florida80
05-07-2020, 19:47
Chương 14. Quen Dần Với Trại Cải Tạo
Cuộc sống của chúng tôi mấy ngày đầu trong trại là sự cố gắng để thích ứng với môi trường mới. Ngủ dưới đất, mọi người bắt đầu cảm thấy đau lưng. Chúng tôi bảo nhau là nên t́m những thứ ǵ không thấm nước lót phía dưới chỗ nằm để tránh bị thấp khớp. Tôi lấy cái pon-sô xếp lại làm hai lót phía dưới chiếc chiếu cói. Khi đi quanh trại để lùng sục những thứ bỏ rơi, tôi t́m được một chiếc mền cũ trong chiếc cḥi bỏ hoang, nhặt về mạng vá lại rồi giặt sạch để lót nằm thay cho cái nệm. Vải của những bao cát thu nhặt được dùng làm vật liệu để vá quần áo, mùng mền, vân vân. Chỉ th́ tháo ra từ những cái bao cát ấy c̣n kim may th́ tự chế lấy bằng cách mài nhỏ sợi dây thép, mài nhọn một đầu c̣n đầu kia th́ đập dẹp ra rồi dùng vật nhọn để đục lỗ.
Sau vài ngày đi khiêng nước, dép tôi đă bị đứt và rách nát, không c̣n mang được nữa. Tôi nhặt được một mảnh vỏ xe, bắt chước cách làm dép râu của VC, tôi tháo miếng thép trong ba lô của tôi ra, mài nó thành một con dao nhỏ để cắt miếng vỏ xe thành h́nh dạng giống như đôi dép rồi đục 8 lỗ để luồn những sợi dây bằng ruột xe qua. Chúng trở thành một cái ǵ đó cũng giống đôi dép, nhưng không thể hoàn hảo như ư muốn. Tôi đă mang đôi dép tự chế ấy trong suốt mười năm trường. Vài người khác thấy vậy cũng bắt chước làm theo. Họ đă bắt đầu sản xuất loại dép râu này để đổi chác thứ này thứ nọ cho các trại viên khác.
Lùng t́m những thứ cần thiết cho cuộc sống trong trại càng ngày càng phổ biến. Bắt đầu th́ chỉ có những trại viên trẻ, sau đó việc này lan tràn cho tất cả mọi người trong trại. Mặc dù trại trước đây là làng cô nhi và tiếp theo là trại cho đồng bào chiến nạn và đă có rất nhiều những tiếp liệu từ những nguồn cung cấp, đặc biệt là từ viện trợ nhân đạo của Mỹ, nhưng rồi vật liệu càng lúc càng khan hiếm dần. Vài trại viên đă bắt đầu luồn ra ngoài hàng rào trại để lùng t́m vật liệu, nhưng chưa một ai có ư định trốn trại cả. Mọi người đều đặt hy vọng vào một tháng cải tạo!
Để có nhà vệ sinh ít nhất là cho phụ nữ, chúng tôi đă đề nghị “ban giám thị trại” cho phép chúng tôi tự xây dựng hai nhà vệ sinh. Chúng tôi kéo sập 2 cái lều, lấy gỗ và tôn để làm vật liệu. Chúng tôi đào một lỗ lớn cho mỗi nhà vệ sinh ở gần góc cuối hàng rào trại và xây hai nhà tạm thời gồm có 10 lỗ cầu cho mỗi nhà vệ sinh. Chúng tôi phải gọi đó là “cầu xí” th́ đúng hơn. Không có giấy vệ sinh, trại viên đành phải dùng mọi thứ ǵ có thể làm sạch được, ngay cả nước để rửa. Chúng tôi có được hai cái nhà cầu cho nam và nữ trại viên, nhưng rồi chúng càng lúc càng bẩn thỉu, ḍi bọ khắp nơi. Tro bếp được rắc lên hàng ngày nhưng cũng không thể khá hơn được. Bệnh truyền nhiễm bắt đầu sinh sôi nẩy nở trong trại, nhất là bệnh tiêu chảy và ghẻ ngứa. Một bệnh xá được thiết lập bao gồm nhiều bác sĩ như Văn Văn Của (từng là đô trưởng Sài G̣n), nhưng điều tệ hại là không có thuốc men ngoại trừ những thứ thuốc của chính chúng tôi mang theo. Trại viên bắt đầu dùng lá cây và cỏ để trị bệnh: lá ổi nấu nước để trị tiêu chảy nếu được uống vào và trị bệnh ghẽ ngứa nếu dùng để tắm gội, vài thứ cỏ được dùng để trị phù thũng, vân vân. Bác sĩ Văn Văn Của đă biến thành một bác sĩ “châm cứu”. Nhiều người đă nói đùa bằng cách biến một câu châm ngôn của Việt Nam rằng “Đói ăn rau, đau khắc phục” (thay v́ đau uống thuốc). Nhiều người c̣n đùa rằng để trị bệnh th́ tốt nhất là dùng “AKcillin” và “CKC” thay v́ dùng “Penicillin” và “APC”! (AK và CKC là hai loại súng của VC). Tôi nghĩ rằng đó là sự thể hiện tính khôi hài của người Việt mặc dù ở trong t́nh huống thật bi thảm.
Trồng khoai lang là việc đầu tiên mà chúng tôi đă làm để cải thiện cuộc sống trong trại. Nhưng chúng tôi lại không có giống ngoại trừ một ít dây khoai thu nhặt được ở khu đất hoang gần trại, nơi đă từng là đất canh tác khi đây c̣n là làng cô nhi. Từ một vài dây khoai, chúng tôi nhân ra thành nhiều nhánh, và từ một vài khu đất nhỏ chúng tôi đă lần lần khai khẩn khắp nơi trong khu trại. Điều khó khăn gặp phải là nước tưới; chúng tôi đă đào những hố nhỏ gần những nhà tắm và khai mương để dẫn nước tưới ra đó. Khoai được thêm vào những xuất ăn sáng, và lá khoai lại là một thứ rau! Đó bỗng nhiên lại là bài học đầu tiên của chúng tôi học được trong việc “cải thiện bữa ăn” của chúng tôi bằng công sức lao động!
