy Y Tam Bảo:
- Con đem hết ḷng thành kính xin Quy y Phật Bảo
- Con đem hết ḷng thành kính xin Quy y Pháp Bảo
- Con đem hết ḷng thành kính xin Quy y Tăng Bảo
3. Thọ giới:
- Con cố gắng tránh xa sự sát sanḥ.
- Con cố gắng tránh xa sự trộm cắp.
- Con cố gắng tránh xa sự tà dâm.
- Con cố gắng tránh xa sự nói dối.
- Con cố gắng tránh xa sự dễ duôi, uống rượu và các chất say.
4. Niệm rải tâm từ cho ḿnh:
- Tôi nguyện không kết oan trái với bất cứ chúng sanh nào
- Tôi nguyện giữ tâm không thù hậṇ
- Tôi nguyện giữ tâm không khổ năo
- Tôi nguyện giữ ǵn thân tâm thường an lạc
5. Niệm rải tâm từ cho tất cả chúng sinh:
Nguyện cầu cho mọi chúng sinh
Thân tâm an lạc pháp lành phát sanh
Nguyện cầu cho mọi chúng sinh
Không kết oan trái, không hành hạ nhau
Không lừa đảo, sát hại nhau
Không gây kinh hoảng làm đau đớn ḷng
Không ngă mạn, không khinh thường
Không ỷ tài, ỷ sức, ỷ quyền, ỷ hơn
Cầu cho rũ bỏ oán hờn
Cắt dây oan trái, thiệt hơn giải bày
Cầu cho tiêu tán nạn tai
Cầu cho thoát khỏi bi ai năo phiền
Cầu cho thoát cảnh đảo điên
Thoát nạn nước lửa, xích xiềng, binh đao
Từ bi mát trận mưa rào
Mở dây oan trái, xóa câu hận thù
Cầu TÂM thực tập chữ “TU”
An trú chánh niệm tâm từ khởi sanh
Cầu cho tam giới an lành
Tâm an, tuệ tỉnh thanh b́nh nơi nơi.
Nguyện cho tất cả chúng sanh đừng có oan trái lẫn nhau,
hăy cho được sự an vui, đừng có khổ,
đừng làm hại lẫn nhau, đừng hẹp lượng,
hăy cho được sống lâu, đừng có bệnh hoạn,
hăy cho được sự thành tựu đầy đủ,
hăy giữ ḿnh cho được sự an vui.
tất cả chúng sanh đến khổ rồi, xin đừng cho có khổ,
đến sự kinh sợ rồi, xin đừng cho kinh sợ,
đến sự thương tiếc rồi, xin đừng cho thương tiếc.
6. Từ bi quán:
Nếu tôi đă từng làm ai đau khổ hay tổn thương bằng tư tưởng, lời nói hay hành động, tôi xin được tha thứ.
Và tôi cũng hoàn toàn tha thứ cho những ai đă làm tôi đau khổ hay tổn thương.
7. Thập nguyện:
Nguyện cầu Tam Bảo từ hằng độ
Nguyện thoát ba tai nước lửa binh
Nguyện thảy chúng sanh khỏi oan kết
Nguyện cho nhân loại ráng tu hành
Nguyện ǵn Tam học Giới Định Tuệ
Nguyện đoạn Tham, Sân, Si độc sanh
Nguyện giải căn nhân sanh tử khổ
Nguyện diệt tâm tham háo lợi danh
Nguyện tu tinh tấn không giăi đăi
Nguyện sao Đạo Quả sớm viên thành
8. Niệm: Nam Mô A Di Đà Phật
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
(3 lần - mỗi lần 1 lạy)
--------------------------------------------------------------------------
B/ SAU KHI NIỆM PHẬT:
1. Hồi hướng phước báu:
a. Con xin hồi hướng phước báu niệm Phật này đến chúng sanh trong 31 cỏi, đến chư Thiên ngự tại ngôi gia này.
Con xin hồi hướng phước báu niệm Phật này đến cửu huyền thất tổ nội ngoại, thân bằng quyến thuộc đă quá cố của con, đến các bậc ân nhân, đến chư vị mà v́ vô minh con đă làm thương tổn.
Con cũng xin hồi hướng phước báu niệm Phật này đến gia quyến hiện tiền của con.
Cầu cho tất cả đều được hưởng quả lành, đều được sống trong thiện nghiệp.
b. Xin cho phước báu mà con đă trong sạch làm đây, hăy là pháp duyên lành để dứt khỏi những đều ô nhiễm ngủ ngầm nơi tâm trong ngày vị lai.
c. Con nguyện thân không tật bệnh, tâm không phiền năo, sống vui trong Pháp Phật Nhiệm Mầu để nuôi dưỡng trí tuệ của Phật dạy. Con nguyện khi hết báo thân này, liền đựơc an lành siêu sanh vào Cỏi Nước Tịnh Độ của Phật A Di Đà.
c. Niệm: Nam Mô A Di Đà Phật
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
(3 lần - mỗi lần 1 lạy)
florida80
12-23-2019, 23:00
Lời nguyện trước và sau khi niệm phật
TRƯỚC KHI NIỆM PHẬT:
1.Niệm: Nam Mô A Di Đà Phật
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
(3 lần – mỗi lần 1 lạy)
2. Quy Y Tam Bảo:
- Con đem hết ḷng thành kính xin Quy y Phật Bảo
- Con đem hết ḷng thành kính xin Quy y Pháp Bảo
- Con đem hết ḷng thành kính xin Quy y Tăng Bảo
3. Thọ giới:
- Con cố gắng tránh xa sự sát sanḥ.
- Con cố gắng tránh xa sự trộm cắp.
- Con cố gắng tránh xa sự tà dâm.
- Con cố gắng tránh xa sự nói dối.
- Con cố gắng tránh xa sự dễ duôi, uống rượu và các chất say.
4. Niệm rải tâm từ cho ḿnh:
- Tôi nguyện không kết oan trái với bất cứ chúng sanh nào
- Tôi nguyện giữ tâm không thù hậṇ
- Tôi nguyện giữ tâm không khổ năo
- Tôi nguyện giữ ǵn thân tâm thường an lạc
5. Niệm rải tâm từ cho tất cả chúng sinh:
Nguyện cầu cho mọi chúng sinh
Thân tâm an lạc pháp lành phát sanh
Nguyện cầu cho mọi chúng sinh
Không kết oan trái, không hành hạ nhau
Không lừa đảo, sát hại nhau
Không gây kinh hoảng làm đau đớn ḷng
Không ngă mạn, không khinh thường
Không ỷ tài, ỷ sức, ỷ quyền, ỷ hơn
Cầu cho rũ bỏ oán hờn
Cắt dây oan trái, thiệt hơn giải bày
Cầu cho tiêu tán nạn tai
Cầu cho thoát khỏi bi ai năo phiền
Cầu cho thoát cảnh đảo điên
Thoát nạn nước lửa, xích xiềng, binh đao
Từ bi mát trận mưa rào
Mở dây oan trái, xóa câu hận thù
Cầu TÂM thực tập chữ “TU”
An trú chánh niệm tâm từ khởi sanh
Cầu cho tam giới an lành
Tâm an, tuệ tỉnh thanh b́nh nơi nơi.
Nguyện cho tất cả chúng sanh đừng có oan trái lẫn nhau,
hăy cho được sự an vui, đừng có khổ,
đừng làm hại lẫn nhau, đừng hẹp lượng,
hăy cho được sống lâu, đừng có bệnh hoạn,
hăy cho được sự thành tựu đầy đủ,
hăy giữ ḿnh cho được sự an vui.
tất cả chúng sanh đến khổ rồi, xin đừng cho có khổ,
đến sự kinh sợ rồi, xin đừng cho kinh sợ,
đến sự thương tiếc rồi, xin đừng cho thương tiếc.
6. Từ bi quán:
Nếu tôi đă từng làm ai đau khổ hay tổn thương bằng tư tưởng, lời nói hay hành động, tôi xin được tha thứ.
Và tôi cũng hoàn toàn tha thứ cho những ai đă làm tôi đau khổ hay tổn thương.
7. Thập nguyện:
Nguyện cầu Tam Bảo từ hằng độ
Nguyện thoát ba tai nước lửa binh
Nguyện thảy chúng sanh khỏi oan kết
Nguyện cho nhân loại ráng tu hành
Nguyện ǵn Tam học Giới Định Tuệ
Nguyện đoạn Tham, Sân, Si độc sanh
Nguyện giải căn nhân sanh tử khổ
Nguyện diệt tâm tham háo lợi danh
Nguyện tu tinh tấn không giăi đăi
Nguyện sao Đạo Quả sớm viên thành
8. Niệm: Nam Mô A Di Đà Phật
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
(3 lần - mỗi lần 1 lạy)
--------------------------------------------------------------------------
B/ SAU KHI NIỆM PHẬT:
1. Hồi hướng phước báu:
a. Con xin hồi hướng phước báu niệm Phật này đến chúng sanh trong 31 cỏi, đến chư Thiên ngự tại ngôi gia này.
Con xin hồi hướng phước báu niệm Phật này đến cửu huyền thất tổ nội ngoại, thân bằng quyến thuộc đă quá cố của con, đến các bậc ân nhân, đến chư vị mà v́ vô minh con đă làm thương tổn.
Con cũng xin hồi hướng phước báu niệm Phật này đến gia quyến hiện tiền của con.
Cầu cho tất cả đều được hưởng quả lành, đều được sống trong thiện nghiệp.
b. Xin cho phước báu mà con đă trong sạch làm đây, hăy là pháp duyên lành để dứt khỏi những đều ô nhiễm ngủ ngầm nơi tâm trong ngày vị lai.
c. Con nguyện thân không tật bệnh, tâm không phiền năo, sống vui trong Pháp Phật Nhiệm Mầu để nuôi dưỡng trí tuệ của Phật dạy. Con nguyện khi hết báo thân này, liền đựơc an lành siêu sanh vào Cỏi Nước Tịnh Độ của Phật A Di Đà.
c. Niệm: Nam Mô A Di Đà Phật
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
(3 lần - mỗi lần 1 lạy)
florida80
12-23-2019, 23:04
Phật Giáo Trong Mắt Tôi .
DÂN CHỦ,H̉A B̀NH LÀ CON ĐỪƠNG CỦA PHẬT GIÁO .
Với chủ trương không sát sanh đă là một nhân tố Hoà b́nh trong đạo Phật .Nhưng Hoà b́nh không có Dân chủ th́ trở thành nô lệ . Nếu Dân chủ quá mức th́ Xă hội sẽ lọan lạc mất kỹ cương . Cho nên bất cứ một vấn đề ǵ quá mức đều không mang lại hạnh phúc và kết quả tốt đẹp cho nhân lọai .
Tôn giả A Na Luật v́ nỗ lực chuyên tu quá độ đă sanh bệnh và cuối cùng bị mù hai mắt . Khi Đức Phật thấy A Na Luật đang xỏ chỉ để may y, nhưng v́ mắt không thấy nên xỏ hoài mà không được, Ngài bèn ngồi xuống một bên, cầm tay tôn giả vừa chỉ cách xỏ chỉ vừa dạy pháp môn quán sổ tức tập trung ở đầu mũi. Từ đó Ngài dẫn dụ việc tu hành cũng giống như chuyện lên dây đàn: " Chùn quá th́ tiếng không kêu hay, căng quá th́ dây bị đứt, cũng vậy tu quá khổ hạnh sẽ tổn hại đến sức khỏe, tu quá lề mề sẽ rơi vào buông lung, v́ vậy cần phải giữ mức TRUNG ĐẠO (vừa phải ) , th́ mới thành tựu quả vị. "
Thật ra ngày xưa tôi có những dẫn dụ không mấy tốt đẹp về những giáo lư của Chúa Kito trong Thánh kinh hay A Di Đà của Phật giáo Đại Thừa tông Tịnh Độ . Trong cái xấu nào cũng có cái tốt , cái hay của nó kể cả Phật giáo Mâu Ni . Mỗi phương thức hành tŕ tuy mới nh́n th́ không Dân chủ , Hoà b́nh cho mấy , nhưng đó là những bước chân ban đầu cho những người mới tu học . Trong thâm tâm tôi không có ư bài bác , ngăn chận hay chê bai những phương thức hành tŕ các giáo lư đó . Ngày xưa tôi vẫn quan niệm : Kẻ thù ta là tham vọng, hận thù, kỳ thị và bạo động nhưng sau nầy, tôi cũng không muốn gọi những tâm hành tiêu cực kia là kẻ thù cần phải phản kháng , lên án hay tiêu diệt nữa mà lại thấy rằng chúng có thể được chuyển hóa thành những tâm hành tích cực như thương yêu và hiểu biết lẫn nhau . Tôi lấy ví dụ : Đạo Chúa thường hay thu nhận con chiên bằng h́nh thức rao truyền , dẫn dụ , từ việc đến từng nhà giảng , hay giúp đở vật chất kẻ khốn cùng , lời hứa tạo điều kiện nhanh chóng ra đi định cư ở Mỹ tại các trại tỵ nạn . Hoặc là tạo áp bức như thời TT Ngô Đ́nh Diệm , Nguyễn Văn Thiệu , v́ muốn đựơc an thân , mau thăng quan , tiến chức nên đành theo đạo Chúa . Với sự hiểu biết ngày nay của tôi hoàn toàn không óan trách công tác truyền đạo của Kito như thế . Nhờ quư vị hành đạo tuỳ duyên mà độ thế cho nên những người con Phật chân chính hiện tại mới cho phép chúng tôi đo lường đựơc những Phật tử giác ngộ c̣n tồn tại ngày nay mà họ chọn một tôn giáo từ xưa , cái tinh thần ĐẠI HÙNG , ĐẠI LỰC đă đo lường đức tin không bị lay chuyển bởi vật lực và tài lực từ bên ng̣ai đưa đến . Đạo Phật vốn từ bỏ THAM ÁI th́ c̣n chi để LUYẾN ÁI bởi những ma lực tham vọng thường t́nh . Chúng tôi sẽ không c̣n ngây thơ mà nói: Quư vị lôi cuốn mà có làm được ǵ đâu trong mấy chục năm nay? Chính chúng tôi, những người không chống đối mới giữ đựơc tâm Phật tức là An lạc là nhân tố chính để tạo nên Hoà b́nh .
Trong kinh tế v́ luật cung cầu không công bằng cũng đưa đến chiến tranh nhằm xâm chiếm , tiêu thụ những ǵ ḿnh dư thừa . Ví dụ : Ngành kỹ nghệ sản xuất vũ khí ở Mỹ chiếm 1/4 . Nếu bom đạn làm ra không có nơi tiêu thụ ( cung dư thừa ) th́ họ phải t́m cách mở chiến tranh hay bán cho những nước cần vũ khí . Cũng như Nga , Trung Hoa , Mỹ .... là những nước kỹ nghệ lên cao cần tiêu thụ nhiều xăng dầu . Họ cần ḍm ngó ở những nước giàu có dầu khí ở Trung Đông đă trở thành miếng mồi ngon cho chiến tranh .
Trong Phật Pháp có ghi lại câu chuyện vua A Xà Thế v́ muốn đem quân chinh phạt xứ Bạc Kỳ đă phái đại thần Vũ Xá đến đảnh lễ và thỉnh ư đức Phật. Thay v́ trả lời trực tiếp với vị Đại thần là nên hay không, Đức Phật quay sang tôn giả A Nan, vị thị giả đang đứng hầu bên cạnh, giảng về bảy pháp làm quốc gia hưng thịnh của dân tộc Bạc Kỳ. Khi nghe xong, vị Đại thần đă về tấu tŕnh lại với vua A Xà Thế và v́ vậy cuộc xâm lược đă bị băi bỏ. Ngụ ư câu chuyện này giúp chúng ta hiểu được nhiều điều bổ ích như sau:
1- Đức Phật không muốn v́ lợi lộc của ḿnh mà gây đổ máu , Ngài đứng trên những tranh chấp thế gian.
2- V́ Ngài tôn trọng sự sống, quyền sống của mọi người , mọi loài .
3- Ngài dùng phương thức giáo dục tự giác để gián tiếp cảm hóa tha nhân sớm biết thức tĩnh . Ngài để cho họ tự khai mở tri kiến và nhận thức mà không áp đặt quan điểm giáo hoá của ḿnh, dù đó là trí tuệ của bậc tri kiến đại giác ngộ như Ngài .
Tôi nói như vậy không phải Phật giáo ai cũng tốt cũng hay , mà thực chất người Kito giáo cũng rất nhiều vị đạo hạnh và tốt chẳng kém ai . Không phải họ hoàn toàn là những người có thái độ hẹp ḥi, cuồng tín và cố chấp như chuyện thường t́nh . Trong Phật giáo tôi cũng thấy nhiều người c̣n ngông cuồng , hẹp ḥi, cuồng tín và cố chấp, gây khổ đau cho bản thân, cho gia đ́nh và cho Xă hội không thua chi . Có những người xưng là Phật tử ( kể cả giới xuất gia) mà tham nhũng, thủ đọan tàn ác và cố chấp đến mức con cái , đệ tử họ cũng không chịu đựng được , những lúc đó họ không có tinh thần Dân chủ mà là độc tài , Ma vương đang ngự trị . Họ phá giới, phạm trai, vọng ngữ, tà dâm, sát sinh .... làm tổn thương , đau khổ cho bản thân và cho Xă hội . Nếu ai cũng tốt th́ họ là những Bồ Tát ở Niết Bàn đâu c̣n lận đân ở thế gian này .
Ngày nay , hơn năm năm rồi , Liên Hiệp Quốc mới giác ngộ con đừơng Hoà B́nh và Dân Chủ trong Phật giáo .Thật ra họ biết từ lâu nhưng chưa có điều kiện làm . Thế giới đă và đang nghiêng ḿnh ngưỡng mộ Đức Thế Tôn . LHQ chính thức công nhận con đừơng tốt đẹp đó và cho tổ chức lễ kỹ niệm ngày đản sanh và thành đạo của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mà Việt Nam thừa hưởng đứng ra thi hành lễ Vesak năm 2008 như là một vinh dự chung cho Phật giáo và riêng cho Dân tộc Việt Nam .
florida80
12-23-2019, 23:05
ĐAU và KHỔ
V́ có đau nên mới khổ , nhưng có lúc đau mà không khổ hoặc khổ mà không đau hay vừa đau vừa khổ . Biên giới giữa đau và khổ vốn khó mà phân định .Ví dụ :
- ĐAU : Bạn chạy vấp té chảy máu nên chân rất đau , đau này là thể xác .
- KHỔ : Cuộc đời làm mải không có tiền đủ sống , phương tiện vật chất thiếu thốn , nên đời sống thấy khổ , khổ này là khổ vật chất nhưng chưa hẳn làm đau thể xác .
- VỪA ĐAU , VỪA KHỔ : Bạn bị cơn bệnh ngặt nghèo , gây nên sự đau đớn cho thể xác , nhưng không có tiền đi Bác sĩ , tiền mua thuốc do nghèo khổ , nên đành ôm cái đau v́ do khổ mà nên .
Từ cái đau của thân thể con người có tánh hay ôm chặt lấy bản thể chủ quan và có tánh cách vị kỷ. Đối với chủ trương của Phật hoàn toàn không nhắm vào mục đích đó. Vấn đề Khổ Đế trong Phật giáo chỉ cho con người thấy cái bản chất phổ biến và không tránh khỏi cho con người trong màn ảo vọng của vô minh và do vị kỷ mà gây ra .
Isha de Lubicz, trong cuốn The Opening of the Way (1979), phân định rỏ ràng những khác biệt quan trọng và cơ bản giữa khổ và đau:
"Cho mỗi h́nh thức vị tha chân thực th́ có một sự giả dạng của vị kỷ. Từ Bi (Compassion) có nghĩa rằng trong mối tương đồng của tâm thức, chúng ta cảm nhận được cái khổ của kẻ khác. Nhưng chỉ những ai thực sự yêu thương bằng một T́nh yêu không dựa trên cái ta (impersonal Love), không mang một bóng dáng phản ứng vị kỷ, mới có thể đem trái tim ḿnh đến với tha nhân nhằm làm nhẹ cái khổ của họ bằng ḷng Từ Bi có hiệu quả.
Nhưng hăy đừng nhầm lẫn giữa khổ và đau. Đau là kết quả của mất quân b́nh, hay là bất ḥa, giữa ước vọng cá nhân đối với ư chí siêu h́nh nội tại. Đau có thể là kết quả của nghiệp căn hay là của vô minh đang là; nhưng tâm thức có thể vượt qua cái đau dù rằng cái khổ th́ không tránh khỏi. Đau là sự phản ứng của cá tánh trên mặt thể xác hay là t́nh cảm. Nhưng khổ là sự vật lộn trong điều kiện phân chia giữa điều kiện thực tại đối với điều kiện mà cá nhân muốn đạt đến, và cái nỗ lực muốn trở lại toàn hảo tạo nên mối căng thẳng này.
Khi có sự phản kháng trên b́nh diện cá nhân, thân thể hay đạo đức, th́ kết quả là đau; nhưng nếu điều kiện này được chấp nhận th́ cái đau có thể sẽ được loại trừ để chuyển hóa thành nỗi khổ. Khổ chính là một sự thử thách (trial); và sự đối ứng nghiêm túc trong trường hợp này có thể biến thử thách thành niềm hoan lạc. Khổ là trường học và là điều kiện cần có cho tâm thức. Từ Bi đồng ư sinh nghiệm những thử thách của sự khổ của nhân loại để thăng hóa chúng. Đó là một hành động Yêu thương chân thực."
Tôi nghĩ , nếu theo quan niệm của Isha de Lubicz th́ Đau này là thuộc mặt tinh thần , đạo đức hay tâm linh . Ví dụ : Anh ta đau khổ v́ thất t́nh . Do t́nh yêu không đựơc như ư muốn nên anh ta cảm thấy nhức nhối con tim " như là đau " vậy , từ chỗ đau ( tinh thần ) đó nên anh cảm nhận sự khổ ( tinh thần ) . Theo như Isha quan niệm th́ cái ĐAU và KHỔ này phải gắn chặc và đi đôi với nhau . Có Đau th́ mới Khổ . Theo tôi nghĩ nếu anh ta không ĐAU th́ chưa hẳn đă khổ v́ t́nh yêu , cho nên sự nh́n này như là một phiếm diện .
Nói cho dễ hiểu hơn cái Đau và Khổ thuộc tinh thần ( tâm linh ) gắn chặc lẫn nhau . Ví dụ : bớt chút ḷng si mê, hận thù chúng ta bớt được chút khổ đau,bởi v́ mê th́ mất tiền, mất của, hận thù th́ không c̣n ai là bạn bè và sẽ mất tất cả .
Theo Kinh Phật , tiết mục 31 (XVI, III) :
** Có tất cả 12 thứ khổ:
1. Sinh là khổ;
2. Già là khổ;
3. Chết là khổ;
4. Buồn rầu là khổ;
5. Than khóc, than văn là khổ;
6. Đau đớn, khó nhọc là khổ;
7. Sầu tiếc, thương tiếc là khổ;
8. Thất vọng là khổ;
9. Sống gần vớí người, vật ḿnh không thương yêu là khổ;
10. Xa ĺa người, vật ḿnh thương yêu là khổ;
11. Không được những ǵ ḿnh muốn là khổ.
12. Ngũ uẩn đeo níu là khổ (Thủ ngũ uẩn).
Chúng ta chú ư ở đây Buddhaghosa không nhắc đến bệnh khổ, v́ bệnh khổ thuộc về đau đớn và cũng có những trường hợp mà không có người bệnh . Trong kinh D́gha Nikàya (Trường Bộ Kinh) (ii, 305) cũng không có nhắc đến bệnh khổ.
Vậy th́ Đau Khổ là chúng ta nghĩ đến về tinh thần , c̣n khổ mà không đau hoặc đau mà không khổ hay vừa đau vừa khổ nó gần như ở trạng thái thể xác nhiều hơn .
florida80
12-23-2019, 23:06
ĐẠO GIÁC NGỘ .
Mấy hôm nay tôi thường lúng túng khi dùng danh từ Phật Giáo . V́ sợ bị hiểu lầm như ông Albert Einstein đă nói :
"Tôn Giáo của tương lai sẽ là một Tôn Giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi Thần linh, giáo điều và Thần hoc. Tôn Giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ư thức đạo lư, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lănh vực trên, trong cái nhất thể đầy đủ ư nghĩa. Phật Giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó."
Phật Giáo th́ phải hiểu là Phật Giáo Thích Ca Mâu Ni mới giải thóat con người bằng con đừơng tự tu tập , dùng trí tuệ và khoa học để vượt ra khỏi Vô minh , Thần linh ....... Chứ Phật giáo theo Ngài A Di Đà , Quán Thế Âm , Dược Sư ..... chỉ cầu nguyện các Ngài th́ Ngài mới cứu vớt , chứ đâu có bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ư thức đạo lư, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lănh vực trên, trong cái nhất thể đầy đủ ư nghĩa mà ông Albert Einstein nói . Vậy từ nay tôi sẽ dùng danh từ "Đạo Giác Ngộ " là nói đến Phật giáo Thích Ca Mâu Ni để tránh nhầm lẫn .
o O o
Bởi v́ chúng ta cứ gọi là Đạo Phật chung chung như vậy nên dễ bị ngộ nhận ,từ đó chúng ta không thể nhận thức được trọn vẹn cái ư nghĩa của đạo Phật ; mà khi chúng ta gọi là Đạo Giác Ngộ để thay thế chữ Phật th́ chúng ta mới thấy được cái ư nghĩa đầy trọn vẹn . Khi hoàn toàn giác ngộ ta mới thấy là ta không bị mê muội tin theo một tín điều , van xin , cầu nguyện ( ỷ lại ) ; cũng từ giác ngộ ta mới thấy sự sáng suốt của lư trí khi đến với giáo lư đạo Phật và ta tin theo cũng từ trong nhận thức của lư trí mà phát triễn để tinh tấn tu hành , tiến lên .
Trên bước đừơng tu tập đạt đến giác ngộ nó không khác nhau trên căn bản, nhưng tuỳ DUYÊN , tùy theo tâm tính, cơ thể , điều kiện sinh họat , địa h́nh , địa vật từng nơi chốn , khu vực , Quốc gia ..... mà mỗi con người thực hành một cách khác nhau . Ví dụ : Thời xưa c̣n tại thế Đức Phật hoằng pháp đi bằng chân đất ( không giày , dép ) , không có phương tiện di chuyển hiện đại như ngày nay , cọng thêm truyền thanh , truyền h́nh , Internet để chuyển đạt cho chúng sanh khắp năm châu . Cũng như Phật giáo Nguyên Thuỹ giữ đúng những nghi thức , hành đạo đúng theo lề lối của Bổn Sư . Nhưng đạo Phật qua Trung Hoa th́ biến đổi là các chùa tự sản xuất để nuôi sống , không đi khất thực , học vơ công để tự vệ . Sửa lại điều 10 của Phật Tổ là có quyền giữ vàng , bạc . V́ không thể sống và phát triễn mà thiếu ngân lượng ( Điều này Đức Phật cho phép có thể tuỳ duyên sửa đổi ) .
Giáo lư của Đức Phật Thích Ca trong Đạo Phật không phải là con đường TIN ĐỂ ĐỰƠC GIẢI THÓAT mà là con đường THỰC HÀNH để đến được giác ngộ. Khi đạt đến Giác ngộ mới thấy là ta không bị mê muội tin theo một tín điều mê hoặc , mù mờ , viễn vông .... với giác ngộ ta mới thấy cái sáng suốt của lư trí khi chúng ta học và hành theo Ngài . Từ sự hiểu biết đó ta tin theo cũng từ trong nhận thức của lư trí mà ra . Cho nên, những ai tin theo giáo lư Đức Phật không qua h́nh thái nhận thức bằng lư trí th́ sai lầm và hoàn toàn thiếu sót .Những đức tin phải đựơc kiểm nhận và đem ra thực hành không gây đỗ máu và khổ đau : Đó là tính chất khoa học trong đạo Phật hay nói một cách khác :
"Giáo lư đạo Phật không bắt buộc làm cho tín đồ phải mê muội tin theo, hoặc phải mù quáng mà đâm ra cuồng tín hoặc tin mà thiếu nhận thức bằng trí óc và thực hành".
Đối với giáo lư của Đấng Giác Ngộ đủ các hạng cao thấp , tùy duyên mà hóa độ cho chúng sanh dễ nhận thức và tu tập thành chánh quả . Trong Kinh Kim Cang có câu :
"V́ tŕnh độ của chúng sanh có sai khác, nên có các quả Thánh hiền sai khác, chứ không phải Phật pháp có sai khác."
Tôi ví dụ như trong Tàng Kinh Các có nhiều bài thuyết giảng Phật Pháp của quư Thầy . Nhưng không phải Thầy nào giảng th́ Phật tử đều hiểu . Có hiểu , vui thích mới vỗ tay chứ . Tôi lược qua một vài giảng sư như Đ Đ Thích Nhật Từ , Đ Đ Thích Thiện Thuận , Đ Đ Thích Phước Tiến , TT Thích Pháp Hoà , Thích Minh Hiếu v.v... Những bài giảng trong các khóa tu Phật Thất của Thầy Thiện Thuận , Phước Tiến th́ vui vẽ và đựơc vỗ tay rất nhiều , v́ bài giảng đi sát với thực tế và có chút vui đùa trong đó ( hợp với Phật tử b́nh dân ) . Trái lại Thầy Nhật Từ quá nghiêm trang và dùng từ ngữ , điển tích quá cao xa trong kinh điển , hơn nữa Thầy ít thêm vào những mẫu chuyện vui ( tiếu lâm ) , nên đa phần Phật Tử không hiểu nhiều ( tôi tin thế ) nên ít vỗ tay . Trái lại cá nhân tôi rất thích các bài giảng của giảng sư Tiến sĩ Thích Nhật Từ , v́ tôi hiểu Thầy .
So với tŕnh độ chúng sanh có khác như vậy nên Đức Phật không quên nhắc nhỡ rằng:
"Ta cũng như người dùng ngón tay chỉ mặt trăng, các ngươi phải nhơn ngón tay mà xem mặt trăng. Nếu chấp ngón tay cho là mặt trăng, th́ chẳng những không thấy được mặt trăng, mà cũng không biết luôn ngón tay"
(Kinh Lăng Nghiêm) .
Những giáo lư mà Ngài dạy chỉ là phương tiện để di chuyển ( như con thuyền ) hoặc chỉ đường, hướng dẫn cho chúng sanh theo đó mà tu hành đạt đến giải thoát, chứ không phải ngón tay Ngài là giáo lư rồi ôm nó mà sùng bái . Nh́n chung kinh điển của Ngài nói quá cao xa, nhất là người Việt chúng ta chưa dịch Kinh từ tiếng Trung Hoa , Pali qua tiếng Việt Nam nhiều cho lắm , v́ vậy mà chúng ta đă phải nghiên cứu thật nhiều hầu hiểu rơ con đường tu tập cho đúng ĐẠO GIÁC NGỘ của Ngài Mâu Ni . Nếu không sẽ bị dẫn dụ qua một con đừơng mê muội khác dù cũng mang danh từ Phật giáo .
Muốn đạt đến ĐẠO GIÁC NGỘ điều quan trọng là Trí tuệ . Nhưng trí tuệ bị suy đồi do trụy lạc mà ra . Ái dục là một điều cần có , v́ nó điều hoà sinh lư cơ thể , nhưng thái quá th́ đâm ra tŕ trệ , đọa lạc thân thể lu mờ trí tuệ . Bản năng con người cần có là :" ĂN , NGŨ , ĐÉO , ỈA " , những từ ngữ viết lên th́ trắng trợn , thô tục , nhưng thực chất này không thể chối bỏ cho muôn loài không riêng chi con người . Thiếu một trong 4 yếu tố trên con người sẽ chao đảo và mất b́nh thường ( mad ) . Có bạn hỏi tôi : " Vậy các tu sĩ ( ngoài Mục sư ) không sex th́ sao , mất b́nh thường ( mad )?" . Có ! Khoa học xét nghiệm phần lớn những tu sĩ có tánh không mấy thăng bằng về thể xác , tư tưởng . Nhưng nhờ các vị đó có nghị lực cao , quán chiếu và chế ngự đựơc bản năng và phát triển như là một lối thóat về phía tâm linh , trí tuệ giúp đở và kèm chế dục vọng . V́ thế trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật dạy Ngài A Nan rằng :
" Nếu không đoạn trừ DÂM DỤC sẽ đọa vào Ma đạo; không dứt sát hại sẽ đọa vào Thần đạo; không bỏ trộm cướp th́ đọa vào Tà đạo và không trừ vọng ngữ th́ thành ma ái kiến, mặc dù chúng sanh đó có tâm trí diệu ngộ, thanh tịnh đến đâu; và như thế tất cũng không đạt được đạo Bồ Đề."
Giác ngộ đựơc vấn đề này , tôi đă song hành việc ăn chay với DIỆT DỤC từ năm 2006 cho đến nay . Tôi tránh ngũ chung với vợ , tránh gặp giới Phụ nữ dễ bị vọng động , nếu gặp th́ không nh́n thẳng vào thân thể họ , nếu nói chuyện th́ dè dặt ngôn từ . Giác ngộ nữa vời như tôi cũng khổ . Khi đứng trước phụ nữ nếu tôi quán chiếu tà dâm th́ trước mặt tôi họ trần truồng ( dù đang mặc áo quần ) , những lúc đó tôi ngưng và định tâm trở lại . Cũng như thân tôi có nội lực ( luồng điện ) nên sờ vào vật dẫn điện nào cũng bị giật làm rùng ḿnh . Cũng khổ cho tôi . Thành ra tôi luôn luôn tŕ niệm TÂM thật thanh tịnh để không bị suy nghĩ nhảy lung tung sanh ra tà niệm . Nếu muốn thoát ra, chúng sanh phải tự ḿnh chiến đấu , diệt trừ mọi dục vọng, tà dâm ,tham ái . Phải cương quyết đọan tuyệt những tâm xấu, biết nuôi dưỡng và phát triển tâm thiện luôn luôn hướng đến Đức Phật để học đừơng giải thóat bằng những bài giảng trong :
1-Tứ niệm xứ .
2-Tứ chánh cần .
3- Tứ như ư túc .
4- Ngũ căn .
6- Ngũ lực .
7- Thất Bồ đề phần
8- Bát chánh đạo .
Hầu để hun đúc thành tựu cho bản thân ḿnh được một sự ĐẠI HÙNG - ĐẠI LỰC - ĐẠI TỪ BI và một ḷng cương quyết thoát khỏi ṿng trầm luân, khổ ải sớm hoàn tất đạt đến con đường giải thoát, đó là Niết Bàn .
Đạo Giác Ngộ là chỉ cho ta con đừơng tự giải thóat . Thật ra không ai có quyền năng tối thượng tha tội hay độ tŕ chúng sanh . Chẳng qua đó là ḷe , bịp kẻ vô minh mà thôi . Ngay như Ngài Thích Ca giảng Pháp 49 năm , cuối cùng Ngài vẫn nói :
" Suốt 49 năm qua Ta không nói một lời nào cả "
Chính câu này làm cho các bậc thức giả suy nghĩ nát óc . C̣n kẻ tà đạo , trí hèn th́ không hiểu nên phân tích và dèm pha . Thật vậy trong Kinh Kim Cang (Trang 168). Ngài có nói :
Này ông Tu Bồ Đề! Ông chớ lầm tưởng . Như Lai nghĩ rằng:
"Ta độ chúng sanh". Tại sao vậy? Nếu Như Lai có nghĩ: "Ta độ chúng sanh", th́ Như Lai c̣n chấp bốn tướng Ngă, Nhơn, Chúng sanh và Thọ giả, tức nhiên không phải Như Lai. Bởi thế nên, Như Lai thật không có độ chúng sanh nào cả".
Vậy th́ Phật A Di Đà , Quán Thế Âm , God .... nói làm sao đây khi Như Lai nói như vậy ????
Ngài quả là một người thẳng thắn và không " Vơ tất cả nhận cho ḿnh , khi nó không phải của ḿnh " . Ngài không nói ǵ cả , cũng chẳng dạy điều chi mới lạ . Từ khi trở thành Bậc Giác Ngộ, Ngài nói lại những CHÂN LƯ đă có từ lâu . V́ CHÂN LƯ là trường tồn , bất biến không đổi thay qua thời gian lẫn không gian . Ngài chỉ là vị Thầy khả kính chỉ dẫn con đường để tất cả chúng trở thành người giác ngộ . Ngài cũng như vô số Phật đă thành đạo trong thời quá khứ, hiện tại đang thành và sẽ thành Phật .
Ngài quả là bậc trí trên bậc trí . Bậc Thầy của các vị Thầy .
(c̣n tiếp)
florida80
12-23-2019, 23:06
TÂM NGUYỆN CỦA TÔI .
Tôi đă từng trải qua bao nhiêu cách tu hành mong đựơc giải thóat ,chứ không mong đợi sau khi chết đựơc về cỏi Tây Phương cực lạc của Đức Phật A-Di-Đà . Hơn nữa Ngài bắt buộc phải cầu Ngài mới đựơc chấp nhận về cực lạc .Vậy th́ cũng giống Chúa Jesus phải tin Ngài , run sợ Ngài và cầu nguyện mới đựơc lên Thiên đàn . Tôi thấy như vậy hai Ngài A-Di-Đà và Jesus c̣n cố chấp và không từ bi bằng Đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni . Ngài có một giáo lư rơ ràng và khoa học . Ngài dạy chúng sanh phải tinh tấn tu hành và tự giải thóat " Hăy thắp đuốc lên mà đi " . Phải t́m nguyên nhân khổ để tự ḿnh giải thóat lấy cái khổ do chính ḿnh gây ra hay tha nhân đưa đến . Phải biết tu tập trên con đừơng Bát Chánh Đạo . Từ những nhận thức đơn giản đó tôi đă nguyện đi theo con đừơng tu tập , giải thóat bản thânh là chính .
Suốt 15 năm nay tôi vẫn loay hoay đi t́m đạo . Tôi cố chọn một phương pháp tu trong 84.000 cách tu mà Như Lai đă dạy . Ban đầu th́ tôi theo cách tu hành phổ thông là tụng niệm . Nhưng cũng loanh quanh giới hạng trong các kinh Sám Hối , Cầu An , Vu Lan Báo Hiếu v.v......
Cách tụng th́ theo các Thầy có khi nhanh , có khi chậm . Nhưng theo tôi nghĩ th́ tụng kinh phải rơ ràng , chậm và hiểu nghĩa kinh th́ hợp lư hơn :
"Tụng lời Kinh xưa mà Tụng rơ Từng Chữ, Từng Câu. Chú Ư Từng Nghĩa, Từng Lời mà Tâm Không Mong Cầu. Người Tụng và Câu Kinh làm sao cho Thấu Thông Đồng Nhất. Khai Ngộ Ta và Người trong Đệ Nhất Nghĩa thâm sâu…"
Qua vài năm tụng niệm tôi lại giác ngộ ,nếu cứ cầu an , cầu siêu th́ không đúng với lời chỉ dạy của Như Lai . An hay không là tự ḿnh có lấy . Không tranh chấp , hận thù , gây chiến tranh th́ có ai khuấy phá , trả thù mà mong cầu đựơc yên thân . Giả sử ta không muốn mà họa vẫn đến , đó là không mong cầu . Gặp những lúc đó th́ bản năng tự tồn Như lai đă dạy ta biết cách bảo vệ và chiến đấu . Không khiếp nhược , không hung tàn đó là tinh thần của Phật Giáo bất diệt :"Đại hùng , đại lực , đại từ bi " .
Những ư nghĩ ấy nên tôi không tu theo phương pháp tụng niệm . Tôi bắt đầu ngồi Thiền .V́ tôi biết tu cách nào cũng tốt và không sai với lời dạy của Đức Phật :
- KINH : Là Lời Phật .
- THIỀN: Là Tâm Phật .
- CHÚ: Là Tiếng Phật .
- NIỆM PHẬT : Là Tiếng của Chúng Sinh gọi Phật .
- NIÊM HOA THỊ CHÚNG: Là Chỉ Thẳng ngay Phật .
Cả Năm Bảo Pháp vừa kể đều từ Tâm Phật mà ra.
Qua nhiều năm Thiền định tôi lại ngộ rằng : Dù tu cách nào cũng đưa đến mục đích là TÂM THANH TỊNH . Như vậy tại sao ta không đi thẳng " Trực chỉ chân tâm " . Cũng từ đó tôi bỏ tụng niệm lẫn tu thiền mà chỉ TU TÂM . Muốn cho tâm đựơc thanh tịnh như mặt nước hồ thu th́ chỉ có cách là không giận hờn , chấp trách những chuyện thị phi của chính bản thân ḿnh và mọi người chung quanh .Tôi bắt đầu ăn chay trường trai từ tháng giêng năm 2008 để tránh sát sanh . Tôi tập không nói dối , vọng ngôn . Không uống rượu ( điều này xưa nay không có ) . Không tà dâm , không trộm cắp , không cờ bạc . Đó là 5 giới cấm căn bản cho Phật tử tại gia .
Tôi nhận định khác hẳn mọi người về cách tu và học Phật . Học Phật là học để làm chủ chính ḿnh. Học Phật là học để loại bỏ những tập khí xấu xa mà ta đă huân tập từ lâu để trở nên một con người Tự Giác rồi Tha Giác .Học Phật không phải để khoe khoang thuộc nhiều kinh . Đôi lúc tụng kinh mà chẳng hiểu kinh dạy ǵ .Ta nên hiểu rằng : V́ sao cần phải tu hành ngay từ bây giờ . Đừng chờ đến ngày gần chết hay già nua rồi mới tu . Tu là sửa đổi. Hành là thể hiện những điều hiểu biết của ḿnh thành việc làm. Sự Tu Hành, do đó cũng không xa rời cuộc sống b́nh thường này, không xa rời cái trật tự thiên nhiên của mọi vật trên đời này, và cảnh giới Niết Bàn cũng vậy, nó cũng ở ngay đây, do kết quả của sự hóa giải những phiền năo trong ta, chứ không cần phải đợi đến lúc Chết hay phải t́m kiếm nó ở một nơi chốn xa xôi nào khác như cầu nguyện A-Di-Đà để mong đựơc cứu vớt về Tây Phương .
Hầu hết tất cả phật tử, ai cũng ước mong sau khi qua đời được văn sanh về cơi Tịnh độ, nhập Niết Bàn, không c̣n luân hồi sinh tử nữa. Vậy Niết Bàn ở đâu? Sự khác biệt giữa Niết Bàn của Đạo Phật và Thiên đàn của các tôn giáo khác như thế nào?
Có nhiều người hiểu Niết Bàn là cảnh tiên giới, vui đẹp đặc biệt , giống như Thiên đàn của các tôn giáo khác. Nơi đó có đầy hoa thơm, cỏ lạ, nhiều ngọc ngà châu báu,xa cừ mă năo , san hô hổ phách , có những ông Tiên nhàn rỗi đánh cờ, những nàng tiên xinh đẹp ca múa, rong chơi suốt ngày, không biết thời gian là ǵ ,không cần lo cái ăn , cái mặc . Ở đó không có nghèo khổ, bất công, lo âu, vất vả, phiền muộn như ở thế gian. Và chỉ khi nào chết, hương linh mới có thể đến đó được. Thật là buồn cười và mê hoặc . Thiên đàn , Niết Bàn , Tây Phương cực lạc không đâu xa . Nó đang ở tại thế gian này , nó nằm trong tâm của ta . Tôi nghiền ngẫm nhiều kinh sách, theo nhiều lớp giảng của quư thầy, cố t́m hiểu th́ được biết, hai chữ Niết Bàn dịch từ âm của chữ "Nirvana" nghĩa là ra khỏi rừng mê. Niết bàn là vắng lặng, dứt sạch tất cả si mê, chấp ngă , ngă mạn. Niết bàn là giải thoát, giác ngộ, không c̣n luân hồi sinh tử. Như vậy không đợi đến sau khi chết con người mới có thể lên Niết Bàn, mà khi nào tâm ḿnh được thanh tịnh, tuyệt đối an lạc, tự tại là ḿnh đang ở Niết bàn.
Về phương diện siêu h́nh, Niết Bàn là sự giải thoát khổ đau. Về phương diện tâm lư Niết bàn là sự tiêu diệt hoàn toàn ḷng ích kỷ, vị kỷ, vọng tưởng, tham ái. Về phương diện đạo đức Niết bàn là sự tận diệt Tham, Sân, Si, tận diệt tự ngă hay là cái "Tôi", cái "Của Tôi" cái "Tự Ngă Của Tôi".
Thật vậy , khi tâm thanh tịnh , an nhàn không lo nghĩ , giận hờn , óan trách . Không hơn thua , gây óan , kết thù th́ tâm ta đựơc b́nh an . Đó chính là cơi tiên , Niết Bàn ...... mà không ai chịu giác ngộ để nhận ra để đạt đến chân lư.
florida80
12-23-2019, 23:10
Thế nào là chữ HIẾU trong đạo Phật ?
Sở dĩ ngày nay người Việt Nam ta nói riêng và Á châu vẫn c̣n tôn trọng và đặt lên hàng đầu về chữ HIẾU đối với Mẹ Cha . Nói chung hầu hết người Châu Á c̣n giữ đựơc nề nếp , đạo đức và văn hóa gia đ́nh , đứng đầu là Trung Hoa , Việt Nam . Mặc dù hiện nay các con đang sống tại các nước Tây phương , nhất là Mỹ xem nhẹ chữ HIẾU do ảnh hưởng đời sống v́ lo chạy đua theo vật chất , nhu cầu xă hội , không c̣n thời gian để họ có dịp sống nhiều về gia đ́nh cũng như nội tâm . Từ đó họ cần đ̣i hỏi sự phóng túng , thỏai mái mà họ cho là TỰ DO , nhưng đằng sau cái tự do là một sự hủy họai tâm linh , đạo đức đưa dần con người đi vào sa đọa , suy thóai tâm linh là ch́a khóa của tội phạm , giết chóc và khủng bố . Ngày nay nước Mỹ đứng đầu Thế giới về tội phạm , nhiều nhà tù lớn nhất và chế độ tử h́nh vẫn c̣n duy tŕ trong khi rất nhiều nước đă từ bỏ luật này .
Trở lại chữ HIẾU ! Đọc văn hóa, văn chương Việt Nam hầu hết ca tụng rất nhiều về chữ hiếu bằng ca dao, thi văn, âm nhạc ca ngợi , trong đó đựơc đề cao t́nh Mẹ thiêng liêng:" Công cha như núi thái sơn , nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra". Trong các kinh điển Phật Giáo Nam Tông và Bắc Tông đều đề cao công ơn cha mẹ . Kinh tăng Chi Phật dạy :"Có hai hạng người , này các Tỳ kheo , ta nói không thể trả ơn được đó là mẹ và cha". Đối với bất thứ t́nh cảm nào rồi cũng nhạt phai với thời gian , chỉ có t́nh Mẹ thương con là ngàn năm bất tận. Trái tim Mẹ là một kỳ quan của vũ trụ , nước mắt của Mẹ nhiều hơn biển Thái B́nh Dương . Mẹ thương con vô bờ bến và không bao giờ đặt điều kiện. Mẹ thương con dù con bao nhiêu tuổi già thậm chí hư đốn hay thất bại ê chề ngoài xă hội , Mẹ vẫn thương con cho đến giây phút cuối cùng của đời Mẹ. Đối với Cha t́nh thương cũng không kém ǵ Mẹ , nhưng Cha cứng rắn , thương con bằng lời răn dạy , bao gồm cả roi vọt , lo cho con tiền bạc để ăn học , hướng dẫn đạo đức và lối sống thế nào cho con trưởng thành ra đời một cách vững vàng khi thành người ngoài xă hội .Bởi v́ người con có làm ǵ đi nữa , ḷng của người con đối với cha mẹ không thể sánh được ḷng của cha mẹ đối với con cái , đúng như ca dao nước ta có câu :" Mẹ thương con biển hồ lai láng , con thương mẹ tính tháng tính ngày". V́ vậy, khi đề cập đến công ơn cha mẹ , các kinh đều cho rằng khó đền đáp nổi , là dựa vào tâm thức của người con đối với cha mẹ có giới hạn . Trong khi Cha đủ can đảm chỉ cho con thấy sự sai lầm để xa lánh , trái lại với Mẹ lại ôm ấp , che chở những lỗi lầm mà không hề trách mắng , đó cũng là sự tai hại cho con . Câu tục ngữ :
"Thương cho roi cho vọt , ghét cho ngọt cho bùi "
Không phải v́ Mẹ cho ngọt khi con phạm lỗi mà gọi là ghét , đó chẳng qua t́nh yêu quá lớn mà không nở chỉ trích cái lỗi của con . Trong khi Cha cứng rắn và đôi khi sẵn sàng cho roi vọt để dạy con , đó cũng là v́ thương con không muốn cho con bị hư hỏng . Cho nên con cái nh́n vào đó mà nghĩ rằng Mẹ không đánh đập ḿnh nên thương hơn , điều đó không đúng và sau này khi có gia đ́nh , con cái th́ người con mới biết giá trị của t́nh thương người Mẹ , người Cha khác nhau và giá trị đều bằng nhau .
V́ thế , Chữ HIẾU trong đạo Phật vô cùng quan trọng. Đạo Phật cũng được gọi là Đạo HIẾU , hằng năm vào dịp Rằm Tháng 7 Âm Lịch hầu hết các chùa Việt Nam đều tổ chức Lễ Vu Lan để Phật tử có dịp cầu nguyện cho hương linh Cửu Huyền Thất Tổ được siêu sinh tịnh độ và Cha Mẹ hiện tiền có được đời sống trường thọ , an lành, hưởng nhiều phước lộc.
Lễ Vu Lan bắt nguồn từ chuyện Ngài Mục Kiền Liên, một đệ tử của Đức Phật Thích Ca, có mẹ là Bà Mục Liên Thanh Đề đă gây nhiều tội ác thuở sinh thời, nên khi chết bị đọa vào địa ngục, làm ngạ quỷ đói khổ. Trong Kinh Vu Lan kể chuyện :
Ngài Mục Kiền Liên sau khi đắc đạo, chứng quả A La Hán đă vận dụng thiên nhăn để t́m mẹ, ngày rất xót thương thấy mẹ bị đọa trong địa ngục. Ngài về bạch Phật và xin chỉ dạy cách cứu mẹ. Phật dạy, ngày rằm Tháng Bảy là ngày Tự Tứ của Chư Tăng, sau ba tháng an cư kiết hạ, quư Chư Tăng có tâm rất thanh tịnh, nhờ vậy lời chú nguyện có nhiều năng lực giải trừ tội lỗi, ách nạn. Vào ngày Rằm Tháng Bảy nên đem lễ vật cúng dường và xin Chư Tăng, hiền thánh cầu nguyện cho mẹ, th́ cha mẹ quá văng cũng như hiện tiền đều được nhiều phước đức.
Ngài Mục Kiền Liên làm như lời Phật dạy. Ngay sau đó mẹ Ngài, Bà Mục Liên Thanh Đề được thoát kiếp ngạ quỷ và sinh lên cơi Trời. Lời chú nguyện của các chư tăng coi như một bài kinh giảng, nếu vong linh nghe theo, xả bỏ sân hận, phát tâm từ bi hỹ xă th́ ngay sau đó sẽ thoát cảnh địa ngục. Từ đó Phật Tử theo gương Ngài Mục Kiền Liên tổ chức Đại Lễ Vu Lan vào ngày Rằm Tháng Bảy để cầu nguyện cho cha mẹ.
Ở Nhật , trong ngày nhớ ơn mẹ có phong tục cài hoa Hồng lên áo. Người nào c̣n mẹ th́ được cài hoa Hồng đỏ, ngựi nào không c̣n mẹ th́ cài hoa Hồng trắng. Một nhà sư VN đi Nhật thấy phong tục này có ư nghĩa nên đă du phập vào VN. Phong trào “Bông Hồng Cài Áo” trong ngày Lễ Vu Lan được Phật Tử hưởng ứng và phổ biến rộng răi từ đó. Bản nhạc “Bông Hồng Cài Áo” được hát rất nhiều trong dịp Lễ Vu Lan.
Trong ba tháng an cư kiết hạ , ngày rằm tháng bảy th́ giải chế phải làm lễ Tự Tứ . Chữ " Tự Tứ" tiếng Pali gọi là PAVARANA nghĩa là tuỳ ư , tức là xin chư tăng tuỳ ư chỉ trích những lỗi lầm của ḿnh do chư tăng thấy , nghe hay nghi để ḿnh biết mà sám hối , nhờ sám hối nên thân khẩu ư được thanh tịnh th́ công đức rất lớn . Đây là cách thức hạ ḿnh cầu xin chỉ lỗi , tương tự như câu nói của Nho là KHIÊM SINH ĐỨC , có lẽ v́ vậy mà phải nương nhờ ư lực chú nguyện của chư tăng trong ngày Tự Tứ chứ không phải những ngày khác .
Nay các con lớn lên và sống tại đất nước tự do như Mỹ nhưng đừng quên chữ HIẾU đối với Mẹ Cha . Dù công việc , đời sống bận rộn thế nào cũng phải thường xuyên ghé thăm Mẹ Cha , hay ít nhất gọi phone thăm hỏi khi có thời gian rổi rảnh . Các con đến chùa lạy Phật là một điều tốt , nhưng đừng quên các con đang có những ông Phật tại nhà là MẸ và CHA . Con chỉ biết đến chùa , nhà thờ Kito mà không màng thăm viếng , chăm sóc cha mẹ ( nhất là các cô dâu , chú rễ) chứ đừng nói ǵ đến con ruột là điều thiếu sót lớn . Đức Phật dạy :
" Hiếu với Mẹ Cha tức là kính Phật ."
Tại sao các con không lạy ông Phật trong nhà là Mẹ Cha có công sanh thành , nuôi dưỡng , đó là KINH BÁO ÂN CHA MẸ .
I. NỘI DUNG KINH Gồm có 6 phần .)
1. Phần duyên khởi :Đức Phật trong lúc du hành gặp một đống xương khô , Ngài liền đảnh lễ sát đất . Đệ tử của Phật là ngài Anan ngạc nhiên hỏi Phật v́ lư do ǵ mà lễ bái đống xương khô ấy . Đức Phật dạy rằng , đống xương khô này hoặc tổ tông kiếp trước , hoặc là cha mẹ nhiều đời của ta nên ta chí thành kính lễ .
2. Đức Phật dạy ân đức cha mẹ có 10 điều :
a . ân giữ ǵn mang thai trong 9 tháng .
b . ân sinh sản khổ sở
c . ân sinh rồi quên lo
d . ân nuốt đắng nhổ ngọt
e . ân nhường khô nằm ướt
g . ân bú mớm nuôi nấng
h . ân tắm rửa chăm sóc
i . ân xa cách thương nhớ
k. ân v́ con làm ác
l. ân thương mến trọn đời .
3. Đức Phật dạy về sự bất hiếu của con cái :
Ăn nói hỗn hào với cha mẹ , xấc xược với anh em chú bác bà con ..v.v.
Không tuân theo lời dạy của cha mẹ , thầy bạn và các bậc trưởng thượng trong gia tộc .
Theo bạn bè xấu ác , từ bỏ gia đ́nh đi hoang , gây tạo tội lỗi làm cho cha mẹ , bà con buồn khổ .
Không lo học tập , xao lăng nghề nghiệp , không tạo dựng được một đời sống vững chắc , làm cha mẹ lo lắng .
Không phụng sự cha mẹ về vật chất , không an ủi về mặt tinh thần , coi thường cha mẹ , coi trọng vợ con .
4. Đức Phật dạy ân đức cha mẹ khó đền đáp dù con cái báo hiếu bằng các cách như :
Vai trái cơng cha , vai phải cơng mẹ , cắt da đến xương , nghiền xương thấu tuỷ , máu đổ thịt rơi cũng không đáp được công ơn cha mẹ
Giả như có ai gặp lúc đói khát , phá hoại thân thể , cung phụng cha mẹ cũng không đáp được công ơn cha mẹ .
V́ cha mẹ mà trăm kiếp ngh́n đời , đâm tṛng con mắt , cắt hết tâm can, trăm ngh́n dao sắc xuất nhập toàn thâncũng không trả nỗi công ơn cha mẹ .
Dù v́ cha mẹ , đốt thân làm đèn cúng dường chư Phật cũng không đáp được công ơn cha mẹ .
5. Đức Phật dạy về phương pháp báo hiếu :
Ngoài việc cung phụng cha mẹ về mặt vật chất và an ủi tinh thần mà ai cũng biết , chúng ta phải :
Khuyến hoá cha mẹ thực hành thiện pháp .
Phải v́ cha mẹ mà thực hành tịnh giới , bố thí , làm các việc lợi ích cho mọi người .
Phải truyền bá tư tưởng hiếu đạo này cho nhiều người được lợi ích .
6. Phần kết thúc và lưu thông:
Đức Phật khích lệ tinh thần báo hiếu .
Đại chúng phát nguyện vâng lời phật dạy .
Đặt tên kinh là Kinh Báo Ân Cha Mẹ .
Trong 10 điều ân đức của cha mẹ đă cho thấy rơ t́nh thương bao la đó . Những lời kinh hết sức cảm động và chinh phục ḷng người như :
- " Nhổ ngọt không tiếc nuối , nuốt đắng không phiền hà…Miễn sao con no ấm , đói khát mẹ nào từ" ( điều 4 )
-"Mẹ nằm chổ ướt át ,nâng con chổ ấm khô , đôi vú lo đói khát , hai tay che gió sương , yêu thương quên ngủ nghỉ , sủng ái hết giá lạnh , chỉ mong con yên ổn , mẹ hiền không cầu an" ( điều 5 )
-"Mẹ hiền ân hơn đất , cha nghiêm đức quá trời , che chở ân cao dày , cha mẹ nào tính toán , không hiềm không mắt mũi , không ghét què chân tay ,sinh con từ bụng mẹ , con đổi dạ thương ai" ( điều 6 )
-" Con đi đường xa cách , ḷng mẹ bóng theo h́nh , ngày đêm không hả dạ , tối sớm nào tạm quên , khóc như vượn nhớ con , thương nhớ nát can trường … ( điều 8 )
-" Mẹ già hơn trăm tuổi , c̣n thương con tám mươi, ân ái có đoạn chăng chỉ hơi thở cuối cùng" ( điều 10 )
Ngoài ra chưa nói Cha phải bị 9 năm tù tội trong lao tù Cọng Sản để ngày nay các con mới đựơc đi Mỹ , sống cuộc đời tương đối đầy đủ , an nhàn và sung sướng . Thế mà các con lại quên đi Mẹ Cha và chỉ biết đến vợ chồng , con cái ḿnh . Luật nhân quả sẽ trả lại cho các con sau này . Trước mắt hành động của các con sẽ ảnh hưởng và làm cho các cháu nh́n theo , bắt chước và sẽ đối xử tồi tệ , bất hiếu lại với các con .
Cha Mẹ tuy đă già và suy yếu , nhưng với kinh nghiệm do sự thành công , thất bại trong cuộc đời 60 năm qua đă tạo nên một gia tài quư báu . V́ vậy khi các con mua nhà , lập Business ....... phải thưa tŕnh , hỏi ư kiến Mẹ Cha trước khi làm . Đó vừa là chứng tỏ ra con nhà có giáo dục , đạo đức vừa là học thêm những kinh nghiệm làm ăn ngoài đời do Cha Mẹ chỉ dạy .
Không có ǵ hạnh phúc , sung sướng khi c̣n có Mẹ , có Cha . Các con phải biết trân quư và kính dường Mẹ Cha khi họ đang c̣n sống , đừng để đến lúc Mẹ Cha qua đời mới bày lễ lược , cúng kiến cho thật lớn , khóc cho thật nhiều . Đây là những lời Cha Mẹ dạy dỗ các con để duy tŕ nếp sống lễ giáo , đạo đức của Gia đ́nh và truyền thống Dân tộc mà chính Đức Phật vẫn quan tâm và luôn luôn nhắc nhở các con . Không nên hiểu nhầm chữ tự do đầy sa đọa , tội ác tại Mỹ mà quên đi nguồn gốc và giá trị vô cùng to lớn của chữ HIẾU trong đạo Phật đă dạy các con và phải biết trân quư , giữ ǵn nó như những bảo vật giá trị nhất trong cuộc đời .Mặt khác , theo đạo Phật quan niệm tất cả chúng sinh là cha mẹ của ḿnh ngoài việc báo đáp thâm ân cha mẹ của ḿnh hiện nay , người Phật tử c̣n có nhiệm vụ báo hiếu cho cha mẹ nhiều đời của ḿnh bằng phương thức gián tiếp . Tất cả mọi người ai cũng có trách nhiệm truyền bá tư tưởng đạo hiếu để cho những người con học tập và thực hành phương pháp báo hiếu đúng chánh pháp , đem đến lợi ích cho tất cả những người cha mẹ khác trong xă hội sẽ trở thành một nền tảng đạo đức cơ bản cho con người , tâm hiếu là một tâm lư có tính cách văn minh , văn hoá . Truyền bá đạo hiếu sẽ tạo nên một truyền thống tốt đẹp , từ đó xă hội có điều kiện xây dựng hạnh phúc cho con người ngày càng tiến bộ và tốt đẹp hơn.Người người hạnh phúc tốt đẹp , nước nước an lạc vui tươi , Thế giới ḥa b́nh thịnh trị , đúng là thiên đường đẹp nhất tại trần gian không?
florida80
12-23-2019, 23:11
VÔ THƯỜNG.
Đă đành rằng Đức Phật Thích Ca dạy : TẤT CẢ VẠN PHÁP ĐỀU VÔ THƯỜNG . Nghĩa là tất cả vạn vật , chúng sanh , tạo hóa , thiên nhiên ...... tất cả đều phải chịu chung quy luật VÔ THƯỜNG ( có sanh ra th́ có diệt vong ) . Hiện nay có ai sanh ra và trường tồn măi măi trên thế gian này không ? Kể cả những bậc tôn xưng là Thánh ,Thần , Chúa , Phật ...... cũng đều bị hũy diệt theo định luật đă định , không ai chứng minh các bậc ấy đang hiện diện tại thế gian này . Cho dù con người khéo léo lường gạt , đánh bóng là các vị ấy KHÔNG CHẾT mà tái sanh hay đang ở một cơi trời nào đó , hoặc là đang sống bất diệt trên chín tầng mây ...... Những lập luận đó chỉ nói với kẻ thấp hèn ,nghiện đạo , hoặc có trí nhưng lại run sợ trước bạo lực , quyền uy của kẻ dữ thế tục mà không chứng minh đựơc h́nh ảnh thực tiễn .
Chuyện Hồi Giáo Taliban đă phá huỹ , chùa chiền ở Afghanistan năm 2001 chỉ là lập lại sự tàn bạo của những người Hồi giáo đă từng tiêu diệt Đạo Phật tại vùng Trung Á, Trung Đông, Ấn Độ vào thế kỷ thứ 8 đến 13 . Họ cũng chặt đầu Tăng Ni, đập phá chùa chiền, hủy hoại tượng Phật. Hôm nay họ dùng đại bác , súng cối đốt phá tượng Phật lớn nhất thế giới có từ 2000 năm nay tại Afghanistan .
Quan cảnh tượng Phật đứng cao nhất thế giới tại Bamiyan bị đốt phá .
Trước làng sóng phẩn nộ của toàn thể Thế giới lên án bọn khủng bố Taliban th́ Cộng đồng Phật giáo Thế giới đă phân hoá trong phản ứng đối với sự mất mát bất hạnh của các tượng Phật quư giá nhất Thế giới tại Afghanistan . V́ sao trước hành động đầy thương tâm như vậy mà cộng đồng Phật giáo dường như phân hoá về phản ứng bị chi phối trong bối cảnh của lời Phật dạy về nguyên lư "vô thường" và "từ bi." Nhiều ư kiến phát biểu đựơc đăng trên báo khác nhau :
-Shousie Hanayama ở New Jersey đề nghị hăy quên đi sự bất hạnh này, thay vào đó là vận dụng sự kiện này để phổ biến Phật pháp. Ông viết:
"Thực là bất hạnh, các tượng Phật ở Afghanistan do bàn tay của con người phá hủy. Nhưng mọi thứ là vô thường, thế nên tốt nhất chúng ta hăy từ bỏ sự chấp trước về các tượng Phật ở Afghanistan. Dĩ nhiên, đây là thảm kịch đối với người con Phật. Dù sao đi nữa, một trong các lư do của thảm kịch tuỳ thuộc vào chúng ta. Tốt nhất chúng ta nên truyền bá thông điệp của đức Phật khắp thế giới."
-Một người Phật tử khác đề nghị chúng ta nên suy tư về lời Phật dạy trong giờ phút này:
"Tâm vốn thanh tịnh và chiếu sáng, nhưng ngoại cảnh đă làm ô nhiễm tâm, tư tưởng, ảnh hưởng của các căn và các quan năng cảm giác. Lời di huấn của đức Phật để lại cho chúng ta là "này các đồ đệ hăy ghi nhớ lời ta dạy, các pháp hữu vi là vô thường; hăy tinh tấn tu tập."
-Jivananda Ong, ở Malaysia, cũng quan sát phương diện vô thường của các tượng Phật và mọi sự vật hiện tượng:
"Các pháp hữu vi là vô thường. Các tượng Phật sẽ phải bị hũy hoại do bàn tay của con người hay quy luật thời gian của thiên nhiên. Chúng ta không nên quá buồn khổ về việc này. Bởi v́ đó là chuyện thông thường. Sớm hay muộn ǵ, các tượng Phật cũng bị hủy hoại thôi. Các pháp hành là vô thường kia mà."
...... chung chung những ư kiến tiêu cực đưa ra quanh lư luận v́ hai chữ VÔ THƯỜNG . Duy chỉ có ư kiến của ông Trần Nguyên Như là khác lạ :
Trần Nguyên Như phàn nàn rằng học thuyết vô thường của đức Phật đă bị giải thích sai thành "sự đoạn diệt." Ông đă lư giải học thuyết trên từ góc độ chính chắn hơn:
"Tôi hoàn toàn không đồng ư với những Phật tử cho rằng các tượng Phật chỉ đơn thuần là "gạch đá" và lại càng không đồng ư khi ai giải thích rằng việc phá hủy các tượng Phật chỉ là hành động đập đá cho nát ra cát bụi. Mặc dù đức Phật tuyên bố rằng Ngài chỉ là Bậc đạo sư và không đồng ư cho chúng ta tôn thờ Ngài như thượng đế, không có ǵ sai lầm khi chúng ta tạc đúc h́nh tượng Ngài cũng như tôn thờ Ngài như biểu tượng của sự giác ngộ. Điều tôi lo ngại là một số Phật tử đă giải thích sai học thuyết vô thường thành sự đoạn diệt. Khi đức Phật dạy tất cả các sự vật hiện tượng là vô thường, hẳn Ngài không dụng ư rằng chúng ta nên hủy hoại thân thể và tài sản của ḿnh, cũng như không nên nhờ người khác làm điều đó. Ngài chỉ đơn thuần dạy chúng ta rằng mọi sự vật đều thay đổi hay sẽ chuyển hoá. Trong các t́nh huống bất hạnh hay khổ đau, chúng ta không nên phản ứng bạo động và thiếu trí tuệ. Điều mà chúng ta cần làm là nỗ lực hết ḿnh (khác với thụ động và thờ ơ) để cải tạo sự việc và t́nh huống theo chiều hướng tích cực. Người Phật tử nên dừng lối giải thích sai lệch học thuyết vô thường của Phật thành "thuyết đoạn diệt" dù là tự đoạn diệt hay tha đoạn diệt. Như là con đường trung đạo, giáo pháp của Phật nổi tiếng như là con đường thánh vượt lên trên hai cực đoan chủ trương thường kiến luận và đoạn diệt luận."
Trần Nguyên Như c̣n kêu gọi người Phật tử nên thể hiện tinh thần dũng cảm, năng động, sẵn sàng v́ công lư với một t́nh thương rộng lớn:
"Tôi đề nghị người Phật tử nên hành động tích cực hơn nữa trong từ bi để chống lại các hành động cực đoan của bất khoan nhượng tôn giáo, đặc biệt là đối với đạo Phật trong tương lai. Bằng không, tôi e rằng các di tích văn hoá Phật giáo sẽ bị tiêu diệt đi bất cứ lúc nào, tương tự như trường hợp bị phá hủy của đại học Na-lan-đà và các Phật tích khác tại Ấn Độ. Đừng trở thành kẻ quan sát thầm lặng trước cảnh tượng các tượng Phật bị phá hủy. Người ta không nên làm điều ǵ có hại hay bất công đối với người khác, nhưng đồng thời cũng không nên để người khác hảm hại và gây bất công cho ḿnh. Một lần nữa, tôi chân thành kêu gọi các Phật tử nên thể hiện sự dũng cảm, nỗ lực chân chánh trong việc bảo vệ văn hoá và di sản Phật giáo. Hăy phản ứng bằng trí tuệ và t́nh thương."
Vậy bạn là một Phật tử th́ bạn quan niệm thế nào về hai chữ VÔ THƯỜNG trước hành động của đạo Hồi giáo cực đoan do nhóm bạo lực Taliban thực hiện .
( c̣n tiếp )
florida80
12-23-2019, 23:11
Chữ VÔ THƯỜNG của Đức Phật là bao la , gồm cả Chủ Quan lẫn Khách Quan . V́ QUAN nào cũng đi đến SANH rồi DIỆT , dù diệt bằng h́nh thức nào cũng là DIỆT ( Destruction ) . Tượng Phật tại Bamiyan đă tồn tại trên 2.000 năm , nghĩa là với khỏang thời gian như vậy là khá vĩnh cữu ( không có nghĩa là bất diệt ) . Bàn tay của Taliban Hồi Giáo cực đoan không những ngày hôm nay mà trải qua hàng bao thế kỹ trước , giáo lư của Allhas không chấp nhận một tôn giáo khác , nhất là Phật giáo ( chung chung đạo thờ Chúa cho Phật giáo là Satan , tà đạo ) . Từ thế kỷ thứ 8 đến 13 , đoàn quân hung hản của Hồi Giáo đă từng tiêu diệt Đạo Phật tại vùng Trung Á, Trung Đông, Ấn Độ , họ giết hơn 300.000 tăng ni và hàng triệu Phật tử không chịu bỏ đạo . Những Phật tích nơi Ngài đản sanh ở vườn Lâm Tỳ Ni , vườn Nai , nơi Thích Ca thành đạo .......... đều bị đốt cháy và phá hũy , v́ chư Tăng từ bi bất bạo động , cho đến giờ này Phật giáo cũng không hồi sinh được .
Dư luận th́ cho rằng trước sau tượng Phật tại Afghanistan cũng huỹ diệt theo thời gian , đó là khách quan . Trái lại Taliban tự động đốt phá với chủ đích tiêu diệt theo Thánh kinh đó là chủ quan . Đối với giáo lư của Đức Phật bao la và rộng lớn , các Phật tử xúc động nhất thời nên phản ứng tuy có khác nhau nhưng tựu trung vẫn chưa NGỘ ĐẠO giáo lư của Ngài . Các bạn có biết đâu hàng bao kiếp trước Đức Phật cũng từng làm vua nắm đoàn quân đi tàn sát các tượng Thánh Thần khác . Bây giờ Taliban có đốt tượng Phật trở lại âu cũng là do NHÂN QUẢ mà ra . Quả nào cũng điều có nguyên nhân mới đưa đến . Cũng như tôi , bỏ công sức , nặn trí óc nhớ lại viết ra một bài để góp ư với độc giả , nhưng Moderator Đề- Lét bài tôi không thương tiếc . Nếu tôi là một Phật tử ngắn nghĩ , sân si do vô minh che lấp th́ đâm ra thù hằn , hoặc có những lời không mấy lịch sự với anh ta . Tôi quán chiếu biết đâu đời trước tôi đă từng giết hại vợ con anh ta , tôi có thể đă bợp tai , xé bài vỡ anh ta làm v́ dốt lúc anh ta là học tṛ của tôi . V́ nghĩ hai chữ NHÂN QUẢ , VÔ THƯỜNG mà tôi im lặng cho qua . Sau này anh ta cũng gặp quả báo trở lại không tránh vào đâu đựơc .
Đối với ông Trần Nguyên Như phàn nàn rằng học thuyết vô thường của Đức Phật đă bị giải thích sai thành "sự đoạn diệt." Thật ra ông chỉ nóng ḷng , nóng ruột mà phát biểu thế thôi . Mà cũng thật , ở đời " Con Giun xéo lắm cũng quằn " cho nên Hồi giáo đừng tưởng lầm Phật giáo cấm sát sanh . Giới sát sanh cần phải được diễn giải như sau:
" Đệ tử Phật không được giết người, trừ trường hợp phải bảo vệ quê hương và bảo vệ Đạo pháp. Việc các chiến sĩ cầm súng bảo vệ quê hương sẵn sàng tiêu diệt quân thù th́ ta đă quen thuộc và xem là chuyện b́nh thường; c̣n h́nh ảnh một đệ tử Phật phải cầm súng tiêu diệt bọn Hồi giáo khủng bố th́ ta chưa h́nh dung được. Nhưng đă đến lúc ta phải ca ngợi h́nh ảnh đó, v́ sao, v́ Phật Pháp cũng là một quê hương cao quư như quê hương đất nước của ta vậy. Ai bảo vệ quê hương Phật Pháp cũng là anh hùng như các anh hùng bảo vệ đất nước vậy."
Nếu Phật giáo không đứng lên tự vệ , chống đối Hồi giáo th́ trời sai đất khiến cũng có ông Tổng Thống Bush con đem quân diệt bọn Taliban tan nát . Đó có phải là Nhân nào quả đó phải không các bạn ? Hồi giáo ở Trung Đông từ xưa cho đến nay chuyên đi đàn áp , tiêu diệt Phật giáo th́ cái quả đưa đến là dân Chúa Allhas cũng bị chiến tranh bùng nổ liên miên trên đất nước họ . Dân Hồi giáo cũng dầu sôi lữa bỏng , máu chảy thành sông ....... đó là oan gia tương báo . Phật giáo KHÔNG LÀM và KHÔNG CẦN LÀM , nhưng vẫn có người đem nợ báo lại cho Hồi Giáo .
Phật Giáo không xem tất cả mọi người là kẻ thù , ngay cả đó là những tên Hồi giáo khủng bố tàn bạo giết dân lành , Phật tử một cách bừa bải , vô tội vạ . Cho nên một số Phật tử phản đối và muốn đứng lên chống cự . Chúng Ta chỉ dùng biện pháp cứng rắn khi mà các biện pháp mềm dẻo không có tác dụng cảm hóa, trái lại c̣n khiến cho kẻ xấu mạnh dạn tiếp tục làm bậy. Nếu ta không thể cảm hóa kẻ xấu th́ ít nhất ta phải ngăn chận không cho kẻ xấu làm hại người khác. Họ lư luận : Lịch sử đă chứng tỏ sự hiền lành của Phật Giáo đă giúp cho Hồi giáo bành trướng nhanh chóng. Nếu nhà Đường yếu đuối th́ Hồi Giáo đă chiếm luôn Trung Hoa mất rồi. Chính v́ quân nhà Đường cương quyết chống trả nên Hồi Giáo đă lui bước. Đến vua Thành Cát Tư Hăn nổi dậy đánh gảy sức mạnh bạo lực của Hồi Giáo đuợc một thời gian dài khiến cho thế giới tạm yên. Bây giờ th́ Hồi Giáo đang trở lại ư đồ xâm chiếm thế giới như trước. Nếu không có một Thành Cát Tư Hăn nào khác th́ mỗi Quốc gia phải tự biết bảo vệ ḿnh trước âm mưu xâm lược của Hồi Giáo , và Phật Giáo cũng phải biết đứng lên mạnh mẽ chống lại sức tiến chiếm của Hồi Giáo nếu c̣n muốn có đất để tu hành giáo hóa chúng sanh . Lập luận đó cũng đúng , nhưng đúng ở thế tục mà không đúng với Đạo Giác Ngộ của Như Lai .
Giáo lư của Ngài ngoài Vô thường , Nhân Quả c̣n có TỪ BI . Chữ Từ Bi trong Phật giáo là khả năng nhận thức rằng mọi sinh linh có giác cảm, từ con người cho đến các sinh vật khác đều gánh chịu khổ đau, khi nào tất cả các sinh linh ấy chưa được Giác ngộ và Giải thoát, th́ Từ bi chính là ước vọng mảnh liệt thúc đẩy ta phải Giải thoát cho tất cả mọi chúng sinh, trong đó có cả ta và những con người Hồi giáo cực đoan Taliban cũng đựơc giải thóat ra khỏi khổ đau. Sự vấy máu v́ Allhas làm cho họ điên cuồng và càng sa vào địa ngục thay v́ thấy đựơc Thiên Đàn mà họ đang đựơc hứa hẹn . Chúng ta càng xót thương hơn là óan trách họ .
V́ thế Từ bi không có nghĩa đơn giản là XÓT THƯƠNG Hồi Giáo một cách thụ động và tiêu cực, mà ngược lại Từ bi là một sức mạnh tích cực đưa ta thẳng vào hành động, trong mục đích loại trừ mọi thể dạng của khổ đau và mọi cội rễ của đau khổ nhằm thức tĩnh những con người đầy khát vọng ngông cuồng . Ở đời Từ Bi quá cũng không đựơc , v́ Phật Giáo có một sức mạnh tiềm tàng ( Đại lực - Đại hùng ) , nhưng cái sức mạnh đó phải sử dụng sau cùng khi mà tâm từ bi của chúng ta rải đến không làm thay đổi những con người Hồi Giáo cuồng điên . Tôi tin chắc rằng Hồi Giáo gây ra nhiều tội ác th́ tất phải gánh lấy quả báo nhăn tiền không sai . Trong khi chờ họ phản tĩnh th́ con người Phật tử chúng ta cũng nên tạt vào mặt họ một gáo nước lạnh , hay tát tai thẳng vào mặt những tên khùng điên trước khi họ giác ngộ .
florida80
12-23-2019, 23:12
ĐẠO GIÁC NGỘ .
Mấy hôm nay tôi thường lúng túng khi dùng danh từ Phật Giáo . V́ sợ bị hiểu lầm như ông Albert Einstein đă nói :
"Tôn Giáo của tương lai sẽ là một Tôn Giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi Thần linh, giáo điều và Thần hoc. Tôn Giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ư thức đạo lư, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lănh vực trên, trong cái nhất thể đầy đủ ư nghĩa. Phật Giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó."
Phật Giáo th́ phải hiểu là Phật Giáo Thích Ca Mâu Ni mới giải thóat con người bằng con đừơng tự tu tập , dùng trí tuệ và khoa học để vượt ra khỏi Vô minh , Thần linh ....... Chứ Phật giáo theo Ngài A Di Đà , Quán Thế Âm , Dược Sư ..... chỉ cầu nguyện các Ngài th́ Ngài mới cứu vớt , chứ đâu có bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ư thức đạo lư, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lănh vực trên, trong cái nhất thể đầy đủ ư nghĩa mà ông Albert Einstein nói . Vậy từ nay tôi sẽ dùng danh từ "Đạo Giác Ngộ " là nói đến Phật giáo Thích Ca Mâu Ni để tránh nhầm lẫn .
o O o
Bởi v́ chúng ta cứ gọi là Đạo Phật chung chung như vậy nên dễ bị ngộ nhận ,từ đó chúng ta không thể nhận thức được trọn vẹn cái ư nghĩa của đạo Phật ; mà khi chúng ta gọi là Đạo Giác Ngộ để thay thế chữ Phật th́ chúng ta mới thấy được cái ư nghĩa đầy trọn vẹn . Khi hoàn toàn giác ngộ ta mới thấy là ta không bị mê muội tin theo một tín điều , van xin , cầu nguyện ( ỷ lại ) ; cũng từ giác ngộ ta mới thấy sự sáng suốt của lư trí khi đến với giáo lư đạo Phật và ta tin theo cũng từ trong nhận thức của lư trí mà phát triễn để tinh tấn tu hành , tiến lên .
Trên bước đừơng tu tập đạt đến giác ngộ nó không khác nhau trên căn bản, nhưng tuỳ DUYÊN , tùy theo tâm tính, cơ thể , điều kiện sinh họat , địa h́nh , địa vật từng nơi chốn , khu vực , Quốc gia ..... mà mỗi con người thực hành một cách khác nhau . Ví dụ : Thời xưa c̣n tại thế Đức Phật hoằng pháp đi bằng chân đất ( không giày , dép ) , không có phương tiện di chuyển hiện đại như ngày nay , cọng thêm truyền thanh , truyền h́nh , Internet để chuyển đạt cho chúng sanh khắp năm châu . Cũng như Phật giáo Nguyên Thuỹ giữ đúng những nghi thức , hành đạo đúng theo lề lối của Bổn Sư . Nhưng đạo Phật qua Trung Hoa th́ biến đổi là các chùa tự sản xuất để nuôi sống , không đi khất thực , học vơ công để tự vệ . Sửa lại điều 10 của Phật Tổ là có quyền giữ vàng , bạc . V́ không thể sống và phát triễn mà thiếu ngân lượng ( Điều này Đức Phật cho phép có thể tuỳ duyên sửa đổi ) .
Giáo lư của Đức Phật Thích Ca trong Đạo Phật không phải là con đường TIN ĐỂ ĐỰƠC GIẢI THÓAT mà là con đường THỰC HÀNH để đến được giác ngộ. Khi đạt đến Giác ngộ mới thấy là ta không bị mê muội tin theo một tín điều mê hoặc , mù mờ , viễn vông .... với giác ngộ ta mới thấy cái sáng suốt của lư trí khi chúng ta học và hành theo Ngài . Từ sự hiểu biết đó ta tin theo cũng từ trong nhận thức của lư trí mà ra . Cho nên, những ai tin theo giáo lư Đức Phật không qua h́nh thái nhận thức bằng lư trí th́ sai lầm và hoàn toàn thiếu sót .Những đức tin phải đựơc kiểm nhận và đem ra thực hành không gây đỗ máu và khổ đau : Đó là tính chất khoa học trong đạo Phật hay nói một cách khác :
"Giáo lư đạo Phật không bắt buộc làm cho tín đồ phải mê muội tin theo, hoặc phải mù quáng mà đâm ra cuồng tín hoặc tin mà thiếu nhận thức bằng trí óc và thực hành".
Đối với giáo lư của Đấng Giác Ngộ đủ các hạng cao thấp , tùy duyên mà hóa độ cho chúng sanh dễ nhận thức và tu tập thành chánh quả . Trong Kinh Kim Cang có câu :
"V́ tŕnh độ của chúng sanh có sai khác, nên có các quả Thánh hiền sai khác, chứ không phải Phật pháp có sai khác."
Tôi ví dụ như trong Tàng Kinh Các có nhiều bài thuyết giảng Phật Pháp của quư Thầy . Nhưng không phải Thầy nào giảng th́ Phật tử đều hiểu . Có hiểu , vui thích mới vỗ tay chứ . Tôi lược qua một vài giảng sư như Đ Đ Thích Nhật Từ , Đ Đ Thích Thiện Thuận , Đ Đ Thích Phước Tiến , TT Thích Pháp Hoà , Thích Minh Hiếu v.v... Những bài giảng trong các khóa tu Phật Thất của Thầy Thiện Thuận , Phước Tiến th́ vui vẽ và đựơc vỗ tay rất nhiều , v́ bài giảng đi sát với thực tế và có chút vui đùa trong đó ( hợp với Phật tử b́nh dân ) . Trái lại Thầy Nhật Từ quá nghiêm trang và dùng từ ngữ , điển tích quá cao xa trong kinh điển , hơn nữa Thầy ít thêm vào những mẫu chuyện vui ( tiếu lâm ) , nên đa phần Phật Tử không hiểu nhiều ( tôi tin thế ) nên ít vỗ tay . Trái lại cá nhân tôi rất thích các bài giảng của giảng sư Tiến sĩ Thích Nhật Từ , v́ tôi hiểu Thầy .
So với tŕnh độ chúng sanh có khác như vậy nên Đức Phật không quên nhắc nhỡ rằng:
"Ta cũng như người dùng ngón tay chỉ mặt trăng, các ngươi phải nhơn ngón tay mà xem mặt trăng. Nếu chấp ngón tay cho là mặt trăng, th́ chẳng những không thấy được mặt trăng, mà cũng không biết luôn ngón tay"
(Kinh Lăng Nghiêm) .
Những giáo lư mà Ngài dạy chỉ là phương tiện để di chuyển ( như con thuyền ) hoặc chỉ đường, hướng dẫn cho chúng sanh theo đó mà tu hành đạt đến giải thoát, chứ không phải ngón tay Ngài là giáo lư rồi ôm nó mà sùng bái . Nh́n chung kinh điển của Ngài nói quá cao xa, nhất là người Việt chúng ta chưa dịch Kinh từ tiếng Trung Hoa , Pali qua tiếng Việt Nam nhiều cho lắm , v́ vậy mà chúng ta đă phải nghiên cứu thật nhiều hầu hiểu rơ con đường tu tập cho đúng ĐẠO GIÁC NGỘ của Ngài Mâu Ni . Nếu không sẽ bị dẫn dụ qua một con đừơng mê muội khác dù cũng mang danh từ Phật giáo .
Muốn đạt đến ĐẠO GIÁC NGỘ điều quan trọng là Trí tuệ . Nhưng trí tuệ bị suy đồi do trụy lạc mà ra . Ái dục là một điều cần có , v́ nó điều hoà sinh lư cơ thể , nhưng thái quá th́ đâm ra tŕ trệ , đọa lạc thân thể lu mờ trí tuệ . Bản năng con người cần có là :" ĂN , NGŨ , ĐÉO , ỈA " , những từ ngữ viết lên th́ trắng trợn , thô tục , nhưng thực chất này không thể chối bỏ cho muôn loài không riêng chi con người . Thiếu một trong 4 yếu tố trên con người sẽ chao đảo và mất b́nh thường ( mad ) . Có bạn hỏi tôi : " Vậy các tu sĩ ( ngoài Mục sư ) không sex th́ sao , mất b́nh thường ( mad )?" . Có ! Khoa học xét nghiệm phần lớn những tu sĩ có tánh không mấy thăng bằng về thể xác , tư tưởng . Nhưng nhờ các vị đó có nghị lực cao , quán chiếu và chế ngự đựơc bản năng và phát triển như là một lối thóat về phía tâm linh , trí tuệ giúp đở và kèm chế dục vọng . V́ thế trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật dạy Ngài A Nan rằng :
" Nếu không đoạn trừ DÂM DỤC sẽ đọa vào Ma đạo; không dứt sát hại sẽ đọa vào Thần đạo; không bỏ trộm cướp th́ đọa vào Tà đạo và không trừ vọng ngữ th́ thành ma ái kiến, mặc dù chúng sanh đó có tâm trí diệu ngộ, thanh tịnh đến đâu; và như thế tất cũng không đạt được đạo Bồ Đề."
Giác ngộ đựơc vấn đề này , tôi đă song hành việc ăn chay với DIỆT DỤC từ năm 2006 cho đến nay . Tôi tránh ngũ chung với vợ , tránh gặp giới Phụ nữ dễ bị vọng động , nếu gặp th́ không nh́n thẳng vào thân thể họ , nếu nói chuyện th́ dè dặt ngôn từ . Giác ngộ nữa vời như tôi cũng khổ . Khi đứng trước phụ nữ nếu tôi quán chiếu tà dâm th́ trước mặt tôi họ trần truồng ( dù đang mặc áo quần ) , những lúc đó tôi ngưng và định tâm trở lại . Cũng như thân tôi có nội lực ( luồng điện ) nên sờ vào vật dẫn điện nào cũng bị giật làm rùng ḿnh . Cũng khổ cho tôi . Thành ra tôi luôn luôn tŕ niệm TÂM thật thanh tịnh để không bị suy nghĩ nhảy lung tung sanh ra tà niệm . Nếu muốn thoát ra, chúng sanh phải tự ḿnh chiến đấu , diệt trừ mọi dục vọng, tà dâm ,tham ái . Phải cương quyết đọan tuyệt những tâm xấu, biết nuôi dưỡng và phát triển tâm thiện luôn luôn hướng đến Đức Phật để học đừơng giải thóat bằng những bài giảng trong :
1-Tứ niệm xứ .
2-Tứ chánh cần .
3- Tứ như ư túc .
4- Ngũ căn .
6- Ngũ lực .
7- Thất Bồ đề phần
8- Bát chánh đạo .
Hầu để hun đúc thành tựu cho bản thân ḿnh được một sự ĐẠI HÙNG - ĐẠI LỰC - ĐẠI TỪ BI và một ḷng cương quyết thoát khỏi ṿng trầm luân, khổ ải sớm hoàn tất đạt đến con đường giải thoát, đó là Niết Bàn .
Đạo Giác Ngộ là chỉ cho ta con đừơng tự giải thóat . Thật ra không ai có quyền năng tối thượng tha tội hay độ tŕ chúng sanh . Chẳng qua đó là ḷe , bịp kẻ vô minh mà thôi . Ngay như Ngài Thích Ca giảng Pháp 49 năm , cuối cùng Ngài vẫn nói :
" Suốt 49 năm qua Ta không nói một lời nào cả "
Chính câu này làm cho các bậc thức giả suy nghĩ nát óc . C̣n kẻ tà đạo , trí hèn th́ không hiểu nên phân tích và dèm pha . Thật vậy trong Kinh Kim Cang (Trang 168). Ngài có nói :
Này ông Tu Bồ Đề! Ông chớ lầm tưởng . Như Lai nghĩ rằng:
"Ta độ chúng sanh". Tại sao vậy? Nếu Như Lai có nghĩ: "Ta độ chúng sanh", th́ Như Lai c̣n chấp bốn tướng Ngă, Nhơn, Chúng sanh và Thọ giả, tức nhiên không phải Như Lai. Bởi thế nên, Như Lai thật không có độ chúng sanh nào cả".
Vậy th́ Phật A Di Đà , Quán Thế Âm , God .... nói làm sao đây khi Như Lai nói như vậy ????
Ngài quả là một người thẳng thắn và không " Vơ tất cả nhận cho ḿnh , khi nó không phải của ḿnh " . Ngài không nói ǵ cả , cũng chẳng dạy điều chi mới lạ . Từ khi trở thành Bậc Giác Ngộ, Ngài nói lại những CHÂN LƯ đă có từ lâu . V́ CHÂN LƯ là trường tồn , bất biến không đổi thay qua thời gian lẫn không gian . Ngài chỉ là vị Thầy khả kính chỉ dẫn con đường để tất cả chúng trở thành người giác ngộ . Ngài cũng như vô số Phật đă thành đạo trong thời quá khứ, hiện tại đang thành và sẽ thành Phật .
Ngài quả là bậc trí trên bậc trí . Bậc Thầy của các vị Thầy .
(c̣n tiếp)
florida80
12-23-2019, 23:13
TÂM NGUYỆN CỦA TÔI .
Tôi đă từng trải qua bao nhiêu cách tu hành mong đựơc giải thóat ,chứ không mong đợi sau khi chết đựơc về cỏi Tây Phương cực lạc của Đức Phật A-Di-Đà . Hơn nữa Ngài bắt buộc phải cầu Ngài mới đựơc chấp nhận về cực lạc .Vậy th́ cũng giống Chúa Jesus phải tin Ngài , run sợ Ngài và cầu nguyện mới đựơc lên Thiên đàn . Tôi thấy như vậy hai Ngài A-Di-Đà và Jesus c̣n cố chấp và không từ bi bằng Đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni . Ngài có một giáo lư rơ ràng và khoa học . Ngài dạy chúng sanh phải tinh tấn tu hành và tự giải thóat " Hăy thắp đuốc lên mà đi " . Phải t́m nguyên nhân khổ để tự ḿnh giải thóat lấy cái khổ do chính ḿnh gây ra hay tha nhân đưa đến . Phải biết tu tập trên con đừơng Bát Chánh Đạo . Từ những nhận thức đơn giản đó tôi đă nguyện đi theo con đừơng tu tập , giải thóat bản thânh là chính .
Suốt 15 năm nay tôi vẫn loay hoay đi t́m đạo . Tôi cố chọn một phương pháp tu trong 84.000 cách tu mà Như Lai đă dạy . Ban đầu th́ tôi theo cách tu hành phổ thông là tụng niệm . Nhưng cũng loanh quanh giới hạng trong các kinh Sám Hối , Cầu An , Vu Lan Báo Hiếu v.v......
Cách tụng th́ theo các Thầy có khi nhanh , có khi chậm . Nhưng theo tôi nghĩ th́ tụng kinh phải rơ ràng , chậm và hiểu nghĩa kinh th́ hợp lư hơn :
"Tụng lời Kinh xưa mà Tụng rơ Từng Chữ, Từng Câu. Chú Ư Từng Nghĩa, Từng Lời mà Tâm Không Mong Cầu. Người Tụng và Câu Kinh làm sao cho Thấu Thông Đồng Nhất. Khai Ngộ Ta và Người trong Đệ Nhất Nghĩa thâm sâu…"
Qua vài năm tụng niệm tôi lại giác ngộ ,nếu cứ cầu an , cầu siêu th́ không đúng với lời chỉ dạy của Như Lai . An hay không là tự ḿnh có lấy . Không tranh chấp , hận thù , gây chiến tranh th́ có ai khuấy phá , trả thù mà mong cầu đựơc yên thân . Giả sử ta không muốn mà họa vẫn đến , đó là không mong cầu . Gặp những lúc đó th́ bản năng tự tồn Như lai đă dạy ta biết cách bảo vệ và chiến đấu . Không khiếp nhược , không hung tàn đó là tinh thần của Phật Giáo bất diệt :"Đại hùng , đại lực , đại từ bi " .
Những ư nghĩ ấy nên tôi không tu theo phương pháp tụng niệm . Tôi bắt đầu ngồi Thiền .V́ tôi biết tu cách nào cũng tốt và không sai với lời dạy của Đức Phật :
- KINH : Là Lời Phật .
- THIỀN: Là Tâm Phật .
- CHÚ: Là Tiếng Phật .
- NIỆM PHẬT : Là Tiếng của Chúng Sinh gọi Phật .
- NIÊM HOA THỊ CHÚNG: Là Chỉ Thẳng ngay Phật .
Cả Năm Bảo Pháp vừa kể đều từ Tâm Phật mà ra.
Qua nhiều năm Thiền định tôi lại ngộ rằng : Dù tu cách nào cũng đưa đến mục đích là TÂM THANH TỊNH . Như vậy tại sao ta không đi thẳng " Trực chỉ chân tâm " . Cũng từ đó tôi bỏ tụng niệm lẫn tu thiền mà chỉ TU TÂM . Muốn cho tâm đựơc thanh tịnh như mặt nước hồ thu th́ chỉ có cách là không giận hờn , chấp trách những chuyện thị phi của chính bản thân ḿnh và mọi người chung quanh .Tôi bắt đầu ăn chay trường trai từ tháng giêng năm 2008 để tránh sát sanh . Tôi tập không nói dối , vọng ngôn . Không uống rượu ( điều này xưa nay không có ) . Không tà dâm , không trộm cắp , không cờ bạc . Đó là 5 giới cấm căn bản cho Phật tử tại gia .
Tôi nhận định khác hẳn mọi người về cách tu và học Phật . Học Phật là học để làm chủ chính ḿnh. Học Phật là học để loại bỏ những tập khí xấu xa mà ta đă huân tập từ lâu để trở nên một con người Tự Giác rồi Tha Giác .Học Phật không phải để khoe khoang thuộc nhiều kinh . Đôi lúc tụng kinh mà chẳng hiểu kinh dạy ǵ .Ta nên hiểu rằng : V́ sao cần phải tu hành ngay từ bây giờ . Đừng chờ đến ngày gần chết hay già nua rồi mới tu . Tu là sửa đổi. Hành là thể hiện những điều hiểu biết của ḿnh thành việc làm. Sự Tu Hành, do đó cũng không xa rời cuộc sống b́nh thường này, không xa rời cái trật tự thiên nhiên của mọi vật trên đời này, và cảnh giới Niết Bàn cũng vậy, nó cũng ở ngay đây, do kết quả của sự hóa giải những phiền năo trong ta, chứ không cần phải đợi đến lúc Chết hay phải t́m kiếm nó ở một nơi chốn xa xôi nào khác như cầu nguyện A-Di-Đà để mong đựơc cứu vớt về Tây Phương .
Hầu hết tất cả phật tử, ai cũng ước mong sau khi qua đời được văn sanh về cơi Tịnh độ, nhập Niết Bàn, không c̣n luân hồi sinh tử nữa. Vậy Niết Bàn ở đâu? Sự khác biệt giữa Niết Bàn của Đạo Phật và Thiên đàn của các tôn giáo khác như thế nào?
Có nhiều người hiểu Niết Bàn là cảnh tiên giới, vui đẹp đặc biệt , giống như Thiên đàn của các tôn giáo khác. Nơi đó có đầy hoa thơm, cỏ lạ, nhiều ngọc ngà châu báu,xa cừ mă năo , san hô hổ phách , có những ông Tiên nhàn rỗi đánh cờ, những nàng tiên xinh đẹp ca múa, rong chơi suốt ngày, không biết thời gian là ǵ ,không cần lo cái ăn , cái mặc . Ở đó không có nghèo khổ, bất công, lo âu, vất vả, phiền muộn như ở thế gian. Và chỉ khi nào chết, hương linh mới có thể đến đó được. Thật là buồn cười và mê hoặc . Thiên đàn , Niết Bàn , Tây Phương cực lạc không đâu xa . Nó đang ở tại thế gian này , nó nằm trong tâm của ta . Tôi nghiền ngẫm nhiều kinh sách, theo nhiều lớp giảng của quư thầy, cố t́m hiểu th́ được biết, hai chữ Niết Bàn dịch từ âm của chữ "Nirvana" nghĩa là ra khỏi rừng mê. Niết bàn là vắng lặng, dứt sạch tất cả si mê, chấp ngă , ngă mạn. Niết bàn là giải thoát, giác ngộ, không c̣n luân hồi sinh tử. Như vậy không đợi đến sau khi chết con người mới có thể lên Niết Bàn, mà khi nào tâm ḿnh được thanh tịnh, tuyệt đối an lạc, tự tại là ḿnh đang ở Niết bàn.
Về phương diện siêu h́nh, Niết Bàn là sự giải thoát khổ đau. Về phương diện tâm lư Niết bàn là sự tiêu diệt hoàn toàn ḷng ích kỷ, vị kỷ, vọng tưởng, tham ái. Về phương diện đạo đức Niết bàn là sự tận diệt Tham, Sân, Si, tận diệt tự ngă hay là cái "Tôi", cái "Của Tôi" cái "Tự Ngă Của Tôi".
Thật vậy , khi tâm thanh tịnh , an nhàn không lo nghĩ , giận hờn , óan trách . Không hơn thua , gây óan , kết thù th́ tâm ta đựơc b́nh an . Đó chính là cơi tiên , Niết Bàn ...... mà không ai chịu giác ngộ để nhận ra để đạt đến chân lư.
florida80
12-23-2019, 23:13
TÔI NGUYỆN ĂN CHAY TRƯỜNG .
Từ nhỏ lúc mới 7 tuổi tôi đă biết ăn chay . V́ mẹ tôi thường ăn chay 4 ngày trong một tháng : ngày 30 , mồng một , 14 và ngày 15 ( rằm ) .
Sự thật ăn chay v́ theo Mẹ tôi nấu như vậy nên phải ăn . Nhưng tôi vẫn thích ăn thịt cá hơn . Thấy tôi yếu ốm nên sau này Mẹ tôi không ép buộc tôi ăn chay theo Mẹ . Trên mâm cơm chay vẫn có những đĩa thịt heo ram mặn mà tôi ưa thích . Nhưng mỗi lần ăn thịt tôi muốn gắp một món chay cho lạ miệng th́ Mẹ tôi la rầy ngay :
-Đồ chay của Mẹ con không đựơc dùng đũa mặn vào .
Sau này lớn lên và hiểu " Thế nào là ăn chay " tôi mới thấy không những Mẹ tôi mà đa phần các Phật tử đều quan niệm như thế . Những đĩa , chén , đọi , muổng , nĩa ........ dùng ăn chay là để riêng . Họ không hiểu rằng ăn chay là để giảm đi sát sanh chứ không do bát đĩa .V́ sao tôi nói ăn chay là để GIẢM đi sát sanh . Không phải ăn trâu ḅ , gà vịt ...... mới là sát sanh . Sự thật trong đời sống hàng ngày sự sinh họat , di chuyển chúng ta đă và đang giết bao nhiêu chúng sanh . Nhưng v́ nhỏ như vi trùng , côn trùng ..... mà mắt trần không thấy đựơc . V́ vậy Đức Phật có lệ ba tháng AN CƯ KIẾT HẠ là mùa côn trùng sanh sản dễ bị chà đạp khó tránh né . Cũng như phụ nữ thường là kẻ giết người nhiều nhất mà họ không thấy ( ngoài tội dẩm đạp côn trùng bằng người nam ) họ c̣n giết thêm nữa . Những lúc giao cấu nam nữ , hàng triệu tinh trùng chạy đua vào tử cung , nằm đó chờ trứng rụng ( thường từ 2,3 hôm ) . Nếu trứng không rụng th́ người đàn bà tiết ra chất acit ở tử cung và giết hết tinh trùng ( giết người tập thể ) . Nhưng nh́n ra , đây không phải là tội cố sát sanh , mà do bản chất tự nhiên của thân thể .
Những năm khi tuổi bước vào 30 rồi 40 ...... tôi thấy cuộc đời biến đổi không ngừng mà Đức Phật dạy là VÔ THƯỜNG . Nếu đời không vô thường th́ làm sao ta lớn lên và già đựơc . Tôi thường tận mắt thấy mỗi lần làng tôi lễ tế XuÂn Thu th́ giết Trâu Ḅ . Tiếng kêu là của con vật vùng vẫy t́m sự sống . Chúng bị đánh , đâm , thọc cho đến chết . Từ những h́nh ảnh đó làm cho tôi ghê sợ chiến tranh . Sau này khi sống ở Mỹ tôi xem D V D " Những tiếng kêu gào thảm thiết " . Những con ḅ , con heo bị ḷ mổ hành hạ trước khi giết để lấy thịt đưa ra thị trường mua bán . Mỗi lần ngồi trước món bít tết mà người Mỹ ưa thích nhất là tôi nghĩ đến cuốn phim đầy tiếng kêu gào thảm thiết kia mà không tài nào ăn đựơc . Rất nhiều người sở dĩ thích thịt heo , ḅ bởi họ cảm thấy thơm ngon sau khi đă được nướng hay xào nấu, bằng những gia vị tuyệt hảo sau khi ướp, họ không cảm nhận và biết được cảm giác sợ hăi mà những con heo , ḅ phải chịu trước khi thịt gan bị mổ xẻ một cách tàn nhẫn của con người . Cái h́nh ảnh không bao giờ xóa mờ khi những giọt nước mắt lặng lẽ rơi khi con heo , ḅ sắp dẫn đến hành quyết . Chúng rên siết và chết từ từ trong khổ đau nên mang theo hận thù chảy theo từng ḍng máu tồn lại trong thịt . Chúng ta ăn thịt chúng là ăn theo sự thù hận và khổ đau . Từ đó sự biến thái chảy trong tim mạch của con người lớn dần và tạo nên bản tánh hung tàn , độc ác đựơc thể hiện qua cuộc sống và hành động hàng ngày .
Từ khi nhận thấy được sự tàn bạo của loài người đối với súc vật, tôi đă ngừng ăn thịt và có tâm nguyện ăn chay trường . V́ thân thể ḿnh đựơc nuôi dưỡng nhiều ngày bằng thịt cá . Tôi sợ có vấn đề cho sức khỏe chăng ? Nên tôi nguyện không ăn vật 4 chân như trâu ḅ , dê , cừu ..... suốt năm 2006 . Thấy đựơc tôi nguyện tiếp không ăn vật hai chân như gà , vịt , chim ...... ( đương nhiên không phải con người ) năm 2007 . Măi đến tháng giêng năm 2008 th́ tôi nguyện ăn chay trường cho đến bây giờ .
( c̣n tiếp )
florida80
12-23-2019, 23:14
NGUYỆN ĂN CHAY TRƯỜNG ( tiếp theo )
Tâm trạng của tôi biến đổi không dừng . Tôi phải can đảm quyết không dúng đũa vào những món thịt cá thơm ngon của vợ tôi bên cạnh mâm chay . Tôi cũng không đ̣i hỏi phải ngồi riêng và dùng chén đủa riêng như Mẹ tôi quan niệm ngày xưa . Phải chăng khi tiếp cận với tội ác , đam mê , danh vọng .....chính là sự thử thách nghị lực của con người .Những lần đi nhà hàng ăn cuối tuần , vợ con tôi khi nào cũng gọi những đĩa bít tết ngọt ngào , thơm phức . Nhưng tôi vẫn order một đĩa xào toàn rau cải , uống nước lă . Cũng như những lần giỗ , tiệc do bạn bè mời , tiếp đải . Tôi không cho nhà tôi báo cho họ là tôi ăn chay . Tôi vẫn b́nh thản tham dự chung như không có ǵ xảy ra . Nhưng tuyệt đối tôi chỉ ăn rau cải dù nằm chung với thịt trong đĩa . Tôi không muốn sự ăn chay của ḿnh là một cá biệt và làm phiền mọi người . Tu là ở TÂM không phải h́nh thức bề ngoài .
Thú thật những lúc ngửi mùi thịt nướng , ḷng tôi cũng khát khao lắm . " Giá mà ta ăn một miếng th́ sướng biết bao " ( tôi thầm nghĩ thế ) . Nhưng ư nghĩ xấu xa đó tôi vội cho qua mau .
Ngày xưa , sau khi Thái Tử Tất Đạt Đa t́m đừơng tu khổ hạnh suốt sáu năm . Ngài thấy thân thể gầy ṃn th́ làm sao tinh thần minh mẫn đựơc . Ngài liền rời bỏ chỗ tu và t́m cách lấy lại sức . Vào lúc đó nhờ uống bát sữa, do một thôn nữ tên là Sujata cúng dường, sau đó, Ngài tắm ở sông Neranjara (Ni Liên Thuyền). Tối đến, Ngài đến ngồi dưới gốc cây Pippala, sau này được đổi tên là cây Bồ đề, để đánh dấu sự kiện thành đạo vĩ đại của Ngài suốt 49 ngày đêm t́m đạo Giác Ngộ , quyết không đứng dậy nếu không thành .
Ngài ngồi thiền định với tâm định tỉnh, trong sáng như gương, Ngài suy tư về lẽ sống chết, về những nguyên nhân nào dẫn tới luân hồi sanh tử và con đường giải thoát, dẫn tới Niết bàn, Ngài nhớ lại, thấy rơ các kiếp sống trước đây của ḿnh, một kiếp, hai kiếp cho tới hàng trăm ngàn kiếp. Ngài nhớ lại, thấy rơ các chu kỳ thành hoại của một thế giới, nhiều thế giới ( ta bà thế giới ). Ngài thấy rơ các chúng sanh, tùy theo nghiệp nặng nhẹ, thiện ác do ḿnh tạo ra, luân hồi như thế nào trong các cơi sống, từ thời vô thủy cho tới ngày nay. Ngài thấy rơ, biết rơ tự bản thân Ngài đă đoạn trừ hết mọi tham ái, lậu hoặc, vô minh, đă được giải thoát và giác ngộ, để thành tựu đạo Vô thượng. Ngài đă thành Phật.
Đến ngày thứ 49 Ngài Giác ngộ , ánh sáng hào quang rực rở , chim muông ca hát líu lo như mừng rở đón chào một vị cứu tinh của nhân lọai . Trái lại lũ Ma Vương Qũy sứ , Dạ Xoa , Yêu nữ , Tinh Tinh ....... đến quanh Ngài nhảy múa vừa mời gọi , lôi cuốn sự ham muốn về dục vọng , sự thèm khát vật chất cũng vừa hâm dọa ...... Ngài vẫn tŕ chí quyết tâm đạt đến đạo .
Ngày trước đọc Kinh thấy quá tŕnh chông gai của Như Lai khó khăn như vậy . Khi thành chánh quả th́ bị loài ma quỹ đến hâm dọa , quyến rũ . Tôi hiểu như thế và tin thế như Kinh sử ghi chép lại . Đối với tôi sau những ngày phát nguyện từ bỏ tất cả để chay trường . Những lúc va chạm với thực tế , ḷng tôi vẫn thèm khát , ham muốn , nếu tôi không vững chí th́ dễ bị sa ngă . Tôi đă GIÁC NGỘ và hiểu rằng : Những Ma Vương Qũy sứ , Dạ Xoa , Yêu nữ , Tinh Tinh ....... chính là sự thèm khát , đói khát do không ăn uống 49 ngày tạo nên . Các bạn cứ thử đi , tuyệt thực 40 ngày đă là khó , trong khi tuyệt ăn th́ có uống . Ở đây Ngài hoàn toàn không ăn lẫn uống . Thử hỏi thân thể c̣n đủ sức để ngồi vững không ? Nhưng lúc đó sự thèm ăn , thèm uống chính là những ma vương kia . Ngay các Yêu nữ , Tinh Tinh hiện thân lơa lồ , gợi cảm là h́nh ảnh tượng trưng cho ḷng tham muốn về quyến rũ sự dục vọng . Từ đó tôi hiểu rằng trong Kinh chép như thế mà tôi nghĩ rằng đó là những Ma Vương Qũy sứ , Dạ Xoa , Yêu nữ , Tinh Tinh ....... thật sự .
Phải chăng GIÁC NGỘ là do sự HIỂU BIẾT . Muốn hiểu biết th́ TRÍ TUỆ phải minh mẫn . Muốn minh mẫn th́ phải có một thân thể cường tráng . Ngài đă vượt qua tất cả . Trên cả con người lẫn loài người . Ngài đă thành quả trong một thân thể đ̣i hỏi vật chất nhất . Nhưng Ngài đă chiến thắng và dẫn dắt chúng sanh giải thóat khổ đau sau này .
Những Ma Vương Qũy sứ , Dạ Xoa , Yêu nữ , Tinh Tinh ....... cũng thường đến với tôi khi sự ham muốn và thèm khát đ̣i hỏi suốt thời gian chay trường . Những h́nh ảnh Ma Vương Qũy sứ , Dạ Xoa , Yêu nữ , Tinh Tinh ....... chỉ là biểu hiện , tượng trưng cho trở ngại chứ không THẬT . Nếu những người đọc kinh và không hiểu kinh ( nhất là ngọai đạo hoặc Phật tử đi sai đừơng ) th́ hiểu rằng Ma Vương Qũy sứ , Dạ Xoa , Yêu nữ , Tinh Tinh ....... là h́nh ảnh Ma Quỹ có thật , rồi vái lại , cúng dường một cách sợ sệt . Họ cúi đầu cầu nguyện cho tai qua nạn khỏi . Gặp phải lớp Tăng không chân chính , đi sai đừơng hoặc biết th́ im lặng để thủ lợi , nhằm hù dọa Phật tử . Cũng có nhiều Tăng không hiểu cho đó là Ma thật nên Thầy cứ nhắm mắt truyền dạy như thế để thủ lợi mà hầu hết Phật tử đang tin theo .
Tôi sẽ chia sẻ những mẫu chuyện trong đời tôi tu tập đă GIÁC NGỘ hầu chia sẻ các bạn
florida80
12-23-2019, 23:14
THẾ NÀO GỌI LÀ SỐNG ? (bài cho con )
Điều mà Ba vẫn thường muốn nói với các con : THẾ NÀO GỌI LÀ SỐNG ? Cuộc sống làm sao mang đầy ư nghĩa vốn có của nó , không phải sống là để ăn , biết cử động và làm các công việc hàng ngày . Dù các con có muốn hay không th́ cuộc sống này vẫn không bằng phẳng như ư muốn. Ngay bây giờ các con hăy tích luỹ cho ḿnh những kinh nghiệm để khi gặp khó khăn nó sẽ là sức mạnh của động lực, những tia sáng soi đường giúp ḿnh vượt qua được bóng tối u minh .
Sống trong vũ trụ đă là vật hữu h́nh tất nhiên phải chịu quy luật sanh tử mà Đức Thế Tôn đă giảng .Đó là định luật tất nhiên của mọi vạn vật, cũng là quy luật bất di bất dịch của cuộc đời áp dụng cho bất cứ ai , dù là Phật Tổ hay God...... V́ vậy các con hăy quan tâm những công việc trước mắt là quan trọng nhất và đừng bận tâm đến những ǵ c̣n xa vời trong tương lai hay công việc đă xảy ra trong quá khứ . Nếu biết lọai bỏ quá khứ và tương lai th́ đó là cách chắc chắn nhất để được b́nh yên và thảnh thơi trong hiện tại của cuộc sống . Quá khứ đă chết đừng để nó sống lại nữa hăy quên nó đi v́ nó không c̣n giúp ǵ cho hiện tại . Phải chăng quá khứ đau buồn chỉ làm cho các con lo nghĩ mà mất đi tinh thần chiến đấu sống c̣n . Tương lai th́ chưa đến , không có ǵ phải bận tâm lo xa , nói như vậy không có nghĩa Ba khuyên các con đừng gắng sức lo cho ngày mai và cũng không có nghĩa là hoàn toàn quên hết quá khứ, mà cách tốt nhất để sửa soạn cho ngày mai và hoàn thiện quá khứ là dồn tất cả công việc vào ngày hôm nay đạt đến thành công .
Ba ví dụ chuyện chiếc tàu Titanic của nhóm người Anh đi t́m tự do đă ch́m ngoài biển khơi Bắc Đại Tây Dương đêm 15-4-1912 làm hơn 1.500 người chết đă không ngừng làm đề tài cho bao tác phẩm văn chương nghệ thuật măi đến sau này . Titanic có nghĩa là vỹ đại. Đặt tên như thế con người muốn nói lên niềm kiêu hănh cho một công tŕnh to lớn vào thời bấy giờ. Nhưng dù có vỹ đại cách mấy các con cũng đừng tưởng nó có thể đạt được siêu nhiên trước tiến bộ khoa học kỹ thuật để rồi thách thức với sức mạnh thiên nhiên.
Từ khi chiếc tàu bị đắm , có tờ báo ở Anh đă đăng kề nhau hai bức ảnh có nội dung như sau:
1-Thứ nhất :
Chiếc tàu chạm vào tảng băng, bên dưới có ḍng chữ: "Sự yếu đuối của con người và sức mạnh của thiên nhiên".
2-Thứ hai :
Một người đàn ông nhường phao cứu hộ của ḿnh cho người đàn bà đang bế con trên tay. Lần này bức ảnh được chú thích bằng ḍng chữ: "Sự yếu đuối của thiên nhiên và sức mạnh của con người".
Sự vỹ đại đích thật của con mgười không hẳn nằm trong khả năng chinh phục hay chế ngự thiên nhiên, mà chính là trong khả năng chế ngự được bản thân vượt thắng sự ích kỷ của con người . Phật giáo đấu tranh trong năm 1963 dưới h́nh thức bất bạo động bằng sự hy sinh tự thiêu của Bồ Tát Thích Quăng Đức và hàng chục vị Tăng , Ni đă nói: "Sức mạnh thật sự mà nhân loại có được chính là t́nh yêu".
Trong cuộc sống , đôi lúc các con cũng cần có sự b́nh yên . Sự b́nh yên không có nghĩa là một nơi không có tiếng ồn ào, không khó khăn, không cực nhọc. B́nh yên có thể xảy ra ngay chính khi đang ở trong phong ba băo táp , thất bại ê chề ....... ta vẫn cảm thấy sự yên tĩnh trong trái tim. Đó chính là ư nghĩa thật của sự b́nh yên. Trong cuộc sống, đôi khi ta đánh mất một thứ ǵ đó ở nơi tối tăm, nhưng lại đi t́m ở một nơi khác sáng hơn, dễ t́m hơn để bù đắp những ǵ đă mất . Các con phải xác định rơ cái mà các con cần t́m, cái ư nghĩa thật sự của nó ,nhờ vậy các con mới dễ dàng thấy được những chân lư bất biến của cuộc sống trong hiện tại .
Các con sống cần có hạnh phúc . Không những hạnh phúc cho gia đ́nh , con cái mà nó bao gồm cả họ hàng thân tộc và những người sống chung quanh các con . Hạnh phúc không tự dưng đến với các con mà chính bản thân cần phải làm ra nó. Hạnh phúc gắn liền với những điều vụn vặt trong đời sống , cả xấu lẫn tốt. Đừng t́m hạnh phúc trong quá khứ hay tương lai, mà hăy t́m ngay trong hiện tại. Cũng không có ǵ sánh được với sự t́m kiếm hạnh phúc, bởi v́ sự t́m kiếm đó chính là hạnh phúc mà các con cẫn phải đạt đến .
Một cây đèn cũ không được thắp sáng sẽ trở nên vô dụng và quên lăng nơi góc nhà , nhưng khi được đem ra lau chùi rồi châm vào một chút dầu t́nh yêu và bao dung th́ nó sẽ đem đến ánh sáng sưởi ấm cho chính ḿnh cùng với tha nhân chung quanh .
Các con cũng nên hiểu rằng : Cái đẹp đâu chỉ thưởng thức bằng cặp mắt thoáng qua, mà nó đ̣i hỏi một tâm hồn đồng cảm. Có nhiều thứ các con sẽ lầm tưởng v́ bề ngoài trông giống hệt nhau . Các con hăy b́nh tĩnh để nhận định từng chất riêng, cái tốt đẹp ở mỗi người và hăy "mở rộng tâm hồn để cảm nhận hết sự kỳ diệu của cuộc sống từ những điều nhỏ nhặt nhất".
Rồi các con sẽ nhận thấy : Hạnh phúc chỉ thật sự được cảm nhận khi ai đó thật sự trải qua đau khổ, những ai đă t́m kiếm và đang cố gắng t́m kiếm.
Bởi v́ chỉ có bản thân các con mới đánh giá đúng tầm quan trọng của những ai đă chạm vào cuộc đời , ai đă gây tổn thương và làm cho các con đau khổ , sau khi vượt qua th́ mới thấy đựơc giá trị của chân hạnh phúc đang có .
Sau cùng , Ba khuyên các con hăy học cách biết "CÁM ƠN " . Từ sự cám ơn bản thân , cha mẹ , anh em , bà con thân thuộc và sau cùng là nhân lọai . Cám ơn những hoài niệm mà ngày hôm qua đă có công lưu giữ. Để ngày hôm nay, cầm trên tay chiếc ch́a khoá, các con bắt đầu lục lọi, t́m kiếm những hồi ức tưởng chừng như đă lăng quên. Những kư ức đó có lẽ các con không hề muốn nhớ nhưng thời gian không cho phép được quên. Các con phải biết hai chữ cám ơn, v́ nhờ chúng mà các con đă dũng cảm đối diện với những ǵ đă và đang mất mát, những đau thương , không hèn nhác trốn chạy. Cũng chính nhờ có ngày hôm qua mà hôm nay các con mới thấy cuộc sống trọn vẹn đầy ư nghĩa hơn.
florida80
12-23-2019, 23:15
Default Re: Phật Giáo Trong Mắt Tôi .
ÂN OÁN và HẬN THÙ.
Nhân nói đến câu "Tu vạn kiếp, ngộ nhất thời" của người đời th́ ra chuyện tu cũng dễ đấy chứ ? Có lẽ đây cũng là một môn phái ,không biết có nằm trong 84 vạn cách tu của Đức Như Lai không ? V́ họ đưa cách" Tu tâm dưỡng tính th́ không cần phải gơ mơ tụng kinh mỗi ngày hay phải ngồi thiền mới có thế đạt được, mà trước tiên ḿnh phải hiểu được ḿnh đang làm ǵ và xuất phát từ tâm thiện = tâm Phật .. hay ác = tâm ma !" Có phải " bản lai diện mục " hay cách tu " trực chỉ chân tâm " mà tôi đă từng đưa ra . Biết đâu họ cũng là một " Thanh Hải Vô Thượng Sư " thứ hai th́ sao ? Ai cũng có tâm Phật và thành Phật đựơc mà . Chỉ có điều tâm nó to hay nhỏ , tṛn hay méo , ở trong hay ở ngoài thân .......... Hay chỉ là do chuyện Ân Oán, tức là chuyện ân nghĩa th́ đi theo ca tụng và chuyện oán thù th́ t́m dịp " luồn gió trộm măng " . Theo thói thường, con người chóng quên chuyện ân nghĩa, nhưng chuyện oán thù th́ nhớ đời đời, sống để dạ chết mang theo , cứ nấp lén , ŕnh ṃ có dịp là ra tay trả đủa ngay . Cho dù không cầm dao chém , búa bổ ngang lưng cũng viết vài câu chửi xéo , chửi xiên cho thỏa dạ đê tiện . Có người quan niệm: Ân đền oán trả , hay óan thù mười năm báo thù cũng chưa muộn kiểu chuyện kiếm hiệp Trung Hoa hay là kẻ thù không đội trời chung cũng thế .
Tôi cho rằng , một nguyên nhân khác cũng thường đem lại sự bất an trong nội tâm của con người, cùng một nghĩa, hay tương đương, đó là: chuyện thương và ghét. Con người thường đem ḷng thương yêu những người đem lại ích lợi, đem lại an vui hạnh phúc và ghét bỏ những người gây ra thiệt hại, hoặc đem phiền năo khổ đau đến cho ḿnh. Trên cơi đời này, con người thương yêu người khác th́ rất ít, nhưng ghét bỏ th́ rất nhiều , nhất là nữ giới . Nhưng mấy ai biết đựơc rằng : chuyện ân oán và chuyện thương ghét chính là những nguyên nhân, dẫn dắt chúng sanh vào ṿng sanh tử luân hồi, nhận ch́m chúng sanh trong biển khổ đau, không bao giờ dứt, nếu không biết t́m cách thoát ra. Cho nên họ cứ khổ đau và đau khổ v́ t́nh yêu "... Yêu là chia một quả tim
Là trao một nửa, là thêm một lần ...!" , nghe răng mà khổ rứa hỷ ? Tại sao họ không t́m cho ḿnh một lối thóat , họ phải biết để tâm họ về hướng Phật mà tu niệm , nguyện đem ḷng Từ Bi , Hỹ Xă sống với chúng sanh .
V́ t́nh yêu đă nhiều lần gây cho họ khổ đau , những chuyện yêu thương trai gái vụn vặt , những nỗi khổ đau xảy ra hàng ngày , hàng giờ trên thế gian, nhiều ví như cát trên sông Hằng , như biển cả mênh mông, với hàng vạn ngọn sóng cao ngất, liên tiếp đổ ập lên đầu con người và nhận ch́m xuống vũng lầy khổ đau , như muốn nhận ch́m những tâm hồn mê muội và có tâm thù hằng , bỏn xẻn , hơn nữa những lọai người này không có đủ nghị lực vươn lên, để tự giải thoát khỏi sự đau khổ của kiếp luân hồi, để sống một cuộc đời an nhiên tự tại . Điều mà Phật giáo thường nhắc nhở là ḷng Từ Bi , Hỹ Xă mới cứu vớt những người đang khổ đau như vậy .
Đối với cá nhân tôi khi làm ơn cho ai , giúp đở ai từ việc làm hay lời nói là tôi quên ngay chuyện đă làm . Tuy nhiên,chúng ta cũng nên biết , khi đă thọ nhận sự giúp đỡ, sự quan tâm, sự chiếu cố, bất cứ từ đâu đến, bất cứ do ai làm, dù lớn lao hay nhỏ nhặt đến đâu, người biết tu tâm dưỡng tánh, phải biết tri ân và báo ân, tức là biết ơn và đền ơn mặc dù người ra ơn không c̣n nghĩ đến . Chuyện đời cũng xảy ra không hiếm , cùng chung loài người nhưng chuyện ân óan cũng nhiều khi không mấy phân minh " cứu vật trả ơn , cứu nhân nhân trả óan " là chuyện thường t́nh . Trên cơi đời này, chuyện ân nghĩa biến thành oán thù rất dễ dàng, như trở bàn tay. Ngược lại, chuyện oán thù trở thành ân nghĩa thực là khó khăn vô cùng, chỉ có những bậc Thánh hiền, hoặc những người biết tu tâm dưỡng tánh, tức là những người muốn sống an lạc hạnh phúc, mới có thể thực hành được mà thôi.
Cũng có người khi nói ra những lời vô thưởng vô phạt chẳng có dụng tâm, chẳng có tà ư, chẳng ám chỉ ai, hoặc trời cho có tài ăn nói khéo léo , viết văn trôi chảy , lúc online khiến cho những kẻ khác sanh tâm ganh tị, bảo sao chẳng tức, chẳng giận cho được , chém giết th́ không có quyền hành , chỉ c̣n " xút gió bụi tre " cho chúng chém giết lẫn nhau ngầm trả mối hận thù , họ luôn luôn nuôi chí " làm sao giết đựơc người trong mộng , để trả thù riêng dám chọc bà .... " . Con người thường hay, trả thù báo oán, nên t́m mọi cách, trả đủa cho hơn, cho thỏa tâm tham, cho vừa tâm sân, cho hợp tâm si, thử hỏi như vậy: bao giờ oán thù, mới được chấm dứt, cuộc đời mới được, b́nh yên vui vẻ? Tôi viết những lời này là để phân tích cho họ hiểu chứ KHÔNG NHẰM BÁO THÙ hay trả óan ǵ cả , mà đây là một vấn nạn thường t́nh trong xă hội loài người đang sống với nhau mà thôi .
Những lời khó nghe chúng ta cứ bỏ qua như gió thỏang , mây bay đừng lưu trữ lời lẽ khó nghe đó trong kho tàng tâm thức của ḿnh, tức là quên luôn đi, bỏ qua luôn, không nhớ tới nữa, mới thực là khó , ngay cá nhân tôi đă từng quán chiếu như vậy nhiều lần , nhưng cũng vượt qua chậm chạp , tôi nguyện tiêu trừ , triệt bỏ từ từ , v́ ḿnh đang tu mà .....
Tôi cũng biết rằng : "Một sự nhịn chín sự lành" nhưng đôi lúc ḿnh nhịn th́ họ leo lên đầu ngồi cười .
Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:
"Lấy oán báo oán, oán nghiệp chồng chất .
Lấy ơn báo oán, oán nghiệp tiêu trừ ".
Phải cảm hóa người ác bằng giáo huấn Từ Bi trong câu chuyện về kẻ sát nhân Angulimala trong kinh điển Pali đă minh họa một cách hùng hồn cho tâm từ bi vô lượng của Đức Phật đă chuyển hoá được tâm của một tên sát nhân hung bạo như thế nào và cũng cho thấy sức mạnh của ḷng từ bi :
Một buổi sáng, đức Thế Tôn vào thành, đang bưng bát đi khất thực th́ nghe có tiếng chân chạy phía sau. Ngài biết rằng Angulimala đang đuổi theo, nhưng vẫn b́nh thản bước đều. Angulimala lớn tiếng gọi:
-“Ông khất sĩ kia, đứng lại!”
Thế Tôn vẫn tiếp tục đi, không mau hơn, không chậm hơn. Phong độ của Ngài rất an nhiên tự tại.
Thấy vậy, Angulimala lớn tiếng hơn:
-“Đứng lại! ông khất sĩ kia, đứng lại! “
Đức Thế Tôn thản nhiên tiếp tục bước đi, vẻ tự tại vô úy. Angulimala chạy mau hơn chỉ trong khoảnh khắc đă đuổi kịp và la lên:
-“Tôi bảo ông dừng lại, tại sao không dừng?”
Thế Tôn vẫn bước đi, nói với giọng b́nh thản:
- “Này Angulimala! Ta đă dừng lại từ lâu rồi, chính anh mới là người chưa dừng lại.”
Angulimala không thể hiểu được ư nghĩa của những lời này. V́ thế y lại hỏi:
-"Này khất sĩ, tại sao ông nói rằng ông đă dừng lại c̣n tôi vẫn chưa dừng?"
Đức Phật đáp:
- "Ta nói rằng ta đă dừng lại v́ ta đă từ bỏ việc giết hại chúng sanh. Ta đă từ bỏ thói bạo hành, tàn sát mọi loài và ta đă an trú vào ḷng từ đối với muôn loài, ḷng kham nhẫn và trí tuệ do tư duy quán sát. Song ngươi vẫn chưa từ bỏ việc giết hại và đối xử tàn bạo với người khác cũng như chưa an trú vào ḷng từ bi và kham nhẫn đối với mọi loài hữu t́nh. Do đó, người vẫn là người chưa dừng lại".
Thái độ điềm đạm và câu trả lời của Phật đă làm cho Angulimala kinh ngạc và đột nhiên buông dao hối hận. Phật liền làm lễ thế phát cho Angulimala trở thành một tu sĩ ngay tại chỗ. Từ đó về sau, Angulimala (pháp danh mới là Ahimsaka) đă tu tập rất tinh tấn, trở thành một trong những đệ tử lớn của Phật và đạt được giác ngộ .
Những lúc tâm không đựơc thanh tịnh v́ chuyện đời thường , ḷng sân hận sẽ đưa đến đổ vỡ và khổ đau không những cho ḿnh và những người chung quanh , mà c̣n làm cho cuộc sống không an vui hạnh phúc . Tôi vẫn nguyện rằng : nếu có dịp giúp đỡ được những người đó, trong lúc họ gặp khó khăn hay thất t́nh , đau khổ , chúng ta có nhiều cơ hội hóa giải oán hờn, biến thù thành bạn. Như vậy chắc chắn tốt đẹp, hơn là tiếp tục tranh chấp, thù hận, để rồi nơm nớp lo sợ bị trả thù, phập phồng âu lo, đời sống không lúc nào được b́nh an .
Nếu chúng ta ai cũng sẵn sàng tha thứ lỗi lầm cho người khác, cũng như đă từng nhiều lần trong đời, tha thứ cho chính bản thân ḿnh, th́ cảnh giới Thiên đàng - Niết bàn - Cực lạc chính là ở thế gian này vậy .Tôi lấy lời cầu nguyện trong Kinh Từ Bi thuộc Kinh tạng Pali để kết luận :
"Nguyện cho đừng loài nào sát hại loài nào, đừng ai coi nhẹ tính mạng của ai, đừng ai v́ giận hờn hoặc ác tâm mà mong cho ai bị đau khổ và khốn đốn.”
florida80
12-23-2019, 23:15
NHẬN LỖI LÀ MỘT CAN ĐẢM .
Trước khi viết những điều này , Ba thành thật xin lỗi con ! V́ lâu nay bận công việc vừa đạo vừa đời nên lăng quên những bài học bổ ích cho con .
Tuần trước Ba biết con đă có sự sai lầm về xử thế với chị , mặc dù Mẹ con đă khuyến khích và thúc đẩy con hăy xin lỗi chị , nhưng điều đó con không làm đựơc . Có lẽ tâm con không đựơc ổn do sân si mà ra , hoặc con không đủ can đảm để nhận lỗi của ḿnh . Ba kể cho con nghe một câu chuyện cổ Trung Hoa :
Thời đại Xuân Thu Chiến Quốc, có một chàng trai có tánh cố chấp cỡi xe ngựa, đến phương Bắc, giữa đường gặp một ông bạn già lớn tuổi.
Người bạn hỏi chàng:
— Anh định đi đâu?
Chàng trai đáp:
— Tôi muốn đến nước Sở.
Người bạn nghi ngờ hỏi:
— Nước Sở ở phương Nam, anh đi hướng Bắc, là chạy ngược đường rồi!
Chàng trai biện bác:
— Không sao! Ngựa của tôi rất giỏi.
Người bạn không cách ǵ giải thích, lại hỏi:
— Cho dù là một con ngựa hay, ngày đi ngàn dặm, nhưng lầm phương hướng, lại là không có biện pháp nào đạt được mục đích!
Chàng trai chẳng cho là đúng, nói:
— Bác chẳng cần phí tâm, tôi có đủ lộ phí.
Người bạn nói:
— Tiền đi đường anh có nhiều đi nữa, nhưng phương hướng của đường rốt cuộc không đúng, anh làm sao đến nước Sở được?
Tuy người bạn mấy phen ngăn cản, mà chàng trai này vẫn kiên tŕ giữ ư ḿnh, nói:
— Không hề ǵ! Tôi lại có một xa phu giỏi đánh ngựa.
Tóm lại, mặc t́nh người bạn phân tích giải thích thế nào, chàng trai vẫn y như cũ chấp cứng lí do của ḿnh, " chết chẳng nhận lỗi"! Đây chính là người ngu si, người chấp trước!
Lúc hành động một việc ǵ th́ cũng tự cho ḿnh là đúng , là tuyệt vời như câu chuyện "Thời đại Xuân Thu Chiến Quốc ". Mặc dù có người thấy sai chỉ điểm , nhưng ḿnh vẫn cố chấp v́ tự tin ḿnh là đúng . Nếu cái sai đó có tính cách riêng tư th́ chỉ tổn hại một bản thân . Nếu cái sai của thân tộc th́ đem đến khổ đau cho một gia đ́nh . Ngoài xă hội nếu con cứ cố chấp và nghĩ hành động của con là đúng , trong khi ai cũng góp ư điều đó là sai là nguy hiểm giống như câu chuyện anh chàng muốn đi nước Sở ở trên sẽ đem đến tai hại cho Dân tộc và Tổ Quốc .
Phàm làm một việc ǵ cho tập thể , con phải biết lượng sức ḿnh " Biết ḿnh biết ta trăm trận trăm thắng " ( Binh Pháp Tôn Tử ) . Ngoài ra con phải có ḷng biết tự trọng , tự tin như lời Đức Phật dạy " Hăy thắp đuốc lên mà đi " , nghĩa là không nên quá tin , không nên ỷ lại vào sự giúp đở kẻ khác một cách tuyệt đối hoàn toàn . Điều đó sẽ đưa con và Dân tộc đến con đừơng nô lệ .
Cuộc đời của Ba là luôn luôn nhận lỗi về ḿnh trước . Con nên nhớ rằng : hễ là người có thể tiếp nhận dạy dỗ tốt và mạnh dạn nhận lỗi [SIZE=5][COLOR=green] th́ phần nhiều tiến bộ rất mau. C̣n người việc ǵ cũng cho ḿnh có lư toàn bộ dù đánh chết không nhận lỗi th́ phần nhiều khó phát triễn . Đối với con , Ba thường khuyên nhủ con dù không giỏi về học vấn, cần nên học tập kỹ thuật khác cho sớm, nhưng bọn con lại giữ chặt ư kiến của ḿnh, chẳng chịu nhận là sai, tốn bao nhiêu năm dùi mài học vấn, mới phát hiện lầm đường, sau hối chẳng kịp .
Nhân đây v́ sự an nguy của một đời người, thực ra quan hệ mật thiết thập phần ở chỗ ḿnh có nhận lỗi hay không. Thậm chí từ xưa đến nay, bất kể một quốc gia hay một đoàn thể, người chủ sự cho đến phần tử tạo thành có thể nhận lỗi hay không, thường thường lại là then chốt của sự thành bại được mất . Trong Kinh Phật có bài " Sám hối " là để biết lỗi và tự sữa ḿnh . Nhận lỗi không phải là hành động thấp hèn mà nó thể hiện ḷng can đảm của một người nhút nhát dám vượt qua . Ngày xưa mỗi lần bị đ̣n , lúc nào bà nội cũng bắt Ba nói lời :
" Con xin lỗi Má , lần sau con không tái phạm nữa "
Cứ như vậy trở thành một thói quen trong tiềm thức của Ba . Khi lớn lên và ra đời , Ba biết nhận lỗi của ḿnh dù là nhân viên cấp dưới . Nhận lỗi không phải là ô nhục hay lép vế , mà đó c̣n là thể hiện sự ĐẠI HÙNG , ĐẠI LỰC , ḷng quảng đại của một con người .
Gần đây con thấy báo Người Việt online đă lên tiếng xin lỗi , v́ tờ báo xuân có in h́nh lá cờ vàng trong bồn rữa chân tiệm Nail , thật ra chẳng qua chẳng có ǵ quá đáng khi thể hiện biểu tượng ở h́nh thức của tờ báo . Điều này đă nói rơ: Nhận lỗi cần có dũng khí. Có thể mạnh mẽ nhận lỗi mới không để mất cơ hội phát triển.
Con biết không ? Những lúc online cũng gặp những chuyện vui buồn lẫn lộn . Nhưng điều quan trọng nhất là con phải biết giử tâm b́nh thản , không sân hận , nóng nảy khi có ai đó châm chích , quấy phá ḿnh . Điều mà Ba vẫn nhắc nhở con là dù chuyện ǵ xảy ra , cuối cùng con phải CAN ĐẢM NHẬN LỖI trước , cho dù con không gây ra . Có lần Ba dẫn con vào nhà thờ xem lễ , trong khi đọc cuối bài kinh Thánh có đọan " Lỗi tại tôi mọi đàng " và họ tự đấm th́nh thịch vào ngực họ như ăn năn , sám hối vậy . Sau các bài kinh Thánh họ bắt tay nhau thân t́nh từng cặp .... từng cặp một . Đó là những bài học rất hay mà nhà thờ đă dạy cho con chiên biết tự nhận lỗi .
Cách tháng trước đây Ba có quen chú Ngan trên Websiter . Ba kể lại câu chuyện giữa chú N hỏi Ba , tuy Ba có hư cấu thêm cho có hứng thú vui vẽ chút đỉnh và mạch lạc . Chuyện thế này :
-Ngày trước có một nhà họ Ngan và một nhà họ Hoa đêm nào cũng online gặp nhau trong room Phật giáo . Nhà họ Ngan thường thường vắng khách đến thăm , h́nh như họ sợ ma , quỹ ǵ đó th́ phải ,c̣n nhà họ Hoa lại hoà mục tương kính vui vẽ với mọi người nên nhiều người ghé thăm . Một hôm chú Ngan hỏi ông Hoa :
— V́ sao ông đi đâu cũng gặp Phật , c̣n tôi đi đâu cứ gặp toàn là ma ?
Ông Hoa trả lời:
— Bởi v́ nhà ông đều là người tốt, c̣n nhà tôi đều là người xấu.
Ông Ngan không hiểu, hỏi lại tại sao nói như vậy :
— Lời này là sao tôi không hiểu chi hết ?
Ông Hoa đáp:
— Ví dụ như ở nhà tôi, nếu có bài viết nào làm mất ḷng , nhất định là tôi vội vàng nhận lỗi:
**Tôi thật tệ quá, hôm qua tôi viết bài có những lời đụng chạm đến cá nhân , tôn giáo ....của anh th́ phải ? Người bị chê trách trong bài tôi viết cũng vội vàng nói:
** Không sao! Không sao! Tại tôi có những lời châm chích anh trước , xin lỗi, đă khiến anh trả lời cay đắng như thế !
Nhưng, việc này nếu xảy ra ở nhà ông Ngan th́ người viết sẽ nói:
— Ai đây thật chẳng có đầu óc, viết bài công kích đạo người ta thế này, hại ta bị mất đức tin hết?
Một người khác lập tức căi lại:
— Chính tôi muốn viết như vậy , th́ sao? Tự anh không xem cẩn thận nó có thật trong Kinh mà tôi trích ra đấy , lại muốn đổ cho người khác! Rồi mặt đỏ bừng giáng tay muốn óanh .
Cứ thế anh một lời, tôi một tiếng, mọi người đều chẳng nhận lỗi, đương nhiên là không có ai ghé nhà chơi với chú Ngan .Sự ganh ghét đó là gặp MA , an vui , hạnh phúc như ông Hoa đó là gặp PHẬT .
Bất cứ hoàn cảnh nào , hay bất cứ ở đâu , con phải lấy tâm hoà thuận làm đầu . Nếu khi t́nh thế tranh cải đến mức gay cấn , con là người can đảm th́ lên tiếng xin lỗi và tự nhận là con có lỗi trước , đối phương sẽ dịu giọng và họ cũng cảm thấy có lỗi và xin lỗi lại với con . Đó là TÂM HOÀ HIẾU của Phật Giáo .
[SIZE=5][COLOR=green]
Cá nhân Ba cũng vấp những lỗi lầm v́ sân hận nhất thời . Ba c̣n nhớ năm trước câu chuyện xảy ra lúc Ba đi họp ở Cali , khi vừa ra khỏi hội trường chuẩn bị lái xe về Hotel , kết quả một chiếc xe taxi xông ra đụng vào xe Ba , rơ ràng là tài xế này hoàn ṭan có lỗi , lại c̣n há miệng mắng lớn:
— Ông muốn chết hả?
Ba cũng trả lời:
— Anh mới là muốn chết!
Tài xế nói liền:
— Ông ngon th́ ra đây!
Ba liền nói:
— Ra th́ ra sợ ǵ !
Đương lúc ai cũng tức tối mở cửa xe định bước ra , anh bạn của Ba từ hội trường vừa đến , thấy bộ dạng chúng tôi sắp ẩu đả nhau liền há hốc miệng thất kinh kêu lớn :
- Anh Hoa ! anh H oo aaaa .
Ba lập tức chợt tỉnh , hít thở ra vào và kiểm tra tâm của ḿnh và tự nhủ thầm:
-Vừa rồi mi vừa ở trên bục giảng phải làm sao xử lư quan hệ với người, tại sao hiện tại gặp sự t́nh này lại có bộ dạng khác như thế ?
Rồi lập tức đổi thái độ, Ba cúi đầu nói với người tài xế:
— Xin lỗi! Tôi lầm rồi! Tôi sai rồi!
Người tài xế nghe xong, trước tiên ngạc nhiên há hốc miệng , rồi đổi thái độ khiêm tốn, đưa hai tay ra nắm chặt Ba và nói:
— Tôi chẳng tốt! Tôi mới là người chẳng tốt!
Nếu không nhờ người bạn đánh thức TÂM th́ Ba đă hành động sai lầm . Đức Phật khuyến cáo chúng ta hăy quán thân trên thân, quán thọ trên các cảm thọ, quán tâm trên các hành tướng của tâm, và quán các pháp đều là vô thường (xem kinh Đại niệm xứ thuộc Trường Bộ II).Quán thân là để cho tâm hành được an tịnh. Quán các cảm thọ là để cho tâm hành cũng được an tịnh. Quán tâm là để cho tâm được hân hoan, tâm được định tĩnh, và cuối cùng tâm được giải thoát. Phật giáo rất coi trọng công phu tâm địa, kinh nói:
"V́ trị tất cả là TÂM , nên nói tất cả pháp; nếu không tất cả tâm, đâu cần tất cả pháp?".
Đức Phật nói :"Trong tâm có Phật " nghĩa là Phật tức tâm , tâm tức Phật . Hay nói khác đi tâm Phật là tánh Phật .
Phật tánh không phải là bản tánh thành đạt để thành Phật như một số người hiểu lầm . Tánh Phật là tánh THIỆN , HIỀN H̉A , BAO LA , THƯƠNG NGƯỜI , KHÔNG ÁC ĐỘC , KHÔNG HẠI AI ..... nói chung là Từ Bi , Hỹ xă và Đại Lượng . Cho nên đứa bé mới sanh ra vốn thiện " Nhân chi sơ tánh bổn thiện " và hoàn toàn chưa có tội như các tôn giáo khác hiểu nhầm . V́ nó không thiện làm sao tái sanh làm người , nếu kiếp trước nó mang nghiệp ác , hung dữ , giết người , cướp của ..... th́ nó đă đầu thai thành cọp rằng , chó mèo , heo , khỉ ..... để trả những nợ xấu đó do nghiệp gây ra . Cho nên Phật giáo bảo đảm rằng " Ai sanh ra cũng đă mang sẳn tánh thiện " , trái lại các tôn giáo khác quan niệm " sanh ra là có tội " điều đó Phật giáo không chấp nhận và hoàn toàn bác bỏ .
Phật tánh ai cũng có , nhưng v́ vô minh che lấp nên Phật tánh không có môi trường phát huy và thị hiện cho người mắt trần thấy . Nếu con hiểu " Phật tánh là thành đạt của Phật " chỉ đúng một khía cạnh nào đó thôi . Phật ( Buddha ) tức là người GIÁC NGỘ , bất cứ ai giác ngộ đều cũng gọi là Phật . V́ thế Ngài đă khẳng định cho chúng ta cố gắng tu hành nên nói :
- Ta là Phật đă thành , các con là Phật SẼ thành .
Tư tưởng này đă chứng minh Phật giáo là Công Bằng , B́nh Đẳng không giống như các tôn giáo khác tự tôn là độc Thần và có hằng hà sa số Phật trong các cơi Ta Bà là vậy .
V́ thế chữ TÂM ( tánh ) đối với Phật giáo là quan trọng hàng đầu " Mọi việc điều do tâm tạo " . Nếu nói trong tâm có Phật, nhưng Phật trong tâm con có phát huy tác dụng không? Ngay lúc giặc trộm trong thân làm trái gây thù, con có bắt được nó không ? Ngay lúc nước trong hồ" tâm " bẩn thỉu , nhơ nhớp con có biện pháp làm sạch nó không? Ngay lúc ma quân tham sân si cướp bóc pháp tài trong tâm ḿnh, con có vũ khí "giới - định - huệ " để chiến thắng chúng không? Ngay lúc khỉ vượn trong tâm nhảy nhót lung tung , con có dây nhợ " ngũ căn - ngũ lực " để trói chặt nó không? Nếu con làm đựơc những điều trên tức Phật tánh của con từ từ hiện ra chiếu sáng người khắp mười phương như Phật vậy . Thế th́ luận điệu cho rằng TÁNH PHẬT chỉ thổi phồng và đánh lừa chúng sanh có đúng không . Hoàn toàn sai và có tính cách xét lại của kẻ bị vô minh lôi kéo .
Sở dĩ các thiền sư trong quá khứ đă giảng :"Minh tâm kiến tánh" là rất có đạo lư của nó , v́ có tâm, tâm không sáng như gương bị phủ tro bụi, không thể nh́n rơ thực tướng; có Phật tánh, thấy không được Phật tánh, giống như vàng ṛng chôn trong bùn cát, không cách ǵ làm chói mắt th́ làm sao biết giá trị của Tánh Phật . Muốn thành Phật phải phát huy tuệ giác để giác ngộ mà thành Phật .
Một trí tuệ trong sáng và chân chánh th́ c̣n chi để VỌNG TƯỞNG . V́ đă vọng là KHÔNG THỰC th́ tưởng đến cũng trở thành ảo mà thôi . Một con người Thực tế là người biết lo cho hiện tại điều mà trong Kinh Tăng chi bộ có nhắc đến :
- Quá khứ th́ đă qua , tương lai chưa đến , hiện tại là tuyệt vời .
Sống hôm nay ta lo vun trồng , suy nghĩ để phát triễn cho thành đạt công việc hôm nay , chứ chuyện đă qua nghĩ đến không ích lợi ǵ , chỉ thêm đau buồn , tiếc nuối . C̣n tương lai th́ xa vời , chưa đến th́ để sau mới tính . Vậy muốn bỏ vọng tưởng th́ không nên nghĩ đến , muốn không nghĩ đến th́ đừng để lăng phí th́ giờ ngồi không , mà con cố gắng làm một ǵ đó , hay một lời nói giúp ḿnh , giúp người tiến lên và sống trong an lạc . Có như thế con mới bỏ những ư nghĩ , mộng tướng vu vơ mà người ta muốn nói chữ Hán là VỌNG TƯỞNG đó con ạ !
Chúc con cuối tuần an lạc , hạnh phúc ! ( have good day )
florida80
12-23-2019, 23:16
7 NGÀY NHẬP THẤT.
Hàng năm cứ đến mùa hạ là tôi hay nhập thất ( Đóng pḥng tu niệm ) một tuần nhằm để kiểm điểm lại quá tŕnh sống , hành đạo trong thời gian qua. Cũng vậy tuần vừa rồi tôi lại nhập thất 7 ngày.
Tôi bắt đầu bước vào ngày thứ nhất của nhập thất . Trong căn pḥng vuông vắn , yên tịnh , trên bàn thờ chỉ có tượng Đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni đang ngồi kiết già hoan hỹ . Thắp một nén nhan và tôi bắt đầu ngồi trước mặt Ngài định tâm an lạc , với tâm định tĩnh, chánh niệm, tỉnh giác, ly dục, đi vào sơ thiền , nhị thiền, tam thiền và lần lượt nhập lên tứ thiền, sau đó hướng tâm đến tam minh.
Dùng trực giác, tôi thấy rơ nguyên nhân v́ sao con người có sự đau khổ và gây ra sự của khổ đau. Chính sự tập khởi của 12 nhân duyên là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn .Đến 1 giờ khuya , tôi chứng " Túc Mệnh Minh ", thấy rơ vô lượng kiếp quá khứ của ḿnh. Sang 2 giờ sáng , tôi chứng "Thiên Nhăn Minh ", nhưng chỉ thấy lờ mờ các kiếp quá khứ của chúng sanh với các nghiệp nhân và nghiệp quả của cá nhân ḿnh ( có lẽ chưa đạt tột đỉnh để thấy rơ ).
Tôi đă từng làm quan Đại Thần oai hùng tiết liệt , cũng có kiếp làm kẻ hiền giă lang thang phiêu bạt giang hồ , lấy sương gió , trăng mây làm vui thú . Có kiếp tôi là một Thiền sư nổi tiếng về thuyết pháp , độ sanh .... có những kiếp h́nh ảnh lờ mờ tôi không nhận thực là tôi , một bóng dáng ai đó gần như xa lạ, nhưng bản thân quán chiếu biết đích thực là tôi . Có kiếp tôi đă từng là viện chủ chùa Đại An ...
H́nh ảnh chùa Đại An dạo đó thịnh vượng , khách thập phương t́m đến hành đạo , học đạo nhiều hơn gấp bội bây giờ . Phải chăng người làm viện chủ như tôi có ḷng khoan dung độ lượng , lấy đức Từ Bi cảm hoá con người , lấy trí tuệ d́u dắt t́m về chánh pháp mà không bao giờ nặng lời hay đem pháp luật ra dọa . Cũng có nhiều Ma vương , quỹ dữ đến thử tài , khuấy phá , nhưng tất cả đều đựơc tôi hoá giải và đưa họ quay về chánh pháp , đi đúng con đừơng Tứ Vô Lượng Tâm .
Tứ vô lượng tâm là ǵ ? là "bốn trạng thái tâm thức vô lượng", c̣n được gọi là Tứ phạm trú , "bốn cách an trú trong cơi Phạm". Là thuật ngữ chỉ một phép thiền định, trong đó hành giả tạo điều kiện cho bốn tâm thức cao thượng phát sinh. Bốn tâm vô lượng là:
-Từ vô lượng .
-Bi vô lượng .
-Hỉ vô lượng .
-Xả vô lượng .
Bốn tâm này đối trị bốn phiền năo là sân hận, ganh tị, buồn bực và tham muốn. Trong Đại thừa, Bốn tâm vô lượng cũng được gọi là hạnh Ba-la-mật-đa (Lục độ). Đó là tâm thức của Bồ Tát muốn cứu độ chúng sinh. Thực hành Tứ vô lượng, thiền giả sẽ tái sinh tại cơi Thiên . Phật Thích-ca Mâu-ni giảng về phép thiền định này như sau:
“Có bốn vô lượng. Hỡi các tỉ-khâu, một người tràn đầy tâm từ (bi, hỉ, xả) sẽ phóng tâm đó đi một phương, hai phương, ba phương, bốn phương, rồi phía trên, phía dưới, xung quanh ḿnh. Người đó phóng tâm đi khắp thế giới, chiếu rọi khắp nơi với tâm từ (bi, hỉ, xả), tâm thức vô lượng vắng bóng sân hận và phiền năo.”
Ngày thứ hai tôi quán chiếu tiếp th́ thấy thân ḿnh bay bổng lạc vào một ngôi chùa . Tuy cảnh vật có khác nhưng những dấu vết quen thuộc lắm . Vô thường làm đổi thay sự vật và biến hóa vô song . Cảnh cũng lạ , người cũng lạ theo , quán thấy nhiều Phật tử trẽ loay hoay , bận rộn lo hành đạo , duy chỉ có Bác Le H vẫn như ngày xưa , có thay đổi thân xác và tánh t́nh ,nhưng rất ít . Bác không năng nổ họat động như khi ở cùng triều đại với tôi . Phải chăng Bác đă mỏi mệt hay đă nhận ra chân lư cuộc đời ???
Quán chiếu ngày thứ ba , ng̣ai cửa chùa lúc nào cũng có hai ông Hộ Pháp : Ông Ác , ông Thiện . Nh́n tướng Hộ Pháp Ugly hung dữ , vai mang " Thượng Thiên bảo kiếm " không phải vua ban mà do hai tín hữu NC , AT dâng cúng mấy tháng trước . Mặt lúc nào cũng hầm hầm như hù doạ ai đó .... cho nên nh́n không mấy đẹp trai , thế mà vô số người run sợ ,nhất là mấy yêu nữ , bởi vậy mới là Ác Hộ Pháp . Tôi nh́n bên trái là ông" Người hiền ", chắc ông này là ông Thiện Hộ Pháp ( ? ) . Đúng ra ông Thiện phải đứng canh cửa cùng ông Ác , nhưng ông ta lại ngồi , cũng mệt mỏi rồi chăng ? Đằng sau lưng có treo câu biểu ngữ " Quốc có Quốc Pháp , Gia có Gia quy " . À ! Th́ ra ông này nắm quyền luật pháp ở chùa này . Nhưng thật t́nh mà nói , Pháp với Quốc nào đây ? Pháp như VN ta có làm ǵ Đại lăo HT Thích Quăng Độ ,GM Ngô Quang Kiệt và giáo dân đang phạm Quốc Pháp ở VN . VC đem Pháp ra đụng đến Ngài là đệ tử Ngài , Quốc Tế , Quê Mẹ ,GHCG.... la làng ĐÀN ÁP TÔN GIÁO . Vậy th́ Quốc Pháp làm chi đựơc Ngài nào ???? C̣n Gia có Gia Quy . Quy cái ǵ mà nhiều cư sĩ trí thức vào wuậy chơi ,chẳng áp dụng Gia Quy vào lỗi lầm nào để trị , v́ họ viết đúng chủ trương của mỗi pḥng . Ví như năm ngoái đây , tôi quán chiếu thấy cư sĩ GS001 vào chùa Đại Nam phá suốt hai năm . God th́ ông ta cứ in đậm , chữ to " GOD TÀO LAO " , phải chi một lần , mà lần nào ông cũng la ầm như thế . C̣n các Phật tử th́ ông chê người th́ vô minh , người th́ Phật Tử DỐT . Tội cho ông Thiện Ao Lam giữ chùa hồi đó cũng không làm sao đem Cái Gia Gia ra mà trừng phạt đựơc . Tôi lại thị hiện về chùa hoá giải oan khiên . Tôi không nói nặng , cũng không có quyền đem cái Gia Gia ra dọa dẩm ông ta , tôi đóng vai một tín hữu và tranh luận suốt 3 tháng với GS001 , tôi bênh vực và chứng minh "GOD NEVER TÀO LAO ". Ông GS001 bảo God có vợ đâu mà cho con một ( Jesus) chịu hy sinh trên Thánh giá ? Tôi đă phản biện đưa đến sự bí lối của ông ta . Cuối cùng tôi gài cho ông ta chửi Phật tử " Đồ ngu dốt " "cha mẹ mày ", tôi lấy câu đó add vào my signature chạy khắp nơi ( web ) . Thế là Super có cớ banned GS001 . Không biết sau này ĐN có bị Virus tấn công lần nào do ông ta óan hận mà gởi đến biếu chăng ?
Thế đấy ! Đức Phật dạy " Ác lai th́ ác báo " . Lấy ĐỨC mà trị dân , lấy Tâm mà sống với đạo , lấy từ bi , hỹ xă mà sống với chúng sanh . Không nhất thiết lúc nào cũng cứng rắn đem luật ra mà trị , đó là kế hạ sách của những người trí .
Ngày thứ tư tôi quán chiếu trở lại ông "Người Thiện " , sau câu biểu ngữ " Quốc Pháp ... Gia quy " , trên vách tường dưới ánh đèn lờ mờ có ai viết bài thơ của Lục Tổ Huệ Năng khi xưa th́ phải :
Bồ Đề bổn vô thụ ,
Minh cảnh diệt phi đài .
Bổn lai vô nhất vật ,
Hà xứ nhạ trần ai .
Nhưng quán chiếu nh́n kỷ th́ không phải , mà là bài thơ của ai đề tặng về " Happy birthday " cho ông Thiện , có lẽ để khoe nên ông lưu trên vách đó chăng ?
Chúc huynh thêm tuổi ... thêm tài !
Thêm nhiều sức khỏe, thêm hoài tuệ tinh
Ái đây thành thật chúc huynh
Là Hiền Nhân măi ... rạng danh đạo - đời !
Oh ! Th́ ra bài thơ ca tụng HIỀN NHÂN của Ái nào đó , tôi đóan là ông Người Thiện đang gác cổng chùa chăng ? Bài thơ nâng bi quá trắng trợn , nhưng không sao " C'est la vie " ( đời là thế ) .
Qua những ngày tiếp , tôi quán chiếu thấy khổ đau, nguyên nhân của khổ đau, sự đoạn tận của khổ đau, con đường đưa đến đoạn tận khổ đau, và đă chứng . V́ vậy tôi nguyện sau này không làm cho ai khổ đau nữa , tôi sẽ đọan diệt . Thực ra khi quán chiếu những điều ở trên cũng làm nhiều người khổ đau , nhưng đó là sự thật và tôi chỉ nói đây là lần chót . Tôi nguyện đọan diệt khổ đau nên mới thuật lại những điều ḿnh quán chiếu một lần và chỉ một lần rồi thôi .
Tôi chứng đắc quả vị Chánh đẳng Chánh giác khi ngày thứ 7 cũng vừa chấm dứt , tuy không đạt đựơc VÔ THƯỢNG như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni , nhưng cũng đạt đến Chánh đẳng Chánh giác , cuộc đời c̣n muôn ngàn vô lượng kiếp , tôi sẽ nguyện tiếp tục tu hành ở những kiếp sau để đạt vô thượng .
florida80
12-23-2019, 23:16
ĐỨC MẸ.
Khi nói đến hai chữ "ĐỨC MẸ" th́ ai cũng nghĩ đến là Mẹ Maria sinh ra Chúa Jesus , nhưng Phật Giáo cũng có Đức Mẹ đó là Ngài Bồ Tát Quán Thế Âm .
Đă là Mẹ th́ lúc nào cũng dịu hiền , nhẫn nhục , thương con và cũng KHỔ V̀ CON . Trên phương diện giúp con , cứu con , dạy dỗ con v.v.... th́ hai bà Mẹ này hoàn toàn khác hẳn nhau từ đức tính , đạo hạnh cho đến cách thị hiện biểu lộ qua hành động . Chúng ta thử t́m hiểu và phân tích t́nh thương và cách cứu độ của hai bà Mẹ này :
1-MẸ MARIA:
Đối với đạo Công Giáo, vai tṛ của Đức Trinh Nữ Maria hết sức quan trọng, được phản ánh qua sự kiện là trong mỗi thánh đường Công giáo đều có một bàn thờ hay là nơi chốn riêng dành để tôn kính Đức Mẹ Maria với nhiều tước hiệu như: Mẹ Thiên Chúa, Đức Nữ Trinh, Đức Mẹ Ḥa B́nh, Mẹ Mân Côi, v.v... Hiến Chế công Đồng Vatican II về Giáo Hội ban hành ngày 21-11-1964 được các nghị phụ Công Đồng bỏ phiếu chấp thuận đă thêm các tước hiệu này cho Đức Maria, đó là "Đấng Bầu Cử", "Đấng Trợ Giúp" và "Đức Nữ Trung Gian".
Căn cứ theo Thần học Công Giáo, dù Đức Maria có tinh tuyền thế nào chăng nữa, Ngài cũng vẫn là một thụ tạo , và cũng cần được ơn cứu độ. Đức Maria là người duy nhất trọn vẹn thánh thiện, nhưng Đức Maria không b́nh đẳng với Đấng Kitô Cứu Thế được. Dầu vậy mặc ḷng th́ các thánh Giáo Phụ đề xem vai tṛ của Đức Maria là rất quan trọng trong công tŕnh cứu độ loài người của Đức Kitô .
Tại sao các nhà thờ công giáo lập bàn thờ riêng cho Mẹ Maria ? Theo tôi nghĩ , đó là một nơi dành cho những con chiên muốn cầu nguyện , xin ân đức với Mẹ . Ngay tại mỗi nhà và hàng đêm người tín hữu đọc kinh cầu nguyện Mẹ Maria nhiều nhất . Mỗi lần khổ đau , hay muốn cầu cứu một sự việc hoặc muốn đến gần bên Mẹ như là sự an ủi về tâm linh cần có , cách cầu nguyện được ưa chuộng nhất là dùng Tràng Chuỗi Mân Côi. Đây là h́nh thức tụng kinh lập đi lập lại như một lời chào dâng lên Mẹ, v́ đó cũng chính là lời chào ca tụng của Thiên sứ Gabriel kính chào Đức Trinh Nữ Maria và loan báo tin mừng mời gọi Maria làm Mẹ Thiên Chúa. Cách thức đọc kinh Mân Côi gồm việc đọc một Kinh Lậy Cha, 10 Kinh Kính Mừng và Kinh Sáng Danh.
Do ḷng sùng kính và tin tưởng Mẹ là nguồn an ủi lớn nhất của con người , Mẹ là bao la , biển cả . Những lúc tâm hồn trống rổng , thất bại trên đừơng đời , khổ đau v́ t́nh yêu , v́ gia đ́nh bất hạnh v.v...... chỉ đến với Mẹ và tâm sự v́ ai cũng tin rằng Mẹ là người hiểu nhất và có thể đem lại niềm an ủi trong cuộc đời . Có thể nói rằng không ai hiểu ḿnh , thương ḿnh bằng Mẹ ,dù cho con cái làm những việc sai trái , tàn ác Mẹ vẫn tha thứ và bỏ qua . Đặt ra ngoài chuyện Khoa học ( Science ) và Tâm lư học (Psychology ).... tôi chỉ nhấn mạnh đến tiềm năng về đức tin ( Faith ).
Tâm lư con người khi yêu thương , nhớ nhung về ai , th́ h́nh ảnh đó sẽ ngự trị trong tim ḿnh và hiển hiện ra trong trí năo hay hiện ra trước mắt . Đó là một vấn đề thuộc về Thần học mà ngay Khoa học cũng chưa chứng minh đựơc . Từ những đặc tính đó cho nên h́nh ảnh Mẹ Maria hiện ra trên Thế giới nhiều lần , dù có thật hay không nó cũng mang tính chất Tâm lư . Riêng tại Việt Nam Mẹ cũng hiện ra nhiều nơi như : Đức mẹ hiện ra ở La Vang bắt đầu vào năm 1798 thời vua Cảnh Thịnh của Phong trào Tây Sơn , Tháng 08/2003, tại khu vực đồi Chuối, xă Phú Lâm, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai ,Đức Mẹ khóc tại giáo xứ Bạch Lâm, thuộc địa bàn xă Gia Tân 1, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai từ ngày 7/7/2008 , 04-11-2005 Mẹ khóc tại nhà thờ Đức Bà SaiGon , 25-7-2008 Đức Mẹ vỗ tay ở Sóc Trăng , 13-6-2008 Đức Mẹ làm dấu lạ ở La vang .........
florida80
12-23-2019, 23:17
Đức Mẹ khóc .
Đức Mẹ chảy máu mắt .
Trước khi tôi có vài nhận định ( theo ngu ư của tôi ) , mời các bạn t́m hiểu sơ qua Tiểu sử của Mẹ Maria :
TIỂU SỬ :
Tiểu sử về Maria được biết đến rất ít trong Tân Ước. Maria có họ hàng với Elizabeth (vợ của tư tế Zachariah) thuộc ḍng dơi Aaron (Luke 1:5, 1:36). Theo phỏng đoán th́ Maria sống cùng với cha mẹ tại Nazareth, xứ Galilee khi đă đính hôn với Joseph (Giuse), ḍng dơi nhà David. Một số học giả bảo thủ cho rằng, Joseph là con cháu Vua David (v́ nhiều suy đoán hợp với phong cách ngôn từ và và việc giới thiệu gia phả trong Phúc Âm Matthew). Trong thời gian đă hứa hôn (là thời ḱ đầu theo phong tục Do Thái), Maria được thiên thần Gabriel đến báo tin rằng cô sẽ trở thành mẹ Đấng Messiah theo ư định của Thiên Chúa. Joseph chưa nhận ra việc mang thai của Maria là do quyền năng siêu nhiên của Chúa Thánh Thần nên tỏ ra băn khoăn và muốn bỏ Maria cách kín đáo. Nhưng trong một giấc mơ, Joseph được thiên thần bảo đừng lo nghĩ mà hăy nhận Maria về làm vợ ḿnh để hợp với lề luật.
Khi được thiên thần báo tin về việc người chị họ Elizabeth mang thai lúc tuổi già, Maria vội vă đến thăm Elizabeth (Luke 1:39). Vừa đến nhà, Maria thiết tha gọi Elizabeth th́ được Elizabeth đáp lời bằng câu: "Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?" và họ đă đọc một bài Thánh ca Ngợi khen mà được biết đến nhiều với cái tên Magnificat (Luke 1:46). Ba tháng sau, Maria quay trở về nhà ḿnh. Theo Phúc âm Luke, một sắc lệnh của Hoàng đế La Mă Augustus quy định, Joseph phải cùng hôn thê ḿnh về Bedlem (gần Jerussalem) để đăng kí nhân khẩu. Khi họ đang ở Bedlem, Maria đă sinh ra Giêsu và đặt con trẻ trong chiếc máng cỏ v́ họ không t́m được nhà trọ nghỉ chân. Sau tám ngày, con trẻ được cắt b́ và gọi tên là Giêsu, đúng như những ǵ Joseph được thiên thần chỉ dạy trong giấc mơ. Sau cuộc viếng thăm của ba nhà đạo sĩ Phương Đông, gia đ́nh Nazareth phải lánh sang Ai Cập. Khi Vua Herod "Cả" chết, họ mới quay trở về. Năm 12 tuổi, trên đường từ Jerussalem trở về sau Lễ Vượt Qua, Maria và Joseph bị lạc mất Giêsu và họ t́m thấy Giêsu trong Đền Thờ đang tṛ chuyện cùng với những thầy dạy. Sau khi Giêsu chịu phép rửa bởi John the Baptist và bị ma quỷ cám dỗ trong hoang địa, Maria lại được biết đến trong một tiệc cưới ở Cana, khi đó, Giêsu đă biến nước lă thành rượu và bắt đầu công việc giảng đạo (Jonh 2:1-11). Trong Mark 6:3, Maria c̣n được giới thiệu cùng với những người anh em của Giêsu: "Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông James, Jpseph, Judas và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?". Trong cái chết của Giêsu, Maria đứng cạnh người môn đệ Giêsu yêu quư, cùng với bà Maria vợ ông Clopas và bà Maria Magdalene (John 19:25-26). Maria cũng là người đă ôm xác Giêsu nhưng chi tiết này không được ghi chép trong Kinh Thánh, đó là một mô-típ nghệ thuật phổ biến gọi là "pietà" hoặc "piety" (tạm dịch là "Mẹ đồng trinh ôm xác Chúa").
Kể từ lúc này, Maria không c̣n được nhắc đến trong Kinh Thánh, dù vậy, vẫn được một số nhóm Cơ Đốc giáo nhớ đến, đặc biệt liên tưởng đến h́nh ảnh Người phụ nữ và con măng xà trong Sách Khải Huyền. Việc Maria qua đời cũng không được Kinh Thánh ghi chép. Nhưng Phúc âm James (không được xem là một bộ phận của Tân Ước) c̣n cung cấp những tư liệu về Maria, và được Chính thống giáo Đông phương coi là hợp lư: Maria là con gái của Joachim và Anna. Trước khi có thai Maria, Anna được coi là hiếm muộn. Khi Maria ba tuổi, họ đưa Maria đến sống trong Đền Thờ Jerussalem, điều này trùng hợp với sự kiện Hana đưa Samuel vào Lều Thánh được ghi trong Cựu Ước.
Công giáo La Mă và Chính thống giáo Đông phương tin rằng, trong khoảng 13 đến 15 năm sau khi Chúa Giêsu lên trời th́ Maria qua đời (có thể tại Jerussalem hoặc Ephesus) trong sự chứng kiến của các Tông đồ. Sau đó không lâu, các Tông đồ mở hầm mộ Maria ra th́ bên trong chẳng c̣n ǵ, và họ xác quyết rằng xác Maria đă được mang về Thiên Đàng. (Nhưng măi đến Thế kỷ thứ 6 người ta mới t́m ra ngôi mộ này tại Jerussalem , và Giáo sư Holger người Đức lại t́m ra ngôi mộ có bia đá khắc tên " MARIA CHI MỘ " chôn tại ẤN Độ , v́ ông khám phá ra rằng bà Maria theo Giesu sống ở Ấn Độ sau khi thoát chết )
( c̣n tiếp )
Sống
florida80
12-23-2019, 23:17
Một số niềm tin tương đồng và dị biệt về Maria giữa Công giáo và Hồi giáo.
Công giáo :
1-Là mẹ Thiên Chúa: V́ tin rằng Giêsu vừa là Thiên Chúa, vừa là con người, nên mẹ của Người cũng là mẹ của Chúa Mẹ của tiên tri Giêsu: V́ không tin Giêsu là Thiên Chúa làm người, mà chỉ là một nhà tiên tri mà thôi .
2-Trọn đời đồng trinh: Giuse là hôn phu, nhưng Mary vẫn đồng trinh trọn đời Trọn đời đồng trinh: Sau khi sinh hạ tiên tri Giesu sống suốt đời đồng trinh .
3-Người nữ được nhiều ơn phúc nhất v́ cưu mang Giêsu Người nữ được nhiều ơn phúc nhất v́ cưu mang Giêsu .
4-Cao trọng nhất trên thiên đàng Cao trọng nhất trên thiên đàng .
5-Cả hồn và xác đều được lên trời Chết và được chôn như người b́nh thường .
6-Vô nhiễm nguyên tội Không tin vào nguyên tội, v́ thế không có khái niệm Vô nhiễm nguyên tội .
Hồi Giáo :
1-Mẹ của tiên tri Giêsu: V́ không tin Giêsu là Thiên Chúa làm người, mà chỉ là một nhà tiên tri mà thôi .
2-Trọn đời đồng trinh: Sau khi sinh hạ tiên tri Giesu sống suốt đời đồng trinh .
3-Người nữ được nhiều ơn phúc nhất v́ cưu mang Giêsu .
4-Cao trọng nhất trên thiên đàng .
5-Chết và được chôn như người b́nh thường .
6-Không tin vào nguyên tội, v́ thế không có khái niệm Vô nhiểm nguyên tội.
florida80
12-23-2019, 23:18
Mẹ Maria khóc
Hồi Giáo tin Mẹ Maria "Chết và được chôn như người b́nh thường ." Nay theo Giáo Sư Hol người Đức khám phá ngôi mộ Mẹ Maria chôn tại Ấn Độ (có bia đá tên Maria chi mộ ) , khi Chúa Jesus và Mẹ trú tại đây .
Nhận định :
Hôm nay tôi không đặt trọng tâm phân tích và nhận định theo Khoa học , Đức tin trong vấn đề " V́ sao Mẹ Maria hay khóc có khi đến chảy máu mắt " , mà tôi chỉ nhận định về mặt Tâm Lư Học ( Psychology ) . Khoa học đem phân chất nước mắt th́ họ hoàn toàn bác bỏ , đưa đến kết luận là độ ẩm trong ciment rịn ra , hoặc do sương , ve sầu đái v.v.... C̣n Đức tin là ḷng tin của mỗi con người ( dù đúng hay sai ) đối với tôn giáo , nhất là Mẹ Maria , nhưng trên mặt tâm lư th́ khó ai từ chối , bác bỏ đựơc v́ Mẹ cũng là một người phụ nữ như muôn người phụ nữ khác , dầu cho giáo lư đặt ra những biệt lệ hoàn toàn trái với thực tế .
Đức tánh phụ nữ hầu hết là nhạy cảm , đa sầu ( hay khóc ) , nhẹ dạ , ḷng thương với gia đ́nh , con cái bao la , lúc hận thù th́ nhớ dai ,chung thuỷ , dịu hiền và dễ mến v.v.....
Đức bà Maria sống cùng với cha mẹ tại Nazareth, xứ Galilee khi đă đính hôn với Joseph (Giuse), ḍng dơi nhà David. Một số học giả bảo thủ cho rằng, Joseph là con cháu Vua David . Trong thời gian đă hứa hôn (là thời kỳ đầu theo phong tục Do Thái), Maria được thiên thần Gabriel đến báo tin rằng cô sẽ trở thành mẹ Đấng Messiah theo ư định của Thiên Chúa. Ngày xưa Trung Đông thuộc về châu Á , đây là một châu phát xuất những đấng lănh đạo các tôn giáo lớn như Catholic , Bà La Môn , Phật Giáo ........ Bản chất người phụ nữ Châu Á hầu hết là kín đáo , bị ràng buộc đến độ mất hết quyền tự do làm người như đi đứng , làm việc , ra ngoài xă hội lẫn trong gia đ́nh ...... nghĩa là phụ nữ như là một công cụ , đôi lúc gần như nô lệ của đàn ông , hoàn toàn bị ràng buộc do lễ giáo . Họ không đựơc học hành , giao tiếp với đàn ông , kể cả lúc có chồng con cũng phải kín đáo che mặt , hay ra đừơng phải có chồng đi theo ( Hồi giáo ) , hoặc ràng buộc bởi luật " Tam ṭng , tứ đức " ( Trung Hoa , Việt Nam ) . Từ những yếu tố xă hội , tập tục cổ truyền đă in sâu vào người con gái lúc mới ra chào đời .
Ông Joseph chưa nhận ra việc mang thai của Maria là do quyền năng siêu nhiên của Chúa Thánh Thần nên tỏ ra băn khoăn và muốn bỏ Maria cách kín đáo. Nhưng trong một giấc mơ, Joseph được thiên thần bảo đừng lo nghĩ mà hăy nhận Maria về làm vợ ḿnh để hợp với lề luật. Sự thật , bất cứ một người chồng nào khi biết vợ dù chưa cưới hay đă cưới lại mang thai với người khác th́ tỏ ra tức giận , bất măn nhiều khi khủng hỏang tinh thần . Riêng bà Maria bị mang thai dù " Từ đầu thai, Đức Maria không hề có đam mê nhục dục " , nhưng chắc chắn là bà không đồng ư trong cuộc nhập thể ( giao cấu ) của Chúa Thánh Thần chứ không bởi một nam nhân trần tục . Làm sao một người phụ nữ đă hứa hôn lại chịu ăn nằm với một người khác , dù là Thánh Thần chỉ là h́nh thức áp đặt , cưỡng bách . Trên phương diện pháp luật , người cưỡng hiếp ( v́ không đồng thuận ) cho dù đó là một vị Thần lại càng nặng tội hơn . Nhưng với đức tin bà Maria và Joseph phải chấp nhận lấy nhau . Về mặt Tâm lư , bà Maria vẫn mang một ấn tượng , mặc cảm tội lỗi suốt cuộc đời ( dù không ai bắt buộc ) . Những tâm tư thầm kín của phụ nữ ít ai mà hiểu thấu , nếu không nhờ đức tin về Thần linh th́ bất cứ người phụ nữ nào cũng muốn t́m cái chết , không muốn sống trong tội lỗi . Nếu không có đức tin th́ đứa bé " không muốn mà có " đôi lúc người Mẹ không thích cho nó chào đời , nó sẽ là h́nh ảnh đau khổ , tội lỗi , mặc cảm v́ xấu hổ , tủi nhục , dù không ai nói , nhưng trí năo vẫn không dễ dàng xóa mờ đựơc , đó là thuộc về TÂM LƯ HỌC tự nhiên . Chữ trinh đối với người con gái đáng giá NGÀN VÀNG , cho dù Giáo hội nói Mẹ vẫn c̣n nguyên trinh , điều mà khoa học phủ bác hoàn toàn , hơn nữa Mẹ 7 lần sanh và trong quá tŕnh giao cấu với chồng th́ không có màng trinh nào c̣n nguyên vẹn được. Đồng trinh chẳng qua là nói ĺ rồi , chỉ giải thích cho con chiên không dám cải lại.
Từ những phân tích và lư luận trên dù bất cứ một phụ nữ nào ở vào hoàn cảnh này cũng sống về đau khổ nội tâm . Để giải quyết nổi sầu phụ nữ thường khóc để giải quyết nổi buồn , lo trong ḷng . Nước mắt là gịng suối rửa sạch ưu tư , làm vơi bớt sầu đau thầm kín . Khóc là một giải bày tâm sự cho chính ḿnh . V́ vậy h́nh ảnh Mẹ Maria hay xuất hiện dưới h́nh thức KHÓC đôi lúc đến độ CHẢY MÁU mắt lúc hiện ra , hay đứng một ḿnh hay đứng một ḿnh ở các thánh đừơng . Trước một sự kiện về Mẹ Maria xảy ra th́ hầu hết mọi người ( nhất là con chiên ) đưa ra những lư do :
-Mẹ v́ thương các con bị tù , giết chóc .
-V́ con bị lưu đày tha phương .
-V́ chiến tranh hay sống như nộ lệ v.v...
Nghĩa là tuỳ từng hoàn cảnh và điều kiện để họ giải thích , dù trong tâm theo ư nghĩ riêng mà xét đóan hay đưa lên báo chí ..... Hành động Mẹ khóc là để AN ỦI chứ không phải là CỨU GÍUP , nhưng thực tế chúng ta nào thấy Mẹ có ra tay làm cho kẻ thù bị chết hay làm cho kẻ thù ngừng tay đàn áp đâu ? Theo ư tôi th́ những suy luận đó , chung chung là để giải đáp hiện tượng , nhưng tôi rất hiểu tâm lư của Đức bà Maria là :
KHÓC V̀ NỔI BUỒN , OÁN HẬN CỦA NGƯỜI CON GÁI kéo dài trong cuộc đời khi bị cưỡng dâm ( to rape ) , dù đó là một vị Thần chỉ dùng h́nh thức nhập thể qua h́nh bóng chứ không bằng t́nh dục thể xác .Nếu không mang tiếng HIẾP DÂM tại sao God không báo mộng trước vài giờ cho bà Maria chuẩn bị tư tưởng là được THỤ NHẬN thay v́ đó là cưỡng hiếp.God không thể lầy quyền tối cao để " TIỀN DÂM HẬU THÚ " , điều này là vô lư.
Khi các con chiên tin rằng Mẹ hiện thân hay khóc là cứu giúp họ th́ đó là ĐỨC TIN . Tôi hoàn toàn tôn trọng niềm tin tôn giáo đó . Đức bà Maria đă cứu giúp bằng im lặng và buồn thương ( khóc ) như là một sự giúp đở đàn con họan nạn , đau khổ như là một sự an ủi , vỗ về mà thôi . Nhưng thực chất Mẹ khóc v́ bị ô nhục ngàn đời do mặc cảm bị hiếp dâm.
florida80
12-23-2019, 23:20
Bồ Tát Quán Thế Âm nhờ thực hành hạnh lắng nghe mà thành tựu viên măn Lục độ. Chúng ta nên hiểu rằng , từ sự lắng nghe sẽ dẫn đến trí tuệ. Ta lắng nghe để thấy rơ chơn vọng của cuộc đời, thấy rơ tác nhân, tác duyên của mọi vấn đề, thấy rơ nhân quả nghiệp báo , như vậy là ta thành tựu trí tuệ Ba - La - Mật.
H́nh ảnh đặc biệt và độc đáo do ḷng do TÂM TỪ của Bồ Tát Quán Âm ḥan toàn khác với Mẹ Maria . Nơi nào có bất công, kỳ thị, th́ nơi đó có Bồ Tát Quán Thế Âm xuất hiện. Ngài đă hoá thân thành Quan Âm Diệu Thiện để chữa lành bệnh cho cha. Ngài đă hoá thân thành Quan Âm Thị Kính bị bà mẹ chồng hiểu lầm, đă nhẫn nhục kiên tŕ, không nổi tâm thù oán, sân hận. Bồ tát Quán Thế Âm đă hiện làm Tiêu Diện Đại sĩ để nhiếp phục loài đầu trâu mặt ngựa, khiến chúng trở về với đạo đức lương thiện. Trái lại Mẹ Maria lúc xuất hiện chỉ im lặng hoặc thóang hiện như bóng mây , hoặc chỉ biết khóc v́ con tim bị rạng nức , mang một vết thương ḷng nhức nhối đời con gái bị cưỡng dâm , mà không nhằm cứu giúp , chữa bệnh , mà mục đích khóc là giải bớt nổi oan khiên tích trữ trong ḷng .
So sánh về mặt khoa học hiện đại ngày nay qua làn sóng Radio , Television , Internet ......... khi chúng ta bắt đúng tầng số AM, FM , cable 12 , 34 , 67 ........ chúng ta sẽ nghe đựơc âm thanh hay h́nh ảnh của đài đó . Cầu nguyện cũng vậy , khi chúng ta có ḷng thành cầu đến Ngài Quán Âm hay Mẹ Maria đúng tầng số trên không gian các vị đang ngự trị , các tầng sóng giao thoa sẽ tiếp cận ( bắt gặp ) các Ngài mà ta muốn giúp đở . Muốn đạt đựơc sự cảm thông về mặt Tâm linh đó , chúng ta phải cố ắng thực tập hạnh lắng nghe của Bồ Tát Quán Thế Âm, hy sinh v́ hiếu như Quan Âm Diệu Thiện, chấp nhận mọi ngộ nhận để đem lại lợi ích cho xứ sở như Quan Âm Thị Kính, phải biết thể hiện hành động Đại hùng - Đại lực như Tiêu diện đại sĩ để cứu nước, cứu dân, và nghe bất cứ nơi nào có tiếng gọi bị áp bức, th́ Bồ Tát liền xuất hiện ở đó, dưới nhiều h́nh dạng để lắng nghe và cứu hộ mà đôi lúc không cần sự cầu nguyện .
H́nh ảnh Ngài Quán Âm mặc áo trắng , tay cầm nhành dương liễu , đôi lúc cầm b́nh nước Cam lồ , nét mặt Từ bi , dịu hiền mang nét độc đáo của đức từ tâm và phổ độ Đặc biệt là Ngài Quán Âm [bKHÔNG BAO GIỜ KHÓC NHƯ MẸ MARIA [/b] mặc dù Ngài cũng bị khổ đau , oan ức , miệng tiếng tà dâm với đời khi bị ngi oan làm Thị Mầu có thai , nhưng đựơc rữa sạch khi Bà qua đời và thành Bồ Tát . Ngài Quán Âm không bị sĩ nhục , hại đến thân thể , gây cơn Shock đau đớn lớn nhất đối với ngừơi con gái lần đầu tong cuộc đời bị xúc phạm về thân xác , mà người đó lại không phải là chồng , người yêu lư tưởng để trao thân , gởi phận trái tim trinh trắng . Chính v́ vậy Ngài Quán Âm không có HẬN T̀NH nên chẳng bao giờ oán hận , tủi hờn để than khóc .
Đối với Á Châu , nhất là TrungHoa , Việt Nam vv.... Đức Quán Âm được nhiều người tôn kính và thờ phụng tin tưởng rất phổ biến , nhất là trong lúc gặp khó khăn hoạn nạn đều hướng về Ngài như là một vị cứu tinh v́ danh hiệu Ngài là "Cứu khổ cứu nạn". Những năm gần đây, niềm tin này lại được bộc lộ qua việc thờ Quán Âm ở tại các chùa , tư gia nhất là ngoài trời hay nơi sân thượng . Việc thờ Quán Thế Âm là một niềm tin mang tinh thầnTừ bi của Đạo Phật nó c̣n là biểu trưng cho niềm khác vọng hướng tới nguồn tâm linh muốn " ĺa khổ để được an vui , hạnh phúc ".
( c̣n tiếp )
florida80
12-23-2019, 23:20
Phật Giáo Trong Mắt Tôi .
(tiếp theo)
Về giáo lư Đức Phật Thích Ca Mâu Ni luôn luôn khẳng định của Ngài không có phân biệt nam - nữ, đối với người nữ trong Phật giáo tuy không giữ vai tṛ quan trọng nhưng luôn luôn được xem b́nh đẳng dù bên cạnh đó là sự ràng buộc của Bát kỉnh pháp mà thời kỳ Đức Phật quy định trong đời sống Tăng đoàn . Thế giới ngày nay hoàn toàn chấp nhận " CHỈ CÓ PHẬT GIÁO LÀ H̉A B́NH VÀ B̀NH ĐẲNG NHẤT " , điều này không bao giờ có ở các tôn giáo khác .
Nhiều bạn thắc mắc hỏi tôi :
- Tại sao khi th́ gọi : Quan Thế Âm Bồ Tát .
- Khi th́ gọi : Quan Âm Bồ Tát .
Chữ Quan Âm (zh. 觀音, ja. kannon), nguyên là Quán Thế Âm nhưng do tránh chữ Thế trùng tên nhà vua Đường là Lư Thế Dân nên phải gọi là Quan Âm hoặc Quán Âm, là tên của Bồ Tát Quán Thế Âm (zh. 觀世音, sa. avalokiteśvara) để tránh phạm húy với tên vua , tại Trung Quốc, Việt Nam và các nước lân cận. Phật tử Trung Quốc thường thờ cúng Quan Âm bên cạnh các vị Bồ Tát Phổ Hiền (zh. 普賢, sa. samantabhadra), Địa Tạng (zh. 地藏, sa. kṣitigarbha) và Văn-thù-sư-lợi (zh. 文殊師利, sa. mañjuśrī). Đó là bốn vị Đại Bồ Tát của Phật giáo Trung Quốc.