Trại viên buộc phải lên hội trường vào mỗi buổi sáng để học mười bài học. Nhưng rồi sau vài ba ngày, tất cả đều chán ngán với cách diễn đạt của cán bộ. Tôi chợt hiểu rằng họ đă được nhồi nhét những bài học ấy và rồi trở thành những con vẹt không hơn không kém bởi v́ tất cả đều nói cùng một cách. Những điều mà chúng tôi đă nghe Hai Côn nói trong buổi lên lớp đầu tiên, chúng tôi lại được nghe lập lại và lập lại nhiều lần trong những lớp tiếp theo, nhưng chúng tôi lại không được phép hỏi những điều mà chúng gọi là chống lại “đường lối và chính sách của Đảng và nhà nước”. Thí dụ như khi học bài về “lịch sử phát triển của loài người”, họ bảo rằng nhân loại đă được phát triển từ Cộng Sản nguyên thủy, qua các giai đoạn Nô lệ, Phong kiến, Tư bản, đến chủ nghĩa Xă Hội và rồi đến giai đoạn cao nhất của loài người là “Cộng Sản Chủ nghĩa”. Chúng tôi không thể hỏi rằng những ǵ mà con người sẽ tiến tới sau khi đạt được chủ nghĩa Cộng Sản bởi v́ theo họ th́ Cộng Sản Chủ Nghĩa là giai đoạn tột cùng của loài người; con người sẽ không c̣n phát triển nữa sau khi đạt được Chủ Nghĩa Cộng Sản! Thật là một luận điệu buồn cười, nhưng chúng tôi cũng phải chấp nhận như vậy và chỉ được thảo luận theo chiều hướng ấy mà thôi.
Bài học đầu tiên là “Đế Quốc Mỹ là quân xâm lược”. Chúng tôi phải lên lớp hết 2 buổi sáng từ bảy giờ đến trưa, và thảo luận tại pḥng vào buổi chiều. Diễn giả là một cán bộ được giới thiệu là từ “bộ chính trị” v́ họ muốn có một cán bộ cấp cao đến dạy chúng tôi, những người mà họ cho là nhân viên cao cấp của “ngụy quyền”. Cũng chẳng có ǵ khác hơn là những điều mà chúng tôi đă nghe Hai Côn nói trong buổi lên lớp đầu tiên. Trong phần thảo luận, chúng tôi đă phải kết án về những cái mà chúng cho là “tội ác của Đế Quốc Mỹ” trên toàn thế giới và đặc biệt là phải lên án những tội ác này trong chiến tranh Việt Nam. Cuộc thảm sát ở Mỹ Lai, cái gọi là “sự tàn phá miền Bắc Việt Nam bằng không lực”, cuộc phong tỏa vịnh Bắc Việt, sự tàn phá của cái gọi là “chất độc màu da cam”, vân vân, là những đề tài mà chúng tôi phải thảo luận. Nhưng điều quan trọng hơn là chúng tôi phải khai báo những điều mà chúng tôi biết được về những kho chôn dấu đạn dược hay đồ tiếp liệu của Mỹ sau khi rút khỏi Việt Nam. Đối với chúng tôi, những người từng làm trong cơ quan t́nh báo th́ chúng muốn biết những chương tŕnh mà Mỹ đă dự định sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt cũng như những t́nh báo viên mà Mỹ vẫn c̣n cài lại sau khi rút khỏi Việt Nam. Tôi nghĩ rằng tất cả những buổi thảo luận này đều nhắm mục đích t́m hiểu về những chiến lược của Mỹ sau chiến tranh Việt Nam. Luôn luôn có một cán bộ hiện diện trong mỗi buổi thảo luận để nghe những ǵ chúng tôi nói và sau đó chúng tôi c̣n phải nộp lên một bản tường tŕnh về buổi thảo luận.
Sau bài học đầu tiên này, chúng tôi được nghỉ hai ngày không phải lên lớp. Trong thời gian ấy, chúng tôi phải học những bài “nhạc cách mạng” như “Giải Phóng Miền Nam”, “Đông Trường Sơn, Tây Trường Sơn”, “Chiếc gậy Trường Sơn”. (Trường Sơn là một dăy núi nối dài từ Bắc đến Nam Việt Nam, nơi mà con đường ṃn Hồ Chí Minh băng qua). Điều buồn cười xảy ra là những người trước đây chưa hề ca hát nay đă phải làm việc ấy bởi v́ mọi người đều phải thay phiên nhau ca, không loại trừ một ai. Những bài ca “nổi tiếng” do trại viên sáng tác đă được viết ra trong thời gian này như bản “Ngày vui đă tới” của Vũ Thành An, một nhạc sĩ nỗi tiếng của Nam Việt Nam và cũng là một cựu trưởng ty “dân vận chiêu hồi”. Chúng tôi cũng phải học hát những bản nhạc ấy nữa! Tôi vẫn nhớ vài câu trong bản nhạc ấy: “Ngày vui đă tới, chúng ta xây lại đời ta. Nhớ ơn Cách Mạng, chúng ta xin nguyện thành người dân chân chính.” Tôi nghĩ lúc này quả là quá sớm để có những nịnh hót như thế, nhưng tôi không muốn phê b́nh ai hết bởi mỗi người có một cách sống riêng trong trại cải tạo.
Nhiều người cho rằng tại sao trại viên không chịu giữ một thái độ hiên ngang trong trại cải tạo bằng cách chống lại những người Cộng Sản, nhưng họ có biết rằng chúng ta đă không c̣n một chính quyền, không c̣n đất nước, không có hậu thuẩn; chúng ta không có ǵ cả ngoài cái mạng sống, mà chính nó cũng không c̣n tùy thuộc vào chúng ta nữa, vậy th́ chúng ta làm được ǵ? Tôi cũng nghĩ rằng tôi không thể làm được ǵ trong hoàn cảnh ấy, không thể trốn đi đâu được. Mọi sự chống đối đều dẫn đến cái chết; mọi sự nịnh bợ là những điều vô sĩ. Làm anh hùng trong hoàn cảnh ấy cũng là điều vô ích, do đó có lẽ tôi đă chọn cách “nín thở qua sông” để mà sống trong hoàn cảnh ấy mà thôi! Tôi cũng chẳng cần ai phê b́nh là ḿnh hèn nhát. Điều mà tôi đă suy nghĩ là làm sao tôi có thể sống sót được để gặp lại gia đ́nh mà không quá hèn đến nỗi bán rẻ linh hồn.