Bài đọc thêm :
Quan Âm hiện thân trong mọi h́nh dạng để cứu độ chúng sinh, nhất là trong các nạn lửa, nước, quỷ dữ và đao kiếm. Phụ nữ không con cũng hay cầu Quan Âm. Quan Âm cũng hay được nhắc tới bên cạnh Phật A-di-đà (sa. amitābha) và trong kinh Diệu pháp liên hoa, phẩm 25 với tên Phổ môn, các công hạnh của Bồ Tát tŕnh bày rơ ràng và tán thán. Tại Trung Quốc và Việt Nam, Quan Âm hay được diễn tả dưới dạng nữ nhân.
Trong thần thoại, văn học bác học (như tác phẩm Tây Du Kư của Trung Quốc), văn học dân gian, hay trong kinh sách nhà Phật (ví dụ phẩm Phổ môn), th́ Quán Thế Âm Bồ Tát được xem là vị Bố Tát có thần lực nhất, chỉ sau Phật Tổ. Điều này có thể là do Quán Âm là vị Bồ Tát cứu độ chúng sanh và là Bồ Tát đặc trưng cho tinh thần của Phật giáo Đại thừa - giác tha, có nghĩa là cứu vớt và giác ngộ người khác - cho nên có thể Phật giáo Đại thừa đă nâng ngài lên tầm quan trọng như vậy, khác biệt với Phật giáo Tiểu thừa. Điều này càng làm tăng ḷng sùng kính của người theo đạo Phật đối với Quán Âm. Trong mọi ngôi chùa, thường th́ chính giữa là tượng đức Phật Tổ, hai bên là tượng Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, tuy nhiên ở ngoài khuôn viên chùa hầu hết đều có tượng đức Phật Tổ hay Quán Thế Âm mà không thấy hoặc ít thấy hơn tượng của các vị Phật hay Bồ Tát khác.
Tranh tượng thường tŕnh bày Quan Âm dưới nhiều dạng khác nhau, nhưng phổ biến nhất là dạng một vị Bồ Tát ngh́n tay ngh́n mắt. Có khi Quan Âm ẵm trên tay một đứa bé, có khi một đồng tử theo hầu. Người ta cũng hay vẽ Quan Âm hiện trong mây, hoặc cưỡi rồng trên thác nước. H́nh ảnh Quan Âm đứng trên một hải đảo cứu người bị nạn cũng phổ biến, biển cả tượng trưng cho Luân hồi. Tay Quan Âm thường cầm hoa hoa sen hay b́nh nước Cam lộ.
Danh xưng Quán Thế Âm là xuất phát từ một truyền thuyết của Phật giáo, tin rằng những người tu hành đạt tới chính quả, th́ ngũ giác của họ có thể dùng chung được. Nghĩa là họ có thể dùng tai để "nh́n" thấy h́nh ảnh, dùng mắt để "nghe" thấy âm thanh, lưỡi có thể ngửi được v.v. Theo ḷng tin này, th́ danh xưng Quán Thế Âm Bồ Tát có nghĩa là : vị Bồ Tát luôn "nh́n thấy" tiếng ai oán, đau khổ trong bến mê của chúng sinh và sẵn sàng cứu giúp hay nói pháp khi cần.
Theo quan niệm Trung Quốc, Quan Âm ngự tại Phổ-đà Sơn, miền Đông Trung Quốc, đó là một trong Tứ đại danh sơn, là bốn trú xứ của bốn Đại Bồ Tát của Phật giáo Trung Quốc.
Tại Trung Quốc - đến thế kỉ 10 - Quan Âm c̣n được giữ dưới dạng nam giới, thậm chí trong hang động ở Đôn Hoàng, người ta thấy tượng Quan Âm để râu. Đến khoảng thế kỉ thứ 10 th́ Quan Âm được vẽ mặc áo trắng, có dạng nữ nhân. Có lẽ điều này xuất phát từ sự trộn lẫn giữa đạo Phật và đạo Lăo trong thời này. Một cách giải thích khác là ảnh hưởng của Mật tông (xem Tantra) trong thời ḱ này: đó là hai yếu tố Từ bi (sa. maitrī-karuṇā) và Trí huệ (sa. prajñā) được thể hiện thành hai dạng nam nữ, mỗi vị Phật hay Bồ Tát trong Mật tông đều có một "quyến thuộc" nữ nhân. Vị quyến thuộc của Quán Thế Âm được xem là vị nữ thần áo trắng Đa-la (sa. tārā), và Bạch Y Quan Âm là tên dịch nghĩa của danh từ đó. Kể từ đó quần chúng Phật tử Trung Quốc khoác cho Quan Âm áo trắng và xem như là vị Bồ Tát giúp phụ nữ hiếm muộn.
Một trong các lí do đó là đối với Phật Giáo, Phật không phân biệt nam hay nữ. Khác với các thần thoại sơ khai quan niệm các vị thần có giới tính và co sự sinh sản, Phật giáo và các tôn giáo lớn trên thế giới không cho rằng thần của họ có giới tính và sự sinh sản. Do đó việc quan niệm Quán Âm là nam hay nữ không phải là vấn đề quan trọng trong Phật giáo. Vả lại, theo phẩm Phổ môn, khi muốn cứu vớt hoặc giác ngộ cho chúng sinh, Quán Âm có thể hóa thành 32 sắc tướng[1] như Phật, Bồ Tát, Càn-thát-bà, thiện nam, tín nữ v.v tùy theo đối tượng để cứu giúp chúng sanh.
Có rất nhiều huyền thoại về Bồ Tát Quan Âm. Theo một huyền thoại Trung Quốc th́ Quan Âm là con gái thứ ba của một nhà vua. Lớn lên, mặc dù vua cha ngăn cản nhưng công chúa quyết đi tu. Cuối cùng vua nổi giận, sai đem giết nàng. Diêm vương đưa nàng vào địa ngục, ở đó công chúa biến địa ngục thành Tịnh độ, cứu giúp người hoạn nạn. Diêm Vương thả nàng ra và công chúa tái sinh lại trên núi Phổ-đà biển Đông và trở thành người cứu độ cho ngư dân. Đến khi vua cha bị bệnh nặng, nàng cắt thịt đắp lên chỗ bệnh. Nhà vua khỏi bệnh và nhớ ơn, cho tạc tượng nàng. Tương truyền rằng, v́ hiểu lầm ư của nhà vua mà người ta tạc nên bức tượng ngh́n tay ngh́n mắt, được lưu truyền đến ngày nay.
Tại Trung Quốc, các ngư dân thường cầu nguyện Quan Âm để được b́nh an trong các chuyến đi đánh cá. V́ thế có Quan Âm cũng có biệt hiệu "Quan Âm Nam Hải".
Đức Mẹ Quán Âm
florida80
12-24-2019, 20:50
Tịnh Nghiệp Tam Phước
Kính thưa Chủ tịch Ủy ban trù bị Đại hội Hoằng pháp, vợ chồng ông Đan Tư Lư, Lư Kim Hữu, đại diện trụ tŕ chùa Cực Lạc - Pháp sư Nhật Hạnh, các vị đại diện các tôn giáo lớn, các vị trưởng lăo tiền bối, các vị trợ lư đại hội, các vị đồng tu Tịnh Tông Học Hội, các vị nghị viện thành phố, các vị cư sĩ đại đức, các vị đại biểu văn hóa giáo dục, đại biểu báo chí cho đến các vị hộ pháp, các vị pháp sư đại đức đồng tu, xin chào các vị!
Chùa Cực Lạc ở Tân Thành là một đạo tràng cổ kính mà thường đổi mới. Hôm nay, mọi người chúng ta cùng hội tụ lại với nhau ở nơi đây học tập Phật pháp, nhân duyên này thù thắng không ǵ bằng. Đạo tràng này có lịch sử một trăm mười một năm. Dưới sự lănh đạo của Pháp sư Nhật Hạnh, chỉ trong mấy năm ngắn ngủi đă làm cho bộ mặt được đổi mới. Đây là nhờ oai thần tam bảo gia hộ, sự ủng hộ của chính quyền địa phương và do chúng sanh khu vực này có phước. Chúng ta thấy được cảm ứng rơ ràng, thù thắng đến như vậy. Lần này Tịnh Không Pháp sư tôi đến nơi đây, v́ các vị chọn ra đề tài là “Tịnh Nghiệp Tam Phước” trong kinh Quán Vô Lượng Thọ. Khi dạ tiệc hôm qua, tôi cũng sơ lược nói qua với các vị nhân duyên của tôi với đạo tràng này, tuy là lần đầu chúng ta gặp mặt nơi đây mà duyên phận rất sâu, rất dày.
Năm xưa, Pháp sư Viên Anh chuyên hoằng Lăng Nghiêm. Sư phụ tôi, Pháp sư Bạch Thánh - học tṛ của Viên lăo, cả đời cũng chuyên hoằng Lăng Nghiêm. Khi tôi mới bắt đầu học Phật, kinh Lăng Nghiêm cũng là thời khóa tu chính của tôi. Ngày trước đă từng giảng qua rất nhiều lần, tôi nhớ được dường như là trước sau giảng qua bảy lần. Măi đến sau khi lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam văng sanh, tôi nhận sự dặn bảo của thầy chuyên tu chuyên hoằng kinh Vô Lượng Thọ, bản hội tập của cư sĩ Hạ Liên. Việc này trong Phật pháp gọi là sự truyền thừa mà người xưa đă nói. Ở vào xă hội ngày nay đă rất là hiếm rồi, thế nhưng những lăo pháp sư hoằng pháp thời cận đại chúng ta thường hay gặp cũng rất cảm phục mà tán thán, pháp sư có thể ở trong và ngoài nước giảng kinh nói pháp dường như toàn bộ thảy đều nhận qua giáo dục của người xưa. Người xuất thân từ Phật học viện của Tân Hưng rất hiếm thấy, bao gồm Lăo Pháp sư Trúc Ma nơi đây, Pháp sư Diễn Bồi của Singapore đă văng sanh, chúng ta đều là tiếp nhận sự truyền thừa của người xưa. Sự truyền thừa này ở Trung Quốc đă có lịch sử hơn hai ngàn năm. Hiệu quả của nó cũng rất tốt, rất đáng được chúng ta ở ngay trong dạy học sâu sắc mà suy ngẫm, không nên đem nó phế bỏ. Thứ cổ xưa của chúng ta nhưng bên trong đó có nhiều thứ rất tốt, cũng như giáo học của Phật Đà vậy.
Đoạn kinh văn này trong kinh điển ghi chép, Phu nhân Vi Đề Hy ngay lúc đó gặp phải tai biến gia đ́nh, quốc gia, tai biến đối với nhân sanh, có cảm giác rất là thoái tâm. Bà cầu mong với Thích Ca Mâu Ni Phật giới thiệu cho bà là thế gian này có hoàn cảnh sống nào tốt hơn chăng? Nếu dùng lời hiện tại mà nói, có chỗ để di dân chăng? Khải thỉnh của Vi Đề Hy phu nhân Thế Tôn tiếp nhận rồi, liền dùng thần lực biến hiện ra mười phương cơi nước chư Phật trước mặt bà, làm cho bà có thể nh́n thấy.
Chúng ta phải nghĩ đến địa phương này. Ngày nay chúng ta có thể đem t́nh huống của mọi góc độ của địa cầu, dùng kỹ thuật của khoa học, truyền h́nh vệ tinh, dùng màn h́nh của ti vi hiện bày ra trước mặt của chúng ta. Những thiết bị cơ khí này rất phức tạp, Thế tôn không cần phải phức tạp đến như vậy. Thần lực của Ngài có thể biến hiện cho phu nhân Vi Đề Hy xem, hơn nữa cái mà bà xem thấy là lập thể, không phải là mặt phẳng, như ở trước mặt. Chúng ta từ chỗ này thể hội được khoa học của thế giới Tây Phương Cực Lạc cao minh hơn rất nhiều so với chúng ta.
Cho nên năm trước, tôi giảng kinh ở nước Mỹ, tôi đă khuyên các nhà khoa học bậc nhất trên thế giới nên đi đến thế giới Tây Phương Cực Lạc để du học, cố gắng học tập với Phật A Di Đà. Phu nhân Vi Đề Hy nh́n thấy rất nhiều thế giới chư Phật, hoàn cảnh sinh hoạt của họ nơi đó, nơi chốn tu học thù thắng hơn rất nhiều so với thế giới này của chúng ta, bà chọn lựa thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà. Thế Tôn không hề giới thiệu trước cho bà, mà để bà tự ḿnh lựa chọn. Sự lựa chọn của bà đương nhiên Thích Ca Mâu Ni rất hoan hỷ, đích thực bà có mắt nh́n, có trí tuệ. Trong thế giới chư Phật đă chọn lựa ra rất thù thắng, rất viên măn, rất ổn định, một hoàn cảnh sinh sống tốt đến như vậy. Thế là phu nhân Vi Đề Hy cầu xin Thế Tôn chỉ dạy làm cách nào để đi. Thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà là tốt, làm thế nào có thể văng sanh? Dùng lời hiện đại mà nói, chúng ta dùng phương pháp ǵ, điều kiện ǵ mới có thể di dân đến thế giới Tây Phương Cực Lạc? Thế Tôn trước khi dạy cho bà phương pháp liền nói cho bà nghe một đoạn kinh văn. Đoạn kinh văn khi vừa mở đầu là:
“Nhị thời Thế Tôn, cáo Vi Đề Hy: “Nhữ kim tri bất, A Di Đà Phật, khứ tự bất diễn, nhữ đương hệ niệm, đế quán Bỉ quốc, Tịnh nghiệp thành giả. Ngă kim vi nhữ, quảng thiết chúng thể. Việc linh vị thế, nhất thiết phàm phu, dục tu tịnh nghiệp giả, đắc sanh Tây Phương Cực Lạc quốc độ”.
Mấy câu nói này của Thế Tôn rơ ràng nói với chúng ta, thế giới Cực Lạc đi th́ không xa, đích thực không xa. Đại đức xưa thường nói: “Sanh th́ nhất định sanh, đi th́ đích thực không đi”. Hàm nghĩa của câu nói này đích thực rất khó lư giải. Hiện tại do v́ khoa học phát triển, chúng ta tiếp nhận một số giáo dục của khoa học, dùng khoa học cận đại để ứng chứng th́ dễ dàng hiểu được quá nhiều.
Thế giới Tây Phương Cực Lạc cùng thế giới hiện tiền của chúng ta là không đồng một không gian duy thứ. Cũng giống như chúng ta xem truyền h́nh, màn truyền h́nh chỉ là một, c̣n kênh đài không giống nhau. Chúng ta chuyển đổi một kênh th́ là thế giới Tây Phương Cực Lạc, vẫn là một màn h́nh này. Cho nên nói sanh th́ nhất định sanh, đi th́ thật không đi, chuyển một kênh thôi. Ngày nay chúng ta không biết dùng phương pháp ǵ để chuyển đổi không gian, nếu như hiểu được cách chuyển đổi kênh đài này th́ mười phương cơi nước chư Phật đều ở ngay trước mặt. Phật ở trong kinh điển thường hay nói mười pháp giới y chánh trang nghiêm, trên thực tế đang tồn tại những không gian duy thứ không giống nhau. Ư nghĩa mấy câu nói này của Phật rất sâu, rất rộng.
Dùng phương pháp ǵ? “Nhữ đương hệ niệm”. Trên kinh Di Đà dạy chúng ta: “Nhất tâm hệ niệm”. Đây là bản dịch của Ngài Huyền Trang, Đại sư Huyền Trang dịch là nhất tâm hệ niệm, trong bản dịch của Đại sư Cưu Ma La Thập là: “Nhất tâm bất loạn”. Ngài La Thập là dịch ư, Đại sư Huyền Trang là dịch từ. Đây là dạy bảo chúng ta bí quyết văng sanh, bí quyết này Phật ở trên đại kinh thường giảng. Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Hư không pháp giới tất cả chúng sanh là duy tâm sở hiện duy thức sở biến”. Trên kinh đại thừa thường nói: “Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh”. Hệ niệm quán tưởng.
Chúng ta biết được bí quyết đột phá thời không, chúng ta v́ sao không thể đột phá? V́ vọng niệm của chúng ta quá nhiều! Phân biệt, chấp trước quá nhiều cho nên không thể đột phá! Do đây chúng ta cũng có thể thể hội được không gian không giống nhau.
Từ trên lư luận mà nói là duy thứ không hạn độ. Do đâu mà tạo thành, từ đâu mà ra? Phật nói pháp giới vốn dĩ là nhất chân. Thế giới Hoa Tạng trong kinh Hoa Nghiêm, thế giới Cực Lạc trong kinh A Di Đà đều là thuộc về pháp giới nhất chân. Pháp giới vốn dĩ là nhất chân, tại v́ sao lại biến thành không gian duy thứ phức tạp đến như vậy?
Phật ở trên kinh nói với chúng ta nguyên nhân này chính là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của chúng ta biến hiện ra. Vọng tưởng chấp trước của chúng sanh là vô lượng vô biên, làm cho không gian thu nhỏ, làm không gian biến h́nh, cho nên biến thành mười pháp giới. Mười pháp giới là phần lớn, mỗi một pháp giới là phần nhỏ vô cùng phức tạp. Chúng ta biết được mười pháp giới này từ đâu mà ra, chúng ta cũng liền hiểu được làm thế nào để giải quyết vấn đề, hồi phục lại nhất chân.
florida80
12-24-2019, 20:51
Thế nên Phật ở trong Hoa Nghiêm, ở trong đại kinh, trong kinh Di Đà, ở trong kinh Vô Lượng Thọ, Quán kinh mà hôm nay chúng ta giảng đều nói đến Hệ Niệm Đế Quán. Tịnh nghiệp mới có thể thành tựu. Tâm tịnh th́ Phật độ tịnh. Tâm tịnh th́ có thể đột phá chướng ngại của thời không. Như vậy, phương pháp này đă v́ chúng ta nêu ra rồi, nói rơ ở đoạn kinh văn sau.
Phật rất từ bi, không những phu nhân Vi Đề Hy thỉnh pháp bà nhận được lợi ích, sự thỉnh pháp của bà cũng là đặc biệt, có thể nói cho tất cả phàm phu đời Mạt Pháp (đây là chỉ những người đời hiện tại này của chúng ta), chúng ta cũng muốn tu tịnh nghiệp, cũng muốn cầu sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, y theo lư luận phương pháp này mà tu học đều có thể thành tựu. Thế nên phía sau Phật liền nói ra ba việc, đây là ba tiền đề.
“Dục sanh bỉ quốc giả, đương tu Tam Phước”.
Chúng ta biết, trên tất cả kinh luận đều nói, Phật là lưỡng túc tôn. Túc là ư nghĩa đầy đủ, chính là ư viên măn. Trí tuệ của Phật viên măn, phước báu của Phật viên măn. Tây Phương là nước Phật, nhất chân pháp giới là cơi nước chư Phật, nếu chúng ta không có trí tuệ, không có phước báu th́ không cách ǵ tiến vào cơi nước của các Ngài, không thể nào bước vào hoàn cảnh, đời sống tu học của các Ngài. Cho nên trước tiên dạy chúng ta tu phước, nhà Phật gọi là phước huệ song tu. Phước là trước tiên, huệ phải ở phía sau. Trước tu phước, sau tu huệ, việc này rất có đạo lư. Chúng ta xem ngạn ngữ thường nói: “Phước đến tâm sáng”. Một người tu phước, phước báu hiện tiền rồi, con người này đột nhiên thông minh, liền có trí tuệ. Do đây có thể biết, phước báu cùng trí tuệ có liên quan mật thiết. Chỗ này là Thế Tôn dạy chúng ta tu phước trước, tu tam phước.
Phước thứ nhất, hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp. Đây là điều đầu tiên. Điều đầu tiên cũng chính là căn bản, là nền tảng của phước đức. Thích Ca Mâu Ni Phật dạy chúng ta như vậy, thời xưa Khổng Lăo Phu Tử của Trung Quốc cũng là dạy chúng ta như vậy.
Ngày trước, tôi gặp qua một số người đọc sách Khổng Tử, thực tế mà nói hiện tại cũng không có nhiều. Tôi hỏi họ, cả đời giáo học của Khổng Mạnh dạy người cái ǵ? Có thể dùng một câu nói đem nó giới thiệu cho rơ ràng hay không? Tôi đưa ra vấn đề này, không người nào giải đáp cho tôi. Kỳ thật đáp án này nằm ở trong Tứ Thư Đại Học. Các vị mở chương đầu tiên của Đại Học:
“Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân nhân, tại chỉ ư chí thiện”. Biết dừng th́ sau có định, định rồi th́ có được an, an rồi th́ có thể lắng lại, lắng lại th́ có thể đắc. Giáo học của Khổng Mạnh cả đời không ngoài đoạn này, là tổng cương lĩnh, tổng nguyên tắc.
Giáo học của Thích Ca Mâu Ni Phật chúng ta có thể dùng một câu nói được rơ ràng hay không? Có thể, chính là câu này:
“Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp”.
Bốn mươi chín năm đă nói không ngoài cương lĩnh này. Đây là căn bản giáo nghĩa của Phật pháp, cũng giống như nhà Nho nói minh đức.
Minh đức là ǵ? Minh đức chính là hiếu kính, hiếu kính là đức năng trong bổn tánh. Chữ hiếu này ư nghĩa sâu rộng vô cùng.
Cách viết chữ này của Trung Quốc, ở trong lục thư thuộc về hội ư. Văn tự Trung Quốc là văn tự sáng tạo, có sáu nguyên tắc gọi là lục pháp, cũng gọi là lục thư. Đây là một loại trong lục pháp, gọi là hội ư. Bạn nh́n thấy chữ này liền thể hội ư của nó. Chữ này bên trên là chữ lăo, bên dưới là chữ tử. Ư này rất rơ ràng, đời trước cùng đời sau là một thể. Nếu như phân nó ra, hiện tại gọi là sự khác biệt, khác biệt th́ không có hiếu nữa, th́ chữ này không c̣n nữa. Người ngoại quốc có khác biệt, trong văn hóa Trung Quốc không có sự khác biệt. Trên một đời th́ c̣n có trên một đời nữa, dưới một đời th́ c̣n có dưới một đời nữa, quá khứ vô thỉ, vị lai vô cùng, là một thể sinh mạng. Đây là hàm ư trong chữ này.
Trong nhà Phật nói, nhà Phật gọi chân như, gọi bổn tánh, gọi chân tâm, gọi lư thể, rộng khắp mười phương, khắp cùng các cơi, cùng với dấu hiệu, cả biểu hiện này không hề khác biệt. Trong biểu hiện này xem thấy khắp cùng các cơi, rộng khắp mười phương. Trong kinh Phật thường nói: “Mười phương ba đời chư Phật cùng đồng một pháp thân”. Biểu hiện này chính là đại biểu pháp thân, chính là một đại biểu của tất cả chúng sanh hư không pháp giới. Trung Quốc dùng chữ này, nếu bạn không hiểu đạo lư của chữ Hiếu này th́ bạn làm sao có thể hiểu được, hạnh đức của hiếu bạn làm sao có thể sanh khởi. Trong biểu hiện này bao gồm tất cả.
Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “T́nh dữ vô t́nh đồng viên chủng trí”. Có t́nh ngày nay chúng ta gọi là động vật, vô t́nh ngày nay gọi là thực vật, khoáng vật, hiện tượng tự nhiên, đều là thứ biến hiện ra từ tự tánh. Cho nên chữ Hiếu này đại biểu cho hư không pháp giới tất cả chúng sanh. Vốn dĩ chính là như vậy, nhà Phật gọi pháp vốn như thế. Đây là lư luận của chữ Hiếu này, sâu rộng vô cùng tận, thực tiễn ở cha con.
Chúng ta tỉ mỉ mà quán sát, đứa bé vừa mới sanh ra, cha mẹ thương yêu quan tâm đối với nó, đó là biểu hiện từ tự tánh, tự nhiên mà biểu lộ ra. Lại quan sát đứa bé, khi mới hai, ba tuổi là đă biết chuyện rồi, đều là biết thương yêu cha mẹ. Thiên tính là như vậy. Cho nên chữ Hiếu này là thiên tính, phát xuất ra từ thiên tính. Nhưng nếu như con người không nhận được giáo dục tốt, thiên tính rất dễ bị mê mất. Giáo dục cho ngày sau là vô cùng quan trọng. Ngày sau cần thiết phải tiếp tục tiếp nhận giáo dục của thánh hiền nhân.
Thế nào gọi là “Thánh”? Định nghĩa của chữ Thánh này là đối với vũ trụ nhân sanh, vạn sự vạn vật thông đạt rơ ràng mà không có sai lầm, người này chúng ta liền gọi họ là thánh nhân. Hay nói cách khác, Thánh nhân, nếu dùng lời dễ hiểu ngày nay mà nói th́ chính là người minh bạch. Phàm phu chúng ta đối với sự lư nhân quả của vũ trụ nhân sanh hoàn toàn không hiểu. Nếu thông đạt rồi, con người này gọi là thánh nhân. Không thông đạt th́ gọi là phàm phu. Người Trung Quốc gọi thánh nhân, người Ấn Độ gọi là Phật, xưng là Phật Đà. Phật Đà chính là Thánh Nhân, người phương Tây gọi là Thượng Đế, gọi là thần, kỳ thật chỉ là một.
Chúng ta tỉ mỉ mà đọc tụng tất cả điển tích của các tôn giáo trên thế giới chúng ta liền hiểu rơ. Những người viết ra kinh điển là Thánh Nhân, họ đối với đại đạo lư của vũ trụ nhân sanh đều hiểu rơ, đều thông đạt, không hề khác nhau. Khi chúng ta nghĩ đến ba mươi hai ứng thân của Bồ Tát Quán Thế Âm, đáng dùng thân ǵ để độ Bồ Tát liền hiện ra thân đó. Bồ Tát Quán Thế Âm không có tướng trạng nhất định, tùy tâm chúng sanh mà biến hiện tướng trạng không giống nhau.
Trong kinh Lăng Nghiêm đă nói: “Tùy chúng sanh tâm ứng sở tri lượng”. Ba mươi hai ứng thân trong phẩm Phổ Môn đă nói, nên lấy thân ǵ để độ Ngài liền hiện ra thân đó, nên nói pháp ǵ cho chúng sanh nghe Ngài liền nói ra pháp đó. Do đó Phật không có h́nh tướng nhất định, cũng không có định pháp để nói. Đây là trí tuệ chân thật, nhất định không có định pháp để nói. Cũng giống như thầy thuốc giỏi, một vị bác sĩ, Bác sĩ có sẵn phương thuốc tốt không? Không có. Họ chuẩn đoán cho bạn, sau khi chuẩn đoán xong mới ra toa cho bạn, tuyệt đối không thể nói dự bị trước một đống phương thuốc tốt để dành cho người bệnh. Làm ǵ có loại bác sĩ cho bạn uống thuốc không hết bệnh th́ nói là phương thuốc của tôi rất hay, tại bệnh của bạn sai rồi.
Chư Phật Bồ Tát, các vị Thánh Nhân của các tôn giáo thế gian đều rất hay, cho nên chúng ta từ quan điểm của Phật giáo mà nh́n, tất cả chúng thần trong các tôn giáo đều là Phật, Bồ Tát hóa thân, đều là Phật Bồ Tát. Khi tôi vừa nói ra câu này, rất nhiều thần phụ của Thiên Chúa giáo, mục sư của Ki Tô giáo nghe rồi hai mắt đều mở rất to. Tôi liền nói, từ cái nh́n của các vị, chư Phật Bồ Tát đều là hóa thân của Thượng Đế. Họ vừa nghe xong, chúng ta là b́nh đẳng mà, thiệt không phân biệt ǵ cả, là một không phải là hai, không nên phải căi nhau, không nên phải tranh chấp. Xác xác thực thực chỉ là một. Cũng giống như thân thể con người của chúng ta vậy, tôn giáo không giống nhau là khí ḥa của thân thể của chúng ta không giống nhau, chủng tộc không giống nhau là tay chân trên thân thể chúng ta không giống nhau, là một thân thể thôi. Bất cứ nơi nào có một tế bào bị bệnh th́ cả thân thể chúng ta đều không tự tại. Là một đạo lư. Hư không pháp giới là một pháp thân, như vậy bạn mới có thể thông hiểu được kinh điển này.
Thật đă thông suốt rồi, thấu hiểu rồi, sau đó ư nghĩa của hiếu đạo bạn liền thông đạt tường tận, bạn cũng hiểu được áp dụng ra sao. Học thuyết nhà Nho xây dựng trên nền tảng của hiếu đạo, nền tảng Phật pháp cũng là xây dựng trên nền tảng của hiếu đạo, măi về sau đều là hiếu đạo có trường rộng lớn mà thôi. Phật ở trong giới kinh nói với chúng ta rất rơ: “Tất cả nam tử là cha ta, tất cả nữ nhân là mẹ ta”. Việc này là tận hiếu, phạm vi hiếu đạo liền được mở rộng, hiếu thuận tất cả chúng sanh. Đây là hiển lộ tánh đức viên măn.
florida80
12-24-2019, 20:51
Ngày nay khởi tâm động niệm của chúng ta, lời nói việc làm trái với giáo huấn của Phật Đà, trái với giáo huấn của Thánh hiền. Chúng ta tỉ mỉ đem học thuyết của Nho và Phật hợp chung lại xem th́ càng dễ dàng hiểu rơ, càng dễ dàng thể hội. Do đó, thực hiện hiếu đạo chính là thân nhân. Thân nhân dùng lời hiện tại mà nói là nhân t́nh từ bác ái, đối tượng là từ tất cả chúng sanh. Sau cùng nói với chúng ta, minh đức cùng thân nhân đều phải đạt đến viên măn nhất, cứu cánh nhất, đạt đến chí thiện. Cả đời con người ở thế gian, đây là một việc lớn.
Chí thiện là ǵ?
Chí thiện chính là làm Thánh, làm Phật. Cho nên người xưa đọc sách cùng người hiện tại đọc sách không giống nhau. Người xưa đọc sách chí tại Thánh hiền. Người học Phật tại v́ sao đến học Phật? Ta học Phật chí tại làm Phật. Làm Phật mới là chí thiện, làm Thánh nhân mới là chí thiện. Chỉ ư chí thiện lập chí làm Phật, lập chí làm thánh nhân, tâm của chúng ta liền định lại, không bị môi trường bên ngoài mê hoặc, không bị hoàn cảnh bên ngoài làm dao động, tâm của bạn liền định. Định th́ sau đó có thể an. An th́ bạn được tự tại, bạn được an vui, an th́ sau đó được lắng lại. Lắng lại là trí tuệ, trí tuệ liền khai mở. Sau cùng là lắng lại có thể đắc, đắc cái ǵ vậy? Cái chí thiện mà bạn đă mong cầu, bạn liền được rồi. Thông thường chúng ta nói, bạn học Phật chứng đắc được quả vị của Phật, bạn học Nho đắc được cảnh giới của Thánh Nhân. Nho và Phật không hề khác nhau. Đây nói một chữ Hiếu.
Chữ Hiếu thực tiễn ngay trong cuộc sống là dưỡng, cho nên câu thứ nhất là “Hiếu dưỡng phụ mẫu”. Không chỉ đời sống thường ngày của cha mẹ chúng ta phải nên chăm sóc, thiên kinh địa nghĩa. Thế nhưng hiện tại người ngoại quốc không nuôi cha mẹ. Người Trung Quốc vẫn c̣n quan niệm này, nhưng hiện tại quan niệm này đă dần dần tan nhạt. Đây là nguy cơ, ư thức dân tộc của chúng ta, việc này chúng ta phải cảnh giác.
Nuôi dưỡng cha mẹ được xem là tận hiếu chăng? Không phải. Người xưa nêu ra thí dụ rất nhiều, động vật đều nuôi dưỡng cha mẹ. Phải hiểu được dưỡng cái tâm của cha mẹ, dưỡng cái chí của cha mẹ. Nếu như chúng ta thường hay làm cho cha mẹ v́ hành vi của ḿnh mà sanh phiền năo th́ bất hiếu. Khi c̣n nhỏ ở trường học tập, bài tập không được tốt, cha mẹ lo lắng phiền muộn là bất hiếu. Thân thể không được khỏe là bất hiếu. Không tôn kính lăo sư, không ḥa thuận với đồng học đều làm cho cha mẹ lo lắng. Tóm lại mà nói, bạn làm cho cha mẹ lo lắng th́ không phải dưỡng phụ mẫu. Khi lớn lên, học tập xong rồi, kết hôn rồi, sau khi kết hôn, anh em dâu rể bất ḥa, cha mẹ cũng lo lắng. Bạn lại sinh ra con cái, con cháu bất ḥa, cha mẹ lại lo lắng, làm cho cha mẹ phải lo lắng cả một đời. Tận hiếu không phải dễ.
Bước vào xă hội, chúng ta nêu ra một ví dụ, bạn phục vụ ở một công ty, bạn không thể trung thành với ông chủ, không thể cùng hợp tác với đồng sự, không thể đối đăi tốt với thuộc hạ của ḿnh đều là bất hiếu. Bạn mới biết được phạm vi của chữ hiếu này rất rộng, đều bao gồm hết tất cả đời sống của chúng ta trong đó. Đây là nói cái tâm của chúng ta phải làm thế nào để dưỡng cha mẹ. Làm cho cha mẹ vui vẻ, tâm an th́ mới là một người con hiếu. Thế nhưng vẫn chưa thể gọi là tận hiếu, tại v́ sao vậy? Chí của cha mẹ, bạn có nghĩ đến hay không? Chí là kỳ vọng của cha mẹ đối với bạn. Việc này người thế gian thường nói mong con thành rồng, mong con thành Phụng. Bạn không thành được rồng, không thành được phụng là bất hiếu.
Rồng là cái ǵ vậy? Rồng là Phật, rồng là Thánh nhân. Hay nói cách khác, bạn không thể tu dưỡng chính ḿnh đạt đến địa vị của thánh hiền, không thể làm đến được các việc thiện trong thiên hạ, cha mẹ đối với sự chăm sóc đời sống vật chất của bạn cũng có thể là rất an vui, thế nhưng cha mẹ đối với nguyện vọng của bạn, bạn vẫn không thể làm được. Cho nên Đẳng Giác Bồ Tát hiếu vẫn chưa được viên măn. Tại v́ sao vậy? Vẫn c̣n một phẩm sanh tướng vô minh chưa phá. Hiếu dưỡng phụ mẫu, câu nói này làm được viên viên măn măn, một chút khiếm khuyết cũng không có là ai vậy? Là quả địa Như Lai. Đẳng Giác Bồ Tát vẫn chưa đạt được cứu cánh viên măn. Bạn thử nghĩ xem, Phật pháp không chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật, mà mười phương ba đời tất cả chư Phật giáo hóa chúng sanh chính là một câu này. Cho nên nếu như người ta hỏi, cái ǵ là Phật pháp? Phật pháp là hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng. Phật pháp không phải là tôn giáo, mà là giáo dục. Cho nên chúng ta tỉ mỉ từ trong kinh điển mà quan sát, cả đời Thích Ca Mâu Ni Phật là giáo dục chí thiện viên măn đối với hư không pháp giới tất cả chúng sanh.
Thích Ca Mâu Ni Phật là người thế nào vậy? Nếu chúng ta dùng chức vị ngày nay, th́ Ngài là một nhà giáo dục xă hội đa nguyên văn hóa, Ngài là một vị năm xưa ở đời làm công tác nghĩa vụ giáo dục xă hội đa nguyên văn hóa, đáng được người tôn kính. Không chỉ người chúng ta tôn kính, thần cũng tôn kính. Tất cả chúng sanh mười pháp giới không ai là không tôn kính. Cả đời Ngài là hoàn toàn cống hiến, Ngài không hề đề ra yêu cầu đối với bất cứ ai, Ngài cống hiến triệt để. Ngài không hề tiêu cực. Mỗi ngày dạy học, cùng mọi người lên lớp tám giờ, bốn mươi chín năm không hề ngơi nghỉ. Chúng ta không hề nh́n thấy trên kinh, Thích Ca Mâu Ni Phật lúc nào th́ đi nghỉ hè. Thích Ca Mâu Ni Phật không hề nghỉ hè. Một năm ba trăm sáu mươi ngày, một ngày nghỉ cũng không có, thật tinh tấn! Đây đều là làm gương tốt cho người sau xem. Đó là một người triệt để giác ngộ.
Hiếu dưỡng cha mẹ, tôi dùng một ít thời gian nói sơ đại ư của câu nói này, hy vọng đồng tu tỉ mỉ mà thể hội. Chúng ta phải hồi phục lại tánh đức. Nếu muốn vượt khỏi luôn hồi, vượt khỏi mười pháp giới, bốn chữ này rất quan trọng. Nếu như lơ là với nền tảng này, trong Phật pháp không luận là tu một pháp môn nào đều không thể thành tựu. Như chúng ta xây một cái nhà, không luận là xây nhà nào, không luận là xây cao hay thấp, đây là nền tảng, đây là cơ bản. Bạn không có nền tảng th́ bạn nhất định không thể thành tựu.
Hiếu đạo phải do ai đến dạy bạn? Phải do lăo sư, cho nên Phật pháp là sư đạo. Sư đạo xây dựng trên nền tảng của hiếu đạo
florida80
12-24-2019, 20:52
Câu thứ hai: “Phụng sự sư trưởng”.
Trong xă hội cũ Trung Quốc, ân đức của lăo sư cùng cha mẹ là giống nhau, là b́nh đẳng. Chúng ta xem thấy trong lễ kính, phong tục tập quán của người xưa cùng hiện tại không giống nhau. Người xưa đối với người trưởng thành, nam tử hai mươi tuổi mặc áo lễ, đội măo. Mặc áo lễ th́ bạn là người trưởng thành, không thể xem bạn như một đứa trẻ. Nữ nhi mười sáu tuổi búi tóc chải đầu là đă trưởng thành. Trưởng thành th́ mọi người đều tôn trọng, không được gọi tên của bạn. Đồng bạn với ḿnh, anh em bè bạn tặng bạn một cái hiệu, chúng ta gọi là biệt hiệu, gọi hiệu, không gọi tên. Cả đời người có thể gọi tên của bạn chỉ có hai người, một là cha mẹ và một là thầy giáo, như vậy bạn mới biết được thầy giáo cùng cha mẹ là b́nh đẳng. Nếu như bạn trưởng thành rồi, người ta c̣n gọi tên của bạn th́ bạn đă có tội, không xem bạn là một người đàng hoàng. Việc đó là rất nghiêm trọng.
Bạn xem chúng ta xem thấy trong sách cổ, Hoàng Đế đối với đại thần đều gọi hiệu, không gọi tên, cung kính đối với đại thần. Nếu như Hoàng Đế gọi tên của bạn th́ bạn đă phạm pháp, bạn có tội, bạn phải bị xử phạt, do đó không gọi hiệu của bạn, mà gọi tên của bạn,
Cho nên chúng ta từ trong lễ xưa mà xem thấy, học sinh cùng đối với thầy giáo và đối với cha mẹ là b́nh đẳng. Ân đức của thầy là đem giáo huấn của Thánh hiền truyền dạy cho chúng ta, chúng ta mới hiểu được cách làm người. Giáo học này là từ minh minh đức mà ra. Chúng ta v́ sao có được minh đức, v́ sao hiểu được hiếu dưỡng cha mẹ? Đều là do thầy dạy, cho nên đối với thầy phải phụng sự. Trong phụng sự, y giáo phụng hành là then chốt. Thầy giáo dạy bảo chúng ta, chúng ta phải có tín tâm, phải có thể lư giải, phải thực hiện cho được lời dạy, như vậy mới không phụ công thầy. Đây là học tṛ hiếu học của thầy. Nếu như không tin đối với lời dạy của thầy th́ nhất định không nên theo ông ấy học. Vị thầy có cao minh hơn, có giỏi hơn, có đạo đức, có học vấn, bạn không có ḷng tin đối với ông ấy, bạn ở trong lớp của ông ấy nhất định sẽ không có thành tựu. Cho nên chúng ta lựa chọn thầy giáo không ǵ khác hơn lựa chọn một người mà bạn tôn kính nhất th́ thành công.
florida80
12-24-2019, 20:53
Administrator
--------------------------------------------------------------------------------
Join Date:Jul 2015Posts:2,873Thank s Thanks Given :1Thanks Thanks Received :41Thanked in:39 Posts
Phân biệt chủng tộc (Racism) - Nguyễn Thọ
Phân biệt chủng tộc (Racism)
Nguyễn Thọ
Nước Đức từng phạm tội diệt chủng nên xă hội rất nhậy cảm với những ǵ liên quan đến “Phân biệt chủng tộc”. Từ các câu lạc bộ thể thao, các trường học, nhà máy đến các nghiệp đoàn, người ta luôn phản ứng quyết liệt với các biểu hiện chủng tộc.“Kỳ thị chủng tộc” KTCT (Racial discrimination) là một hiện tượng khó định lượng, v́ nó luôn được che dấu. Nhóm nghiên cứu World Value Survey (Thăm ḍ giá trị thế giới) đă đăt câu hỏi “Bạn không thích ai là hàng xóm?” kèm theo nhiều trả lời, tại hơn 80 nước. Câu hỏi ngầm đó tạo nên bản đồ KTCT.
Bản đồ kỳ thị chủng tộc theo thăm ḍ của World Value Survey. Tỷ lề % người được hỏi ư kiến không thích chọn hàng xóm là “Người khác chủng tộc”. Dẫn đầu là Ấn Độ và Libenon với trên 40%, Ít nhất là Mỹ, Canada, Úc, Na Uy và Thụy Điển (dưới 4,9%)
Chỉ số KTCT được tô từ xanh đến đỏ tím nói lên tỷ lệ phần trăm người trả lời “Tôi không thích người khác chủng tộc là hàng xóm”. Màu xanh là tỷ lệ thấp, màu đỏ là cao.
Có hơn 40% người Ấn độ và Libanon không thích người ngoại quốc ở cạnh. (Việt Nam có tỷ lệ 30%-39%, thuộc nhóm thứ nh́). Chỉ có dưới 4,9% người Mỹ, Canada, Thụy Điển và Na-Uy ngại ở gần người khác chủng tộc. Người Đức vốn bị coi là KTCT lại xếp thứ nh́ về sự cởi mở (5%-9,9%).
Tuy nhiên khảo sát này không thuyết phục lắm. Ví dụ người Ấn Độ được hỏi đều coi người khác chủng tộc là người Pakistan hay người Hồi giáo, là những sắc dân gây nhiều vấn đề cho họ. 6 triệu người Libanon không hề kỳ thị chủng tộc với 1 triệu người tỵ nạn Syria và Palestine, v́ là anh em chung ḍng máu Ả-rập. Nhưng gánh nặng kinh tế do người tỵ nạn đem đến khiến hơn 40% dân chúng ngần ngại người ngoại quốc. Ngược lại, Mỹ và Canada là các nước nhập cư, đa chủng tộc, nên khi trả lời câu hỏi, người dân không coi gốc gác ở đâu là quan trọng. Do đó không có nghĩa là người Libanon kỳ thị hơn người Mỹ.
Trường Đại học Sheffield (UK) lại có phương pháp khác. Họ đưa ra chỉ số “Implicit Racist Attitudes” IRA (Thái độ KTCT ngầm) để đánh giá mức độ KTCT ở các nước châu Âu. Nghiên cứu này dựa vào phương pháp IAT (Implicit Attitude Test) của đại học Havard để xem người Châu Âu da trắng liên tưởng đến các điều tốt hoặc xấu như thế nào, khi nh́n vào ảnh một người da đen.
Bản đồ chỉ số “Thái độ kỳ thị chủng tộc ngầm” của người da trắng Châu Âu.
Xanh là thấp nhất, đỏ đậm là cao nhất.
Photo Courtesy
Các nước có IRA từ 0,3 đến 0,37 là những nước mà người da đen ít bị coi là xấu (dưới 37% người da trắng tham gia Test ngầm coi người da đen là xấu). Các nước Đông Âu: EE = Estonia, LT = Lithuania, BY = Belarussia, UA = Ucraine, CZ = Czech đều có chỉ số IRA trên 40%. Lư do là ở các nước này xưa nay ít có người nhập cư. Thêm vào đó, hiểu biết về dân chủ, nhân quyền và b́nh đẳng cũng chưa được cao như Tây Âu.
Ở Mỹ, tỷ lệ người da trắng có ấn tượng xấu về người da mầu cũng thể hiện trên bản đồ của Havard. Các bang miền Nam từng bảo vệ chế độ nô lệ trong chiến tranh Nam-Bắc, quê hương của đảng 3K, hiện vẫn đỏ sẫm (South Carolina, Mississippi, Louisiana, Georgia…).
Bản đồ “Thái độ kỳ thị chủng tộc ngầm” của nước Mỹ. Các bang miền Nam,
quê hương của đảng 3K, vẫn giữ chỉ số cao nhất.
Photo Courtesy
Cả bản đồ IRA của châu Âu lẫn của Mỹ đều cho thấy một sự thật nghiệt ngă: Người da trắng ở đâu cũng có định kiến về người da đen, chỉ khác nhau là 30%, 40% hay 48% mà thôi. Không một nước nào có chỉ số IRA bằng không, dù những nền dân chủ lâu đời, hàng trăm năm ḥa b́nh.
Tuy nhiên điều an ủi là xă hội càng cởi mở, nền dân chủ càng vững mạnh th́ tỷ lệ kỳ thị ngầm và định kiến chủng tôc càng giảm. Giảm một người cũng tốt, v́ một người có thể là thủ phạm cho một vụ xả súng.
Ở các nước độc tài, thần quyền, sùng bạo lực th́ nạn kỳ thị chủng tộc càng mạnh. Người da trắng kiêu ngạo ở đâu, nhưng nếu đến một số nước Islam mà ăn nằm với phụ nữ của họ có thể bị treo cổ. Nô lệ da trắng tồn tại đến tận đầu thế kỷ 19. Vụ tàn sát người Rohingya ở Myanmar vừa mang mầu sắc tôn giáo, vừa là diệt chủng.
Như vậy KTCT không nhất thiết do mầu da, mà c̣n do văn hóa, thể chế.
Dù ít được nói đến, nhưng người Việt không phải là không có định kiến đối với các dân tộc khác cùng sống trên mảnh đất này. Chúng ta cần nghiêm khắc hơn khi đánh giá sự tụt hậu kinh tế ở các vùng dân tộc thiểu số. Mong rằng sẽ có một cuộc điều tra tâm lư KTCT ở Việt Nam.
Nhưng KTCT ở người Việt c̣n thể hiện ở dạng khác, nguy hiểm hơn. Tôi xin gọi là tự kỳ thị (auto (self) discrimination). Hồi những năm 80, tôi đă phải gọi sân bay Nội-Bài là sân bay Bài-Nội, v́ hộ chiếu Việt Nam và nước ngoài được đối xử khác nhau. Nay tiếng xấu này đă hết. Nhưng việc Tây được coi trọng hơn Ta vẫn c̣n nặng. Cô nhân viên ngân hàng vừa cười nói với một anh Tây xong, quay sang lạnh lẽo với một ông Ta là chuyện không hiếm.
Niềm tự hào về chất lượng xuất khẩu là biểu hiện ngầm, vô thức
của việc coi thường người tiêu dùng nội đia, đây chính là “Bài-Nội”.
Ảnh: internet
Sản phẩm chất lượng cao đến mức “Export Quality” khẳng định ḷng sùng ngoại của dân ta: Hảo hạng đây, mời các bác ngoại quốc xơi! Đồ thứ phẩm đă có con cháu trong nhà tiêu thụ.
Một ông Việt kiều, có công ty, có thương vụ ở quê, than phiền:
– Ḿnh về nó hành, cử mẹ thằng nhân viên Tây về, nó chịu ông ạ.
Người xứ ta trọng kẻ sang đi ô-tô, khinh người đi xe máy, xe đạp. Có ô-tô rồi, người ta c̣n săn lùng mua biến số xe của người nước ngoài (NN, NG) cho oai.
Vụ đổi biển xe trắng thành xanh cũng là thành quả của nạn “Tự kỳ thị”. Một sự kỳ thị có hệ thống bởi quy ước: Xe ô tô “Da trắng” là hèn, xe “Da xanh” mới sang. Đây không phải là kỳ thị chủng tộc (Racism), mà là kỳ thị giai cấp (Classism).
Tự kỳ thị no nê, người ta c̣n kỳ thị hộ người khác. Họ quên mất bản thân đang là nạn nhân của tư tưởng White-Supremacy, coi người da trắng là thượng đẳng. Ông Trump bên Mỹ bị người này chê là phân biệt chủng tộc, nhưng có người khác tung hô là yêu nước. Ghét hay yêu Trump là quyền của mọi người. Nhưng v́ quá yêu mà để lộ bản chất phân biệt chủng tộc th́ không ổn. Nhiều người Việt tự dưng nhảy xổ vào chửi ông Obama là “da đen”, là “mọi”. Chắc họ muốn “trả ơn” Trump, dù ngay cả ông ta cũng không dám nói toạc ra như vậy.
Tác giả câu nói này và những người ủng hộ anh ta
không có tư cách để bàn về dân chủ, nhân quyền.
Ảnh: internet
Vụ phóng viên RFA Chân Như là một điển h́nh. Anh ta viết trên trang cá nhân, gọi Obama là “tên da đen”, “tên lai đen”. Làn sóng phản đối thái độ kỳ thị đó đă khiến RFA sa thải Chân Như. Số lượng lớn người Việt cố bênh vực anh ta mới là thảm họa.
Những tư tưởng sặc mùi phân biệt chủng tộc kiểu này
lại được khá nhiều người Việt tán thưởng.
Ảnh chụp màn h́nh stt của Chân Như, phóng viên RFA.
B́nh đẳng về chủng tộc là một cột trụ của xă hội văn minh. Kỳ thị chủng tộc là hiện thân của sự man rợ.
Nhân dịp Giáng sinh, ngày của yêu thương, tôi chỉ muốn nói rằng:
"Ai đó trước khi đ̣i hỏi dân chủ, công bằng, trước khi lên án bạo lực, áp bức, xin chớ coi khinh người yếu hơn ḿnh. Xin hăy bỏ thói tự kỳ thị dân tộc ḿnh và chớ hủy hoại nhân phẩm bằng cách đi kỳ thị hộ kẻ khác."
florida80
12-24-2019, 21:48
DÂN CHỦ,H̉A B̀NH LÀ CON ĐỪƠNG CỦA PHẬT GIÁO .
Với chủ trương không sát sanh đă là một nhân tố Hoà b́nh trong đạo Phật .Nhưng Hoà b́nh không có Dân chủ th́ trở thành nô lệ . Nếu Dân chủ quá mức th́ Xă hội sẽ lọan lạc mất kỹ cương . Cho nên bất cứ một vấn đề ǵ quá mức đều không mang lại hạnh phúc và kết quả tốt đẹp cho nhân lọai .
Tôn giả A Na Luật v́ nỗ lực chuyên tu quá độ đă sanh bệnh và cuối cùng bị mù hai mắt . Khi Đức Phật thấy A Na Luật đang xỏ chỉ để may y, nhưng v́ mắt không thấy nên xỏ hoài mà không được, Ngài bèn ngồi xuống một bên, cầm tay tôn giả vừa chỉ cách xỏ chỉ vừa dạy pháp môn quán sổ tức tập trung ở đầu mũi. Từ đó Ngài dẫn dụ việc tu hành cũng giống như chuyện lên dây đàn: " Chùn quá th́ tiếng không kêu hay, căng quá th́ dây bị đứt, cũng vậy tu quá khổ hạnh sẽ tổn hại đến sức khỏe, tu quá lề mề sẽ rơi vào buông lung, v́ vậy cần phải giữ mức TRUNG ĐẠO (vừa phải ) , th́ mới thành tựu quả vị. "
Thật ra ngày xưa tôi có những dẫn dụ không mấy tốt đẹp về những giáo lư của Chúa Kito trong Thánh kinh hay A Di Đà của Phật giáo Đại Thừa tông Tịnh Độ . Trong cái xấu nào cũng có cái tốt , cái hay của nó kể cả Phật giáo Mâu Ni . Mỗi phương thức hành tŕ tuy mới nh́n th́ không Dân chủ , Hoà b́nh cho mấy , nhưng đó là những bước chân ban đầu cho những người mới tu học . Trong thâm tâm tôi không có ư bài bác , ngăn chận hay chê bai những phương thức hành tŕ các giáo lư đó . Ngày xưa tôi vẫn quan niệm : Kẻ thù ta là tham vọng, hận thù, kỳ thị và bạo động nhưng sau nầy, tôi cũng không muốn gọi những tâm hành tiêu cực kia là kẻ thù cần phải phản kháng , lên án hay tiêu diệt nữa mà lại thấy rằng chúng có thể được chuyển hóa thành những tâm hành tích cực như thương yêu và hiểu biết lẫn nhau . Tôi lấy ví dụ : Đạo Chúa thường hay thu nhận con chiên bằng h́nh thức rao truyền , dẫn dụ , từ việc đến từng nhà giảng , hay giúp đở vật chất kẻ khốn cùng , lời hứa tạo điều kiện nhanh chóng ra đi định cư ở Mỹ tại các trại tỵ nạn . Hoặc là tạo áp bức như thời TT Ngô Đ́nh Diệm , Nguyễn Văn Thiệu , v́ muốn đựơc an thân , mau thăng quan , tiến chức nên đành theo đạo Chúa . Với sự hiểu biết ngày nay của tôi hoàn toàn không óan trách công tác truyền đạo của Kito như thế . Nhờ quư vị hành đạo tuỳ duyên mà độ thế cho nên những người con Phật chân chính hiện tại mới cho phép chúng tôi đo lường đựơc những Phật tử giác ngộ c̣n tồn tại ngày nay mà họ chọn một tôn giáo từ xưa , cái tinh thần ĐẠI HÙNG , ĐẠI LỰC đă đo lường đức tin không bị lay chuyển bởi vật lực và tài lực từ bên ng̣ai đưa đến . Đạo Phật vốn từ bỏ THAM ÁI th́ c̣n chi để LUYẾN ÁI bởi những ma lực tham vọng thường t́nh . Chúng tôi sẽ không c̣n ngây thơ mà nói: Quư vị lôi cuốn mà có làm được ǵ đâu trong mấy chục năm nay? Chính chúng tôi, những người không chống đối mới giữ đựơc tâm Phật tức là An lạc là nhân tố chính để tạo nên Hoà b́nh .
Trong kinh tế v́ luật cung cầu không công bằng cũng đưa đến chiến tranh nhằm xâm chiếm , tiêu thụ những ǵ ḿnh dư thừa . Ví dụ : Ngành kỹ nghệ sản xuất vũ khí ở Mỹ chiếm 1/4 . Nếu bom đạn làm ra không có nơi tiêu thụ ( cung dư thừa ) th́ họ phải t́m cách mở chiến tranh hay bán cho những nước cần vũ khí . Cũng như Nga , Trung Hoa , Mỹ .... là những nước kỹ nghệ lên cao cần tiêu thụ nhiều xăng dầu . Họ cần ḍm ngó ở những nước giàu có dầu khí ở Trung Đông đă trở thành miếng mồi ngon cho chiến tranh .
Trong Phật Pháp có ghi lại câu chuyện vua A Xà Thế v́ muốn đem quân chinh phạt xứ Bạc Kỳ đă phái đại thần Vũ Xá đến đảnh lễ và thỉnh ư đức Phật. Thay v́ trả lời trực tiếp với vị Đại thần là nên hay không, Đức Phật quay sang tôn giả A Nan, vị thị giả đang đứng hầu bên cạnh, giảng về bảy pháp làm quốc gia hưng thịnh của dân tộc Bạc Kỳ. Khi nghe xong, vị Đại thần đă về tấu tŕnh lại với vua A Xà Thế và v́ vậy cuộc xâm lược đă bị băi bỏ. Ngụ ư câu chuyện này giúp chúng ta hiểu được nhiều điều bổ ích như sau:
1- Đức Phật không muốn v́ lợi lộc của ḿnh mà gây đổ máu , Ngài đứng trên những tranh chấp thế gian.
2- V́ Ngài tôn trọng sự sống, quyền sống của mọi người , mọi loài .
3- Ngài dùng phương thức giáo dục tự giác để gián tiếp cảm hóa tha nhân sớm biết thức tĩnh . Ngài để cho họ tự khai mở tri kiến và nhận thức mà không áp đặt quan điểm giáo hoá của ḿnh, dù đó là trí tuệ của bậc tri kiến đại giác ngộ như Ngài .
Tôi nói như vậy không phải Phật giáo ai cũng tốt cũng hay , mà thực chất người Kito giáo cũng rất nhiều vị đạo hạnh và tốt chẳng kém ai . Không phải họ hoàn toàn là những người có thái độ hẹp ḥi, cuồng tín và cố chấp như chuyện thường t́nh . Trong Phật giáo tôi cũng thấy nhiều người c̣n ngông cuồng , hẹp ḥi, cuồng tín và cố chấp, gây khổ đau cho bản thân, cho gia đ́nh và cho Xă hội không thua chi . Có những người xưng là Phật tử ( kể cả giới xuất gia) mà tham nhũng, thủ đọan tàn ác và cố chấp đến mức con cái , đệ tử họ cũng không chịu đựng được , những lúc đó họ không có tinh thần Dân chủ mà là độc tài , Ma vương đang ngự trị . Họ phá giới, phạm trai, vọng ngữ, tà dâm, sát sinh .... làm tổn thương , đau khổ cho bản thân và cho Xă hội . Nếu ai cũng tốt th́ họ là những Bồ Tát ở Niết Bàn đâu c̣n lận đân ở thế gian này .
Ngày nay , hơn năm năm rồi , Liên Hiệp Quốc mới giác ngộ con đừơng Hoà B́nh và Dân Chủ trong Phật giáo .Thật ra họ biết từ lâu nhưng chưa có điều kiện làm . Thế giới đă và đang nghiêng ḿnh ngưỡng mộ Đức Thế Tôn . LHQ chính thức công nhận con đừơng tốt đẹp đó và cho tổ chức lễ kỹ niệm ngày đản sanh và thành đạo của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mà Việt Nam thừa hưởng đứng ra thi hành lễ Vesak năm 2008 như là một vinh dự chung cho Phật giáo và riêng cho Dân tộc Việt Nam .
florida80
12-24-2019, 21:49
Phật giáo của Đức Bổn Sư Thích Ca luôn luôn lấy căn bản trí tuệ làm nguồn gốc và cũng là nền tảng để giải thoát con người. Ngài đă từ bỏ con đừơng tu khổ hạnh , ép xác nhằm mục đích cho lợi ích cá nhân hơn là lợi ích cho nhân lọai . V́ vậy Ngài tự đi t́m đừơng GIẢI THÓAT không những cho bản thân Ngài mà c̣n đưa tất cả chúng sanh ra khỏi bể khổ , luân hồi sanh tử . Ngoài ra Ngài không những dạy giải thóat bằng mặt tâm linh mà Ngài c̣n là một nhà đại khoa học giải đáp tất cả mọi hiện tượng siêu nhiên bằng chứng minh , thay v́ chấp nhận để an phận đổ thừa cho một vị Thần linh không thể giải thích bằng trí tuệ qua mặt khoa học . Cũng v́ vậy Phật giáo Thích Ca được xem là đáp số thích hợp và gần gũi với khoa học nhất về những quy luật tự nhiên của cuộc sống và sanh họat muôn loài . Hơn thế nữa , Phật giáo chủ trương một sự công bằng tuyệt đối không những giữa con người và con người , mà c̣n công bằng giữa những loài vật , thực vật sinh động khác . Tất cả đều nằm trong một trật tự có quy luật nhân quả (Dhamma niyama) . Vậy muôn loài là chủ nhân của chính ḿnh trong đó kể cả loài người và muôn vật như nhau . Quan điểm của Phật giáo là xóa bỏ những nỗi lo sợ vu vơ về sự sống , sự chết thường ám ảnh con người làm cho họ đặt trong t́nh trạng bất an buộc phải nương tựa vào Thần Thánh hay vị Phật khác bằng h́nh thức bái lạy ,cầu nguyện , kính sợ , ru ngũ với những lời hứa đựơc sống một nơi tốt đẹp hơn sau khi chết .Hầu hết các tôn giáo độc thần trên Thế giới nầy và Phật giáo A Di Đà dạy con người thờ kính Thần linh, cầu nguyện xin ân huệ đựơc về Tây phương hay lên Thiên đàn …. Trái lại, Phật giáo Thích Ca đặt trọng tâm khuyên con người tự phát triển khả năng và trí tuệ để tự giải thóat cho chính ḿnh. Không ai có quyền năng tha tội , ân xá hay cho định cư ở một phương trời khác để giúp ḿnh khi ḿnh đầy tội lỗi và không chịu tu hành giác ngộ , giải thóat .
Tôi cho rằng : Phật giáo không hẳn là một triết lư, v́ triết lư có tính chất mơ hồ v́ c̣n lư luận , tranh cải và có giá trị thay đổi theo thời gian lẫn không gian . Phật giáo không phải là khoa học chuyên nghiên cứu và lệ thuộc vào dụng cụ , mà Phật giáo rất thích hợp với khoa học ,ngoài ra c̣n bổ sung những khuyết điểm của khoa học bị vướng mắc qua thực nghiệm hay dụng cụ . Nói tóm lại , Phật giáo mang tính cách thiết thực gần như khoa học mà nó không hẳn đứng về khoa học mà là then chốt cốt yếu để khoa học nhờ đó để chứng minh và giải thích một hiện tượng . V́ vậy Phật giáo đựơc mệnh danh là PHƯƠNG TIỆN GIẢI THÓAT như là chiếc xe , con tàu , cái bè, chiếc thuyền để chuyển tải con người thoát khỏi bờ mê , bể khổ sanh tử , luân hồi. Cho nên Phật giáo và khoa học hổ tương , bổ khuyết cho nhau.
Đức Bổn Sư không bắt buộc , đ̣i hỏi một ḷng tin mù quáng vào những giáo điều hay tín điều nào do Ngài dạy . Trái lại, Phật giáo khuyến khích con người chứng nghiệm giáo lư qua trí tuệ suy xét và qua kinh nghiệm của chính bản thân ḿnh. Đặt căn bản ở trí tuệ và suy nghiệm trước khi tin : Kinh " 10 điều chớ vội tin ". V́ có trí tuệ nên hoài nghi vốn là quyền ưu tiên của con người ,có thắc mắc mới t́m hiểu , giải đáp và tiến bộ không ngừng , tại sao chúng ta không dùng nó mà lại vội tin vào những tín điều đă có từ xưa , những cao tăng , Thánh Thần cứ lập đi lập lại nhiều lần mà những điều đó trái với lương tâm , lúc đem ra thực hiện th́ có sự đỗ máu và đem lại nhiều đau thương đầy nước mắt cho nhân lọai .
Nền giáo dục mà Phật giáo dạy cho chúng ta là một nền giáo dục hoàn toàn dựa vào trí huệ, nhân bản con người, vô lượng vô biên, đồng thời kết hợp và căn cứ vào nguyên lư cùng hiện tượng của vũ trụ trời đất để giải thích một cách khoa học , hoàn toàn không buông xuôi và dựa vào Thần linh mù quáng .
Trong cuộc sống thường ngày , tôi cũng không tránh khỏi những sai lầm do Vô minh đem lại . Từ Vô minh lần lần làm nghiệp lực tôi bị hao ṃn dẫn đến ḷng tham dục sanh ra giận hờn , óan trách vu vơ . Vậy ai muốn thắng Vô minh tham trừ dục vọng th́ chúng ta cần phải luyện tập một cách công phu , chuyên cần và thực hành nghiêm chỉnh CON ĐỪƠNG GIẢI THÓAT . Phương pháp đó đơn giản không ǵ hơn ngoài Phật Pháp . Chúng ta phải trang bị trên đừơng hành tŕ bằng một tư duy chân chính theo gương Đức Thích Ca Mâu Ni , chúng ta sẽ trải qua chặng đường giác ngộ với tinh thần tự lực và quyết tâm sống với con đừơng đạo đức, dùng trí tuệ để cân nhắc và giải quyết mọi sự việc trước khi tin và làm . Điều này giúp ta không thể bị chệch hướng tu hành theo hạnh nguyện của Đức Thế Tôn . Tu là một chuyện khó , hành là một việc làm khó hơn . V́ nó đ̣i hỏi phải đi đúng con đừơng chánh pháp không qua phương tiện hù dọa , lường gạt chúng sanh . Tất cả những việc làm cơ bản và đơn giản đó đ̣i hỏi mỗi con người bất cứ tôn giáo nào , hay thờ phượng , tin tưởng một giáo điều nào cũng phải đặt lương tâm và đạo đức lên hàng đầu . Không tranh dành , hơn thua bằng tín điều hay con số đạo hữu đang thủ đắc . Chân lư là sự thật đầy căn bản không căn cứ bằng con số . Sự thật về CHÂN LƯ luôn luôn bất biến và không hề thay đổi theo thời gian lẫn không gian . Điều này chứng minh các nước Âu Mỹ văn minh ngày nay đi theo con đừơng Phật giáo Thích Ca càng ngày càng đông , nhiều bậc học giả , thiện trí thức ái mộ và xuất gia theo Ngài . Nhiều chùa và tu viện mới thành lập hoặc mua lại của các giáo đường bỏ trống bán lại . Có những tôn giáo không dạy tín ngưỡng bằng trí tuệ xưa nay , mà chỉ căn cứ vào đức tin theo mỗi cách truyền giáo ,vô tư mà nói điều đó cũng thu hút những Quốc gia kém phát triễn như Á Châu , Phi Châu ...... Ánh sáng vẫn là ánh sáng trong ḷng tôi . Một thứ ánh sáng trí tuệ chứ không bằng những hào quang nhân tạo , giả tạm do con người làm ra và tuyên truyền cho hàng kém hiểu biết .
Tôi nguyện đi theo chân lư TRÍ TUỆ và GIẢI THOÁT của Thầy Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni .
florida80
12-24-2019, 22:12
BỒ ĐỀ TÂM .
Nói đến Tâm Phật hay Tánh Phật tôi mới nhớ Tâm Bồ Đề hay Bồ Đề Tâm cũng giống nhau . Vậy chúng ta hiểu Bồ-đề tâm là ǵ?
Bồ đề tâm, đó là chí nguyện nóng bỏng của một con người tự thấy ḿnh đang sống trong cảnh tối tăm, giữa đọa đày khổ nhục, mong t́m một con đường sáng không những để giải thoát bản thân khỏi những đe dọa áp bức mà c̣n là mong muốn để giải thoát cho tất cả những người cùng cảnh ngộ. Bồ-đề tâm, đó là ư chí kiên cường bất khuất của một người bị cột trói trên ngọn lửa rực cháy, bị chà đạp dưới những sức mạnh tàn khốc của tham vọng điên cuồng của chính ta và của một tập thể ma quái chung quanh ta. Khi Bồ Đề Tâm đi vắng , con người trở thành quỹ dữ , Giáo hội trở thành điên cuồng và sẽ đốt cháy trí tuệ khi cứ lăng xả vào dục vọng , thế quyền , danh lợi , vật chất .....
Đại Trí Độ nói:
-"Phật pháp như biển cả, có thể vào bằng tín, có thể vượt qua bằng trí. "
Đối với tâm nguyện Bồ-đề chỉ có thể được phát khởi khi gốc rễ của "tín tâm" đă được gieo trồng cẩn thận. Nhưng muốn vượt qua phải đùng đầu óc hay TRÍ TUỆ không phải bằng ḷng tin ,sự giữ đúng lời hứa . Chúng ta bày tỏ niềm tin sâu sắc không những đối với Phật, hiện thân của nhân cách toàn thiện, toàn giác mà c̣n tin tưởng ở khả năng thành tựu nhân cách ấy của chính ḿnh. V́ Ngài luôn luôn nhắc nhở ta " Hăy tự thắp đuốc lên mà đi " , không ai hiểu ta bằng chính ta , không ai yêu thương ta bằng chính ta , nên TA là tất cả . Cho nên chúng ta cầu nguyện và mong rằng Như Lai "thương xót, che chở con " chính là lời tuyên thệ gởi trọn đời ḿnh nương tựa nơi Như Lai, và cũng chính là nương tựa trên Pháp thân thường trụ sẵn có nơi ḿnh, chứ không nương tựa một ai khác. Đại diện cho Như Lai lại là các Tỳ Kheo trưởng tử của Ngài , tức là chúng ta sống hiện tại là NƯƠNG TỰA TĂNG . Nếu Tăng chăm sóc vun trồng cho đời sống tâm linh ngày một hướng thiện , đời sống hạnh phúc và an lạc th́ đó là Tăng đi đúng chánh pháp , xứng đáng là một đệ tử tốt của Như Lai . Hiện nay ( nhất là hải ngọai ) vào thế kỷ 21 này , tâm chúng ta không đựơc yên ổn lấy đâu mà an lạc . V́ mỗi chủ nhật đến chùa mong t́m về với chánh pháp th́ Thầy lại cầu an cho dân VN trong nước đựơc " Quốc Thái dân an " . Quốc có thái th́ dân mới an , nhưng quư thầy có để cho dân an đâu mà Quốc thái đựơc . Không đấu tranh cũng sách nhiểu , bôi nhọ , tuyệt thực , biểu t́nh ..... Thầy trong nước đựơc mời qua Mỹ thuyết pháp th́ họ chụp nón là SƯ QUỐC DOANH . Nếu không muốn đến chùa chỉ mong cầu Tăng giảng giải , hoằng pháp , độ sanh ...... đốt đuốc từ Âu sang Mỹ rất ít thầy , chùa mở khóa tu , thuyết pháp cho Phật tử muốn nghe . C̣n nghe các Thầy trong nước qua giảng th́ họ chống đối , biểu t́nh , đuổi Thầy về nước làm như cái nước Mỹ này là của Giáo Hội không bằng .
- Bồ-Tát sơ phát tâm, lấy vô thượng Bồ-đề làm đối tượng, nói rằng:
"Mong tôi sẽ thành Phật."
( Đó gọi là bồ-đề tâm.)
- Bồ Tát Di-lặc nói với Thiện Tài :
" Bồ-đề tâm là hạt giống của hết thảy Phật pháp. Bồ-đề tâm là ruộng phước v́ nuôi lớn pháp bạch tịnh. Bồ-đề tâm là cơi đất lớn, v́ nâng đỡ hết thảy thế gian. Bồ đề tâm là tịnh thủy, v́ rửa sạch tất cả cáu bợn phiền năo ."
Đối với Phật Giáo Tâm là đứng hàng đầu , tất cả hành vi và tác động là do tâm tạo , tâm là cốt lỏi là linh hồn chính của bản thân.Khi tâm thanh tịnh chính là cơi Niết Bàn của chúng ta.
florida80
12-24-2019, 22:13
Thế nào là chữ HIẾU trong đạo Phật ?
Sở dĩ ngày nay người Việt Nam ta nói riêng và Á châu vẫn c̣n tôn trọng và đặt lên hàng đầu về chữ HIẾU đối với Mẹ Cha . Nói chung hầu hết người Châu Á c̣n giữ đựơc nề nếp , đạo đức và văn hóa gia đ́nh , đứng đầu là Trung Hoa , Việt Nam . Mặc dù hiện nay các con đang sống tại các nước Tây phương , nhất là Mỹ xem nhẹ chữ HIẾU do ảnh hưởng đời sống v́ lo chạy đua theo vật chất , nhu cầu xă hội , không c̣n thời gian để họ có dịp sống nhiều về gia đ́nh cũng như nội tâm . Từ đó họ cần đ̣i hỏi sự phóng túng , thỏai mái mà họ cho là TỰ DO , nhưng đằng sau cái tự do là một sự hủy họai tâm linh , đạo đức đưa dần con người đi vào sa đọa , suy thóai tâm linh là ch́a khóa của tội phạm , giết chóc và khủng bố . Ngày nay nước Mỹ đứng đầu Thế giới về tội phạm , nhiều nhà tù lớn nhất và chế độ tử h́nh vẫn c̣n duy tŕ trong khi rất nhiều nước đă từ bỏ luật này .
Trở lại chữ HIẾU ! Đọc văn hóa, văn chương Việt Nam hầu hết ca tụng rất nhiều về chữ hiếu bằng ca dao, thi văn, âm nhạc ca ngợi , trong đó đựơc đề cao t́nh Mẹ thiêng liêng:" Công cha như núi thái sơn , nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra". Trong các kinh điển Phật Giáo Nam Tông và Bắc Tông đều đề cao công ơn cha mẹ . Kinh tăng Chi Phật dạy :"Có hai hạng người , này các Tỳ kheo , ta nói không thể trả ơn được đó là mẹ và cha". Đối với bất thứ t́nh cảm nào rồi cũng nhạt phai với thời gian , chỉ có t́nh Mẹ thương con là ngàn năm bất tận. Trái tim Mẹ là một kỳ quan của vũ trụ , nước mắt của Mẹ nhiều hơn biển Thái B́nh Dương . Mẹ thương con vô bờ bến và không bao giờ đặt điều kiện. Mẹ thương con dù con bao nhiêu tuổi già thậm chí hư đốn hay thất bại ê chề ngoài xă hội , Mẹ vẫn thương con cho đến giây phút cuối cùng của đời Mẹ. Đối với Cha t́nh thương cũng không kém ǵ Mẹ , nhưng Cha cứng rắn , thương con bằng lời răn dạy , bao gồm cả roi vọt , lo cho con tiền bạc để ăn học , hướng dẫn đạo đức và lối sống thế nào cho con trưởng thành ra đời một cách vững vàng khi thành người ngoài xă hội .Bởi v́ người con có làm ǵ đi nữa , ḷng của người con đối với cha mẹ không thể sánh được ḷng của cha mẹ đối với con cái , đúng như ca dao nước ta có câu :" Mẹ thương con biển hồ lai láng , con thương mẹ tính tháng tính ngày". V́ vậy, khi đề cập đến công ơn cha mẹ , các kinh đều cho rằng khó đền đáp nổi , là dựa vào tâm thức của người con đối với cha mẹ có giới hạn . Trong khi Cha đủ can đảm chỉ cho con thấy sự sai lầm để xa lánh , trái lại với Mẹ lại ôm ấp , che chở những lỗi lầm mà không hề trách mắng , đó cũng là sự tai hại cho con . Câu tục ngữ :
"Thương cho roi cho vọt , ghét cho ngọt cho bùi "
Không phải v́ Mẹ cho ngọt khi con phạm lỗi mà gọi là ghét , đó chẳng qua t́nh yêu quá lớn mà không nở chỉ trích cái lỗi của con . Trong khi Cha cứng rắn và đôi khi sẵn sàng cho roi vọt để dạy con , đó cũng là v́ thương con không muốn cho con bị hư hỏng . Cho nên con cái nh́n vào đó mà nghĩ rằng Mẹ không đánh đập ḿnh nên thương hơn , điều đó không đúng và sau này khi có gia đ́nh , con cái th́ người con mới biết giá trị của t́nh thương người Mẹ , người Cha khác nhau và giá trị đều bằng nhau .
V́ thế , Chữ HIẾU trong đạo Phật vô cùng quan trọng. Đạo Phật cũng được gọi là Đạo HIẾU , hằng năm vào dịp Rằm Tháng 7 Âm Lịch hầu hết các chùa Việt Nam đều tổ chức Lễ Vu Lan để Phật tử có dịp cầu nguyện cho hương linh Cửu Huyền Thất Tổ được siêu sinh tịnh độ và Cha Mẹ hiện tiền có được đời sống trường thọ , an lành, hưởng nhiều phước lộc.
Lễ Vu Lan bắt nguồn từ chuyện Ngài Mục Kiền Liên, một đệ tử của Đức Phật Thích Ca, có mẹ là Bà Mục Liên Thanh Đề đă gây nhiều tội ác thuở sinh thời, nên khi chết bị đọa vào địa ngục, làm ngạ quỷ đói khổ. Trong Kinh Vu Lan kể chuyện :
Ngài Mục Kiền Liên sau khi đắc đạo, chứng quả A La Hán đă vận dụng thiên nhăn để t́m mẹ, ngày rất xót thương thấy mẹ bị đọa trong địa ngục. Ngài về bạch Phật và xin chỉ dạy cách cứu mẹ. Phật dạy, ngày rằm Tháng Bảy là ngày Tự Tứ của Chư Tăng, sau ba tháng an cư kiết hạ, quư Chư Tăng có tâm rất thanh tịnh, nhờ vậy lời chú nguyện có nhiều năng lực giải trừ tội lỗi, ách nạn. Vào ngày Rằm Tháng Bảy nên đem lễ vật cúng dường và xin Chư Tăng, hiền thánh cầu nguyện cho mẹ, th́ cha mẹ quá văng cũng như hiện tiền đều được nhiều phước đức.
Ngài Mục Kiền Liên làm như lời Phật dạy. Ngay sau đó mẹ Ngài, Bà Mục Liên Thanh Đề được thoát kiếp ngạ quỷ và sinh lên cơi Trời. Lời chú nguyện của các chư tăng coi như một bài kinh giảng, nếu vong linh nghe theo, xả bỏ sân hận, phát tâm từ bi hỹ xă th́ ngay sau đó sẽ thoát cảnh địa ngục. Từ đó Phật Tử theo gương Ngài Mục Kiền Liên tổ chức Đại Lễ Vu Lan vào ngày Rằm Tháng Bảy để cầu nguyện cho cha mẹ.
Ở Nhật , trong ngày nhớ ơn mẹ có phong tục cài hoa Hồng lên áo. Người nào c̣n mẹ th́ được cài hoa Hồng đỏ, ngựi nào không c̣n mẹ th́ cài hoa Hồng trắng. Một nhà sư VN đi Nhật thấy phong tục này có ư nghĩa nên đă du phập vào VN. Phong trào “Bông Hồng Cài Áo” trong ngày Lễ Vu Lan được Phật Tử hưởng ứng và phổ biến rộng răi từ đó. Bản nhạc “Bông Hồng Cài Áo” được hát rất nhiều trong dịp Lễ Vu Lan.
Trong ba tháng an cư kiết hạ , ngày rằm tháng bảy th́ giải chế phải làm lễ Tự Tứ . Chữ " Tự Tứ" tiếng Pali gọi là PAVARANA nghĩa là tuỳ ư , tức là xin chư tăng tuỳ ư chỉ trích những lỗi lầm của ḿnh do chư tăng thấy , nghe hay nghi để ḿnh biết mà sám hối , nhờ sám hối nên thân khẩu ư được thanh tịnh th́ công đức rất lớn . Đây là cách thức hạ ḿnh cầu xin chỉ lỗi , tương tự như câu nói của Nho là KHIÊM SINH ĐỨC , có lẽ v́ vậy mà phải nương nhờ ư lực chú nguyện của chư tăng trong ngày Tự Tứ chứ không phải những ngày khác .
Nay các con lớn lên và sống tại đất nước tự do như Mỹ nhưng đừng quên chữ HIẾU đối với Mẹ Cha . Dù công việc , đời sống bận rộn thế nào cũng phải thường xuyên ghé thăm Mẹ Cha , hay ít nhất gọi phone thăm hỏi khi có thời gian rổi rảnh . Các con đến chùa lạy Phật là một điều tốt , nhưng đừng quên các con đang có những ông Phật tại nhà là MẸ và CHA . Con chỉ biết đến chùa , nhà thờ Kito mà không màng thăm viếng , chăm sóc cha mẹ ( nhất là các cô dâu , chú rễ) chứ đừng nói ǵ đến con ruột là điều thiếu sót lớn . Đức Phật dạy :
" Hiếu với Mẹ Cha tức là kính Phật ."
Tại sao các con không lạy ông Phật trong nhà là Mẹ Cha có công sanh thành , nuôi dưỡng , đó là KINH BÁO ÂN CHA MẸ .
I. NỘI DUNG KINH Gồm có 6 phần .)
1. Phần duyên khởi :Đức Phật trong lúc du hành gặp một đống xương khô , Ngài liền đảnh lễ sát đất . Đệ tử của Phật là ngài Anan ngạc nhiên hỏi Phật v́ lư do ǵ mà lễ bái đống xương khô ấy . Đức Phật dạy rằng , đống xương khô này hoặc tổ tông kiếp trước , hoặc là cha mẹ nhiều đời của ta nên ta chí thành kính lễ .
2. Đức Phật dạy ân đức cha mẹ có 10 điều :
a . ân giữ ǵn mang thai trong 9 tháng .
b . ân sinh sản khổ sở
c . ân sinh rồi quên lo
d . ân nuốt đắng nhổ ngọt
e . ân nhường khô nằm ướt
g . ân bú mớm nuôi nấng
h . ân tắm rửa chăm sóc
i . ân xa cách thương nhớ
k. ân v́ con làm ác
l. ân thương mến trọn đời .
3. Đức Phật dạy về sự bất hiếu của con cái :
Ăn nói hỗn hào với cha mẹ , xấc xược với anh em chú bác bà con ..v.v.
Không tuân theo lời dạy của cha mẹ , thầy bạn và các bậc trưởng thượng trong gia tộc .
Theo bạn bè xấu ác , từ bỏ gia đ́nh đi hoang , gây tạo tội lỗi làm cho cha mẹ , bà con buồn khổ .
Không lo học tập , xao lăng nghề nghiệp , không tạo dựng được một đời sống vững chắc , làm cha mẹ lo lắng .
Không phụng sự cha mẹ về vật chất , không an ủi về mặt tinh thần , coi thường cha mẹ , coi trọng vợ con .
4. Đức Phật dạy ân đức cha mẹ khó đền đáp dù con cái báo hiếu bằng các cách như :
Vai trái cơng cha , vai phải cơng mẹ , cắt da đến xương , nghiền xương thấu tuỷ , máu đổ thịt rơi cũng không đáp được công ơn cha mẹ
Giả như có ai gặp lúc đói khát , phá hoại thân thể , cung phụng cha mẹ cũng không đáp được công ơn cha mẹ .
V́ cha mẹ mà trăm kiếp ngh́n đời , đâm tṛng con mắt , cắt hết tâm can, trăm ngh́n dao sắc xuất nhập toàn thâncũng không trả nỗi công ơn cha mẹ .
Dù v́ cha mẹ , đốt thân làm đèn cúng dường chư Phật cũng không đáp được công ơn cha mẹ .
5. Đức Phật dạy về phương pháp báo hiếu :
Ngoài việc cung phụng cha mẹ về mặt vật chất và an ủi tinh thần mà ai cũng biết , chúng ta phải :
Khuyến hoá cha mẹ thực hành thiện pháp .
Phải v́ cha mẹ mà thực hành tịnh giới , bố thí , làm các việc lợi ích cho mọi người .
Phải truyền bá tư tưởng hiếu đạo này cho nhiều người được lợi ích .
6. Phần kết thúc và lưu thông:
Đức Phật khích lệ tinh thần báo hiếu .
Đại chúng phát nguyện vâng lời phật dạy .
Đặt tên kinh là Kinh Báo Ân Cha Mẹ .
Trong 10 điều ân đức của cha mẹ đă cho thấy rơ t́nh thương bao la đó . Những lời kinh hết sức cảm động và chinh phục ḷng người như :
- " Nhổ ngọt không tiếc nuối , nuốt đắng không phiền hà…Miễn sao con no ấm , đói khát mẹ nào từ" ( điều 4 )
-"Mẹ nằm chổ ướt át ,nâng con chổ ấm khô , đôi vú lo đói khát , hai tay che gió sương , yêu thương quên ngủ nghỉ , sủng ái hết giá lạnh , chỉ mong con yên ổn , mẹ hiền không cầu an" ( điều 5 )
-"Mẹ hiền ân hơn đất , cha nghiêm đức quá trời , che chở ân cao dày , cha mẹ nào tính toán , không hiềm không mắt mũi , không ghét què chân tay ,sinh con từ bụng mẹ , con đổi dạ thương ai" ( điều 6 )
-" Con đi đường xa cách , ḷng mẹ bóng theo h́nh , ngày đêm không hả dạ , tối sớm nào tạm quên , khóc như vượn nhớ con , thương nhớ nát can trường … ( điều 8 )
-" Mẹ già hơn trăm tuổi , c̣n thương con tám mươi, ân ái có đoạn chăng chỉ hơi thở cuối cùng" ( điều 10 )
Ngoài ra chưa nói Cha phải bị 9 năm tù tội trong lao tù Cọng Sản để ngày nay các con mới đựơc đi Mỹ , sống cuộc đời tương đối đầy đủ , an nhàn và sung sướng . Thế mà các con lại quên đi Mẹ Cha và chỉ biết đến vợ chồng , con cái ḿnh . Luật nhân quả sẽ trả lại cho các con sau này . Trước mắt hành động của các con sẽ ảnh hưởng và làm cho các cháu nh́n theo , bắt chước và sẽ đối xử tồi tệ , bất hiếu lại với các con .
Cha Mẹ tuy đă già và suy yếu , nhưng với kinh nghiệm do sự thành công , thất bại trong cuộc đời 60 năm qua đă tạo nên một gia tài quư báu . V́ vậy khi các con mua nhà , lập Business ....... phải thưa tŕnh , hỏi ư kiến Mẹ Cha trước khi làm . Đó vừa là chứng tỏ ra con nhà có giáo dục , đạo đức vừa là học thêm những kinh nghiệm làm ăn ngoài đời do Cha Mẹ chỉ dạy .
Không có ǵ hạnh phúc , sung sướng khi c̣n có Mẹ , có Cha . Các con phải biết trân quư và kính dường Mẹ Cha khi họ đang c̣n sống , đừng để đến lúc Mẹ Cha qua đời mới bày lễ lược , cúng kiến cho thật lớn , khóc cho thật nhiều . Đây là những lời Cha Mẹ dạy dỗ các con để duy tŕ nếp sống lễ giáo , đạo đức của Gia đ́nh và truyền thống Dân tộc mà chính Đức Phật vẫn quan tâm và luôn luôn nhắc nhở các con . Không nên hiểu nhầm chữ tự do đầy sa đọa , tội ác tại Mỹ mà quên đi nguồn gốc và giá trị vô cùng to lớn của chữ HIẾU trong đạo Phật đă dạy các con và phải biết trân quư , giữ ǵn nó như những bảo vật giá trị nhất trong cuộc đời .Mặt khác , theo đạo Phật quan niệm tất cả chúng sinh là cha mẹ của ḿnh ngoài việc báo đáp thâm ân cha mẹ của ḿnh hiện nay , người Phật tử c̣n có nhiệm vụ báo hiếu cho cha mẹ nhiều đời của ḿnh bằng phương thức gián tiếp . Tất cả mọi người ai cũng có trách nhiệm truyền bá tư tưởng đạo hiếu để cho những người con học tập và thực hành phương pháp báo hiếu đúng chánh pháp , đem đến lợi ích cho tất cả những người cha mẹ khác trong xă hội sẽ trở thành một nền tảng đạo đức cơ bản cho con người , tâm hiếu là một tâm lư có tính cách văn minh , văn hoá . Truyền bá đạo hiếu sẽ tạo nên một truyền thống tốt đẹp , từ đó xă hội có điều kiện xây dựng hạnh phúc cho con người ngày càng tiến bộ và tốt đẹp hơn.Người người hạnh phúc tốt đẹp , nước nước an lạc vui tươi , Thế giới ḥa b́nh thịnh trị , đúng là thiên đường đẹp nhất tại trần gian không?
florida80
12-24-2019, 22:14
VÔ THƯỜNG.
Đă đành rằng Đức Phật Thích Ca dạy : TẤT CẢ VẠN PHÁP ĐỀU VÔ THƯỜNG . Nghĩa là tất cả vạn vật , chúng sanh , tạo hóa , thiên nhiên ...... tất cả đều phải chịu chung quy luật VÔ THƯỜNG ( có sanh ra th́ có diệt vong ) . Hiện nay có ai sanh ra và trường tồn măi măi trên thế gian này không ? Kể cả những bậc tôn xưng là Thánh ,Thần , Chúa , Phật ...... cũng đều bị hũy diệt theo định luật đă định , không ai chứng minh các bậc ấy đang hiện diện tại thế gian này . Cho dù con người khéo léo lường gạt , đánh bóng là các vị ấy KHÔNG CHẾT mà tái sanh hay đang ở một cơi trời nào đó , hoặc là đang sống bất diệt trên chín tầng mây ...... Những lập luận đó chỉ nói với kẻ thấp hèn ,nghiện đạo , hoặc có trí nhưng lại run sợ trước bạo lực , quyền uy của kẻ dữ thế tục mà không chứng minh đựơc h́nh ảnh thực tiễn .
Chuyện Hồi Giáo Taliban đă phá huỹ , chùa chiền ở Afghanistan năm 2001 chỉ là lập lại sự tàn bạo của những người Hồi giáo đă từng tiêu diệt Đạo Phật tại vùng Trung Á, Trung Đông, Ấn Độ vào thế kỷ thứ 8 đến 13 . Họ cũng chặt đầu Tăng Ni, đập phá chùa chiền, hủy hoại tượng Phật. Hôm nay họ dùng đại bác , súng cối đốt phá tượng Phật lớn nhất thế giới có từ 2000 năm nay tại Afghanistan .
Quan cảnh tượng Phật đứng cao nhất thế giới tại Bamiyan bị đốt phá .
Trước làng sóng phẩn nộ của toàn thể Thế giới lên án bọn khủng bố Taliban th́ Cộng đồng Phật giáo Thế giới đă phân hoá trong phản ứng đối với sự mất mát bất hạnh của các tượng Phật quư giá nhất Thế giới tại Afghanistan . V́ sao trước hành động đầy thương tâm như vậy mà cộng đồng Phật giáo dường như phân hoá về phản ứng bị chi phối trong bối cảnh của lời Phật dạy về nguyên lư "vô thường" và "từ bi." Nhiều ư kiến phát biểu đựơc đăng trên báo khác nhau :
-Shousie Hanayama ở New Jersey đề nghị hăy quên đi sự bất hạnh này, thay vào đó là vận dụng sự kiện này để phổ biến Phật pháp. Ông viết:
"Thực là bất hạnh, các tượng Phật ở Afghanistan do bàn tay của con người phá hủy. Nhưng mọi thứ là vô thường, thế nên tốt nhất chúng ta hăy từ bỏ sự chấp trước về các tượng Phật ở Afghanistan. Dĩ nhiên, đây là thảm kịch đối với người con Phật. Dù sao đi nữa, một trong các lư do của thảm kịch tuỳ thuộc vào chúng ta. Tốt nhất chúng ta nên truyền bá thông điệp của đức Phật khắp thế giới."
-Một người Phật tử khác đề nghị chúng ta nên suy tư về lời Phật dạy trong giờ phút này:
"Tâm vốn thanh tịnh và chiếu sáng, nhưng ngoại cảnh đă làm ô nhiễm tâm, tư tưởng, ảnh hưởng của các căn và các quan năng cảm giác. Lời di huấn của đức Phật để lại cho chúng ta là "này các đồ đệ hăy ghi nhớ lời ta dạy, các pháp hữu vi là vô thường; hăy tinh tấn tu tập."
-Jivananda Ong, ở Malaysia, cũng quan sát phương diện vô thường của các tượng Phật và mọi sự vật hiện tượng:
"Các pháp hữu vi là vô thường. Các tượng Phật sẽ phải bị hũy hoại do bàn tay của con người hay quy luật thời gian của thiên nhiên. Chúng ta không nên quá buồn khổ về việc này. Bởi v́ đó là chuyện thông thường. Sớm hay muộn ǵ, các tượng Phật cũng bị hủy hoại thôi. Các pháp hành là vô thường kia mà."
...... chung chung những ư kiến tiêu cực đưa ra quanh lư luận v́ hai chữ VÔ THƯỜNG . Duy chỉ có ư kiến của ông Trần Nguyên Như là khác lạ :
Trần Nguyên Như phàn nàn rằng học thuyết vô thường của đức Phật đă bị giải thích sai thành "sự đoạn diệt." Ông đă lư giải học thuyết trên từ góc độ chính chắn hơn:
"Tôi hoàn toàn không đồng ư với những Phật tử cho rằng các tượng Phật chỉ đơn thuần là "gạch đá" và lại càng không đồng ư khi ai giải thích rằng việc phá hủy các tượng Phật chỉ là hành động đập đá cho nát ra cát bụi. Mặc dù đức Phật tuyên bố rằng Ngài chỉ là Bậc đạo sư và không đồng ư cho chúng ta tôn thờ Ngài như thượng đế, không có ǵ sai lầm khi chúng ta tạc đúc h́nh tượng Ngài cũng như tôn thờ Ngài như biểu tượng của sự giác ngộ. Điều tôi lo ngại là một số Phật tử đă giải thích sai học thuyết vô thường thành sự đoạn diệt. Khi đức Phật dạy tất cả các sự vật hiện tượng là vô thường, hẳn Ngài không dụng ư rằng chúng ta nên hủy hoại thân thể và tài sản của ḿnh, cũng như không nên nhờ người khác làm điều đó. Ngài chỉ đơn thuần dạy chúng ta rằng mọi sự vật đều thay đổi hay sẽ chuyển hoá. Trong các t́nh huống bất hạnh hay khổ đau, chúng ta không nên phản ứng bạo động và thiếu trí tuệ. Điều mà chúng ta cần làm là nỗ lực hết ḿnh (khác với thụ động và thờ ơ) để cải tạo sự việc và t́nh huống theo chiều hướng tích cực. Người Phật tử nên dừng lối giải thích sai lệch học thuyết vô thường của Phật thành "thuyết đoạn diệt" dù là tự đoạn diệt hay tha đoạn diệt. Như là con đường trung đạo, giáo pháp của Phật nổi tiếng như là con đường thánh vượt lên trên hai cực đoan chủ trương thường kiến luận và đoạn diệt luận."