Tiếp theo bản nhạc của Vũ thành An là vài bản nhạc của những trại viên khác như Đèo Chánh Mun ở khối 1, và Bạch Văn Nghĩa ở khối 3; tôi vẫn nhớ vài câu trong bản nhạc ấy: “Học tập hăng say anh em ơi, đem t́nh thương làm ṿng tay nối, quyết dựng ngày mai với niềm vui...”
Tôi không biết phong trào sáng tác nhạc này là do sự thúc đẩy của tâm hồn hay là do sự nịnh hót, nhưng quả thật đó là lúc mà có nhiều nhạc phẫm sáng tác bởi trại viên hơn bất cứ lúc nào khác. Tôi đoán có lẽ v́ lúc ấy chúng tôi chưa bị lao động, và thêm vào đó ai cũng hy vọng sẽ được thả về sau 1 tháng cải tạo như “chính sách của Đảng và Nhà Nước” quy định! Tôi rất tiếc đă không có tài năng sáng tác nên đành phải học những bản nhạc ấy vậy.
Việc tập hát đă diễn ra mỗi tối trước khi đi ngủ. Một vài trại viên có khả năng ca hát đă trở thành những “quản ca” để dạy các trại viên khác từng câu một trong bài ca. Trại viên trong pḥng giam đă phải lập lại từng câu tiếp theo “quản ca”. Sau khi tập hết bài ca, từng trại viên một lại phải thay phiên nhau ca cả bài ca. Bằng cách ấy, không ai có thể tránh không hát, và mọi người đều thuộc ḷng từng bài ca một. Đó cũng là lư do tại sao tôi lại thuộc vài đoạn của những bài ca ấy cho đến bây giờ.
Có một bài ca về “Giặc Mỹ” đă trở thành một điều diễu cợt v́ nó có một câu là: “Than ôi Abrams đă bí nên bi”. Lúc đó chúng tôi thường được cho ăn một thứ canh bí đỏ nấu với đậu phọng, và trại viên đă đặt tên cho loại canh đó là canh Abrams! Người Việt chúng ta thường hay t́m ra được cách để diểu cợt cho dù trong hoàn cảnh bi đát đi nữa! Tôi cũng muốn nói ở đây là tướng Abrams của Mỹ là người đă có sáng kiến thiết lập 1 ṿng đai chiến lược để ngăn chặn Cộng Sản tràn xuống Nam Việt Nam.
Sau hai ngày học ca nhạc “cách mạng”, ban giám thị trại đă buộc chúng tôi phải tiếp tục như thế cho hết thời gian ở trại cải tạo Long Thành. Tôi không thể nhớ có bao nhiêu bản nhạc mà chúng tôi đă phải học thuộc trong thời gian này. Vài bản mà tôi vẫn nhớ từng đoạn cho đến giờ như “Sài G̣n quật khởi”, “Vàm cỏ Đông”, “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”, vân vân. Khi Việt Nam thống nhất, chúng tôi không được hát bản “Giải phóng miền Nam” nữa mà phải hát bài “Tiến Quân Ca”, bài quốc ca của Bắc Việt. Nhưng bản nhạc “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng” là bản nhạc mà chúng tôi đă phải hát mọi nơi mọi lúc ở mọi trại giam. Khi lên hội trường, khi bắt đầu hay chấm dứt một việc ǵ, đặc biệt là trước khi chấm dứt cuộc họp để đi ngủ, chúng tôi đều phải hát bản nhạc ấy, do đó nhiều trại viên gọi đó là bài ca “tạm biệt”. Đôi khi đi cầu, tôi đă nghe vài trại viên trẻ đổi lời của bài ca thành “như có con ḍi trong cầu tiêu của trại cải tạo”. Quả là một hành động liều lĩnh bởi v́ trong trại lúc nào cũng có những phần tử gọi là “ăn ten” báo cáo lên cán bộ mọi điều mà chúng nghe thấy, và chúng tôi đă được báo cho biết nói xấu Hồ là một trọng tội.
Bài ca “Tự Nguyện” là bài ca duy nhất của một sinh viên miền Nam mà chúng tôi được ca trong thời gian này. Chúng tôi cũng hơi ngạc nhiên v́ hầu hết chúng tôi đă biết bản nhạc ấy trong thời gian mà Sinh Viên Sài G̣n xuống đường đ̣i ḥa b́nh cho Việt Nam. Tôi vẫn nhớ những câu của bài ca:
“Nếu là chim tôi sẽ làm loài bồ câu trắng”
“Nếu là hoa tôi sẽ là một đóa hướng dương”
“Nếu là mây tôi sẽ làm một vầng mây ấm”
“Nếu là người tôi sẽ chết cho quê hương”
Một cán bộ đă giải thích rằng lời ca đó được trích từ một bài thơ của Hồ Chí Minh. Tôi không biết điều đó có đúng không, nhưng tôi nghĩ mọi cái đều là của Hồ! Sự tôn sùng lănh tụ là điều mà tất cả Cộng Sản thế giới đều làm chứ không riêng ǵ VC.
Bài học thứ hai, “Lũ Ngụy Quyền là bọn tay sai” được dạy trong 2 buổi sáng, nhưng phải thảo luận suốt một tuần lể. Sau 2 buổi chiều thảo luận, hầu hết là thú nhận tội lỗi và hứa sẽ sửa đổi, chúng tôi phải làm một bản sơ đồ tổ chức của Phủ Trung Ương T́nh Báo. Điệp, họa sĩ của ban A17 và tôi được mọi người cử ra để vẽ sơ đồ. Tài liệu th́ được cung cấp bởi những sếp cũ của chúng tôi như Lộc, đặc ủy trưởng, Thúy, trưởng ban R (ban nghiên cứu), Phong, trưởng ban Z (ban nội chính), Lương, trưởng ban A10 (ban tổng hợp tin tức), Trang, trưởng ban A8, Cang, cựu đặc ủy trưởng, Quân, trưởng ban Y (ban yểm trợ) vân vân. Điều buồn cười mà tôi thấy là toàn bộ Cơ Quan T́nh Báo, đầu năo của quốc gia đều nằm trong trại cải tạo và đang cung cấp tất cả mọi điều về cơ quan cho Cộng Sản. Sau này, Lộc và Thúy đă chết tại trại Nam Hà sau thời gian đi thẩm vấn tại trại Hỏa Ḷ, Hà Nội.