Trần Nguyên Như c̣n kêu gọi người Phật tử nên thể hiện tinh thần dũng cảm, năng động, sẵn sàng v́ công lư với một t́nh thương rộng lớn:
"Tôi đề nghị người Phật tử nên hành động tích cực hơn nữa trong từ bi để chống lại các hành động cực đoan của bất khoan nhượng tôn giáo, đặc biệt là đối với đạo Phật trong tương lai. Bằng không, tôi e rằng các di tích văn hoá Phật giáo sẽ bị tiêu diệt đi bất cứ lúc nào, tương tự như trường hợp bị phá hủy của đại học Na-lan-đà và các Phật tích khác tại Ấn Độ. Đừng trở thành kẻ quan sát thầm lặng trước cảnh tượng các tượng Phật bị phá hủy. Người ta không nên làm điều ǵ có hại hay bất công đối với người khác, nhưng đồng thời cũng không nên để người khác hảm hại và gây bất công cho ḿnh. Một lần nữa, tôi chân thành kêu gọi các Phật tử nên thể hiện sự dũng cảm, nỗ lực chân chánh trong việc bảo vệ văn hoá và di sản Phật giáo. Hăy phản ứng bằng trí tuệ và t́nh thương."
Vậy bạn là một Phật tử th́ bạn quan niệm thế nào về hai chữ VÔ THƯỜNG trước hành động của đạo Hồi giáo cực đoan do nhóm bạo lực Taliban thực hiện .
( c̣n tiếp )
florida80
12-24-2019, 22:15
Chữ VÔ THƯỜNG của Đức Phật là bao la , gồm cả Chủ Quan lẫn Khách Quan . V́ QUAN nào cũng đi đến SANH rồi DIỆT , dù diệt bằng h́nh thức nào cũng là DIỆT ( Destruction ) . Tượng Phật tại Bamiyan đă tồn tại trên 2.000 năm , nghĩa là với khỏang thời gian như vậy là khá vĩnh cữu ( không có nghĩa là bất diệt ) . Bàn tay của Taliban Hồi Giáo cực đoan không những ngày hôm nay mà trải qua hàng bao thế kỹ trước , giáo lư của Allhas không chấp nhận một tôn giáo khác , nhất là Phật giáo ( chung chung đạo thờ Chúa cho Phật giáo là Satan , tà đạo ) . Từ thế kỷ thứ 8 đến 13 , đoàn quân hung hản của Hồi Giáo đă từng tiêu diệt Đạo Phật tại vùng Trung Á, Trung Đông, Ấn Độ , họ giết hơn 300.000 tăng ni và hàng triệu Phật tử không chịu bỏ đạo . Những Phật tích nơi Ngài đản sanh ở vườn Lâm Tỳ Ni , vườn Nai , nơi Thích Ca thành đạo .......... đều bị đốt cháy và phá hũy , v́ chư Tăng từ bi bất bạo động , cho đến giờ này Phật giáo cũng không hồi sinh được .
Dư luận th́ cho rằng trước sau tượng Phật tại Afghanistan cũng huỹ diệt theo thời gian , đó là khách quan . Trái lại Taliban tự động đốt phá với chủ đích tiêu diệt theo Thánh kinh đó là chủ quan . Đối với giáo lư của Đức Phật bao la và rộng lớn , các Phật tử xúc động nhất thời nên phản ứng tuy có khác nhau nhưng tựu trung vẫn chưa NGỘ ĐẠO giáo lư của Ngài . Các bạn có biết đâu hàng bao kiếp trước Đức Phật cũng từng làm vua nắm đoàn quân đi tàn sát các tượng Thánh Thần khác . Bây giờ Taliban có đốt tượng Phật trở lại âu cũng là do NHÂN QUẢ mà ra . Quả nào cũng điều có nguyên nhân mới đưa đến . Cũng như tôi , bỏ công sức , nặn trí óc nhớ lại viết ra một bài để góp ư với độc giả , nhưng Moderator Đề- Lét bài tôi không thương tiếc . Nếu tôi là một Phật tử ngắn nghĩ , sân si do vô minh che lấp th́ đâm ra thù hằn , hoặc có những lời không mấy lịch sự với anh ta . Tôi quán chiếu biết đâu đời trước tôi đă từng giết hại vợ con anh ta , tôi có thể đă bợp tai , xé bài vỡ anh ta làm v́ dốt lúc anh ta là học tṛ của tôi . V́ nghĩ hai chữ NHÂN QUẢ , VÔ THƯỜNG mà tôi im lặng cho qua . Sau này anh ta cũng gặp quả báo trở lại không tránh vào đâu đựơc .
Đối với ông Trần Nguyên Như phàn nàn rằng học thuyết vô thường của Đức Phật đă bị giải thích sai thành "sự đoạn diệt." Thật ra ông chỉ nóng ḷng , nóng ruột mà phát biểu thế thôi . Mà cũng thật , ở đời " Con Giun xéo lắm cũng quằn " cho nên Hồi giáo đừng tưởng lầm Phật giáo cấm sát sanh . Giới sát sanh cần phải được diễn giải như sau:
" Đệ tử Phật không được giết người, trừ trường hợp phải bảo vệ quê hương và bảo vệ Đạo pháp. Việc các chiến sĩ cầm súng bảo vệ quê hương sẵn sàng tiêu diệt quân thù th́ ta đă quen thuộc và xem là chuyện b́nh thường; c̣n h́nh ảnh một đệ tử Phật phải cầm súng tiêu diệt bọn Hồi giáo khủng bố th́ ta chưa h́nh dung được. Nhưng đă đến lúc ta phải ca ngợi h́nh ảnh đó, v́ sao, v́ Phật Pháp cũng là một quê hương cao quư như quê hương đất nước của ta vậy. Ai bảo vệ quê hương Phật Pháp cũng là anh hùng như các anh hùng bảo vệ đất nước vậy."
Nếu Phật giáo không đứng lên tự vệ , chống đối Hồi giáo th́ trời sai đất khiến cũng có ông Tổng Thống Bush con đem quân diệt bọn Taliban tan nát . Đó có phải là Nhân nào quả đó phải không các bạn ? Hồi giáo ở Trung Đông từ xưa cho đến nay chuyên đi đàn áp , tiêu diệt Phật giáo th́ cái quả đưa đến là dân Chúa Allhas cũng bị chiến tranh bùng nổ liên miên trên đất nước họ . Dân Hồi giáo cũng dầu sôi lữa bỏng , máu chảy thành sông ....... đó là oan gia tương báo . Phật giáo KHÔNG LÀM và KHÔNG CẦN LÀM , nhưng vẫn có người đem nợ báo lại cho Hồi Giáo .
Phật Giáo không xem tất cả mọi người là kẻ thù , ngay cả đó là những tên Hồi giáo khủng bố tàn bạo giết dân lành , Phật tử một cách bừa bải , vô tội vạ . Cho nên một số Phật tử phản đối và muốn đứng lên chống cự . Chúng Ta chỉ dùng biện pháp cứng rắn khi mà các biện pháp mềm dẻo không có tác dụng cảm hóa, trái lại c̣n khiến cho kẻ xấu mạnh dạn tiếp tục làm bậy. Nếu ta không thể cảm hóa kẻ xấu th́ ít nhất ta phải ngăn chận không cho kẻ xấu làm hại người khác. Họ lư luận : Lịch sử đă chứng tỏ sự hiền lành của Phật Giáo đă giúp cho Hồi giáo bành trướng nhanh chóng. Nếu nhà Đường yếu đuối th́ Hồi Giáo đă chiếm luôn Trung Hoa mất rồi. Chính v́ quân nhà Đường cương quyết chống trả nên Hồi Giáo đă lui bước. Đến vua Thành Cát Tư Hăn nổi dậy đánh gảy sức mạnh bạo lực của Hồi Giáo đuợc một thời gian dài khiến cho thế giới tạm yên. Bây giờ th́ Hồi Giáo đang trở lại ư đồ xâm chiếm thế giới như trước. Nếu không có một Thành Cát Tư Hăn nào khác th́ mỗi Quốc gia phải tự biết bảo vệ ḿnh trước âm mưu xâm lược của Hồi Giáo , và Phật Giáo cũng phải biết đứng lên mạnh mẽ chống lại sức tiến chiếm của Hồi Giáo nếu c̣n muốn có đất để tu hành giáo hóa chúng sanh . Lập luận đó cũng đúng , nhưng đúng ở thế tục mà không đúng với Đạo Giác Ngộ của Như Lai .
Giáo lư của Ngài ngoài Vô thường , Nhân Quả c̣n có TỪ BI . Chữ Từ Bi trong Phật giáo là khả năng nhận thức rằng mọi sinh linh có giác cảm, từ con người cho đến các sinh vật khác đều gánh chịu khổ đau, khi nào tất cả các sinh linh ấy chưa được Giác ngộ và Giải thoát, th́ Từ bi chính là ước vọng mảnh liệt thúc đẩy ta phải Giải thoát cho tất cả mọi chúng sinh, trong đó có cả ta và những con người Hồi giáo cực đoan Taliban cũng đựơc giải thóat ra khỏi khổ đau. Sự vấy máu v́ Allhas làm cho họ điên cuồng và càng sa vào địa ngục thay v́ thấy đựơc Thiên Đàn mà họ đang đựơc hứa hẹn . Chúng ta càng xót thương hơn là óan trách họ .
V́ thế Từ bi không có nghĩa đơn giản là XÓT THƯƠNG Hồi Giáo một cách thụ động và tiêu cực, mà ngược lại Từ bi là một sức mạnh tích cực đưa ta thẳng vào hành động, trong mục đích loại trừ mọi thể dạng của khổ đau và mọi cội rễ của đau khổ nhằm thức tĩnh những con người đầy khát vọng ngông cuồng . Ở đời Từ Bi quá cũng không đựơc , v́ Phật Giáo có một sức mạnh tiềm tàng ( Đại lực - Đại hùng ) , nhưng cái sức mạnh đó phải sử dụng sau cùng khi mà tâm từ bi của chúng ta rải đến không làm thay đổi những con người Hồi Giáo cuồng điên . Tôi tin chắc rằng Hồi Giáo gây ra nhiều tội ác th́ tất phải gánh lấy quả báo nhăn tiền không sai . Trong khi chờ họ phản tĩnh th́ con người Phật tử chúng ta cũng nên tạt vào mặt họ một gáo nước lạnh , hay tát tai thẳng vào mặt những tên khùng điên trước khi họ giác ngộ
florida80
12-24-2019, 22:15
ĐAU và KHỔ
V́ có đau nên mới khổ , nhưng có lúc đau mà không khổ hoặc khổ mà không đau hay vừa đau vừa khổ . Biên giới giữa đau và khổ vốn khó mà phân định .Ví dụ :
- ĐAU : Bạn chạy vấp té chảy máu nên chân rất đau , đau này là thể xác .
- KHỔ : Cuộc đời làm mải không có tiền đủ sống , phương tiện vật chất thiếu thốn , nên đời sống thấy khổ , khổ này là khổ vật chất nhưng chưa hẳn làm đau thể xác .
- VỪA ĐAU , VỪA KHỔ : Bạn bị cơn bệnh ngặt nghèo , gây nên sự đau đớn cho thể xác , nhưng không có tiền đi Bác sĩ , tiền mua thuốc do nghèo khổ , nên đành ôm cái đau v́ do khổ mà nên .
Từ cái đau của thân thể con người có tánh hay ôm chặt lấy bản thể chủ quan và có tánh cách vị kỷ. Đối với chủ trương của Phật hoàn toàn không nhắm vào mục đích đó. Vấn đề Khổ Đế trong Phật giáo chỉ cho con người thấy cái bản chất phổ biến và không tránh khỏi cho con người trong màn ảo vọng của vô minh và do vị kỷ mà gây ra .
Isha de Lubicz, trong cuốn The Opening of the Way (1979), phân định rỏ ràng những khác biệt quan trọng và cơ bản giữa khổ và đau:
"Cho mỗi h́nh thức vị tha chân thực th́ có một sự giả dạng của vị kỷ. Từ Bi (Compassion) có nghĩa rằng trong mối tương đồng của tâm thức, chúng ta cảm nhận được cái khổ của kẻ khác. Nhưng chỉ những ai thực sự yêu thương bằng một T́nh yêu không dựa trên cái ta (impersonal Love), không mang một bóng dáng phản ứng vị kỷ, mới có thể đem trái tim ḿnh đến với tha nhân nhằm làm nhẹ cái khổ của họ bằng ḷng Từ Bi có hiệu quả.
Nhưng hăy đừng nhầm lẫn giữa khổ và đau. Đau là kết quả của mất quân b́nh, hay là bất ḥa, giữa ước vọng cá nhân đối với ư chí siêu h́nh nội tại. Đau có thể là kết quả của nghiệp căn hay là của vô minh đang là; nhưng tâm thức có thể vượt qua cái đau dù rằng cái khổ th́ không tránh khỏi. Đau là sự phản ứng của cá tánh trên mặt thể xác hay là t́nh cảm. Nhưng khổ là sự vật lộn trong điều kiện phân chia giữa điều kiện thực tại đối với điều kiện mà cá nhân muốn đạt đến, và cái nỗ lực muốn trở lại toàn hảo tạo nên mối căng thẳng này.
Khi có sự phản kháng trên b́nh diện cá nhân, thân thể hay đạo đức, th́ kết quả là đau; nhưng nếu điều kiện này được chấp nhận th́ cái đau có thể sẽ được loại trừ để chuyển hóa thành nỗi khổ. Khổ chính là một sự thử thách (trial); và sự đối ứng nghiêm túc trong trường hợp này có thể biến thử thách thành niềm hoan lạc. Khổ là trường học và là điều kiện cần có cho tâm thức. Từ Bi đồng ư sinh nghiệm những thử thách của sự khổ của nhân loại để thăng hóa chúng. Đó là một hành động Yêu thương chân thực."
Tôi nghĩ , nếu theo quan niệm của Isha de Lubicz th́ Đau này là thuộc mặt tinh thần , đạo đức hay tâm linh . Ví dụ : Anh ta đau khổ v́ thất t́nh . Do t́nh yêu không đựơc như ư muốn nên anh ta cảm thấy nhức nhối con tim " như là đau " vậy , từ chỗ đau ( tinh thần ) đó nên anh cảm nhận sự khổ ( tinh thần ) . Theo như Isha quan niệm th́ cái ĐAU và KHỔ này phải gắn chặc và đi đôi với nhau . Có Đau th́ mới Khổ . Theo tôi nghĩ nếu anh ta không ĐAU th́ chưa hẳn đă khổ v́ t́nh yêu , cho nên sự nh́n này như là một phiếm diện .
Nói cho dễ hiểu hơn cái Đau và Khổ thuộc tinh thần ( tâm linh ) gắn chặc lẫn nhau . Ví dụ : bớt chút ḷng si mê, hận thù chúng ta bớt được chút khổ đau,bởi v́ mê th́ mất tiền, mất của, hận thù th́ không c̣n ai là bạn bè và sẽ mất tất cả .
Theo Kinh Phật , tiết mục 31 (XVI, III) :
florida80
12-24-2019, 22:16
** Có tất cả 12 thứ khổ:
1. Sinh là khổ;
2. Già là khổ;
3. Chết là khổ;
4. Buồn rầu là khổ;
5. Than khóc, than văn là khổ;
6. Đau đớn, khó nhọc là khổ;
7. Sầu tiếc, thương tiếc là khổ;
8. Thất vọng là khổ;
9. Sống gần vớí người, vật ḿnh không thương yêu là khổ;
10. Xa ĺa người, vật ḿnh thương yêu là khổ;
11. Không được những ǵ ḿnh muốn là khổ.
12. Ngũ uẩn đeo níu là khổ (Thủ ngũ uẩn).
Chúng ta chú ư ở đây Buddhaghosa không nhắc đến bệnh khổ, v́ bệnh khổ thuộc về đau đớn và cũng có những trường hợp mà không có người bệnh . Trong kinh D́gha Nikàya (Trường Bộ Kinh) (ii, 305) cũng không có nhắc đến bệnh khổ.
Vậy th́ Đau Khổ là chúng ta nghĩ đến về tinh thần , c̣n khổ mà không đau hoặc đau mà không khổ hay vừa đau vừa khổ nó gần như ở trạng thái thể xác nhiều hơn .
florida80
12-24-2019, 22:16
ĐẠO GIÁC NGỘ .
Mấy hôm nay tôi thường lúng túng khi dùng danh từ Phật Giáo . V́ sợ bị hiểu lầm như ông Albert Einstein đă nói :
"Tôn Giáo của tương lai sẽ là một Tôn Giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi Thần linh, giáo điều và Thần hoc. Tôn Giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ư thức đạo lư, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lănh vực trên, trong cái nhất thể đầy đủ ư nghĩa. Phật Giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó."
Phật Giáo th́ phải hiểu là Phật Giáo Thích Ca Mâu Ni mới giải thóat con người bằng con đừơng tự tu tập , dùng trí tuệ và khoa học để vượt ra khỏi Vô minh , Thần linh ....... Chứ Phật giáo theo Ngài A Di Đà , Quán Thế Âm , Dược Sư ..... chỉ cầu nguyện các Ngài th́ Ngài mới cứu vớt , chứ đâu có bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ư thức đạo lư, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lănh vực trên, trong cái nhất thể đầy đủ ư nghĩa mà ông Albert Einstein nói . Vậy từ nay tôi sẽ dùng danh từ "Đạo Giác Ngộ " là nói đến Phật giáo Thích Ca Mâu Ni để tránh nhầm lẫn .
o O o
Bởi v́ chúng ta cứ gọi là Đạo Phật chung chung như vậy nên dễ bị ngộ nhận ,từ đó chúng ta không thể nhận thức được trọn vẹn cái ư nghĩa của đạo Phật ; mà khi chúng ta gọi là Đạo Giác Ngộ để thay thế chữ Phật th́ chúng ta mới thấy được cái ư nghĩa đầy trọn vẹn . Khi hoàn toàn giác ngộ ta mới thấy là ta không bị mê muội tin theo một tín điều , van xin , cầu nguyện ( ỷ lại ) ; cũng từ giác ngộ ta mới thấy sự sáng suốt của lư trí khi đến với giáo lư đạo Phật và ta tin theo cũng từ trong nhận thức của lư trí mà phát triễn để tinh tấn tu hành , tiến lên .
Trên bước đừơng tu tập đạt đến giác ngộ nó không khác nhau trên căn bản, nhưng tuỳ DUYÊN , tùy theo tâm tính, cơ thể , điều kiện sinh họat , địa h́nh , địa vật từng nơi chốn , khu vực , Quốc gia ..... mà mỗi con người thực hành một cách khác nhau . Ví dụ : Thời xưa c̣n tại thế Đức Phật hoằng pháp đi bằng chân đất ( không giày , dép ) , không có phương tiện di chuyển hiện đại như ngày nay , cọng thêm truyền thanh , truyền h́nh , Internet để chuyển đạt cho chúng sanh khắp năm châu . Cũng như Phật giáo Nguyên Thuỹ giữ đúng những nghi thức , hành đạo đúng theo lề lối của Bổn Sư . Nhưng đạo Phật qua Trung Hoa th́ biến đổi là các chùa tự sản xuất để nuôi sống , không đi khất thực , học vơ công để tự vệ . Sửa lại điều 10 của Phật Tổ là có quyền giữ vàng , bạc . V́ không thể sống và phát triễn mà thiếu ngân lượng ( Điều này Đức Phật cho phép có thể tuỳ duyên sửa đổi ) .
Giáo lư của Đức Phật Thích Ca trong Đạo Phật không phải là con đường TIN ĐỂ ĐỰƠC GIẢI THÓAT mà là con đường THỰC HÀNH để đến được giác ngộ. Khi đạt đến Giác ngộ mới thấy là ta không bị mê muội tin theo một tín điều mê hoặc , mù mờ , viễn vông .... với giác ngộ ta mới thấy cái sáng suốt của lư trí khi chúng ta học và hành theo Ngài . Từ sự hiểu biết đó ta tin theo cũng từ trong nhận thức của lư trí mà ra . Cho nên, những ai tin theo giáo lư Đức Phật không qua h́nh thái nhận thức bằng lư trí th́ sai lầm và hoàn toàn thiếu sót .Những đức tin phải đựơc kiểm nhận và đem ra thực hành không gây đỗ máu và khổ đau : Đó là tính chất khoa học trong đạo Phật hay nói một cách khác :
"Giáo lư đạo Phật không bắt buộc làm cho tín đồ phải mê muội tin theo, hoặc phải mù quáng mà đâm ra cuồng tín hoặc tin mà thiếu nhận thức bằng trí óc và thực hành".
Đối với giáo lư của Đấng Giác Ngộ đủ các hạng cao thấp , tùy duyên mà hóa độ cho chúng sanh dễ nhận thức và tu tập thành chánh quả . Trong Kinh Kim Cang có câu :
"V́ tŕnh độ của chúng sanh có sai khác, nên có các quả Thánh hiền sai khác, chứ không phải Phật pháp có sai khác."
Tôi ví dụ như trong Tàng Kinh Các có nhiều bài thuyết giảng Phật Pháp của quư Thầy . Nhưng không phải Thầy nào giảng th́ Phật tử đều hiểu . Có hiểu , vui thích mới vỗ tay chứ . Tôi lược qua một vài giảng sư như Đ Đ Thích Nhật Từ , Đ Đ Thích Thiện Thuận , Đ Đ Thích Phước Tiến , TT Thích Pháp Hoà , Thích Minh Hiếu v.v... Những bài giảng trong các khóa tu Phật Thất của Thầy Thiện Thuận , Phước Tiến th́ vui vẽ và đựơc vỗ tay rất nhiều , v́ bài giảng đi sát với thực tế và có chút vui đùa trong đó ( hợp với Phật tử b́nh dân ) . Trái lại Thầy Nhật Từ quá nghiêm trang và dùng từ ngữ , điển tích quá cao xa trong kinh điển , hơn nữa Thầy ít thêm vào những mẫu chuyện vui ( tiếu lâm ) , nên đa phần Phật Tử không hiểu nhiều ( tôi tin thế ) nên ít vỗ tay . Trái lại cá nhân tôi rất thích các bài giảng của giảng sư Tiến sĩ Thích Nhật Từ , v́ tôi hiểu Thầy .
So với tŕnh độ chúng sanh có khác như vậy nên Đức Phật không quên nhắc nhỡ rằng:
"Ta cũng như người dùng ngón tay chỉ mặt trăng, các ngươi phải nhơn ngón tay mà xem mặt trăng. Nếu chấp ngón tay cho là mặt trăng, th́ chẳng những không thấy được mặt trăng, mà cũng không biết luôn ngón tay"
(Kinh Lăng Nghiêm) .
Những giáo lư mà Ngài dạy chỉ là phương tiện để di chuyển ( như con thuyền ) hoặc chỉ đường, hướng dẫn cho chúng sanh theo đó mà tu hành đạt đến giải thoát, chứ không phải ngón tay Ngài là giáo lư rồi ôm nó mà sùng bái . Nh́n chung kinh điển của Ngài nói quá cao xa, nhất là người Việt chúng ta chưa dịch Kinh từ tiếng Trung Hoa , Pali qua tiếng Việt Nam nhiều cho lắm , v́ vậy mà chúng ta đă phải nghiên cứu thật nhiều hầu hiểu rơ con đường tu tập cho đúng ĐẠO GIÁC NGỘ của Ngài Mâu Ni . Nếu không sẽ bị dẫn dụ qua một con đừơng mê muội khác dù cũng mang danh từ Phật giáo .
Muốn đạt đến ĐẠO GIÁC NGỘ điều quan trọng là Trí tuệ . Nhưng trí tuệ bị suy đồi do trụy lạc mà ra . Ái dục là một điều cần có , v́ nó điều hoà sinh lư cơ thể , nhưng thái quá th́ đâm ra tŕ trệ , đọa lạc thân thể lu mờ trí tuệ . Bản năng con người cần có là :" ĂN , NGŨ , ĐÉO , ỈA " , những từ ngữ viết lên th́ trắng trợn , thô tục , nhưng thực chất này không thể chối bỏ cho muôn loài không riêng chi con người . Thiếu một trong 4 yếu tố trên con người sẽ chao đảo và mất b́nh thường ( mad ) . Có bạn hỏi tôi : " Vậy các tu sĩ ( ngoài Mục sư ) không sex th́ sao , mất b́nh thường ( mad )?" . Có ! Khoa học xét nghiệm phần lớn những tu sĩ có tánh không mấy thăng bằng về thể xác , tư tưởng . Nhưng nhờ các vị đó có nghị lực cao , quán chiếu và chế ngự đựơc bản năng và phát triển như là một lối thóat về phía tâm linh , trí tuệ giúp đở và kèm chế dục vọng . V́ thế trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật dạy Ngài A Nan rằng :
" Nếu không đoạn trừ DÂM DỤC sẽ đọa vào Ma đạo; không dứt sát hại sẽ đọa vào Thần đạo; không bỏ trộm cướp th́ đọa vào Tà đạo và không trừ vọng ngữ th́ thành ma ái kiến, mặc dù chúng sanh đó có tâm trí diệu ngộ, thanh tịnh đến đâu; và như thế tất cũng không đạt được đạo Bồ Đề."
Giác ngộ đựơc vấn đề này , tôi đă song hành việc ăn chay với DIỆT DỤC từ năm 2006 cho đến nay . Tôi tránh ngũ chung với vợ , tránh gặp giới Phụ nữ dễ bị vọng động , nếu gặp th́ không nh́n thẳng vào thân thể họ , nếu nói chuyện th́ dè dặt ngôn từ . Giác ngộ nữa vời như tôi cũng khổ . Khi đứng trước phụ nữ nếu tôi quán chiếu tà dâm th́ trước mặt tôi họ trần truồng ( dù đang mặc áo quần ) , những lúc đó tôi ngưng và định tâm trở lại . Cũng như thân tôi có nội lực ( luồng điện ) nên sờ vào vật dẫn điện nào cũng bị giật làm rùng ḿnh . Cũng khổ cho tôi . Thành ra tôi luôn luôn tŕ niệm TÂM thật thanh tịnh để không bị suy nghĩ nhảy lung tung sanh ra tà niệm . Nếu muốn thoát ra, chúng sanh phải tự ḿnh chiến đấu , diệt trừ mọi dục vọng, tà dâm ,tham ái . Phải cương quyết đọan tuyệt những tâm xấu, biết nuôi dưỡng và phát triển tâm thiện luôn luôn hướng đến Đức Phật để học đừơng giải thóat bằng những bài giảng trong :
florida80
12-24-2019, 22:17
-Tứ niệm xứ .
2-Tứ chánh cần .
3- Tứ như ư túc .
4- Ngũ căn .
6- Ngũ lực .
7- Thất Bồ đề phần
8- Bát chánh đạo .
Hầu để hun đúc thành tựu cho bản thân ḿnh được một sự ĐẠI HÙNG - ĐẠI LỰC - ĐẠI TỪ BI và một ḷng cương quyết thoát khỏi ṿng trầm luân, khổ ải sớm hoàn tất đạt đến con đường giải thoát, đó là Niết Bàn .
Đạo Giác Ngộ là chỉ cho ta con đừơng tự giải thóat . Thật ra không ai có quyền năng tối thượng tha tội hay độ tŕ chúng sanh . Chẳng qua đó là ḷe , bịp kẻ vô minh mà thôi . Ngay như Ngài Thích Ca giảng Pháp 49 năm , cuối cùng Ngài vẫn nói :
" Suốt 49 năm qua Ta không nói một lời nào cả "
Chính câu này làm cho các bậc thức giả suy nghĩ nát óc . C̣n kẻ tà đạo , trí hèn th́ không hiểu nên phân tích và dèm pha . Thật vậy trong Kinh Kim Cang (Trang 168). Ngài có nói :
Này ông Tu Bồ Đề! Ông chớ lầm tưởng . Như Lai nghĩ rằng:
"Ta độ chúng sanh". Tại sao vậy? Nếu Như Lai có nghĩ: "Ta độ chúng sanh", th́ Như Lai c̣n chấp bốn tướng Ngă, Nhơn, Chúng sanh và Thọ giả, tức nhiên không phải Như Lai. Bởi thế nên, Như Lai thật không có độ chúng sanh nào cả".
Vậy th́ Phật A Di Đà , Quán Thế Âm , God .... nói làm sao đây khi Như Lai nói như vậy ????
Ngài quả là một người thẳng thắn và không " Vơ tất cả nhận cho ḿnh , khi nó không phải của ḿnh " . Ngài không nói ǵ cả , cũng chẳng dạy điều chi mới lạ . Từ khi trở thành Bậc Giác Ngộ, Ngài nói lại những CHÂN LƯ đă có từ lâu . V́ CHÂN LƯ là trường tồn , bất biến không đổi thay qua thời gian lẫn không gian . Ngài chỉ là vị Thầy khả kính chỉ dẫn con đường để tất cả chúng trở thành người giác ngộ . Ngài cũng như vô số Phật đă thành đạo trong thời quá khứ, hiện tại đang thành và sẽ thành Phật .
Ngài quả là bậc trí trên bậc trí . Bậc Thầy của các vị Thầy .
florida80
12-24-2019, 22:18
TÂM NGUYỆN CỦA TÔI .
Tôi đă từng trải qua bao nhiêu cách tu hành mong đựơc giải thóat ,chứ không mong đợi sau khi chết đựơc về cỏi Tây Phương cực lạc của Đức Phật A-Di-Đà . Hơn nữa Ngài bắt buộc phải cầu Ngài mới đựơc chấp nhận về cực lạc .Vậy th́ cũng giống Chúa Jesus phải tin Ngài , run sợ Ngài và cầu nguyện mới đựơc lên Thiên đàn . Tôi thấy như vậy hai Ngài A-Di-Đà và Jesus c̣n cố chấp và không từ bi bằng Đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni . Ngài có một giáo lư rơ ràng và khoa học . Ngài dạy chúng sanh phải tinh tấn tu hành và tự giải thóat " Hăy thắp đuốc lên mà đi " . Phải t́m nguyên nhân khổ để tự ḿnh giải thóat lấy cái khổ do chính ḿnh gây ra hay tha nhân đưa đến . Phải biết tu tập trên con đừơng Bát Chánh Đạo . Từ những nhận thức đơn giản đó tôi đă nguyện đi theo con đừơng tu tập , giải thóat bản thânh là chính .
Suốt 15 năm nay tôi vẫn loay hoay đi t́m đạo . Tôi cố chọn một phương pháp tu trong 84.000 cách tu mà Như Lai đă dạy . Ban đầu th́ tôi theo cách tu hành phổ thông là tụng niệm . Nhưng cũng loanh quanh giới hạng trong các kinh Sám Hối , Cầu An , Vu Lan Báo Hiếu v.v......
Cách tụng th́ theo các Thầy có khi nhanh , có khi chậm . Nhưng theo tôi nghĩ th́ tụng kinh phải rơ ràng , chậm và hiểu nghĩa kinh th́ hợp lư hơn :
"Tụng lời Kinh xưa mà Tụng rơ Từng Chữ, Từng Câu. Chú Ư Từng Nghĩa, Từng Lời mà Tâm Không Mong Cầu. Người Tụng và Câu Kinh làm sao cho Thấu Thông Đồng Nhất. Khai Ngộ Ta và Người trong Đệ Nhất Nghĩa thâm sâu…"
Qua vài năm tụng niệm tôi lại giác ngộ ,nếu cứ cầu an , cầu siêu th́ không đúng với lời chỉ dạy của Như Lai . An hay không là tự ḿnh có lấy . Không tranh chấp , hận thù , gây chiến tranh th́ có ai khuấy phá , trả thù mà mong cầu đựơc yên thân . Giả sử ta không muốn mà họa vẫn đến , đó là không mong cầu . Gặp những lúc đó th́ bản năng tự tồn Như lai đă dạy ta biết cách bảo vệ và chiến đấu . Không khiếp nhược , không hung tàn đó là tinh thần của Phật Giáo bất diệt :"Đại hùng , đại lực , đại từ bi " .
Những ư nghĩ ấy nên tôi không tu theo phương pháp tụng niệm . Tôi bắt đầu ngồi Thiền .V́ tôi biết tu cách nào cũng tốt và không sai với lời dạy của Đức Phật :
- KINH : Là Lời Phật .
- THIỀN: Là Tâm Phật .
- CHÚ: Là Tiếng Phật .
- NIỆM PHẬT : Là Tiếng của Chúng Sinh gọi Phật .
- NIÊM HOA THỊ CHÚNG: Là Chỉ Thẳng ngay Phật .
Cả Năm Bảo Pháp vừa kể đều từ Tâm Phật mà ra.
Qua nhiều năm Thiền định tôi lại ngộ rằng : Dù tu cách nào cũng đưa đến mục đích là TÂM THANH TỊNH . Như vậy tại sao ta không đi thẳng " Trực chỉ chân tâm " . Cũng từ đó tôi bỏ tụng niệm lẫn tu thiền mà chỉ TU TÂM . Muốn cho tâm đựơc thanh tịnh như mặt nước hồ thu th́ chỉ có cách là không giận hờn , chấp trách những chuyện thị phi của chính bản thân ḿnh và mọi người chung quanh .Tôi bắt đầu ăn chay trường trai từ tháng giêng năm 2008 để tránh sát sanh . Tôi tập không nói dối , vọng ngôn . Không uống rượu ( điều này xưa nay không có ) . Không tà dâm , không trộm cắp , không cờ bạc . Đó là 5 giới cấm căn bản cho Phật tử tại gia .
Tôi nhận định khác hẳn mọi người về cách tu và học Phật . Học Phật là học để làm chủ chính ḿnh. Học Phật là học để loại bỏ những tập khí xấu xa mà ta đă huân tập từ lâu để trở nên một con người Tự Giác rồi Tha Giác .Học Phật không phải để khoe khoang thuộc nhiều kinh . Đôi lúc tụng kinh mà chẳng hiểu kinh dạy ǵ .Ta nên hiểu rằng : V́ sao cần phải tu hành ngay từ bây giờ . Đừng chờ đến ngày gần chết hay già nua rồi mới tu . Tu là sửa đổi. Hành là thể hiện những điều hiểu biết của ḿnh thành việc làm. Sự Tu Hành, do đó cũng không xa rời cuộc sống b́nh thường này, không xa rời cái trật tự thiên nhiên của mọi vật trên đời này, và cảnh giới Niết Bàn cũng vậy, nó cũng ở ngay đây, do kết quả của sự hóa giải những phiền năo trong ta, chứ không cần phải đợi đến lúc Chết hay phải t́m kiếm nó ở một nơi chốn xa xôi nào khác như cầu nguyện A-Di-Đà để mong đựơc cứu vớt về Tây Phương .
Hầu hết tất cả phật tử, ai cũng ước mong sau khi qua đời được văn sanh về cơi Tịnh độ, nhập Niết Bàn, không c̣n luân hồi sinh tử nữa. Vậy Niết Bàn ở đâu? Sự khác biệt giữa Niết Bàn của Đạo Phật và Thiên đàn của các tôn giáo khác như thế nào?
Có nhiều người hiểu Niết Bàn là cảnh tiên giới, vui đẹp đặc biệt , giống như Thiên đàn của các tôn giáo khác. Nơi đó có đầy hoa thơm, cỏ lạ, nhiều ngọc ngà châu báu,xa cừ mă năo , san hô hổ phách , có những ông Tiên nhàn rỗi đánh cờ, những nàng tiên xinh đẹp ca múa, rong chơi suốt ngày, không biết thời gian là ǵ ,không cần lo cái ăn , cái mặc . Ở đó không có nghèo khổ, bất công, lo âu, vất vả, phiền muộn như ở thế gian. Và chỉ khi nào chết, hương linh mới có thể đến đó được. Thật là buồn cười và mê hoặc . Thiên đàn , Niết Bàn , Tây Phương cực lạc không đâu xa . Nó đang ở tại thế gian này , nó nằm trong tâm của ta . Tôi nghiền ngẫm nhiều kinh sách, theo nhiều lớp giảng của quư thầy, cố t́m hiểu th́ được biết, hai chữ Niết Bàn dịch từ âm của chữ "Nirvana" nghĩa là ra khỏi rừng mê. Niết bàn là vắng lặng, dứt sạch tất cả si mê, chấp ngă , ngă mạn. Niết bàn là giải thoát, giác ngộ, không c̣n luân hồi sinh tử. Như vậy không đợi đến sau khi chết con người mới có thể lên Niết Bàn, mà khi nào tâm ḿnh được thanh tịnh, tuyệt đối an lạc, tự tại là ḿnh đang ở Niết bàn.
Về phương diện siêu h́nh, Niết Bàn là sự giải thoát khổ đau. Về phương diện tâm lư Niết bàn là sự tiêu diệt hoàn toàn ḷng ích kỷ, vị kỷ, vọng tưởng, tham ái. Về phương diện đạo đức Niết bàn là sự tận diệt Tham, Sân, Si, tận diệt tự ngă hay là cái "Tôi", cái "Của Tôi" cái "Tự Ngă Của Tôi".
Thật vậy , khi tâm thanh tịnh , an nhàn không lo nghĩ , giận hờn , óan trách . Không hơn thua , gây óan , kết thù th́ tâm ta đựơc b́nh an . Đó chính là cơi tiên , Niết Bàn ...... mà không ai chịu giác ngộ để nhận ra để đạt đến chân lư.
florida80
12-24-2019, 22:18
TÔI NGUYỆN ĂN CHAY TRƯỜNG .
Từ nhỏ lúc mới 7 tuổi tôi đă biết ăn chay . V́ mẹ tôi thường ăn chay 4 ngày trong một tháng : ngày 30 , mồng một , 14 và ngày 15 ( rằm ) .
Sự thật ăn chay v́ theo Mẹ tôi nấu như vậy nên phải ăn . Nhưng tôi vẫn thích ăn thịt cá hơn . Thấy tôi yếu ốm nên sau này Mẹ tôi không ép buộc tôi ăn chay theo Mẹ . Trên mâm cơm chay vẫn có những đĩa thịt heo ram mặn mà tôi ưa thích . Nhưng mỗi lần ăn thịt tôi muốn gắp một món chay cho lạ miệng th́ Mẹ tôi la rầy ngay :
-Đồ chay của Mẹ con không đựơc dùng đũa mặn vào .
Sau này lớn lên và hiểu " Thế nào là ăn chay " tôi mới thấy không những Mẹ tôi mà đa phần các Phật tử đều quan niệm như thế . Những đĩa , chén , đọi , muổng , nĩa ........ dùng ăn chay là để riêng . Họ không hiểu rằng ăn chay là để giảm đi sát sanh chứ không do bát đĩa .V́ sao tôi nói ăn chay là để GIẢM đi sát sanh . Không phải ăn trâu ḅ , gà vịt ...... mới là sát sanh . Sự thật trong đời sống hàng ngày sự sinh họat , di chuyển chúng ta đă và đang giết bao nhiêu chúng sanh . Nhưng v́ nhỏ như vi trùng , côn trùng ..... mà mắt trần không thấy đựơc . V́ vậy Đức Phật có lệ ba tháng AN CƯ KIẾT HẠ là mùa côn trùng sanh sản dễ bị chà đạp khó tránh né . Cũng như phụ nữ thường là kẻ giết người nhiều nhất mà họ không thấy ( ngoài tội dẩm đạp côn trùng bằng người nam ) họ c̣n giết thêm nữa . Những lúc giao cấu nam nữ , hàng triệu tinh trùng chạy đua vào tử cung , nằm đó chờ trứng rụng ( thường từ 2,3 hôm ) . Nếu trứng không rụng th́ người đàn bà tiết ra chất acit ở tử cung và giết hết tinh trùng ( giết người tập thể ) . Nhưng nh́n ra , đây không phải là tội cố sát sanh , mà do bản chất tự nhiên của thân thể .
Những năm khi tuổi bước vào 30 rồi 40 ...... tôi thấy cuộc đời biến đổi không ngừng mà Đức Phật dạy là VÔ THƯỜNG . Nếu đời không vô thường th́ làm sao ta lớn lên và già đựơc . Tôi thường tận mắt thấy mỗi lần làng tôi lễ tế XuÂn Thu th́ giết Trâu Ḅ . Tiếng kêu là của con vật vùng vẫy t́m sự sống . Chúng bị đánh , đâm , thọc cho đến chết . Từ những h́nh ảnh đó làm cho tôi ghê sợ chiến tranh . Sau này khi sống ở Mỹ tôi xem D V D " Những tiếng kêu gào thảm thiết " . Những con ḅ , con heo bị ḷ mổ hành hạ trước khi giết để lấy thịt đưa ra thị trường mua bán . Mỗi lần ngồi trước món bít tết mà người Mỹ ưa thích nhất là tôi nghĩ đến cuốn phim đầy tiếng kêu gào thảm thiết kia mà không tài nào ăn đựơc . Rất nhiều người sở dĩ thích thịt heo , ḅ bởi họ cảm thấy thơm ngon sau khi đă được nướng hay xào nấu, bằng những gia vị tuyệt hảo sau khi ướp, họ không cảm nhận và biết được cảm giác sợ hăi mà những con heo , ḅ phải chịu trước khi thịt gan bị mổ xẻ một cách tàn nhẫn của con người . Cái h́nh ảnh không bao giờ xóa mờ khi những giọt nước mắt lặng lẽ rơi khi con heo , ḅ sắp dẫn đến hành quyết . Chúng rên siết và chết từ từ trong khổ đau nên mang theo hận thù chảy theo từng ḍng máu tồn lại trong thịt . Chúng ta ăn thịt chúng là ăn theo sự thù hận và khổ đau . Từ đó sự biến thái chảy trong tim mạch của con người lớn dần và tạo nên bản tánh hung tàn , độc ác đựơc thể hiện qua cuộc sống và hành động hàng ngày .
Từ khi nhận thấy được sự tàn bạo của loài người đối với súc vật, tôi đă ngừng ăn thịt và có tâm nguyện ăn chay trường . V́ thân thể ḿnh đựơc nuôi dưỡng nhiều ngày bằng thịt cá . Tôi sợ có vấn đề cho sức khỏe chăng ? Nên tôi nguyện không ăn vật 4 chân như trâu ḅ , dê , cừu ..... suốt năm 2006 . Thấy đựơc tôi nguyện tiếp không ăn vật hai chân như gà , vịt , chim ...... ( đương nhiên không phải con người ) năm 2007 . Măi đến tháng giêng năm 2008 th́ tôi nguyện ăn chay trường cho đến bây giờ .
( c̣n tiếp )
florida80
12-24-2019, 22:19
TÔI NGUYỆN ĂN CHAY TRƯỜNG ( tiếp theo )
Tâm trạng của tôi biến đổi không dừng . Tôi phải can đảm quyết không dúng đũa vào những món thịt cá thơm ngon của vợ tôi bên cạnh mâm chay . Tôi cũng không đ̣i hỏi phải ngồi riêng và dùng chén đủa riêng như Mẹ tôi quan niệm ngày xưa . Phải chăng khi tiếp cận với tội ác , đam mê , danh vọng .....chính là sự thử thách nghị lực của con người .Những lần đi nhà hàng ăn cuối tuần , vợ con tôi khi nào cũng gọi những đĩa bít tết ngọt ngào , thơm phức . Nhưng tôi vẫn order một đĩa xào toàn rau cải , uống nước lă . Cũng như những lần giỗ , tiệc do bạn bè mời , tiếp đải . Tôi không cho nhà tôi báo cho họ là tôi ăn chay . Tôi vẫn b́nh thản tham dự chung như không có ǵ xảy ra . Nhưng tuyệt đối tôi chỉ ăn rau cải dù nằm chung với thịt trong đĩa . Tôi không muốn sự ăn chay của ḿnh là một cá biệt và làm phiền mọi người . Tu là ở TÂM không phải h́nh thức bề ngoài .
Thú thật những lúc ngửi mùi thịt nướng , ḷng tôi cũng khát khao lắm . " Giá mà ta ăn một miếng th́ sướng biết bao " ( tôi thầm nghĩ thế ) . Nhưng ư nghĩ xấu xa đó tôi vội cho qua mau .
Ngày xưa , sau khi Thái Tử Tất Đạt Đa t́m đừơng tu khổ hạnh suốt sáu năm . Ngài thấy thân thể gầy ṃn th́ làm sao tinh thần minh mẫn đựơc . Ngài liền rời bỏ chỗ tu và t́m cách lấy lại sức . Vào lúc đó nhờ uống bát sữa, do một thôn nữ tên là Sujata cúng dường, sau đó, Ngài tắm ở sông Neranjara (Ni Liên Thuyền). Tối đến, Ngài đến ngồi dưới gốc cây Pippala, sau này được đổi tên là cây Bồ đề, để đánh dấu sự kiện thành đạo vĩ đại của Ngài suốt 49 ngày đêm t́m đạo Giác Ngộ , quyết không đứng dậy nếu không thành .
Ngài ngồi thiền định với tâm định tỉnh, trong sáng như gương, Ngài suy tư về lẽ sống chết, về những nguyên nhân nào dẫn tới luân hồi sanh tử và con đường giải thoát, dẫn tới Niết bàn, Ngài nhớ lại, thấy rơ các kiếp sống trước đây của ḿnh, một kiếp, hai kiếp cho tới hàng trăm ngàn kiếp. Ngài nhớ lại, thấy rơ các chu kỳ thành hoại của một thế giới, nhiều thế giới ( ta bà thế giới ). Ngài thấy rơ các chúng sanh, tùy theo nghiệp nặng nhẹ, thiện ác do ḿnh tạo ra, luân hồi như thế nào trong các cơi sống, từ thời vô thủy cho tới ngày nay. Ngài thấy rơ, biết rơ tự bản thân Ngài đă đoạn trừ hết mọi tham ái, lậu hoặc, vô minh, đă được giải thoát và giác ngộ, để thành tựu đạo Vô thượng. Ngài đă thành Phật.
Đến ngày thứ 49 Ngài Giác ngộ , ánh sáng hào quang rực rở , chim muông ca hát líu lo như mừng rở đón chào một vị cứu tinh của nhân lọai . Trái lại lũ Ma Vương Qũy sứ , Dạ Xoa , Yêu nữ , Tinh Tinh ....... đến quanh Ngài nhảy múa vừa mời gọi , lôi cuốn sự ham muốn về dục vọng , sự thèm khát vật chất cũng vừa hâm dọa ...... Ngài vẫn tŕ chí quyết tâm đạt đến đạo .
Ngày trước đọc Kinh thấy quá tŕnh chông gai của Như Lai khó khăn như vậy . Khi thành chánh quả th́ bị loài ma quỹ đến hâm dọa , quyến rũ . Tôi hiểu như thế và tin thế như Kinh sử ghi chép lại . Đối với tôi sau những ngày phát nguyện từ bỏ tất cả để chay trường . Những lúc va chạm với thực tế , ḷng tôi vẫn thèm khát , ham muốn , nếu tôi không vững chí th́ dễ bị sa ngă . Tôi đă GIÁC NGỘ và hiểu rằng : Những Ma Vương Qũy sứ , Dạ Xoa , Yêu nữ , Tinh Tinh ....... chính là sự thèm khát , đói khát do không ăn uống 49 ngày tạo nên . Các bạn cứ thử đi , tuyệt thực 40 ngày đă là khó , trong khi tuyệt ăn th́ có uống . Ở đây Ngài hoàn toàn không ăn lẫn uống . Thử hỏi thân thể c̣n đủ sức để ngồi vững không ? Nhưng lúc đó sự thèm ăn , thèm uống chính là những ma vương kia . Ngay các Yêu nữ , Tinh Tinh hiện thân lơa lồ , gợi cảm là h́nh ảnh tượng trưng cho ḷng tham muốn về quyến rũ sự dục vọng . Từ đó tôi hiểu rằng trong Kinh chép như thế mà tôi nghĩ rằng đó là những Ma Vương Qũy sứ , Dạ Xoa , Yêu nữ , Tinh Tinh ....... thật sự .
Phải chăng GIÁC NGỘ là do sự HIỂU BIẾT . Muốn hiểu biết th́ TRÍ TUỆ phải minh mẫn . Muốn minh mẫn th́ phải có một thân thể cường tráng . Ngài đă vượt qua tất cả . Trên cả con người lẫn loài người . Ngài đă thành quả trong một thân thể đ̣i hỏi vật chất nhất . Nhưng Ngài đă chiến thắng và dẫn dắt chúng sanh giải thóat khổ đau sau này .
Những Ma Vương Qũy sứ , Dạ Xoa , Yêu nữ , Tinh Tinh ....... cũng thường đến với tôi khi sự ham muốn và thèm khát đ̣i hỏi suốt thời gian chay trường . Những h́nh ảnh Ma Vương Qũy sứ , Dạ Xoa , Yêu nữ , Tinh Tinh ....... chỉ là biểu hiện , tượng trưng cho trở ngại chứ không THẬT . Nếu những người đọc kinh và không hiểu kinh ( nhất là ngọai đạo hoặc Phật tử đi sai đừơng ) th́ hiểu rằng Ma Vương Qũy sứ , Dạ Xoa , Yêu nữ , Tinh Tinh ....... là h́nh ảnh Ma Quỹ có thật , rồi vái lại , cúng dường một cách sợ sệt . Họ cúi đầu cầu nguyện cho tai qua nạn khỏi . Gặp phải lớp Tăng không chân chính , đi sai đừơng hoặc biết th́ im lặng để thủ lợi , nhằm hù dọa Phật tử . Cũng có nhiều Tăng không hiểu cho đó là Ma thật nên Thầy cứ nhắm mắt truyền dạy như thế để thủ lợi mà hầu hết Phật tử đang tin theo .
Tôi sẽ chia sẻ những mẫu chuyện trong đời tôi tu tập đă GIÁC NGỘ hầu chia sẻ các bạn .
florida80
12-24-2019, 22:20
THẾ NÀO GỌI LÀ SỐNG ? (bài cho con )
Điều mà Ba vẫn thường muốn nói với các con : THẾ NÀO GỌI LÀ SỐNG ? Cuộc sống làm sao mang đầy ư nghĩa vốn có của nó , không phải sống là để ăn , biết cử động và làm các công việc hàng ngày . Dù các con có muốn hay không th́ cuộc sống này vẫn không bằng phẳng như ư muốn. Ngay bây giờ các con hăy tích luỹ cho ḿnh những kinh nghiệm để khi gặp khó khăn nó sẽ là sức mạnh của động lực, những tia sáng soi đường giúp ḿnh vượt qua được bóng tối u minh .
Sống trong vũ trụ đă là vật hữu h́nh tất nhiên phải chịu quy luật sanh tử mà Đức Thế Tôn đă giảng .Đó là định luật tất nhiên của mọi vạn vật, cũng là quy luật bất di bất dịch của cuộc đời áp dụng cho bất cứ ai , dù là Phật Tổ hay God...... V́ vậy các con hăy quan tâm những công việc trước mắt là quan trọng nhất và đừng bận tâm đến những ǵ c̣n xa vời trong tương lai hay công việc đă xảy ra trong quá khứ . Nếu biết lọai bỏ quá khứ và tương lai th́ đó là cách chắc chắn nhất để được b́nh yên và thảnh thơi trong hiện tại của cuộc sống . Quá khứ đă chết đừng để nó sống lại nữa hăy quên nó đi v́ nó không c̣n giúp ǵ cho hiện tại . Phải chăng quá khứ đau buồn chỉ làm cho các con lo nghĩ mà mất đi tinh thần chiến đấu sống c̣n . Tương lai th́ chưa đến , không có ǵ phải bận tâm lo xa , nói như vậy không có nghĩa Ba khuyên các con đừng gắng sức lo cho ngày mai và cũng không có nghĩa là hoàn toàn quên hết quá khứ, mà cách tốt nhất để sửa soạn cho ngày mai và hoàn thiện quá khứ là dồn tất cả công việc vào ngày hôm nay đạt đến thành công .
Ba ví dụ chuyện chiếc tàu Titanic của nhóm người Anh đi t́m tự do đă ch́m ngoài biển khơi Bắc Đại Tây Dương đêm 15-4-1912 làm hơn 1.500 người chết đă không ngừng làm đề tài cho bao tác phẩm văn chương nghệ thuật măi đến sau này . Titanic có nghĩa là vỹ đại. Đặt tên như thế con người muốn nói lên niềm kiêu hănh cho một công tŕnh to lớn vào thời bấy giờ. Nhưng dù có vỹ đại cách mấy các con cũng đừng tưởng nó có thể đạt được siêu nhiên trước tiến bộ khoa học kỹ thuật để rồi thách thức với sức mạnh thiên nhiên.
Từ khi chiếc tàu bị đắm , có tờ báo ở Anh đă đăng kề nhau hai bức ảnh có nội dung như sau:
1-Thứ nhất :
Chiếc tàu chạm vào tảng băng, bên dưới có ḍng chữ: "Sự yếu đuối của con người và sức mạnh của thiên nhiên".
2-Thứ hai :
Một người đàn ông nhường phao cứu hộ của ḿnh cho người đàn bà đang bế con trên tay. Lần này bức ảnh được chú thích bằng ḍng chữ: "Sự yếu đuối của thiên nhiên và sức mạnh của con người".
Sự vỹ đại đích thật của con mgười không hẳn nằm trong khả năng chinh phục hay chế ngự thiên nhiên, mà chính là trong khả năng chế ngự được bản thân vượt thắng sự ích kỷ của con người . Phật giáo đấu tranh trong năm 1963 dưới h́nh thức bất bạo động bằng sự hy sinh tự thiêu của Bồ Tát Thích Quăng Đức và hàng chục vị Tăng , Ni đă nói: "Sức mạnh thật sự mà nhân loại có được chính là t́nh yêu".
Trong cuộc sống , đôi lúc các con cũng cần có sự b́nh yên . Sự b́nh yên không có nghĩa là một nơi không có tiếng ồn ào, không khó khăn, không cực nhọc. B́nh yên có thể xảy ra ngay chính khi đang ở trong phong ba băo táp , thất bại ê chề ....... ta vẫn cảm thấy sự yên tĩnh trong trái tim. Đó chính là ư nghĩa thật của sự b́nh yên. Trong cuộc sống, đôi khi ta đánh mất một thứ ǵ đó ở nơi tối tăm, nhưng lại đi t́m ở một nơi khác sáng hơn, dễ t́m hơn để bù đắp những ǵ đă mất . Các con phải xác định rơ cái mà các con cần t́m, cái ư nghĩa thật sự của nó ,nhờ vậy các con mới dễ dàng thấy được những chân lư bất biến của cuộc sống trong hiện tại .
Các con sống cần có hạnh phúc . Không những hạnh phúc cho gia đ́nh , con cái mà nó bao gồm cả họ hàng thân tộc và những người sống chung quanh các con . Hạnh phúc không tự dưng đến với các con mà chính bản thân cần phải làm ra nó. Hạnh phúc gắn liền với những điều vụn vặt trong đời sống , cả xấu lẫn tốt. Đừng t́m hạnh phúc trong quá khứ hay tương lai, mà hăy t́m ngay trong hiện tại. Cũng không có ǵ sánh được với sự t́m kiếm hạnh phúc, bởi v́ sự t́m kiếm đó chính là hạnh phúc mà các con cẫn phải đạt đến .
Một cây đèn cũ không được thắp sáng sẽ trở nên vô dụng và quên lăng nơi góc nhà , nhưng khi được đem ra lau chùi rồi châm vào một chút dầu t́nh yêu và bao dung th́ nó sẽ đem đến ánh sáng sưởi ấm cho chính ḿnh cùng với tha nhân chung quanh .
Các con cũng nên hiểu rằng : Cái đẹp đâu chỉ thưởng thức bằng cặp mắt thoáng qua, mà nó đ̣i hỏi một tâm hồn đồng cảm. Có nhiều thứ các con sẽ lầm tưởng v́ bề ngoài trông giống hệt nhau . Các con hăy b́nh tĩnh để nhận định từng chất riêng, cái tốt đẹp ở mỗi người và hăy "mở rộng tâm hồn để cảm nhận hết sự kỳ diệu của cuộc sống từ những điều nhỏ nhặt nhất".
Rồi các con sẽ nhận thấy : Hạnh phúc chỉ thật sự được cảm nhận khi ai đó thật sự trải qua đau khổ, những ai đă t́m kiếm và đang cố gắng t́m kiếm.
Bởi v́ chỉ có bản thân các con mới đánh giá đúng tầm quan trọng của những ai đă chạm vào cuộc đời , ai đă gây tổn thương và làm cho các con đau khổ , sau khi vượt qua th́ mới thấy đựơc giá trị của chân hạnh phúc đang có .
Sau cùng , Ba khuyên các con hăy học cách biết "CÁM ƠN " . Từ sự cám ơn bản thân , cha mẹ , anh em , bà con thân thuộc và sau cùng là nhân lọai . Cám ơn những hoài niệm mà ngày hôm qua đă có công lưu giữ. Để ngày hôm nay, cầm trên tay chiếc ch́a khoá, các con bắt đầu lục lọi, t́m kiếm những hồi ức tưởng chừng như đă lăng quên. Những kư ức đó có lẽ các con không hề muốn nhớ nhưng thời gian không cho phép được quên. Các con phải biết hai chữ cám ơn, v́ nhờ chúng mà các con đă dũng cảm đối diện với những ǵ đă và đang mất mát, những đau thương , không hèn nhác trốn chạy. Cũng chính nhờ có ngày hôm qua mà hôm nay các con mới thấy cuộc sống trọn vẹn đầy ư nghĩa hơn
florida80
12-24-2019, 22:21
ÂN OÁN và HẬN THÙ.
Nhân nói đến câu "Tu vạn kiếp, ngộ nhất thời" của người đời th́ ra chuyện tu cũng dễ đấy chứ ? Có lẽ đây cũng là một môn phái ,không biết có nằm trong 84 vạn cách tu của Đức Như Lai không ? V́ họ đưa cách" Tu tâm dưỡng tính th́ không cần phải gơ mơ tụng kinh mỗi ngày hay phải ngồi thiền mới có thế đạt được, mà trước tiên ḿnh phải hiểu được ḿnh đang làm ǵ và xuất phát từ tâm thiện = tâm Phật .. hay ác = tâm ma !" Có phải " bản lai diện mục " hay cách tu " trực chỉ chân tâm " mà tôi đă từng đưa ra . Biết đâu họ cũng là một " Thanh Hải Vô Thượng Sư " thứ hai th́ sao ? Ai cũng có tâm Phật và thành Phật đựơc mà . Chỉ có điều tâm nó to hay nhỏ , tṛn hay méo , ở trong hay ở ngoài thân .......... Hay chỉ là do chuyện Ân Oán, tức là chuyện ân nghĩa th́ đi theo ca tụng và chuyện oán thù th́ t́m dịp " luồn gió trộm măng " . Theo thói thường, con người chóng quên chuyện ân nghĩa, nhưng chuyện oán thù th́ nhớ đời đời, sống để dạ chết mang theo , cứ nấp lén , ŕnh ṃ có dịp là ra tay trả đủa ngay . Cho dù không cầm dao chém , búa bổ ngang lưng cũng viết vài câu chửi xéo , chửi xiên cho thỏa dạ đê tiện . Có người quan niệm: Ân đền oán trả , hay óan thù mười năm báo thù cũng chưa muộn kiểu chuyện kiếm hiệp Trung Hoa hay là kẻ thù không đội trời chung cũng thế .
Tôi cho rằng , một nguyên nhân khác cũng thường đem lại sự bất an trong nội tâm của con người, cùng một nghĩa, hay tương đương, đó là: chuyện thương và ghét. Con người thường đem ḷng thương yêu những người đem lại ích lợi, đem lại an vui hạnh phúc và ghét bỏ những người gây ra thiệt hại, hoặc đem phiền năo khổ đau đến cho ḿnh. Trên cơi đời này, con người thương yêu người khác th́ rất ít, nhưng ghét bỏ th́ rất nhiều , nhất là nữ giới . Nhưng mấy ai biết đựơc rằng : chuyện ân oán và chuyện thương ghét chính là những nguyên nhân, dẫn dắt chúng sanh vào ṿng sanh tử luân hồi, nhận ch́m chúng sanh trong biển khổ đau, không bao giờ dứt, nếu không biết t́m cách thoát ra. Cho nên họ cứ khổ đau và đau khổ v́ t́nh yêu "... Yêu là chia một quả tim
Là trao một nửa, là thêm một lần ...!" , nghe răng mà khổ rứa hỷ ? Tại sao họ không t́m cho ḿnh một lối thóat , họ phải biết để tâm họ về hướng Phật mà tu niệm , nguyện đem ḷng Từ Bi , Hỹ Xă sống với chúng sanh .
V́ t́nh yêu đă nhiều lần gây cho họ khổ đau , những chuyện yêu thương trai gái vụn vặt , những nỗi khổ đau xảy ra hàng ngày , hàng giờ trên thế gian, nhiều ví như cát trên sông Hằng , như biển cả mênh mông, với hàng vạn ngọn sóng cao ngất, liên tiếp đổ ập lên đầu con người và nhận ch́m xuống vũng lầy khổ đau , như muốn nhận ch́m những tâm hồn mê muội và có tâm thù hằng , bỏn xẻn , hơn nữa những lọai người này không có đủ nghị lực vươn lên, để tự giải thoát khỏi sự đau khổ của kiếp luân hồi, để sống một cuộc đời an nhiên tự tại . Điều mà Phật giáo thường nhắc nhở là ḷng Từ Bi , Hỹ Xă mới cứu vớt những người đang khổ đau như vậy .
Đối với cá nhân tôi khi làm ơn cho ai , giúp đở ai từ việc làm hay lời nói là tôi quên ngay chuyện đă làm . Tuy nhiên,chúng ta cũng nên biết , khi đă thọ nhận sự giúp đỡ, sự quan tâm, sự chiếu cố, bất cứ từ đâu đến, bất cứ do ai làm, dù lớn lao hay nhỏ nhặt đến đâu, người biết tu tâm dưỡng tánh, phải biết tri ân và báo ân, tức là biết ơn và đền ơn mặc dù người ra ơn không c̣n nghĩ đến . Chuyện đời cũng xảy ra không hiếm , cùng chung loài người nhưng chuyện ân óan cũng nhiều khi không mấy phân minh " cứu vật trả ơn , cứu nhân nhân trả óan " là chuyện thường t́nh . Trên cơi đời này, chuyện ân nghĩa biến thành oán thù rất dễ dàng, như trở bàn tay. Ngược lại, chuyện oán thù trở thành ân nghĩa thực là khó khăn vô cùng, chỉ có những bậc Thánh hiền, hoặc những người biết tu tâm dưỡng tánh, tức là những người muốn sống an lạc hạnh phúc, mới có thể thực hành được mà thôi.
Cũng có người khi nói ra những lời vô thưởng vô phạt chẳng có dụng tâm, chẳng có tà ư, chẳng ám chỉ ai, hoặc trời cho có tài ăn nói khéo léo , viết văn trôi chảy , lúc online khiến cho những kẻ khác sanh tâm ganh tị, bảo sao chẳng tức, chẳng giận cho được , chém giết th́ không có quyền hành , chỉ c̣n " xút gió bụi tre " cho chúng chém giết lẫn nhau ngầm trả mối hận thù , họ luôn luôn nuôi chí " làm sao giết đựơc người trong mộng , để trả thù riêng dám chọc bà .... " . Con người thường hay, trả thù báo oán, nên t́m mọi cách, trả đủa cho hơn, cho thỏa tâm tham, cho vừa tâm sân, cho hợp tâm si, thử hỏi như vậy: bao giờ oán thù, mới được chấm dứt, cuộc đời mới được, b́nh yên vui vẻ? Tôi viết những lời này là để phân tích cho họ hiểu chứ KHÔNG NHẰM BÁO THÙ hay trả óan ǵ cả , mà đây là một vấn nạn thường t́nh trong xă hội loài người đang sống với nhau mà thôi .
Những lời khó nghe chúng ta cứ bỏ qua như gió thỏang , mây bay đừng lưu trữ lời lẽ khó nghe đó trong kho tàng tâm thức của ḿnh, tức là quên luôn đi, bỏ qua luôn, không nhớ tới nữa, mới thực là khó , ngay cá nhân tôi đă từng quán chiếu như vậy nhiều lần , nhưng cũng vượt qua chậm chạp , tôi nguyện tiêu trừ , triệt bỏ từ từ , v́ ḿnh đang tu mà .....
Tôi cũng biết rằng : "Một sự nhịn chín sự lành" nhưng đôi lúc ḿnh nhịn th́ họ leo lên đầu ngồi cười .
Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:
"Lấy oán báo oán, oán nghiệp chồng chất .
Lấy ơn báo oán, oán nghiệp tiêu trừ ".
Phải cảm hóa người ác bằng giáo huấn Từ Bi trong câu chuyện về kẻ sát nhân Angulimala trong kinh điển Pali đă minh họa một cách hùng hồn cho tâm từ bi vô lượng của Đức Phật đă chuyển hoá được tâm của một tên sát nhân hung bạo như thế nào và cũng cho thấy sức mạnh của ḷng từ bi :
Một buổi sáng, đức Thế Tôn vào thành, đang bưng bát đi khất thực th́ nghe có tiếng chân chạy phía sau. Ngài biết rằng Angulimala đang đuổi theo, nhưng vẫn b́nh thản bước đều. Angulimala lớn tiếng gọi:
-“Ông khất sĩ kia, đứng lại!”
Thế Tôn vẫn tiếp tục đi, không mau hơn, không chậm hơn. Phong độ của Ngài rất an nhiên tự tại.
Thấy vậy, Angulimala lớn tiếng hơn:
-“Đứng lại! ông khất sĩ kia, đứng lại! “
Đức Thế Tôn thản nhiên tiếp tục bước đi, vẻ tự tại vô úy. Angulimala chạy mau hơn chỉ trong khoảnh khắc đă đuổi kịp và la lên:
-“Tôi bảo ông dừng lại, tại sao không dừng?”
Thế Tôn vẫn bước đi, nói với giọng b́nh thản:
- “Này Angulimala! Ta đă dừng lại từ lâu rồi, chính anh mới là người chưa dừng lại.”
Angulimala không thể hiểu được ư nghĩa của những lời này. V́ thế y lại hỏi:
-"Này khất sĩ, tại sao ông nói rằng ông đă dừng lại c̣n tôi vẫn chưa dừng?"
Đức Phật đáp:
- "Ta nói rằng ta đă dừng lại v́ ta đă từ bỏ việc giết hại chúng sanh. Ta đă từ bỏ thói bạo hành, tàn sát mọi loài và ta đă an trú vào ḷng từ đối với muôn loài, ḷng kham nhẫn và trí tuệ do tư duy quán sát. Song ngươi vẫn chưa từ bỏ việc giết hại và đối xử tàn bạo với người khác cũng như chưa an trú vào ḷng từ bi và kham nhẫn đối với mọi loài hữu t́nh. Do đó, người vẫn là người chưa dừng lại".
Thái độ điềm đạm và câu trả lời của Phật đă làm cho Angulimala kinh ngạc và đột nhiên buông dao hối hận. Phật liền làm lễ thế phát cho Angulimala trở thành một tu sĩ ngay tại chỗ. Từ đó về sau, Angulimala (pháp danh mới là Ahimsaka) đă tu tập rất tinh tấn, trở thành một trong những đệ tử lớn của Phật và đạt được giác ngộ .
florida80
12-24-2019, 22:21
Những lúc tâm không đựơc thanh tịnh v́ chuyện đời thường , ḷng sân hận sẽ đưa đến đổ vỡ và khổ đau không những cho ḿnh và những người chung quanh , mà c̣n làm cho cuộc sống không an vui hạnh phúc . Tôi vẫn nguyện rằng : nếu có dịp giúp đỡ được những người đó, trong lúc họ gặp khó khăn hay thất t́nh , đau khổ , chúng ta có nhiều cơ hội hóa giải oán hờn, biến thù thành bạn. Như vậy chắc chắn tốt đẹp, hơn là tiếp tục tranh chấp, thù hận, để rồi nơm nớp lo sợ bị trả thù, phập phồng âu lo, đời sống không lúc nào được b́nh an .
Nếu chúng ta ai cũng sẵn sàng tha thứ lỗi lầm cho người khác, cũng như đă từng nhiều lần trong đời, tha thứ cho chính bản thân ḿnh, th́ cảnh giới Thiên đàng - Niết bàn - Cực lạc chính là ở thế gian này vậy .Tôi lấy lời cầu nguyện trong Kinh Từ Bi thuộc Kinh tạng Pali để kết luận :
"Nguyện cho đừng loài nào sát hại loài nào, đừng ai coi nhẹ tính mạng của ai, đừng ai v́ giận hờn hoặc ác tâm mà mong cho ai bị đau khổ và khốn đốn.”
florida80
12-24-2019, 22:22
NHẬN LỖI LÀ MỘT CAN ĐẢM .
Trước khi viết những điều này , Ba thành thật xin lỗi con ! V́ lâu nay bận công việc vừa đạo vừa đời nên lăng quên những bài học bổ ích cho con .
Tuần trước Ba biết con đă có sự sai lầm về xử thế với chị , mặc dù Mẹ con đă khuyến khích và thúc đẩy con hăy xin lỗi chị , nhưng điều đó con không làm đựơc . Có lẽ tâm con không đựơc ổn do sân si mà ra , hoặc con không đủ can đảm để nhận lỗi của ḿnh . Ba kể cho con nghe một câu chuyện cổ Trung Hoa :
Thời đại Xuân Thu Chiến Quốc, có một chàng trai có tánh cố chấp cỡi xe ngựa, đến phương Bắc, giữa đường gặp một ông bạn già lớn tuổi.
Người bạn hỏi chàng:
— Anh định đi đâu?
Chàng trai đáp:
— Tôi muốn đến nước Sở.
Người bạn nghi ngờ hỏi:
— Nước Sở ở phương Nam, anh đi hướng Bắc, là chạy ngược đường rồi!
Chàng trai biện bác:
— Không sao! Ngựa của tôi rất giỏi.
Người bạn không cách ǵ giải thích, lại hỏi:
— Cho dù là một con ngựa hay, ngày đi ngàn dặm, nhưng lầm phương hướng, lại là không có biện pháp nào đạt được mục đích!
Chàng trai chẳng cho là đúng, nói:
— Bác chẳng cần phí tâm, tôi có đủ lộ phí.
Người bạn nói:
— Tiền đi đường anh có nhiều đi nữa, nhưng phương hướng của đường rốt cuộc không đúng, anh làm sao đến nước Sở được?
Tuy người bạn mấy phen ngăn cản, mà chàng trai này vẫn kiên tŕ giữ ư ḿnh, nói:
— Không hề ǵ! Tôi lại có một xa phu giỏi đánh ngựa.
Tóm lại, mặc t́nh người bạn phân tích giải thích thế nào, chàng trai vẫn y như cũ chấp cứng lí do của ḿnh, " chết chẳng nhận lỗi"! Đây chính là người ngu si, người chấp trước!
Lúc hành động một việc ǵ th́ cũng tự cho ḿnh là đúng , là tuyệt vời như câu chuyện "Thời đại Xuân Thu Chiến Quốc ". Mặc dù có người thấy sai chỉ điểm , nhưng ḿnh vẫn cố chấp v́ tự tin ḿnh là đúng . Nếu cái sai đó có tính cách riêng tư th́ chỉ tổn hại một bản thân . Nếu cái sai của thân tộc th́ đem đến khổ đau cho một gia đ́nh . Ngoài xă hội nếu con cứ cố chấp và nghĩ hành động của con là đúng , trong khi ai cũng góp ư điều đó là sai là nguy hiểm giống như câu chuyện anh chàng muốn đi nước Sở ở trên sẽ đem đến tai hại cho Dân tộc và Tổ Quốc .
Phàm làm một việc ǵ cho tập thể , con phải biết lượng sức ḿnh " Biết ḿnh biết ta trăm trận trăm thắng " ( Binh Pháp Tôn Tử ) . Ngoài ra con phải có ḷng biết tự trọng , tự tin như lời Đức Phật dạy " Hăy thắp đuốc lên mà đi " , nghĩa là không nên quá tin , không nên ỷ lại vào sự giúp đở kẻ khác một cách tuyệt đối hoàn toàn . Điều đó sẽ đưa con và Dân tộc đến con đừơng nô lệ .
Cuộc đời của Ba là luôn luôn nhận lỗi về ḿnh trước . Con nên nhớ rằng : hễ là người có thể tiếp nhận dạy dỗ tốt và mạnh dạn nhận lỗi [SIZE=5][COLOR=green] th́ phần nhiều tiến bộ rất mau. C̣n người việc ǵ cũng cho ḿnh có lư toàn bộ dù đánh chết không nhận lỗi th́ phần nhiều khó phát triễn . Đối với con , Ba thường khuyên nhủ con dù không giỏi về học vấn, cần nên học tập kỹ thuật khác cho sớm, nhưng bọn con lại giữ chặt ư kiến của ḿnh, chẳng chịu nhận là sai, tốn bao nhiêu năm dùi mài học vấn, mới phát hiện lầm đường, sau hối chẳng kịp .
Nhân đây v́ sự an nguy của một đời người, thực ra quan hệ mật thiết thập phần ở chỗ ḿnh có nhận lỗi hay không. Thậm chí từ xưa đến nay, bất kể một quốc gia hay một đoàn thể, người chủ sự cho đến phần tử tạo thành có thể nhận lỗi hay không, thường thường lại là then chốt của sự thành bại được mất . Trong Kinh Phật có bài " Sám hối " là để biết lỗi và tự sữa ḿnh . Nhận lỗi không phải là hành động thấp hèn mà nó thể hiện ḷng can đảm của một người nhút nhát dám vượt qua . Ngày xưa mỗi lần bị đ̣n , lúc nào bà nội cũng bắt Ba nói lời :
" Con xin lỗi Má , lần sau con không tái phạm nữa "
Cứ như vậy trở thành một thói quen trong tiềm thức của Ba . Khi lớn lên và ra đời , Ba biết nhận lỗi của ḿnh dù là nhân viên cấp dưới . Nhận lỗi không phải là ô nhục hay lép vế , mà đó c̣n là thể hiện sự ĐẠI HÙNG , ĐẠI LỰC , ḷng quảng đại của một con người .
Gần đây con thấy báo Người Việt online đă lên tiếng xin lỗi , v́ tờ báo xuân có in h́nh lá cờ vàng trong bồn rữa chân tiệm Nail , thật ra chẳng qua chẳng có ǵ quá đáng khi thể hiện biểu tượng ở h́nh thức của tờ báo . Điều này đă nói rơ: Nhận lỗi cần có dũng khí. Có thể mạnh mẽ nhận lỗi mới không để mất cơ hội phát triển.
Con biết không ? Những lúc online cũng gặp những chuyện vui buồn lẫn lộn . Nhưng điều quan trọng nhất là con phải biết giử tâm b́nh thản , không sân hận , nóng nảy khi có ai đó châm chích , quấy phá ḿnh . Điều mà Ba vẫn nhắc nhở con là dù chuyện ǵ xảy ra , cuối cùng con phải CAN ĐẢM NHẬN LỖI trước , cho dù con không gây ra . Có lần Ba dẫn con vào nhà thờ xem lễ , trong khi đọc cuối bài kinh Thánh có đọan " Lỗi tại tôi mọi đàng " và họ tự đấm th́nh thịch vào ngực họ như ăn năn , sám hối vậy . Sau các bài kinh Thánh họ bắt tay nhau thân t́nh từng cặp .... từng cặp một . Đó là những bài học rất hay mà nhà thờ đă dạy cho con chiên biết tự nhận lỗi .
Cách tháng trước đây Ba có quen chú Ngan trên Websiter . Ba kể lại câu chuyện giữa chú N hỏi Ba , tuy Ba có hư cấu thêm cho có hứng thú vui vẽ chút đỉnh và mạch lạc . Chuyện thế này :
-Ngày trước có một nhà họ Ngan và một nhà họ Hoa đêm nào cũng online gặp nhau trong room Phật giáo . Nhà họ Ngan thường thường vắng khách đến thăm , h́nh như họ sợ ma , quỹ ǵ đó th́ phải ,c̣n nhà họ Hoa lại hoà mục tương kính vui vẽ với mọi người nên nhiều người ghé thăm . Một hôm chú Ngan hỏi ông Hoa :
florida80
12-24-2019, 22:22
V́ sao ông đi đâu cũng gặp Phật , c̣n tôi đi đâu cứ gặp toàn là ma ?
Ông Hoa trả lời:
— Bởi v́ nhà ông đều là người tốt, c̣n nhà tôi đều là người xấu.
Ông Ngan không hiểu, hỏi lại tại sao nói như vậy :
— Lời này là sao tôi không hiểu chi hết ?
Ông Hoa đáp:
— Ví dụ như ở nhà tôi, nếu có bài viết nào làm mất ḷng , nhất định là tôi vội vàng nhận lỗi:
**Tôi thật tệ quá, hôm qua tôi viết bài có những lời đụng chạm đến cá nhân , tôn giáo ....của anh th́ phải ? Người bị chê trách trong bài tôi viết cũng vội vàng nói:
** Không sao! Không sao! Tại tôi có những lời châm chích anh trước , xin lỗi, đă khiến anh trả lời cay đắng như thế !
Nhưng, việc này nếu xảy ra ở nhà ông Ngan th́ người viết sẽ nói:
— Ai đây thật chẳng có đầu óc, viết bài công kích đạo người ta thế này, hại ta bị mất đức tin hết?
Một người khác lập tức căi lại:
— Chính tôi muốn viết như vậy , th́ sao? Tự anh không xem cẩn thận nó có thật trong Kinh mà tôi trích ra đấy , lại muốn đổ cho người khác! Rồi mặt đỏ bừng giáng tay muốn óanh .
Cứ thế anh một lời, tôi một tiếng, mọi người đều chẳng nhận lỗi, đương nhiên là không có ai ghé nhà chơi với chú Ngan .Sự ganh ghét đó là gặp MA , an vui , hạnh phúc như ông Hoa đó là gặp PHẬT .
Bất cứ hoàn cảnh nào , hay bất cứ ở đâu , con phải lấy tâm hoà thuận làm đầu . Nếu khi t́nh thế tranh cải đến mức gay cấn , con là người can đảm th́ lên tiếng xin lỗi và tự nhận là con có lỗi trước , đối phương sẽ dịu giọng và họ cũng cảm thấy có lỗi và xin lỗi lại với con . Đó là TÂM HOÀ HIẾU của Phật Giáo .
[SIZE=5][COLOR=green]
Cá nhân Ba cũng vấp những lỗi lầm v́ sân hận nhất thời . Ba c̣n nhớ năm trước câu chuyện xảy ra lúc Ba đi họp ở Cali , khi vừa ra khỏi hội trường chuẩn bị lái xe về Hotel , kết quả một chiếc xe taxi xông ra đụng vào xe Ba , rơ ràng là tài xế này hoàn ṭan có lỗi , lại c̣n há miệng mắng lớn:
— Ông muốn chết hả?
Ba cũng trả lời:
— Anh mới là muốn chết!
Tài xế nói liền:
— Ông ngon th́ ra đây!
Ba liền nói:
— Ra th́ ra sợ ǵ !
Đương lúc ai cũng tức tối mở cửa xe định bước ra , anh bạn của Ba từ hội trường vừa đến , thấy bộ dạng chúng tôi sắp ẩu đả nhau liền há hốc miệng thất kinh kêu lớn :
- Anh Hoa ! anh H oo aaaa .
Ba lập tức chợt tỉnh , hít thở ra vào và kiểm tra tâm của ḿnh và tự nhủ thầm:
-Vừa rồi mi vừa ở trên bục giảng phải làm sao xử lư quan hệ với người, tại sao hiện tại gặp sự t́nh này lại có bộ dạng khác như thế ?
Rồi lập tức đổi thái độ, Ba cúi đầu nói với người tài xế:
— Xin lỗi! Tôi lầm rồi! Tôi sai rồi!
Người tài xế nghe xong, trước tiên ngạc nhiên há hốc miệng , rồi đổi thái độ khiêm tốn, đưa hai tay ra nắm chặt Ba và nói:
— Tôi chẳng tốt! Tôi mới là người chẳng tốt!
Nếu không nhờ người bạn đánh thức TÂM th́ Ba đă hành động sai lầm . Đức Phật khuyến cáo chúng ta hăy quán thân trên thân, quán thọ trên các cảm thọ, quán tâm trên các hành tướng của tâm, và quán các pháp đều là vô thường (xem kinh Đại niệm xứ thuộc Trường Bộ II).Quán thân là để cho tâm hành được an tịnh. Quán các cảm thọ là để cho tâm hành cũng được an tịnh. Quán tâm là để cho tâm được hân hoan, tâm được định tĩnh, và cuối cùng tâm được giải thoát. Phật giáo rất coi trọng công phu tâm địa, kinh nói:
"V́ trị tất cả là TÂM , nên nói tất cả pháp; nếu không tất cả tâm, đâu cần tất cả pháp?".
Đức Phật nói :"Trong tâm có Phật " nghĩa là Phật tức tâm , tâm tức Phật . Hay nói khác đi tâm Phật là tánh Phật .
Phật tánh không phải là bản tánh thành đạt để thành Phật như một số người hiểu lầm . Tánh Phật là tánh THIỆN , HIỀN H̉A , BAO LA , THƯƠNG NGƯỜI , KHÔNG ÁC ĐỘC , KHÔNG HẠI AI ..... nói chung là Từ Bi , Hỹ xă và Đại Lượng . Cho nên đứa bé mới sanh ra vốn thiện " Nhân chi sơ tánh bổn thiện " và hoàn toàn chưa có tội như các tôn giáo khác hiểu nhầm . V́ nó không thiện làm sao tái sanh làm người , nếu kiếp trước nó mang nghiệp ác , hung dữ , giết người , cướp của ..... th́ nó đă đầu thai thành cọp rằng , chó mèo , heo , khỉ ..... để trả những nợ xấu đó do nghiệp gây ra . Cho nên Phật giáo bảo đảm rằng " Ai sanh ra cũng đă mang sẳn tánh thiện " , trái lại các tôn giáo khác quan niệm " sanh ra là có tội " điều đó Phật giáo không chấp nhận và hoàn toàn bác bỏ .
Phật tánh ai cũng có , nhưng v́ vô minh che lấp nên Phật tánh không có môi trường phát huy và thị hiện cho người mắt trần thấy . Nếu con hiểu " Phật tánh là thành đạt của Phật " chỉ đúng một khía cạnh nào đó thôi . Phật ( Buddha ) tức là người GIÁC NGỘ , bất cứ ai giác ngộ đều cũng gọi là Phật . V́ thế Ngài đă khẳng định cho chúng ta cố gắng tu hành nên nói :
- Ta là Phật đă thành , các con là Phật SẼ thành .
Tư tưởng này đă chứng minh Phật giáo là Công Bằng , B́nh Đẳng không giống như các tôn giáo khác tự tôn là độc Thần và có hằng hà sa số Phật trong các cơi Ta Bà là vậy .
V́ thế chữ TÂM ( tánh ) đối với Phật giáo là quan trọng hàng đầu " Mọi việc điều do tâm tạo " . Nếu nói trong tâm có Phật, nhưng Phật trong tâm con có phát huy tác dụng không? Ngay lúc giặc trộm trong thân làm trái gây thù, con có bắt được nó không ? Ngay lúc nước trong hồ" tâm " bẩn thỉu , nhơ nhớp con có biện pháp làm sạch nó không? Ngay lúc ma quân tham sân si cướp bóc pháp tài trong tâm ḿnh, con có vũ khí "giới - định - huệ " để chiến thắng chúng không? Ngay lúc khỉ vượn trong tâm nhảy nhót lung tung , con có dây nhợ " ngũ căn - ngũ lực " để trói chặt nó không? Nếu con làm đựơc những điều trên tức Phật tánh của con từ từ hiện ra chiếu sáng người khắp mười phương như Phật vậy . Thế th́ luận điệu cho rằng TÁNH PHẬT chỉ thổi phồng và đánh lừa chúng sanh có đúng không . Hoàn toàn sai và có tính cách xét lại của kẻ bị vô minh lôi kéo .
Sở dĩ các thiền sư trong quá khứ đă giảng :"Minh tâm kiến tánh" là rất có đạo lư của nó , v́ có tâm, tâm không sáng như gương bị phủ tro bụi, không thể nh́n rơ thực tướng; có Phật tánh, thấy không được Phật tánh, giống như vàng ṛng chôn trong bùn cát, không cách ǵ làm chói mắt th́ làm sao biết giá trị của Tánh Phật . Muốn thành Phật phải phát huy tuệ giác để giác ngộ mà thành Phật .
Một trí tuệ trong sáng và chân chánh th́ c̣n chi để VỌNG TƯỞNG . V́ đă vọng là KHÔNG THỰC th́ tưởng đến cũng trở thành ảo mà thôi . Một con người Thực tế là người biết lo cho hiện tại điều mà trong Kinh Tăng chi bộ có nhắc đến :
- Quá khứ th́ đă qua , tương lai chưa đến , hiện tại là tuyệt vời .
Sống hôm nay ta lo vun trồng , suy nghĩ để phát triễn cho thành đạt công việc hôm nay , chứ chuyện đă qua nghĩ đến không ích lợi ǵ , chỉ thêm đau buồn , tiếc nuối . C̣n tương lai th́ xa vời , chưa đến th́ để sau mới tính . Vậy muốn bỏ vọng tưởng th́ không nên nghĩ đến , muốn không nghĩ đến th́ đừng để lăng phí th́ giờ ngồi không , mà con cố gắng làm một ǵ đó , hay một lời nói giúp ḿnh , giúp người tiến lên và sống trong an lạc . Có như thế con mới bỏ những ư nghĩ , mộng tướng vu vơ mà người ta muốn nói chữ Hán là VỌNG TƯỞNG đó con ạ !
Chúc con cuối tuần an lạc , hạnh phúc ! ( have good day
florida80
12-24-2019, 22:23
7 NGÀY NHẬP THẤT.
Hàng năm cứ đến mùa hạ là tôi hay nhập thất ( Đóng pḥng tu niệm ) một tuần nhằm để kiểm điểm lại quá tŕnh sống , hành đạo trong thời gian qua. Cũng vậy tuần vừa rồi tôi lại nhập thất 7 ngày.
Tôi bắt đầu bước vào ngày thứ nhất của nhập thất . Trong căn pḥng vuông vắn , yên tịnh , trên bàn thờ chỉ có tượng Đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni đang ngồi kiết già hoan hỹ . Thắp một nén nhan và tôi bắt đầu ngồi trước mặt Ngài định tâm an lạc , với tâm định tĩnh, chánh niệm, tỉnh giác, ly dục, đi vào sơ thiền , nhị thiền, tam thiền và lần lượt nhập lên tứ thiền, sau đó hướng tâm đến tam minh.
Dùng trực giác, tôi thấy rơ nguyên nhân v́ sao con người có sự đau khổ và gây ra sự của khổ đau. Chính sự tập khởi của 12 nhân duyên là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn .Đến 1 giờ khuya , tôi chứng " Túc Mệnh Minh ", thấy rơ vô lượng kiếp quá khứ của ḿnh. Sang 2 giờ sáng , tôi chứng "Thiên Nhăn Minh ", nhưng chỉ thấy lờ mờ các kiếp quá khứ của chúng sanh với các nghiệp nhân và nghiệp quả của cá nhân ḿnh ( có lẽ chưa đạt tột đỉnh để thấy rơ ).
Tôi đă từng làm quan Đại Thần oai hùng tiết liệt , cũng có kiếp làm kẻ hiền giă lang thang phiêu bạt giang hồ , lấy sương gió , trăng mây làm vui thú . Có kiếp tôi là một Thiền sư nổi tiếng về thuyết pháp , độ sanh .... có những kiếp h́nh ảnh lờ mờ tôi không nhận thực là tôi , một bóng dáng ai đó gần như xa lạ, nhưng bản thân quán chiếu biết đích thực là tôi . Có kiếp tôi đă từng là viện chủ chùa Đại An ...
H́nh ảnh chùa Đại An dạo đó thịnh vượng , khách thập phương t́m đến hành đạo , học đạo nhiều hơn gấp bội bây giờ . Phải chăng người làm viện chủ như tôi có ḷng khoan dung độ lượng , lấy đức Từ Bi cảm hoá con người , lấy trí tuệ d́u dắt t́m về chánh pháp mà không bao giờ nặng lời hay đem pháp luật ra dọa . Cũng có nhiều Ma vương , quỹ dữ đến thử tài , khuấy phá , nhưng tất cả đều đựơc tôi hoá giải và đưa họ quay về chánh pháp , đi đúng con đừơng Tứ Vô Lượng Tâm .
Tứ vô lượng tâm là ǵ ? là "bốn trạng thái tâm thức vô lượng", c̣n được gọi là Tứ phạm trú , "bốn cách an trú trong cơi Phạm". Là thuật ngữ chỉ một phép thiền định, trong đó hành giả tạo điều kiện cho bốn tâm thức cao thượng phát sinh. Bốn tâm vô lượng là:
-Từ vô lượng .
-Bi vô lượng .
-Hỉ vô lượng .
-Xả vô lượng .
Bốn tâm này đối trị bốn phiền năo là sân hận, ganh tị, buồn bực và tham muốn. Trong Đại thừa, Bốn tâm vô lượng cũng được gọi là hạnh Ba-la-mật-đa (Lục độ). Đó là tâm thức của Bồ Tát muốn cứu độ chúng sinh. Thực hành Tứ vô lượng, thiền giả sẽ tái sinh tại cơi Thiên . Phật Thích-ca Mâu-ni giảng về phép thiền định này như sau:
“Có bốn vô lượng. Hỡi các tỉ-khâu, một người tràn đầy tâm từ (bi, hỉ, xả) sẽ phóng tâm đó đi một phương, hai phương, ba phương, bốn phương, rồi phía trên, phía dưới, xung quanh ḿnh. Người đó phóng tâm đi khắp thế giới, chiếu rọi khắp nơi với tâm từ (bi, hỉ, xả), tâm thức vô lượng vắng bóng sân hận và phiền năo.”
Ngày thứ hai tôi quán chiếu tiếp th́ thấy thân ḿnh bay bổng lạc vào một ngôi chùa . Tuy cảnh vật có khác nhưng những dấu vết quen thuộc lắm . Vô thường làm đổi thay sự vật và biến hóa vô song . Cảnh cũng lạ , người cũng lạ theo , quán thấy nhiều Phật tử trẽ loay hoay , bận rộn lo hành đạo , duy chỉ có Bác Le H vẫn như ngày xưa , có thay đổi thân xác và tánh t́nh ,nhưng rất ít . Bác không năng nổ họat động như khi ở cùng triều đại với tôi . Phải chăng Bác đă mỏi mệt hay đă nhận ra chân lư cuộc đời ???