Trong khi Điệp và tôi vẽ sơ đồ tổ chức của Phủ th́ những người khác phải viết bản tự khai đầu tiên. Những cán bộ của trại đến từng pḥng giam hàng ngày khuyến khích rằng ai viết thành thật những tội lỗi của ḿnh th́ sẽ được hưởng lượng khoan hồng của Đảng và Nhà nước. Một điều khôi hài khác lại xảy ra là có những trại viên không thể nhớ được những điều ḿnh đă làm trước đây, họ phải đi hỏi lại những người đă làm chung công việc ấy rồi viết vào để mong rằng ḿnh sẽ được tha ra khỏi trại sớm như lời hứa của cán bộ.
Cũng trong lúc ấy, những người giữ chức vụ cao của cơ quan lại di chuyển qua trại Thủ Đức. Hầu hết những người đang cung cấp tài liệu để chúng tôi vẽ lại sơ đồ tổ chức của cơ quan đều chuyển đi, do đó Điệp và tôi đă phải ngưng làm công việc ấy và trở lại làm bản tự khai như mọi người khác. Tôi suy nghĩ hầu hết tài liệu đă bỏ lại trong cơ quan, và mọi người đều đă khai báo hết mọi cái rồi. Tôi đành phải viết những điều mà tôi đă làm và nêu tên những người mà tôi thấy trong trại cũng như những người mà tôi chắc rằng đă trốn khỏi đất nước như những cộng tác viên. Tôi đă tránh không khai cho những người mà tôi không thấy trong trại và không biết chắc về t́nh trạng của họ. Tôi nghĩ thế nào VC cũng hỏi lại những điều khai báo này nên tôi đă viết thêm 1 bản phụ để giử riêng.
Trong những ngày viết bản tự khai, chúng tôi được cho ăn một ít thịt, điều mà VC gọi là “bồi dưỡng” cho chúng tôi trong lúc chúng tôi “động năo”! Nhiều danh từ mà tôi chưa từng nghe trong ngôn ngữ của Việt Nam. Khi chúng tôi có một ít thịt trong bửa ăn th́ họ bảo rằng chúng tôi được “ăn tươi”. Khi chúng tôi trồng được ít rau để ăn thêm th́ chúng bảo rằng chúng tôi “cải thiện”. Khi họ bắt chúng tôi đi lao động trong ngày Chúa Nhật th́ họ gọi là “lao động Xă Hội Chủ Nghĩa”!
Ngày Chúa Nhật hôm ấy, lần đầu tiên chúng tôi phải đi lao động Xă Hội Chủ Nghĩa từ sáng sớm đến trưa. Ai có cuốc th́ phải sửa lại con đường chính từ cổng đến dăy nhà cuối cùng: đào mương dọc 2 bên đường và lấy đất đấp thêm lên con đường. Những người không có cuốc th́ dùng tay không mà nhổ cỏ và dọn dẹp vệ sinh trong khu trại và khu cơ quan.
Khi ở trong trại th́ mỗi người đều mang trong ḿnh một suy nghĩ riêng, nhưng tôi nghĩ rằng cái ư nghĩ chung nhất của mọi người là những suy tư về gia đ́nh và sự mong đợi ngày về. Mọi diễn biến đều được diễn dịch theo những điều hoặc là thuận lợi hay bất lợi đối với những mong mơi ấy. Khi “Ban Giám thị trại” cung cấp ván cho chúng tôi làm sạp nằm th́ vài người đă cho rằng chắc là chúng tôi phải ở đây lâu hơn là một tháng. Nhiều người c̣n cho rằng chúng tôi phải cải tạo ít nhất là sáu tháng khi nghe cán bộ bảo chúng tôi phải trồng khoai ḿ bởi v́ khoai ḿ muốn có củ th́ phải trồng ít nhất 6 tháng. Những điều phát biểu này đă tới tai các cán bộ, và họ đă đến từng buồng giam để trấn an chúng tôi rằng “chính sách của Đảng và Nhà Nước” trước sau như một, ai đạt được nhiều tiến bộ trong cải tạo sẽ được về sớm. Cách giải thích này tôi được nghe lập đi lập lại nhiều lần ở nhiều trại khác nhau. Tôi nghĩ đó là những ǵ mà các cán bộ đă học tập khi nói chuyện với trại viên.
Những bận rộn hàng ngày như lên lớp, thảo luận, và tranh đấu với cuộc sống đă giúp tôi ít suy nghĩ đến gia đ́nh, nhưng khi chui vào mùng, tất cả lại hiện ra một cách rỏ ràng trong óc tôi. Đặc biệt là đứa con c̣n trong bụng, nó là trai hay gái, và vợ tôi ra sao khi cô ấy sanh nở, những điều này luôn xâm chiếm lấy tâm hồn tôi. Tôi đă cố thử viết ra những ư tưởng này, nhưng không thành công v́ tôi chưa hề quen với việc viết nhật kư. Đêm trong trại cải tạo rất dài. V́ chưa hề ngủ dưới đất, do đó lúc đầu tôi rất khó vỗ giấc ngủ, nhưng rồi tôi đă cố gắng bằng cách thở thật sâu và đếm từ 1 đến 100 rồi lại tiếp tục lại như vậy. Sau khoảng 4 đêm, tôi bắt đầu quen với việc ấy và có thể ngủ dễ dàng mỗi khi chui vào mùng. Thêm vào đó, tôi cố làm việc bận rộn suốt ngày. Nếu không làm những việc mà họ bảo làm th́ tôi đi tưới những luống khoai của riêng tôi, đi lấy nước xài, hay làm những công việc riêng. Sau khi buổi họp tổ chấm dứt chui vào chỗ nằm, tôi cảm thấy mệt mơi và ch́m vào giấc ngủ một cách dể dàng. Tôi biết rằng giấc ngủ sẽ rất cần thiết cho tôi trong trại, và cố gắng không suy nghĩ ǵ nữa mỗi khi chui vào mùng. Tôi đă giữ được thói quen này suốt gần 17 năm trong các trại cải tạo và chính nhờ vậy mà tôi đă vượt qua được những khó khăn gặp phải.