Quán chiếu ngày thứ ba , ng̣ai cửa chùa lúc nào cũng có hai ông Hộ Pháp : Ông Ác , ông Thiện . Nh́n tướng Hộ Pháp Ugly hung dữ , vai mang " Thượng Thiên bảo kiếm " không phải vua ban mà do hai tín hữu NC , AT dâng cúng mấy tháng trước . Mặt lúc nào cũng hầm hầm như hù doạ ai đó .... cho nên nh́n không mấy đẹp trai , thế mà vô số người run sợ ,nhất là mấy yêu nữ , bởi vậy mới là Ác Hộ Pháp . Tôi nh́n bên trái là ông" Người hiền ", chắc ông này là ông Thiện Hộ Pháp ( ? ) . Đúng ra ông Thiện phải đứng canh cửa cùng ông Ác , nhưng ông ta lại ngồi , cũng mệt mỏi rồi chăng ? Đằng sau lưng có treo câu biểu ngữ " Quốc có Quốc Pháp , Gia có Gia quy " . À ! Th́ ra ông này nắm quyền luật pháp ở chùa này . Nhưng thật t́nh mà nói , Pháp với Quốc nào đây ? Pháp như VN ta có làm ǵ Đại lăo HT Thích Quăng Độ ,GM Ngô Quang Kiệt và giáo dân đang phạm Quốc Pháp ở VN . VC đem Pháp ra đụng đến Ngài là đệ tử Ngài , Quốc Tế , Quê Mẹ ,GHCG.... la làng ĐÀN ÁP TÔN GIÁO . Vậy th́ Quốc Pháp làm chi đựơc Ngài nào ???? C̣n Gia có Gia Quy . Quy cái ǵ mà nhiều cư sĩ trí thức vào wuậy chơi ,chẳng áp dụng Gia Quy vào lỗi lầm nào để trị , v́ họ viết đúng chủ trương của mỗi pḥng . Ví như năm ngoái đây , tôi quán chiếu thấy cư sĩ GS001 vào chùa Đại Nam phá suốt hai năm . God th́ ông ta cứ in đậm , chữ to " GOD TÀO LAO " , phải chi một lần , mà lần nào ông cũng la ầm như thế . C̣n các Phật tử th́ ông chê người th́ vô minh , người th́ Phật Tử DỐT . Tội cho ông Thiện Ao Lam giữ chùa hồi đó cũng không làm sao đem Cái Gia Gia ra mà trừng phạt đựơc . Tôi lại thị hiện về chùa hoá giải oan khiên . Tôi không nói nặng , cũng không có quyền đem cái Gia Gia ra dọa dẩm ông ta , tôi đóng vai một tín hữu và tranh luận suốt 3 tháng với GS001 , tôi bênh vực và chứng minh "GOD NEVER TÀO LAO ". Ông GS001 bảo God có vợ đâu mà cho con một ( Jesus) chịu hy sinh trên Thánh giá ? Tôi đă phản biện đưa đến sự bí lối của ông ta . Cuối cùng tôi gài cho ông ta chửi Phật tử " Đồ ngu dốt " "cha mẹ mày ", tôi lấy câu đó add vào my signature chạy khắp nơi ( web ) . Thế là Super có cớ banned GS001 . Không biết sau này ĐN có bị Virus tấn công lần nào do ông ta óan hận mà gởi đến biếu chăng ?
Thế đấy ! Đức Phật dạy " Ác lai th́ ác báo " . Lấy ĐỨC mà trị dân , lấy Tâm mà sống với đạo , lấy từ bi , hỹ xă mà sống với chúng sanh . Không nhất thiết lúc nào cũng cứng rắn đem luật ra mà trị , đó là kế hạ sách của những người trí .
Ngày thứ tư tôi quán chiếu trở lại ông "Người Thiện " , sau câu biểu ngữ " Quốc Pháp ... Gia quy " , trên vách tường dưới ánh đèn lờ mờ có ai viết bài thơ của Lục Tổ Huệ Năng khi xưa th́ phải :
Bồ Đề bổn vô thụ ,
Minh cảnh diệt phi đài .
Bổn lai vô nhất vật ,
Hà xứ nhạ trần ai .
florida80
12-24-2019, 22:23
Nhưng quán chiếu nh́n kỷ th́ không phải , mà là bài thơ của ai đề tặng về " Happy birthday " cho ông Thiện , có lẽ để khoe nên ông lưu trên vách đó chăng ?
Chúc huynh thêm tuổi ... thêm tài !
Thêm nhiều sức khỏe, thêm hoài tuệ tinh
Ái đây thành thật chúc huynh
Là Hiền Nhân măi ... rạng danh đạo - đời !
Oh ! Th́ ra bài thơ ca tụng HIỀN NHÂN của Ái nào đó , tôi đóan là ông Người Thiện đang gác cổng chùa chăng ? Bài thơ nâng bi quá trắng trợn , nhưng không sao " C'est la vie " ( đời là thế ) .
Qua những ngày tiếp , tôi quán chiếu thấy khổ đau, nguyên nhân của khổ đau, sự đoạn tận của khổ đau, con đường đưa đến đoạn tận khổ đau, và đă chứng . V́ vậy tôi nguyện sau này không làm cho ai khổ đau nữa , tôi sẽ đọan diệt . Thực ra khi quán chiếu những điều ở trên cũng làm nhiều người khổ đau , nhưng đó là sự thật và tôi chỉ nói đây là lần chót . Tôi nguyện đọan diệt khổ đau nên mới thuật lại những điều ḿnh quán chiếu một lần và chỉ một lần rồi thôi .
Tôi chứng đắc quả vị Chánh đẳng Chánh giác khi ngày thứ 7 cũng vừa chấm dứt , tuy không đạt đựơc VÔ THƯỢNG như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni , nhưng cũng đạt đến Chánh đẳng Chánh giác , cuộc đời c̣n muôn ngàn vô lượng kiếp , tôi sẽ nguyện tiếp tục tu hành ở những kiếp sau để đạt vô thượng .
florida80
12-24-2019, 22:24
ĐỨC MẸ.
Khi nói đến hai chữ "ĐỨC MẸ" th́ ai cũng nghĩ đến là Mẹ Maria sinh ra Chúa Jesus , nhưng Phật Giáo cũng có Đức Mẹ đó là Ngài Bồ Tát Quán Thế Âm .
Đă là Mẹ th́ lúc nào cũng dịu hiền , nhẫn nhục , thương con và cũng KHỔ V̀ CON . Trên phương diện giúp con , cứu con , dạy dỗ con v.v.... th́ hai bà Mẹ này hoàn toàn khác hẳn nhau từ đức tính , đạo hạnh cho đến cách thị hiện biểu lộ qua hành động . Chúng ta thử t́m hiểu và phân tích t́nh thương và cách cứu độ của hai bà Mẹ này :
1-MẸ MARIA:
Đối với đạo Công Giáo, vai tṛ của Đức Trinh Nữ Maria hết sức quan trọng, được phản ánh qua sự kiện là trong mỗi thánh đường Công giáo đều có một bàn thờ hay là nơi chốn riêng dành để tôn kính Đức Mẹ Maria với nhiều tước hiệu như: Mẹ Thiên Chúa, Đức Nữ Trinh, Đức Mẹ Ḥa B́nh, Mẹ Mân Côi, v.v... Hiến Chế công Đồng Vatican II về Giáo Hội ban hành ngày 21-11-1964 được các nghị phụ Công Đồng bỏ phiếu chấp thuận đă thêm các tước hiệu này cho Đức Maria, đó là "Đấng Bầu Cử", "Đấng Trợ Giúp" và "Đức Nữ Trung Gian".
Căn cứ theo Thần học Công Giáo, dù Đức Maria có tinh tuyền thế nào chăng nữa, Ngài cũng vẫn là một thụ tạo , và cũng cần được ơn cứu độ. Đức Maria là người duy nhất trọn vẹn thánh thiện, nhưng Đức Maria không b́nh đẳng với Đấng Kitô Cứu Thế được. Dầu vậy mặc ḷng th́ các thánh Giáo Phụ đề xem vai tṛ của Đức Maria là rất quan trọng trong công tŕnh cứu độ loài người của Đức Kitô .
Tại sao các nhà thờ công giáo lập bàn thờ riêng cho Mẹ Maria ? Theo tôi nghĩ , đó là một nơi dành cho những con chiên muốn cầu nguyện , xin ân đức với Mẹ . Ngay tại mỗi nhà và hàng đêm người tín hữu đọc kinh cầu nguyện Mẹ Maria nhiều nhất . Mỗi lần khổ đau , hay muốn cầu cứu một sự việc hoặc muốn đến gần bên Mẹ như là sự an ủi về tâm linh cần có , cách cầu nguyện được ưa chuộng nhất là dùng Tràng Chuỗi Mân Côi. Đây là h́nh thức tụng kinh lập đi lập lại như một lời chào dâng lên Mẹ, v́ đó cũng chính là lời chào ca tụng của Thiên sứ Gabriel kính chào Đức Trinh Nữ Maria và loan báo tin mừng mời gọi Maria làm Mẹ Thiên Chúa. Cách thức đọc kinh Mân Côi gồm việc đọc một Kinh Lậy Cha, 10 Kinh Kính Mừng và Kinh Sáng Danh.
Do ḷng sùng kính và tin tưởng Mẹ là nguồn an ủi lớn nhất của con người , Mẹ là bao la , biển cả . Những lúc tâm hồn trống rổng , thất bại trên đừơng đời , khổ đau v́ t́nh yêu , v́ gia đ́nh bất hạnh v.v...... chỉ đến với Mẹ và tâm sự v́ ai cũng tin rằng Mẹ là người hiểu nhất và có thể đem lại niềm an ủi trong cuộc đời . Có thể nói rằng không ai hiểu ḿnh , thương ḿnh bằng Mẹ ,dù cho con cái làm những việc sai trái , tàn ác Mẹ vẫn tha thứ và bỏ qua . Đặt ra ngoài chuyện Khoa học ( Science ) và Tâm lư học (Psychology ).... tôi chỉ nhấn mạnh đến tiềm năng về đức tin ( Faith ).
Tâm lư con người khi yêu thương , nhớ nhung về ai , th́ h́nh ảnh đó sẽ ngự trị trong tim ḿnh và hiển hiện ra trong trí năo hay hiện ra trước mắt . Đó là một vấn đề thuộc về Thần học mà ngay Khoa học cũng chưa chứng minh đựơc . Từ những đặc tính đó cho nên h́nh ảnh Mẹ Maria hiện ra trên Thế giới nhiều lần , dù có thật hay không nó cũng mang tính chất Tâm lư . Riêng tại Việt Nam Mẹ cũng hiện ra nhiều nơi như : Đức mẹ hiện ra ở La Vang bắt đầu vào năm 1798 thời vua Cảnh Thịnh của Phong trào Tây Sơn , Tháng 08/2003, tại khu vực đồi Chuối, xă Phú Lâm, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai ,Đức Mẹ khóc tại giáo xứ Bạch Lâm, thuộc địa bàn xă Gia Tân 1, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai từ ngày 7/7/2008 , 04-11-2005 Mẹ khóc tại nhà thờ Đức Bà SaiGon , 25-7-2008 Đức Mẹ vỗ tay ở Sóc Trăng , 13-6-2008 Đức Mẹ làm dấu lạ ở La vang .........
Đức Mẹ khóc .
florida80
12-24-2019, 22:24
Đức Mẹ chảy máu mắt .
Trước khi tôi có vài nhận định ( theo ngu ư của tôi ) , mời các bạn t́m hiểu sơ qua Tiểu sử của Mẹ Maria :
TIỂU SỬ :
Tiểu sử về Maria được biết đến rất ít trong Tân Ước. Maria có họ hàng với Elizabeth (vợ của tư tế Zachariah) thuộc ḍng dơi Aaron (Luke 1:5, 1:36). Theo phỏng đoán th́ Maria sống cùng với cha mẹ tại Nazareth, xứ Galilee khi đă đính hôn với Joseph (Giuse), ḍng dơi nhà David. Một số học giả bảo thủ cho rằng, Joseph là con cháu Vua David (v́ nhiều suy đoán hợp với phong cách ngôn từ và và việc giới thiệu gia phả trong Phúc Âm Matthew). Trong thời gian đă hứa hôn (là thời ḱ đầu theo phong tục Do Thái), Maria được thiên thần Gabriel đến báo tin rằng cô sẽ trở thành mẹ Đấng Messiah theo ư định của Thiên Chúa. Joseph chưa nhận ra việc mang thai của Maria là do quyền năng siêu nhiên của Chúa Thánh Thần nên tỏ ra băn khoăn và muốn bỏ Maria cách kín đáo. Nhưng trong một giấc mơ, Joseph được thiên thần bảo đừng lo nghĩ mà hăy nhận Maria về làm vợ ḿnh để hợp với lề luật.
Khi được thiên thần báo tin về việc người chị họ Elizabeth mang thai lúc tuổi già, Maria vội vă đến thăm Elizabeth (Luke 1:39). Vừa đến nhà, Maria thiết tha gọi Elizabeth th́ được Elizabeth đáp lời bằng câu: "Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?" và họ đă đọc một bài Thánh ca Ngợi khen mà được biết đến nhiều với cái tên Magnificat (Luke 1:46). Ba tháng sau, Maria quay trở về nhà ḿnh. Theo Phúc âm Luke, một sắc lệnh của Hoàng đế La Mă Augustus quy định, Joseph phải cùng hôn thê ḿnh về Bedlem (gần Jerussalem) để đăng kí nhân khẩu. Khi họ đang ở Bedlem, Maria đă sinh ra Giêsu và đặt con trẻ trong chiếc máng cỏ v́ họ không t́m được nhà trọ nghỉ chân. Sau tám ngày, con trẻ được cắt b́ và gọi tên là Giêsu, đúng như những ǵ Joseph được thiên thần chỉ dạy trong giấc mơ. Sau cuộc viếng thăm của ba nhà đạo sĩ Phương Đông, gia đ́nh Nazareth phải lánh sang Ai Cập. Khi Vua Herod "Cả" chết, họ mới quay trở về. Năm 12 tuổi, trên đường từ Jerussalem trở về sau Lễ Vượt Qua, Maria và Joseph bị lạc mất Giêsu và họ t́m thấy Giêsu trong Đền Thờ đang tṛ chuyện cùng với những thầy dạy. Sau khi Giêsu chịu phép rửa bởi John the Baptist và bị ma quỷ cám dỗ trong hoang địa, Maria lại được biết đến trong một tiệc cưới ở Cana, khi đó, Giêsu đă biến nước lă thành rượu và bắt đầu công việc giảng đạo (Jonh 2:1-11). Trong Mark 6:3, Maria c̣n được giới thiệu cùng với những người anh em của Giêsu: "Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông James, Jpseph, Judas và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?". Trong cái chết của Giêsu, Maria đứng cạnh người môn đệ Giêsu yêu quư, cùng với bà Maria vợ ông Clopas và bà Maria Magdalene (John 19:25-26). Maria cũng là người đă ôm xác Giêsu nhưng chi tiết này không được ghi chép trong Kinh Thánh, đó là một mô-típ nghệ thuật phổ biến gọi là "pietà" hoặc "piety" (tạm dịch là "Mẹ đồng trinh ôm xác Chúa").
Kể từ lúc này, Maria không c̣n được nhắc đến trong Kinh Thánh, dù vậy, vẫn được một số nhóm Cơ Đốc giáo nhớ đến, đặc biệt liên tưởng đến h́nh ảnh Người phụ nữ và con măng xà trong Sách Khải Huyền. Việc Maria qua đời cũng không được Kinh Thánh ghi chép. Nhưng Phúc âm James (không được xem là một bộ phận của Tân Ước) c̣n cung cấp những tư liệu về Maria, và được Chính thống giáo Đông phương coi là hợp lư: Maria là con gái của Joachim và Anna. Trước khi có thai Maria, Anna được coi là hiếm muộn. Khi Maria ba tuổi, họ đưa Maria đến sống trong Đền Thờ Jerussalem, điều này trùng hợp với sự kiện Hana đưa Samuel vào Lều Thánh được ghi trong Cựu Ước.
Công giáo La Mă và Chính thống giáo Đông phương tin rằng, trong khoảng 13 đến 15 năm sau khi Chúa Giêsu lên trời th́ Maria qua đời (có thể tại Jerussalem hoặc Ephesus) trong sự chứng kiến của các Tông đồ. Sau đó không lâu, các Tông đồ mở hầm mộ Maria ra th́ bên trong chẳng c̣n ǵ, và họ xác quyết rằng xác Maria đă được mang về Thiên Đàng. (Nhưng măi đến Thế kỷ thứ 6 người ta mới t́m ra ngôi mộ này tại Jerussalem , và Giáo sư Holger người Đức lại t́m ra ngôi mộ có bia đá khắc tên " MARIA CHI MỘ " chôn tại ẤN Độ , v́ ông khám phá ra rằng bà Maria theo Giesu sống ở Ấn Độ sau khi thoát chết )
florida80
12-24-2019, 22:25
Đối với Đức Mẹ Maria nhưng có niềm tin khác nhau , sau đây là bản so sánh :
Một số niềm tin tương đồng và dị biệt về Maria giữa Công giáo và Hồi giáo.
Công giáo :
1-Là mẹ Thiên Chúa: V́ tin rằng Giêsu vừa là Thiên Chúa, vừa là con người, nên mẹ của Người cũng là mẹ của Chúa Mẹ của tiên tri Giêsu: V́ không tin Giêsu là Thiên Chúa làm người, mà chỉ là một nhà tiên tri mà thôi .
2-Trọn đời đồng trinh: Giuse là hôn phu, nhưng Mary vẫn đồng trinh trọn đời Trọn đời đồng trinh: Sau khi sinh hạ tiên tri Giesu sống suốt đời đồng trinh .
3-Người nữ được nhiều ơn phúc nhất v́ cưu mang Giêsu Người nữ được nhiều ơn phúc nhất v́ cưu mang Giêsu .
4-Cao trọng nhất trên thiên đàng Cao trọng nhất trên thiên đàng .
5-Cả hồn và xác đều được lên trời Chết và được chôn như người b́nh thường .
6-Vô nhiễm nguyên tội Không tin vào nguyên tội, v́ thế không có khái niệm Vô nhiễm nguyên tội .
Hồi Giáo :
1-Mẹ của tiên tri Giêsu: V́ không tin Giêsu là Thiên Chúa làm người, mà chỉ là một nhà tiên tri mà thôi .
2-Trọn đời đồng trinh: Sau khi sinh hạ tiên tri Giesu sống suốt đời đồng trinh .
3-Người nữ được nhiều ơn phúc nhất v́ cưu mang Giêsu .
4-Cao trọng nhất trên thiên đàng .
5-Chết và được chôn như người b́nh thường .
6-Không tin vào nguyên tội, v́ thế không có khái niệm Vô nhiểm nguyên tội.
Mẹ Maria khóc
Hồi Giáo tin Mẹ Maria "Chết và được chôn như người b́nh thường ." Nay theo Giáo Sư Hol người Đức khám phá ngôi mộ Mẹ Maria chôn tại Ấn Độ (có bia đá tên Maria chi mộ ) , khi Chúa Jesus và Mẹ trú tại đây .
florida80
12-24-2019, 22:25
Nhận định :
Hôm nay tôi không đặt trọng tâm phân tích và nhận định theo Khoa học , Đức tin trong vấn đề " V́ sao Mẹ Maria hay khóc có khi đến chảy máu mắt " , mà tôi chỉ nhận định về mặt Tâm Lư Học ( Psychology ) . Khoa học đem phân chất nước mắt th́ họ hoàn toàn bác bỏ , đưa đến kết luận là độ ẩm trong ciment rịn ra , hoặc do sương , ve sầu đái v.v.... C̣n Đức tin là ḷng tin của mỗi con người ( dù đúng hay sai ) đối với tôn giáo , nhất là Mẹ Maria , nhưng trên mặt tâm lư th́ khó ai từ chối , bác bỏ đựơc v́ Mẹ cũng là một người phụ nữ như muôn người phụ nữ khác , dầu cho giáo lư đặt ra những biệt lệ hoàn toàn trái với thực tế .
Đức tánh phụ nữ hầu hết là nhạy cảm , đa sầu ( hay khóc ) , nhẹ dạ , ḷng thương với gia đ́nh , con cái bao la , lúc hận thù th́ nhớ dai ,chung thuỷ , dịu hiền và dễ mến v.v.....
Đức bà Maria sống cùng với cha mẹ tại Nazareth, xứ Galilee khi đă đính hôn với Joseph (Giuse), ḍng dơi nhà David. Một số học giả bảo thủ cho rằng, Joseph là con cháu Vua David . Trong thời gian đă hứa hôn (là thời kỳ đầu theo phong tục Do Thái), Maria được thiên thần Gabriel đến báo tin rằng cô sẽ trở thành mẹ Đấng Messiah theo ư định của Thiên Chúa. Ngày xưa Trung Đông thuộc về châu Á , đây là một châu phát xuất những đấng lănh đạo các tôn giáo lớn như Catholic , Bà La Môn , Phật Giáo ........ Bản chất người phụ nữ Châu Á hầu hết là kín đáo , bị ràng buộc đến độ mất hết quyền tự do làm người như đi đứng , làm việc , ra ngoài xă hội lẫn trong gia đ́nh ...... nghĩa là phụ nữ như là một công cụ , đôi lúc gần như nô lệ của đàn ông , hoàn toàn bị ràng buộc do lễ giáo . Họ không đựơc học hành , giao tiếp với đàn ông , kể cả lúc có chồng con cũng phải kín đáo che mặt , hay ra đừơng phải có chồng đi theo ( Hồi giáo ) , hoặc ràng buộc bởi luật " Tam ṭng , tứ đức " ( Trung Hoa , Việt Nam ) . Từ những yếu tố xă hội , tập tục cổ truyền đă in sâu vào người con gái lúc mới ra chào đời .
Ông Joseph chưa nhận ra việc mang thai của Maria là do quyền năng siêu nhiên của Chúa Thánh Thần nên tỏ ra băn khoăn và muốn bỏ Maria cách kín đáo. Nhưng trong một giấc mơ, Joseph được thiên thần bảo đừng lo nghĩ mà hăy nhận Maria về làm vợ ḿnh để hợp với lề luật. Sự thật , bất cứ một người chồng nào khi biết vợ dù chưa cưới hay đă cưới lại mang thai với người khác th́ tỏ ra tức giận , bất măn nhiều khi khủng hỏang tinh thần . Riêng bà Maria bị mang thai dù " Từ đầu thai, Đức Maria không hề có đam mê nhục dục " , nhưng chắc chắn là bà không đồng ư trong cuộc nhập thể ( giao cấu ) của Chúa Thánh Thần chứ không bởi một nam nhân trần tục . Làm sao một người phụ nữ đă hứa hôn lại chịu ăn nằm với một người khác , dù là Thánh Thần chỉ là h́nh thức áp đặt , cưỡng bách . Trên phương diện pháp luật , người cưỡng hiếp ( v́ không đồng thuận ) cho dù đó là một vị Thần lại càng nặng tội hơn . Nhưng với đức tin bà Maria và Joseph phải chấp nhận lấy nhau . Về mặt Tâm lư , bà Maria vẫn mang một ấn tượng , mặc cảm tội lỗi suốt cuộc đời ( dù không ai bắt buộc ) . Những tâm tư thầm kín của phụ nữ ít ai mà hiểu thấu , nếu không nhờ đức tin về Thần linh th́ bất cứ người phụ nữ nào cũng muốn t́m cái chết , không muốn sống trong tội lỗi . Nếu không có đức tin th́ đứa bé " không muốn mà có " đôi lúc người Mẹ không thích cho nó chào đời , nó sẽ là h́nh ảnh đau khổ , tội lỗi , mặc cảm v́ xấu hổ , tủi nhục , dù không ai nói , nhưng trí năo vẫn không dễ dàng xóa mờ đựơc , đó là thuộc về TÂM LƯ HỌC tự nhiên . Chữ trinh đối với người con gái đáng giá NGÀN VÀNG , cho dù Giáo hội nói Mẹ vẫn c̣n nguyên trinh , điều mà khoa học phủ bác hoàn toàn , hơn nữa Mẹ 7 lần sanh và trong quá tŕnh giao cấu với chồng th́ không có màng trinh nào c̣n nguyên vẹn được. Đồng trinh chẳng qua là nói ĺ rồi , chỉ giải thích cho con chiên không dám cải lại.
Từ những phân tích và lư luận trên dù bất cứ một phụ nữ nào ở vào hoàn cảnh này cũng sống về đau khổ nội tâm . Để giải quyết nổi sầu phụ nữ thường khóc để giải quyết nổi buồn , lo trong ḷng . Nước mắt là gịng suối rửa sạch ưu tư , làm vơi bớt sầu đau thầm kín . Khóc là một giải bày tâm sự cho chính ḿnh . V́ vậy h́nh ảnh Mẹ Maria hay xuất hiện dưới h́nh thức KHÓC đôi lúc đến độ CHẢY MÁU mắt lúc hiện ra , hay đứng một ḿnh hay đứng một ḿnh ở các thánh đừơng . Trước một sự kiện về Mẹ Maria xảy ra th́ hầu hết mọi người ( nhất là con chiên ) đưa ra những lư do :
-Mẹ v́ thương các con bị tù , giết chóc .
-V́ con bị lưu đày tha phương .
-V́ chiến tranh hay sống như nộ lệ v.v...
Nghĩa là tuỳ từng hoàn cảnh và điều kiện để họ giải thích , dù trong tâm theo ư nghĩ riêng mà xét đóan hay đưa lên báo chí ..... Hành động Mẹ khóc là để AN ỦI chứ không phải là CỨU GÍUP , nhưng thực tế chúng ta nào thấy Mẹ có ra tay làm cho kẻ thù bị chết hay làm cho kẻ thù ngừng tay đàn áp đâu ? Theo ư tôi th́ những suy luận đó , chung chung là để giải đáp hiện tượng , nhưng tôi rất hiểu tâm lư của Đức bà Maria là :
KHÓC V̀ NỔI BUỒN , OÁN HẬN CỦA NGƯỜI CON GÁI kéo dài trong cuộc đời khi bị cưỡng dâm ( to rape ) , dù đó là một vị Thần chỉ dùng h́nh thức nhập thể qua h́nh bóng chứ không bằng t́nh dục thể xác .Nếu không mang tiếng HIẾP DÂM tại sao God không báo mộng trước vài giờ cho bà Maria chuẩn bị tư tưởng là được THỤ NHẬN thay v́ đó là cưỡng hiếp.God không thể lầy quyền tối cao để " TIỀN DÂM HẬU THÚ " , điều này là vô lư.
Khi các con chiên tin rằng Mẹ hiện thân hay khóc là cứu giúp họ th́ đó là ĐỨC TIN . Tôi hoàn toàn tôn trọng niềm tin tôn giáo đó . Đức bà Maria đă cứu giúp bằng im lặng và buồn thương ( khóc ) như là một sự giúp đở đàn con họan nạn , đau khổ như là một sự an ủi , vỗ về mà thôi . Nhưng thực chất Mẹ khóc v́ bị ô nhục ngàn đời do mặc cảm bị hiếp dâm.
florida80
12-26-2019, 20:05
Chứng minh của Khoa học về nhân quả luân hồi
Tập 1
Kính thưa chư vị Pháp sư, chư vị Đại đức, chư vị đồng tu, xin chào mọi người!
Hậu học rất vinh dự lần đầu tiên được đến với quư đảo Đài Loan, có được pháp duyên thù thắng như thế này, có thể cùng với chư vị Đại đức ở nơi đây thảo luận: “Chứng minh của khoa học về nhân quả luân hồi”. Trong thời đại hiện nay, buổi thảo luận này rất là quan trọng.
Hậu học trước khi đến Đài Loan đă đi đến Hồng Kông để chúc tết Ân sư Tịnh Không thượng nhân. Ân sư Ngài đă ân cần dặn ḍ tôi: “Giáo dục nhân quả là giáo dục quan trọng nhất để cứu văn thế đạo nhân tâm”. V́ vậy Ân sư Ngài cũng khuyến khích hậu học đi các nơi trên thế giới để thúc đẩy tuyên giảng nhân quả luân hồi. Cho nên hậu học cảm thấy rằng sứ mệnh giáo dục nhân quả vô cùng quan trọng, v́ vậy không suy nghĩ, đă đi đến quư đảo để chia sẻ chủ đề này với mọi người, cũng là để thỉnh giáo với mọi người.
Chuyến vân du diễn giảng ngày hôm nay tại quư đảo là điểm cuối cùng, điểm thứ 11. Trong hai tuần này, hậu học tôi đi đến Đài Nam, Cao Hùng, Cương Sơn, Đấu Lục, kể cả các nơi ở Đài Bắc v.v… để diễn giảng, cũng đă đến nhà tù, đến nơi tạm giam, đến hội trường của sở cảnh sát, cùng mọi người thảo luận với nhau.
Đối với nhân quả luân hồi và chân tướng của vũ trụ nhân sanh, kỳ thật từ xưa đến nay người ta mãi vẫn đang tìm tòi, bởi v́ con người có sanh ắt sẽ có tử. Về việc sanh tử, mọi người nên suy nghĩ, sanh tử đến như thế nào, sanh từ nơi nào đến, chết đi về đâu? Thậm chí nên suy nghĩ rằng có thể chấm dứt được chuyện sanh tử không? Không sanh không tử? Những vấn đề này có thể nói trong lịch sử đă nghiên cứu mấy ngàn năm rồi; ở trong những tín ngưỡng, văn hóa, tôn giáo trong và ngoài nước cũng có những đáp án rất phong phú.
Chẳng hạn như Khổng Tử - Thánh nhân của dân tộc chúng ta - trong chú giải “Kinh Dịch” có cho chúng ta biết về “Tinh khí vi vật du hồn vi biến”. Du hồn là nói đến trạng thái con người trước khi đầu thai và sanh ra, tinh khí là chỉ trạng thái cha mẹ sinh ra sau khi đầu thai. Tuy nhiên, Khổng Tử Ngài cũng có nói “Vị tri sanh yên tri tử”. Cho nên với đạo lư của sự sống Ngài giảng rất nhiều, nhưng đạo lư về cái chết th́ nói rất ít, nhưng Ngài cũng nói sơ qua cho chúng ta: “Sự thật con người sau khi chết vẫn c̣n tồn tại sự sống”.
Cũng gần giống như Ngài Khổng Tử, cùng thời đại đó, có Thánh nhân Plato ở Phương Tây. Trong tác phẩm “Lư Tưởng Quốc” của ông cũng mô tả đến những vấn đề của sự sống và cái chết, đặc biệt có người miêu tả t́nh tiết của con người khi linh hồn ra khỏi thể xác. Phật Tổ của chúng ta - Thích Ca Mâu Ni Phật đối với sanh tử luân hồi, chân tướng trong sáu đường Ngài đă giảng cho chúng ta nghe càng rõ ràng hơn.
Ngoài những vị cổ Thánh tiên Hiền đă giảng dạy cho chúng ta về chân tướng của vũ trụ nhân sanh này, th́ trong lịch sử trong và ngoài nước cũng có rất nhiều ghi chép nổi tiếng đối với chuyện chuyển thế luân hồi. Trong chính sử của đất nước ta cũng có rất nhiều câu chuyện nói đến sự chuyển kiếp luân hồi. Chúng ta tạm thời không bàn chuyện giả sử mà chỉ bàn chính sử, đều được sự công nhận của các vị vua ở trong chính sử, có nhiều bài viết về vấn đề này. Có bài viết nói nhà thơ tiên Lư Bạch đời nhà Đường sau này chuyển kiếp thành Quách Tường Chánh ở vào đời nhà Tống (chuyện này có ghi chép trong “Tống Sử” trang 10 tập 3 quyển 444). Vào thời Nam Bắc Triều vẫn c̣n có Lương Nguyên Đế, tiền kiếp của ông là một vị xuất gia tên là Miễu Mục Tăng (Chuyện này ghi trong “Nam Sử Lương Kư” ở trang 1 tập 3 quyển 8). C̣n có câu chuyện người trời chuyển kiếp, ví dụ như trong “Đường Thư” trang 3 tập 2 quyển 27 có ghi chép câu chuyện của Hoàng đế Đường Đại Tông đời Đường là một vị thần đến đầu thai.
Ngoài ra, c̣n có chuyện con người chuyển kiếp thành động vật. Thí dụ nổi tiếng là Đại tướng Bạch Khởi thời đại Chiến Quốc nhà Tần cùng với nước Triệu đánh nhau. Đại tướng nước Triệu là luận binh trên giấy, không biết cách sử dụng binh. Kết quả là 400.000 binh lính nước Triệu bị bắt làm tù binh đại bại, đương nhiên 400.000 binh lính của nước Triệu trong tay không một tấc sắt đều bị chôn sống. V́ vậy, về sau trong “Đông Châu Liệt Quốc Chí” có ghi lại vào những năm cuối đời Đường, có một hôm trên trời bỗng nổi lên một trận sấm sét và đánh một con trâu chết tươi. Kết quả phát hiện trên bụng của con trâu có viết hai chữ “Bạch Khởi”. Đối với câu chuyện này lịch sử có b́nh luận: “Bạch Khởi do giết người quá nhiều, cho nên ông ta đời đời kiếp kiếp đều phải mang thân súc sanh để chịu quả báo, và c̣n phải chịu nhận quả báo bị sét đánh chết”.
Trong những ghi chép của lịch sử c̣n đăng thêm lời giáo huấn của cổ Thánh tiên Hiền, v́ vậy người xưa đối với chuyện chuyển kiếp luân hồi nhân quả báo ứng kỳ thật chẳng nghi ngờ chút nào. Con người trong thời đại này, do khoa học phát triển, đối với chuyện luân hồi chuyển kiếp bắt đầu không tin tưởng, đây có lẽ là bởi vì cho rằng hễ nói đến luân hồi th́ chỉ trong tôn giáo mới có, cho rằng đây là khái niệm ở trong tôn giáo. Tất cả đều bị bác bỏ cho là mê tín, là phản khoa học. Đại khái v́ khoa học và tôn giáo mấy trăm năm lại đây thật giống như oan gia.
Bạn xem trong thập kỷ 70, khi Tây Âu đang lúc khoa học vừa mới bắt đầu khởi sắc, lúc đó có rất nhiều nhà thiên văn học đă phát hiện trái đất không phải là trung tâm của vũ trụ. Học thuyết này vi phạm quan điểm của tôn giáo lúc đó, cho nên bị tôn giáo đồ lúc đó bác bỏ, cho là dị đoan tà thuyết. Giống như nhà thiên văn học người Ư là Galileo, lúc đó khăng khăng giữ học thuyết “Trái đất thật sự không phải là trung tâm của vũ trụ mà chỉ là một hành tinh nhỏ ở bên trong vũ trụ”. Học thuyết này hiện nay chúng ta đều biết là đúng, nhưng vào thời đó, người khăng khăng cố giữ học thuyết này đều bị tôn giáo đồ hăm hại, Galileo bị bắt bỏ tù chung thân. Còn có Bruno cũng bị bắt thiêu sống. Bạn xem, người xưa dùng tôn giáo để phản bác khoa học, c̣n người hiện nay th́ lại dùng khoa học để phản bác tôn giáo, đây gọi là nhân nào quả đó, nhân quả báo ứng rơ ràng. Nhưng chúng ta nên biết, chân lư là phải chịu muôn vàn thử thách của khoa học và cũng chẳng sợ khoa học kiểm nghiệm.
Trong mấy mươi năm gần đây, ở phương Tây, đặc biệt là Hoa Kỳ, sự phát triển của những ngành khoa học như tinh thần y học, tử vong y học, tâm lư học, sinh lư học thực sự đă cung cấp cho chúng ta rất nhiều chứng cứ khoa học chứng thực con người thật sự có luân hồi chuyển kiếp. Hậu học mấy năm gần đây không ngừng sưu tầm và nghiên cứu những tài liệu nói về vấn đề này. Kết quả tài liệu nói về vấn đề này rất là phong phú. Hậu học hai ngày hôm nay có được nhân duyên như vậy liền đến giới thiệu một cách đơn giản cho mọi người về thành quả của Phương Tây đối với chuyện luân hồi chuyển kiếp.
Trước khi giới thiệu, tôi muốn kể cho mọi người một câu chuyện điển h́nh. Câu chuyện này xảy ra ở Trường Đại học Virginia của Hoa Kỳ. Giáo sư Ian Stevenson, nhà tinh thần tâm lư học nổi tiếng, cả cuộc đời bốn mươi mấy năm đă sưu tập và nghiên cứu hơn 3.000 câu chuyện, những câu chuyện này chứng thực là có sanh tử luân hồi. Đối tượng nghiên cứu của ông chủ yếu là những em thiếu nhi từ hai đến bảy tuổi. Các em thiếu nhi ở trong giai đoạn có thể nói chuyện được. Các em có thể nhớ lại tiền kiếp của chính bản thân ḿnh. T́nh huống được kể ra đều là những chuyện đă xảy ra mấy mươi năm, thậm chí mấy trăm năm trong quá khứ, mà c̣n có thể miêu tả lại những chi tiết này thật tỉ mỉ và chân thật. Mọi việc đều được xác minh.
Một kiệt tác trong giai đoạn đầu của Giáo sư Stevenson có tên “Hai Mươi Chuyện Tái Sanh Điển H́nh”. Trong tác phẩm này, hậu học xin chọn ra một câu chuyện để kể cho mọi người nghe. Câu chuyện này kể về một bé gái người Ấn Độ tên là Swarnlata.
"Swarnlata ra đời vào ngày 2 tháng 3 năm 1948, tại thành phố Phanna của Ấn Độ. Khi cô bé 4 tuổi, cô bé này có thể kể lại chuyện của chính bản thân ḿnh đă gặp trong kiếp trước. Bản thân cô kiếp trước sống ở phố Kai Dili, trong gia đ́nh mang họ Pashake. Gia đ́nh cô hiện sống và gia đ́nh mà kiếp trước cô sống căn bản là hai nhà chẳng có quen biết nhau. Có một hôm, cô bé này cùng với người cha của ḿnh đi ngang qua phố Kai Dili kiếp trước cô đă sống. Kết quả khi vừa thấy thành phố này, cô cảm giác như rất quen thuộc, trước đây đă sống qua nơi này. Cho nên cô liền nói với cha của ḿnh:
“Thưa cha, nhà của con ở gần chỗ này, chúng ta đi đến đó uống trà nhé!”.
Nhưng cha của cô trả lời:
“Con gái ngốc ơi, nhà của ḿnh không phải ở đây!”.
Kể từ lúc đó, cô bé này liền bắt đầu không ngừng miêu tả đủ hết những câu chuyện ở kiếp trước, gây sự chú ư cho cha mẹ."
florida80
12-26-2019, 20:07
Về sau, câu chuyện này được truyền đến chỗ của Giáo sư Stevenson, thế là Giáo sư cùng với những đồng nghiệp người Ấn Độ, các nhà nghiên cứu cùng nhau tiến hành điều tra xác minh câu chuyện này. Những vị Giáo sư này liền căn cứ vào các t́nh huống mà cô bé đă miêu tả, t́m đến gia đ́nh nơi cô bé đă sống ở kiếp trước. Th́ ra, cô bé này kiếp trước ở trong gia đ́nh này là một người mẹ. Cô tên là Shakespeare, qua đời vào năm 1939.
Lúc cô bé này đi đến gia đ́nh mà kiếp trước đă sống, dường như vừa gặp được mỗi người trong gia đ́nh cô cảm thấy quen, tên của mỗi một người đều có thể nói ra liền một mạch. Chân thật giống như người thân cũ trở về nhà, hỏi thăm sức khỏe mọi người lâu rồi mới gặp lại, hỏi thăm mọi người đều khỏe hết chứ?
Các vị giáo sư này liền tiến hành thẩm tra cô bé, cho cô bé làm một số trắc nghiệm. Trong đó có trắc nghiệm cho Shakespeare kiếp trước là một người mẹ, bỏ lại người chồng và đứa con. Gọi đứa con đến trước mặt của cô bé, cố ư làm rối loạn suy nghĩ của cô bé, liền giới thiệu với cô bé rằng người này là như vậy như vậy mà không giới thiệu ông ấy là con của Shakespeare. Kết quả cô bé này cũng nhận ra được đứa con trong tiền kiếp của ḿnh, không hề bị rối loạn tư tưởng, kiên quyết nói rằng đây chính là con của tôi, tên của ông ấy là Maili và c̣n biểu hiện t́nh yêu thương của người mẹ hiền đối với đứa con trong tiền kiếp của ḿnh. Chúng ta biết được, người con của cô ấy trong đời này tuổi tác lớn hơn cô, không ngờ rằng cô bé này biểu hiện ra thật là giống một người mẹ hiền đối đăi với con của ḿnh.
Càng thú vị hơn là cô bé Swarnlata này có thể kể ra câu chuyện riêng tư của ông chồng tiền kiếp của cô. Vốn dĩ người chồng trong tiền kiếp của cô đă lấy đi 1.200 rúp tiền riêng ở trong tủ tiền của cô, vẫn chưa hoàn trả lại cho cô. Câu chuyện vẫn chưa có ai biết được, chỉ có chồng của cô ở trong ḷng biết rất rơ. Kết quả là cô bé đă đem câu chuyện này kể hết ra cho mọi người nghe, khiến cho ông chồng của cô đỏ mặt tía tai mà chấp nhận.
V́ vậy, chúng ta không nên cho rằng đă mượn tiền của người trong nhà không chịu hoàn trả là không có chuyện ǵ nhé! Kết quả chẳng ngờ chủ nợ đến đời sau họ vẫn c̣n nhớ. V́ vậy không được nói mắc nợ không chịu trả, mà nhất định phải trả.
Mọi người có thể chú ư đến cô bé này tự ḿnh nói:
“Bà Shakespeare đă qua đời vào năm 1939”.
Câu chuyện này cũng đúng với sự thật, đă qua sự xác minh của các vị giáo sư. Cuộc đời của bé gái này được sinh ra vào năm 1948, cho nên thời gian cách nhau ở khoảng giữa là chín năm.
Có người sẽ hỏi trong khoảng chín năm đó cô bé đă đi đâu? Cô bé này chính từ miệng ḿnh nói ra, cô bé nói trong chín năm đó cô đă đi đầu thai một lần ở một làng quê nhỏ nước Bengal (là quốc gia gần với Ấn Độ), và cũng là một bé gái. Cô bé này đến chín tuổi th́ qua đời. Làm sao chứng minh đây? Cô bé này rất vui vẻ hát một bài dân ca của nước Bengal, mà c̣n hát đi hát lại một cách say đắm trong tiếng hát của ḿnh, nhảy múa rất uyển chuyển. Mẹ của cô bé cũng như mọi người đều không hiểu tiếng Bengal, cho nên chỉ nh́n xem cô bé vừa hát vừa nhảy, cũng không biết cô đang hát cái ǵ, đang nhảy điệu ǵ, chỉ nh́n thấy cô bé trong bộ dạng rất là thỏa măn.
Về sau, Giáo sư Stevenson cùng với các đồng nghiệp người Ấn Độ của ông trong lúc đi điều tra, trong đó có một vị học giả người Ấn Độ biết được tiếng Bengal, cho nên trong lúc bé gái đang hát liền vội vàng ghi lại lời của bài hát. Những ca từ này là miêu tả người nông dân đang trong mùa bội thu. Tâm trạng vui mừng đó là khen ngợi thiên nhiên. Những ca từ này được phiên dịch sang tiếng Anh, cũng được in trong luận văn của Giáo sư Stevenson. Về sau, các vị giáo sư này liền đem những ca từ này, thật ra là muốn đi t́m cô bé đă nói ở kiếp trước thuộc làng quê của nước Bengal. Kết quả thật sự t́m được. Vừa xác minh, quả nhiên người ở trong làng này họ thật sự rất thích hát bài dân ca này và cũng có thể vừa hát vừa nhảy rất uyển chuyển theo bài hát. Cho nên, thí dụ này bày ra sờ sờ trước mắt của chúng ta, chứng minh “Con người sau khi chết không phải không c̣n ǵ, mà đích thực là có luân hồi chuyển kiếp”.
Con người hiện đại chúng ta chẳng tin có chuyện luân hồi như vậy, cho nên làm ra dáng vẻ luân hồi là mê tín không phù hợp với tinh thần khoa học. Vậy chúng ta xem thử cái ǵ được gọi là tinh thần khoa học? Tinh thần khoa học có thể nói có hai điểm: một cái gọi là “Thực chứng cầu chân” và một cái gọi là “Khả trùng phục tánh”. “Thực chứng cầu chân” là chỉ sự thật cầu thị, như vậy mà thừa nhận; “khả trùng phục tánh” là bạn làm cái thực nghiệm này lặp đi lặp lại nhiều lần. Trương Tam làm cũng như vậy, Lư Tứ làm cũng như vậy, Vương Ma Tử làm th́ cũng như vậy. Kết luận đều là như nhau, th́ điều này mới được gọi là khoa học thực nghiệm.
Giáo sư Stevenson căn cứ vào tinh thần khoa học, dùng hơn 3.000 trường hợp điển h́nh, lặp đi lặp lại v́ chúng ta mà chứng minh luân hồi là thật sự có. Với ông, mỗi trường hợp đều được tiến hành điều tra nghiên cứu tỉ mỉ, một chút cẩu thả cũng không có, cho nên cũng nhận được rất nhiều lời khen ngợi cao độ của giới khoa học, giới học thuật Hoa Kỳ.
Tạp chí y học của Hoa Kỳ có tên “Nghiên Cứu Về Bệnh Của Năo Và Thần Kinh” đối với Giáo sư Stevenson có b́nh luận và đánh giá cao. Tạp chí nói rằng:
“Nếu như Giáo sư Stevenson không phải đang gây ra một điều sai lầm to lớn, th́ chắc chắn ông phải là Galileo của thế kỷ 20”.
Người Hoa Kỳ nói chuyện đều thích nói ngược, họ nói:
“Nếu như bạn không phải đang làm ra một điều sai lầm”.
Đương nhiên ông không làm điều sai lầm, làm sao mà nói một người làm sai mà làm hơn 40 năm, nghiên cứu hơn 3.000 trường hợp, v́ vậy mới khen ngợi ông, nói ông là Galileo của thế kỷ thứ 20.
florida80
12-26-2019, 20:08
Chúng ta vừa nhắc đến Galileo, nhà thiên văn học của thế kỷ 17 người Ư. Lúc đó, ông đề xuất học thuyết trái đất không phải là trung tâm của vũ trụ. Đối với tôn giáo thời đó, kiểu quan niệm truyền thống này là một thách thức và chấn động vô cùng to lớn. Chúng ta biết rằng, hiện nay thế kỷ 20, Giáo sư Stevenson đă chứng minh nghiên cứu khoa học về luân hồi, điều này cũng đúng với quan niệm khoa học truyền thống, là một thách thức và chấn động vô cùng to lớn. Chúng ta tin tưởng, cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học, sự thật của việc luân hồi càng ngày càng được nhiều người trong xă hội chấp nhận.
Ở phương Tây, đối với việc nghiên cứu khoa học về luân hồi chuyển kiếp có thể nói là kết quả vô cùng phong phú. Hậu học có thể nói trong khoảng thời gian bốn giờ ngắn ngủi này phải kể ra những câu chuyện này là chuyện không phải dễ dàng. Hậu học tôi cơ bản đem kết quả nghiên cứu khoa học của phương Tây chia thành năm lĩnh vực nghiên cứu. Chia ra cũng không chuẩn xác lắm, nhưng có thể dễ dàng cho việc chia sẻ.
NĂM LĨNH VỰC MÀ PHƯƠNG TÂY CHỨNG MINH VIỆC NGHIÊN CỨU LUÂN HỒI:
Thứ nhất, nghiên cứu linh hồn tồn tại.
Thứ hai, nghiên cứu điều tra trường hợp những người có thể nhớ được kiếp trước của ḿnh.
Thứ ba, dùng phương pháp thôi miên. Đây là chỉ một số bác sĩ tâm lư đến giúp trị bệnh những bệnh nhân tâm thần, họ dùng phương pháp thôi miên giúp nghiên cứu một số bệnh nhân tâm thần nhớ về kiếp trước.
Thứ tư, nghiên cứu đối với đời sống trong không gian không đồng duy thứ. Đời sống trong không gian duy thứ khác nhau này nói một cách đơn giản chính là quỷ, là thần (người phương Tây gọi là Thiên sứ). Loại đời sống tâm linh này nhục nhăn nh́n không thấy được.
Thứ năm, nghiên cứu đối với đặc dị công năng. V́ rất nhiều người có đặc dị công năng có thể quan sát được kiếp trước, báo trước được cái gọi là quá khứ vị lai. Những người này đối với việc nghiên cứu luân hồi chuyển kiếp cũng có rất nhiều cống hiến.
Sau khi chúng tôi chia sẻ xong năm lĩnh vực nghiên cứu này, chúng ta cần tiến thêm một bước đi sâu vào tư duy, chứng thực sự tồn tại của luân hồi là thật. Vậy chúng ta hăy nghĩ xem, luân hồi diễn ra như thế nào? Nên tiến thêm một bước mà suy xét.
Trong sự luân hồi của chúng ta, sự thật là rất nhiều đau khổ, có thể vượt qua sanh tử luân hồi mà vĩnh viễn thoát khỏi sự đau khổ hay không? Hai ngày này, tôi đến đây là để cùng chung thảo luận những vấn đề này.
THỨ NHẤT, NGHIÊN CỨU CỦA NGƯỜI PHƯƠNG TÂY ĐỐI VỚI SỰ TỒN TẠI CỦA LINH HỒN.
Vấn đề thảo luận thứ nhất là sự nghiên cứu của người phương tây đối với sự tồn tại của linh hồn. Chúng ta biết, muốn chứng thực có sự luân hồi đương nhiên điều kiện đầu tiên chính là chứng minh con người có sự tồn tại linh hồn. Bạn nghĩ xem, nếu con người không có linh hồn thì thử hỏi cái ǵ đang luân hồi? Cho nên trước tiên chúng ta xem thử, giới khoa học Phương Tây làm sao mà chứng minh được sự tồn tại của linh hồn?
Nghiên cứu của Phương Tây chứng minh sự tồn tại của linh hồn - một trào lưu chủ yếu, cái gọi là “Nghiên cứu thể nghiệm cận cái chết”. Trên thực tế chỉ những người gần với tử vong, chính là những bệnh nhân sắp chết, họ có thể nằm trên bàn phẫu thuật, bác sĩ đang giải phẫu để cứu họ. Những người này họ hôn mê rồi qua đời, linh hồn của họ vào lúc này sẽ rời thể xác, hoặc là ở nơi xa nh́n thấy cái xác của ḿnh vẫn c̣n nằm trên bàn phẫu thuật. Tiếp theo đó, họ sẽ thấy rất nhiều cảnh tượng không như nhau. Sau đó linh hồn lại quay trở lại trong cái thân của ḿnh, bác sĩ trong lúc này đợi để cứu họ tỉnh lại. Sau khi họ tỉnh lại, họ liền kể lại cho bác sĩ điều mà họ đă thấy đă nghe sau khi linh hồn vừa ra khỏi thể xác. Loại thể nghiệm này gọi là thể nghiệm cận cái chết.
Thật ra, thể nghiệm cận cái chết là một hiện tượng khá phổ biến. Căn cứ vào thống kê của một công ty nổi tiếng ở Hoa Kỳ, ví dụ thống kê của Công ty Gallo, ước chừng có khoảng 13 triệu người thành niên ở Hoa Kỳ có trải qua thể nghiệm cận với cái chết, nếu tính thêm trẻ em th́ số lượng tăng rất đáng kể. Ở Trường Đại học Connecticut của Hoa Kỳ, có một vị nghiên cứu là Tiến sĩ Kenneth Ring. Nhóm nhỏ nghiên cứu của ông tiến hành nghiên cứu đối với mấy trăm trường hợp thể nghiệm cận cái chết. Họ kết luận rằng: khoảng 35% người bệnh có thể nghiệm cận cái chết.
Về phương diện này người ta nghiên cứu rất nhiều. Một số vị khá nổi tiếng xin được nêu tên trước mọi người là giáo sư khoa nhi của Đại học Washington Hoa Kỳ - Tiến sĩ Melvin Morse, giáo sư Đại học Nevada của Hoa Kỳ - Giáo sư Raymond Moody, chuyên gia nổi tiếng về vấn đề tử vong - Bác sĩ tâm lư Elisabeth Kübler-Ross. Vị Tiến sĩ Ross cả cuộc đời của ông sưu tầm hơn 20.000 trường hợp thể nghiệm cận cái chết, bao gồm tự bản thân của ông đă có hai lần thể nghiệm cận cái chết. Cho nên ông xứng đáng là chuyên gia nổi tiếng nghiên cứu về thể nghiệm cận cái chết.
Ngoài những vị này ra c̣n có giáo sư ở Đại học California của Hoa Kỳ - Giáo sư Charles Tart. Trong luận văn cũng có liên quan với thể nghiệm cận với cái chết, cũng không ngừng đăng tải trên tạp chí y học nổi tiếng của quốc tế. Ví dụ như tạp chí “The Lancet” có đăng “Nghiên cứu thể nghiệm cận cái chết” v.v… Vào năm 1978, một số học giả có thế lực ủng hộ công lý đă thành lập nên “Hiệp Hội Nghiên Cứu Thể Nghiệm Chết Lâm Sàng Quốc Tế”. Hiệp hội này là chuyên biệt để nghiên cứu phương diện thể nghiệm cận cái chết. Có thể nói sự nghiên cứu trên lĩnh vực này phát triển rất mạnh mẽ.
florida80
12-26-2019, 20:09
Tiếp theo, tôi xin giới thiệu ngắn gọn về thành quả nghiên cứu của họ.
Có một chuyên gia của Hội Nghiên cứu Tâm linh Hoa Kỳ tên là Karlis Osis. Từ năm 1959, ông bắt đầu tham gia nghiên cứu thể nghiệm cận cái chết, đă sưu tập mấy trăm trường hợp về lĩnh vực này. Sau này, vào năm 1972 đă phát biểu một báo cáo về nghiên cứu khoa học, chủ đề này có tên gọi “Thời Khắc Tử Vong”. Trong bản báo cáo này ông tổng kết thể nghiệm cận cái chết. Ông nói:
“Đa số bệnh nhân lúc lâm mạng chung thời đều rơi vào trong trạng thái mơ hồ. Nhưng cũng có số ít người đến giây phút cuối cùng vẫn giữ được đầu óc minh mẫn, những người này sẽ thấy được kiếp sau”.
Họ nói họ nh́n thấy được đủ các loại cảnh tượng, có người c̣n nh́n thấy thân bằng quyến thuộc đă qua đời, có người c̣n nh́n thấy được nhiều sắc màu rất đẹp đẽ, nhiều cảnh giới rất siêu phàm, có người c̣n nh́n thấy các vị Thần linh v.v… Thể nghiệm của họ có sức ảnh hưởng rất nhiều, mang cho họ cảm t́nh của tôn giáo là sự hiền ḥa yên tĩnh và an nhàn. Đây là một tổng kết của ông.
Từ năm 1972 đến năm 1974, có một nhà nghiên cứu là Tiến sĩ Raymond A Moody cũng thông qua 150 trường hợp thể nghiệm cận cái chết để công bố một nghiên cứu tên là “Sự Sống Đằng Sau Sự Sống” (Life After Life), vào năm 1975. Ông cũng sử dụng những nghiên cứu này để chứng minh sự phát hiện của Osis, miêu tả cho chúng ta giống như vậy, các yếu tố chung của thể nghiệm cận cái chết. Ông nói thí dụ một người nằm đang trên giường bệnh, lúc này họ cảm thấy cơ thể đau đớn đến tột cùng, họ liền nghe bác sĩ tuyên bố đă chết rồi. Trong lúc này họ sẽ nghe được âm thanh của tiếng chuông, hoặc tiếng ồn của âm thanh vù vù, sau đó họ sẽ thấy một đường hầm màu đen để qua phía bên kia, từ đường hầm đi ra họ thấy được chính họ đă rời khỏi thi thể của ḿnh. Đây là một h́nh thức tồn tại của cơ thể tâm linh. Ngay sau đó có người sẽ thấy được người thân đă chết của ḿnh, có người nh́n thấy được vầng ánh sáng hoặc là các vị Thần linh. Họ nói sự sống của vị Thần linh này là một luồng ánh sáng. Ví dụ như những người đạo Thiên Chúa, họ sẽ gặp được Chúa Giê Su, đều là những nhân vật trong tôn giáo này. Các vị Thần linh này rất thân mật, rất nhiệt t́nh đến đón tiếp họ, sau đó th́ giống như là chiếu phim, liền chiếu lại các sự kiện chủ yếu cả cuộc đời của họ. Sau đó để cho họ tự đánh giá cuộc đời của bản thân ḿnh, căn cứ vào cuộc đời của bản thân ḿnh đă tạo nghiệp thiện hay là ác để chọn cuộc sống cho đời sau. Điều này cùng với điều ông bà ta đă nói có điểm như nhau.
Ông bà thường nhắc nhở chúng ta trên đầu ba thước có Thần linh, cho nên các vị Thần linh họ có thể giám sát chúng ta suốt cả cuộc đời. Không nên cho rằng chúng ta đang ở trong pḥng thật là kín, nơi mà không ai thấy được để làm việc xấu, h́nh như là chẳng ai nh́n thấy, nhưng các vị Thần linh này kỳ thực là đang giám sát chúng ta, đợi đến lúc chúng ta lâm chung có thể giống như chiếu một bộ phim, phản chiếu lại các sự kiện chủ yếu của cuộc đời chúng ta.
Những người này họ thường đi đến một biên giới ở phía trước, là đại diện cho ranh giới của cuộc sống này và cuộc sống của kiếp sau. Nếu đi qua rồi th́ là cuộc sống của kiếp sau. Những người này họ không có đi qua, nhưng họ lại không muốn quay trở lại, v́ quay lại họ cảm thấy thế gian đầy đau khổ, vừa quay trở lại th́ phát hiện thấy ḿnh đang nằm trên bàn mổ, trên thân cắm đầy mấy cái ống. V́ vậy lúc này họ chẳng muốn quay trở lại, nhưng lại bị một lực vô h́nh kéo trở lại, kết quả là họ hồi tỉnh trở lại. Sau khi họ tỉnh trở lại liền kể cho bác sĩ những điều họ vừa thấy, vừa nghe được, đây chính là thể nghiệm phổ biến về cận cái chết.
Chúng ta vừa nói đây chỉ là một số ít người họ có thể duy tŕ sự tỉnh táo, v́ vậy họ có thể nh́n thấy được nhiều cảnh giới khá là tốt đẹp. Những người bị hôn mê đương nhiên thể nghiệm cận cái chết chúng ta không có cách nào để biết được, bởi v́ họ đă quên hết. Tuy nhiên cũng không phải tất cả mọi người đều thấy cảnh giới tốt đẹp như vậy, cũng có những thể nghiệm cận cái chết rất đáng sợ.
Thí dụ trong tác phẩm nghiên cứu khoa học “Ấn Tượng Thiên Đường, Một Trăm Người Sống Lại Sau Khi Chết Đă Kể Lại Chuyện”, có đăng 100 thể nghiệm cận với cái chết, trong đó có một cuộc nói chuyện của vị cảnh sát trưởng người Đức. Vị cảnh sát trưởng này đối với dân rất thô lỗ, rất lạnh nhạt, rất khắc nghiệt, một chút t́nh yêu thương cũng không có. Kết quả ông có một lần thể nghiệm cận cái chết rất là đáng sợ. Sau khi linh hồn của ông ta rời khỏi thể xác, ông liền phát hiện có rất nhiều hồn ma tàn độc hung ác xúm lại bao vây quanh ông. Trong đó có một hồn ma miệng đầy máu, há to như cái chậu muốn nhào đến cắn ông, rất là đáng sợ. V́ vậy chúng ta biết rằng, cuộc đời này nếu như có quá nhiều ác niệm, trong ḷng không có t́nh thương yêu, người như thế lúc lâm chung thường thường chiêu cảm những cảnh tượng đáng sợ như vậy.
Trên thực tế vào khoảng 3.000 năm trước, Phật giáo đă nghiên cứu đối với thực nghiệm cận với cái chết. Bạn xem trong Kinh Phật, bộ Kinh rất nổi tiếng là “Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh” có một đoạn miêu tả thể nghiệm cận cái chết:
“Người làm thiện ở cơi Diêm Phù Đề đến lúc lâm chung lại có trăm ngàn ác đạo quỷ thần hoặc biến ra h́nh cha mẹ, thậm chí thành người thân thuộc tiếp đón người chết dẫn vào đường ác, huống hồ là những người làm ác”. Bạn xem, điều này chính là nói về thể nghiệm cận với cái chết. Ở đây nói Diêm Phù Đề chính là ở trên quả địa cầu của chúng ta. Người ở trên quả địa cầu này cho dù bạn là người thiện, đến lúc bạn lâm chung đều phải thấy những ác đạo quỷ thần biến thành người thân quyến thuộc (những người đó thực sự là do trong cuộc sống quá khứ bạn đă kết oán thân trái chủ với họ) đến lôi kéo làm cho bạn mê hoặc đi vào trong ác đạo chịu khổ (ác đạo chính là tên gọi của địa ngục - ngạ quỷ - súc sanh, ba đường ác), huống hồ chi là người làm ác.
V́ vậy, trong Kinh cảnh tỉnh chúng ta, tuy là người đại thiện (cho dù là làm thiện cả đời này), nhưng khó tránh khỏi trong cuộc sống quá khứ có thể đă kết oán với người ta. Những oán thân trái chủ này nhân cơ hội bạn đang trong giờ phút lâm chung đến để đ̣i nợ, để báo oán. Cho nên, nhắc nhở chúng ta phải niệm Phật. Trong “Kinh Địa Tạng” nói với chúng ta rằng: “Trong giờ phút lâm chung, nếu niệm được một danh hiệu Phật, một danh hiệu Bồ Tát, một danh hiệu Bích Chi Phật, không cần biết có tội hay không có tội đều được giải thoát”. Cho nên, người tu Tịnh Độ trong giờ phút lâm chung nhớ niệm Phật A Di Đà, không những các oán thân trái chủ ở trong cuộc đời quá khứ cả thảy đều bỏ đi, mà trong lúc chúng ta đang niệm Phật liền thấy Phật A Di Đà đến tiếp dẫn chúng ta văng sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc .
florida80
12-26-2019, 20:11
Có thể nói, lấy thực nghiệm khoa học chứng thực đối với nghiên cứu có sự tồn tại của linh hồn, thứ nhất là một vị bác sĩ người Anh, Tiến sĩ Sam Parnia. Thực nghiệm của ông rất đơn giản. Ông thực hiện đối với hơn 100 người bệnh cận cái chết (người sắp chết), đều đang nằm ở trên bàn phẫu thuật tiến hành cấp cứu. Ông liền dùng một tấm gỗ, bên trên thả vài vật thể nhỏ (đồ vật nhỏ) treo ở trên giường bệnh bên trên bàn phẫu thuật trên trần nhà. Người bệnh không nh́n thấy vật thể nhỏ này, chỉ có vị bác sĩ này biết được treo ở bên trên là đồ vật ǵ. Lư luận của ông ta là nếu như bệnh nhân có linh hồn, sau khi hôn mê qua đời họ sẽ bay lên phía trên, có thể nh́n thấy được bên trên tấm gỗ có treo đồ vật ǵ. Sau khi họ hồi tỉnh lại có thể nói với bác sĩ, đây chính là chứng thực họ có linh hồn. Chỉ cần có một người có thể nói ra được, điều đó chứng thực thật sự là có linh hồn. Kết quả của vị bác sĩ này đối với hơn 100 bệnh nhân đều tiến hành thực nghiệm giống như vậy. Đương nhiên không nhất định mỗi người đều có thể được cứu sống lại từ trên bàn phẫu thuật, trên thực tế chỉ có bảy người. Bảy người sau khi được cứu sống lại có thể nói ra được ở bên trên tấm gỗ là treo đồ vật ǵ. Cho nên ông là người đầu tiên trên thế giới dùng thí nghiệm của khoa học để chứng minh có linh hồn tồn tại.
Cùng với thí nghiệm của vị Tiến sĩ Parnia cũng có những điểm như nhau. Vị tiến sĩ Charles Tart ở Trường Đại học California của Hoa Kỳ cũng dùng thí nghiệm khoa học để chứng minh có linh hồn. Đối tượng nghiên cứu của ông không phải là những người sắp chết mà ông nghiên cứu những người trong trạng thái khỏe mạnh có thể có linh hồn xuất ra khỏi cơ thể. Trong đó có một người phụ nữ có thể xuất hồn ra khỏi cơ thể, thế là Tiến sĩ Tart mời cô ấy đến một pḥng thí nghiệm, để cô ấy nằm trên giường. Trước khi cô ấy xuất hồn ra khỏi cơ thể, có đặt một mảnh giấy ở trên một cái kệ thật cao trước đó, trên bề mặt của tờ giấy này có in năm con số ngẫu nhiên. Nếu như người phụ nữ này có thể xuất hồn ra khỏi cơ thể th́ có thể nh́n thấy được năm con số đă viết ngẫu nhiên ở trên mảnh giấy. Đợi cô ta sau khi hồn nhập vào xác có thể nói ra, điều này sẽ chứng minh là có linh hồn. Kết quả của thí nghiệm này được lặp đi lặp lại, mỗi lần làm thí nghiệm th́ người phụ nữ này đều nói chính xác. Đặt ở trên một cái kệ thật cao, cơ thể của người phụ nữ này không có cách nào tiếp xúc được, không có cách nào nh́n thấy được ở chỗ đó để có thể nói chính xác những con số được ghi trên mảnh giấy.
Chúng ta biết rằng, xác suất về điểm số học có thể đoán trúng năm con số được ghi ngẫu nhiên ở trên mảnh giấy là một phần mười lũy thừa năm (1/105), chính là 1/100.000, cũng có nghĩa là làm thí nghiệm 100.000 lần chỉ có một lần đoán trúng, như vậy mới phù hợp với xác suất này. Không ngờ rằng người phụ nữ này mỗi lần thí nghiệm cô đều đoán trúng, điều này chứng minh thật sự có linh hồn. Linh hồn này sau khi rời khỏi cơ thể vẫn có thể nh́n thấy, có thể nhớ được những con số ở trên mảnh giấy, có thể kể lại cho Tiến sĩ Tart. Do đó, những thí nghiệm này cho chúng ta một kết luận:
“Thật sự là có linh hồn tồn tại. Linh hồn là chủ thể của con người đi đầu thai chuyển kiếp”.
Tiếp theo, tôi xin kể cho mọi người nghe một câu chuyện có thật được xuất bản trong một quyển sách ở nước Anh, được viết vào năm 1992. Câu chuyện này kể về linh hồn đi mua nhà. Bạn xem, linh hồn mà cũng biết đi mua nhà nữa! Có một người phụ nữ có thói quen xuất hồn ra khỏi cơ thể, thường thường là xuất hồn ra bên ngoài để đi tham quan du lịch. Có một lần, linh hồn của người phụ nữ này gặp một ngôi nhà. Cô rất thích ngôi nhà này. Về sau, có mấy lần trong khi linh hồn rời khỏi cơ thể, cô ta lại đến xem ngôi nhà này, càng xem lại càng thích. Căn nhà này từ trong ra ngoài h́nh dáng trang trí cô đều rất thích, nhưng mà cô lại không biết căn nhà này ở nơi nào.
Sau này cô cùng chồng của cô chuyển nhà từ Ireland đến Luân Đôn (London) nước Anh. Đi đến một chỗ mới, công việc trước tiên đương nhiên là phải đi t́m một ngôi nhà, cho nên vội vàng đi lấy báo để xem quảng cáo. T́m được một ngôi nhà rất rẻ đang đăng quảng cáo để bán, thế là cô t́m đến cơ sở môi giới bất động sản để đi xem nhà. Kết quả vừa nh́n thấy ngôi nhà này chính là ngôi nhà linh hồn sau khi ra khỏi thể xác đă nh́n thấy. Đương nhiên cô rất vui mừng. Vừa hỏi thăm, người môi giới nói với cô ấy:
“Ngôi nhà này bên trong bị ma ám cho nên bán rẻ như vậy. Bởi v́ người chủ nhà cả ngày đều thấy ma ở trong căn nhà này, cho nên muốn bán gấp cho rảnh nợ”.
Người phụ nữ này cảm thấy căn nhà này chính là ngôi nhà mà cô hằng mơ ước, thế là quyết định phải mua liền, hẹn chủ nhà đến gặp mặt để thương lượng giá cả. Khi chủ nhà đến gặp mặt, vừa thấy mặt cô này liền giật ḿnh la lên:
“Cô chính là con ma mà tôi đă gặp”.
Bạn xem, ông chủ nhà này đă từng gặp mặt người phụ nữ đó nhiều lần lắm rồi. Th́ ra, hồn của người phụ nữ này đă bay đến căn nhà đó, thường xuyên nh́n thấy mặt người chủ nhà. Người chủ nhà cho rằng bị ma ám. Có thể nh́n thấy rơ linh hồn của cô sau khi rời thể xác th́ có thể tự tại đến như vậy, có thể bay từ Ireland đến Luân Đôn rất nhanh. Bạn xem, chúng ta nh́n lên bản đồ, Ireland và Luân Đôn cách nhau ít lắm cũng khoảng 400km, không ngờ rằng linh hồn cô này sau khi rời khỏi thể xác có thể bay rất nhanh giữa hai nơi này, không bị hạn chế về không gian và thời gian.
Cái thể xác của chúng ta th́ không thể, thể xác chúng ta bị hạn chế về không gian và thời gian, không thể tự tại bay tự do giữa nơi này đến nơi kia. V́ vậy, khi linh hồn đang ở bên trong thể xác của chúng ta th́ bị thể xác này chướng ngại. Ngày xưa Lão Tử có dạy cho chúng ta: “Ngô chi đại hoạn vi ngô hữu thân”, ư nói cái khổ lớn nhất của ta chính là v́ ta có cái thân này. V́ sao vậy? Là cái thể xác này giam cầm cái linh hồn của ta, không thể để cho linh hồn của ta tự do tự tại, muốn đi ra ngoài tham quan du lịch th́ tương đối khó khăn.
Con người thời nay v́ cái thể xác này, cần phải làm thỏa măn ham muốn của thể xác này, v́ năm dục tài - sắc - danh - thực - thùy này làm rất nhiều điều tự tư tự lợi tổn người lợi ḿnh, những việc trái với lương tâm. V́ vậy linh hồn vốn là chủ nhân của cơ thể bằng thịt nhưng bây giờ trở thành nô lệ cho thể xác, v́ cái thể xác này mà bôn ba, mà tạo nghiệp. Cũng v́ cái thể xác này mà đă tạo tác nhiều nghiệp ác, thật sự là gây nợ cho cái linh hồn này.
Cho nên phải chân thật hiểu rơ chân tướng khoa học của con người, hiểu được thể xác không phải là chủ thể của chúng ta. Giống như quần áo vậy, mặc mấy mươi năm đă cũ th́ phải vứt bỏ để thay bộ quần áo mới. Chủ thể thật sự của chúng ta là linh hồn. Mấu chốt là phải làm như thế nào để nâng cao đời sống tâm linh của chúng ta. Ngày nay người ta không hiểu, cả ngày t́m mọi cách để bồi bổ cái thân này, v́ cái thể xác này mà thật sự t́m đủ mọi cách suy nghĩ nát óc. Đâu ngờ rằng cái thể xác này chỉ tồn tại ngắn ngủi, nó không phải là vĩnh hằng. Chân thật vĩnh hằng là đời sống tâm linh của chúng ta. V́ vậy, bồi bổ thân th́ không bằng tu dưỡng tâm.
Chúng ta hăy xem, mỗi một đời, mỗi một kiếp luân hồi của con người, cái linh hồn không phải là giống như t́m một căn nhà hay sao? T́m được cái thân th́ giống như t́m được ngôi nhà vậy. Căn nhà này chỉ cư trú được có mấy chục năm, căn nhà có lúc sẽ cũ, có lúc sẽ bị hư hoại, lúc này th́ cần đổi căn nhà khác. Cho nên mấu chốt vấn đề là chúng ta đổi căn nhà đó có phải là tốt hơn so với căn nhà hiện tại của chúng ta không? Làm thế nào để căn nhà đă đổi của chúng ta càng tốt hơn? Đó chính là tu thiện nghiệp, “Thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
florida80
12-26-2019, 20:12
Cho nên những thí nghiệm khoa học, những phát hiện của khoa học đă cho chúng ta rất nhiều khởi phát. Hiện nay nghiên cứu khoa học về linh hồn thực sự là rất đa dạng, vô cùng sâu sắc. Có những nhà vật lí học lại có thể sử dụng cơ học lượng tử, vật lí học hiện đại này để nghiên cứu linh hồn. Giống như Tiến sĩ Amit, một nhà nghiên cứu thâm niên nổi tiếng của Viện Nghiên cứu Khoa học về tư duy Hoa Kỳ, ông dùng cơ học lượng tử để chứng minh sự tồn tại của linh hồn là có nền tảng lư luận, cho nên ông phát biểu trong tác phẩm “Vật Lư Học Về Linh Hồn” (Physics of the Soul) của ông. Chúng ta xem linh hồn có thể bay, có thể thấy, có thể làm việc, có thể đi mua nhà, chứng minh rằng linh hồn có năng lượng, cho nên ông mới sử dụng quan điểm của khoa học để tiến hành chứng minh. Về khía cạnh nghiên cứu của ngành học này thật sự vô cùng sâu sắc, v́ vấn đề thời gian nên không thể bàn sâu hơn, cho nên chúng ta chỉ nói đến chỗ này để đi tiếp vào lĩnh vực thứ hai của nghiên cứu khoa học.
THỨ HAI, ĐIỀU TRA NHỮNG NGƯỜI CÓ THỂ NHỚ ĐƯỢC TIỀN KIẾP CỦA M̀NH.
Điều nghiên cứu thứ hai về luân hồi chuyển kiếp của Phương Tây là lập hồ sơ điều tra nghiên cứu những người có thể nhớ được tiền kiếp của ḿnh. Về lĩnh vực nghiên cứu này có thể lấy Giáo sư Stevenson làm tiêu biểu. Ông đă áp dụng phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống để tiến hành nghiên cứu, quy nạp thành “Phát hiện đối tượng”. Trước tiên phải t́m được một đứa trẻ có thể nhớ được tiền kiếp của ḿnh, đây là phát hiện đối tượng. Sau đó “Thu thập tư liệu”, chính là bắt đầu tiến hành sưu tập tư liệu. Tiếp theo là “Lập hồ sơ chất vấn”. Sau đó gặp mặt để đối chứng, thậm chí phải t́m đến gia đ́nh của đứa trẻ kiếp trước đă sống để t́m chứng cứ. Cuối cùng là “Theo dơi quan sát” và “Viết báo cáo”.
florida80
12-26-2019, 20:13
Tịnh Nghiệp Tam Phước
Người giảng: Lăo Pháp Sư Tịnh Không
Tập 1
Kính thưa Chủ tịch Ủy ban trù bị Đại hội Hoằng pháp, ông bà Đan Tư Lư, Lư Kim Hữu, đại diện trụ tŕ chùa Cực Lạc - Pháp sư Nhật Hạnh, các vị đại diện các tôn giáo, các vị trưởng lăo tiền bối, các vị trợ lư đại hội, các vị đồng tu Tịnh Tông Học Hội, các vị nghị viện thành phố, các vị cư sĩ đại đức, các vị đại biểu văn hóa giáo dục, đại biểu báo chí cho đến các vị hộ pháp, các vị pháp sư đại đức đồng tu, xin chào các vị!
Chùa Cực Lạc ở Tân Thành là một đạo tràng cổ kính mà thường đổi mới. Hôm nay, mọi người chúng ta cùng hội tụ lại với nhau ở nơi đây học tập Phật pháp, nhân duyên này thù thắng không ǵ bằng. Đạo tràng này có lịch sử một trăm mười một năm. Dưới sự lănh đạo của Pháp sư Nhật Hạnh, chỉ trong mấy năm ngắn ngủi đă làm cho bộ mặt được đổi mới. Đây là nhờ oai thần tam bảo gia hộ, sự ủng hộ của chính quyền địa phương và do chúng sanh khu vực này có phước. Chúng ta thấy được cảm ứng rơ ràng, thù thắng đến như vậy. Lần này Tịnh Không Pháp sư tôi đến nơi đây, v́ các vị chọn ra đề tài là “Tịnh Nghiệp Tam Phước” trong kinh Quán Vô Lượng Thọ. Khi dạ tiệc hôm qua, tôi cũng sơ lược nói qua với các vị nhân duyên của tôi với đạo tràng này, tuy là lần đầu chúng ta gặp mặt nơi đây mà duyên phận rất sâu, rất dày.
Năm xưa, Pháp sư Viên Anh chuyên hoằng Lăng Nghiêm. Sư phụ tôi, Pháp sư Bạch Thánh - học tṛ của Viên lăo, cả đời cũng chuyên hoằng Lăng Nghiêm. Khi tôi mới bắt đầu học Phật, kinh Lăng Nghiêm cũng là thời khóa tu chính của tôi. Ngày trước đă từng giảng qua rất nhiều lần, tôi nhớ được dường như là trước sau giảng qua bảy lần. Măi đến sau khi lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam văng sanh, tôi nhận sự dặn bảo của thầy chuyên tu chuyên hoằng kinh Vô Lượng Thọ, bản hội tập của cư sĩ Hạ Liên. Việc này trong Phật pháp gọi là sự truyền thừa mà người xưa đă nói. Ở vào xă hội ngày nay đă rất là hiếm rồi, thế nhưng những lăo pháp sư hoằng pháp thời cận đại chúng ta thường hay gặp cũng rất cảm phục mà tán thán, pháp sư có thể ở trong và ngoài nước giảng kinh nói pháp dường như toàn bộ thảy đều nhận qua giáo dục của người xưa. Người xuất thân từ Phật học viện của Tân Hưng rất hiếm thấy, bao gồm Lăo Pháp sư Trúc Ma nơi đây, Pháp sư Diễn Bồi của Singapore đă văng sanh, chúng ta đều là tiếp nhận sự truyền thừa của người xưa. Sự truyền thừa này ở Trung Quốc đă có lịch sử hơn hai ngàn năm. Hiệu quả của nó cũng rất tốt, rất đáng được chúng ta ở ngay trong dạy học sâu sắc mà suy ngẫm, không nên đem nó phế bỏ. Thứ cổ xưa của chúng ta nhưng bên trong đó có nhiều thứ rất tốt, cũng như giáo học của Phật Đà vậy.
Đoạn kinh văn này trong kinh điển ghi chép, Phu nhân Vi Đề Hy ngay lúc đó gặp phải tai biến gia đ́nh, quốc gia, tai biến đối với nhân sanh, có cảm giác rất là thoái tâm. Bà cầu mong với Thích Ca Mâu Ni Phật giới thiệu cho bà là thế gian này có hoàn cảnh sống nào tốt hơn chăng? Nếu dùng lời hiện tại mà nói, có chỗ để di dân chăng? Khải thỉnh của Vi Đề Hy phu nhân Thế Tôn tiếp nhận rồi, liền dùng thần lực biến hiện ra mười phương cơi nước chư Phật trước mặt bà, làm cho bà có thể nh́n thấy.
Chúng ta phải nghĩ đến địa phương này. Ngày nay chúng ta có thể đem t́nh huống của mọi góc độ của địa cầu, dùng kỹ thuật của khoa học, truyền h́nh vệ tinh, dùng màn h́nh của ti vi hiện bày ra trước mặt của chúng ta. Những thiết bị cơ khí này rất phức tạp, Thế tôn không cần phải phức tạp đến như vậy. Thần lực của Ngài có thể biến hiện cho phu nhân Vi Đề Hy xem, hơn nữa cái mà bà xem thấy là lập thể, không phải là mặt phẳng, như ở trước mặt. Chúng ta từ chỗ này thể hội được khoa học của thế giới Tây Phương Cực Lạc cao minh hơn rất nhiều so với chúng ta.
Cho nên năm trước, tôi giảng kinh ở nước Mỹ, tôi đă khuyên các nhà khoa học bậc nhất trên thế giới nên đi đến thế giới Tây Phương Cực Lạc để du học, cố gắng học tập với Phật A Di Đà. Phu nhân Vi Đề Hy nh́n thấy rất nhiều thế giới chư Phật, hoàn cảnh sinh hoạt của họ nơi đó, nơi chốn tu học thù thắng hơn rất nhiều so với thế giới này của chúng ta, bà chọn lựa thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà. Thế Tôn không hề giới thiệu trước cho bà, mà để bà tự ḿnh lựa chọn. Sự lựa chọn của bà đương nhiên Thích Ca Mâu Ni rất hoan hỷ, đích thực bà có mắt nh́n, có trí tuệ. Trong thế giới chư Phật đă chọn lựa ra rất thù thắng, rất viên măn, rất ổn định, một hoàn cảnh sinh sống tốt đến như vậy. Thế là phu nhân Vi Đề Hy cầu xin Thế Tôn chỉ dạy làm cách nào để đi. Thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà là tốt, làm thế nào có thể văng sanh? Dùng lời hiện đại mà nói, chúng ta dùng phương pháp ǵ, điều kiện ǵ mới có thể di dân đến thế giới Tây Phương Cực Lạc? Thế Tôn trước khi dạy cho bà phương pháp liền nói cho bà nghe một đoạn kinh văn. Đoạn kinh văn khi vừa mở đầu là:
“Nhị thời Thế Tôn, cáo Vi Đề Hy: “Nhữ kim tri bất, A Di Đà Phật, khứ tự bất diễn, nhữ đương hệ niệm, đế quán Bỉ quốc, Tịnh nghiệp thành giả. Ngă kim vi nhữ, quảng thiết chúng thể. Việc linh vị thế, nhất thiết phàm phu, dục tu tịnh nghiệp giả, đắc sanh Tây Phương Cực Lạc quốc độ”.
Mấy câu nói này của Thế Tôn rơ ràng nói với chúng ta, thế giới Cực Lạc đi th́ không xa, đích thực không xa. Đại đức xưa thường nói: “Sanh th́ nhất định sanh, đi th́ đích thực không đi”. Hàm nghĩa của câu nói này đích thực rất khó lư giải. Hiện tại do v́ khoa học phát triển, chúng ta tiếp nhận một số giáo dục của khoa học, dùng khoa học cận đại để ứng chứng th́ dễ dàng hiểu được quá nhiều.
Thế giới Tây Phương Cực Lạc cùng thế giới hiện tiền của chúng ta là không đồng một không gian duy thứ. Cũng giống như chúng ta xem truyền h́nh, màn truyền h́nh chỉ là một, c̣n kênh đài không giống nhau. Chúng ta chuyển đổi một kênh th́ là thế giới Tây Phương Cực Lạc, vẫn là một màn h́nh này. Cho nên nói sanh th́ nhất định sanh, đi th́ thật không đi, chuyển một kênh thôi. Ngày nay chúng ta không biết dùng phương pháp ǵ để chuyển đổi không gian, nếu như hiểu được cách chuyển đổi kênh đài này th́ mười phương cơi nước chư Phật đều ở ngay trước mặt. Phật ở trong kinh điển thường hay nói mười pháp giới y chánh trang nghiêm, trên thực tế đang tồn tại những không gian duy thứ không giống nhau. Ư nghĩa mấy câu nói này của Phật rất sâu, rất rộng.
florida80
12-26-2019, 20:14
Dùng phương pháp ǵ? “Nhữ đương hệ niệm”. Trên kinh Di Đà dạy chúng ta: “Nhất tâm hệ niệm”. Đây là bản dịch của Ngài Huyền Trang, Đại sư Huyền Trang dịch là nhất tâm hệ niệm, trong bản dịch của Đại sư Cưu Ma La Thập là: “Nhất tâm bất loạn”. Ngài La Thập là dịch ư, Đại sư Huyền Trang là dịch từ. Đây là dạy bảo chúng ta bí quyết văng sanh, bí quyết này Phật ở trên đại kinh thường giảng. Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Hư không pháp giới tất cả chúng sanh là duy tâm sở hiện duy thức sở biến”. Trên kinh đại thừa thường nói: “Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh”. Hệ niệm quán tưởng.
Chúng ta biết được bí quyết đột phá thời không, chúng ta v́ sao không thể đột phá? V́ vọng niệm của chúng ta quá nhiều! Phân biệt, chấp trước quá nhiều cho nên không thể đột phá! Do đây chúng ta cũng có thể thể hội được không gian không giống nhau.
Từ trên lư luận mà nói là duy thứ không hạn độ. Do đâu mà tạo thành, từ đâu mà ra? Phật nói pháp giới vốn dĩ là nhất chân. Thế giới Hoa Tạng trong kinh Hoa Nghiêm, thế giới Cực Lạc trong kinh A Di Đà đều là thuộc về pháp giới nhất chân. Pháp giới vốn dĩ là nhất chân, tại v́ sao lại biến thành không gian duy thứ phức tạp đến như vậy?
Phật ở trên kinh nói với chúng ta nguyên nhân này chính là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của chúng ta biến hiện ra. Vọng tưởng chấp trước của chúng sanh là vô lượng vô biên, làm cho không gian thu nhỏ, làm không gian biến h́nh, cho nên biến thành mười pháp giới. Mười pháp giới là phần lớn, mỗi một pháp giới là phần nhỏ vô cùng phức tạp. Chúng ta biết được mười pháp giới này từ đâu mà ra, chúng ta cũng liền hiểu được làm thế nào để giải quyết vấn đề, hồi phục lại nhất chân.
Thế nên Phật ở trong Hoa Nghiêm, ở trong đại kinh, trong kinh Di Đà, ở trong kinh Vô Lượng Thọ, Quán kinh mà hôm nay chúng ta giảng đều nói đến Hệ Niệm Đế Quán. Tịnh nghiệp mới có thể thành tựu. Tâm tịnh th́ Phật độ tịnh. Tâm tịnh th́ có thể đột phá chướng ngại của thời không. Như vậy, phương pháp này đă v́ chúng ta nêu ra rồi, nói rơ ở đoạn kinh văn sau.
Phật rất từ bi, không những phu nhân Vi Đề Hy thỉnh pháp bà nhận được lợi ích, sự thỉnh pháp của bà cũng là đặc biệt, có thể nói cho tất cả phàm phu đời Mạt Pháp (đây là chỉ những người đời hiện tại này của chúng ta), chúng ta cũng muốn tu tịnh nghiệp, cũng muốn cầu sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, y theo lư luận phương pháp này mà tu học đều có thể thành tựu. Thế nên phía sau Phật liền nói ra ba việc, đây là ba tiền đề.
“Dục sanh bỉ quốc giả, đương tu Tam Phước”.
Chúng ta biết, trên tất cả kinh luận đều nói, Phật là lưỡng túc tôn. Túc là ư nghĩa đầy đủ, chính là ư viên măn. Trí tuệ của Phật viên măn, phước báu của Phật viên măn. Tây Phương là nước Phật, nhất chân pháp giới là cơi nước chư Phật, nếu chúng ta không có trí tuệ, không có phước báu th́ không cách ǵ tiến vào cơi nước của các Ngài, không thể nào bước vào hoàn cảnh, đời sống tu học của các Ngài. Cho nên trước tiên dạy chúng ta tu phước, nhà Phật gọi là phước huệ song tu. Phước là trước tiên, huệ phải ở phía sau. Trước tu phước, sau tu huệ, việc này rất có đạo lư. Chúng ta xem ngạn ngữ thường nói: “Phước đến tâm sáng”. Một người tu phước, phước báu hiện tiền rồi, con người này đột nhiên thông minh, liền có trí tuệ. Do đây có thể biết, phước báu cùng trí tuệ có liên quan mật thiết. Chỗ này là Thế Tôn dạy chúng ta tu phước trước, tu tam phước.
Phước thứ nhất, hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp. Đây là điều đầu tiên. Điều đầu tiên cũng chính là căn bản, là nền tảng của phước đức. Thích Ca Mâu Ni Phật dạy chúng ta như vậy, thời xưa Khổng Lăo Phu Tử của Trung Quốc cũng là dạy chúng ta như vậy.
Ngày trước, tôi gặp qua một số người đọc sách Khổng Tử, thực tế mà nói hiện tại cũng không có nhiều. Tôi hỏi họ, cả đời giáo học của Khổng Mạnh dạy người cái ǵ? Có thể dùng một câu nói đem nó giới thiệu cho rơ ràng hay không? Tôi đưa ra vấn đề này, không người nào giải đáp cho tôi. Kỳ thật đáp án này nằm ở trong Tứ Thư Đại Học. Các vị mở chương đầu tiên của Đại Học:
“Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân nhân, tại chỉ ư chí thiện”. Biết dừng th́ sau có định, định rồi th́ có được an, an rồi th́ có thể lắng lại, lắng lại th́ có thể đắc. Giáo học của Khổng Mạnh cả đời không ngoài đoạn này, là tổng cương lĩnh, tổng nguyên tắc.
Giáo học của Thích Ca Mâu Ni Phật chúng ta có thể dùng một câu nói được rơ ràng hay không? Có thể, chính là câu này:
“Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp”.
Bốn mươi chín năm đă nói không ngoài cương lĩnh này. Đây là căn bản giáo nghĩa của Phật pháp, cũng giống như nhà Nho nói minh đức.
Minh đức là ǵ? Minh đức chính là hiếu kính, hiếu kính là đức năng trong bổn tánh. Chữ hiếu này ư nghĩa sâu rộng vô cùng.
Cách viết chữ này của Trung Quốc, ở trong lục thư thuộc về hội ư. Văn tự Trung Quốc là văn tự sáng tạo, có sáu nguyên tắc gọi là lục pháp, cũng gọi là lục thư. Đây là một loại trong lục pháp, gọi là hội ư. Bạn nh́n thấy chữ này liền thể hội ư của nó. Chữ này bên trên là chữ lăo, bên dưới là chữ tử. Ư này rất rơ ràng, đời trước cùng đời sau là một thể. Nếu như phân nó ra, hiện tại gọi là sự khác biệt, khác biệt th́ không có hiếu nữa, th́ chữ này không c̣n nữa. Người ngoại quốc có khác biệt, trong văn hóa Trung Quốc không có sự khác biệt. Trên một đời th́ c̣n có trên một đời nữa, dưới một đời th́ c̣n có dưới một đời nữa, quá khứ vô thỉ, vị lai vô cùng, là một thể sinh mạng. Đây là hàm ư trong chữ này.
florida80
12-26-2019, 20:14
Trong nhà Phật nói, nhà Phật gọi chân như, gọi bổn tánh, gọi chân tâm, gọi lư thể, rộng khắp mười phương, khắp cùng các cơi, cùng với dấu hiệu, cả biểu hiện này không hề khác biệt. Trong biểu hiện này xem thấy khắp cùng các cơi, rộng khắp mười phương. Trong kinh Phật thường nói: “Mười phương ba đời chư Phật cùng đồng một pháp thân”. Biểu hiện này chính là đại biểu pháp thân, chính là một đại biểu của tất cả chúng sanh hư không pháp giới. Trung Quốc dùng chữ này, nếu bạn không hiểu đạo lư của chữ Hiếu này th́ bạn làm sao có thể hiểu được, hạnh đức của hiếu bạn làm sao có thể sanh khởi. Trong biểu hiện này bao gồm tất cả.
Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “T́nh dữ vô t́nh đồng viên chủng trí”. Có t́nh ngày nay chúng ta gọi là động vật, vô t́nh ngày nay gọi là thực vật, khoáng vật, hiện tượng tự nhiên, đều là thứ biến hiện ra từ tự tánh. Cho nên chữ Hiếu này đại biểu cho hư không pháp giới tất cả chúng sanh. Vốn dĩ chính là như vậy, nhà Phật gọi pháp vốn như thế. Đây là lư luận của chữ Hiếu này, sâu rộng vô cùng tận, thực tiễn ở cha con.
Chúng ta tỉ mỉ mà quán sát, đứa bé vừa mới sanh ra, cha mẹ thương yêu quan tâm đối với nó, đó là biểu hiện từ tự tánh, tự nhiên mà biểu lộ ra. Lại quan sát đứa bé, khi mới hai, ba tuổi là đă biết chuyện rồi, đều là biết thương yêu cha mẹ. Thiên tính là như vậy. Cho nên chữ Hiếu này là thiên tính, phát xuất ra từ thiên tính. Nhưng nếu như con người không nhận được giáo dục tốt, thiên tính rất dễ bị mê mất. Giáo dục cho ngày sau là vô cùng quan trọng. Ngày sau cần thiết phải tiếp tục tiếp nhận giáo dục của thánh hiền nhân.
Thế nào gọi là “Thánh”? Định nghĩa của chữ Thánh này là đối với vũ trụ nhân sanh, vạn sự vạn vật thông đạt rơ ràng mà không có sai lầm, người này chúng ta liền gọi họ là thánh nhân. Hay nói cách khác, Thánh nhân, nếu dùng lời dễ hiểu ngày nay mà nói th́ chính là người minh bạch. Phàm phu chúng ta đối với sự lư nhân quả của vũ trụ nhân sanh hoàn toàn không hiểu. Nếu thông đạt rồi, con người này gọi là thánh nhân. Không thông đạt th́ gọi là phàm phu. Người Trung Quốc gọi thánh nhân, người Ấn Độ gọi là Phật, xưng là Phật Đà. Phật Đà chính là Thánh Nhân, người phương Tây gọi là Thượng Đế, gọi là thần, kỳ thật chỉ là một.
Chúng ta tỉ mỉ mà đọc tụng tất cả điển tích của các tôn giáo trên thế giới chúng ta liền hiểu rơ. Những người viết ra kinh điển là Thánh Nhân, họ đối với đại đạo lư của vũ trụ nhân sanh đều hiểu rơ, đều thông đạt, không hề khác nhau. Khi chúng ta nghĩ đến ba mươi hai ứng thân của Bồ Tát Quán Thế Âm, đáng dùng thân ǵ để độ Bồ Tát liền hiện ra thân đó. Bồ Tát Quán Thế Âm không có tướng trạng nhất định, tùy tâm chúng sanh mà biến hiện tướng trạng không giống nhau.