Việc di chuyển một số trại viên qua trại Thủ Đức đă xăy ra và Linh, chồng của chị vợ tôi cũng đi sang đó. Tôi nghe nói trại Thủ Đức nguyên là trại giam nữ can phạm trước đây. Chị vợ tôi là Lan vẫn ở lại trại Long Thành, do đó hàng ngày tôi vẫn thường đến để giúp chị ấy. Tôi nghĩ rằng cuộc sống của phụ nữ ở trong trại có phần khó khăn hơn nam giới, do đó tôi thường dành cho chị ấy những thuận lợi hơn của chính tôi, đặc biệt là nước xử dụng hàng ngày. Mỗi khi đến pḥng giam dành cho nữ, tôi thường gặp những người bạn của vợ tôi; họ cũng thường hỏi tôi có biết ǵ về vợ tôi và đứa con không. Điều này thường làm tôi rất lúng túng mỗi khi trả lời. Tuy nhiên tôi có thể nói được ǵ ngoài chử “không”!
Vợ và con tôi ra sao? Câu hỏi này luôn lởn vởn trong đầu óc tôi. Tôi vẫn nhớ lúc tôi chở vợ tôi vào pḥng cấp cứu khi cô ấy sẩy thai lần đầu và ngồi bên ngoài chờ đợi. Tôi không nghe tiếng rên siết nào của vợ tôi, và sau đó mấy ngày, cô ấy đă kể lại rằng cô ấy đă cố nín chịu đau v́ không muốn tôi lo lắng cho cô ấy. Tôi không biết cô ấy sẽ làm sao đây khi tôi không có ở gần bên để lo cho cô ấy lúc sinh nở. Tôi cảm thấy tội nghiệp cho vợ tôi rồi lại nghĩ đến một câu ca dao của Việt Nam rằng: “Người ta đi biển có đôi, c̣n tôi đi biển mồ côi một ḿnh.”
Sau bài học thứ hai, chúng tôi đợi những bài học kế tiếp, nhưng vẫn không thấy ǵ xảy ra trong suốt 1 tuần lễ. Trại viên bắt đầu lo lắng v́ mọi người đều mong chấm dứt 10 bài học tập để c̣n được trở về với gia đ́nh! Chúng tôi đều nghĩ rằng chúng tôi không thể tin vào một tháng cải tạo, nhưng làm thế nào sống mà không có chút hy vọng? Tôi nghĩ rằng Ban Giám Thị trại biết điều này nên họ cho các cán bộ đến từng buồng giam và nói rằng họ đang đợi những cán bộ từ Hà Nội vào để dạy chúng tôi những bài học c̣n lại.
Những tin đồn về 1 cuộc di chuyển nữa sẽ xảy ra sau khi một số trại viên được di chuyển sang trại Thủ Đức. Tối thứ bảy ấy, trại viên được đi xem phim ngoài trời. Trước khi chiếu phim, trưởng trại Hai Côn nói rằng chúng tôi sẽ không đi đâu nữa hết mà phải cố gắng để cải tạo ngỏ hầu hưởng lượng khoan hồng của Đảng và Nhà Nước. Ban Giám Thị và các cán bộ ở trung ương đang nghiên cứu các bản tự khai của trại viên và sẽ hỏi một vài điều trong các bản tự khai ấy trước khi tiếp tục chương tŕnh học tập.
Phim chiếu tối hôm ấy nói về trận chiến Điện Biên Phủ và nêu gương những người anh hùng đă dùng thân ḿnh để chặn những khẩu đại pháo bị đứt dây lăn xuống triền dốc hay những người đă dùng thân ḿnh lấp lỗ châu mai trong trận chiến. Chiến thắng Điện Biên Phủ là một niềm kiêu hảnh của VC, nhưng trong phim tôi lại thấy rằng người dân Việt Nam đă là những người hy sinh quá nhiều cho chiến thắng ấy. Chỉ với sức lao động, người dân Việt đă phải chống lại với máy móc và phi cơ của Thực Dân Pháp. Họ không phải là Cộng Sản, họ chỉ là những người dân thường với ḷng yêu nước. Cộng Sản đă lợi dụng ḷng ái quốc của nhân dân để nắm chính quyền rồi lại nói rằng “yêu nước là yêu Chủ Nghĩa Xă Hội!” Thật là một sự liên kết kỳ cục! Những điều mà họ nói như: “Với bàn tay ta làm nên tất cả, có sức người sỏi đá cũng thành cơm” hay “Nơi nào cần thanh niên có, nơi nào khó có thanh niên” chỉ là những chiêu bài để lợi dụng sức lao động của nhân dân. Người dân miền Bắc đă bị lợi dụng trên 30 năm trường, và bây giờ là đến phiên người dân miền Nam. Lao động Xă Hội Chủ Nghĩa có ǵ khác hơn là làm việc không công.
Hôm sau, thay v́ đi lao động Xă Hội Chủ Nghĩa, chúng tôi phải thảo luận cuốn phim và so sánh chiến thắng của trận đánh Điện Biên Phủ với chiến thắng của cái gọi là “Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử” để giải phóng miền Nam Việt Nam ngày 30 tháng 4 năm 1975. Dưới sự điều khiển của cán bộ, buổi thảo luận sau đó đă biến thành dịp để chúng tôi thú nhận những tội lỗi mà chúng tôi đă làm trong việc ngăn cản tiến tŕnh của chiến dịch ấy. Thật là một việc buồn cười! Nhưng tôi chợt biết rằng mọi việc xảy ra trong trại cải tạo đều phải theo cách ấy mà thôi, và tôi phải chấp nhận điều này không cần suy nghĩ. Thái độ của tôi sẽ là nói càng ít càng tốt, tôi tự nhủ như vậy trong khi nghĩ tới một câu chuyện ngụ ngôn mà tôi học được lúc c̣n bé ở trường tiểu học. Chúng ta chỉ có một cái miệng mà phải làm hai công việc là ăn và nói, trong khi lại có tới hai lổ tai chỉ để nghe mà thôi. Tại sao chúng ta không nói ít mà nghe nhiều; đừng để cái miệng làm việc quá sức nó.
Trại viên toàn trại rất lo lắng về một trại viên trong khối một bị chuyển đi. Các cán bộ giải thích rằng trại viên ấy đă có “nợ máu” với nhân dân trong vùng mà anh ấy hoạt động trước đây, do đó anh ấy phải ra trước “ṭa án nhân dân” trước khi đến một trại cải tạo khác. Chúng tôi không biết ǵ về t́nh trạng của anh ta sau này, nhưng chúng tôi lại không xa lạ ǵ với cái gọi là “ṭa án nhân dân” của VC kể từ giai đoạn “cải cách ruộng đất” sau khi Cộng Sản chiếm miền Bắc Việt Nam 1954. Mọi việc đều diễn ra theo một tŕnh tự mà Cộng Sản muốn. Trong lúc đó, họ cũng cho chúng tôi biết rằng chúng tôi được giữ trong trại chính là để được bảo vệ bởi v́ nhân dân rất là giận dữ về những tội ác mà chúng tôi đă làm để ngăn cản tiến tŕnh giải phóng nhân dân! Thật cảm ơn cho sự tốt đẹp của “cách mạng”; chúng tôi đang được kẻ thù bảo vệ và đang được hưởng sự khoan hồng của Đảng và Nhà Nước. Quá nhiều những danh từ được dùng để che dấu cho một hành động trả thù. Tôi nhớ lại một bài hát của Phạm Duy, một nhạc sĩ nỗi tiếng của miền Nam Việt Nam, trong đó có dùng một từ “một rỗ danh từ”, và cũng nhớ một thành ngử Việt Nam “mật miệng gươm ḷng” để áp dụng cho những người dùng lời nói tốt đẹp để che đậy những ư đồ xấu xa. Tôi nghĩ tôi có thể dùng những điều này cùng với câu nói của Nguyễn Văn Thiệu rằng “đừng nghe những ǵ Cộng Sản nói mà hăy nh́n kỹ những ǵ Cộng Sản làm” để làm phương châm cho cuộc sống của tôi trong những ngày sắp tới trong trại cải tạo.
Kinh nghiệm sống trong trại cải tạo đă đến với tôi từng bước một. Tôi không biết tôi có thể sống cho đến lúc rời trại được không, nhưng tôi nghĩ rằng tôi sẽ cố gắng với tất cả khả năng của tôi. Tôi cũng hiểu được rằng mọi sự thất vọng đều sẽ dẫn đến sự thất bại không cứu văn nổi.
Lư Muối Liềm, một nữ thiếu tá cảnh sát của Nam Việt Nam là người đầu tiên được tha ra khỏi trại để điều hành trung tâm điện toán ở bộ chỉ huy cảnh sát. Sự di chuyển của một số cấp cao sang trại Thủ Đức diễn ra tiếp theo, và rồi một trại viên được đưa ra ṭa án nhân dân. Điều ǵ sẽ xảy ra tiếp theo cho chúng tôi, những người c̣n lại? Chúng tôi tất cả đều sống trong sự lo lắng, nhưng chúng tôi không biết phải làm ǵ ngoài việc chờ đợi mọi việc diễn ra không có cách ǵ cưỡng lại được.
Cuộc sống của chúng tôi mấy ngày đầu trong trại là sự cố gắng để thích ứng với môi trường mới. Ngủ dưới đất, mọi người bắt đầu cảm thấy đau lưng. Chúng tôi bảo nhau là nên t́m những thứ ǵ không thấm nước lót phía dưới chỗ nằm để tránh bị thấp khớp. Tôi lấy cái pon-sô xếp lại làm hai lót phía dưới chiếc chiếu cói. Khi đi quanh trại để lùng sục những thứ bỏ rơi, tôi t́m được một chiếc mền cũ trong chiếc cḥi bỏ hoang, nhặt về mạng vá lại rồi giặt sạch để lót nằm thay cho cái nệm. Vải của những bao cát thu nhặt được dùng làm vật liệu để vá quần áo, mùng mền, vân vân. Chỉ th́ tháo ra từ những cái bao cát ấy c̣n kim may th́ tự chế lấy bằng cách mài nhỏ sợi dây thép, mài nhọn một đầu c̣n đầu kia th́ đập dẹp ra rồi dùng vật nhọn để đục lỗ.
Sau vài ngày đi khiêng nước, dép tôi đă bị đứt và rách nát, không c̣n mang được nữa. Tôi nhặt được một mảnh vỏ xe, bắt chước cách làm dép râu của VC, tôi tháo miếng thép trong ba lô của tôi ra, mài nó thành một con dao nhỏ để cắt miếng vỏ xe thành h́nh dạng giống như đôi dép rồi đục 8 lỗ để luồn những sợi dây bằng ruột xe qua. Chúng trở thành một cái ǵ đó cũng giống đôi dép, nhưng không thể hoàn hảo như ư muốn. Tôi đă mang đôi dép tự chế ấy trong suốt mười năm trường. Vài người khác thấy vậy cũng bắt chước làm theo. Họ đă bắt đầu sản xuất loại dép râu này để đổi chác thứ này thứ nọ cho các trại viên khác.
Lùng t́m những thứ cần thiết cho cuộc sống trong trại càng ngày càng phổ biến. Bắt đầu th́ chỉ có những trại viên trẻ, sau đó việc này lan tràn cho tất cả mọi người trong trại. Mặc dù trại trước đây là làng cô nhi và tiếp theo là trại cho đồng bào chiến nạn và đă có rất nhiều những tiếp liệu từ những nguồn cung cấp, đặc biệt là từ viện trợ nhân đạo của Mỹ, nhưng rồi vật liệu càng lúc càng khan hiếm dần. Vài trại viên đă bắt đầu luồn ra ngoài hàng rào trại để lùng t́m vật liệu, nhưng chưa một ai có ư định trốn trại cả. Mọi người đều đặt hy vọng vào một tháng cải tạo!