Trong kinh Lăng Nghiêm đă nói: “Tùy chúng sanh tâm ứng sở tri lượng”. Ba mươi hai ứng thân trong phẩm Phổ Môn đă nói, nên lấy thân ǵ để độ Ngài liền hiện ra thân đó, nên nói pháp ǵ cho chúng sanh nghe Ngài liền nói ra pháp đó. Do đó Phật không có h́nh tướng nhất định, cũng không có định pháp để nói. Đây là trí tuệ chân thật, nhất định không có định pháp để nói. Cũng giống như thầy thuốc giỏi, một vị bác sĩ, Bác sĩ có sẵn phương thuốc tốt không? Không có. Họ chuẩn đoán cho bạn, sau khi chuẩn đoán xong mới ra toa cho bạn, tuyệt đối không thể nói dự bị trước một đống phương thuốc tốt để dành cho người bệnh. Làm ǵ có loại bác sĩ cho bạn uống thuốc không hết bệnh th́ nói là phương thuốc của tôi rất hay, tại bệnh của bạn sai rồi.
Chư Phật Bồ Tát, các vị Thánh Nhân của các tôn giáo thế gian đều rất hay, cho nên chúng ta từ quan điểm của Phật giáo mà nh́n, tất cả chúng thần trong các tôn giáo đều là Phật, Bồ Tát hóa thân, đều là Phật Bồ Tát. Khi tôi vừa nói ra câu này, rất nhiều thần phụ của Thiên Chúa giáo, mục sư của Ki Tô giáo nghe rồi hai mắt đều mở rất to. Tôi liền nói, từ cái nh́n của các vị, chư Phật Bồ Tát đều là hóa thân của Thượng Đế. Họ vừa nghe xong, chúng ta là b́nh đẳng mà, thiệt không phân biệt ǵ cả, là một không phải là hai, không nên phải căi nhau, không nên phải tranh chấp. Xác xác thực thực chỉ là một. Cũng giống như thân thể con người của chúng ta vậy, tôn giáo không giống nhau là khí ḥa của thân thể của chúng ta không giống nhau, chủng tộc không giống nhau là tay chân trên thân thể chúng ta không giống nhau, là một thân thể thôi. Bất cứ nơi nào có một tế bào bị bệnh th́ cả thân thể chúng ta đều không tự tại. Là một đạo lư. Hư không pháp giới là một pháp thân, như vậy bạn mới có thể thông hiểu được kinh điển này.
Thật đă thông suốt rồi, thấu hiểu rồi, sau đó ư nghĩa của hiếu đạo bạn liền thông đạt tường tận, bạn cũng hiểu được áp dụng ra sao. Học thuyết nhà Nho xây dựng trên nền tảng của hiếu đạo, nền tảng Phật pháp cũng là xây dựng trên nền tảng của hiếu đạo, măi về sau đều là hiếu đạo có trường rộng lớn mà thôi. Phật ở trong giới kinh nói với chúng ta rất rơ: “Tất cả nam tử là cha ta, tất cả nữ nhân là mẹ ta”. Việc này là tận hiếu, phạm vi hiếu đạo liền được mở rộng, hiếu thuận tất cả chúng sanh. Đây là hiển lộ tánh đức viên măn.
Ngày nay khởi tâm động niệm của chúng ta, lời nói việc làm trái với giáo huấn của Phật Đà, trái với giáo huấn của Thánh hiền. Chúng ta tỉ mỉ đem học thuyết của Nho và Phật hợp chung lại xem th́ càng dễ dàng hiểu rơ, càng dễ dàng thể hội. Do đó, thực hiện hiếu đạo chính là thân nhân. Thân nhân dùng lời hiện tại mà nói là nhân t́nh từ bác ái, đối tượng là từ tất cả chúng sanh. Sau cùng nói với chúng ta, minh đức cùng thân nhân đều phải đạt đến viên măn nhất, cứu cánh nhất, đạt đến chí thiện. Cả đời con người ở thế gian, đây là một việc lớn.
florida80
12-26-2019, 20:15
Chí thiện là ǵ?
Chí thiện chính là làm Thánh, làm Phật. Cho nên người xưa đọc sách cùng người hiện tại đọc sách không giống nhau. Người xưa đọc sách chí tại Thánh hiền. Người học Phật tại v́ sao đến học Phật? Ta học Phật chí tại làm Phật. Làm Phật mới là chí thiện, làm Thánh nhân mới là chí thiện. Chỉ ư chí thiện lập chí làm Phật, lập chí làm thánh nhân, tâm của chúng ta liền định lại, không bị môi trường bên ngoài mê hoặc, không bị hoàn cảnh bên ngoài làm dao động, tâm của bạn liền định. Định th́ sau đó có thể an. An th́ bạn được tự tại, bạn được an vui, an th́ sau đó được lắng lại. Lắng lại là trí tuệ, trí tuệ liền khai mở. Sau cùng là lắng lại có thể đắc, đắc cái ǵ vậy? Cái chí thiện mà bạn đă mong cầu, bạn liền được rồi. Thông thường chúng ta nói, bạn học Phật chứng đắc được quả vị của Phật, bạn học Nho đắc được cảnh giới của Thánh Nhân. Nho và Phật không hề khác nhau. Đây nói một chữ Hiếu.
Chữ Hiếu thực tiễn ngay trong cuộc sống là dưỡng, cho nên câu thứ nhất là “Hiếu dưỡng phụ mẫu”. Không chỉ đời sống thường ngày của cha mẹ chúng ta phải nên chăm sóc, thiên kinh địa nghĩa. Thế nhưng hiện tại người ngoại quốc không nuôi cha mẹ. Người Trung Quốc vẫn c̣n quan niệm này, nhưng hiện tại quan niệm này đă dần dần tan nhạt. Đây là nguy cơ, ư thức dân tộc của chúng ta, việc này chúng ta phải cảnh giác.
Nuôi dưỡng cha mẹ được xem là tận hiếu chăng? Không phải. Người xưa nêu ra thí dụ rất nhiều, động vật đều nuôi dưỡng cha mẹ. Phải hiểu được dưỡng cái tâm của cha mẹ, dưỡng cái chí của cha mẹ. Nếu như chúng ta thường hay làm cho cha mẹ v́ hành vi của ḿnh mà sanh phiền năo th́ bất hiếu. Khi c̣n nhỏ ở trường học tập, bài tập không được tốt, cha mẹ lo lắng phiền muộn là bất hiếu. Thân thể không được khỏe là bất hiếu. Không tôn kính lăo sư, không ḥa thuận với đồng học đều làm cho cha mẹ lo lắng. Tóm lại mà nói, bạn làm cho cha mẹ lo lắng th́ không phải dưỡng phụ mẫu. Khi lớn lên, học tập xong rồi, kết hôn rồi, sau khi kết hôn, anh em dâu rể bất ḥa, cha mẹ cũng lo lắng. Bạn lại sinh ra con cái, con cháu bất ḥa, cha mẹ lại lo lắng, làm cho cha mẹ phải lo lắng cả một đời. Tận hiếu không phải dễ.
Bước vào xă hội, chúng ta nêu ra một ví dụ, bạn phục vụ ở một công ty, bạn không thể trung thành với ông chủ, không thể cùng hợp tác với đồng sự, không thể đối đăi tốt với thuộc hạ của ḿnh đều là bất hiếu. Bạn mới biết được phạm vi của chữ hiếu này rất rộng, đều bao gồm hết tất cả đời sống của chúng ta trong đó. Đây là nói cái tâm của chúng ta phải làm thế nào để dưỡng cha mẹ. Làm cho cha mẹ vui vẻ, tâm an th́ mới là một người con hiếu. Thế nhưng vẫn chưa thể gọi là tận hiếu, tại v́ sao vậy? Chí của cha mẹ, bạn có nghĩ đến hay không? Chí là kỳ vọng của cha mẹ đối với bạn. Việc này người thế gian thường nói mong con thành rồng, mong con thành Phụng. Bạn không thành được rồng, không thành được phụng là bất hiếu.
Rồng là cái ǵ vậy? Rồng là Phật, rồng là Thánh nhân. Hay nói cách khác, bạn không thể tu dưỡng chính ḿnh đạt đến địa vị của thánh hiền, không thể làm đến được các việc thiện trong thiên hạ, cha mẹ đối với sự chăm sóc đời sống vật chất của bạn cũng có thể là rất an vui, thế nhưng cha mẹ đối với nguyện vọng của bạn, bạn vẫn không thể làm được. Cho nên Đẳng Giác Bồ Tát hiếu vẫn chưa được viên măn. Tại v́ sao vậy? Vẫn c̣n một phẩm sanh tướng vô minh chưa phá. Hiếu dưỡng phụ mẫu, câu nói này làm được viên viên măn măn, một chút khiếm khuyết cũng không có là ai vậy? Là quả địa Như Lai. Đẳng Giác Bồ Tát vẫn chưa đạt được cứu cánh viên măn. Bạn thử nghĩ xem, Phật pháp không chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật, mà mười phương ba đời tất cả chư Phật giáo hóa chúng sanh chính là một câu này. Cho nên nếu như người ta hỏi, cái ǵ là Phật pháp? Phật pháp là hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng. Phật pháp không phải là tôn giáo, mà là giáo dục. Cho nên chúng ta tỉ mỉ từ trong kinh điển mà quan sát, cả đời Thích Ca Mâu Ni Phật là giáo dục chí thiện viên măn đối với hư không pháp giới tất cả chúng sanh.
Thích Ca Mâu Ni Phật là người thế nào vậy? Nếu chúng ta dùng chức vị ngày nay, th́ Ngài là một nhà giáo dục xă hội đa nguyên văn hóa, Ngài là một vị năm xưa ở đời làm công tác nghĩa vụ giáo dục xă hội đa nguyên văn hóa, đáng được người tôn kính. Không chỉ người chúng ta tôn kính, thần cũng tôn kính. Tất cả chúng sanh mười pháp giới không ai là không tôn kính. Cả đời Ngài là hoàn toàn cống hiến, Ngài không hề đề ra yêu cầu đối với bất cứ ai, Ngài cống hiến triệt để. Ngài không hề tiêu cực. Mỗi ngày dạy học, cùng mọi người lên lớp tám giờ, bốn mươi chín năm không hề ngơi nghỉ. Chúng ta không hề nh́n thấy trên kinh, Thích Ca Mâu Ni Phật lúc nào th́ đi nghỉ hè. Thích Ca Mâu Ni Phật không hề nghỉ hè. Một năm ba trăm sáu mươi ngày, một ngày nghỉ cũng không có, thật tinh tấn! Đây đều là làm gương tốt cho người sau xem. Đó là một người triệt để giác ngộ.
Hiếu dưỡng cha mẹ, tôi dùng một ít thời gian nói sơ đại ư của câu nói này, hy vọng đồng tu tỉ mỉ mà thể hội. Chúng ta phải hồi phục lại tánh đức. Nếu muốn vượt khỏi luôn hồi, vượt khỏi mười pháp giới, bốn chữ này rất quan trọng. Nếu như lơ là với nền tảng này, trong Phật pháp không luận là tu một pháp môn nào đều không thể thành tựu. Như chúng ta xây một cái nhà, không luận là xây nhà nào, không luận là xây cao hay thấp, đây là nền tảng, đây là cơ bản. Bạn không có nền tảng th́ bạn nhất định không thể thành tựu.
Hiếu đạo phải do ai đến dạy bạn? Phải do lăo sư, cho nên Phật pháp là sư đạo. Sư đạo xây dựng trên nền tảng của hiếu đạo.
Câu thứ hai: “Phụng sự sư trưởng”.
Trong xă hội cũ Trung Quốc, ân đức của lăo sư cùng cha mẹ là giống nhau, là b́nh đẳng. Chúng ta xem thấy trong lễ kính, phong tục tập quán của người xưa cùng hiện tại không giống nhau. Người xưa đối với người trưởng thành, nam tử hai mươi tuổi mặc áo lễ, đội măo. Mặc áo lễ th́ bạn là người trưởng thành, không thể xem bạn như một đứa trẻ. Nữ nhi mười sáu tuổi búi tóc chải đầu là đă trưởng thành. Trưởng thành th́ mọi người đều tôn trọng, không được gọi tên của bạn. Đồng bạn với ḿnh, anh em bè bạn tặng bạn một cái hiệu, chúng ta gọi là biệt hiệu, gọi hiệu, không gọi tên. Cả đời người có thể gọi tên của bạn chỉ có hai người, một là cha mẹ và một là thầy giáo, như vậy bạn mới biết được thầy giáo cùng cha mẹ là b́nh đẳng. Nếu như bạn trưởng thành rồi, người ta c̣n gọi tên của bạn th́ bạn đă có tội, không xem bạn là một người đàng hoàng. Việc đó là rất nghiêm trọng.
Bạn xem chúng ta xem thấy trong sách cổ, Hoàng Đế đối với đại thần đều gọi hiệu, không gọi tên, cung kính đối với đại thần. Nếu như Hoàng Đế gọi tên của bạn th́ bạn đă phạm pháp, bạn có tội, bạn phải bị xử phạt, do đó không gọi hiệu của bạn, mà gọi tên của bạn,
Cho nên chúng ta từ trong lễ xưa mà xem thấy, học sinh cùng đối với thầy giáo và đối với cha mẹ là b́nh đẳng. Ân đức của thầy là đem giáo huấn của Thánh hiền truyền dạy cho chúng ta, chúng ta mới hiểu được cách làm người. Giáo học này là từ minh minh đức mà ra. Chúng ta v́ sao có được minh đức, v́ sao hiểu được hiếu dưỡng cha mẹ? Đều là do thầy dạy, cho nên đối với thầy phải phụng sự. Trong phụng sự, y giáo phụng hành là then chốt. Thầy giáo dạy bảo chúng ta, chúng ta phải có tín tâm, phải có thể lư giải, phải thực hiện cho được lời dạy, như vậy mới không phụ công thầy. Đây là học tṛ hiếu học của thầy. Nếu như không tin đối với lời dạy của thầy th́ nhất định không nên theo ông ấy học. Vị thầy có cao minh hơn, có giỏi hơn, có đạo đức, có học vấn, bạn không có ḷng tin đối với ông ấy, bạn ở trong lớp của ông ấy nhất định sẽ không có thành tựu. Cho nên chúng ta lựa chọn thầy giáo không ǵ khác hơn lựa chọn một người mà bạn tôn kính nhất th́ thành công.
Người giảng: Lăo Pháp sư Tịnh Không
Địa điểm: Đại hội Hoằng pháp Malaysia
Thời gian: 09-09-2000
Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ
Biên tập: Phật tử Diệu Minh
Nguồn: TinhKhongPhapNgu.com
..."...Tất cả mọi việc thế gian,
Đều như mộng, huyễn, ảnh hiện,
Như giọt sương mai, điện chớp
florida80
12-26-2019, 20:20
Truy t́m Tự Ngă - Thích Tuệ Sỹ
Chúng ta hăy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng. Kinh Kim-cang được soạn tập bằng tiếng Phạn tiêu chuẩn, nhưng rất tiếc chúng ta không thông thạo thứ cổ ngữ này, nên cũng chắc chắn là không thể hiểu hết những tư tưởng ẩn áo của kinh hàm chứa trong các từ ngữ và các câu văn. Như người không biết chữ Hán mà đọc thơ Đường qua một bản dịch th́ không thể thưởng thức hết giá trị của bài thơ. Lời thơ là lời của phàm phu mà c̣n vậy, huống chi lời kinh là lời của Phật. Tuy nhiên, không hiểu chữ Hán th́ đọc thơ Đường qua các bản dịch cũng được. Nhưng cũng nên nói thêm là thế giới xưa nay chưa có Huệ Năng thứ hai.
Kinh điển Nguyên thủy và Đại thừa được kết tập không giống nhau. Kinh điển Nguyên thủy được kết tập theo dạng truyền khẩu; có những nét đẹp của nền văn học truyền khẩu. Kinh điển Đại thừa phần lớn được kư tải bằng văn tự, có những nét đẹp riêng của văn tự.
Văn học Đại thừa xuất hiện vào giai đoạn mà văn học Ấn Độ nói chung phát triển đến một h́nh thức nhất định, với văn chương thi ca, các thể loại về kịch, truyện, vốn rất ít được phổ biến trong thời Phật. Như kinh Pháp hoa chẳng hạn, mở đầu bằng nhân duyên Phật phóng quang, sau đó ngài Di-lặc hỏi, Văn-thù trả lời. Đó là phần mở đầu giới thiệu, như thường được thấy trong các thể loại kịch cổ.
Trong kinh Kim-cang, chúng ta sẽ thấy không giống như kinh điển Đại Thừa khác, mà lại gần với Nguyên thủy ở chỗ Phật ôm b́nh bát khất thực xong rồi trở về Tinh xá. Sau bữa ăn, các vị tỳ-kheo thường tập hợp tại giảng đường để thảo luận giáo lư. Bấy giờ, trong đại chúng có sự hiện diện của Tu-bồ-đề; và ngài bắt đầu thưa hỏi. Ở đây, không mở đầu bằng sự phóng quang, hay những thần thông biến hóa khác. Nh́n từ ư nghĩa văn học, người ta giải thích rằng, những vấn đề được nêu trong kinh Kim-cang là những sự việc trong đời sống, là những cái ăn, cái uống, nghỉ ngơi, không phải trong thế giới huyền bí kỳ ảo như là của Hoa nghiêm, Pháp hoa.
C̣n một nghĩa nữa mà chúng ta thấy có quan hệ đến lịch sử văn học.
Trong các kinh điển Nguyên thủy, các vị tỳ-kheo buổi trưa sau khi thọ thực xong, nếu không tụ tập tại giảng đường, th́ thường vắt tọa cụ trên vai, đi vào rừng, t́m đến một gốc cây mà ngồi nghỉ trưa. Có khi đức Phật ngồi ở một gốc cây, và các ngài Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, cũng ngồi ở một gốc cây gần đó. Cho đến xế chiều, các tỳ-kheo ngồi gần đó liền đi tới ngài Xá-lợi-phất, tới đức Phật để đảnh lễ, hoặc thưa hỏi giáo lư.
Trong kinh Kim-cang cũng thế; các tỳ-kheo tụ tập quanh đức Phật để chờ nghe Phật giảng Pháp.
Trong truyền thống Ấn Độ, các buổi giảng hay các lớp học của những người Bà-la-môn thường diễn ra giữa khu rừng, giữa cảnh thiên nhiên. Một lớp các đạo sĩ sống trong rừng, giảng giải ư nghĩa cũng như nghi thức Vệ-đà; tư tưởng triết học tôn giáo của họ được soạn tập thành bộ Sâm lâm thư. Đó là bộ Thánh điển về sau phát triển thành các Upanishad, tức Áo nghĩa thư.
Chúng ta nên hiểu tổng quát về Upanishad hay Áo nghĩa thư v́ nó liên hệ tới kinh Kim-cang rất nhiều, là điểm để chúng ta có thể tin là kinh Kim-cang thật sự do Phật nói hay không.
Một số vị nhận định kinh điển Bát-nhă từ h́nh thức kết cấu văn học đến nội dung tư tưởng, so sánh với các tập Upanishad, rồi kết luận Kim-cang cũng như toàn hệ Bát-nhă chỉ là một bộ phận của Upanishad, hay phỏng theo Upanishad; nghĩa là, không phải Phật thuyết.
Upanishad là giai đoạn phát triển cao của tư duy Ấn Độ, bắt đầu từ Vệ-đà. Có tất cả bốn bộ Vệ-đà, nhưng trong thời Phật chỉ mới xuất hiện có ba, mà kinh Phật gọi là Tam minh. Bà-la-môn tam minh là người thông thạo ba bộ Vệ-đà. “Minh” là từ Hán dịch của Vệ-đà. Thời Phật, chưa xuất hiện Upanishad.
Trên kia, chúng ta đă nói đến Sâm lâm thư. Đây là từ dịch tiếng Phạn Aranyaka. Ở nơi khác, chúng ta có nói các tỳ-kheo a-lan-nhă sống trong rừng thời đức Phật. A-lan-nhă là từ phiên âm của aranyaka.
Luật tạng có kể, một thời, đức Phật nhập thất, không một tỳ-kheo nào được phép đến gần hương thất của Phật, trừ vị thị giả. Bấy giờ có một nhóm ba chục vị là những tỳ kheo a-lan-nhă đến thăm Phật. V́ Phật đang nhập thất, nên các vị tỳ-kheo tại trú xứ này ngăn cản. Nhưng các tỳ-kheo a-lan-nhă nói, họ được Phật cho phép đến gặp Ngài bất cứ lúc nào. V́ các vị này chỉ sống trong rừng nên ít có cơ hội gặp Phật. Rồi họ vẫn tới gơ cửa hương thất. Thật đáng kinh ngạc, từ trong thất đức Phật liền mở cửa.
Đức Phật truyền dạy những pháp ǵ cho các tỳ-kheo A-lan-nhă? Không có kinh điển nào tường thuật. Đức Phật đă có biệt thị đối với họ, tất cũng có giáo pháp biệt truyền cho họ. Pháp ấy là pháp ǵ? Kinh điển Nguyên thủy không đề cập.
Ngài Tu-bồ-đề cũng là một tỳ-kheo a-lan-nhă, như được xác định chính trong kinh Kim-cang. Truyền thống Pāli cũng xác nhận điều này.
Các tỳ-kheo a-lan-nhă thường tu tập Không tam muội, như được Phật nói trong kinh Đại không, Trung A-hàm. Sau thời Phật, các Trưởng lăo chủ tŕ cuộc kết tập thứ hai cũng phần lớn tu tập Không tam muội, như được ghi chép trong Luật tạng. Các vị này cũng sống trong rừng. Không tam muội là thiền định y trên hành tướng vô ngă. Không và vô ngă là giáo nghĩa căn bản trong kinh Kim-cang.
Kinh nói: Hết thảy pháp hữu vi đều là như chiêm bao, như huyễn thuật, v.v...; đó là nói về giáo nghĩa Tánh không và Vô ngă bằng kinh nghiệm trực giác hay thực chứng. Giáo nghĩa này về sau được các Bà-la-môn học Vệ-đà thay thế bằng học thuyết như huyễn tức māyā và hữu ngă tức ātman. Những điểm tư tưởng này là tinh yếu của các tập Upanishad. Nói một cách đại cương, thế giới này chỉ là huyễn hóa, vậy ta là ai, hay ta là cái ǵ, trong tấn tuồng huyễn hóa này?
Như vậy có thể thấy ảnh hưởng của các tỳ-kheo a-lan-nhă đối với các đạo sĩ soạn tập Sâm lâm thư để rồi phát triển thành tư tưởng triết học Upanishad. Thế nhưng, về sau do sự phục hồi địa vị của giai cấp Bà-la-môn, những người Ấn Độ giáo thâu thái rất nhiều giáo nghĩa của Phật trong đó có giáo nghĩa Tánh không diễn thành như huyễn, rồi cho rằng tư tưởng Không trong các bộ Bát-nhă là do ảnh hưởng của Upanishad. Cũng có nhiều Phật tử tin điều này nên cho rằng kinh điển Bát-nhă cũng như của cả Đại thừa chịu ảnh hưởng của Bà-la-môn giáo, thay v́ ngược lại.
florida80
12-26-2019, 20:21
Vậy, Upanishad là phản ứng của các Bà-la-môn, họ vay mượn giáo nghĩa Tánh không tức Vô ngă trong các kinh Bát-nhă. V́ phủ nhận sự tồn tại của tự ngă thường hằng là phủ nhận luôn cả sự tồn tại của Brahman, là Thượng đế Sáng tạo.
Ngay cả trong Phật giáo, sau khi Phật nhập niết-bàn, trong nội bộ Phật giáo đă xuất hiện một số bộ phái chấp nhận có tự ngă hay ātman, như Độc tử bộ hay Hóa địa bộ. Những bộ phái này lư luận rằng, nếu không tồn tại một tự ngă, không có một cái tôi thường hằng bất biến, vậy ai hay cái ǵ luân hồi, lang thang ch́m nổi trong biển sinh tử? Cũng nên biết rằng tự ngă hay ātman trong tư tưởng tôn giáo Ấn Độ là cái mà trong các tôn giáo, Đông cũng như Tây, hiểu là linh hồn. Cho nên, có linh hồn mới có đầu thai, mới có việc sinh lên Thiên đường hay đọa địa ngục như là hậu quả của hành vi tội hay phước.
Giáo nghĩa Phật dạy, có tác nghiệp thiện ác, có quả báo lành dữ, nhưng không có người hành động, không có người thọ quả.
Đây là điều rất khó hiểu.
Chúng ta nên đi từ cái dễ, rồi đến cái khó. Cái dễ hiểu là tất cả đều có một cái tôi: tôi đi, tôi đứng, tôi ăn, tôi ngủ, v.v... Nhưng khi người ta ngủ, mà ngủ nhưng không chiêm bao, th́ h́nh như cái tôi này biến mất. Hoặc như người bị tai nạn mà mất trí nhớ, không c̣n nhớ ra ḿnh là ai. Nếu được chữa trị, trí nhớ phục hồi, bấy giờ vẫn là cái tôi như khi trước. Rồi khi người ta chết, cái tôi ấy c̣n hay không? Thừa nhận c̣n, tức là thừa nhận có linh hồn tồn tại bất biến, khi thức cũng như khi ngủ, lúc c̣n sống cũng như sau khi chết.
Đấy là kinh nghiệm thường nhật về một cái tôi. Kinh nghiệm ấy là sự tích lũy trong một đời người những hoài niệm, những đau khổ, hạnh phúc, những danh vọng, khốn cùng. Từ những kinh nghiệm tích lũy ấy mà h́nh thành ư tưởng về một cái tôi thường hằng. Trong tŕnh độ thấp nhất, cái tôi ấy được đồng hóa với thân xác và những sở hữu cho thân xác. Vị đại hoàng đế có cả một đế quốc: ta và đế quốc của ta.
Nhưng một khi thân xác này tan ră, mà chắc chắn là như vậy, th́ ta là ai, mà đế quốc này là ǵ? Những hoàng đế ấy, như Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế, Thành Cát Tư Hăn, tin vào một cái ta và thân xác ta có thể tồn tại lâu dài, v́ không muốn cái danh vọng, quyền lực đang có mất đi; họ đi t́m đạo sỹ, cầu thuốc trường sinh. Những người đi t́m trường sinh ấy, bây giờ ở đâu?
Lại c̣n những người khác, giàu sang có cả một cơ đồ, nhưng khi thị trường chứng khoán sụp đổ, nhảy lầu tự tử. Ta và tài sản của ta; cái này mất th́ cái kia cũng không c̣n lư do tồn tại. Thật sự th́ ở đây ta là ai, trong cái cơ đồ phú quư ấy?
Với một hạng người khác, ta là danh, đă sinh ra trong trời đất, th́ phải có danh ǵ với núi sông. Một mai vật đổi sao dời, để bảo tồn danh tiết, họ đâm cổ tự sát. Vậy, ta là ǵ trong cái danh này?
Với những tín đồ tôn giáo tin vào một linh hồn bất tử, một cái ta tồn tại trên thiên đường, hưởng những lạc thú mà Thượng đế ban cho v́ đă biết phục tùng Thiên ư. V́ thế họ sẵn sàng giết đồng loại để chinh phục nước Chúa dưới trần gian.
Ta là ai, ta là cái ǵ, để v́ phục vụ nó, bảo tồn nó, mà tự gây khổ cho ḿnh, và cũng gây khổ cho người? Có chăng một cái ta thường hằng, siêu việt thân xác này, và tâm trí này, để cho mọi hành vi trong một đời người, dù thiện hay ác, ngu hay trí, chỉ nhằm mục đích là phục vụ nó, v́ ích lợi của nó, v́ hạnh phúc của nó, v́ danh dự của nó, v́ quyền lực của nó?
Trước khi muốn hỏi ta là ai, trước hết nên hỏi, từ đâu có ư tưởng về cái ta ấy?
Có một người mới mua về một con chó, đặt tên cho nó Lucky. Ban đầu, gọi Lucky, nó dửng dưng, vô cảm. Dần dần, nghe hai tiếng Lucky, nó mừng rỡ, ngoắt đuôi. Nó đă hiểu Lucky là cái ǵ, và như vậy nó cũng hiểu nó là cái ǵ. Nó h́nh thành một cái vỏ tự ngă mới qua một cái tên gọi mới. Trước khi có một tên gọi, nó vẫn tồn tại, và tự bảo vệ sự tồn tại ấy. Nó t́m thức ăn, t́m chỗ ngủ, và cắn bất cứ ai đến gần như muốn đe dọa, uy hiếp nó.
Khi được đặt tên, toàn thể sự tồn tại ấy bây giờ tồn tại dưới một cái tên gọi Lucky. Dù vậy, nếu có ai xúc phạm đến cái tên Lucky, nó không có phản ứng ǵ. Nhưng với một con người, khi cái tên gọi, một cái danh ǵ đó, mà bị xúc phạm, th́ hăy coi chừng. Tất nhiên, con người cho đến một tuổi nào đó mới biết nó tên ǵ, cũng như con Lucky vậy. Rơ ràng, cái danh mang nội hàm tự ngă ấy chỉ là hư danh, nhưng con người cũng như vậy đau khổ hay hạnh phúc bởi chính cái hư danh đó.
Một ông thầy giáo có cái ngă là thầy giáo. Ai xúc phạm đến danh từ thầy giáo, chức nghiệp nhà giáo, người ấy phải bị khiển trách.
Nó là ông vua, nhưng ban đêm lẻn ra ngoài thành chơi. Dân nào không biết mà đối xử vô lễ như với dân thường, hăy coi chừng.
Tự ngă chỉ là một cái danh, và đó là giả danh do nghề nghiệp, hay do chỗ ngồi, chỗ đứng giữa mọi người mà đạt thành. Cái giả danh chỉ mới h́nh thành trong một đời người thôi, mà đă khó quên, khó trừ như vậy; nếu là cái ngă được tích lũy trong nhiều đời, tất không dễ ǵ trừ bỏ.
Cái ngă của ông xă trưởng chỉ to bằng cái xă của ông. Cái ngă của một quốc vương to bằng cái vương quốc của ông. Cái ngă của một nhà thông kim bác cổ th́ dài bằng thời gian kim cổ, rộng bằng không gian đông tây. Cái ngă của một chúng sinh luân hồi trong tam giới, tất cũng lớn bằng cả tam giới. Cái ngă ấy không phải dễ nhận ra. Không nhận ra nó, để thấy nó là thật hay giả, th́ cũng không thể tận cùng biên giới đau khổ.
Trong kinh Phật có một câu chuyện:
florida80
12-26-2019, 20:22
Một thiên thần kia, hiện đến Phật, nói rằng trong quá khứ, ông là một tiên nhân, có tên là Ngựa Đỏ, có phép thần thông quảng đại. Ông muốn thấy được biên tế vũ trụ, để thấy được biên tế khổ, và chấm dứt khổ. Thế là ông bắt đầu đi tìm biên tế của vũ trụ. Tuổi thơ của ông bấy giờ dài đến một đại kiếp, đại khái là tỷ tỷ năm, nhưng không bao giờ thấy được cái biên tế của vũ trụ. Rồi ông hỏi Phật: “Có cần đi suốt cái biên tế vũ trụ này mới chấm dứt khổ không?” Phật xác nhận rằng, “Nếu không thấy được cái biên tế của vũ trụ th́ không chấm dứt được khổ”. Đức Phật lại nói thêm: “Nhưng không cần. Chỉ trên cái thân cao một tầm này, với năm uẩn nầy, ta có thể biết được thế gian sinh, thế gian diệt”.
Điều đó có nghĩa rằng, thân thể này, với xúc cảm này, với tư duy này, với nhận thức này, là tập hợp tích lũy cả một khối kinh nghiệm lớn bằng biên tế vũ trụ. Cái khối ấy đông kết thành cái vỏ cứng dày. Nó chỉ có thể bị đập vỡ bằng chày Kim-cang mà thôi.
Nói tóm lại, giáo nghĩa trong kinh Kim-cang bắt đầu bằng sự đối trị tự ngă: vô ngă tưởng, vô nhân tưởng… Trong các tôn giáo, trong mỗi hệ thống tư tưởng triết học, đều có riêng một quan niệm về tự ngă. Trong nhiều tôn giáo, tự ngă là linh hồn do Thượng đế ban cho. Giữ cho linh hồn đừng bị mất, để sau này được hưởng ân phước của Thượng đế, đó là mục đích đời người.
Trong Nho giáo, người quân tử phải biết lập thân và lập danh. Lập thân cho hiện tại, lập danh cho hậu thế. Đó là xác lập tự ngă trong xă hội.
Lăo Tử nói: ta có đại hoạn v́ ta có thân. Nếu ta không có thân, nào đâu có đại hoạn? Đó là hăy sống trọn tuổi trời chớ đuổi theo hư danh, hăy để cho thân và danh cùng mục nát với cỏ cây.
Các đạo sĩ Upanishad đi t́m cái tự ngă chân thật là ǵ. Vượt ra ngoài cái tôi trong đời sống thường nhật, và cái tôi lang thang trong luân hồi để chịu đau khổ, có hay không có một cái tôi thường hằng, chân thật? Cái tôi như giọt nước biển bị cô lập trong một cái vỏ cứng nhỏ mọn, vô nghĩa, trôi nổi bồng bềnh trong đại dương; để rồi khi cái vơ cứng ấy đập vỡ, giọt nước ấy sẽ ḥa tan vào nước biển trong đại dương. Khi ấy, Tiểu ngă ḥa tan vào Đại ngă.
Trong Phật giáo, Tiểu ngă hay Đại ngă, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo. Cái ngă được h́nh thành trong đời này, do ảnh hưởng truyền thống, tôn giáo, tư tưởng, xă hội, để từ đó h́nh thành một nhân cách, một linh hồn, và rồi chấp chặt vào đó để mà tồn tại. Cái đó được gọi là phân biệt ngă chấp.
Cái ngă do tích lũy từ điên đảo vọng tưởng nhiều đời, h́nh thành bản năng khát vọng sinh tồn nơi cả những sinh vật li ti nhất; đó là câu sinh ngă chấp.
V́ vậy, không cần đi t́m ở đâu Tiểu ngă và Đại ngă, mà cần diệt trừ khái niệm giả danh bởi vọng tưởng điên đảo.
Thích Tuệ Sỹ
(Nguồn: TS. Pháp Luân số 60)
florida80
12-26-2019, 20:24
Chứng minh của Khoa học về nhân quả luân hồi
Tập 1
Kính thưa chư vị Pháp sư, chư vị Đại đức, chư vị đồng tu, xin chào mọi người!
Hậu học rất vinh dự lần đầu tiên được đến với quư đảo Đài Loan, có được pháp duyên thù thắng như thế này, có thể cùng với chư vị Đại đức ở nơi đây thảo luận: “Chứng minh của khoa học về nhân quả luân hồi”. Trong thời đại hiện nay, buổi thảo luận này rất là quan trọng.
Hậu học trước khi đến Đài Loan đă đi đến Hồng Kông để chúc tết Ân sư Tịnh Không thượng nhân. Ân sư Ngài đă ân cần dặn ḍ tôi: “Giáo dục nhân quả là giáo dục quan trọng nhất để cứu văn thế đạo nhân tâm”. V́ vậy Ân sư Ngài cũng khuyến khích hậu học đi các nơi trên thế giới để thúc đẩy tuyên giảng nhân quả luân hồi. Cho nên hậu học cảm thấy rằng sứ mệnh giáo dục nhân quả vô cùng quan trọng, v́ vậy không suy nghĩ, đă đi đến quư đảo để chia sẻ chủ đề này với mọi người, cũng là để thỉnh giáo với mọi người.
Chuyến vân du diễn giảng ngày hôm nay tại quư đảo là điểm cuối cùng, điểm thứ 11. Trong hai tuần này, hậu học tôi đi đến Đài Nam, Cao Hùng, Cương Sơn, Đấu Lục, kể cả các nơi ở Đài Bắc v.v… để diễn giảng, cũng đă đến nhà tù, đến nơi tạm giam, đến hội trường của sở cảnh sát, cùng mọi người thảo luận với nhau.
Đối với nhân quả luân hồi và chân tướng của vũ trụ nhân sanh, kỳ thật từ xưa đến nay người ta mãi vẫn đang tìm tòi, bởi v́ con người có sanh ắt sẽ có tử. Về việc sanh tử, mọi người nên suy nghĩ, sanh tử đến như thế nào, sanh từ nơi nào đến, chết đi về đâu? Thậm chí nên suy nghĩ rằng có thể chấm dứt được chuyện sanh tử không? Không sanh không tử? Những vấn đề này có thể nói trong lịch sử đă nghiên cứu mấy ngàn năm rồi; ở trong những tín ngưỡng, văn hóa, tôn giáo trong và ngoài nước cũng có những đáp án rất phong phú.
Chẳng hạn như Khổng Tử - Thánh nhân của dân tộc chúng ta - trong chú giải “Kinh Dịch” có cho chúng ta biết về “Tinh khí vi vật du hồn vi biến”. Du hồn là nói đến trạng thái con người trước khi đầu thai và sanh ra, tinh khí là chỉ trạng thái cha mẹ sinh ra sau khi đầu thai. Tuy nhiên, Khổng Tử Ngài cũng có nói “Vị tri sanh yên tri tử”. Cho nên với đạo lư của sự sống Ngài giảng rất nhiều, nhưng đạo lư về cái chết th́ nói rất ít, nhưng Ngài cũng nói sơ qua cho chúng ta: “Sự thật con người sau khi chết vẫn c̣n tồn tại sự sống”.
Cũng gần giống như Ngài Khổng Tử, cùng thời đại đó, có Thánh nhân Plato ở Phương Tây. Trong tác phẩm “Lư Tưởng Quốc” của ông cũng mô tả đến những vấn đề của sự sống và cái chết, đặc biệt có người miêu tả t́nh tiết của con người khi linh hồn ra khỏi thể xác. Phật Tổ của chúng ta - Thích Ca Mâu Ni Phật đối với sanh tử luân hồi, chân tướng trong sáu đường Ngài đă giảng cho chúng ta nghe càng rõ ràng hơn.
Ngoài những vị cổ Thánh tiên Hiền đă giảng dạy cho chúng ta về chân tướng của vũ trụ nhân sanh này, th́ trong lịch sử trong và ngoài nước cũng có rất nhiều ghi chép nổi tiếng đối với chuyện chuyển thế luân hồi. Trong chính sử của đất nước ta cũng có rất nhiều câu chuyện nói đến sự chuyển kiếp luân hồi. Chúng ta tạm thời không bàn chuyện giả sử mà chỉ bàn chính sử, đều được sự công nhận của các vị vua ở trong chính sử, có nhiều bài viết về vấn đề này. Có bài viết nói nhà thơ tiên Lư Bạch đời nhà Đường sau này chuyển kiếp thành Quách Tường Chánh ở vào đời nhà Tống (chuyện này có ghi chép trong “Tống Sử” trang 10 tập 3 quyển 444). Vào thời Nam Bắc Triều vẫn c̣n có Lương Nguyên Đế, tiền kiếp của ông là một vị xuất gia tên là Miễu Mục Tăng (Chuyện này ghi trong “Nam Sử Lương Kư” ở trang 1 tập 3 quyển 8). C̣n có câu chuyện người trời chuyển kiếp, ví dụ như trong “Đường Thư” trang 3 tập 2 quyển 27 có ghi chép câu chuyện của Hoàng đế Đường Đại Tông đời Đường là một vị thần đến đầu thai.
Ngoài ra, c̣n có chuyện con người chuyển kiếp thành động vật. Thí dụ nổi tiếng là Đại tướng Bạch Khởi thời đại Chiến Quốc nhà Tần cùng với nước Triệu đánh nhau. Đại tướng nước Triệu là luận binh trên giấy, không biết cách sử dụng binh. Kết quả là 400.000 binh lính nước Triệu bị bắt làm tù binh đại bại, đương nhiên 400.000 binh lính của nước Triệu trong tay không một tấc sắt đều bị chôn sống. V́ vậy, về sau trong “Đông Châu Liệt Quốc Chí” có ghi lại vào những năm cuối đời Đường, có một hôm trên trời bỗng nổi lên một trận sấm sét và đánh một con trâu chết tươi. Kết quả phát hiện trên bụng của con trâu có viết hai chữ “Bạch Khởi”. Đối với câu chuyện này lịch sử có b́nh luận: “Bạch Khởi do giết người quá nhiều, cho nên ông ta đời đời kiếp kiếp đều phải mang thân súc sanh để chịu quả báo, và c̣n phải chịu nhận quả báo bị sét đánh chết”.
florida80
12-26-2019, 20:28
Trong những ghi chép của lịch sử c̣n đăng thêm lời giáo huấn của cổ Thánh tiên Hiền, v́ vậy người xưa đối với chuyện chuyển kiếp luân hồi nhân quả báo ứng kỳ thật chẳng nghi ngờ chút nào. Con người trong thời đại này, do khoa học phát triển, đối với chuyện luân hồi chuyển kiếp bắt đầu không tin tưởng, đây có lẽ là bởi vì cho rằng hễ nói đến luân hồi th́ chỉ trong tôn giáo mới có, cho rằng đây là khái niệm ở trong tôn giáo. Tất cả đều bị bác bỏ cho là mê tín, là phản khoa học. Đại khái v́ khoa học và tôn giáo mấy trăm năm lại đây thật giống như oan gia.
Bạn xem trong thập kỷ 70, khi Tây Âu đang lúc khoa học vừa mới bắt đầu khởi sắc, lúc đó có rất nhiều nhà thiên văn học đă phát hiện trái đất không phải là trung tâm của vũ trụ. Học thuyết này vi phạm quan điểm của tôn giáo lúc đó, cho nên bị tôn giáo đồ lúc đó bác bỏ, cho là dị đoan tà thuyết. Giống như nhà thiên văn học người Ư là Galileo, lúc đó khăng khăng giữ học thuyết “Trái đất thật sự không phải là trung tâm của vũ trụ mà chỉ là một hành tinh nhỏ ở bên trong vũ trụ”. Học thuyết này hiện nay chúng ta đều biết là đúng, nhưng vào thời đó, người khăng khăng cố giữ học thuyết này đều bị tôn giáo đồ hăm hại, Galileo bị bắt bỏ tù chung thân. Còn có Bruno cũng bị bắt thiêu sống. Bạn xem, người xưa dùng tôn giáo để phản bác khoa học, c̣n người hiện nay th́ lại dùng khoa học để phản bác tôn giáo, đây gọi là nhân nào quả đó, nhân quả báo ứng rơ ràng. Nhưng chúng ta nên biết, chân lư là phải chịu muôn vàn thử thách của khoa học và cũng chẳng sợ khoa học kiểm nghiệm.
Trong mấy mươi năm gần đây, ở phương Tây, đặc biệt là Hoa Kỳ, sự phát triển của những ngành khoa học như tinh thần y học, tử vong y học, tâm lư học, sinh lư học thực sự đă cung cấp cho chúng ta rất nhiều chứng cứ khoa học chứng thực con người thật sự có luân hồi chuyển kiếp. Hậu học mấy năm gần đây không ngừng sưu tầm và nghiên cứu những tài liệu nói về vấn đề này. Kết quả tài liệu nói về vấn đề này rất là phong phú. Hậu học hai ngày hôm nay có được nhân duyên như vậy liền đến giới thiệu một cách đơn giản cho mọi người về thành quả của Phương Tây đối với chuyện luân hồi chuyển kiếp.
Trước khi giới thiệu, tôi muốn kể cho mọi người một câu chuyện điển h́nh. Câu chuyện này xảy ra ở Trường Đại học Virginia của Hoa Kỳ. Giáo sư Ian Stevenson, nhà tinh thần tâm lư học nổi tiếng, cả cuộc đời bốn mươi mấy năm đă sưu tập và nghiên cứu hơn 3.000 câu chuyện, những câu chuyện này chứng thực là có sanh tử luân hồi. Đối tượng nghiên cứu của ông chủ yếu là những em thiếu nhi từ hai đến bảy tuổi. Các em thiếu nhi ở trong giai đoạn có thể nói chuyện được. Các em có thể nhớ lại tiền kiếp của chính bản thân ḿnh. T́nh huống được kể ra đều là những chuyện đă xảy ra mấy mươi năm, thậm chí mấy trăm năm trong quá khứ, mà c̣n có thể miêu tả lại những chi tiết này thật tỉ mỉ và chân thật. Mọi việc đều được xác minh.
Một kiệt tác trong giai đoạn đầu của Giáo sư Stevenson có tên “Hai Mươi Chuyện Tái Sanh Điển H́nh”. Trong tác phẩm này, hậu học xin chọn ra một câu chuyện để kể cho mọi người nghe. Câu chuyện này kể về một bé gái người Ấn Độ tên là Swarnlata.
"Swarnlata ra đời vào ngày 2 tháng 3 năm 1948, tại thành phố Phanna của Ấn Độ. Khi cô bé 4 tuổi, cô bé này có thể kể lại chuyện của chính bản thân ḿnh đă gặp trong kiếp trước. Bản thân cô kiếp trước sống ở phố Kai Dili, trong gia đ́nh mang họ Pashake. Gia đ́nh cô hiện sống và gia đ́nh mà kiếp trước cô sống căn bản là hai nhà chẳng có quen biết nhau. Có một hôm, cô bé này cùng với người cha của ḿnh đi ngang qua phố Kai Dili kiếp trước cô đă sống. Kết quả khi vừa thấy thành phố này, cô cảm giác như rất quen thuộc, trước đây đă sống qua nơi này. Cho nên cô liền nói với cha của ḿnh:
“Thưa cha, nhà của con ở gần chỗ này, chúng ta đi đến đó uống trà nhé!”.
Nhưng cha của cô trả lời:
“Con gái ngốc ơi, nhà của ḿnh không phải ở đây!”.
Kể từ lúc đó, cô bé này liền bắt đầu không ngừng miêu tả đủ hết những câu chuyện ở kiếp trước, gây sự chú ư cho cha mẹ."
Về sau, câu chuyện này được truyền đến chỗ của Giáo sư Stevenson, thế là Giáo sư cùng với những đồng nghiệp người Ấn Độ, các nhà nghiên cứu cùng nhau tiến hành điều tra xác minh câu chuyện này. Những vị Giáo sư này liền căn cứ vào các t́nh huống mà cô bé đă miêu tả, t́m đến gia đ́nh nơi cô bé đă sống ở kiếp trước. Th́ ra, cô bé này kiếp trước ở trong gia đ́nh này là một người mẹ. Cô tên là Shakespeare, qua đời vào năm 1939.
Lúc cô bé này đi đến gia đ́nh mà kiếp trước đă sống, dường như vừa gặp được mỗi người trong gia đ́nh cô cảm thấy quen, tên của mỗi một người đều có thể nói ra liền một mạch. Chân thật giống như người thân cũ trở về nhà, hỏi thăm sức khỏe mọi người lâu rồi mới gặp lại, hỏi thăm mọi người đều khỏe hết chứ?
Các vị giáo sư này liền tiến hành thẩm tra cô bé, cho cô bé làm một số trắc nghiệm. Trong đó có trắc nghiệm cho Shakespeare kiếp trước là một người mẹ, bỏ lại người chồng và đứa con. Gọi đứa con đến trước mặt của cô bé, cố ư làm rối loạn suy nghĩ của cô bé, liền giới thiệu với cô bé rằng người này là như vậy như vậy mà không giới thiệu ông ấy là con của Shakespeare. Kết quả cô bé này cũng nhận ra được đứa con trong tiền kiếp của ḿnh, không hề bị rối loạn tư tưởng, kiên quyết nói rằng đây chính là con của tôi, tên của ông ấy là Maili và c̣n biểu hiện t́nh yêu thương của người mẹ hiền đối với đứa con trong tiền kiếp của ḿnh. Chúng ta biết được, người con của cô ấy trong đời này tuổi tác lớn hơn cô, không ngờ rằng cô bé này biểu hiện ra thật là giống một người mẹ hiền đối đăi với con của ḿnh.
Càng thú vị hơn là cô bé Swarnlata này có thể kể ra câu chuyện riêng tư của ông chồng tiền kiếp của cô. Vốn dĩ người chồng trong tiền kiếp của cô đă lấy đi 1.200 rúp tiền riêng ở trong tủ tiền của cô, vẫn chưa hoàn trả lại cho cô. Câu chuyện vẫn chưa có ai biết được, chỉ có chồng của cô ở trong ḷng biết rất rơ. Kết quả là cô bé đă đem câu chuyện này kể hết ra cho mọi người nghe, khiến cho ông chồng của cô đỏ mặt tía tai mà chấp nhận.
V́ vậy, chúng ta không nên cho rằng đă mượn tiền của người trong nhà không chịu hoàn trả là không có chuyện ǵ nhé! Kết quả chẳng ngờ chủ nợ đến đời sau họ vẫn c̣n nhớ. V́ vậy không được nói mắc nợ không chịu trả, mà nhất định phải trả.
Mọi người có thể chú ư đến cô bé này tự ḿnh nói:
“Bà Shakespeare đă qua đời vào năm 1939”.
Câu chuyện này cũng đúng với sự thật, đă qua sự xác minh của các vị giáo sư. Cuộc đời của bé gái này được sinh ra vào năm 1948, cho nên thời gian cách nhau ở khoảng giữa là chín năm.
Có người sẽ hỏi trong khoảng chín năm đó cô bé đă đi đâu? Cô bé này chính từ miệng ḿnh nói ra, cô bé nói trong chín năm đó cô đă đi đầu thai một lần ở một làng quê nhỏ nước Bengal (là quốc gia gần với Ấn Độ), và cũng là một bé gái. Cô bé này đến chín tuổi th́ qua đời. Làm sao chứng minh đây? Cô bé này rất vui vẻ hát một bài dân ca của nước Bengal, mà c̣n hát đi hát lại một cách say đắm trong tiếng hát của ḿnh, nhảy múa rất uyển chuyển. Mẹ của cô bé cũng như mọi người đều không hiểu tiếng Bengal, cho nên chỉ nh́n xem cô bé vừa hát vừa nhảy, cũng không biết cô đang hát cái ǵ, đang nhảy điệu ǵ, chỉ nh́n thấy cô bé trong bộ dạng rất là thỏa măn.
florida80
12-26-2019, 20:28
Về sau, Giáo sư Stevenson cùng với các đồng nghiệp người Ấn Độ của ông trong lúc đi điều tra, trong đó có một vị học giả người Ấn Độ biết được tiếng Bengal, cho nên trong lúc bé gái đang hát liền vội vàng ghi lại lời của bài hát. Những ca từ này là miêu tả người nông dân đang trong mùa bội thu. Tâm trạng vui mừng đó là khen ngợi thiên nhiên. Những ca từ này được phiên dịch sang tiếng Anh, cũng được in trong luận văn của Giáo sư Stevenson. Về sau, các vị giáo sư này liền đem những ca từ này, thật ra là muốn đi t́m cô bé đă nói ở kiếp trước thuộc làng quê của nước Bengal. Kết quả thật sự t́m được. Vừa xác minh, quả nhiên người ở trong làng này họ thật sự rất thích hát bài dân ca này và cũng có thể vừa hát vừa nhảy rất uyển chuyển theo bài hát. Cho nên, thí dụ này bày ra sờ sờ trước mắt của chúng ta, chứng minh “Con người sau khi chết không phải không c̣n ǵ, mà đích thực là có luân hồi chuyển kiếp”.
Con người hiện đại chúng ta chẳng tin có chuyện luân hồi như vậy, cho nên làm ra dáng vẻ luân hồi là mê tín không phù hợp với tinh thần khoa học. Vậy chúng ta xem thử cái ǵ được gọi là tinh thần khoa học? Tinh thần khoa học có thể nói có hai điểm: một cái gọi là “Thực chứng cầu chân” và một cái gọi là “Khả trùng phục tánh”. “Thực chứng cầu chân” là chỉ sự thật cầu thị, như vậy mà thừa nhận; “khả trùng phục tánh” là bạn làm cái thực nghiệm này lặp đi lặp lại nhiều lần. Trương Tam làm cũng như vậy, Lư Tứ làm cũng như vậy, Vương Ma Tử làm th́ cũng như vậy. Kết luận đều là như nhau, th́ điều này mới được gọi là khoa học thực nghiệm.
Giáo sư Stevenson căn cứ vào tinh thần khoa học, dùng hơn 3.000 trường hợp điển h́nh, lặp đi lặp lại v́ chúng ta mà chứng minh luân hồi là thật sự có. Với ông, mỗi trường hợp đều được tiến hành điều tra nghiên cứu tỉ mỉ, một chút cẩu thả cũng không có, cho nên cũng nhận được rất nhiều lời khen ngợi cao độ của giới khoa học, giới học thuật Hoa Kỳ.
Tạp chí y học của Hoa Kỳ có tên “Nghiên Cứu Về Bệnh Của Năo Và Thần Kinh” đối với Giáo sư Stevenson có b́nh luận và đánh giá cao. Tạp chí nói rằng:
“Nếu như Giáo sư Stevenson không phải đang gây ra một điều sai lầm to lớn, th́ chắc chắn ông phải là Galileo của thế kỷ 20”.
Người Hoa Kỳ nói chuyện đều thích nói ngược, họ nói:
“Nếu như bạn không phải đang làm ra một điều sai lầm”.
Đương nhiên ông không làm điều sai lầm, làm sao mà nói một người làm sai mà làm hơn 40 năm, nghiên cứu hơn 3.000 trường hợp, v́ vậy mới khen ngợi ông, nói ông là Galileo của thế kỷ thứ 20.
Chúng ta vừa nhắc đến Galileo, nhà thiên văn học của thế kỷ 17 người Ư. Lúc đó, ông đề xuất học thuyết trái đất không phải là trung tâm của vũ trụ. Đối với tôn giáo thời đó, kiểu quan niệm truyền thống này là một thách thức và chấn động vô cùng to lớn. Chúng ta biết rằng, hiện nay thế kỷ 20, Giáo sư Stevenson đă chứng minh nghiên cứu khoa học về luân hồi, điều này cũng đúng với quan niệm khoa học truyền thống, là một thách thức và chấn động vô cùng to lớn. Chúng ta tin tưởng, cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học, sự thật của việc luân hồi càng ngày càng được nhiều người trong xă hội chấp nhận.
Ở phương Tây, đối với việc nghiên cứu khoa học về luân hồi chuyển kiếp có thể nói là kết quả vô cùng phong phú. Hậu học có thể nói trong khoảng thời gian bốn giờ ngắn ngủi này phải kể ra những câu chuyện này là chuyện không phải dễ dàng. Hậu học tôi cơ bản đem kết quả nghiên cứu khoa học của phương Tây chia thành năm lĩnh vực nghiên cứu. Chia ra cũng không chuẩn xác lắm, nhưng có thể dễ dàng cho việc chia sẻ.
NĂM LĨNH VỰC MÀ PHƯƠNG TÂY CHỨNG MINH VIỆC NGHIÊN CỨU LUÂN HỒI:
Thứ nhất, nghiên cứu linh hồn tồn tại.
Thứ hai, nghiên cứu điều tra trường hợp những người có thể nhớ được kiếp trước của ḿnh.
Thứ ba, dùng phương pháp thôi miên. Đây là chỉ một số bác sĩ tâm lư đến giúp trị bệnh những bệnh nhân tâm thần, họ dùng phương pháp thôi miên giúp nghiên cứu một số bệnh nhân tâm thần nhớ về kiếp trước.
Thứ tư, nghiên cứu đối với đời sống trong không gian không đồng duy thứ. Đời sống trong không gian duy thứ khác nhau này nói một cách đơn giản chính là quỷ, là thần (người phương Tây gọi là Thiên sứ). Loại đời sống tâm linh này nhục nhăn nh́n không thấy được.
Thứ năm, nghiên cứu đối với đặc dị công năng. V́ rất nhiều người có đặc dị công năng có thể quan sát được kiếp trước, báo trước được cái gọi là quá khứ vị lai. Những người này đối với việc nghiên cứu luân hồi chuyển kiếp cũng có rất nhiều cống hiến.
Sau khi chúng tôi chia sẻ xong năm lĩnh vực nghiên cứu này, chúng ta cần tiến thêm một bước đi sâu vào tư duy, chứng thực sự tồn tại của luân hồi là thật. Vậy chúng ta hăy nghĩ xem, luân hồi diễn ra như thế nào? Nên tiến thêm một bước mà suy xét.
Trong sự luân hồi của chúng ta, sự thật là rất nhiều đau khổ, có thể vượt qua sanh tử luân hồi mà vĩnh viễn thoát khỏi sự đau khổ hay không? Hai ngày này, tôi đến đây là để cùng chung thảo luận những vấn đề này.
THỨ NHẤT, NGHIÊN CỨU CỦA NGƯỜI PHƯƠNG TÂY ĐỐI VỚI SỰ TỒN TẠI CỦA LINH HỒN.
Vấn đề thảo luận thứ nhất là sự nghiên cứu của người phương tây đối với sự tồn tại của linh hồn. Chúng ta biết, muốn chứng thực có sự luân hồi đương nhiên điều kiện đầu tiên chính là chứng minh con người có sự tồn tại linh hồn. Bạn nghĩ xem, nếu con người không có linh hồn thì thử hỏi cái ǵ đang luân hồi? Cho nên trước tiên chúng ta xem thử, giới khoa học Phương Tây làm sao mà chứng minh được sự tồn tại của linh hồn?
Nghiên cứu của Phương Tây chứng minh sự tồn tại của linh hồn - một trào lưu chủ yếu, cái gọi là “Nghiên cứu thể nghiệm cận cái chết”. Trên thực tế chỉ những người gần với tử vong, chính là những bệnh nhân sắp chết, họ có thể nằm trên bàn phẫu thuật, bác sĩ đang giải phẫu để cứu họ. Những người này họ hôn mê rồi qua đời, linh hồn của họ vào lúc này sẽ rời thể xác, hoặc là ở nơi xa nh́n thấy cái xác của ḿnh vẫn c̣n nằm trên bàn phẫu thuật. Tiếp theo đó, họ sẽ thấy rất nhiều cảnh tượng không như nhau. Sau đó linh hồn lại quay trở lại trong cái thân của ḿnh, bác sĩ trong lúc này đợi để cứu họ tỉnh lại. Sau khi họ tỉnh lại, họ liền kể lại cho bác sĩ điều mà họ đă thấy đă nghe sau khi linh hồn vừa ra khỏi thể xác. Loại thể nghiệm này gọi là thể nghiệm cận cái chết.
Thật ra, thể nghiệm cận cái chết là một hiện tượng khá phổ biến. Căn cứ vào thống kê của một công ty nổi tiếng ở Hoa Kỳ, ví dụ thống kê của Công ty Gallo, ước chừng có khoảng 13 triệu người thành niên ở Hoa Kỳ có trải qua thể nghiệm cận với cái chết, nếu tính thêm trẻ em th́ số lượng tăng rất đáng kể. Ở Trường Đại học Connecticut của Hoa Kỳ, có một vị nghiên cứu là Tiến sĩ Kenneth Ring. Nhóm nhỏ nghiên cứu của ông tiến hành nghiên cứu đối với mấy trăm trường hợp thể nghiệm cận cái chết. Họ kết luận rằng: khoảng 35% người bệnh có thể nghiệm cận cái chết.
Về phương diện này người ta nghiên cứu rất nhiều. Một số vị khá nổi tiếng xin được nêu tên trước mọi người là giáo sư khoa nhi của Đại học Washington Hoa Kỳ - Tiến sĩ Melvin Morse, giáo sư Đại học Nevada của Hoa Kỳ - Giáo sư Raymond Moody, chuyên gia nổi tiếng về vấn đề tử vong - Bác sĩ tâm lư Elisabeth Kübler-Ross. Vị Tiến sĩ Ross cả cuộc đời của ông sưu tầm hơn 20.000 trường hợp thể nghiệm cận cái chết, bao gồm tự bản thân của ông đă có hai lần thể nghiệm cận cái chết. Cho nên ông xứng đáng là chuyên gia nổi tiếng nghiên cứu về thể nghiệm cận cái chết.
Ngoài những vị này ra c̣n có giáo sư ở Đại học California của Hoa Kỳ - Giáo sư Charles Tart. Trong luận văn cũng có liên quan với thể nghiệm cận với cái chết, cũng không ngừng đăng tải trên tạp chí y học nổi tiếng của quốc tế. Ví dụ như tạp chí “The Lancet” có đăng “Nghiên cứu thể nghiệm cận cái chết” v.v… Vào năm 1978, một số học giả có thế lực ủng hộ công lý đă thành lập nên “Hiệp Hội Nghiên Cứu Thể Nghiệm Chết Lâm Sàng Quốc Tế”. Hiệp hội này là chuyên biệt để nghiên cứu phương diện thể nghiệm cận cái chết. Có thể nói sự nghiên cứu trên lĩnh vực này phát triển rất mạnh mẽ.
florida80
12-26-2019, 20:30
Tiếp theo, tôi xin giới thiệu ngắn gọn về thành quả nghiên cứu của họ.
Có một chuyên gia của Hội Nghiên cứu Tâm linh Hoa Kỳ tên là Karlis Osis. Từ năm 1959, ông bắt đầu tham gia nghiên cứu thể nghiệm cận cái chết, đă sưu tập mấy trăm trường hợp về lĩnh vực này. Sau này, vào năm 1972 đă phát biểu một báo cáo về nghiên cứu khoa học, chủ đề này có tên gọi “Thời Khắc Tử Vong”. Trong bản báo cáo này ông tổng kết thể nghiệm cận cái chết. Ông nói:
“Đa số bệnh nhân lúc lâm mạng chung thời đều rơi vào trong trạng thái mơ hồ. Nhưng cũng có số ít người đến giây phút cuối cùng vẫn giữ được đầu óc minh mẫn, những người này sẽ thấy được kiếp sau”.
Họ nói họ nh́n thấy được đủ các loại cảnh tượng, có người c̣n nh́n thấy thân bằng quyến thuộc đă qua đời, có người c̣n nh́n thấy được nhiều sắc màu rất đẹp đẽ, nhiều cảnh giới rất siêu phàm, có người c̣n nh́n thấy các vị Thần linh v.v… Thể nghiệm của họ có sức ảnh hưởng rất nhiều, mang cho họ cảm t́nh của tôn giáo là sự hiền ḥa yên tĩnh và an nhàn. Đây là một tổng kết của ông.
Từ năm 1972 đến năm 1974, có một nhà nghiên cứu là Tiến sĩ Raymond A Moody cũng thông qua 150 trường hợp thể nghiệm cận cái chết để công bố một nghiên cứu tên là “Sự Sống Đằng Sau Sự Sống” (Life After Life), vào năm 1975. Ông cũng sử dụng những nghiên cứu này để chứng minh sự phát hiện của Osis, miêu tả cho chúng ta giống như vậy, các yếu tố chung của thể nghiệm cận cái chết. Ông nói thí dụ một người nằm đang trên giường bệnh, lúc này họ cảm thấy cơ thể đau đớn đến tột cùng, họ liền nghe bác sĩ tuyên bố đă chết rồi. Trong lúc này họ sẽ nghe được âm thanh của tiếng chuông, hoặc tiếng ồn của âm thanh vù vù, sau đó họ sẽ thấy một đường hầm màu đen để qua phía bên kia, từ đường hầm đi ra họ thấy được chính họ đă rời khỏi thi thể của ḿnh. Đây là một h́nh thức tồn tại của cơ thể tâm linh. Ngay sau đó có người sẽ thấy được người thân đă chết của ḿnh, có người nh́n thấy được vầng ánh sáng hoặc là các vị Thần linh. Họ nói sự sống của vị Thần linh này là một luồng ánh sáng. Ví dụ như những người đạo Thiên Chúa, họ sẽ gặp được Chúa Giê Su, đều là những nhân vật trong tôn giáo này. Các vị Thần linh này rất thân mật, rất nhiệt t́nh đến đón tiếp họ, sau đó th́ giống như là chiếu phim, liền chiếu lại các sự kiện chủ yếu cả cuộc đời của họ. Sau đó để cho họ tự đánh giá cuộc đời của bản thân ḿnh, căn cứ vào cuộc đời của bản thân ḿnh đă tạo nghiệp thiện hay là ác để chọn cuộc sống cho đời sau. Điều này cùng với điều ông bà ta đă nói có điểm như nhau.
Ông bà thường nhắc nhở chúng ta trên đầu ba thước có Thần linh, cho nên các vị Thần linh họ có thể giám sát chúng ta suốt cả cuộc đời. Không nên cho rằng chúng ta đang ở trong pḥng thật là kín, nơi mà không ai thấy được để làm việc xấu, h́nh như là chẳng ai nh́n thấy, nhưng các vị Thần linh này kỳ thực là đang giám sát chúng ta, đợi đến lúc chúng ta lâm chung có thể giống như chiếu một bộ phim, phản chiếu lại các sự kiện chủ yếu của cuộc đời chúng ta.
Những người này họ thường đi đến một biên giới ở phía trước, là đại diện cho ranh giới của cuộc sống này và cuộc sống của kiếp sau. Nếu đi qua rồi th́ là cuộc sống của kiếp sau. Những người này họ không có đi qua, nhưng họ lại không muốn quay trở lại, v́ quay lại họ cảm thấy thế gian đầy đau khổ, vừa quay trở lại th́ phát hiện thấy ḿnh đang nằm trên bàn mổ, trên thân cắm đầy mấy cái ống. V́ vậy lúc này họ chẳng muốn quay trở lại, nhưng lại bị một lực vô h́nh kéo trở lại, kết quả là họ hồi tỉnh trở lại. Sau khi họ tỉnh trở lại liền kể cho bác sĩ những điều họ vừa thấy, vừa nghe được, đây chính là thể nghiệm phổ biến về cận cái chết.
Chúng ta vừa nói đây chỉ là một số ít người họ có thể duy tŕ sự tỉnh táo, v́ vậy họ có thể nh́n thấy được nhiều cảnh giới khá là tốt đẹp. Những người bị hôn mê đương nhiên thể nghiệm cận cái chết chúng ta không có cách nào để biết được, bởi v́ họ đă quên hết. Tuy nhiên cũng không phải tất cả mọi người đều thấy cảnh giới tốt đẹp như vậy, cũng có những thể nghiệm cận cái chết rất đáng sợ.
Thí dụ trong tác phẩm nghiên cứu khoa học “Ấn Tượng Thiên Đường, Một Trăm Người Sống Lại Sau Khi Chết Đă Kể Lại Chuyện”, có đăng 100 thể nghiệm cận với cái chết, trong đó có một cuộc nói chuyện của vị cảnh sát trưởng người Đức. Vị cảnh sát trưởng này đối với dân rất thô lỗ, rất lạnh nhạt, rất khắc nghiệt, một chút t́nh yêu thương cũng không có. Kết quả ông có một lần thể nghiệm cận cái chết rất là đáng sợ. Sau khi linh hồn của ông ta rời khỏi thể xác, ông liền phát hiện có rất nhiều hồn ma tàn độc hung ác xúm lại bao vây quanh ông. Trong đó có một hồn ma miệng đầy máu, há to như cái chậu muốn nhào đến cắn ông, rất là đáng sợ. V́ vậy chúng ta biết rằng, cuộc đời này nếu như có quá nhiều ác niệm, trong ḷng không có t́nh thương yêu, người như thế lúc lâm chung thường thường chiêu cảm những cảnh tượng đáng sợ như vậy.
Trên thực tế vào khoảng 3.000 năm trước, Phật giáo đă nghiên cứu đối với thực nghiệm cận với cái chết. Bạn xem trong Kinh Phật, bộ Kinh rất nổi tiếng là “Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh” có một đoạn miêu tả thể nghiệm cận cái chết:
“Người làm thiện ở cơi Diêm Phù Đề đến lúc lâm chung lại có trăm ngàn ác đạo quỷ thần hoặc biến ra h́nh cha mẹ, thậm chí thành người thân thuộc tiếp đón người chết dẫn vào đường ác, huống hồ là những người làm ác”. Bạn xem, điều này chính là nói về thể nghiệm cận với cái chết. Ở đây nói Diêm Phù Đề chính là ở trên quả địa cầu của chúng ta. Người ở trên quả địa cầu này cho dù bạn là người thiện, đến lúc bạn lâm chung đều phải thấy những ác đạo quỷ thần biến thành người thân quyến thuộc (những người đó thực sự là do trong cuộc sống quá khứ bạn đă kết oán thân trái chủ với họ) đến lôi kéo làm cho bạn mê hoặc đi vào trong ác đạo chịu khổ (ác đạo chính là tên gọi của địa ngục - ngạ quỷ - súc sanh, ba đường ác), huống hồ chi là người làm ác.
V́ vậy, trong Kinh cảnh tỉnh chúng ta, tuy là người đại thiện (cho dù là làm thiện cả đời này), nhưng khó tránh khỏi trong cuộc sống quá khứ có thể đă kết oán với người ta. Những oán thân trái chủ này nhân cơ hội bạn đang trong giờ phút lâm chung đến để đ̣i nợ, để báo oán. Cho nên, nhắc nhở chúng ta phải niệm Phật. Trong “Kinh Địa Tạng” nói với chúng ta rằng: “Trong giờ phút lâm chung, nếu niệm được một danh hiệu Phật, một danh hiệu Bồ Tát, một danh hiệu Bích Chi Phật, không cần biết có tội hay không có tội đều được giải thoát”. Cho nên, người tu Tịnh Độ trong giờ phút lâm chung nhớ niệm Phật A Di Đà, không những các oán thân trái chủ ở trong cuộc đời quá khứ cả thảy đều bỏ đi, mà trong lúc chúng ta đang niệm Phật liền thấy Phật A Di Đà đến tiếp dẫn chúng ta văng sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc .
Có thể nói, lấy thực nghiệm khoa học chứng thực đối với nghiên cứu có sự tồn tại của linh hồn, thứ nhất là một vị bác sĩ người Anh, Tiến sĩ Sam Parnia. Thực nghiệm của ông rất đơn giản. Ông thực hiện đối với hơn 100 người bệnh cận cái chết (người sắp chết), đều đang nằm ở trên bàn phẫu thuật tiến hành cấp cứu. Ông liền dùng một tấm gỗ, bên trên thả vài vật thể nhỏ (đồ vật nhỏ) treo ở trên giường bệnh bên trên bàn phẫu thuật trên trần nhà. Người bệnh không nh́n thấy vật thể nhỏ này, chỉ có vị bác sĩ này biết được treo ở bên trên là đồ vật ǵ. Lư luận của ông ta là nếu như bệnh nhân có linh hồn, sau khi hôn mê qua đời họ sẽ bay lên phía trên, có thể nh́n thấy được bên trên tấm gỗ có treo đồ vật ǵ. Sau khi họ hồi tỉnh lại có thể nói với bác sĩ, đây chính là chứng thực họ có linh hồn. Chỉ cần có một người có thể nói ra được, điều đó chứng thực thật sự là có linh hồn. Kết quả của vị bác sĩ này đối với hơn 100 bệnh nhân đều tiến hành thực nghiệm giống như vậy. Đương nhiên không nhất định mỗi người đều có thể được cứu sống lại từ trên bàn phẫu thuật, trên thực tế chỉ có bảy người. Bảy người sau khi được cứu sống lại có thể nói ra được ở bên trên tấm gỗ là treo đồ vật ǵ. Cho nên ông là người đầu tiên trên thế giới dùng thí nghiệm của khoa học để chứng minh có linh hồn tồn tại.
Cùng với thí nghiệm của vị Tiến sĩ Parnia cũng có những điểm như nhau. Vị tiến sĩ Charles Tart ở Trường Đại học California của Hoa Kỳ cũng dùng thí nghiệm khoa học để chứng minh có linh hồn. Đối tượng nghiên cứu của ông không phải là những người sắp chết mà ông nghiên cứu những người trong trạng thái khỏe mạnh có thể có linh hồn xuất ra khỏi cơ thể. Trong đó có một người phụ nữ có thể xuất hồn ra khỏi cơ thể, thế là Tiến sĩ Tart mời cô ấy đến một pḥng thí nghiệm, để cô ấy nằm trên giường. Trước khi cô ấy xuất hồn ra khỏi cơ thể, có đặt một mảnh giấy ở trên một cái kệ thật cao trước đó, trên bề mặt của tờ giấy này có in năm con số ngẫu nhiên. Nếu như người phụ nữ này có thể xuất hồn ra khỏi cơ thể th́ có thể nh́n thấy được năm con số đă viết ngẫu nhiên ở trên mảnh giấy. Đợi cô ta sau khi hồn nhập vào xác có thể nói ra, điều này sẽ chứng minh là có linh hồn. Kết quả của thí nghiệm này được lặp đi lặp lại, mỗi lần làm thí nghiệm th́ người phụ nữ này đều nói chính xác. Đặt ở trên một cái kệ thật cao, cơ thể của người phụ nữ này không có cách nào tiếp xúc được, không có cách nào nh́n thấy được ở chỗ đó để có thể nói chính xác những con số được ghi trên mảnh giấy.
florida80
12-26-2019, 20:30
Chúng ta biết rằng, xác suất về điểm số học có thể đoán trúng năm con số được ghi ngẫu nhiên ở trên mảnh giấy là một phần mười lũy thừa năm (1/105), chính là 1/100.000, cũng có nghĩa là làm thí nghiệm 100.000 lần chỉ có một lần đoán trúng, như vậy mới phù hợp với xác suất này. Không ngờ rằng người phụ nữ này mỗi lần thí nghiệm cô đều đoán trúng, điều này chứng minh thật sự có linh hồn. Linh hồn này sau khi rời khỏi cơ thể vẫn có thể nh́n thấy, có thể nhớ được những con số ở trên mảnh giấy, có thể kể lại cho Tiến sĩ Tart. Do đó, những thí nghiệm này cho chúng ta một kết luận:
“Thật sự là có linh hồn tồn tại. Linh hồn là chủ thể của con người đi đầu thai chuyển kiếp”.
Tiếp theo, tôi xin kể cho mọi người nghe một câu chuyện có thật được xuất bản trong một quyển sách ở nước Anh, được viết vào năm 1992. Câu chuyện này kể về linh hồn đi mua nhà. Bạn xem, linh hồn mà cũng biết đi mua nhà nữa! Có một người phụ nữ có thói quen xuất hồn ra khỏi cơ thể, thường thường là xuất hồn ra bên ngoài để đi tham quan du lịch. Có một lần, linh hồn của người phụ nữ này gặp một ngôi nhà. Cô rất thích ngôi nhà này. Về sau, có mấy lần trong khi linh hồn rời khỏi cơ thể, cô ta lại đến xem ngôi nhà này, càng xem lại càng thích. Căn nhà này từ trong ra ngoài h́nh dáng trang trí cô đều rất thích, nhưng mà cô lại không biết căn nhà này ở nơi nào.
Sau này cô cùng chồng của cô chuyển nhà từ Ireland đến Luân Đôn (London) nước Anh. Đi đến một chỗ mới, công việc trước tiên đương nhiên là phải đi t́m một ngôi nhà, cho nên vội vàng đi lấy báo để xem quảng cáo. T́m được một ngôi nhà rất rẻ đang đăng quảng cáo để bán, thế là cô t́m đến cơ sở môi giới bất động sản để đi xem nhà. Kết quả vừa nh́n thấy ngôi nhà này chính là ngôi nhà linh hồn sau khi ra khỏi thể xác đă nh́n thấy. Đương nhiên cô rất vui mừng. Vừa hỏi thăm, người môi giới nói với cô ấy:
“Ngôi nhà này bên trong bị ma ám cho nên bán rẻ như vậy. Bởi v́ người chủ nhà cả ngày đều thấy ma ở trong căn nhà này, cho nên muốn bán gấp cho rảnh nợ”.
Người phụ nữ này cảm thấy căn nhà này chính là ngôi nhà mà cô hằng mơ ước, thế là quyết định phải mua liền, hẹn chủ nhà đến gặp mặt để thương lượng giá cả. Khi chủ nhà đến gặp mặt, vừa thấy mặt cô này liền giật ḿnh la lên:
“Cô chính là con ma mà tôi đă gặp”.
Bạn xem, ông chủ nhà này đă từng gặp mặt người phụ nữ đó nhiều lần lắm rồi. Th́ ra, hồn của người phụ nữ này đă bay đến căn nhà đó, thường xuyên nh́n thấy mặt người chủ nhà. Người chủ nhà cho rằng bị ma ám. Có thể nh́n thấy rơ linh hồn của cô sau khi rời thể xác th́ có thể tự tại đến như vậy, có thể bay từ Ireland đến Luân Đôn rất nhanh. Bạn xem, chúng ta nh́n lên bản đồ, Ireland và Luân Đôn cách nhau ít lắm cũng khoảng 400km, không ngờ rằng linh hồn cô này sau khi rời khỏi thể xác có thể bay rất nhanh giữa hai nơi này, không bị hạn chế về không gian và thời gian.
Cái thể xác của chúng ta th́ không thể, thể xác chúng ta bị hạn chế về không gian và thời gian, không thể tự tại bay tự do giữa nơi này đến nơi kia. V́ vậy, khi linh hồn đang ở bên trong thể xác của chúng ta th́ bị thể xác này chướng ngại. Ngày xưa Lão Tử có dạy cho chúng ta: “Ngô chi đại hoạn vi ngô hữu thân”, ư nói cái khổ lớn nhất của ta chính là v́ ta có cái thân này. V́ sao vậy? Là cái thể xác này giam cầm cái linh hồn của ta, không thể để cho linh hồn của ta tự do tự tại, muốn đi ra ngoài tham quan du lịch th́ tương đối khó khăn.
Con người thời nay v́ cái thể xác này, cần phải làm thỏa măn ham muốn của thể xác này, v́ năm dục tài - sắc - danh - thực - thùy này làm rất nhiều điều tự tư tự lợi tổn người lợi ḿnh, những việc trái với lương tâm. V́ vậy linh hồn vốn là chủ nhân của cơ thể bằng thịt nhưng bây giờ trở thành nô lệ cho thể xác, v́ cái thể xác này mà bôn ba, mà tạo nghiệp. Cũng v́ cái thể xác này mà đă tạo tác nhiều nghiệp ác, thật sự là gây nợ cho cái linh hồn này.
Cho nên phải chân thật hiểu rơ chân tướng khoa học của con người, hiểu được thể xác không phải là chủ thể của chúng ta. Giống như quần áo vậy, mặc mấy mươi năm đă cũ th́ phải vứt bỏ để thay bộ quần áo mới. Chủ thể thật sự của chúng ta là linh hồn. Mấu chốt là phải làm như thế nào để nâng cao đời sống tâm linh của chúng ta. Ngày nay người ta không hiểu, cả ngày t́m mọi cách để bồi bổ cái thân này, v́ cái thể xác này mà thật sự t́m đủ mọi cách suy nghĩ nát óc. Đâu ngờ rằng cái thể xác này chỉ tồn tại ngắn ngủi, nó không phải là vĩnh hằng. Chân thật vĩnh hằng là đời sống tâm linh của chúng ta. V́ vậy, bồi bổ thân th́ không bằng tu dưỡng tâm.
Chúng ta hăy xem, mỗi một đời, mỗi một kiếp luân hồi của con người, cái linh hồn không phải là giống như t́m một căn nhà hay sao? T́m được cái thân th́ giống như t́m được ngôi nhà vậy. Căn nhà này chỉ cư trú được có mấy chục năm, căn nhà có lúc sẽ cũ, có lúc sẽ bị hư hoại, lúc này th́ cần đổi căn nhà khác. Cho nên mấu chốt vấn đề là chúng ta đổi căn nhà đó có phải là tốt hơn so với căn nhà hiện tại của chúng ta không? Làm thế nào để căn nhà đă đổi của chúng ta càng tốt hơn? Đó chính là tu thiện nghiệp, “Thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
Cho nên những thí nghiệm khoa học, những phát hiện của khoa học đă cho chúng ta rất nhiều khởi phát. Hiện nay nghiên cứu khoa học về linh hồn thực sự là rất đa dạng, vô cùng sâu sắc. Có những nhà vật lí học lại có thể sử dụng cơ học lượng tử, vật lí học hiện đại này để nghiên cứu linh hồn. Giống như Tiến sĩ Amit, một nhà nghiên cứu thâm niên nổi tiếng của Viện Nghiên cứu Khoa học về tư duy Hoa Kỳ, ông dùng cơ học lượng tử để chứng minh sự tồn tại của linh hồn là có nền tảng lư luận, cho nên ông phát biểu trong tác phẩm “Vật Lư Học Về Linh Hồn” (Physics of the Soul) của ông. Chúng ta xem linh hồn có thể bay, có thể thấy, có thể làm việc, có thể đi mua nhà, chứng minh rằng linh hồn có năng lượng, cho nên ông mới sử dụng quan điểm của khoa học để tiến hành chứng minh. Về khía cạnh nghiên cứu của ngành học này thật sự vô cùng sâu sắc, v́ vấn đề thời gian nên không thể bàn sâu hơn, cho nên chúng ta chỉ nói đến chỗ này để đi tiếp vào lĩnh vực thứ hai của nghiên cứu khoa học.
THỨ HAI, ĐIỀU TRA NHỮNG NGƯỜI CÓ THỂ NHỚ ĐƯỢC TIỀN KIẾP CỦA M̀NH.
Điều nghiên cứu thứ hai về luân hồi chuyển kiếp của Phương Tây là lập hồ sơ điều tra nghiên cứu những người có thể nhớ được tiền kiếp của ḿnh. Về lĩnh vực nghiên cứu này có thể lấy Giáo sư Stevenson làm tiêu biểu. Ông đă áp dụng phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống để tiến hành nghiên cứu, quy nạp thành “Phát hiện đối tượng”. Trước tiên phải t́m được một đứa trẻ có thể nhớ được tiền kiếp của ḿnh, đây là phát hiện đối tượng. Sau đó “Thu thập tư liệu”, chính là bắt đầu tiến hành sưu tập tư liệu. Tiếp theo là “Lập hồ sơ chất vấn”. Sau đó gặp mặt để đối chứng, thậm chí phải t́m đến gia đ́nh của đứa trẻ kiếp trước đă sống để t́m chứng cứ. Cuối cùng là “Theo dơi quan sát” và “Viết báo cáo”.
florida80
12-26-2019, 20:33
6 đạo lư đơn giản của Phật gia giúp chúng ta thay đổi cuộc đời
Cuộc sống xô bồ đôi khi khiến con người ta mất đi phương hướng, rơi vào trạng thái mệt mỏi, buồn chán. Những giáo lư đạo Phật dưới đây sẽ giúp bạn thay đổi cuộc đời ḿnh theo hướng tích cực hơn.
Thay đổi cuộc đời với giáo lư đạo Phật đơn giản.
(Ảnh: Internet)
1. Cảm ơn thiên nhiên v́ đă cung cấp thức ăn cho ḿnh
Hăy luôn biết cảm ơn thiên nhiên v́ những ǵ chúng mang lại cho bạn. Nếu không có thiên nhiên bạn sẽ chẳng thể tồn tại trên đời.
2. Biết dừng lại, lắng nghe và điềm tĩnh
Luôn thận trọng với phát ngôn của ḿnh. Khi cảm thấy ḿnh sắp nói ra lời bất hảo, hăy biết cách kiềm chế mà dừng lại để cân nhắc xem có đáng tổn đức v́ khẩu nghiệp hay không.
Cố gắng nói những lời vui vẻ, thiện ư, tránh làm tổn thương người khác gây khẩu nghiệp. Nhẫn nại lắng nghe ư kiến người khác để có thể hiểu và đồng cảm.
3. Hăy biết ơn
Luôn ư thức được ḿnh đang sở hữu ǵ và được giúp đỡ ǵ. Con người trong cuộc đời luôn gắn liền với xă hội, có thể nhận được tương trợ từ người khác. Một khi hàm ơn cần tỏ thái độ biết ơn và đền đáp nếu có cơ hội.
Biết ơn là mỹ đức giúp con người hướng thiện và chỉ có ở những người thiện lương. Người vô ơn sẽ không bao giờ được phúc báo và chắc chắn sẽ tạo nghiệp sau này.
4. Luôn sống lương thiện và ḥa nhă với mọi người
Hăy luôn sống lương thiện, sẵn ḷng tương trợ người gặp khó khăn. Một cá nhân nếu đối xử ḥa nhă với mọi người sẽ luôn được người người yêu mến.
Làm từ thiện xuất phát từ trong tâm chắc chắn sẽ được phúc báo. Hăy ghi nhớ điều này để rộng mở tấm ḷng, chắc chắn bạn sẽ không bao giờ thiệt tḥi.
5. Luôn nỗ lực khai mở trí tuệ
Người có trí tuệ sẽ giúp ích cho xă hội và bản thân. Đừng ngại ngần học hỏi và trau dồi kiến thức bởi c̣n có quá nhiều thứ con người chưa thể biết hết về cuộc sống này. Việc nỗ lực học hỏi và khai mở trí tuệ là nền tảng để con người tiến xa hơn, vươn tới những chân trời mới.
6. Đừng ngại thay đổi
Cuộc sống luôn đổi thay và việc chấp nhận nó cũng là một nỗ lực đáng ghi nhận của con người. Nên biết trân quư hiện tại, lưu giữ và trân trọng quá khứ thay v́ hoài niệm quá độ. Hướng tới tương lai với tâm thái từ bi và hướng thiện
florida80
12-26-2019, 20:35
Truy T́m Tự Ngă
Thích Tuệ Sỹ
Chúng ta hăy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng. Kinh Kim-cang được soạn tập bằng tiếng Phạn tiêu chuẩn, nhưng rất tiếc chúng ta không thông thạo thứ cổ ngữ này, nên cũng chắc chắn là không thể hiểu hết những tư tưởng ẩn áo của kinh hàm chứa trong các từ ngữ và các câu văn.
Như người không biết chữ Hán mà đọc thơ Đường qua một bản dịch th́ không thể thưởng thức hết giá trị của bài thơ. Lời thơ là lời của phàm phu mà c̣n vậy, huống chi lời kinh là lời của Phật. Tuy nhiên, không hiểu chữ Hán th́ đọc thơ Đường qua các bản dịch cũng được. Nhưng cũng nên nói thêm là thế giới xưa nay chưa có Huệ Năng thứ hai.
Kinh điển Nguyên thủy và Đại thừa được kết tập không giống nhau. Kinh điển Nguyên thủy được kết tập theo dạng truyền khẩu; có những nét đẹp của nền văn học truyền khẩu. Kinh điển Đại thừa phần lớn được kư tải bằng văn tự, có những nét đẹp riêng của văn tự.
Văn học Đại thừa xuất hiện vào giai đoạn mà văn học Ấn Độ nói chung phát triển đến một h́nh thức nhất định, với văn chương thi ca, các thể loại về kịch, truyện, vốn rất ít được phổ biến trong thời Phật. Như kinh Pháp hoa chẳng hạn, mở đầu bằng nhân duyên Phật phóng quang, sau đó ngài Di-lặc hỏi, Văn-thù trả lời. Đó là phần mở đầu giới thiệu, như thường được thấy trong các thể loại kịch cổ.
Trong kinh Kim-cang, chúng ta sẽ thấy không giống như kinh điển Đại Thừa khác, mà lại gần với Nguyên thủy ở chỗ Phật ôm b́nh bát khất thực xong rồi trở về Tinh xá. Sau bữa ăn, các vị tỳ-kheo thường tập hợp tại giảng đường để thảo luận giáo lư. Bấy giờ, trong đại chúng có sự hiện diện của Tu-bồ-đề; và ngài bắt đầu thưa hỏi. Ở đây, không mở đầu bằng sự phóng quang, hay những thần thông biến hóa khác. Nh́n từ ư nghĩa văn học, người ta giải thích rằng, những vấn đề được nêu trong kinh Kim-cang là những sự việc trong đời sống, là những cái ăn, cái uống, nghỉ ngơi, không phải trong thế giới huyền bí kỳ ảo như là của Hoa nghiêm, Pháp hoa.
C̣n một nghĩa nữa mà chúng ta thấy có quan hệ đến lịch sử văn học.
Trong các kinh điển Nguyên thủy, các vị tỳ-kheo buổi trưa sau khi thọ thực xong, nếu không tụ tập tại giảng đường, th́ thường vắt tọa cụ trên vai, đi vào rừng, t́m đến một gốc cây mà ngồi nghỉ trưa. Có khi đức Phật ngồi ở một gốc cây, và các ngài Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, cũng ngồi ở một gốc cây gần đó. Cho đến xế chiều, các tỳ-kheo ngồi gần đó liền đi tới ngài Xá-lợi-phất, tới đức Phật để đảnh lễ, hoặc thưa hỏi giáo lư.
Trong kinh Kim-cang cũng thế; các tỳ-kheo tụ tập quanh đức Phật để chờ nghe Phật giảng Pháp
Trong truyền thống Ấn Độ, các buổi giảng hay các lớp học của những người Bà-la-môn thường diễn ra giữa khu rừng, giữa cảnh thiên nhiên. Một lớp các đạo sĩ sống trong rừng, giảng giải ư nghĩa cũng như nghi thức Vệ-đà; tư tưởng triết học tôn giáo của họ được soạn tập thành bộ Sâm lâm thư. Đó là bộ Thánh điển về sau phát triển thành các Upanishad, tức Áo nghĩa thư.
Chúng ta nên hiểu tổng quát về Upanishad hay Áo nghĩa thư v́ nó liên hệ tới kinh Kim-cang rất nhiều, là điểm để chúng ta có thể tin là kinh Kim-cang thật sự do Phật nói hay không.
Một số vị nhận định kinh điển Bát-nhă từ h́nh thức kết cấu văn học đến nội dung tư tưởng, so sánh với các tập Upanishad, rồi kết luận Kim-cang cũng như toàn hệ Bát-nhă chỉ là một bộ phận của Upanishad, hay phỏng theo Upanishad; nghĩa là, không phải Phật thuyết.
Upanishad là giai đoạn phát triển cao của tư duy Ấn Độ, bắt đầu từ Vệ-đà. Có tất cả bốn bộ Vệ-đà, nhưng trong thời Phật chỉ mới xuất hiện có ba, mà kinh Phật gọi là Tam minh. Bà-la-môn tam minh là người thông thạo ba bộ Vệ-đà. “Minh” là từ Hán dịch của Vệ-đà. Thời Phật, chưa xuất hiện Upanishad.
Trên kia, chúng ta đă nói đến Sâm lâm thư. Đây là từ dịch tiếng Phạn Aranyaka. Ở nơi khác, chúng ta có nói các tỳ-kheo a-lan-nhă sống trong rừng thời đức Phật. A-lan-nhă là từ phiên âm của aranyaka.
Luật tạng có kể, một thời, đức Phật nhập thất, không một tỳ-kheo nào được phép đến gần hương thất của Phật, trừ vị thị giả. Bấy giờ có một nhóm ba chục vị là những tỳ kheo a-lan-nhă đến thăm Phật. V́ Phật đang nhập thất, nên các vị tỳ-kheo tại trú xứ này ngăn cản. Nhưng các tỳ-kheo a-lan-nhă nói, họ được Phật cho phép đến gặp Ngài bất cứ lúc nào. V́ các vị này chỉ sống trong rừng nên ít có cơ hội gặp Phật. Rồi họ vẫn tới gơ cửa hương thất. Thật đáng kinh ngạc, từ trong thất đức Phật liền mở cửa.
florida80
12-26-2019, 20:36
Đức Phật truyền dạy những pháp ǵ cho các tỳ-kheo A-lan-nhă? Không có kinh điển nào tường thuật. Đức Phật đă có biệt thị đối với họ, tất cũng có giáo pháp biệt truyền cho họ. Pháp ấy là pháp ǵ? Kinh điển Nguyên thủy không đề cập.
Ngài Tu-bồ-đề cũng là một tỳ-kheo a-lan-nhă, như được xác định chính trong kinh Kim-cang. Truyền thống Pāli cũng xác nhận điều này.
Các tỳ-kheo a-lan-nhă thường tu tập Không tam muội, như được Phật nói trong kinh Đại không, Trung A-hàm. Sau thời Phật, các Trưởng lăo chủ tŕ cuộc kết tập thứ hai cũng phần lớn tu tập Không tam muội, như được ghi chép trong Luật tạng. Các vị này cũng sống trong rừng. Không tam muội là thiền định y trên hành tướng vô ngă. Không và vô ngă là giáo nghĩa căn bản trong kinh Kim-cang.
Kinh nói: Hết thảy pháp hữu vi đều là như chiêm bao, như huyễn thuật, v.v...; đó là nói về giáo nghĩa Tánh không và Vô ngă bằng kinh nghiệm trực giác hay thực chứng. Giáo nghĩa này về sau được các Bà-la-môn học Vệ-đà thay thế bằng học thuyết như huyễn tức māyā và hữu ngă tức ātman. Những điểm tư tưởng này là tinh yếu của các tập Upanishad. Nói một cách đại cương, thế giới này chỉ là huyễn hóa, vậy ta là ai, hay ta là cái ǵ, trong tấn tuồng huyễn hóa này?
Như vậy có thể thấy ảnh hưởng của các tỳ-kheo a-lan-nhă đối với các đạo sĩ soạn tập Sâm lâm thư để rồi phát triển thành tư tưởng triết học Upanishad. Thế nhưng, về sau do sự phục hồi địa vị của giai cấp Bà-la-môn, những người Ấn Độ giáo thâu thái rất nhiều giáo nghĩa của Phật trong đó có giáo nghĩa Tánh không diễn thành như huyễn, rồi cho rằng tư tưởng Không trong các bộ Bát-nhă là do ảnh hưởng của Upanishad. Cũng có nhiều Phật tử tin điều này nên cho rằng kinh điển Bát-nhă cũng như của cả Đại thừa chịu ảnh hưởng của Bà-la-môn giáo, thay v́ ngược lại.