Để có nhà vệ sinh ít nhất là cho phụ nữ, chúng tôi đă đề nghị “ban giám thị trại” cho phép chúng tôi tự xây dựng hai nhà vệ sinh. Chúng tôi kéo sập 2 cái lều, lấy gỗ và tôn để làm vật liệu. Chúng tôi đào một lỗ lớn cho mỗi nhà vệ sinh ở gần góc cuối hàng rào trại và xây hai nhà tạm thời gồm có 10 lỗ cầu cho mỗi nhà vệ sinh. Chúng tôi phải gọi đó là “cầu xí” th́ đúng hơn. Không có giấy vệ sinh, trại viên đành phải dùng mọi thứ ǵ có thể làm sạch được, ngay cả nước để rửa. Chúng tôi có được hai cái nhà cầu cho nam và nữ trại viên, nhưng rồi chúng càng lúc càng bẩn thỉu, ḍi bọ khắp nơi. Tro bếp được rắc lên hàng ngày nhưng cũng không thể khá hơn được. Bệnh truyền nhiễm bắt đầu sinh sôi nẩy nở trong trại, nhất là bệnh tiêu chảy và ghẻ ngứa. Một bệnh xá được thiết lập bao gồm nhiều bác sĩ như Văn Văn Của (từng là đô trưởng Sài G̣n), nhưng điều tệ hại là không có thuốc men ngoại trừ những thứ thuốc của chính chúng tôi mang theo. Trại viên bắt đầu dùng lá cây và cỏ để trị bệnh: lá ổi nấu nước để trị tiêu chảy nếu được uống vào và trị bệnh ghẽ ngứa nếu dùng để tắm gội, vài thứ cỏ được dùng để trị phù thũng, vân vân. Bác sĩ Văn Văn Của đă biến thành một bác sĩ “châm cứu”. Nhiều người đă nói đùa bằng cách biến một câu châm ngôn của Việt Nam rằng “Đói ăn rau, đau khắc phục” (thay v́ đau uống thuốc). Nhiều người c̣n đùa rằng để trị bệnh th́ tốt nhất là dùng “AKcillin” và “CKC” thay v́ dùng “Penicillin” và “APC”! (AK và CKC là hai loại súng của VC). Tôi nghĩ rằng đó là sự thể hiện tính khôi hài của người Việt mặc dù ở trong t́nh huống thật bi thảm.
Trồng khoai lang là việc đầu tiên mà chúng tôi đă làm để cải thiện cuộc sống trong trại. Nhưng chúng tôi lại không có giống ngoại trừ một ít dây khoai thu nhặt được ở khu đất hoang gần trại, nơi đă từng là đất canh tác khi đây c̣n là làng cô nhi. Từ một vài dây khoai, chúng tôi nhân ra thành nhiều nhánh, và từ một vài khu đất nhỏ chúng tôi đă lần lần khai khẩn khắp nơi trong khu trại. Điều khó khăn gặp phải là nước tưới; chúng tôi đă đào những hố nhỏ gần những nhà tắm và khai mương để dẫn nước tưới ra đó. Khoai được thêm vào những xuất ăn sáng, và lá khoai lại là một thứ rau! Đó bỗng nhiên lại là bài học đầu tiên của chúng tôi học được trong việc “cải thiện bữa ăn” của chúng tôi bằng công sức lao động!
Trại viên buộc phải lên hội trường vào mỗi buổi sáng để học mười bài học. Nhưng rồi sau vài ba ngày, tất cả đều chán ngán với cách diễn đạt của cán bộ. Tôi chợt hiểu rằng họ đă được nhồi nhét những bài học ấy và rồi trở thành những con vẹt không hơn không kém bởi v́ tất cả đều nói cùng một cách. Những điều mà chúng tôi đă nghe Hai Côn nói trong buổi lên lớp đầu tiên, chúng tôi lại được nghe lập lại và lập lại nhiều lần trong những lớp tiếp theo, nhưng chúng tôi lại không được phép hỏi những điều mà chúng gọi là chống lại “đường lối và chính sách của Đảng và nhà nước”. Thí dụ như khi học bài về “lịch sử phát triển của loài người”, họ bảo rằng nhân loại đă được phát triển từ Cộng Sản nguyên thủy, qua các giai đoạn Nô lệ, Phong kiến, Tư bản, đến chủ nghĩa Xă Hội và rồi đến giai đoạn cao nhất của loài người là “Cộng Sản Chủ nghĩa”. Chúng tôi không thể hỏi rằng những ǵ mà con người sẽ tiến tới sau khi đạt được chủ nghĩa Cộng Sản bởi v́ theo họ th́ Cộng Sản Chủ Nghĩa là giai đoạn tột cùng của loài người; con người sẽ không c̣n phát triển nữa sau khi đạt được Chủ Nghĩa Cộng Sản! Thật là một luận điệu buồn cười, nhưng chúng tôi cũng phải chấp nhận như vậy và chỉ được thảo luận theo chiều hướng ấy mà thôi.