Vậy, Upanishad là phản ứng của các Bà-la-môn, họ vay mượn giáo nghĩa Tánh không tức Vô ngă trong các kinh Bát-nhă. V́ phủ nhận sự tồn tại của tự ngă thường hằng là phủ nhận luôn cả sự tồn tại của Brahman, là Thượng đế Sáng tạo.
Ngay cả trong Phật giáo, sau khi Phật nhập niết-bàn, trong nội bộ Phật giáo đă xuất hiện một số bộ phái chấp nhận có tự ngă hay ātman, như Độc tử bộ hay Hóa địa bộ. Những bộ phái này lư luận rằng, nếu không tồn tại một tự ngă, không có một cái tôi thường hằng bất biến, vậy ai hay cái ǵ luân hồi, lang thang ch́m nổi trong biển sinh tử? Cũng nên biết rằng tự ngă hay ātman trong tư tưởng tôn giáo Ấn Độ là cái mà trong các tôn giáo, Đông cũng như Tây, hiểu là linh hồn. Cho nên, có linh hồn mới có đầu thai, mới có việc sinh lên Thiên đường hay đọa địa ngục như là hậu quả của hành vi tội hay phước.
Giáo nghĩa Phật dạy, có tác nghiệp thiện ác, có quả báo lành dữ, nhưng không có người hành động, không có người thọ quả. Đây là điều rất khó hiểu.
Chúng ta nên đi từ cái dễ, rồi đến cái khó. Cái dễ hiểu là tất cả đều có một cái tôi: tôi đi, tôi đứng, tôi ăn, tôi ngủ, v.v... Nhưng khi người ta ngủ, mà ngủ như không chiêm bao, th́ h́nh như cái tôi này biến mất. Hoặc như người bị tai nạn mà mất trí nhớ, không c̣n nhớ ra ḿnh là ai. Nếu được chữa trị, trí nhớ phục hồi, bấy giờ vẫn là cái tôi như khi trước. Rồi khi người ta chết, cái tôi ấy c̣n hay không? Thừa nhận c̣n, tức là thừa nhận có linh hồn tồn tại bất biến, khi thức cũng như khi ngủ, lúc c̣n sống cũng như sau khi chết.
Đấy là kinh nghiệm thường nhật về một cái tôi. Kinh nghiệm ấy là sự tích lũy trong một đời người những hoài niệm, những đau khổ, hạnh phúc, những danh vọng, khốn cùng. Từ những kinh nghiệm tích lũy ấy mà h́nh thành ư tưởng về một cái tôi thường hằng. Trong tŕnh độ thấp nhất, cái tôi ấy được đồng hóa với thân xác và những sở hữu cho thân xác. Vị đại hoàng đế có cả một đế quốc: ta và đế quốc của ta. Nhưng một khi thân xác này tan ră, mà chắc chắn là như vậy, th́ ta là ai, mà đế quốc này là ǵ? Những hoàng đế ấy, như Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế, Thành Cát Tư Hăn, tin vào một cái ta và thân xác ta có thể tồn tại lâu dài, v́ không muốn cái danh vọng, quyền lực đang có mất đi; họ đi t́m đạo sỹ, cầu thuốc trường sinh. Những người đi t́m trường sinh ấy, bây giờ ở đâu?
Lại c̣n những người khác, giàu sang có cả một cơ đồ, nhưng khi thị trường chứng khoán sụp đổ, nhảy lầu tự tử. Ta và tài sản của ta; cái này mất th́ cái kia cũng không c̣n lư do tồn tại. Thật sự th́ ở đây ta là ai, trong cái cơ đồ phú quư ấy?
Với một hạng người khác, ta là danh, đă sinh ra trong trời đất, th́ phải có danh ǵ với núi sông. Một mai vật đổi sao dời, để bảo tồn danh tiết, họ đâm cổ tự sát. Vậy, ta là ǵ trong cái danh này?
Với những tín đồ tôn giáo tin vào một linh hồn bất tử, một cái ta tồn tại trên thiên đường, hưởng những lạc thú mà Thượng đế ban cho v́ đă biết phục tùng Thiên ư. V́ thế họ sẵn sàng giết đồng loại để chinh phục nước Chúa dưới trần gian.
Ta là ai, ta là cái ǵ, để v́ phục vụ nó, bảo tồn nó, mà tự gây khổ cho ḿnh, và cũng gây khổ cho người? Có chăng một cái ta thường hằng, siêu việt thân xác này, và tâm trí này, để cho mọi hành vi trong một đời người, dù thiện hay ác, ngu hay trí, chỉ nhằm mục đích là phục vụ nó, v́ ích lợi của nó, v́ hạnh phúc của nó, v́ danh dự của nó, v́ quyền lực của nó?
Trước khi muốn hỏi ta là ai, trước hết nên hỏi, từ đâu có ư tưởng về cái ta ấy?
Có một người mới mua về một con chó, đặt tên cho nó Lucky. Ban đầu, gọi Lucky, nó dửng dưng, vô cảm. Dần dần, nghe hai tiếng Lucky, nó mừng rỡ, ngoắt đuôi. Nó đă hiểu Lucky là cái ǵ, và như vậy nó cũng hiểu nó là cái ǵ. Nó h́nh thành một cái vỏ tự ngă mới qua một cái tên gọi mới. Trước khi có một tên gọi, nó vẫn tồn tại, và tự bảo vệ sự tồn tại ấy. Nó t́m thức ăn, t́m chỗ ngủ, và cắn bất cứ ai đến gần như muốn đe dọa, uy hiếp nó. Khi được đặt tên, toàn thể sự tồn tại ấy bây giờ tồn tại dưới một cái tên gọi Lucky. Dù vậy, nếu có ai xúc phạm đến cái tên Lucky, nó không có phản ứng ǵ. Nhưng với một con người, khi cái tên gọi, một cái danh ǵ đó, mà bị xúc phạm, th́ hăy coi chừng. Tất nhiên, con người cho đến một tuổi nào đó mới biết nó tên ǵ, cũng như con Lucky vậy. Rơ ràng, cái danh mang nội hàm tự ngă ấy chỉ là hư danh, nhưng con người cũng như vậy đau khổ hay hạnh phúc bởi chính cái hư danh đó.
Một ông thầy giáo có cái ngă là thầy giáo. Ai xúc phạm đến danh từ thầy giáo, chức nghiệp nhà giáo, người ấy phải bị khiển trách.
Nó là ông vua, nhưng ban đêm lẻn ra ngoài thành chơi. Dân nào không biết mà đối xử vô lễ như với dân thường, hăy coi chừng.
Tự ngă chỉ là một cái danh, và đó là giả danh do nghề nghiệp, hay do chỗ ngồi, chỗ đứng giữa mọi người mà đạt thành. Cái giả danh chỉ mới h́nh thành trong một đời người thôi, mà đă khó quên, khó trừ như vậy; nếu là cái ngă được tích lũy trong nhiều đời, tất không dễ ǵ trừ bỏ.
Cái ngă của ông xă trưởng chỉ to bằng cái xă của ông. Cái ngă của một quốc vương to bằng cái vương quốc của ông. Cái ngă của một nhà thông kim bác cổ th́ dài bằng thời gian kim cổ, rộng bằng không gian đông tây. Cái ngă của một chúng sinh luân hồi trong tam giới, tất cũng lớn bằng cả tam giới. Cái ngă ấy không phải dễ nhận ra. Không nhận ra nó, để thấy nó là thật hay giả, th́ cũng không thể tận cùng biên giới đau khổ.
florida80
12-26-2019, 20:36
Trong kinh Phật có một câu chuyện: Một thiên thần kia, hiện đến Phật, nói rằng trong quá khứ, ông là một tiên nhân, có tên là Ngựa Đỏ, có phép thần thông quảng đại. Ông muốn thấy được biên tế vũ trụ, để thấy được biên tế khổ, và chấm dứt khổ. Thế là ông bắt đầu đi tìm biên tế của vũ trụ. Tuổi thơ của ông bấy giờ dài đến một đại kiếp, đại khái là tỷ tỷ năm, nhưng không bao giờ thấy được cái biên tế của vũ trụ. Rồi ông hỏi Phật:
“Có cần đi suốt cái biên tế vũ trụ này mới chấm dứt khổ không?”
Phật xác nhận rằng:
“Nếu không thấy được cái biên tế của vũ trụ th́ không chấm dứt được khổ”.
Đức Phật lại nói thêm:
“Nhưng không cần. Chỉ trên cái thân cao một tầm này, với năm uẩn nầy, ta có thể biết được thế gian sinh, thế gian diệt”.
Điều đó có nghĩa rằng, thân thể này, với xúc cảm này, với tư duy này, với nhận thức này, là tập hợp tích lũy cả một khối kinh nghiệm lớn bằng biên tế vũ trụ. Cái khối ấy đông kết thành cái vỏ cứng dày. Nó chỉ có thể bị đập vỡ bằng chày Kim-cang mà thôi.
Nói tóm lại, giáo nghĩa trong kinh Kim-cang bắt đầu bằng sự đối trị tự ngă: vô ngă tưởng, vô nhân tưởng… Trong các tôn giáo, trong mỗi hệ thống tư tưởng triết học, đều có riêng một quan niệm về tự ngă. Trong nhiều tôn giáo, tự ngă là linh hồn do Thượng đế ban cho. Giữ cho linh hồn đừng bị mất, để sau này được hưởng ân phước của Thượng đế, đó là mục đích đời người.
Trong Nho giáo, người quân tử phải biết lập thân và lập danh. Lập thân cho hiện tại, lập danh cho hậu thế. Đó là xác lập tự ngă trong xă hội.
Lăo Tử nói: ta có đại hoạn v́ ta có thân. Nếu ta không có thân, nào đâu có đại hoạn? Đó là hăy sống trọn tuổi trời chớ đuổi theo hư danh, hăy để cho thân và danh cùng mục nát với cỏ cây.
Các đạo sĩ Upanishad đi t́m cái tự ngă chân thật là ǵ. Vượt ra ngoài cái tôi trong đời sống thường nhật, và cái tôi lang thang trong luân hồi để chịu đau khổ, có hay không có một cái tôi thường hằng, chân thật? Cái tôi như giọt nước biển bị cô lập trong một cái vỏ cứng nhỏ mọn, vô nghĩa, trôi nổi bồng bềnh trong đại dương; để rồi khi cái vơ cứng ấy đạp vỡ, giọt nước ấy sẽ ḥa tan vào nước biển trong đại dương. Khi ấy, Tiểu ngă ḥa tan vào Đại ngă.
Trong Phật giáo, Tiểu ngă hay Đại ngă, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo. Cái ngă được h́nh thành trong đời này, do ảnh hưởng truyền thống, tôn giáo, tư tưởng, xă hội, để từ đó h́nh thành một nhân cách, một linh hồn, và rồi chấp chặt vào đó để mà tồn tại. Cái đó được gọi là phân biệt ngă chấp.
Cái ngă do tích lũy từ điên đảo vọng tưởng nhiều đời, h́nh thành bản năng khát vọng sinh tồn nơi cả những sinh vật li ti nhất; đó là câu sinh ngă chấp.
V́ vậy, không cần đi t́m ở đâu Tiểu ngă và Đại ngă, mà cần diệt trừ khái niệm giả danh bởi vọng tưởng điên đảo.
florida80
12-26-2019, 20:37
HỎI :
- Tôi thấy một số món ăn chay trong các tiệm ăn và đôi khi cả trong một vài chùa, có h́nh thức các con vật và tên gọi giống y nhưcác món mặn, thí dụ như: "cá chiên, cá hấp, thịt quay bánh hỏi, tôm xào chua ngọt.. v..v..". Nếu tâm c̣n thèm ăn các món mặn th́ ăn quách đồ thật c̣n hơn là giả dối như vậy. Đạo Phật nói trực tâm là đạo tràng cơ mà?
ĐÁP :
- Đây là một câu hỏi có nội dung phức tạp, có thể chia ra làm bốn phần:
(1) Món ăn chay giả thịt cá bán tại các chùa
(2) Món ăn chay giả thịt cá bán tại các tiệm
(3) Ăn chay v́ lư do sức khỏe,
và
(4) Người ăn chay chỉ v́ có ḷng thương súc sinh, không liên quan đến tu tâm theo Phật giáo.
Món ăn giả thịt cá tại các chùa:
Đức Phật dạy rằng "Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh", "Ta là Phật đă thành, chúng sinh là Phật sẽ thành", chữ chúng sinh ở đây là chỉ tất cả mọi loài động vật có cảm giác, chứ không chỉ riêng loài người.
Cửa chùa là nơi truyền bá đạo Phật, tu sĩ ở chùa là Trưởng tử Như Lai, đem chánh pháp dạy chư Phật tử. Một trong những lời dạy quan trọng, cốt tủy của Đức Phật là phải dùng tâm b́nh đẳng để đối xử với mọi loài, cả người lẫn vật. Vậy th́ chúng ta không nên tạo thói quen xấu là thản nhiên nh́n h́nh ảnh con cá con tôm nằm cong queo giữa đĩa nước xốt, hoặc cầm muỗng, đũa xắn cắt con cua, con gà, dù chỉ là gà giả.
Ngoài ra chư vị nào đă thọ Bồ Tát Giới th́ đừng quên là, khác với giới Thanh Văn, chỉ ràng buộc trong một kiếp người và chỉ phạm khi có hành động, giới Bồ Tát là Tâm Giới, chỉ khởi tâm phạm, chưa hành động, là phạm giới rồi. Vậy th́ chư vị Cư Sĩ Bồ Tát Giới chỉ cần nghĩ là : "Ăn con tôm rang muối này ngon quá", dù là tôm giả, tâm của quư vị khởi niệm muốn ăn, là phạm giới rồi.
Món ăn giả thịt cá tại các nhà hàng.
Về các nhà hàng dùng tên giả để gọi các món ăn chay th́ chúng ta nên cảm thông rằng họ làm thương mại, họ cần có những phương pháp lôi cuốn khách hàng, là những người đă quen ăn thịt cá nay chuyển sang ăn chay. Nếu món nào cũng chỉ dùng tên vật liệu để gọi th́ chỉ c̣n là: nấm xào rau, đậu om, rau luộc, rau kho..v..v.., rất ít món, khó lôi cuốn khách hàng.
Dầu sao, thực khách khi ăn một món giả, cứ nghĩ đến một con thật đă thoát chết, th́ ḷng từ bi cũng đang tăng trưởng rồi đó.
Ăn chay v́ lư do sức khỏe:
Nhóm người này tránh ăn thịt động vật v́ thấy rằng thịt động vật mang đến nhiều chất độc và bệnh tật. Đối với họ, lư do ăn chay hoàn toàn vị kỷ. Nếu một mai khoa học t́m ra rằng ăn vẩy rồng, gân cọp sẽ khỏe mạnh sống lâu, th́ họ sẽ lại hỳ hục đi săn rồng, săn cọp.
Tuy nhiên, dù mục tiêu ăn chay của họ vị kỷ, không v́ loài vật, nhưng phó sản của nó lại vô t́nh cứu loài vật bớt chết (có nghĩa là bớt bị sản xuất ra để rồi phải sống tù tội và chết đau đớn), và cũng giúp cho ḍng nghiệp lực sinh tử tử sinh của họ bớt nợ máu.
Cho nên, đối với nhóm người này, món ăn giả nếu có làm cho họ cảm thấy hấp dẫn, thích ăn, bớt thèm thịt, th́ vẫn có ích lợi cho cả phiá người và vật.
Ăn chay v́ ḷng thương loài vật:
Nhóm này thuộc đủ mọi thành phần tôn giáo và không tôn giáo. Họ tránh ăn thịt chỉ v́ ḷng thương xót loài vật, không nỡ đóng góp thêm vào nỗi thống khổ của cuộc sống đầy đau thương, bị hành hạ, chà đạp, đánh đập, sống chen chúc, bị ép cho đẻ nhiều rồi chia rẽ mẹ con, trước khi chết c̣n bị sống những ngày kinh hoàng trên những chiếc xe chuyên chở khổng lồ, đói khát, dồn ép trong một trạng thái thần kinh rất là khủng khiếp, rồi bị lùa vào hành lang dẫn đến ḷ sát sinh, để nghe thấy những tiếng thét thất thanh trong giây phút dẫy chết.
Do được thấy tận mắt, hay coi phim, hoặc xem sách báo, tâm những người này đă chuyển, họ cảm thấy ăn thịt là kéo dài những nỗi thống khổ cho loài vật, cũng là những sinh vật có đầy đủ t́nh cảm, xúc động v..v.. như con người. Nhóm người này ăn chay dễ dàng và c̣n cổ động mọi người ăn chay để toả rộng ḷng nhân từ ra khắp nơi.
Điển h́nh nhóm này là những hội viên hội PETA (People For The Ethical Treatment of Animals). Đối với họ, khi nh́n tôm thịt cá giả trên bàn, th́ họ cũng cảm thông với những người đang từ từ chuyển hướng sang ăn chay, và mừng rằng cứ một con tôm, con cá, con gà "giả" trên bàn ăn là đă cứu một con tôm, con cá, con gà "thật".
Cho nên, nhóm người này rất ủng hộ những tiệm ăn chay và hoan nghênh những con "tôm cá giả, gà giả" trên bàn ăn đă giúp những "sinh vật thật" khỏi chết thảm. Họ quan niệm rằng:
"Nếu như tật xấu ăn thịt cá đă bám rễ sâu xa trong óc con người, th́ những món "chay giả mặn" đă cứu những sinh vật thật thoát chết".
florida80
12-26-2019, 20:38
Sự Sợ Hăi và Địa Ngục
Hỏi:
Năm nay tôi đă trên sáu chục tuổi, ở cái tuổi mà hằng ngày t́m tên bạn bè trên những mục cáo phó, phân ưu trong các nhật báo và tuần báo. Biết rằng giờ phút ra đi của ḿnh cũng chẳng c̣n bao xa, cho nên đêm đêm nằm trằn trọc, tôi băn khoăn không biết tương lai sau khi tắt hơi, ḿnh sẽ về đâu.
Thuở nhỏ, mỗi khi làm điều lỗi, tôi thường được nghe người lớn hù dọa về Thập Điện Diêm Vương, về các loại địa ngục ở dưới đất, vân vân, nhưng tôi không quan tâm. Đến nay gần đất xa trời, nhiều lúc tôi mơ hồ cảm thấy một nỗi sợ hăi mênh mông, nên gửi thư này xin thỉnh ư quư vị về vấn đề địa ngục.
Đáp:
Không riêng vị thính giả gửi là thư này, mà nhiều người trong chúng ta, dù có niềm tin về một tôn giáo nào đó, hoặc không tin thần thánh ǵ cả, cũng có đôi chút ấn tượng trong đầu về một cảnh giới được đặt tên là địa ngục.
Ư niệm về địa ngục được h́nh thành từ thời cổ xưa, xuất hiện cùng với ư niệm về ông Trời, về Thượng Đế, về các loại Thánh Thần vân vân. Hầu hết các tôn giáo đều nói đến những sự thưởng phạt sau khi chết, được thưởng th́ được sinh lên thiên đường hưởng phước, bị phạt th́ bị đầy xuống địa ngục chịu tội. Thời trước người ta tin là trái đất vuông, mặt đất bằng phẳng, cho nên thiên đường được giới thiệu là ở cao tít trên mây, và địa ngục ở dưới sâu trong ḷng đất. Lư do để được thưởng hay bị phạt th́ tùy theo luật lệ của mỗi tôn giáo quy định.
Suốt chiều dài của lịch sử loài người, h́nh ảnh về thiên đường và địa ngục đă giúp những bậc trưởng thượng trong các bộ lạc, làng mạc, thôn xóm, gia đ́nh, như là một trợ huấn cụ đắc lực để răn đe con cháu khỏi làm điều sai trái.
Sau này, khi các tổ chức tôn giáo h́nh thành, th́ vai tṛ thiên đường và địa ngục lại càng đắc lực hơn, trong việc tạo ấn tượng về thưởng phạt, về nỗi khiếp sợ sẽ bị đầy xuống địa ngục nếu trái lệnh, hoặc sự cứu rỗi nếu người tín đồ vâng lời, khiến cho từ trong tiềm thức, người ta tin chắc rằng cần phải có một nơi để bấu víu, để nương tựa sau khi chết, nếu không sẽ phải chịu muôn vàn khốn khổ, thiêu đốt vĩnh viễn trong địa ngục.
Có niềm tin cho là sau khi con người chết đi, linh hồn xuống tới âm phủ, th́ “quỷ thần hai vai” của người ấy sẽ đem tất cả công và tội của họ tâu lên vua Diêm Vương để ông ta quyết định sự thưởng phạt, hoặc cho lên trời hưởng phước, hoặc đầy vào các loại địa ngục mà tên gọi thường là rất rùng rợn, tùy theo sáng kiến của người phát minh.
Đạo Phật không tin chuyện quỷ thần hai vai và ông Diêm Vương nào đó lại có thể quyết định vận mạng của ai được. Nền đạo đức Phật giáo không xây dựng trên sự thưởng phạt ở thiên đường hoặc địa ngục, do các Thần Linh áp đặt, mà lấy quy luật nhân quả làm căn bản.
Tâm lư học của đạo Phật cho rằng tất cả những việc mà mỗi ḍng đời tạo ra, trải dài theo cuộc hành tŕnh trong thế giới hiện tượng tương đối này, là những hạt giống, hay c̣n gọi là chủng tử thiện hoặc ác, trong tương lai khi hội đủ cơ duyên, sẽ nẩy nở thành những thiện quả hoặc ác báo, đều chứa tại Thức Thứ Tám, c̣n gọi là Tàng Thức hoặc A Lại Da Thức, của chính ḍng sinh mạng đó. Thức này là lớp Vọng, cũng mênh mông như Chân Tâm, tạm ví như làn sóng điện trong không gian.
Những chủng tử thiện hoặc ác này sẽ xuất hiện vào giây phút lâm chung, để quyết định cảnh giới tái sinh của đương sự, nhà Phật gọi là “gió Nghiệp cuốn đi tái sinh”. Một số người có kinh nghiệm về cận tử (near death experience) kể lại đại khái rằng vào cái lúc họ cảm thấy muốn ngừng thở, bỗng nhiên trước mắt nổi lên một cảnh tượng tràn ngập không gian, cả quăng đời quá khứ, những việc làm khiến cho họ rất sung sướng hoặc rất đau khổ, xuất hiện như là đồng thời. Họ cảm thấy như trong giấc mơ, như là h́nh ảnh của kư ức. Đối với quan điểm của nhà Phật th́ đó là giây phút mà một người có thể nh́n thấy được chính cái kho chứa các nghiệp nhân, tức là Tàng Thức của ḿnh.
Chiếu theo thành quả tự tu, tự giác ngộ lại Bản Thể của đức Phật, người Phật tử không tin vào sự cứu rỗi do bên ngoài mang đến, mà tin vào chính ḿnh, theo gương sáng của đức Bổn Sư. Trong đời sống, người Phật tử từng bước chuyển hóa tâm, từ xấu ác trở thành lành thiện, đó là giai đoạn chuyển hóa tương đối. Sau đó sẽ bước qua giai đoạn cốt tủy của quá tŕnh tu chứng là “thanh tịnh hóa tâm”, vượt lên trên những khái niệm thiện và ác tương đối, chỉ c̣n lại tâm Từ Bi và Trí Tuệ B́nh Đẳng, hóa giải tam độc Tham Sân Si, vốn là căn bản trói buộc con người vào ṿng sinh tử. Từ đây ḍng sinh mệnh được hoàn toàn giải phóng, đạt được mục tiêu tối cao của con đường tu Phật, là Toàn Giác.
Có câu chuyện ẩn dụ về sự tự tu, tự độ như sau:
“Trong khu vườn kia có một nhóm thiền sinh đang đứng chung quanh vị thiền sư. Góc vườn là một con cọp bị trói. Thiền sư hỏi đám học tṛ:
- Có ai biết cách cởi trói cho con cọp không?
Đám thiền sinh góp ư, người th́ bàn “lấy tấm lưới chụp nó”, người th́ bảo ”xông thuốc mê cho nó”. Cuối cùng, một thiền sinh ung dung:
- Cứ bảo người nào đă trói được nó, th́ chính người đó mở trói cho nó là xong.''
Câu chuyện nói lên tính chất của quy luật nhân quả, người nào tạo nhân th́ người đó lănh quả, người nào ăn th́ người đó no, người nào tu hành thanh tịnh hóa tâm th́ người đó giác ngộ.
florida80
12-26-2019, 20:39
Như thế về căn bản, đạo Phật không tin vào sự cứu rỗi, mà tin lời Phật tuyên bố khi mới thành đạo: “Ta là Phật đă thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”, và câu di huấn khi Ngài sắp nhập cảnh giới Niết Bàn: “Mọi người hăy tự thắp đuốc lên mà đi”. Đuốc ở đây là đuốc Tuệ, là ngọn đèn trí tuệ mà đức Phật đă giơ cao, nay c̣n nằm trong kinh điển, mỗi người đều cần phải “tự học, tự tu, tự giác thành Phật”.
Tuy nhiên, trên con đường giáo hóa chúng sinh từng bước, đạo Phật đi trong nhân gian thường dùng những phương tiện đă sẵn có của người dân địa phương để truyền bá tư tưởng nhà Phật, theo tôn chỉ “tùy duyên mà bất biến”, dùng b́nh địa phương đựng thuốc Phật giáo, khiến cho mọi người đều được thấm nhuần tư tưởng từ bi hỷ xả mà không cảm thấy nền văn hóa truyền thống của họ bị xúc phạm. Thí dụ tượng ảnh đức Phật khi ở Ấn Độ th́ gầy g̣, nghiêm túc, đúng là h́nh ảnh người tu khổ hạnh. Sang tới Mỹ, tại tu viện Shasta trên sườn núi Shasta, nơi có trên sáu chục vị sư người Tây Phương từ các tôn giáo khác chuyển qua đạo Phật đang tu hành, th́ tượng Bồ Tát Quán Thế Âm lại giống hệt tượng Đức Mẹ. Trong khi đó, tượng ảnh Phật và chư Bồ Tát bên Trung Hoa th́ lại mập mạp, hơi mỉm cười, đượm vẻ từ bi, cảm thông với chúng sinh, theo truyền thống hiếu khách của người Á Đông là “đem lại niềm vui cho nhau”.
Tóm lại, đạo Phật cũng nói về thiên đường và địa ngục, nhưng với ư nghĩa hoàn toàn khác hẳn. Từ quan điểm “nhất thiết duy tâm tạo” trong kinh Hoa Nghiêm, thiên đường và địa ngục dưới mắt người Phật tử chính là những cảnh giới tâm thức, mà mỗi người đều trải qua hằng ngày. Nếu con người không chế ngự được ba thói xấu là tham lam, sân hận và si mê, để cho bản thân rong ruổi trong sự bon chen, tính toán lợi ḿnh hại người, th́ tâm hồn không được an lạc, mà phiền năo triền miên, ăn không ngon, ngủ không yên, thường thấy ác mộng do những bực bội bất măn gặp phải hằng ngày, đó cũng đă được coi là cảnh giới địa ngục của tâm thức rồi.
Trong kinh Địa Tạng, chúng ta cũng thấy nói đến những cảnh giới địa ngục. V́ “nhất thiết duy tâm tạo” nên những cảnh giới trong kinh Địa Tạng cũng là những cảnh giới tâm thức. Địa Tạng cũng có nghĩa là Tâm Địa, là Đất Tâm. Nhà Thiền có câu “Đất Tâm nếu trống không th́ mặt trời Trí Tuệ tự chiếu”. Người nào có thể “thanh tịnh hóa tâm”, khiến cho Đất Tâm trống không, thí Trí Tuệ B́nh Đẳng tự hiện, cũng có nghĩa là Bồ Tát Địa Tạng đă phá xong cửa ngục tâm thức cho người đó rồi. C̣n như nếu Đất Tâm mà ô nhiễm quá, th́ vào giờ phút lâm chung, do nghiệp thiện hoặc ác trong quá khứ, mà thần thức người đó sẽ bị chiêu cảm vào cảnh giới tương ưng.
Quan điểm của nhà Phật về tất cả hiện hữu trên thế gian là vô thường. Tâm cũng vô thường, khi tâm chuyển th́ tất cả mọi thứ do tâm tạo cũng chuyển theo tâm. Cho nên, đối với nhà Phật, không có cảnh giới địa ngục vĩnh viễn. Mỗi người đều có thể tự ra khỏi địa ngục bằng sự “thanh tịnh hóa tâm” của họ. Đó là niềm hy vọng về giải thoát của tất cả mọi người.
Nhà Phật có câu: “ Buông dao đồ tể là thành Phật” hoặc “Biển khổ mênh mông quay đầu là bến”. “Buông dao” và “quay đầu” ở đây có nghĩa là buông bỏ đời sống ô nhiễm, bước vào con đường thực hành các phương pháp để “thanh tịnh hóa tâm” như Mật Tông, Thiền Bắc Tông, Thiền Nam Tông, Tịnh Độ Tông, vân vân …
Nói về nỗi sợ hăi th́ tất cả loài người chúng ta, mà có lẽ luôn cả các loài sinh vật nữa, kể từ thời tiền sử, đều đă mang sẵn một nỗi sợ hăi mênh mông. Ngay khi vừa mới lọt ḷng mẹ, đứa bé đă khóc thét lên v́ sợ, tay chân quờ quạng, chới với. Nó đang được nằm trong bào thai, được bảo bọc chặt chẽ, ấm áp trong ḷng mẹ nó, nay bỗng nhiên rơi tơm vào một khoảng không gian trống rỗng, nên nó thất kinh hồn vía. Rồi theo với thời gian, càng ngày con người càng có thêm nhiều nỗi sợ hăi, từ những nỗi sợ nhỏ nhít linh tinh như sợ bị đ̣n, cho tới nỗi sợ mất mát người thân yêu, mất nước, vân vân. V́ nỗi sợ hăi triền miên này mà tinh thần con người bị giam hăm, không khai phóng nổi.
Tư tưởng gia J. Krishnamurti đă tŕnh bày trong cuốn On Fear như sau:
“Đầu tiên chúng ta hăy tự hỏi “sợ là ǵ” và “nỗi sợ hăi nổi lên như thế nào”?
Đối với chúng ta, bản thân từ ngữ “sợ” nghĩa là ǵ? Tôi đang tự hỏi “sợ là cái ǵ”, chứ không phải là “tôi sợ cái ǵ”.
Hiện tại, ngay lúc tôi đang ngồi đây, tôi không sợ. Lúc này tôi không sợ, chẳng có chuyện ǵ xẩy ra cho tôi, chẳng ai đe dọa hoặc lấy cái ǵ của tôi. Nhưng ngoài cái thời gian đang hiện hữu này, trong tâm thức tôi c̣n có một lớp sâu hơn, đó là vùng ư thức hoặc vô thức, đâu đó, manh nha tới điều ǵ đó có thể xảy ra cho tôi trong tương lai, hoặc e ngại về một cái ǵ đó từ thời quá khứ đột nhiên ụp xuống đầu tôi. Cho nên tôi sợ cả quá khứ lẫn tương lai. Thế là tôi đă chia thời gian ra thành quá khứ và tương lai. Đến đây th́ sự suy nghĩ nhẩy vào lên giọng: “Coi chừng, sẽ không gặp được điều đó một lần nữa đâu”, hoặc “Sửa soạn sẵn cho tương lai đi. Tương lai anh có thể sẽ nguy khốn. Bây giờ tuy là anh đă có chút đỉnh, nhưng rồi ra có thể là anh sẽ bị mất hết. Biết đâu chừng ngày mai anh sẽ chết, vợ anh có thể bỏ anh, có thể anh sẽ mất công ăn việc làm. Anh có thể chẳng bao giờ trở thành người có danh vọng. Có thể anh sẽ cô đơn… ”
Bây giờ chúng ta hăy thử xét tới cái dạng sợ hăi của chính bạn. Nh́n coi. Quan sát kỹ phản ứng của bạn đi. Bạn có thể nh́n nỗi sợ hăi đó mà không nhấp nhổm muốn bỏ chạy, không nẩy ra chút ư muốn bào chữa, kết án hoặc kiềm chế chăng? Bạn có thể trực diện nỗi sợ đó mà không có trong tâm cái từ ngữ đă làm thức dậy nỗi sợ chăng? Bạn có thể trực diện sự chết, thí dụ thế, mà không có từ ngữ đă đánh thức nỗi sợ chết chăng? Bản thân từ ngữ đă đem tới sự chấn động, cũng như từ ngữ “yêu” có sự rung động của chính nó, có ấn tượng của chính nó, phải vậy không?
florida80
12-26-2019, 20:40
Bây giờ hăy coi có phải là những h́nh ảnh trong tâm trí bạn về sự chết, kư ức về biết bao nhiêu cái chết mà bạn đă nh́n thấy, cùng với sự bạn tự liên tưởng chính bản thân với những chuyện đă xẩy ra c̣n giữ trong tiềm thức đó, — phải chăng đó chính là h́nh ảnh đă tạo ra sự sợ hăi trong ḷng bạn? Hay là quả thật bạn sợ sự chết sẽ đến chứ không phải là bạn sợ những h́nh tượng trong tâm đă tạo ra sự chết. Có phải là từ ngữ “chết” làm cho bạn sợ hay là sự chết thật? Nếu chỉ là từ ngữ hoặc kư ức là lư do để bạn sợ th́ chẳng có ǵ đáng sợ hết ráo.
Giả dụ như hai năm trước bạn bị bệnh, kư ức về sự đau đớn, về cơn bệnh vẫn c̣n tồn tại trong trí nhớ, nay nó trỗi dậy nhắc nhở “Coi chừng, đừng để bị bệnh lại như lần trước nữa đấy nhé”. Thế rồi kư ức cùng với bè đảng của nó là guồng máy suy tư bèn tạo nên sự sợ hăi, mà thật ra th́ chẳng có cái ǵ đáng để mà sợ hết ráo, v́ lẽ lúc đó bạn đang rất là khoẻ mạnh.
Tư tưởng, vốn là cái luôn luôn cũ mèm, bởi v́ tư tưởng thoát thai từ kư ức, mà kư ức th́ dĩ nhiên là luôn luôn cũ mèm - tư tưởng, vào lúc đó, tạo ra cái cảm giác là bạn đang sợ hăi, nhưng đó chỉ là cảm giác, không có trong thực tế. Thực tế là bạn đang khỏe mạnh. Nhưng cái kinh nghiệm về sự đau ốm, vốn đă khắc ghi trong tâm trí, trỗi lên nỗi sợ “Cẩn thận, đừng để bị bệnh lại nữa đấy nhé!”
Như thế chúng ta thấy rằng chính suy nghĩ gây ra một loại sợ hăi.”
Vậy th́, như J. Krishnamurti nói ...“… chính suy nghĩ gây ra một loại sợ hăi”.
Đạo Phật từ hai ngàn năm trăm năm trước cũng đă khuyên mọi người nên “thanh tịnh hoá tâm”, nghĩa là đừng để cho tâm chạy nhẩy như con vượn, con ngựa (tâm viên ư mă), th́ sẽ được hưởng một đời sống giải thoát từng bước, rồi sẽ tới giải thoát triệt để.
Không cần phải đi tới đích mới được hưởng hoa trái, mà ngay khi quyết định bước lên con đường thanh tịnh hóa tâm là đă bắt đầu được hưởng kết quả, tâm hồn đă thấy thơ thới hân hoan rồi.
Có bài kệ trong kinh Phật như sau:
Tội từ tâm khởi đem tâm sám
Tâm được tịnh rồi tội liền tiêu
Tội tiêu tâm tịnh, thẩy đều không
Ấy mới thật là chân sám hối.
Sám hối ở đây là “thanh tịnh hoá tâm”, làm cho “tâm tịnh”, chứ không phải là đem nải chuối tới chùa cúng Phật, hứa hẹn và cầu xin lung tung.
Nhà Phật cho rằng con người ta v́ vô minh mà tạo nghiệp, thọ báo, cũng ví như một người đang đi trong căn nhà tối. Khi tâm được tịnh rồi “Trí Tuệ B́nh Đẳng tự chiếu”, th́ cũng ví như bật ngọn đèn bừng sáng lên, bóng tối biến mất, màn vô minh bỗng tan ră, là lúc con người giác ngộ giải thoát vậy.
florida80
12-26-2019, 20:42
Sự Sợ Hăi và Địa Ngục
Hỏi:
Năm nay tôi đă trên sáu chục tuổi, ở cái tuổi mà hằng ngày t́m tên bạn bè trên những mục cáo phó, phân ưu trong các nhật báo và tuần báo. Biết rằng giờ phút ra đi của ḿnh cũng chẳng c̣n bao xa, cho nên đêm đêm nằm trằn trọc, tôi băn khoăn không biết tương lai sau khi tắt hơi, ḿnh sẽ về đâu.
Thuở nhỏ, mỗi khi làm điều lỗi, tôi thường được nghe người lớn hù dọa về Thập Điện Diêm Vương, về các loại địa ngục ở dưới đất, vân vân, nhưng tôi không quan tâm. Đến nay gần đất xa trời, nhiều lúc tôi mơ hồ cảm thấy một nỗi sợ hăi mênh mông, nên gửi thư này xin thỉnh ư quư vị về vấn đề địa ngục.
Đáp:
Không riêng vị thính giả gửi là thư này, mà nhiều người trong chúng ta, dù có niềm tin về một tôn giáo nào đó, hoặc không tin thần thánh ǵ cả, cũng có đôi chút ấn tượng trong đầu về một cảnh giới được đặt tên là địa ngục.
Ư niệm về địa ngục được h́nh thành từ thời cổ xưa, xuất hiện cùng với ư niệm về ông Trời, về Thượng Đế, về các loại Thánh Thần vân vân. Hầu hết các tôn giáo đều nói đến những sự thưởng phạt sau khi chết, được thưởng th́ được sinh lên thiên đường hưởng phước, bị phạt th́ bị đầy xuống địa ngục chịu tội. Thời trước người ta tin là trái đất vuông, mặt đất bằng phẳng, cho nên thiên đường được giới thiệu là ở cao tít trên mây, và địa ngục ở dưới sâu trong ḷng đất. Lư do để được thưởng hay bị phạt th́ tùy theo luật lệ của mỗi tôn giáo quy định.
Suốt chiều dài của lịch sử loài người, h́nh ảnh về thiên đường và địa ngục đă giúp những bậc trưởng thượng trong các bộ lạc, làng mạc, thôn xóm, gia đ́nh, như là một trợ huấn cụ đắc lực để răn đe con cháu khỏi làm điều sai trái.
Sau này, khi các tổ chức tôn giáo h́nh thành, th́ vai tṛ thiên đường và địa ngục lại càng đắc lực hơn, trong việc tạo ấn tượng về thưởng phạt, về nỗi khiếp sợ sẽ bị đầy xuống địa ngục nếu trái lệnh, hoặc sự cứu rỗi nếu người tín đồ vâng lời, khiến cho từ trong tiềm thức, người ta tin chắc rằng cần phải có một nơi để bấu víu, để nương tựa sau khi chết, nếu không sẽ phải chịu muôn vàn khốn khổ, thiêu đốt vĩnh viễn trong địa ngục.
Có niềm tin cho là sau khi con người chết đi, linh hồn xuống tới âm phủ, th́ “quỷ thần hai vai” của người ấy sẽ đem tất cả công và tội của họ tâu lên vua Diêm Vương để ông ta quyết định sự thưởng phạt, hoặc cho lên trời hưởng phước, hoặc đầy vào các loại địa ngục mà tên gọi thường là rất rùng rợn, tùy theo sáng kiến của người phát minh.
Đạo Phật không tin chuyện quỷ thần hai vai và ông Diêm Vương nào đó lại có thể quyết định vận mạng của ai được. Nền đạo đức Phật giáo không xây dựng trên sự thưởng phạt ở thiên đường hoặc địa ngục, do các Thần Linh áp đặt, mà lấy quy luật nhân quả làm căn bản.
Tâm lư học của đạo Phật cho rằng tất cả những việc mà mỗi ḍng đời tạo ra, trải dài theo cuộc hành tŕnh trong thế giới hiện tượng tương đối này, là những hạt giống, hay c̣n gọi là chủng tử thiện hoặc ác, trong tương lai khi hội đủ cơ duyên, sẽ nẩy nở thành những thiện quả hoặc ác báo, đều chứa tại Thức Thứ Tám, c̣n gọi là Tàng Thức hoặc A Lại Da Thức, của chính ḍng sinh mạng đó. Thức này là lớp Vọng, cũng mênh mông như Chân Tâm, tạm ví như làn sóng điện trong không gian.
Những chủng tử thiện hoặc ác này sẽ xuất hiện vào giây phút lâm chung, để quyết định cảnh giới tái sinh của đương sự, nhà Phật gọi là “gió Nghiệp cuốn đi tái sinh”. Một số người có kinh nghiệm về cận tử (near death experience) kể lại đại khái rằng vào cái lúc họ cảm thấy muốn ngừng thở, bỗng nhiên trước mắt nổi lên một cảnh tượng tràn ngập không gian, cả quăng đời quá khứ, những việc làm khiến cho họ rất sung sướng hoặc rất đau khổ, xuất hiện như là đồng thời. Họ cảm thấy như trong giấc mơ, như là h́nh ảnh của kư ức. Đối với quan điểm của nhà Phật th́ đó là giây phút mà một người có thể nh́n thấy được chính cái kho chứa các nghiệp nhân, tức là Tàng Thức của ḿnh.
Chiếu theo thành quả tự tu, tự giác ngộ lại Bản Thể của đức Phật, người Phật tử không tin vào sự cứu rỗi do bên ngoài mang đến, mà tin vào chính ḿnh, theo gương sáng của đức Bổn Sư. Trong đời sống, người Phật tử từng bước chuyển hóa tâm, từ xấu ác trở thành lành thiện, đó là giai đoạn chuyển hóa tương đối. Sau đó sẽ bước qua giai đoạn cốt tủy của quá tŕnh tu chứng là “thanh tịnh hóa tâm”, vượt lên trên những khái niệm thiện và ác tương đối, chỉ c̣n lại tâm Từ Bi và Trí Tuệ B́nh Đẳng, hóa giải tam độc Tham Sân Si, vốn là căn bản trói buộc con người vào ṿng sinh tử. Từ đây ḍng sinh mệnh được hoàn toàn giải phóng, đạt được mục tiêu tối cao của con đường tu Phật, là Toàn Giác.
florida80
12-26-2019, 20:42
Có câu chuyện ẩn dụ về sự tự tu, tự độ như sau:
“Trong khu vườn kia có một nhóm thiền sinh đang đứng chung quanh vị thiền sư. Góc vườn là một con cọp bị trói. Thiền sư hỏi đám học tṛ:
- Có ai biết cách cởi trói cho con cọp không?
Đám thiền sinh góp ư, người th́ bàn “lấy tấm lưới chụp nó”, người th́ bảo ”xông thuốc mê cho nó”. Cuối cùng, một thiền sinh ung dung:
- Cứ bảo người nào đă trói được nó, th́ chính người đó mở trói cho nó là xong.''
Câu chuyện nói lên tính chất của quy luật nhân quả, người nào tạo nhân th́ người đó lănh quả, người nào ăn th́ người đó no, người nào tu hành thanh tịnh hóa tâm th́ người đó giác ngộ.
Như thế về căn bản, đạo Phật không tin vào sự cứu rỗi, mà tin lời Phật tuyên bố khi mới thành đạo: “Ta là Phật đă thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”, và câu di huấn khi Ngài sắp nhập cảnh giới Niết Bàn: “Mọi người hăy tự thắp đuốc lên mà đi”. Đuốc ở đây là đuốc Tuệ, là ngọn đèn trí tuệ mà đức Phật đă giơ cao, nay c̣n nằm trong kinh điển, mỗi người đều cần phải “tự học, tự tu, tự giác thành Phật”.
Tuy nhiên, trên con đường giáo hóa chúng sinh từng bước, đạo Phật đi trong nhân gian thường dùng những phương tiện đă sẵn có của người dân địa phương để truyền bá tư tưởng nhà Phật, theo tôn chỉ “tùy duyên mà bất biến”, dùng b́nh địa phương đựng thuốc Phật giáo, khiến cho mọi người đều được thấm nhuần tư tưởng từ bi hỷ xả mà không cảm thấy nền văn hóa truyền thống của họ bị xúc phạm. Thí dụ tượng ảnh đức Phật khi ở Ấn Độ th́ gầy g̣, nghiêm túc, đúng là h́nh ảnh người tu khổ hạnh. Sang tới Mỹ, tại tu viện Shasta trên sườn núi Shasta, nơi có trên sáu chục vị sư người Tây Phương từ các tôn giáo khác chuyển qua đạo Phật đang tu hành, th́ tượng Bồ Tát Quán Thế Âm lại giống hệt tượng Đức Mẹ. Trong khi đó, tượng ảnh Phật và chư Bồ Tát bên Trung Hoa th́ lại mập mạp, hơi mỉm cười, đượm vẻ từ bi, cảm thông với chúng sinh, theo truyền thống hiếu khách của người Á Đông là “đem lại niềm vui cho nhau”.
Tóm lại, đạo Phật cũng nói về thiên đường và địa ngục, nhưng với ư nghĩa hoàn toàn khác hẳn. Từ quan điểm “nhất thiết duy tâm tạo” trong kinh Hoa Nghiêm, thiên đường và địa ngục dưới mắt người Phật tử chính là những cảnh giới tâm thức, mà mỗi người đều trải qua hằng ngày. Nếu con người không chế ngự được ba thói xấu là tham lam, sân hận và si mê, để cho bản thân rong ruổi trong sự bon chen, tính toán lợi ḿnh hại người, th́ tâm hồn không được an lạc, mà phiền năo triền miên, ăn không ngon, ngủ không yên, thường thấy ác mộng do những bực bội bất măn gặp phải hằng ngày, đó cũng đă được coi là cảnh giới địa ngục của tâm thức rồi.
Trong kinh Địa Tạng, chúng ta cũng thấy nói đến những cảnh giới địa ngục. V́ “nhất thiết duy tâm tạo” nên những cảnh giới trong kinh Địa Tạng cũng là những cảnh giới tâm thức. Địa Tạng cũng có nghĩa là Tâm Địa, là Đất Tâm. Nhà Thiền có câu “Đất Tâm nếu trống không th́ mặt trời Trí Tuệ tự chiếu”. Người nào có thể “thanh tịnh hóa tâm”, khiến cho Đất Tâm trống không, thí Trí Tuệ B́nh Đẳng tự hiện, cũng có nghĩa là Bồ Tát Địa Tạng đă phá xong cửa ngục tâm thức cho người đó rồi. C̣n như nếu Đất Tâm mà ô nhiễm quá, th́ vào giờ phút lâm chung, do nghiệp thiện hoặc ác trong quá khứ, mà thần thức người đó sẽ bị chiêu cảm vào cảnh giới tương ưng.
Quan điểm của nhà Phật về tất cả hiện hữu trên thế gian là vô thường. Tâm cũng vô thường, khi tâm chuyển th́ tất cả mọi thứ do tâm tạo cũng chuyển theo tâm. Cho nên, đối với nhà Phật, không có cảnh giới địa ngục vĩnh viễn. Mỗi người đều có thể tự ra khỏi địa ngục bằng sự “thanh tịnh hóa tâm” của họ. Đó là niềm hy vọng về giải thoát của tất cả mọi người.
Nhà Phật có câu: “ Buông dao đồ tể là thành Phật” hoặc “Biển khổ mênh mông quay đầu là bến”. “Buông dao” và “quay đầu” ở đây có nghĩa là buông bỏ đời sống ô nhiễm, bước vào con đường thực hành các phương pháp để “thanh tịnh hóa tâm” như Mật Tông, Thiền Bắc Tông, Thiền Nam Tông, Tịnh Độ Tông, vân vân …
Nói về nỗi sợ hăi th́ tất cả loài người chúng ta, mà có lẽ luôn cả các loài sinh vật nữa, kể từ thời tiền sử, đều đă mang sẵn một nỗi sợ hăi mênh mông. Ngay khi vừa mới lọt ḷng mẹ, đứa bé đă khóc thét lên v́ sợ, tay chân quờ quạng, chới với. Nó đang được nằm trong bào thai, được bảo bọc chặt chẽ, ấm áp trong ḷng mẹ nó, nay bỗng nhiên rơi tơm vào một khoảng không gian trống rỗng, nên nó thất kinh hồn vía. Rồi theo với thời gian, càng ngày con người càng có thêm nhiều nỗi sợ hăi, từ những nỗi sợ nhỏ nhít linh tinh như sợ bị đ̣n, cho tới nỗi sợ mất mát người thân yêu, mất nước, vân vân. V́ nỗi sợ hăi triền miên này mà tinh thần con người bị giam hăm, không khai phóng nổi.
Tư tưởng gia J. Krishnamurti đă tŕnh bày trong cuốn On Fear như sau:
“Đầu tiên chúng ta hăy tự hỏi “sợ là ǵ” và “nỗi sợ hăi nổi lên như thế nào”?
Đối với chúng ta, bản thân từ ngữ “sợ” nghĩa là ǵ? Tôi đang tự hỏi “sợ là cái ǵ”, chứ không phải là “tôi sợ cái ǵ”.
Hiện tại, ngay lúc tôi đang ngồi đây, tôi không sợ. Lúc này tôi không sợ, chẳng có chuyện ǵ xẩy ra cho tôi, chẳng ai đe dọa hoặc lấy cái ǵ của tôi. Nhưng ngoài cái thời gian đang hiện hữu này, trong tâm thức tôi c̣n có một lớp sâu hơn, đó là vùng ư thức hoặc vô thức, đâu đó, manh nha tới điều ǵ đó có thể xảy ra cho tôi trong tương lai, hoặc e ngại về một cái ǵ đó từ thời quá khứ đột nhiên ụp xuống đầu tôi. Cho nên tôi sợ cả quá khứ lẫn tương lai. Thế là tôi đă chia thời gian ra thành quá khứ và tương lai. Đến đây th́ sự suy nghĩ nhẩy vào lên giọng: “Coi chừng, sẽ không gặp được điều đó một lần nữa đâu”, hoặc “Sửa soạn sẵn cho tương lai đi. Tương lai anh có thể sẽ nguy khốn. Bây giờ tuy là anh đă có chút đỉnh, nhưng rồi ra có thể là anh sẽ bị mất hết. Biết đâu chừng ngày mai anh sẽ chết, vợ anh có thể bỏ anh, có thể anh sẽ mất công ăn việc làm. Anh có thể chẳng bao giờ trở thành người có danh vọng. Có thể anh sẽ cô đơn… ”
florida80
12-26-2019, 20:43
Bây giờ chúng ta hăy thử xét tới cái dạng sợ hăi của chính bạn. Nh́n coi. Quan sát kỹ phản ứng của bạn đi. Bạn có thể nh́n nỗi sợ hăi đó mà không nhấp nhổm muốn bỏ chạy, không nẩy ra chút ư muốn bào chữa, kết án hoặc kiềm chế chăng? Bạn có thể trực diện nỗi sợ đó mà không có trong tâm cái từ ngữ đă làm thức dậy nỗi sợ chăng? Bạn có thể trực diện sự chết, thí dụ thế, mà không có từ ngữ đă đánh thức nỗi sợ chết chăng? Bản thân từ ngữ đă đem tới sự chấn động, cũng như từ ngữ “yêu” có sự rung động của chính nó, có ấn tượng của chính nó, phải vậy không?
Bây giờ hăy coi có phải là những h́nh ảnh trong tâm trí bạn về sự chết, kư ức về biết bao nhiêu cái chết mà bạn đă nh́n thấy, cùng với sự bạn tự liên tưởng chính bản thân với những chuyện đă xẩy ra c̣n giữ trong tiềm thức đó, — phải chăng đó chính là h́nh ảnh đă tạo ra sự sợ hăi trong ḷng bạn? Hay là quả thật bạn sợ sự chết sẽ đến chứ không phải là bạn sợ những h́nh tượng trong tâm đă tạo ra sự chết. Có phải là từ ngữ “chết” làm cho bạn sợ hay là sự chết thật? Nếu chỉ là từ ngữ hoặc kư ức là lư do để bạn sợ th́ chẳng có ǵ đáng sợ hết ráo.
Giả dụ như hai năm trước bạn bị bệnh, kư ức về sự đau đớn, về cơn bệnh vẫn c̣n tồn tại trong trí nhớ, nay nó trỗi dậy nhắc nhở “Coi chừng, đừng để bị bệnh lại như lần trước nữa đấy nhé”. Thế rồi kư ức cùng với bè đảng của nó là guồng máy suy tư bèn tạo nên sự sợ hăi, mà thật ra th́ chẳng có cái ǵ đáng để mà sợ hết ráo, v́ lẽ lúc đó bạn đang rất là khoẻ mạnh.
Tư tưởng, vốn là cái luôn luôn cũ mèm, bởi v́ tư tưởng thoát thai từ kư ức, mà kư ức th́ dĩ nhiên là luôn luôn cũ mèm - tư tưởng, vào lúc đó, tạo ra cái cảm giác là bạn đang sợ hăi, nhưng đó chỉ là cảm giác, không có trong thực tế. Thực tế là bạn đang khỏe mạnh. Nhưng cái kinh nghiệm về sự đau ốm, vốn đă khắc ghi trong tâm trí, trỗi lên nỗi sợ “Cẩn thận, đừng để bị bệnh lại nữa đấy nhé!”
Như thế chúng ta thấy rằng chính suy nghĩ gây ra một loại sợ hăi.”
Vậy th́, như J. Krishnamurti nói ...“… chính suy nghĩ gây ra một loại sợ hăi”.
Đạo Phật từ hai ngàn năm trăm năm trước cũng đă khuyên mọi người nên “thanh tịnh hoá tâm”, nghĩa là đừng để cho tâm chạy nhẩy như con vượn, con ngựa (tâm viên ư mă), th́ sẽ được hưởng một đời sống giải thoát từng bước, rồi sẽ tới giải thoát triệt để.
Không cần phải đi tới đích mới được hưởng hoa trái, mà ngay khi quyết định bước lên con đường thanh tịnh hóa tâm là đă bắt đầu được hưởng kết quả, tâm hồn đă thấy thơ thới hân hoan rồi.
Có bài kệ trong kinh Phật như sau:
Tội từ tâm khởi đem tâm sám
Tâm được tịnh rồi tội liền tiêu
Tội tiêu tâm tịnh, thẩy đều không
Ấy mới thật là chân sám hối.
Sám hối ở đây là “thanh tịnh hoá tâm”, làm cho “tâm tịnh”, chứ không phải là đem nải chuối tới chùa cúng Phật, hứa hẹn và cầu xin lung tung.
Nhà Phật cho rằng con người ta v́ vô minh mà tạo nghiệp, thọ báo, cũng ví như một người đang đi trong căn nhà tối. Khi tâm được tịnh rồi “Trí Tuệ B́nh Đẳng tự chiếu”, th́ cũng ví như bật ngọn đèn bừng sáng lên, bóng tối biến mất, màn vô minh bỗng tan ră, là lúc con người giác ngộ giải thoát vậy.
Liên Hương (ĐPK)
Nguồn: Thư Viện Hoa Sen
florida80
12-26-2019, 20:44
"Mười Bốn Điều Răn Của Phật"
là Giả Mạo
Hỏi:
- "Tôi đọc được thư của một người mẹ gửi cho con trên một trang blog nói về 14 điều dạy của Đức Phật. Sau khi xem tôi thấy làm lạ, những điều này không thấy được nhắc tới trong kinh sách. Xin quư ban biên tập cho biết ư kiến.
Dưới đây là nguyên văn "14 điều dạy của Đức Phật" đó:
1.- Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính ḿnh.
2.- Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá.
3.- Thất bại lớn nhất của đời người là tự đại.
4.- Bi ai lớn nhất của đời người là ganh tỵ.
5.- Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất ḿnh.
6.- Tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu.
7.- Đáng thương lớn nhất của đời người là tự ty.
8.- Đáng khâm phục lớn nhất của đời người là vươn lên sau khi ngă.
9.- Phá sản lớn nhất của đời người là tuyệt vọng.
10.- Tài sản lớn nhất của đời người la sức khỏe, Trí Tuệ.
11.- Món nợ lớn nhất của đời người là t́nh cảm.
12.- Lễ vật lớn nhất của đời người là khoan dung.
13.- Khiếm khuyết lớn nhất của đời người là kém hiểu biết.
14.- An ủi lớn nhất của đời người là bố thí.
(Trích lời kinh Phật)
(GHI CHÚ CỦA BAN BIÊN TẬP TVHS (trong quyển sách:
Nguồn: http://old.thuvienhoasen.or g/tmd-tongiaovadantoc1-01.htm
"14 điều răn của Phật" trên là tên của một bản văn được truyền tụng không có nguồn gốc rơ ràng. Theo Đại đức Thích Nhật Từ, 14 điều này vốn được lưu truyền tại chùa Thiếu Lâm, Trung Quốc. Không có bài kinh nào trong các bộ Kinh tạng Pa-li, A-hàm kinh và kinh Đại Thừa chứa đủ 14 điều này. Tác giả có thể là các nhà sư chùa Thiếu Lâm và họ đă biên tập, trích dẫn ư tưởng từ các bản kinh, và tập hợp lại theo trật tự ḿnh đặt ra. Việc truy t́m lại nguyên gốc các câu riêng lẻ từ kinh Phật là điều rất khó. Các bản dịch tiếng Việt đă có một số điểm lệch so với nguyên tác. Ví dụ, "điều răn" là cách dịch không chính xác từ giới (nguyên ngữ Śīla trong tiếng Phạn với nghĩa "giới" của Phật giáo, hay "điều khoản đạo đức").
(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)
Nghiên cứu nội dung cái gọi là "14 điều răn của Phật" này, tác gỉa Đoàn Đức Thành trong một email phổ biến trên mạng cho biết nó tương tự như bản văn "Nhân Sinh Thập Tứ Tối" (14 Cái Hay Nhất của Đời Người) của Trung Quốc, chỉ khác 2 điều:
(1) Điều 6 Trung Quốc viết là: “Tội lỗi lớn nhất của đời người là lừa dối chính ḿnh”,
(2) Điều 10, Trung Quốc viết là “tài sản lớn nhất của đời người là sức khoẻ".
Tác giả cũng đề nghị nên thay tiêu đề "14 ĐIỀU RĂN CỦA PHẬT" bằng "14 CÁI HAY NHẤT CỦA ĐỜI NGƯỜI" và bỏ ḍng "TRÍCH LỜI KINH PHẬT".
Dưới đây là phóng ảnh bản của Trung quốc:
(ĐOÀN HỌC GIẢ HỌC VIỆN QUAN HỆ QUỐC TẾ VIỆT NAM sưu tầm tại Chùa Thiếu Lâm Trung Quốc)
florida80
12-27-2019, 22:19
Chứng minh của Khoa học về nhân quả luân hồi
Tập 1
Kính thưa chư vị Pháp sư, chư vị Đại đức, chư vị đồng tu, xin chào mọi người!
Hậu học rất vinh dự lần đầu tiên được đến với quư đảo Đài Loan, có được pháp duyên thù thắng như thế này, có thể cùng với chư vị Đại đức ở nơi đây thảo luận: “Chứng minh của khoa học về nhân quả luân hồi”. Trong thời đại hiện nay, buổi thảo luận này rất là quan trọng.
Hậu học trước khi đến Đài Loan đă đi đến Hồng Kông để chúc tết Ân sư Tịnh Không thượng nhân. Ân sư Ngài đă ân cần dặn ḍ tôi: “Giáo dục nhân quả là giáo dục quan trọng nhất để cứu văn thế đạo nhân tâm”. V́ vậy Ân sư Ngài cũng khuyến khích hậu học đi các nơi trên thế giới để thúc đẩy tuyên giảng nhân quả luân hồi. Cho nên hậu học cảm thấy rằng sứ mệnh giáo dục nhân quả vô cùng quan trọng, v́ vậy không suy nghĩ, đă đi đến quư đảo để chia sẻ chủ đề này với mọi người, cũng là để thỉnh giáo với mọi người.
Chuyến vân du diễn giảng ngày hôm nay tại quư đảo là điểm cuối cùng, điểm thứ 11. Trong hai tuần này, hậu học tôi đi đến Đài Nam, Cao Hùng, Cương Sơn, Đấu Lục, kể cả các nơi ở Đài Bắc v.v… để diễn giảng, cũng đă đến nhà tù, đến nơi tạm giam, đến hội trường của sở cảnh sát, cùng mọi người thảo luận với nhau.
Đối với nhân quả luân hồi và chân tướng của vũ trụ nhân sanh, kỳ thật từ xưa đến nay người ta mãi vẫn đang tìm tòi, bởi v́ con người có sanh ắt sẽ có tử. Về việc sanh tử, mọi người nên suy nghĩ, sanh tử đến như thế nào, sanh từ nơi nào đến, chết đi về đâu? Thậm chí nên suy nghĩ rằng có thể chấm dứt được chuyện sanh tử không? Không sanh không tử? Những vấn đề này có thể nói trong lịch sử đă nghiên cứu mấy ngàn năm rồi; ở trong những tín ngưỡng, văn hóa, tôn giáo trong và ngoài nước cũng có những đáp án rất phong phú.
Chẳng hạn như Khổng Tử - Thánh nhân của dân tộc chúng ta - trong chú giải “Kinh Dịch” có cho chúng ta biết về “Tinh khí vi vật du hồn vi biến”. Du hồn là nói đến trạng thái con người trước khi đầu thai và sanh ra, tinh khí là chỉ trạng thái cha mẹ sinh ra sau khi đầu thai. Tuy nhiên, Khổng Tử Ngài cũng có nói “Vị tri sanh yên tri tử”. Cho nên với đạo lư của sự sống Ngài giảng rất nhiều, nhưng đạo lư về cái chết th́ nói rất ít, nhưng Ngài cũng nói sơ qua cho chúng ta: “Sự thật con người sau khi chết vẫn c̣n tồn tại sự sống”.
Cũng gần giống như Ngài Khổng Tử, cùng thời đại đó, có Thánh nhân Plato ở Phương Tây. Trong tác phẩm “Lư Tưởng Quốc” của ông cũng mô tả đến những vấn đề của sự sống và cái chết, đặc biệt có người miêu tả t́nh tiết của con người khi linh hồn ra khỏi thể xác. Phật Tổ của chúng ta - Thích Ca Mâu Ni Phật đối với sanh tử luân hồi, chân tướng trong sáu đường Ngài đă giảng cho chúng ta nghe càng rõ ràng hơn.
Ngoài những vị cổ Thánh tiên Hiền đă giảng dạy cho chúng ta về chân tướng của vũ trụ nhân sanh này, th́ trong lịch sử trong và ngoài nước cũng có rất nhiều ghi chép nổi tiếng đối với chuyện chuyển thế luân hồi. Trong chính sử của đất nước ta cũng có rất nhiều câu chuyện nói đến sự chuyển kiếp luân hồi. Chúng ta tạm thời không bàn chuyện giả sử mà chỉ bàn chính sử, đều được sự công nhận của các vị vua ở trong chính sử, có nhiều bài viết về vấn đề này. Có bài viết nói nhà thơ tiên Lư Bạch đời nhà Đường sau này chuyển kiếp thành Quách Tường Chánh ở vào đời nhà Tống (chuyện này có ghi chép trong “Tống Sử” trang 10 tập 3 quyển 444). Vào thời Nam Bắc Triều vẫn c̣n có Lương Nguyên Đế, tiền kiếp của ông là một vị xuất gia tên là Miễu Mục Tăng (Chuyện này ghi trong “Nam Sử Lương Kư” ở trang 1 tập 3 quyển 8). C̣n có câu chuyện người trời chuyển kiếp, ví dụ như trong “Đường Thư” trang 3 tập 2 quyển 27 có ghi chép câu chuyện của Hoàng đế Đường Đại Tông đời Đường là một vị thần đến đầu thai.
Ngoài ra, c̣n có chuyện con người chuyển kiếp thành động vật. Thí dụ nổi tiếng là Đại tướng Bạch Khởi thời đại Chiến Quốc nhà Tần cùng với nước Triệu đánh nhau. Đại tướng nước Triệu là luận binh trên giấy, không biết cách sử dụng binh. Kết quả là 400.000 binh lính nước Triệu bị bắt làm tù binh đại bại, đương nhiên 400.000 binh lính của nước Triệu trong tay không một tấc sắt đều bị chôn sống. V́ vậy, về sau trong “Đông Châu Liệt Quốc Chí” có ghi lại vào những năm cuối đời Đường, có một hôm trên trời bỗng nổi lên một trận sấm sét và đánh một con trâu chết tươi. Kết quả phát hiện trên bụng của con trâu có viết hai chữ “Bạch Khởi”. Đối với câu chuyện này lịch sử có b́nh luận: “Bạch Khởi do giết người quá nhiều, cho nên ông ta đời đời kiếp kiếp đều phải mang thân súc sanh để chịu quả báo, và c̣n phải chịu nhận quả báo bị sét đánh chết”.
Trong những ghi chép của lịch sử c̣n đăng thêm lời giáo huấn của cổ Thánh tiên Hiền, v́ vậy người xưa đối với chuyện chuyển kiếp luân hồi nhân quả báo ứng kỳ thật chẳng nghi ngờ chút nào. Con người trong thời đại này, do khoa học phát triển, đối với chuyện luân hồi chuyển kiếp bắt đầu không tin tưởng, đây có lẽ là bởi vì cho rằng hễ nói đến luân hồi th́ chỉ trong tôn giáo mới có, cho rằng đây là khái niệm ở trong tôn giáo. Tất cả đều bị bác bỏ cho là mê tín, là phản khoa học. Đại khái v́ khoa học và tôn giáo mấy trăm năm lại đây thật giống như oan gia.
Bạn xem trong thập kỷ 70, khi Tây Âu đang lúc khoa học vừa mới bắt đầu khởi sắc, lúc đó có rất nhiều nhà thiên văn học đă phát hiện trái đất không phải là trung tâm của vũ trụ. Học thuyết này vi phạm quan điểm của tôn giáo lúc đó, cho nên bị tôn giáo đồ lúc đó bác bỏ, cho là dị đoan tà thuyết. Giống như nhà thiên văn học người Ư là Galileo, lúc đó khăng khăng giữ học thuyết “Trái đất thật sự không phải là trung tâm của vũ trụ mà chỉ là một hành tinh nhỏ ở bên trong vũ trụ”. Học thuyết này hiện nay chúng ta đều biết là đúng, nhưng vào thời đó, người khăng khăng cố giữ học thuyết này đều bị tôn giáo đồ hăm hại, Galileo bị bắt bỏ tù chung thân. Còn có Bruno cũng bị bắt thiêu sống. Bạn xem, người xưa dùng tôn giáo để phản bác khoa học, c̣n người hiện nay th́ lại dùng khoa học để phản bác tôn giáo, đây gọi là nhân nào quả đó, nhân quả báo ứng rơ ràng. Nhưng chúng ta nên biết, chân lư là phải chịu muôn vàn thử thách của khoa học và cũng chẳng sợ khoa học kiểm nghiệm.
Trong mấy mươi năm gần đây, ở phương Tây, đặc biệt là Hoa Kỳ, sự phát triển của những ngành khoa học như tinh thần y học, tử vong y học, tâm lư học, sinh lư học thực sự đă cung cấp cho chúng ta rất nhiều chứng cứ khoa học chứng thực con người thật sự có luân hồi chuyển kiếp. Hậu học mấy năm gần đây không ngừng sưu tầm và nghiên cứu những tài liệu nói về vấn đề này. Kết quả tài liệu nói về vấn đề này rất là phong phú. Hậu học hai ngày hôm nay có được nhân duyên như vậy liền đến giới thiệu một cách đơn giản cho mọi người về thành quả của Phương Tây đối với chuyện luân hồi chuyển kiếp.
Trước khi giới thiệu, tôi muốn kể cho mọi người một câu chuyện điển h́nh. Câu chuyện này xảy ra ở Trường Đại học Virginia của Hoa Kỳ. Giáo sư Ian Stevenson, nhà tinh thần tâm lư học nổi tiếng, cả cuộc đời bốn mươi mấy năm đă sưu tập và nghiên cứu hơn 3.000 câu chuyện, những câu chuyện này chứng thực là có sanh tử luân hồi. Đối tượng nghiên cứu của ông chủ yếu là những em thiếu nhi từ hai đến bảy tuổi. Các em thiếu nhi ở trong giai đoạn có thể nói chuyện được. Các em có thể nhớ lại tiền kiếp của chính bản thân ḿnh. T́nh huống được kể ra đều là những chuyện đă xảy ra mấy mươi năm, thậm chí mấy trăm năm trong quá khứ, mà c̣n có thể miêu tả lại những chi tiết này thật tỉ mỉ và chân thật. Mọi việc đều được xác minh.
Một kiệt tác trong giai đoạn đầu của Giáo sư Stevenson có tên “Hai Mươi Chuyện Tái Sanh Điển H́nh”. Trong tác phẩm này, hậu học xin chọn ra một câu chuyện để kể cho mọi người nghe. Câu chuyện này kể về một bé gái người Ấn Độ tên là Swarnlata.
florida80
12-27-2019, 22:19
"Swarnlata ra đời vào ngày 2 tháng 3 năm 1948, tại thành phố Phanna của Ấn Độ. Khi cô bé 4 tuổi, cô bé này có thể kể lại chuyện của chính bản thân ḿnh đă gặp trong kiếp trước. Bản thân cô kiếp trước sống ở phố Kai Dili, trong gia đ́nh mang họ Pashake. Gia đ́nh cô hiện sống và gia đ́nh mà kiếp trước cô sống căn bản là hai nhà chẳng có quen biết nhau. Có một hôm, cô bé này cùng với người cha của ḿnh đi ngang qua phố Kai Dili kiếp trước cô đă sống. Kết quả khi vừa thấy thành phố này, cô cảm giác như rất quen thuộc, trước đây đă sống qua nơi này. Cho nên cô liền nói với cha của ḿnh:
“Thưa cha, nhà của con ở gần chỗ này, chúng ta đi đến đó uống trà nhé!”.
Nhưng cha của cô trả lời:
“Con gái ngốc ơi, nhà của ḿnh không phải ở đây!”.
Kể từ lúc đó, cô bé này liền bắt đầu không ngừng miêu tả đủ hết những câu chuyện ở kiếp trước, gây sự chú ư cho cha mẹ."
Về sau, câu chuyện này được truyền đến chỗ của Giáo sư Stevenson, thế là Giáo sư cùng với những đồng nghiệp người Ấn Độ, các nhà nghiên cứu cùng nhau tiến hành điều tra xác minh câu chuyện này. Những vị Giáo sư này liền căn cứ vào các t́nh huống mà cô bé đă miêu tả, t́m đến gia đ́nh nơi cô bé đă sống ở kiếp trước. Th́ ra, cô bé này kiếp trước ở trong gia đ́nh này là một người mẹ. Cô tên là Shakespeare, qua đời vào năm 1939.
Lúc cô bé này đi đến gia đ́nh mà kiếp trước đă sống, dường như vừa gặp được mỗi người trong gia đ́nh cô cảm thấy quen, tên của mỗi một người đều có thể nói ra liền một mạch. Chân thật giống như người thân cũ trở về nhà, hỏi thăm sức khỏe mọi người lâu rồi mới gặp lại, hỏi thăm mọi người đều khỏe hết chứ?
Các vị giáo sư này liền tiến hành thẩm tra cô bé, cho cô bé làm một số trắc nghiệm. Trong đó có trắc nghiệm cho Shakespeare kiếp trước là một người mẹ, bỏ lại người chồng và đứa con. Gọi đứa con đến trước mặt của cô bé, cố ư làm rối loạn suy nghĩ của cô bé, liền giới thiệu với cô bé rằng người này là như vậy như vậy mà không giới thiệu ông ấy là con của Shakespeare. Kết quả cô bé này cũng nhận ra được đứa con trong tiền kiếp của ḿnh, không hề bị rối loạn tư tưởng, kiên quyết nói rằng đây chính là con của tôi, tên của ông ấy là Maili và c̣n biểu hiện t́nh yêu thương của người mẹ hiền đối với đứa con trong tiền kiếp của ḿnh. Chúng ta biết được, người con của cô ấy trong đời này tuổi tác lớn hơn cô, không ngờ rằng cô bé này biểu hiện ra thật là giống một người mẹ hiền đối đăi với con của ḿnh.
Càng thú vị hơn là cô bé Swarnlata này có thể kể ra câu chuyện riêng tư của ông chồng tiền kiếp của cô. Vốn dĩ người chồng trong tiền kiếp của cô đă lấy đi 1.200 rúp tiền riêng ở trong tủ tiền của cô, vẫn chưa hoàn trả lại cho cô. Câu chuyện vẫn chưa có ai biết được, chỉ có chồng của cô ở trong ḷng biết rất rơ. Kết quả là cô bé đă đem câu chuyện này kể hết ra cho mọi người nghe, khiến cho ông chồng của cô đỏ mặt tía tai mà chấp nhận.
V́ vậy, chúng ta không nên cho rằng đă mượn tiền của người trong nhà không chịu hoàn trả là không có chuyện ǵ nhé! Kết quả chẳng ngờ chủ nợ đến đời sau họ vẫn c̣n nhớ. V́ vậy không được nói mắc nợ không chịu trả, mà nhất định phải trả.
Mọi người có thể chú ư đến cô bé này tự ḿnh nói:
“Bà Shakespeare đă qua đời vào năm 1939”.
Câu chuyện này cũng đúng với sự thật, đă qua sự xác minh của các vị giáo sư. Cuộc đời của bé gái này được sinh ra vào năm 1948, cho nên thời gian cách nhau ở khoảng giữa là chín năm.
Có người sẽ hỏi trong khoảng chín năm đó cô bé đă đi đâu? Cô bé này chính từ miệng ḿnh nói ra, cô bé nói trong chín năm đó cô đă đi đầu thai một lần ở một làng quê nhỏ nước Bengal (là quốc gia gần với Ấn Độ), và cũng là một bé gái. Cô bé này đến chín tuổi th́ qua đời. Làm sao chứng minh đây? Cô bé này rất vui vẻ hát một bài dân ca của nước Bengal, mà c̣n hát đi hát lại một cách say đắm trong tiếng hát của ḿnh, nhảy múa rất uyển chuyển. Mẹ của cô bé cũng như mọi người đều không hiểu tiếng Bengal, cho nên chỉ nh́n xem cô bé vừa hát vừa nhảy, cũng không biết cô đang hát cái ǵ, đang nhảy điệu ǵ, chỉ nh́n thấy cô bé trong bộ dạng rất là thỏa măn.
Về sau, Giáo sư Stevenson cùng với các đồng nghiệp người Ấn Độ của ông trong lúc đi điều tra, trong đó có một vị học giả người Ấn Độ biết được tiếng Bengal, cho nên trong lúc bé gái đang hát liền vội vàng ghi lại lời của bài hát. Những ca từ này là miêu tả người nông dân đang trong mùa bội thu. Tâm trạng vui mừng đó là khen ngợi thiên nhiên. Những ca từ này được phiên dịch sang tiếng Anh, cũng được in trong luận văn của Giáo sư Stevenson. Về sau, các vị giáo sư này liền đem những ca từ này, thật ra là muốn đi t́m cô bé đă nói ở kiếp trước thuộc làng quê của nước Bengal. Kết quả thật sự t́m được. Vừa xác minh, quả nhiên người ở trong làng này họ thật sự rất thích hát bài dân ca này và cũng có thể vừa hát vừa nhảy rất uyển chuyển theo bài hát. Cho nên, thí dụ này bày ra sờ sờ trước mắt của chúng ta, chứng minh “Con người sau khi chết không phải không c̣n ǵ, mà đích thực là có luân hồi chuyển kiếp”.
florida80
12-27-2019, 22:20
Con người hiện đại chúng ta chẳng tin có chuyện luân hồi như vậy, cho nên làm ra dáng vẻ luân hồi là mê tín không phù hợp với tinh thần khoa học. Vậy chúng ta xem thử cái ǵ được gọi là tinh thần khoa học? Tinh thần khoa học có thể nói có hai điểm: một cái gọi là “Thực chứng cầu chân” và một cái gọi là “Khả trùng phục tánh”. “Thực chứng cầu chân” là chỉ sự thật cầu thị, như vậy mà thừa nhận; “khả trùng phục tánh” là bạn làm cái thực nghiệm này lặp đi lặp lại nhiều lần. Trương Tam làm cũng như vậy, Lư Tứ làm cũng như vậy, Vương Ma Tử làm th́ cũng như vậy. Kết luận đều là như nhau, th́ điều này mới được gọi là khoa học thực nghiệm.
Giáo sư Stevenson căn cứ vào tinh thần khoa học, dùng hơn 3.000 trường hợp điển h́nh, lặp đi lặp lại v́ chúng ta mà chứng minh luân hồi là thật sự có. Với ông, mỗi trường hợp đều được tiến hành điều tra nghiên cứu tỉ mỉ, một chút cẩu thả cũng không có, cho nên cũng nhận được rất nhiều lời khen ngợi cao độ của giới khoa học, giới học thuật Hoa Kỳ.
Tạp chí y học của Hoa Kỳ có tên “Nghiên Cứu Về Bệnh Của Năo Và Thần Kinh” đối với Giáo sư Stevenson có b́nh luận và đánh giá cao. Tạp chí nói rằng:
“Nếu như Giáo sư Stevenson không phải đang gây ra một điều sai lầm to lớn, th́ chắc chắn ông phải là Galileo của thế kỷ 20”.
Người Hoa Kỳ nói chuyện đều thích nói ngược, họ nói:
“Nếu như bạn không phải đang làm ra một điều sai lầm”.
Đương nhiên ông không làm điều sai lầm, làm sao mà nói một người làm sai mà làm hơn 40 năm, nghiên cứu hơn 3.000 trường hợp, v́ vậy mới khen ngợi ông, nói ông là Galileo của thế kỷ thứ 20.
Chúng ta vừa nhắc đến Galileo, nhà thiên văn học của thế kỷ 17 người Ư. Lúc đó, ông đề xuất học thuyết trái đất không phải là trung tâm của vũ trụ. Đối với tôn giáo thời đó, kiểu quan niệm truyền thống này là một thách thức và chấn động vô cùng to lớn. Chúng ta biết rằng, hiện nay thế kỷ 20, Giáo sư Stevenson đă chứng minh nghiên cứu khoa học về luân hồi, điều này cũng đúng với quan niệm khoa học truyền thống, là một thách thức và chấn động vô cùng to lớn. Chúng ta tin tưởng, cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học, sự thật của việc luân hồi càng ngày càng được nhiều người trong xă hội chấp nhận.
Ở phương Tây, đối với việc nghiên cứu khoa học về luân hồi chuyển kiếp có thể nói là kết quả vô cùng phong phú. Hậu học có thể nói trong khoảng thời gian bốn giờ ngắn ngủi này phải kể ra những câu chuyện này là chuyện không phải dễ dàng. Hậu học tôi cơ bản đem kết quả nghiên cứu khoa học của phương Tây chia thành năm lĩnh vực nghiên cứu. Chia ra cũng không chuẩn xác lắm, nhưng có thể dễ dàng cho việc chia sẻ.
NĂM LĨNH VỰC MÀ PHƯƠNG TÂY CHỨNG MINH VIỆC NGHIÊN CỨU LUÂN HỒI:
Thứ nhất, nghiên cứu linh hồn tồn tại.
Thứ hai, nghiên cứu điều tra trường hợp những người có thể nhớ được kiếp trước của ḿnh.
Thứ ba, dùng phương pháp thôi miên. Đây là chỉ một số bác sĩ tâm lư đến giúp trị bệnh những bệnh nhân tâm thần, họ dùng phương pháp thôi miên giúp nghiên cứu một số bệnh nhân tâm thần nhớ về kiếp trước.
Thứ tư, nghiên cứu đối với đời sống trong không gian không đồng duy thứ. Đời sống trong không gian duy thứ khác nhau này nói một cách đơn giản chính là quỷ, là thần (người phương Tây gọi là Thiên sứ). Loại đời sống tâm linh này nhục nhăn nh́n không thấy được.
Thứ năm, nghiên cứu đối với đặc dị công năng. V́ rất nhiều người có đặc dị công năng có thể quan sát được kiếp trước, báo trước được cái gọi là quá khứ vị lai. Những người này đối với việc nghiên cứu luân hồi chuyển kiếp cũng có rất nhiều cống hiến.
Sau khi chúng tôi chia sẻ xong năm lĩnh vực nghiên cứu này, chúng ta cần tiến thêm một bước đi sâu vào tư duy, chứng thực sự tồn tại của luân hồi là thật. Vậy chúng ta hăy nghĩ xem, luân hồi diễn ra như thế nào? Nên tiến thêm một bước mà suy xét.
Trong sự luân hồi của chúng ta, sự thật là rất nhiều đau khổ, có thể vượt qua sanh tử luân hồi mà vĩnh viễn thoát khỏi sự đau khổ hay không? Hai ngày này, tôi đến đây là để cùng chung thảo luận những vấn đề này.
THỨ NHẤT, NGHIÊN CỨU CỦA NGƯỜI PHƯƠNG TÂY ĐỐI VỚI SỰ TỒN TẠI CỦA LINH HỒN.
Vấn đề thảo luận thứ nhất là sự nghiên cứu của người phương tây đối với sự tồn tại của linh hồn. Chúng ta biết, muốn chứng thực có sự luân hồi đương nhiên điều kiện đầu tiên chính là chứng minh con người có sự tồn tại linh hồn. Bạn nghĩ xem, nếu con người không có linh hồn thì thử hỏi cái ǵ đang luân hồi? Cho nên trước tiên chúng ta xem thử, giới khoa học Phương Tây làm sao mà chứng minh được sự tồn tại của linh hồn?
Nghiên cứu của Phương Tây chứng minh sự tồn tại của linh hồn - một trào lưu chủ yếu, cái gọi là “Nghiên cứu thể nghiệm cận cái chết”. Trên thực tế chỉ những người gần với tử vong, chính là những bệnh nhân sắp chết, họ có thể nằm trên bàn phẫu thuật, bác sĩ đang giải phẫu để cứu họ. Những người này họ hôn mê rồi qua đời, linh hồn của họ vào lúc này sẽ rời thể xác, hoặc là ở nơi xa nh́n thấy cái xác của ḿnh vẫn c̣n nằm trên bàn phẫu thuật. Tiếp theo đó, họ sẽ thấy rất nhiều cảnh tượng không như nhau. Sau đó linh hồn lại quay trở lại trong cái thân của ḿnh, bác sĩ trong lúc này đợi để cứu họ tỉnh lại. Sau khi họ tỉnh lại, họ liền kể lại cho bác sĩ điều mà họ đă thấy đă nghe sau khi linh hồn vừa ra khỏi thể xác. Loại thể nghiệm này gọi là thể nghiệm cận cái chết.
Thật ra, thể nghiệm cận cái chết là một hiện tượng khá phổ biến. Căn cứ vào thống kê của một công ty nổi tiếng ở Hoa Kỳ, ví dụ thống kê của Công ty Gallo, ước chừng có khoảng 13 triệu người thành niên ở Hoa Kỳ có trải qua thể nghiệm cận với cái chết, nếu tính thêm trẻ em th́ số lượng tăng rất đáng kể. Ở Trường Đại học Connecticut của Hoa Kỳ, có một vị nghiên cứu là Tiến sĩ Kenneth Ring. Nhóm nhỏ nghiên cứu của ông tiến hành nghiên cứu đối với mấy trăm trường hợp thể nghiệm cận cái chết. Họ kết luận rằng: khoảng 35% người bệnh có thể nghiệm cận cái chết.
Về phương diện này người ta nghiên cứu rất nhiều. Một số vị khá nổi tiếng xin được nêu tên trước mọi người là giáo sư khoa nhi của Đại học Washington Hoa Kỳ - Tiến sĩ Melvin Morse, giáo sư Đại học Nevada của Hoa Kỳ - Giáo sư Raymond Moody, chuyên gia nổi tiếng về vấn đề tử vong - Bác sĩ tâm lư Elisabeth Kübler-Ross. Vị Tiến sĩ Ross cả cuộc đời của ông sưu tầm hơn 20.000 trường hợp thể nghiệm cận cái chết, bao gồm tự bản thân của ông đă có hai lần thể nghiệm cận cái chết. Cho nên ông xứng đáng là chuyên gia nổi tiếng nghiên cứu về thể nghiệm cận cái chết.
florida80
12-27-2019, 22:20
Ngoài những vị này ra c̣n có giáo sư ở Đại học California của Hoa Kỳ - Giáo sư Charles Tart. Trong luận văn cũng có liên quan với thể nghiệm cận với cái chết, cũng không ngừng đăng tải trên tạp chí y học nổi tiếng của quốc tế. Ví dụ như tạp chí “The Lancet” có đăng “Nghiên cứu thể nghiệm cận cái chết” v.v… Vào năm 1978, một số học giả có thế lực ủng hộ công lý đă thành lập nên “Hiệp Hội Nghiên Cứu Thể Nghiệm Chết Lâm Sàng Quốc Tế”. Hiệp hội này là chuyên biệt để nghiên cứu phương diện thể nghiệm cận cái chết. Có thể nói sự nghiên cứu trên lĩnh vực này phát triển rất mạnh mẽ.
Tiếp theo, tôi xin giới thiệu ngắn gọn về thành quả nghiên cứu của họ.
Có một chuyên gia của Hội Nghiên cứu Tâm linh Hoa Kỳ tên là Karlis Osis. Từ năm 1959, ông bắt đầu tham gia nghiên cứu thể nghiệm cận cái chết, đă sưu tập mấy trăm trường hợp về lĩnh vực này. Sau này, vào năm 1972 đă phát biểu một báo cáo về nghiên cứu khoa học, chủ đề này có tên gọi “Thời Khắc Tử Vong”. Trong bản báo cáo này ông tổng kết thể nghiệm cận cái chết. Ông nói:
“Đa số bệnh nhân lúc lâm mạng chung thời đều rơi vào trong trạng thái mơ hồ. Nhưng cũng có số ít người đến giây phút cuối cùng vẫn giữ được đầu óc minh mẫn, những người này sẽ thấy được kiếp sau”.
Họ nói họ nh́n thấy được đủ các loại cảnh tượng, có người c̣n nh́n thấy thân bằng quyến thuộc đă qua đời, có người c̣n nh́n thấy được nhiều sắc màu rất đẹp đẽ, nhiều cảnh giới rất siêu phàm, có người c̣n nh́n thấy các vị Thần linh v.v… Thể nghiệm của họ có sức ảnh hưởng rất nhiều, mang cho họ cảm t́nh của tôn giáo là sự hiền ḥa yên tĩnh và an nhàn. Đây là một tổng kết của ông.
Từ năm 1972 đến năm 1974, có một nhà nghiên cứu là Tiến sĩ Raymond A Moody cũng thông qua 150 trường hợp thể nghiệm cận cái chết để công bố một nghiên cứu tên là “Sự Sống Đằng Sau Sự Sống” (Life After Life), vào năm 1975. Ông cũng sử dụng những nghiên cứu này để chứng minh sự phát hiện của Osis, miêu tả cho chúng ta giống như vậy, các yếu tố chung của thể nghiệm cận cái chết. Ông nói thí dụ một người nằm đang trên giường bệnh, lúc này họ cảm thấy cơ thể đau đớn đến tột cùng, họ liền nghe bác sĩ tuyên bố đă chết rồi. Trong lúc này họ sẽ nghe được âm thanh của tiếng chuông, hoặc tiếng ồn của âm thanh vù vù, sau đó họ sẽ thấy một đường hầm màu đen để qua phía bên kia, từ đường hầm đi ra họ thấy được chính họ đă rời khỏi thi thể của ḿnh. Đây là một h́nh thức tồn tại của cơ thể tâm linh. Ngay sau đó có người sẽ thấy được người thân đă chết của ḿnh, có người nh́n thấy được vầng ánh sáng hoặc là các vị Thần linh. Họ nói sự sống của vị Thần linh này là một luồng ánh sáng. Ví dụ như những người đạo Thiên Chúa, họ sẽ gặp được Chúa Giê Su, đều là những nhân vật trong tôn giáo này. Các vị Thần linh này rất thân mật, rất nhiệt t́nh đến đón tiếp họ, sau đó th́ giống như là chiếu phim, liền chiếu lại các sự kiện chủ yếu cả cuộc đời của họ. Sau đó để cho họ tự đánh giá cuộc đời của bản thân ḿnh, căn cứ vào cuộc đời của bản thân ḿnh đă tạo nghiệp thiện hay là ác để chọn cuộc sống cho đời sau. Điều này cùng với điều ông bà ta đă nói có điểm như nhau.
Ông bà thường nhắc nhở chúng ta trên đầu ba thước có Thần linh, cho nên các vị Thần linh họ có thể giám sát chúng ta suốt cả cuộc đời. Không nên cho rằng chúng ta đang ở trong pḥng thật là kín, nơi mà không ai thấy được để làm việc xấu, h́nh như là chẳng ai nh́n thấy, nhưng các vị Thần linh này kỳ thực là đang giám sát chúng ta, đợi đến lúc chúng ta lâm chung có thể giống như chiếu một bộ phim, phản chiếu lại các sự kiện chủ yếu của cuộc đời chúng ta.
Những người này họ thường đi đến một biên giới ở phía trước, là đại diện cho ranh giới của cuộc sống này và cuộc sống của kiếp sau. Nếu đi qua rồi th́ là cuộc sống của kiếp sau. Những người này họ không có đi qua, nhưng họ lại không muốn quay trở lại, v́ quay lại họ cảm thấy thế gian đầy đau khổ, vừa quay trở lại th́ phát hiện thấy ḿnh đang nằm trên bàn mổ, trên thân cắm đầy mấy cái ống. V́ vậy lúc này họ chẳng muốn quay trở lại, nhưng lại bị một lực vô h́nh kéo trở lại, kết quả là họ hồi tỉnh trở lại. Sau khi họ tỉnh trở lại liền kể cho bác sĩ những điều họ vừa thấy, vừa nghe được, đây chính là thể nghiệm phổ biến về cận cái chết.
Chúng ta vừa nói đây chỉ là một số ít người họ có thể duy tŕ sự tỉnh táo, v́ vậy họ có thể nh́n thấy được nhiều cảnh giới khá là tốt đẹp. Những người bị hôn mê đương nhiên thể nghiệm cận cái chết chúng ta không có cách nào để biết được, bởi v́ họ đă quên hết. Tuy nhiên cũng không phải tất cả mọi người đều thấy cảnh giới tốt đẹp như vậy, cũng có những thể nghiệm cận cái chết rất đáng sợ.
Thí dụ trong tác phẩm nghiên cứu khoa học “Ấn Tượng Thiên Đường, Một Trăm Người Sống Lại Sau Khi Chết Đă Kể Lại Chuyện”, có đăng 100 thể nghiệm cận với cái chết, trong đó có một cuộc nói chuyện của vị cảnh sát trưởng người Đức. Vị cảnh sát trưởng này đối với dân rất thô lỗ, rất lạnh nhạt, rất khắc nghiệt, một chút t́nh yêu thương cũng không có. Kết quả ông có một lần thể nghiệm cận cái chết rất là đáng sợ. Sau khi linh hồn của ông ta rời khỏi thể xác, ông liền phát hiện có rất nhiều hồn ma tàn độc hung ác xúm lại bao vây quanh ông. Trong đó có một hồn ma miệng đầy máu, há to như cái chậu muốn nhào đến cắn ông, rất là đáng sợ. V́ vậy chúng ta biết rằng, cuộc đời này nếu như có quá nhiều ác niệm, trong ḷng không có t́nh thương yêu, người như thế lúc lâm chung thường thường chiêu cảm những cảnh tượng đáng sợ như vậy.
Trên thực tế vào khoảng 3.000 năm trước, Phật giáo đă nghiên cứu đối với thực nghiệm cận với cái chết. Bạn xem trong Kinh Phật, bộ Kinh rất nổi tiếng là “Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh” có một đoạn miêu tả thể nghiệm cận cái chết:
“Người làm thiện ở cơi Diêm Phù Đề đến lúc lâm chung lại có trăm ngàn ác đạo quỷ thần hoặc biến ra h́nh cha mẹ, thậm chí thành người thân thuộc tiếp đón người chết dẫn vào đường ác, huống hồ là những người làm ác”. Bạn xem, điều này chính là nói về thể nghiệm cận với cái chết. Ở đây nói Diêm Phù Đề chính là ở trên quả địa cầu của chúng ta. Người ở trên quả địa cầu này cho dù bạn là người thiện, đến lúc bạn lâm chung đều phải thấy những ác đạo quỷ thần biến thành người thân quyến thuộc (những người đó thực sự là do trong cuộc sống quá khứ bạn đă kết oán thân trái chủ với họ) đến lôi kéo làm cho bạn mê hoặc đi vào trong ác đạo chịu khổ (ác đạo chính là tên gọi của địa ngục - ngạ quỷ - súc sanh, ba đường ác), huống hồ chi là người làm ác.
florida80
12-27-2019, 22:21
V́ vậy, trong Kinh cảnh tỉnh chúng ta, tuy là người đại thiện (cho dù là làm thiện cả đời này), nhưng khó tránh khỏi trong cuộc sống quá khứ có thể đă kết oán với người ta. Những oán thân trái chủ này nhân cơ hội bạn đang trong giờ phút lâm chung đến để đ̣i nợ, để báo oán. Cho nên, nhắc nhở chúng ta phải niệm Phật. Trong “Kinh Địa Tạng” nói với chúng ta rằng: “Trong giờ phút lâm chung, nếu niệm được một danh hiệu Phật, một danh hiệu Bồ Tát, một danh hiệu Bích Chi Phật, không cần biết có tội hay không có tội đều được giải thoát”. Cho nên, người tu Tịnh Độ trong giờ phút lâm chung nhớ niệm Phật A Di Đà, không những các oán thân trái chủ ở trong cuộc đời quá khứ cả thảy đều bỏ đi, mà trong lúc chúng ta đang niệm Phật liền thấy Phật A Di Đà đến tiếp dẫn chúng ta văng sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc .
Có thể nói, lấy thực nghiệm khoa học chứng thực đối với nghiên cứu có sự tồn tại của linh hồn, thứ nhất là một vị bác sĩ người Anh, Tiến sĩ Sam Parnia. Thực nghiệm của ông rất đơn giản. Ông thực hiện đối với hơn 100 người bệnh cận cái chết (người sắp chết), đều đang nằm ở trên bàn phẫu thuật tiến hành cấp cứu. Ông liền dùng một tấm gỗ, bên trên thả vài vật thể nhỏ (đồ vật nhỏ) treo ở trên giường bệnh bên trên bàn phẫu thuật trên trần nhà. Người bệnh không nh́n thấy vật thể nhỏ này, chỉ có vị bác sĩ này biết được treo ở bên trên là đồ vật ǵ. Lư luận của ông ta là nếu như bệnh nhân có linh hồn, sau khi hôn mê qua đời họ sẽ bay lên phía trên, có thể nh́n thấy được bên trên tấm gỗ có treo đồ vật ǵ. Sau khi họ hồi tỉnh lại có thể nói với bác sĩ, đây chính là chứng thực họ có linh hồn. Chỉ cần có một người có thể nói ra được, điều đó chứng thực thật sự là có linh hồn. Kết quả của vị bác sĩ này đối với hơn 100 bệnh nhân đều tiến hành thực nghiệm giống như vậy. Đương nhiên không nhất định mỗi người đều có thể được cứu sống lại từ trên bàn phẫu thuật, trên thực tế chỉ có bảy người. Bảy người sau khi được cứu sống lại có thể nói ra được ở bên trên tấm gỗ là treo đồ vật ǵ. Cho nên ông là người đầu tiên trên thế giới dùng thí nghiệm của khoa học để chứng minh có linh hồn tồn tại.
Cùng với thí nghiệm của vị Tiến sĩ Parnia cũng có những điểm như nhau. Vị tiến sĩ Charles Tart ở Trường Đại học California của Hoa Kỳ cũng dùng thí nghiệm khoa học để chứng minh có linh hồn. Đối tượng nghiên cứu của ông không phải là những người sắp chết mà ông nghiên cứu những người trong trạng thái khỏe mạnh có thể có linh hồn xuất ra khỏi cơ thể. Trong đó có một người phụ nữ có thể xuất hồn ra khỏi cơ thể, thế là Tiến sĩ Tart mời cô ấy đến một pḥng thí nghiệm, để cô ấy nằm trên giường. Trước khi cô ấy xuất hồn ra khỏi cơ thể, có đặt một mảnh giấy ở trên một cái kệ thật cao trước đó, trên bề mặt của tờ giấy này có in năm con số ngẫu nhiên. Nếu như người phụ nữ này có thể xuất hồn ra khỏi cơ thể th́ có thể nh́n thấy được năm con số đă viết ngẫu nhiên ở trên mảnh giấy. Đợi cô ta sau khi hồn nhập vào xác có thể nói ra, điều này sẽ chứng minh là có linh hồn. Kết quả của thí nghiệm này được lặp đi lặp lại, mỗi lần làm thí nghiệm th́ người phụ nữ này đều nói chính xác. Đặt ở trên một cái kệ thật cao, cơ thể của người phụ nữ này không có cách nào tiếp xúc được, không có cách nào nh́n thấy được ở chỗ đó để có thể nói chính xác những con số được ghi trên mảnh giấy.
Chúng ta biết rằng, xác suất về điểm số học có thể đoán trúng năm con số được ghi ngẫu nhiên ở trên mảnh giấy là một phần mười lũy thừa năm (1/105), chính là 1/100.000, cũng có nghĩa là làm thí nghiệm 100.000 lần chỉ có một lần đoán trúng, như vậy mới phù hợp với xác suất này. Không ngờ rằng người phụ nữ này mỗi lần thí nghiệm cô đều đoán trúng, điều này chứng minh thật sự có linh hồn. Linh hồn này sau khi rời khỏi cơ thể vẫn có thể nh́n thấy, có thể nhớ được những con số ở trên mảnh giấy, có thể kể lại cho Tiến sĩ Tart. Do đó, những thí nghiệm này cho chúng ta một kết luận:
“Thật sự là có linh hồn tồn tại. Linh hồn là chủ thể của con người đi đầu thai chuyển kiếp”.
Tiếp theo, tôi xin kể cho mọi người nghe một câu chuyện có thật được xuất bản trong một quyển sách ở nước Anh, được viết vào năm 1992. Câu chuyện này kể về linh hồn đi mua nhà. Bạn xem, linh hồn mà cũng biết đi mua nhà nữa! Có một người phụ nữ có thói quen xuất hồn ra khỏi cơ thể, thường thường là xuất hồn ra bên ngoài để đi tham quan du lịch. Có một lần, linh hồn của người phụ nữ này gặp một ngôi nhà. Cô rất thích ngôi nhà này. Về sau, có mấy lần trong khi linh hồn rời khỏi cơ thể, cô ta lại đến xem ngôi nhà này, càng xem lại càng thích. Căn nhà này từ trong ra ngoài h́nh dáng trang trí cô đều rất thích, nhưng mà cô lại không biết căn nhà này ở nơi nào.
Sau này cô cùng chồng của cô chuyển nhà từ Ireland đến Luân Đôn (London) nước Anh. Đi đến một chỗ mới, công việc trước tiên đương nhiên là phải đi t́m một ngôi nhà, cho nên vội vàng đi lấy báo để xem quảng cáo. T́m được một ngôi nhà rất rẻ đang đăng quảng cáo để bán, thế là cô t́m đến cơ sở môi giới bất động sản để đi xem nhà. Kết quả vừa nh́n thấy ngôi nhà này chính là ngôi nhà linh hồn sau khi ra khỏi thể xác đă nh́n thấy. Đương nhiên cô rất vui mừng. Vừa hỏi thăm, người môi giới nói với cô ấy:
“Ngôi nhà này bên trong bị ma ám cho nên bán rẻ như vậy. Bởi v́ người chủ nhà cả ngày đều thấy ma ở trong căn nhà này, cho nên muốn bán gấp cho rảnh nợ”.
Người phụ nữ này cảm thấy căn nhà này chính là ngôi nhà mà cô hằng mơ ước, thế là quyết định phải mua liền, hẹn chủ nhà đến gặp mặt để thương lượng giá cả. Khi chủ nhà đến gặp mặt, vừa thấy mặt cô này liền giật ḿnh la lên:
“Cô chính là con ma mà tôi đă gặp”.
Bạn xem, ông chủ nhà này đă từng gặp mặt người phụ nữ đó nhiều lần lắm rồi. Th́ ra, hồn của người phụ nữ này đă bay đến căn nhà đó, thường xuyên nh́n thấy mặt người chủ nhà. Người chủ nhà cho rằng bị ma ám. Có thể nh́n thấy rơ linh hồn của cô sau khi rời thể xác th́ có thể tự tại đến như vậy, có thể bay từ Ireland đến Luân Đôn rất nhanh. Bạn xem, chúng ta nh́n lên bản đồ, Ireland và Luân Đôn cách nhau ít lắm cũng khoảng 400km, không ngờ rằng linh hồn cô này sau khi rời khỏi thể xác có thể bay rất nhanh giữa hai nơi này, không bị hạn chế về không gian và thời gian.
Cái thể xác của chúng ta th́ không thể, thể xác chúng ta bị hạn chế về không gian và thời gian, không thể tự tại bay tự do giữa nơi này đến nơi kia. V́ vậy, khi linh hồn đang ở bên trong thể xác của chúng ta th́ bị thể xác này chướng ngại. Ngày xưa Lão Tử có dạy cho chúng ta: “Ngô chi đại hoạn vi ngô hữu thân”, ư nói cái khổ lớn nhất của ta chính là v́ ta có cái thân này. V́ sao vậy? Là cái thể xác này giam cầm cái linh hồn của ta, không thể để cho linh hồn của ta tự do tự tại, muốn đi ra ngoài tham quan du lịch th́ tương đối khó khăn.
Con người thời nay v́ cái thể xác này, cần phải làm thỏa măn ham muốn của thể xác này, v́ năm dục tài - sắc - danh - thực - thùy này làm rất nhiều điều tự tư tự lợi tổn người lợi ḿnh, những việc trái với lương tâm. V́ vậy linh hồn vốn là chủ nhân của cơ thể bằng thịt nhưng bây giờ trở thành nô lệ cho thể xác, v́ cái thể xác này mà bôn ba, mà tạo nghiệp. Cũng v́ cái thể xác này mà đă tạo tác nhiều nghiệp ác, thật sự là gây nợ cho cái linh hồn này.
Cho nên phải chân thật hiểu rơ chân tướng khoa học của con người, hiểu được thể xác không phải là chủ thể của chúng ta. Giống như quần áo vậy, mặc mấy mươi năm đă cũ th́ phải vứt bỏ để thay bộ quần áo mới. Chủ thể thật sự của chúng ta là linh hồn. Mấu chốt là phải làm như thế nào để nâng cao đời sống tâm linh của chúng ta. Ngày nay người ta không hiểu, cả ngày t́m mọi cách để bồi bổ cái thân này, v́ cái thể xác này mà thật sự t́m đủ mọi cách suy nghĩ nát óc. Đâu ngờ rằng cái thể xác này chỉ tồn tại ngắn ngủi, nó không phải là vĩnh hằng. Chân thật vĩnh hằng là đời sống tâm linh của chúng ta. V́ vậy, bồi bổ thân th́ không bằng tu dưỡng tâm.
florida80
12-27-2019, 22:22
Chúng ta hăy xem, mỗi một đời, mỗi một kiếp luân hồi của con người, cái linh hồn không phải là giống như t́m một căn nhà hay sao? T́m được cái thân th́ giống như t́m được ngôi nhà vậy. Căn nhà này chỉ cư trú được có mấy chục năm, căn nhà có lúc sẽ cũ, có lúc sẽ bị hư hoại, lúc này th́ cần đổi căn nhà khác. Cho nên mấu chốt vấn đề là chúng ta đổi căn nhà đó có phải là tốt hơn so với căn nhà hiện tại của chúng ta không? Làm thế nào để căn nhà đă đổi của chúng ta càng tốt hơn? Đó chính là tu thiện nghiệp, “Thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
Cho nên những thí nghiệm khoa học, những phát hiện của khoa học đă cho chúng ta rất nhiều khởi phát. Hiện nay nghiên cứu khoa học về linh hồn thực sự là rất đa dạng, vô cùng sâu sắc. Có những nhà vật lí học lại có thể sử dụng cơ học lượng tử, vật lí học hiện đại này để nghiên cứu linh hồn. Giống như Tiến sĩ Amit, một nhà nghiên cứu thâm niên nổi tiếng của Viện Nghiên cứu Khoa học về tư duy Hoa Kỳ, ông dùng cơ học lượng tử để chứng minh sự tồn tại của linh hồn là có nền tảng lư luận, cho nên ông phát biểu trong tác phẩm “Vật Lư Học Về Linh Hồn” (Physics of the Soul) của ông. Chúng ta xem linh hồn có thể bay, có thể thấy, có thể làm việc, có thể đi mua nhà, chứng minh rằng linh hồn có năng lượng, cho nên ông mới sử dụng quan điểm của khoa học để tiến hành chứng minh. Về khía cạnh nghiên cứu của ngành học này thật sự vô cùng sâu sắc, v́ vấn đề thời gian nên không thể bàn sâu hơn, cho nên chúng ta chỉ nói đến chỗ này để đi tiếp vào lĩnh vực thứ hai của nghiên cứu khoa học.
THỨ HAI, ĐIỀU TRA NHỮNG NGƯỜI CÓ THỂ NHỚ ĐƯỢC TIỀN KIẾP CỦA M̀NH.
Điều nghiên cứu thứ hai về luân hồi chuyển kiếp của Phương Tây là lập hồ sơ điều tra nghiên cứu những người có thể nhớ được tiền kiếp của ḿnh. Về lĩnh vực nghiên cứu này có thể lấy Giáo sư Stevenson làm tiêu biểu. Ông đă áp dụng phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống để tiến hành nghiên cứu, quy nạp thành “Phát hiện đối tượng”. Trước tiên phải t́m được một đứa trẻ có thể nhớ được tiền kiếp của ḿnh, đây là phát hiện đối tượng. Sau đó “Thu thập tư liệu”, chính là bắt đầu tiến hành sưu tập tư liệu. Tiếp theo là “Lập hồ sơ chất vấn”. Sau đó gặp mặt để đối chứng, thậm chí phải t́m đến gia đ́nh của đứa trẻ kiếp trước đă sống để t́m chứng cứ. Cuối cùng là “Theo dơi quan sát” và “Viết báo cáo”.
Giám định: Lăo Pháp Sư Tịnh Không
florida80
12-27-2019, 22:23
Thiền sư Goenka
và sự phát triển của thiền Vipassana
Minh Phú
Thiền sư S. N. Goenka là một người Ấn Độ nhưng lại lớn lên và trưởng thành tại Miến Điện. Trong thời gian sinh sống tại Miến Điện, ông đă may mắn gặp được Thiền sư U Ba Khin và được truyền dạy phương pháp thiền Vipassana (Minh Sát Tuệ).
Sau khi thụ huấn với Thiền sư U Ba Khin được 14 năm, ông Goenka trở về sống tại Ấn độ và bắt đầu giảng dạy Thiền Vipassana vào năm 1969.
Trong một quốc gia c̣n nhiều chia rẽ bởi những giai cấp và tôn giáo như Ấn Độ, những khoá thiền do cư sĩ thiền sư Goenka hướng dẫn đă thu hút hàng ngàn người thuộc mọi tầng lớp trong xă hội đến tham gia. Thêm vào đó, nhiều người từ những quốc gia trên khắp thế giới cũng đă tới tham dự những khoá thiền Vipassana.
Thiền sư Goenka đă giảng dạy cho hàng chục ngàn người trong hàng trăm khóa thiền tại Ấn Độ và ở những nước khác, cả Đông phương lẫn Tây phương. Năm 1982, ông bắt đầu bổ nhiệm những thiền sư phụ tá để giúp thỏa măn nhu cầu học thiền càng ngày càng gia tăng.
Nhiều trung tâm thiền Vipassana dưới sự hướng dẫn của Thiền sư Goenka đă lần lượt thành lập tại Ấn Độ và các nước khác ở châu Á, như là: Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện, Nepal, Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kong, Singapore, Philippines, Malaysia, Indonesia, Hàn Quốc, Mông Cổ...
Và hiện nay th́ thiền sư Goenka đă thành lập khá nhiều trung tâm thiền Vipassana ở khắp nơi trên thế giới: Tại Bắc Mỹ, châu Mỹ La Tinh, châu Âu, châu Úc và Tân Tây Lan, tại Trung Đông và thậm chí là tại châu Phi cũng có nhiều trung tâm.
Phương pháp mà Thiền sư S.N. Goenka giảng dạy tiêu biểu cho một phương pháp hành thiền có từ thời Đức Phật, thiền Vipassana.
Đức Phật không hề giảng dạy riêng cho một giáo phái nào.
Cùng một truyền thống đó, đường lối của Thiền sư Goenka cũng hoàn toàn không phân biệt tông phái. V́ lư do này, sự giảng dạy của ông có sức thu hút mạnh mẽ đối với mọi người thuộc mọi giai cấp, mọi tôn giáo hoặc không theo tôn giáo nào, từ khắp nơi trên thế giới.
Theo Thiền sư Goenka th́ thiền Vipassana có thể xem như là một nghệ thuật sống, là một liệu pháp để chữa trị các loại tâm bệnh.
Thường th́ phương pháp thiền Vipassana được giảng dạy tại các khóa thiền nội trú mười ngày, trong đó người tham gia được học những phương pháp hành thiền Vipassana căn bản và thực hành đầy đủ để đạt được những thành quả hữu ích.
Bên cạnh đó, các trung tâm c̣n mở các khóa tu ngắn ngày cho những ai đă từng tham dự các khoa tu trước đó, hoặc những khóa tu chuyên sâu kéo dài đến 20 ngày, và có những khóa tu chỉ dành riêng cho thanh thiếu niên.
Những khóa thiền tại các trung tâm thiền Vipassana đều có các thiền sinh ngoại quốc, đến từ những quốc gia khác nhau, cho nên ngôn ngữ giảng dạy chính trong các khóa thiền là tiếng Anh. Đôi khi, tại một số trung tâm có dịch ra các thứ tiếng khác nhau để hỗ trợ cho các thiền sinh không có nhiều vốn liếng tiếng Anh.
Không chỉ giảng dạy thiền Vipassana tại các trung tâm, thiền sư Goenka c̣n đến dạy thiền Vipassana cho các phạm nhân trong các nhà tù.
Khởi đầu là các nhà tù tại Ấn Độ, sau đó nhân rộng tại nhiều quốc gia khác. Tại những khóa tu thiền đặc biệt này, mặc dù nhận sự hỗ trợ tận t́nh của Ban lănh đạo, Ban quản lư nhà tù, nhưng một hai ngày đầu của những khóa thiền đầu tiên quả thật là một thách thức lớn cho cả thiền sinh lẫn thiền sư.
Thiền sinh trong các nhà tù thường chưa bao giờ biết ngồi tĩnh tâm, chưa bao giờ chịu ngồi yên, thế mà bây giờ phải ngồi yên lặng hầu như suốt cả ngày trong khóa thiền như thế th́ quả là không dễ.
Tuy nhiên, với tài năng và kinh nghiệm của ḿnh, Thiền sư Goenka và các thiền sư phụ tá thực sự đă thuần hóa được các thiền sinh đặc biệt ấy. Và những khóa thiền như thế thật sự đă đem lại hiệu quả vượt ngoài sự mong đợi của Ban tổ chức. Nhiều thiền sinh (tù nhân) thực sự đă chuyển hóa rất nhiều sau khi tham gia khóa thiền.
Trong buổi chia tay với các thiền sư tại các khóa thiền đặc biệt này, nhiều thiền sinh là tù nhân ấy đă xúc động mạnh mẽ, cúi xuống hôn chân thiền sư (một cử chỉ biểu hiện sự cảm kích, tôn kính và biết ơn người khác của người Ấn Độ), hoặc có người th́ ôm lấy thiền sư trong nước mắt cảm động.
Hầu hết các thiền sinh đặc biệt ấy, sau lần đầu tiên được tham gia khóa thiền Vipassana đều có chung một mong ước, đó là muốn được tham gia nhiều khóa thiền hơn nữa.
Khi đến tham dự khóa thiền tại các trung tâm thiền Vipassana ở bất kỳ nơi nào trên thế giới, các thiền sinh đều không phải đóng lệ phí. Tại đấy, thức ăn và các tiện nghi sinh hoạt đều được trung tâm cung cấp miễn phí. Chi phí để trang trải cho các hoạt động và sự phát triển của trung tâm chủ yếu là dựa vào sự phát tâm ủng hộ của thiền sinh sau khi đă tham dự khóa tu và cảm nhận được lợi ích thực sự của pháp tu thiền Vipassana.
Hiện tại, ḍng thiền Vipassana do thiền sư Goenka hướng dẫn có một trang web chính thức với địa chỉ là:
http://www.dhamma.org
florida80
12-27-2019, 22:23
Trang web này đăng tải thông tin về các hoạt động và sự phát triển của các trung tâm, có cả thời khóa của những khóa tu tại các trung tâm.
Những ai muốn tham dự khóa thiền Vipassana th́ có thể vào đó để chọn trung tâm nào phù hợp nhất với ḿnh, xem thời khóa biểu và đăng kư thông qua chức năng đăng kư tham gia khóa tu ở trên trang web hoặc qua email.
Minh Phú
Nguồn: giacngo.vn
florida80
12-27-2019, 22:24
Câu chuyện ẩn dụ về Bốn Bà Vợ
H́nh minh họa (internet)
Chuyện kể rằng, có một ông trưởng giả kia, sinh thời có bốn bà vợ.
Bà vợ Cả vốn được cha mẹ đôi bên hứa hẹn với nhau từ khi cả hai đứa nhỏ đều chưa ra đời. Sau này cả hai lớn lên, khi cha mẹ đôi bên tổ chức đám cưới cho đôi trẻ, cả hai đều chưa biết mặt nhau, cho nên đôi vợ chồng trẻ sống chung mà không có sự cảm thông, hiểu biết về nhau, chỉ như hai cái bóng bên nhau qua ngày, người chồng không thèm biết đến sự có mặt của người vợ lặng lẽ đi bên cuộc đời ḿnh, như một vật phụ thuộc trong sự âm u tối tăm của căn nhà cổ.
Rồi người chồng ra ngoài đời làm ăn buôn bán dần dần khấm khá, ông ta bèn cưới thêm một bà vợ nữa. Từ khi có bà Hai, trong nhà luôn luôn vui vẻ với tiếng cười rộn ră, "rủng rẻng" của bà. Ông tṛ truyện, đùa giỡn, tối ngày cùng với bà Hai đầu gối tay ấp, tưởng như mối t́nh gắn bó keo sơn không có ǵ lay chuyển nổi.
Thế nhưng, ḷng ham muốn của con người cũng giống như câu chuyện bó cỏ mà người xà ích dùng để dụ con ngựa vươn cổ vói về phía trước, mà không bao giờ đạt được tới đích, ông trưởng giả tối ngày đếm tiền nghe tiếng "rủng rẻng" măi cũng thấy chán, bèn quyết định cưới thêm bà vợ nữa cho nhà cửa sầm uất vui vẻ. Thế là bà Hai đành phải chia sẻ t́nh yêu để ông chồng mời bà Ba "uy nghi" về nhà.
Có bà Ba rồi ông mới thấy nếu chỉ quanh quẩn trong nhà th́ cũng không có ǵ là thú vị, chẳng ai biết đến sự giầu có sang trọng của ông, cho nên ông quyết định cưới thêm một bà vợ thứ Tư, một bà "rất sang", mọi người trông thấy là tấm tắc ngợi khen sự cao sang của gia đ́nh ông.
Ngủ quên trên danh vọng, vinh hoa phú quư tràn ngập, với tài kinh doanh và sự lạnh lùng tàn nhẫn trong thương trường, tiền bạc cuồn cuộn vào nhà ông như thác đổ, ông say sưa trên men chiến thắng với danh hiệu Anh Hai Chi Tiền trong những cuộc vui trà đ́nh tửu quán. Từ trên đỉnh cao của danh vọng và quyền thế, ông quên hẳn mặt trái của xă hội, cái mặt dàn trải đầy dẫy những hoàn cảnh khổ đau đói khát, cơm không có mà ăn, co ro trong manh áo rách cho qua đêm Đông rét mướt.
Rồi một ngày kia, ông ngă bệnh. Cái tâm hồn cạn tầu ráo máng ẩn trong cái cơ thể bệnh hoạn dầm dề, kết quả tàn khốc của những cuộc vui suốt sáng, trận cười thâu đêm, đă mau chóng đưa ông tới ngưỡng cửa của Tử Thần.
Trong giờ phút thiêng liêng, gần đất xa trời, ông quyến luyến nh́n bà vợ thứ tư, tha thiết hỏi:
- Ta sắp chết rồi, em là người ta thương yêu nhất, em có đi theo ta không?
Bà Tư nức nở:
- Em thương chàng lắm, nhưng em không thể đi theo chàng sang bên kia thế giới, mà chỉ có thể theo chàng đến mộ mà thôi.
Quay qua bà Ba, ông hỏi:
- C̣n em th́ sao? Ta rước em về đă lâu, ngày ngày đều chiêm ngưỡng, chăm sóc, o bế, tô điểm cho em đẹp đẽ với đời. Nay ta ra đi, em có đi theo ta không?
Bà Ba nghẹn ngào:
- Em không thể chết theo chàng, nhưng em sẽ tiễn chàng tới tận góc phố, cho đến khi quan tài của chàng khuất bóng.
Thất vọng, ông thở dài hỏi bà Hai:
- Vợ chồng đầu gối tay ấp hàng bao nhiêu năm rồi, ngày đêm ta trân quư em, ta cất giữ em kỹ lưỡng, nay em có đi theo ta không?
Bà Hai mếu máo:
- Em sẽ tiễn chàng tới cửa, khi không c̣n trông thấy quan tài chàng nữa th́ cũng là lúc mà chúng ta vĩnh biệt nhau.
Ông trưởng giả nhắm mắt trong sự buồn rầu, đau khổ. Một lúc sau, ông mở mắt nh́n về phía chân giường, nơi bà vợ Cả vừa già vừa xấu của ông đang sụt sịt, hỏi cho có lệ:
florida80
12-27-2019, 22:24
C̣n bà, chắc bà oán tôi bỏ bê bà lắm, đâu thèm nghĩ tới chuyện đi theo tôi bước vào cơi chết?
Nhưng thật là bất ngờ, bà vợ Cả bị bỏ rơi của ông cất giọng b́nh thản:
- Em đă cùng với chàng bước vào cuộc đời này từ khi chúng ta c̣n trong bụng mẹ, em sẽ đi theo chàng sang bên kia thế giới, tới tận những cuộc đời tiếp theo của chàng, măi măi, cho tới khi nào chàng tu hành thanh tịnh hóa được Bản Tâm, giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, th́ sự liên hệ của đôi ta mới chấm dứt.
Trong câu chuyện ẩn dụ này, bà vợ thứ Tư là Danh vọng. Đối với nhiều người, cái Danh quan trọng nhất. Cả một cuộc đời bận bịu làm ăn, khi có tiền, dù là có nhiều tới đâu, người ta vẫn thấy là không đủ, phải có Danh. Người ta cũng có thể dùng cả cuộc đời để cầu Danh, dùng cả vốn liếng tiền bạc để mua Danh. Ngay đến một anh du đăng, cũng sẵn sàng phanh ngực ra lănh viên đạn, để giữ được cái danh là "kẻ anh hùng không sợ chết". Nhưng cái Danh chỉ theo con người tới huyệt mộ, người quá văng được thân bằng quyến thuộc đọc cho một bài diễn văn ca ngợi những danh vọng tiếng tăm mà họ đạt được trong cuộc đời, đôi khi cũng tâng bốc quá lên để trả nợ hoặc lấy cảm t́nh với tang gia. Rồi th́ những nắm đất thi nhau bay xuống huyệt mộ, xóa dần h́nh bóng chiếc quan tài lộng lẫy bằng gỗ quư, thế là hết. Người chết chẳng c̣n được hưởng điều thiết thực ǵ.
Bà vợ thứ Ba là cái nhà. Cái nhà được ông chủ o bế sơn quét, tu bổ trồng trọt dàn hoa, cây cảnh, tường cao, cổng lớn, cho thật uy nghi hùng vĩ, ai đi qua cũng tấm tắc khen ngợi. Thế nhưng khi quan tài ông quẹo vào góc phố th́ cũng là lúc ông và cái nhà vĩnh viễn xa nhau.
Bà vợ thứ Hai là tiền bạc. Suốt một đời bươi chải, tiếng rủng rẻng của những đồng tiền từ tay ông trôi vào ngăn tủ, rộn ră tưng bừng, nay chỉ cùng ông nh́n thấy nhau trước khi quan tài của ông ra tới cửa mà thôi. Khi đám tang khuất sau cánh cửa là ông và tủ tiền đă ngàn đời xa cách nhau rồi.
Tiền tài, nhà cửa, danh vọng đều sớm bỏ rơi ông, chỉ c̣n lại bà vợ Cả là lẽo đẽo theo ông đến cuối cuộc đời, đến măi tận bên kia thế giới, theo ông sang tới những kiếp khác trong tương lai. Bà vợ đó tượng trưng cho ḍng Nghiệp.
Vậy Nghiệp là ǵ?
Cổ nhân thường nói rằng mỗi người đều có "Quỷ Thần hai vai" để chứng giám, ghi vào sổ Thiện Ác mọi hành động tốt hoặc xấu mà người ta đă làm trong cuộc đời, để đến ngày người ấy chết th́ sẽ bị Diêm Vương chiếu theo sổ Thiện Ác này mà xét xử, nếu khi sống họ làm nhiều việc tốt th́ cho họ lên Thiên Đ́nh hưởng phước báo hoặc làm nhiều việc ác th́ đày họ vào Địa Ngục để chịu tội báo.
Nhà Phật không quan niệm về một vị "Quỷ Thần hai vai", nhưng cho rằng mỗi con người đều không chỉ sống có một đời, mà khởi đầu ḍng đời bằng "một niệm vô minh bất giác", rồi từ đó trôi lăn trong một chuỗi dài những sự sinh tử triền miên, gọi là ḍng đời, theo Hành nghiệp, tạo Nhân rồi thọ Quả báo. Trong chuỗi dài những cuộc tử sinh miên viễn đó, mọi hành vi của đương sự đều từ Thân, Miệng và Ư phát sinh ra, gọi là Thân Nghiệp, Khẩu Nghiệp và Ư Nghiệp, và đều được tàng trữ trong một cái kho vô h́nh gọi là Tàng Thức, có thể tạm ví như lớp màng tạp chất nổi trên mặt biển Chân Tâm thanh tịnh. Chính những tạo tác được tích lũy trong Tàng Thức này là cơ sở của Nghiệp Lực, gọi là chủng tử, lôi cuốn ḍng sinh mạng của mỗi đương sự tới nơi mà hắn sẽ tái sanh, rồi lại tiếp tục gieo Nhân, lănh Quả, các hành vi tốt hoặc xấu trong quá khứ sẽ chi phối đời sống tương lai của đương sự, măi măi cho tới khi nào đương sự thanh tịnh hóa được Bản Tâm, hóa giải hết các chủng tử, th́ Nghiệp Lực mới chấm dứt hiện hành. Nhà Phật có câu:
- Muốn biết thời quá khứ chúng ta đă làm ǵ th́ cứ nh́n những quả báo chúng ta đang lănh thọ trong hiện tại.
- Muốn biết thời tương lai của chúng ta sẽ ra sao th́ cứ nh́n những hành động của chúng ta trong hiện tại.
Tiến tŕnh của Nhân và Quả này là qui luật tự nhiên, không có ai tạo ra hoặc hủy diệt, ngoại trừ chính bản thân đương sự hóa giải được các chủng tử qua con đường thanh tịnh hóa Tâm. Nếu Tàng Thức c̣n chứa chủng tử th́ ḍng sinh tử vẫn tùy theo Nghiệp tốt hoặc xấu mà luân hồi, tái sinh.
Đức Phật dạy: "Tất cả chúng sinh đều mang theo cái Nghiệp của chính ḿnh như một di sản, như vật di truyền, như người chí thân, như chỗ nương tựa. Chính v́ cái nghiệp riêng của mỗi người mỗi khác nên mới có cảnh dị đồng giữa chúng sinh".
Theo định nghĩa, Nghiệp là hành động có dụng tâm hay c̣n gọi là tác ư. Lời nói có tác ư th́ gọi là khẩu nghiệp. Chúng ta thường hay nghe: "Lời nói rồi bay mất". Câu ấy không đúng. Lời nói ác khi hội đủ nhân duyên sẽ đem lại quả báo xấu cho người nói. Lời nói thiện cũng có tác dụng như vậy, theo hướng thiện. Thí dụ, khi chúng ta gặp người nghèo khổ, bất hạnh, chúng ta chạnh ḷng thương xót, đem lời an ủi, vỗ về thông cảm. Lời an ủi đó, bắt nguồn từ tấm ḷng từ ái của chúng ta là một khẩu nghiệp thiện, tương lai sẽ đem lại cho chúng ta quả báo lành.
Có dụng tâm thiện hay ác là Ư Nghiệp, mặc dù ư nghĩ đó chưa thành lời nói, chưa thành văn viết hay hành động. Một người tuy cả ngày không nói, không làm ǵ, nhưng đầu óc luôn bày mưu tính kế với những thủ đoạn gian lận, xấu xa, v.v... th́ những mưu gian, kế độc của hắn ta, tuy chưa thực hiện, nhưng đă tác ư, cũng đều là những Ư Nghiệp xấu, tương lai sẽ mang lại quả báo xấu. Nẩy ra ư kiến rồi lại đem thân đi tạo tác, th́ đó là Thân Nghiệp.
Tuy nhiên, những việc làm do vô t́nh, không khởi tâm tác ư, th́ cũng không trong ṿng nghiệp báo.
Từ những điều được tŕnh bày ở trên, chúng ta có thể rút ra hai kết luận:
- Thứ nhất là trong từng giây phút chúng ta có thể tạo nghiệp mà không biết, bởi v́, chỉ trừ khi chúng ta ngủ, c̣n th́ chúng ta thường xuyên suy nghĩ, nói năng và hoạt động; và mỗi ư nghĩ, lời nói và việc làm, mỗi cử chỉ, hành động của chúng ta đều có thể tạo nghiệp, làm thay đổi cuộc sống của chúng ta trong hiện tại và mai sau.
- Thứ hai là mọi nghiệp thiện hay ác, lành hay dữ, nặng hay nhẹ, đều do ở chỗ tác ư tức là có chủ ư, có mưu định. Tác ư thiện đưa tới quả báo an lành, tác ư ác đưa tới quả báo đau khổ. Cũng như người trồng cam th́ sẽ được cây cam và quả cam. Không thể trồng cam mà lại mọc ra cây ớt. Tất nhiên, trồng cam vẫn có thể không có cam ăn, nếu không biết trồng, không bón phân tưới nước. Hơn nữa, dù cho có biết trồng th́ cũng phải có thời gian nhất định mới có quả. Tạo nghiệp ác hay nghiệp thiện cũng vậy, nghĩa là phải có đủ nhân duyên và thời gian thích hợp th́ mới có quả báo thiện hay ác.
florida80
12-27-2019, 22:25
Có người tuy hiện nay tạo nhiều nghiệp ác, nhưng vẫn sống sung sướng trong hoàn cảnh giàu sang, là v́ người ấy trong thời quá khứ đă tạo ra nhiều nghiệp thiện, đến lúc này vừa đúng thời gian lại có điều kiện thích hợp cho nên quả báo của những thiện nghiệp đó trổ ra, v́ thế họ vẫn c̣n được hưởng giàu sang phú quư. C̣n những nghiệp ác họ đă tạo ra trong đời sống hiện tại, th́ chưa đến thời gian chín muồi, lại chưa có nhân duyên thích hợp, cho nên quả báo ác chưa đến chứ không phải sẽ không đến!.
Chúng ta cũng cần phân biệt thân thọ nghiệp, tức là nghiệp mà thân cảm thọ, với tâm thọ nghiệp, là nghiệp mà tâm cảm thọ. Người làm điều ác th́ tâm của họ luôn luôn thắc mắc, ray rứt không yên, đó là tâm thọ nghiệp. Hoặc có những người hiện nay sống rất thiện lành, nhưng cuộc đời lại nghèo khổ, cơ cực, hoặc thường gặp rủi ro, bất hạnh. Đó là do những nghiệp ác của người ấy trong thời quá khứ, đến nay đă chín muồi, lại gặp nhân duyên đầy đủ, cho nên quả báo đau khổ hiện ra, không thể tránh được. Nếu hiện nay người đó sống nghèo khổ, nhưng lại có thiện tâm học và hiểu Phật pháp, vững tin vào mối tương quan nhân quả, quyết tâm làm điều thiện để chuyển nghiệp, th́ dù sống trong sự nghèo nàn, tâm họ vẫn được an vui...
Nói tóm lại, nếu đứng về tâm thọ nghiệp th́ có thể nói là quả báo xảy ra tức thời, như bóng theo h́nh, hay là như bánh xe lăn theo chân con ḅ, đúng như trong kinh Pháp Cú, bài kệ I và II viết:
Ư dẫn đầu các pháp
Ư làm chủ tạo tác
Nếu với ư ô nhiễm
Nói lên hay hành động
Khổ năo bước theo sau
Như xe chân vật kéo
Ư dẫn đầu các pháp
Ư làm chủ, ư tạo
Nếu với ư thanh tịnh
Nói lên hay hành động
An lạc bước theo sau
Như bóng không rời h́nh".
Hai bài kệ trên c̣n cho thấy vai tṛ làm chủ của ư, tức là sự tác ư đối với nghiệp nơi thân (thân nghiệp) và nghiệp nơi lời nói (khẩu nghiệp). Cũng do vậy mà đạo Phật luôn luôn nhấn mạnh trong thuyết nhân quả nghiệp báo "tác ư là nghiệp". V́ thế phải dụng tâm, chế ngự tâm, làm sao cho tâm ḿnh luôn luôn nghĩ thiện, nghĩ lành, th́ Thân Nghiệp và Khẩu Nghiệp cũng sẽ thiện và lành, đời này và đời sau sẽ được an lạc, hạnh phúc.
Tiến lên một bước là thanh tịnh hóa Tâm, (tâm không c̣n nghĩ tới thiện hoặc ác nữa). Phật giáo không dừng lại ở điểm "Không làm các việc ác, chỉ làm các việc lành", chuyển Nghiệp xấu thành Nghiệp tốt, mà c̣n đi xa hơn, đến chỗ "Tâm ư thanh tịnh, giải thoát", nghĩa là thoát ly sự trói buộc của đời sống tương đối trong ṿng nhân quả. Thiện, ác chỉ là vấn đề luân lư của đạo Phật, giác ngộ giải thoát mới là mục đích của Phật giáo.
Liên Hương (ĐPK)
Trong ban biên tập Thư Viện Hoa Sen
florida80
12-29-2019, 22:44
Mất 15 năm tuổi thọ v́ 4 thói quen buổi sáng nhiều người thường làm
December 29, 2019
1. Để chuông báo thức ở chế độ ngủ thêm
Tỉnh dậy bất ngờ v́ tiếng chuông, sau đó lại cố nán lại ngủ thêm chút, hay lại đi vào giấc ngủ sâu một lần nữa và cuống cuồng tỉnh dậy khi đă quá trễ giờ.
Khi đó, cơ thể không những bị mệt mỏi mà bạn cũng sẽ rơi vào tâm trạng cáu bẳn, khó chịu khi ngày mới chỉ mới bắt đầu. Tinh thần và sức khỏe bạn sẽ giảm sút nếu t́nh trạng này thường xuyên xảy ra.
2. Không uống nước vào buổi sáng
Giám đốc dinh dưỡng thể thao tại Đại học Pittsburgh Leslie Bonci (Đức) đă nói: “Nếu bạn không uống nước vào buổi sáng, bạn sẽ phải bù đắp sự mất nước trong suốt cả ngày”. Khi cơ thể thiêu nước, bạn sẽ trở nên dễ nhầm lẫn, thiếu nhạy bén, không có tâm trạng tốt, dễ mệt mỏi.
Nhưng chỉ cần uống đủ 3 cốc nước cho buổi sáng, nhất là khi vừa ngủ dậy để thanh lọc những chất cặn bă trong ruột sau một đêm dài, bạn sẽ cảm nhận được năng lượng khác biệt trong cơ thể. Bạn sẽ thấy hạnh phúc hơn, lạc quan hơn, tràn đầy sức sống và năng động hơn. Cơ thể đủ nước cho cả ngày dài c̣n giúp cơ thể tăng sức chịu đựng, dẻo dai và tốc độ.
3. Uống trà hay cà phê khi chưa ăn sáng
Buổi sáng là lúc dạ dày đang đầy axit, bạn nên ăn hay uống những sản phẩm có tính kiềm. Một cốc nước lọc ấm là lựa chọn tuyệt vời nhất vào sáng sớm.
Uống trà hay cà phê khi bụng trống rỗng sẽ không tốt cho dạ dày, lâu dài có thể gây bệnh về sau.
4. Bắt đầu ngày mới với dạ dày trống rỗng
Sau một đêm dài, cơ thể cần khá nhiều năng lượng mới nạp vào để chuẩn bị hoạt động cho ngày mới. Để cơ thể bị “đói” sẽ khiến tinh thần giảm sút, hay cáu kỉnh.
Nhiều nghiên cứu cho thấy, nam giới sẽ trở nên sắc bén hơn trong công việc và có tâm trạng tốt hơn khi họ đă có bữa ăn sáng trước khi lao vào công việc hơn so với khi bỏ qua các bữa sáng.
Do đó, để cho năo có năng lượng làm việc một cách linh hoạt và tỉnh táo, bạn cần cung cấp đủ nguyên liệu cho cơ thể hoạt động với đa đạng các loại protein và khoáng chất.
florida80
12-29-2019, 22:45
Để dạ dày bạn được khỏe mạnh, tốt nhất hăy uống nhiều nước rồi ăn sáng 30 phút sau đó. Hăy ngồi ngay ngắn, ăn xong bữa sáng trước khi tới công sở một cách chậm răi và thư thả. Cố đừng gây áp lực cho dạ dày khi ăn sáng gấp gáp, cuống cuồng.
Bỏ ăn sáng là thói quen vô cùng tai hại cho sức khỏe. Cơ thể bạn cần năng lượng để bắt đầu hoạt động và hoạt động hiệu quả cho cả ngày, v́ thế bạn nên dành ra ít nhất 15 phút mỗi sáng để nạp đủ năng lượng cần thiết.
Theo Sức khỏe gia đ́nh
florida80
12-29-2019, 22:45
Uống rượu bia bị đỏ mặt dễ mắc ung thư gấp 10 lần?
Lư do v́ sao khi uống rượu bia bị đỏ mặt dễ mắc ung thư để cánh mày râu có thể điều chỉnh lại chế độ ăn uống, sinh hoạt của ḿnh giúp bảo vệ sức khỏe, tránh được những bệnh tật nguy hiểm. Đặc biệt là trong dịp Tết khi nhu cầu uống rượu bia ngày Tết tăng.
December 28, 2019
Bạn có biết rằng khi uống rượu bị đỏ mặt dễ mắc ung thư gấp 10 lần người b́nh thường? Đặc biệt trong dịp Tết Nguyên Đán sắp tới, tần suất uống rượu bia, nhậu nhẹt sẽ tăng lên đáng kể. Hiểu hơn những tác động của rượu bia với cơ thể giúp các bạn điều chỉnh, hạn chế bớt rượu bia để tránh những tác động xấu tới cơ thể.
Tại sao mặt lại đỏ sau khi uống rượu bia?
Hiện tượng đỏ mặt khi uống rượu gọi là phản ứng xả rượu của cơ thể và nó sẽ xuất hiện các triệu chứng như đỏ mặt, toát mồ hôi và tim đập nhanh. Nhà hóa sinh học Kenneth Warren thuộc Viện quốc gia về chống lạm dụng rượu và nghiện rượu Hoa Kỳ (NIAAA) cho biết rằng không phải ai cũng vướng phải Hội chứng đỏ mặt khi uống rượu bia.
Hội chứng này ảnh hưởng tới 50% người châu Á, đa số ở các nước Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam, Trung Quốc… c̣n đối với người châu Âu th́ tỉ lệ mắc hội chứng này không cao.
Hội chứng này xuất hiện là do trong cơ thể gia tăng chất acetaldehyde. Tuy nhiên, phản ứng giải độc rượu đối với mỗi người lại khác nhau, một số người lại chuyển hóa rượu thành acetaldehyde nhanh hơn người khác. Tuy vậy, gan của họ lại cần nhiều thời gian hơn để chuyển hóa chất độc acetaldehyde thành chất vô hại là acetate.
Kết quả: Chất này nếu tồn tại trong máu lâu sẽ khiến mạch máu giăn nở dẫn đến đỏ mặt. Đồng thời, acetaldehyde cũng là thủ phạm gây ra những cơn nhức đầu vào buổi sáng sau mỗi trận “chè chén”.
Người có dấu hiệu đỏ mặt khi uống rượu bia là dấu hiệu cảnh báo ung thư
Khi uống rượu bia bị đỏ mặt không phải dấu hiệu tốt, mà nó cảnh báo nguy cơ ung thư thực quản. Bác sĩ Ong Lizhen, chuyên gia tư vấn Pḥng Thí nghiệm, Y học Bệnh viện Đại học Quốc gia Singapore cho biết:”Nguy cơ ung thư thực quản của những người dễ đỏ mặt khi uống hai ly bi
florida80
12-29-2019, 22:46
ngày, sẽ cao gấp 10 lần người b́nh thường hấp thụ lượng cồn tương tự”.
Hiện tượng đỏ mặt khi uống rượu, bia như đă nói ở trên xuất hiện chính là do đột biến di truyền khiến cơ thể khó trung ḥa acetaldehyde. Khi cơ thể bạn phát hiện acetaldehyde trong máu, mạch máu sẽ giăn nở ra làm cơ thể đỏ lên. Nếu trong thời gian dài, chất acetaldehyde c̣n độc hại hơn cả rượu bia và nó được biết đến như là một chất gây ung thư được chuyển hóa từ cồn.
Hội chứng này c̣n được khoa học gọi là hội chứng Asian Flush, hầu hết người bị đỏ mặt khi uống bia, rượu là dân châu Á. Tuy nhiên, theo rất nhiều khảo sát, hơn 60% bệnh nhân không biết nguyên nhân dẫn đến hội chứng Asian Flush, và nguy cơ về sức khỏe mà nó mang lại.
Người đỏ mặt khi uống rượu bia nên cẩn trọng các vấn đề sức khỏe
Những người đỏ mặt khi uống rượu bia không những có nguy cơ cao mắc ung thư thực quản, mà hăy thực sự cảnh giác bởi đó chính là dấu hiệu cảnh báo rằng bạn có thể đang mắc những căn bệnh nguy hiểm.
Lư giải hiện tượng này, các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng: có thể do sự tích tụ Acetaldehyd – hoạt chất mang độc tính do rượu sản sinh bị phân hủy ở gan. Tác hại của Acetaldehyd chính là làm giăn mạch máu dưới da, từ đó làm giảm lưu lượng máu đến các cơ quan trung ương, v́ cơ thể cố gắng “bù đắp” lượng máu thiếu hụt này, bằng cách tiết ra các nội tiết tố sẽ dẫn đến tăng huyết áp.
Gan là một trong số những bộ phận bị tác động nhiều nhất bởi bia rượu. Việc uống càng nhiều rượu và uống trong thời gian lâu dài th́ bạn càng có nguy cơ gia tăng tỷ lệ mắc bệnh gan.
Việc bạn bị đỏ mặt sau khi uống rượu, bia được xem là một triệu chứng cơ thể nhạy cảm cao với rượu, v́ vậy bạn khó có thể tiếp tục dung nạp rượu. Như đă nói ở trên, do sự gia tăng của chất acetaldehyde không thể phân hủy hoàn toàn tại gan, sự tích tụ hóa chất acetaldehyde lâu ngày sẽ dễ gây nên các bệnh về gan. Vậy nên, những người bị đỏ mặt khi uống rượu, bia sẽ có nguy cơ cao mắc các bệnh về gan so với những người không bị đỏ mặt.
Với những ǵ chúng tôi chia sẻ, hy vọng các bạn đă nắm rơ được v́ sao khi uống rượu bia bị đỏ mặt dễ mắc ung thư. Chúc các bạn luôn khỏe, đón Tết Mậu Tuất thật vui và không bị ảnh hưởng nhiều bởi bia rượu nhé.
Theo Sức khỏe gia đ́nh
florida80
12-29-2019, 22:47
Giật ḿnh những bí mật ẩn chứa trong gói ḿ tôm gây hại cho sức khỏe
December 28, 2019
Chứa chất hóa học có hại cho sức khỏe
Theo các nhà khoa học, trong hầu hết các gói ḿ tôm đều có chứa chất monosodium glutamate (MSG) và tertiary-butyl hydroquinone (TBHQ) – chất bảo quản hóa học thu được từ ngành công nghiệp dầu khí, nhằm tăng hương vị và thời gian bảo quản. Mặc dù, cả 2 chất này được cho phép có mặt trong thực phẩm ở một giới hạn nhất định. Tuy nhiên, nếu cơ thể con người phải tiêu thụ thường xuyên th́ sẽ gây ra các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng.
Ngoài ra, trong đa số các gói ḿ ăn liền cũng chứa bisphenol A, chất này sẽ có tác động tiêu cực lên các hormone, đặc biệt là estrogen, gây hại lớn cho cơ thể. Một trong những chất có thể làm cho trẻ dậy th́ sớm.
Lượng muối dư thừa
Theo các chuyên gia dinh dưỡng, trung b́nh 1 gói ḿ tôm chứa lượng muối lên đến 910mg, tương đương 41% lượng muối được khuyến cáo cho phép ăn hàng ngày.
Các chuyên gia cũng khuyến cáo, khi ăn ḿ tôm, bạn chỉ nên đổ ½ gói muối đi kèm trong gói ḿ là hợp lư. Tuy nhiên, qua các cuộc khảo sát thực tế cho thấy, nhiều người thường có thói quen cho hết các gói gia vị vào bát ḿ, điều này sẽ gây thừa muối so với tỉ lệ.
Gói gia vị thiếu lành mạnh
Thực tế, trong 1 túi gia vị đựng trong gói nilon đi kèm theo mỗi gói ḿ ăn liền thực chất chỉ có bột ngọt (ḿ chính), đường và các loại gia vị hương liệu. Những thành phần này là rất bất lợi cho sức khỏe. Thậm chí, bạn ăn cả một gói gia vị đó trong 1 tô ḿ sẽ gây thừa những phụ gia không cần thiết với sức khỏe.
Ḿ tôm là món ăn đă được rán với rất nhiều dầu
Theo các chuyên gia dinh dưỡng, sở dĩ ḿ tôm không phải “nấu” chín nữa bởi v́ chúng đă được chiên rán chín trong quá tŕnh sản xuất. Mà đồ ăn chiên rán th́ hoàn toàn không có lợi cho sức khỏe của chúng ta.
Không chỉ vậy, việc dầu mỡ được dùng với số lượng lớn để chiên đi rán lại cũng tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ với sức khỏe.
Hàm lượng chất béo cao
Theo các nghiên cứu, mặc dù ḿ ăn liền là một thực phẩm tiện lợi, tuy nhiên chúng lại làm tăng lượng natri chất béo băo ḥa không lành mạnh và tăng chỉ số glycemic loads của cơ thể.
Theo đó, glycemic loads cho biết được số lượng hấp thu của loại tinh bột mà con người nạp vào trong cơ thể của ḿnh. Glycemic loads dưới 100 th́ có thể yên tâm nhưng nếu chỉ số này tăng lên trên 100 th́ sức khỏe sẽ nằm trong t́nh trạng báo động.
Nghiên cứu cũng kết luận rằng, trong một gói ḿ ăn liền có chứa rất nhiều chất béo so với các món ăn cùng loại khác. Một lượng ḿ khoảng 85gram chứa 14,5 gam chất béo, trong đó chất béo băo ḥa gây hại cho sức khỏe chiếm 6,5gram. Do đó, nếu ăn ḿ tôm nhiều và thường xuyên th́ việc bạn tăng cân quá mức là điều chắc chắn sẽ xảy ra.
Các nhà khoa học cũng khuyến cáo, ḿ tôm chứa chất béo băo ḥa mà nếu tiêu thụ quá mức hoặc thường xuyên có thể làm tăng mức độ cholesterol trong máu. Hàm lượng cholesterol cao làm tăng nguy cơ bệnh tim mạch cũng như bệnh tiểu đường type 2, huyết áp cao… Các chất khác trong ḿ ăn liền như dầu ăn thực vật, đường, xi-rô, chất phụ gia tăng hương vị và nhiều chất khác đều không tốt cho sức khỏe con người.
florida80
12-29-2019, 22:47
Hàm lượng calo cao
Theo các chuyên gia dinh dưỡng, 1 gói ḿ chứa tới 400 calo, liều lượng này tương đương với ¼ lượng calo được khuyến cáo sử dụng cho một người trưởng thành có thể ăn trong ngày. Người sợ béo cần biết tính toán cẩn thận sau khi ăn ḿ để giảm các món chứa nhiều calo khác.
Thiếu hụt protein và chất dinh dưỡng
Theo 1 nghiên cứu khoa học tại Ấn Độ, hầu hết ḿ ăn liền được làm bằng bột maida – một loạt bột ḿ chưa được tẩy trắng. Loại bột này có hương vị phong phú hơn nhưng lại không có bất kỳ chất dinh dưỡng nào có lợi cho sức khỏe. Trong đó, lượng vitamin và canxi là gần như bằng không, và chỉ có 4gram protein và 10% chất sắt.
Đặc biệt, maida kết hợp với các chất bảo quản trong ḿ ăn liền có thể dẫn đến bệnh béo ph́ ở con người.
Theo Sức khỏe gia đ́nh
florida80
12-31-2019, 16:34
Hạnh Phúc Ở Đâu Và Lúc Nào?
Nếu hạnh phúc là thứ dễ t́m thấy th́ có lẽ con người chẳng phải nếm mùi khổ đau nhiều như vậy? Nếu hạnh phúc là thứ ẩn nấp để cùng con người tham gia tṛ trốn t́m th́ cuộc sống này liệu có c̣n thời gian t́m kiếm?
1/. Hạnh phúc ở nơi đâu?
- Hạnh phúc nằm ở đôi môi của bạn?
Một đôi môi biết mỉm cười và biết nói lời yêu thương chính là cửa ngơ dẫn đến hạnh phúc an nhiên của con người.
Nếu bạn chỉ biết than văn, chỉ biết oán trách những trớ trêu của cuộc đời, chỉ biết dùng lời nói để chê bai, mỉa mai, công kích người khác th́ đừng hỏi “V́ sao tôi không thấy hạnh phúc”. Hăy nói về những yêu thương tốt đẹp, hăy mỉm cười với cuộc sống xung quanh, hăy dành những lời ngọt ngào cho những người bạn yêu quư và bạn sẽ thấy hạnh phúc nảy nở từ đôi môi.
- Hạnh phúc nằm ở sự tha thứ?
Chẳng có ai ôm trong ḷng mối hận thù mà cảm thấy vui vẻ và thoải mái cả. Có thể, họ đă làm tổn thương bạn, họ đă phản bội ḷng tin và hằn trong ḷng bạn một vết thương sâu hoắm và nhức nhối nhưng hăy đặt tay lên ngực ḿnh và dặn với chính ḿnh “Cuộc đời này vốn không đủ dài để yêu thương chỉ sao lại phí hoài nó cho hận thù”.
V́ thế, bằng cách này hay cách khác, hăy quên đi những vết thương và quên đi người để lại vết thương ấy, bạn cho đi sự tha thứ cũng chính là cách bạn tự cho chính ḿnh một món quà chứa đầy hạnh phúc và an nhiên.
Tôi không chắc chúng ta có thể lại tin, lại yêu người ấy như chưa có chuyện ǵ nhưng chỉ cần bản thân tha thứ được th́ ta sẽ lại có thể mỉm cười khi giáp mặt nhau. Như vậy, không phải sẽ tốt hơn sao?
- Hạnh phúc nằm ở chỗ Cho chứ không phải chỗ Đ̣i.
Hăy cho đi những thứ bạn muốn, rồi cuộc đời sẽ trả lại cho bạn những ǵ mà bạn muốn, có thể nó không đến từ người bạn cần nhưng chắc chắn rằng trong ḍng đời sau này, sẽ có người cho bạn lại những điều như thế.
Đừng đ̣i hỏi điều ǵ khi bản thân không làm được. Sự hụt hẫng khi điều ḿnh muốn không được đáp lại rất dễ đẩy bạn vào hố sâu của thất vọng.
V́ thế, đừng tự giết cảm xúc của ḿnh chỉ v́ những đ̣i hỏi cho thỏa măn cảm xúc của bản thân, hăy học cách cho đi thật nhiều, cuộc sống này không để bạn chịu thiệt tḥi đâu.
florida80
12-31-2019, 16:34
2/. Hạnh phúc vào lúc nào?
- Hạnh phúc là khi bạn biết Đủ?
Nói theo Đạo học là “Thái quá hay Bất cập đều là dở cả” (thái độ cực đoan là không tốt).
Yêu thương quá sinh ra g̣ bó, quan tâm quá sẽ khiến mất tự do, ghen tuông quá cũng mất vị t́nh yêu và cái ǵ cũng thế, chạm đến chữ Đủ sẽ chạm được hạnh phúc tṛn vị.
Đừng chạy theo cái ǵ quá hoàn chỉnh và cũng đừng ép bản thân phải trở nên quá hoàn hảo, yêu thương vừa đủ, ấm áp vừa đủ, quan tâm vừa đủ và bên nhau vừa đủ có lẽ sẽ hạnh phúc hơn.
Do đó, chúng ta thấy hạnh phúc chẳng nằm ở đâu xa, mà nằm ngay nơi chính ta, và hạnh phúc cũng chẳng phải là cái đích đặt ra để chúng ta đi đến, mà là thứ luôn hiện hữu song hành bên ta trong cuộc sống, chỉ v́ ta quá hướng ngoại mà không quan tâm quên mất nó đi thôi.
V́ thế, hạnh phúc của chúng ta hẳn phải do tự chúng ta xây lấy, chứ chẳng phải chạy theo một ai đó để xin ban. Thứ hạnh phúc xin ban chỉ là thứ hạnh phúc ảo, nó sẽ dần chết theo thời gian.
Thật ra Hạnh Phúc ở bên cạnh ḿnh, nằm trong ḷng ḿnh với cuộc sống tầm thường và b́nh dị mà con người chỉ cần tự thấy và cảm nhận "tạm đủ" là được rồi !Hạnh Phúc đơn sơ như vậy đó, nếu biết,nhưng rất khó và phức tạp đối với người khác, và dĩ nhiên đó là Hạnh Phúc của riêng ḿnh,ko giống ai hết và phải do ḿnh cấy trồng,chăm sóc mà có được......có được 1 cuộc sống tương đối dễ chịu,yên vui,thư thản và tự tại.
Chúc các bạn nhiều an lành,vui vẻ, ấm áp và Hạnh Phúc.
Sưu tầm
florida80
12-31-2019, 16:35
Hận Thù Nam Bắc - Trọng Đạt
Năm ngoái, một ông bạn cải tạo về thăm quê hương sang có than thở về tinh trạng kỳ thị tại miền nam hiện nay. Ông bạn nói “ Nay tình trạng kỳ thị tại Sài Gòn thật là nặng nề, miền Nam đã bị Bắc Kỳ vào cai trị , họ lấy hầu hết nhà cửa ngoài phố và đẩy người miền Nam đi những vùng xa xôi khác ”, ông bạn này người miền Nam còn tôi người gốc miền Bắc, ông ta không thể nói hết lòng mình vì còn chút nể nang tôi.
Gần đây một bài viết của một người về Việt Nam cho biết tình trạng quê nhà, tác giả nói nay tại Sài Gòn người miền Bắc kéo vào rất đông, họ là những người giầu có và quyền thế nhất Sài Gòn hiện nay, họ làm chủ hầu hết các nhà cửa to lớn của Sài Gòn và các nhà hàng lớn, các cơ sở thương mại, các cơ quan nhà nước... Đó là những cán bộ cao cấp và bà con thân thụộc của họ được đưa vào đây để tranh dành hết những chức vụ béo bở, những công việc hái ra tiền….tác giả cho biết vào các cửa hàng lớn, các .. cơ quan chỗ nào cũng thấy toàn là Bắc Kỳ, nói tóm lại họ là giai cấp giầu có thống trị tại Sài Gòn hiện nay. Mặc dù chưa được chứng kiến tận mắt nhưng tôi tin ngay lời tác giả trong bài viết..
Tuần vừa qua, một người bạn đã về thăm quê Nha Trang năm ngoái cũng cho tôi biết tại Nha Trang bây giờ toàn là Bắc Kỳ, họ giầu sụ, buôn to bán lớn, chiếm giữ hầu hết các cơ sở thương mại kinh tế của Nha Trang. Họ giữ các chức vụ nhiều lợi lộc, chiếm cứ hầu hết các khu phố xá sầm uất và đẩy những người cũ đi xa như vùng kinh tế mới hoặc những vùng đất quê mùa khô cằn như sỏi đá. Người bạn cũng xác nhận cho tôi thấy Nha Trang nay là một thành phố đã bị Bắc Kỳ cai trị và chiếm đoạt hết tài sản, những nguồn lợi béo bở của thị xã du lịch này. Nếu chúng ta hỏi những người đã về thăm các tỉnh khác như Đà Lạt, Đà Nẵng, Biên Hoà… người ta cũng sẽ nói tình cảnh tương tự như thế.
Khi đọc bài viết và nghe người ta kể lại những sự thật phũ phàng như trên tôi tin ngay vì tôi cho rằng đó là những nhận xét khách quan vô tư nhất.
Ngược dòng thời gian 40 năm trước vào những ngày sau vụ Mậu Thân 1968, hồi ấy chúng tôi là sinh viên, được huấn luyện quân sự hai tuần và đưa vào Chợ Lớn canh gác theo chương trình Nhân Dân Tự Vệ. Một buổi tối đứng gác trên sân thượng của nhà thương gia trong khu phố Tầu, anh bạn cùng gác với tôi nhìn những dẫy phố nguy nga, sầm uất của Chợ Lớn , trước cảnh giầu sang tráng lệ của Tầu Chợ Lớn anh ta thốt lên.
“Đứng địa vị thằng Việt Cộng tao cũng đánh đến cùng, đằng nào cũng đã là thằng cùng mạt , chiếm được thì hưởng hết” Ý anh bạn muốn nói thằng nghèo đói sẽ đánh thí mạng cùi để cướp đoạt những tài sản của người giầu có, thế mà 7 năm sau, năm 1975 lời nói của anh ấy đã thành sự thật, thằng nghèo đói đánh thí mạng cùi và đã cườp đươc tài sản của miền Nam giầu có
florida80
12-31-2019, 16:35
Ngược dòng thời gian ba mươi bốn năm trước đây sau khi chiếm được miền Nam, cán bộ Cộng Sản rất cởi mở tươi cười với đồng bào miền Nam khiến người ta tin tưởng rằng hoà bình thống nhất rồi, hai miền cùng xoá bỏ hận thù và cùng nhau xây dựng đất nước, hàn gắn những vết thương do chiến tranh để lại. Thế nhưng kẻ chiến thắng không bao giờ bỏ được bản chất gian trá có từ hồi mới cướp chính quyền mùa thu 1945. Vừa xua quân chiếm xong Sài Gòn hoa lệ, đạo quân chiến thắng vội vã chở hết vàng bạc, quí kim của ngân hàng, tháo gỡ các máy móc trong các cơ xưởng, bệnh viện, vét hết các kho dụng cụ, hàng hoá, máy móc hiện đại… đem về Bắc, sự kiện này khỏi cần phải dẫn chứng vì thực tế đã chứng minh và ai cũng đều biết cả. Số vàng bạc quí kim vơ vét được vào túi các quan cán bộ gộc hết. Họ vơ vét nhanh gọn y như đàn cào cào châu chấu phá hoại mùa màng, sau cơn trấn lột tập thể vĩ đại ấy miền Nam chỉ còn là một mảnh đất nghèo xơ xác.
Một hai năm sau ngày 30-4-75 Cộng Sản đánh tư sản hai lần, đổi tiền ba lần, chính quyền đã vét gần sạch gần hết túi tiền người dân, kế đó họ phát động chiến dịch đẩy dân chúng đi kinh tế mới để chiếm nhà dân một cách hợp pháp. Chỉ sau ngày 30-4-75 một hai tháng, họ lùa các viên chức , sĩ quan chế độ cũ vào các trại cải tạo lâu dài rồi đẩy miền Nam tới chỗ nghèo nàn cùng cực để không thể trỗi dậy chống lại chế độ độc tài. Người Sài Gòn mỗi ngày một nghèo, nhiều người phải bán nhà với giá rẻ mạt cho kẻ chiến thắng để lấy tiền đong ïgạo sinh sống.
Kế hoạch chiếm nhà dân đã được kẻ chiến thắng hoạch định một cách tinh vi khoa học, đánh tư sản hai lần để chiếm nhà của bọn tư sản bóc lột cho cán bộ ở, ép buộc mọi tầng lớp nhân dân đi kinh tế mới để dãn dân ra khỏi thành thị ngõ hầu có chỗ đưa dân từ miền Bắc vào. Những người đi vượt biên dù đi thoát hay không thoát đều bị lấy nhà, những nhà lớn, nhà mặt đường của dân cải tạo liên hệ chế độ cũ hầu hết bị tịch thu, họ lấy tất cả nhà cửa tài sản của những người đi chính thức, cho tới nay năm 2008 một người bạn mới ở Sài Gòn sang Hoa Kỳ đoàn tụ cho biết chính quyền không cho phép anh bán nhà mà phải để lại cho nhà nước , sau chạy chọt mãi với cán bộ địa phơơng mới bán được nhưng phải chia tam chia tứ anh chỉ được hưởng 1/5 trị giá căn nhà… … Thế rồi dần dần kẻ chiến thắng, tầng lớp thống trị vơ vét bóc lột người dân, tích lũy tiền bạc mua nhà cửa, bất động sản của những người cũ nay đã khánh tận phải bán của cải đi để lấy cơm ăn áo mặc, thành phần này thuộc loại“ Tư bản mại sản”. Người ta chê kẻ chiến thắng quá tham lam, họ đã được cả một đất nước to lớn mà vẫn chưa vừa lòng tham vô đáy còn đi chiếm từng căn nhà một. Cho tới nay bộ mặt đổi đời của miền Nam càng lộ rõ hơn bao giờ hết bộ, kẻ thắng trận ngày càng giầu có, họ vơ vét bóc lột, tập trung tài sản của đất nước trong tay, bà con của họ cũng được chia chác những chức vụ béo bở, cơ sở làm ăn lớn tha hồ mà đớp hít… trong khi ấy người dân miền Nam, những kẻ bại trận ngày càng khốn khổ, trừ những người có thân nhân ở nước ngoài trợ cấp còn đa số phải làm lụng đầu tắt mặt tối vì miếng cơm manh áo . Người miền Bắc nay đã trở thành giai cấp thống trị người miền Nam, họ tước đoạt tài sản nhà cửa của người miền Nam, đuổi người miền Nam đi các vùng kinh tế xa xôi khỉ ho cò gáy. Những kẻ bị áp bức bóc lột này dẫu căm phẫn cũng đành ngậm đắng nuốt cay vì họ phải chịu khuất phục trước lưỡi lê và họng súng của bọn độc tài thống trị. Theo như lời kể của những người đã về thăm quê hương đã nói ở trên chúng ta có thể mường tượng ra cái hận thù Nam Bắc hiện nay nó sâu đậm như thế nào rồi..
Năm ngoái nhân ngày Quốc Hận, một viên chức chính quyền cũ nhìn những hình ảnh biểu tình, chống đối rồi thở dài bảo:
- Anh nghĩ xem, cái hận thù Nam Bắc biết bao giờ mới hết… Theo tôi nghĩ cái hận thù Nam Bắc nay không phải là chỉ mối hận của lớp người cũ đã bị tù đầy cải tạo mà nó thể hiện ở một bình diện rộng lớn bao quát hơn của cả một đất nước, của cả một khối quần chúng đông đảo, của những kẻ bị trị … đó là mối hận thù giữa kẻ bị trị và những bọn cầm quyền cai trị, giữa những kẻ bại trận và bọn thắng trận..Người ta thường nói cuộc chiến tranh Việt nam là cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa hai luồng tư tưởng đối nghịch nhau của hai khối Cộng Sản và Tư bản . Những người khuynh tả cho rằng cuộc chiến tranh Việt Nam 1960-1975 là cuộc chiến chống Đế Quốc xâm lăng cũng như cuộc chiến tranh giành độc lập chống Pháp 1945-1954. Cũng có người cho rằng đó là cuộc chiến tranh ủy nhiệm, nghĩa là chính quyền hai Miền đã được các siêu cường uỷ nhiệm thực hiện.. nhưng nay thì sự thể đã quá rõ ràng, nó chỉ là một cuộc “chiến tranh ăn cướp” giữa một nước nghèo đói lạc hậu và một đất nước giầu có sung túc với một vựa lúa phì nhiêu. Thằng nghèo đói đã ra sức đánh thí mạng cùi để chiếm cho được mảnh đất phì nhiêu rồi tha hồ mà vơ vét, bóc lột… thằng nghèo đói chỉ biết dùng lưỡi lê và họng súng để theo đuổi cuộc chiến tranh ăn cướp lâu dài. Nhiều người ngoài Bắc vào Nam nói “các anh không thể thắng được chúng tôi những thằng nghèo đói, thằng nghèo đói không sợ chết”. Sau di cư 1954, Hà Nội sống chết cũng phải chiếm cho được vựa lúa miền nam, họ đã thèm thuồng cái vựa lúa này từ lâu
florida80
12-31-2019, 16:36
Nay tại hải ngoại nhiều người chủ trương hoà giải với Cộng Sản Việt Nam, họ lý luận rằng cuộc chiến tranh ba mươi năm đã tàn phá đất nước nhiều rồi, chúng ta hãy bắt tay nhau cùng xây dựng lại những vết thương do chiến tranh để lại, cùng nhau xoá bỏ hận thù. Luận điệu ấy thoáng nghe thật chan chứa tình thương yêu đồng loại, nhưng thực ra họ đã đặt sai đối tượng hoà hợp hoà giải vì có phải rằng khối người lưu vong hải ngoại hận thù Cộng Sản đâu? thực ra như chúng tôi đã trình bầy ở trên hận thù sâu sắc hiện nằm ngay trong lòng quần chúng miền Nam nước Việt, hận thù Nam Bắc hiện nay đang nằm trong lòng dân tộc, nó đã ăn sâu vào tận xương tủy kẻ bị trị nghèo nàn đói khổ..
Nay Cộng Sản Việt Nam vẫn cho thực hiện những phim tuyên truyền kết án chế độ địa chủ ác ôn như trong phim Áo Lụa Hà Đông nhưng trớ trêu và trơ trẽn thay chế độ của họ tự nhận là “Đảng của giai cấp công nhân” lại là một chế độ áp bức, bóc lột gấp trăm gấp ngàn lần thời kỳ địa chủ, cường hào ác bá thập niên 40 trở về trước. Đảng Cộng Sản ViệtNam hiện nay chính là một tập đoàn địa chủ giầu có ác ôn, hà hiếp bóc lột dân nghèo tàn nhẫn nhất chưa từng thấy trong lịch sử nước nhà từ trước đến nay.
Một người mới về Việt Nam sang Mỹ cho biết chênh lệch giầu nghèo thì không thể tưởng tượng nổi, bọn nhà giầu không ai hơn là cán bộ cao cấp ăn chơi hưởng thụ tại những nhà hàng, khách sạn sang trọng hằng nghìn, hằng mấy nghìn đô la một đêm trong khi có nhiều bà mẹ tay trái thì bồng con, tay phải bán vé số .. chạy ăn từng bữa. Nay nhiều người chủ trương hoà giải với người Cộng Sản Việt Nam bằng một lối lý luận đạo đức giả “ xoá bỏ hận thù, xây dựng đất nước” nhưng họ không biết rằng người Cộng Sản có chịu xoá bỏ hận thù hay đào sâu thêm hận thù? người Cộng Sản xây dựng đất nước hay xây dựng cho chế độ của họ thêm vững mạnh bằng lưỡi lê và họng súng?
Nhiều người thuộc lớp trẻ cho rằng lớp người cũ, sĩ quan, viên chức chính phủ, cải tạo HO… đã chịu nhiều ngược đãi của Cộng Sản nên cho tới nay họ vẫn giữ lập trường hận thù Cộng Sản. Ngược lại giới trẻ đã không từng trải qua những cay đắng gian khổ của chiến tranh như tù đầy, loạn lạc vì họ còn nhỏ hoặc thậm chí chưa ra đời nên họ không có cái nhìn hằn học với người Cộng Sản như thế hệ cha ông của họ. Họ chủ trương hoà giải với Cộng Sản để cùng bắt tay nhau xây dựng đất nước vì nay Cộng Sản vẫn lớn tiếng kêu gọi người Việt hải ngoại hãy quên dĩ vãng, cùng nhau xoá bỏ hận thù..
Người Cộng Sản có thực sự xoá bỏ hận thù hay không? Họ xóa bỏ hận thù hay đào sâu thêm cái hố hận thù đã vốn dĩ sâu thăm thẳm từ bao năm qua? Chúng ta hoà hợp hoà giải với Cộng Sản , đem tài nguyên tài năng về Việt Nam xây dựng đất nước hay là để củng cố thêm quyền lực và tài sản cho bọn thống trị, để họ vơ vét thêm tài sản nhân dân cho đầy túi tham và đè đầu cưỡi cổ nhân dân miền Nam thêm nhiều thế kỷ nữa? Trước mắt chúng ta thấy Cộng Sản Việt Nam vẫn ngoan cố như tự bao giờ, trước sau như một. Địa vị của Đảng vẫn phải được củng cố vững mạnh hơn bao giờ hết bằng lưỡi lê và họng súng.
Nay Cộng Sản Quốc tế đã sụp đổ tan tành nhưng Cộng Sản Việt Nam và Trung Hoa vẫn còn bám víu vào quyền lợi riêng tư của Đảng một cách trơ trẽn và ngoan cố, họ không biết rằng con người không thể nào quay ngược bánh xe lịch sử, không thể nào vặn ngược chiều kim đồng hồ. Để quay ngược bánh xe lịch sử họ vẫn ngoan cố bảo vệ Đảng, bảo vệ tập đoàn thống trị bằng bạo lực.
florida80
12-31-2019, 16:37
Sáu mươi năm trước đây, thánh Ghandi đã nói “ Chúng ta thấy qua lịch sử, con đường của sự thật và tình thương luôn luôn thắng bạo tàn, độc ác, bất nhân… Bạo tàn chỉ thắng lợi được một thời gian rồi cũng phải thất bại sụp đổ tan tành”.
Thật vậy lịch sử loài người tự cổ chí kim đã cho ta thấy rằng tất cả những triều đại, những chế độ tàn bạo, độc ác bất nhân cho dù có vững mạnh tới đâu cuối cùng cũng phải bị bánh xe lịch sử nghiền nát như tương như cám. Nay Cộng Sản Việt nam không chiu nhìn lại cái gương của quá khứ, nếu họ tiếp tục đào sâu hận thù Nam Bắc bằng lưỡi lê và họng súng, cho dù họ có thể tồn tại được trong một khoảng thời gian nào đó, nhưng cuối cùng họ sẽ tự đào hố chôn mình
florida80
12-31-2019, 17:48
Sinh Kư Tử Quy - Ajahn Chah
- Sinh Kư Tử Quy - Bài của Thiền sư Ajahn Chah (cho dù tự nhận ḿnh thuộc về tôn giáo nao đi nữa..Mời QUƯ VỊ bỏ chút th́ giờ đọc ...rất hay..đáng suy ngẫm.."SAC TUC THI..KHONG.." ZERO..to tuong!)
“If you are having a difficulty, what you must do is face it. Go into your hut. Shut the doors and windows. Wrap yourself in all the robes you own. Sit there and don’t move and face it. Only then can you overcome it.”
Trong bài này Đaị sư Ajahn Chah, một vị sư Thái lan có lối giảng dậy thật giản dị, chân thực đă thu hút được nhiều đệ tử tây phương, nói chuyện với một nữ đệ tử già yếu đang sắp chết. Bằng một giọng trầm tĩnh sâu xa, đại sư nhắc lại cho bà nghe về lư vô thường, và dạy những phương tiện để đối phó với những đau khổ -- trước tiên là niệm chú, rồi tập trung tư tưởng vào hơi thở. Niệm chú ở đây không có ư nghĩa thần bí ǵ, mà chỉ là dùng những câu nói có năng lực tốt lành diệu dụng để bảo vệ tâm trí khỏi những khởi niệm về trạng thái đau khổ của một người đang nằm trên giường bệnh. Khi tâm dần dần ĺa khỏi những khởi niệm tự phát nơi thân và bắt đầu cảm nhận được những năng lực tốt lành, sự lo sợ sẽ tan đi và thay vào đó là một trạng thái an tĩnh đủ để cho tâm tập trung được vào nhịp lên xuống của hơi thở.
Chú ư vào hơi thở để đạt được sự tỉnh thức là một phương pháp căn bản nhất trong các cách thiền của đạo Phật, và được áp dụng trong tất cả mọi truyền thống tu. Sự vận chuyển tự nhiên, tự phát của hơi thở là một biểu lộ thật tự nhiên và liên tục về sự giản dị của giây phút này, tại nơi đây. Có hai từ ngữ tiếng Phạn được dùng đến, dharma và samskara. Chữ Dharma (Pháp) thường được dùng nhiều nhất như một phần của chữ Phật Pháp. Nó có nghĩa gần như là "con đường" (đạo) hay "sự b́nh thường". Nhưng trong những kinh điển Phật giáo từ ngữ này thường được dùng đến để chỉ mọi hiện tượng hay sự vật. Tất cả những ǵ có thể là đối tượng cho sự chú ư của tâm đều gọi là pháp (dharma). Samskara trong nghĩa hẹp hơn, chỉ cho một tác động tinh thần , trong nghĩa rộng là bất kỳ một sự h́nh thành nào do nhân duyên hợp. Điều đó bao gồm tất cả những ǵ khởi lên. Và Đức Phật đă thường xuyên nhắc nhở các đệ tử rằng: "tất cả những ǵ theo duyên khởi cũng đều theo duyên diệt".
Con hăy kính cẩn nghe những lời Pháp sau. Trong khi thầy nói, hăy chú tâm nghe như con đang nghe chính Đức Phật nói trước mặt con vậy. Hăy nhắm mắt lại và thư giăn tâm thân, tập trung tư tưởng. Cung kính hướng về Tam Bảo cầu cho tâm con được chân, trí, tịnh để tỏ ḷng thành kính đến Bậc Toàn giác.
Hôm nay thầy không đem đến những ǵ vật chất cho con, mà chỉ đem đến những lời Pháp, những lời dậy của Đức Phật. Hăy nghe kỹ đây. Con phải hiểu rằng ngay Đức Phật với phước huệ vô biên cũng không thể tránh được cái chết. Khi Phật đến tuổi già ngài đă buông bỏ cái xác thân già yếu và những gánh nặng của nó. Bây giờ con cũng phải tập bằng ḷng với những tháng năm con đă ở trong thân xác này. Con phải cảm thấy rằng như vậy là cũng đủ rồi.
Con có thể so sánh thân như những vật gia dụng đă dùng đến lâu năm-- những ly tách, đĩa bàn v.v... Khi con mới có chúng, trông chúng thật là sạch sẽ và bóng láng, nhưng bây giờ, sau một thời gian dài đă dùng lâu, chúng bắt đầu mờ xấu đi. Có cái đă vỡ rồi, có cái th́ mất đi, và những cái c̣n lại cũng tàn tạ dần, chúng không giữ măi được h́nh dạng cũ, và đó là bản chất của chúng. Thân của con cũng như vậy -- nó thường xuyên thay đổi ngay từ ngày con chào đời, trải qua tuổi thơ ấu và thiếu niên, cho đến tuổi già hiện nay. Con phải chấp nhận điều đó. Phật đă nói rằng những duyên hợp (samskaras), dù là duyên hợp trong tâm, thân hay ở ngoài, đều là vô ngă, bản chất của nó là luôn luôn thay đổi. Hăy quán chiếu trên chân lư này cho đến khi con thấy được điều đó rơ ràng.
florida80
12-31-2019, 17:48
Khối thịt đang nằm đây suy hoại chính là satyadharma, là sự thật. Sự thật của thân xác này là satyadharma, là cái lư bất biến Phật đă hằng dậy . Đức Phật dậy chúng ta nh́n vào thân xác này, quán tưởng về nó và nh́n nhận bản chất của nó. Chúng ta phải chấp nhận thân xác ḿnh, dù nó có ở t́nh trạng nào đi nữa. Phật dậy rằng chỉ có thân xác là bị giam hăm thôi và chúng ta đừng để cho tâm minh bị giam hăm chung với nó. Bây giờ thân xác con bắt đầu suy hoại với thời gian, đừng chống lại sự kiện đó, nhưng đừng để tâm trí ḿnh bị suy hoại theo, hăy giữ tâm ḿnh riêng biệt. Cho tâm thêm năng lực bằng cách nhận thức được sự thật của mọi pháp. Phật dậy rằng bản chất của thân là như vậy, sanh ra , già yếu đi, mang bệnh rồi chết, không thể nào khác hơn được. Đó là một sự thật lớn mà con đang gập phải đây. Hăy nh́n thân xác ḿnh với trí tuệ và nhận thức được sự thật đó.
Ngay cả khi nhà con đang bị đe dọa bởi băo lụt hay lửa cháy , dù hiểm nguy ấy có đến cỡ nào, cũng chỉ cho nó ảnh hưởng đến cái nhà thôi. Nếu có băo lụt, đừng để nó ngập lụt tâm ḿnh. Nếu có lửa cháy, đừng để cho lửa cháy tâm ḿnh, mà chỉ cháy nhà thôi, chỉ những ǵ bên ngoài ḿnh mới bị ngập lụt và cháy thôi. Hăy để tâm buông xả khỏi những ràng buộc. Thời điểm đă đến rồi.
Con đă sống một thời gian lâu dài. Mắt con đă thấy được nhiều h́nh sắc, tai con đă nghe bao nhiêu là thanh âm, con đă có bao nhiêu là kinh nghiệm trong đời. Và chúng chỉ là thế thôi-- chỉ là những kinh nghiệm. Con đă ăn biết bao nhiêu của ngon vật lạ, và tất cả những vị ngon đó chỉ là vị ngon, thế thôi. Những vị dở cũng chỉ là những vị dở, thế thôi. Nếu mắt có thấy một bóng h́nh đẹp, th́ đó cũng chỉ là một bóng h́nh đẹp, thế thôi. Một h́nh dạng xấu cũng chỉ là một h́nh dạng xấu. Tai có nghe những âm thanh hấp dẫn, du dương th́ cũng chỉ là như thế, không có ǵ hơn. Một âm thanh khúc mắc, chói tai th́ cũng chỉ là một âm thanh thế thôi.
Đức Phật dậy rằng mọi chúng sinh dù là người hay là thú , dù giầu hay nghèo, già hay trẻ, không ai là có thể tồn tại lâu dài măi măi trong một t́nh trạng , mọi thứ đều sẽ phải thay đổi và xa rời đi. Đó là một sự thật của đời sống mà chúng ta chẳng thể nào sửa đổi được. Nhưng Phật nói điều chúng ta có thể làm được là quán tưởng về tâm và thân này để thấy sự vô ngă của nó, để thấy rằng chúng không phải là "ta" hay "của ta". Chúng chỉ là những thực tại tạm thời. Cũng như cái nhà này, nó là chỉ của con trên danh nghĩa, con không thể đem nó theo đi đâu được. Cũng như những tài sản, những của cải này và gia đ́nh thân quyến-- tất cả cũng chỉ là của con trên danh nghĩa, họ không thực sự thuộc về con, họ thuộc về thiên nhiên. Chân lư này không phải chỉ áp dụng cho riêng con, tất cả mọi người đều phải chịu như vậy, kể cả Phật và những vị đệ tử đă giác ngộ của ngài. Nhưng họ khác biệt chúng ta ở một điểm, đó là họ nh́n mọi việc theo đúng sự thực của chúng, họ thấy rằng nó là như vậy, và không thể nào khác hơn được.
Như vậy Đức Phật đă dậy chúng ta phải quán chiếu trên thân này, từ gót chân lên đến đỉnh đầu và rồi lại trở xuống chân . Hăy nh́n lại thân ḿnh xem, ta thấy những ǵ? Có cái ǵ tự nó là thanh tịnh không? C̣ thấy có chất ǵ thường tồn không? Thân xác này thường xuyên suy hoại dần và Phật dậy rằng nó không thuộc về chúng ta. Nhưng đó là cái lẽ tự nhiên, v́ tất cả mọi hiện tượng do duyên hợp đều phải thay đổi. Ta c̣n muốn nó như thế nào bây giờ? Thật ra thân xác phải như vậy cũng không có ǵ là sai lầm . Điều làm ta đau khổ không phải là thân này, mà chính là sự suy nghĩ sai lầm. Khi ta nh́n điều phải một cách sai trái, thế nào cũng có sự lầm lạc.
Xem như nước trên gịng sông. Nước chẩy xuôi xuống từ nguồn, nó không bao giờ chẩy ngược, bản chất nó là như vậy. Nếu có một người nào đó đứng trên bờ sông nh́n gịng nước chẩy mà lại điên rồ muốn nó chẩy ngược lại, th́ hắn sẽ phải chịu đau khổ. Có làm ǵ đi nữa, tâm hắn cũng phải khó chịu v́ sự suy nghĩ sai lạc này. Hắn sẽ cảm thấy không vui v́ quan niệm muốn nước chẩy ngược lại của hắn là sai lầm . Nếu có chánh kiến, hắn sẽ thấy là nước tất yếu sẽ phải chẩy xuôi từ nguồn và cho tới khi hắn nhận thức và chấp nhận được điều đó, hắn sẽ c̣n phải chịu những bực bội và bất an.
florida80
12-31-2019, 17:49
Gịng nước sông chẩy xuôi từ nguồn cũng ví như thân xác. Thân xác con đă có thời trẻ trung, bây giờ nó già đi và đang tiến dần đến cái chết. Đừng mơ ước điều ǵ khác hơn. Đó không phải là điều chúng ta có khả năng sửa đổi được. Đức Phật dậy chúng ta phải thấy rơ mọi sự là như vậy và xả bỏ đi những ràng buộc. Hăy an trú nơi tâm niệm buông xả này. Tiếp tục thiền định dù cho con có cảm thấy mệt mỏi, kiệt sức. Thở một hơi dài và tập trung tư tưởng nơi câu niệm phật. Hăy tập làm điều này cho thành thói quen. Càng mệt mỏi lại càng phải chuyên chú tập trung tư tưởng để có thể đương đầu với những cảm giác đau đớn dâng lên. Khi bắt đầu thấy mệt, hăy ngừng ngay những vọng tưởng, để tâm trí tập trung vào hơi thở. Hăy chuyên chú niệm Phật trong tâm. Xả bỏ đi những vấn đề bên ngoài. Đừng vướng mắc vào những suy tư về con cái, bà con thân thuộc, đừng bám víu vào bất cứ một cái ǵ. Hăy buông xả, nhiếp tâm theo dơi vào hơi thở. Tập trung hoàn toàn vào hơi thở cho đến khi tâm càng lúc càng trở nên tinh tế hơn, những cảm thọ mờ dần và chỉ c̣n lại một trạng thái tỉnh thức và sáng suốt. Khi đó những cảm giác đau đớn dâng lên sẽ tự lắng xuống dần.
Cuối cùng, con sẽ xem hơi thở như một người thân đến thăm viếng con. Khi tiễn biệt một người thân, chúng ta đi ra nh́n theo cho đến khi khuất bóng rồi mới trở vào trong nhà. Chúng ta cũng theo dơi hơi thở như vậy, Nếu hơi thở thô phù, ta biết đó là thô phù, hơi thở vi tế, ta biết đó là vi tế. Cho đến lúc hơi thở càng ngày càng nhẹ đi, chúng ta vẫn tiếp tục theo dơi trong khi giữ cho tâm ḿnh được tỉnh táo . Dần dần tâm sẽ không nhận thức về hơi thở nữa mà ở trong một trạng thái tỉnh thức hoàn toàn. Cái đó gọi là "tri kiến Phật". Sự tỉnh thức và sáng suốt trong tâm ta ấy gọi là "Phật", chỉ cho tính giác ngộ, linh mẫn, trí huệ. Đây là sự ngộ nhập tánh Phật, trong sự hiểu biết và sáng suốt. V̀ tuy Đức Phật lịch sử bằng xương thịt đă nhập Niết bàn rồi, Đức Phật thật sự tức Phật tánh với trí tuệ quang minh vẫn có ở trong ta và ta vẫn có thể kinh nghiệm và ngộ nhập được, và khi chúng ta đạt tới đó, ta sẽ thấy rằng tâm và Phật cũng là một.
Vậy con hăy buông xả, quên đi hết mọi sự để chỉ c̣n sự hiểu biết sáng suốt trong tâm. Đừng bị mê hoặc nếu có những ảo giác hay âm thanh khởi lên trong tâm trí con lúc thiền định. Hăy xả bỏ chúng đi, đừng ôm ấp bất cứ điều ǵ. Chỉ an định tâm nơi trạng thái không đối đăi này. Đừng lo lắng về quá khứ hay tương lai, hăy để tâm tĩnh lặng và con sẽ đạt được trạng thái của tính "không" trong đó không có tiến hay thoái, không có sự ngừng lại, không có ǵ để bám víu hay ràng buộc vào. Tại sao? V́ không c̣n có bản ngă, không c̣n cái "tôi" hay "của tôi". Tất cả đều đă tan biến đi rồi.
Đức Phật dậy chúng ta phải buông xả hết mọi sự như vậy, không c̣n vương mang một điều ǵ hết. Buông bỏ mọi sự đi, sau khi ta đă hiểu biết chúng rồi.
Thực hiện được Pháp, con đường đưa đến sự giải thoát khỏi ṿng sanh tử, là một viêc chúng ta phải tự ḿnh làm. Văy hăy tiếp tục buông xả và t́m hiểu được lư Đạo. Hăy dồn hết năng lực vào việc quán tưởng của ḿnh. Đừng lo lắng ǵ về gia đ́nh của con nữa. Bây giờ họ đang như thế, nhưng tương lai rồi họ cũng như con thôi. Không ai trên thế giới này là có thể trốn thoát được số phận đó. Đức Phật đă dậy chúng ta là phải buông bỏ hết mọi sự giả hợp không thật trên thế gian này. Nếu con buông bỏ được, con sẽ thấy đươc chân lư, bằng không con sẽ không thể nhận ra được. Mọi sự đều phải xẩy ra như vậy, và tất cả mọi người ai cũng phải chịu như vậy. Vậy con đừng lo lắng và đừng bám víu vào một cái ǵ cả.
Ngay cả khi con đang thấy ḿnh suy nghĩ cũng không sao cả, miễn sao con biết suy nghĩ với trí tuệ. Đừng có những ư tưởng si mê. Nếu nghĩ về con cái hăy nghĩ đến chúng trong sự hiểu biết, không phải trong sự mù quáng ngu si. Tâm con hướng về đâu, hăy nghĩ đến điều đó và hiểu rơ nó, biết rơ thực chất của nó như thế nào. Nếu con có trí tuệ hiểu biết về một điều ǵ con có thể buông bỏ một cách dễ dàng và không c̣n đau khổ. Tâm của con sẽ trong sáng, an lạc, và vững chắc v́ không bị phân tán. C̣n ngay bây giờ th́ con phải nương về hơi thở để làm phương tiện trợ giúp cho con.
Đây là việc con phải làm, không ai khác làm thế được. Để người khác làm những việc của họ. Con có những việc và trách nhiệm của riêng con và con không cần ôm lấy những trách nhiệm của người khác. Đừng gánh lấy những ǵ khác, hăy buông bỏ chúng hết đi. Buông bỏ đươc, tâm trí con sẽ được yên ổn. Trách nhiệm duy nhất mà con phải làm bây giờ là chuyên chú vào tâm ḿnh và t́m cách làm cho nó được an b́nh. Hăy để những việc khác cho người khác lo. Sắc, thanh, hương, vị -- để lại cho người khác lo . Hăy để lại tất cả đàng sau và chỉ làm công việc con cần làm bây giờ thôi, hoàn thành trách nhiệm đối với chính con bây giờ thôi. Nếu có bất cứ cái ǵ khởi lên, lo sợ hay đau đớn, sự sợ hăi cái chết, hay sự lo lắng về một điều ǵ đó, hăy nói với nó rằng: "Đừng có làm rộn tôi. Tôi không c̣n can dự ǵ nữa." Hăy tự nhủ như vậy cho đến khi con thấy được Pháp.
vBulletin® v3.8.9, Copyright ©2000-2025, vBulletin Solutions, Inc.