Bài học đầu tiên là “Đế Quốc Mỹ là quân xâm lược”. Chúng tôi phải lên lớp hết 2 buổi sáng từ bảy giờ đến trưa, và thảo luận tại pḥng vào buổi chiều. Diễn giả là một cán bộ được giới thiệu là từ “bộ chính trị” v́ họ muốn có một cán bộ cấp cao đến dạy chúng tôi, những người mà họ cho là nhân viên cao cấp của “ngụy quyền”. Cũng chẳng có ǵ khác hơn là những điều mà chúng tôi đă nghe Hai Côn nói trong buổi lên lớp đầu tiên. Trong phần thảo luận, chúng tôi đă phải kết án về những cái mà chúng cho là “tội ác của Đế Quốc Mỹ” trên toàn thế giới và đặc biệt là phải lên án những tội ác này trong chiến tranh Việt Nam. Cuộc thảm sát ở Mỹ Lai, cái gọi là “sự tàn phá miền Bắc Việt Nam bằng không lực”, cuộc phong tỏa vịnh Bắc Việt, sự tàn phá của cái gọi là “chất độc màu da cam”, vân vân, là những đề tài mà chúng tôi phải thảo luận. Nhưng điều quan trọng hơn là chúng tôi phải khai báo những điều mà chúng tôi biết được về những kho chôn dấu đạn dược hay đồ tiếp liệu của Mỹ sau khi rút khỏi Việt Nam. Đối với chúng tôi, những người từng làm trong cơ quan t́nh báo th́ chúng muốn biết những chương tŕnh mà Mỹ đă dự định sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt cũng như những t́nh báo viên mà Mỹ vẫn c̣n cài lại sau khi rút khỏi Việt Nam. Tôi nghĩ rằng tất cả những buổi thảo luận này đều nhắm mục đích t́m hiểu về những chiến lược của Mỹ sau chiến tranh Việt Nam. Luôn luôn có một cán bộ hiện diện trong mỗi buổi thảo luận để nghe những ǵ chúng tôi nói và sau đó chúng tôi c̣n phải nộp lên một bản tường tŕnh về buổi thảo luận.
Sau bài học đầu tiên này, chúng tôi được nghỉ hai ngày không phải lên lớp. Trong thời gian ấy, chúng tôi phải học những bài “nhạc cách mạng” như “Giải Phóng Miền Nam”, “Đông Trường Sơn, Tây Trường Sơn”, “Chiếc gậy Trường Sơn”. (Trường Sơn là một dăy núi nối dài từ Bắc đến Nam Việt Nam, nơi mà con đường ṃn Hồ Chí Minh băng qua). Điều buồn cười xảy ra là những người trước đây chưa hề ca hát nay đă phải làm việc ấy bởi v́ mọi người đều phải thay phiên nhau ca, không loại trừ một ai. Những bài ca “nổi tiếng” do trại viên sáng tác đă được viết ra trong thời gian này như bản “Ngày vui đă tới” của Vũ Thành An, một nhạc sĩ nỗi tiếng của Nam Việt Nam và cũng là một cựu trưởng ty “dân vận chiêu hồi”. Chúng tôi cũng phải học hát những bản nhạc ấy nữa! Tôi vẫn nhớ vài câu trong bản nhạc ấy: “Ngày vui đă tới, chúng ta xây lại đời ta. Nhớ ơn Cách Mạng, chúng ta xin nguyện thành người dân chân chính.” Tôi nghĩ lúc này quả là quá sớm để có những nịnh hót như thế, nhưng tôi không muốn phê b́nh ai hết bởi mỗi người có một cách sống riêng trong trại cải tạo.
Nhiều người cho rằng tại sao trại viên không chịu giữ một thái độ hiên ngang trong trại cải tạo bằng cách chống lại những người Cộng Sản, nhưng họ có biết rằng chúng ta đă không c̣n một chính quyền, không c̣n đất nước, không có hậu thuẩn; chúng ta không có ǵ cả ngoài cái mạng sống, mà chính nó cũng không c̣n tùy thuộc vào chúng ta nữa, vậy th́ chúng ta làm được ǵ? Tôi cũng nghĩ rằng tôi không thể làm được ǵ trong hoàn cảnh ấy, không thể trốn đi đâu được. Mọi sự chống đối đều dẫn đến cái chết; mọi sự nịnh bợ là những điều vô sĩ. Làm anh hùng trong hoàn cảnh ấy cũng là điều vô ích, do đó có lẽ tôi đă chọn cách “nín thở qua sông” để mà sống trong hoàn cảnh ấy mà thôi! Tôi cũng chẳng cần ai phê b́nh là ḿnh hèn nhát. Điều mà tôi đă suy nghĩ là làm sao tôi có thể sống sót được để gặp lại gia đ́nh mà không quá hèn đến nỗi bán rẻ linh hồn.
Tiếp theo bản nhạc của Vũ thành An là vài bản nhạc của những trại viên khác như Đèo Chánh Mun ở khối 1, và Bạch Văn Nghĩa ở khối 3; tôi vẫn nhớ vài câu trong bản nhạc ấy: “Học tập hăng say anh em ơi, đem t́nh thương làm ṿng tay nối, quyết dựng ngày mai với niềm vui...”
Tôi không biết phong trào sáng tác nhạc này là do sự thúc đẩy của tâm hồn hay là do sự nịnh hót, nhưng quả thật đó là lúc mà có nhiều nhạc phẫm sáng tác bởi trại viên hơn bất cứ lúc nào khác. Tôi đoán có lẽ v́ lúc ấy chúng tôi chưa bị lao động, và thêm vào đó ai cũng hy vọng sẽ được thả về sau 1 tháng cải tạo như “chính sách của Đảng và Nhà Nước” quy định! Tôi rất tiếc đă không có tài năng sáng tác nên đành phải học những bản nhạc ấy vậy.
Việc tập hát đă diễn ra mỗi tối trước khi đi ngủ. Một vài trại viên có khả năng ca hát đă trở thành những “quản ca” để dạy các trại viên khác từng câu một trong bài ca. Trại viên trong pḥng giam đă phải lập lại từng câu tiếp theo “quản ca”. Sau khi tập hết bài ca, từng trại viên một lại phải thay phiên nhau ca cả bài ca. Bằng cách ấy, không ai có thể tránh không hát, và mọi người đều thuộc ḷng từng bài ca một. Đó cũng là lư do tại sao tôi lại thuộc vài đoạn của những bài ca ấy cho đến bây giờ.
Có một bài ca về “Giặc Mỹ” đă trở thành một điều diễu cợt v́ nó có một câu là: “Than ôi Abrams đă bí nên bi”. Lúc đó chúng tôi thường được cho ăn một thứ canh bí đỏ nấu với đậu phọng, và trại viên đă đặt tên cho loại canh đó là canh Abrams! Người Việt chúng ta thường hay t́m ra được cách để diểu cợt cho dù trong hoàn cảnh bi đát đi nữa! Tôi cũng muốn nói ở đây là tướng Abrams của Mỹ là người đă có sáng kiến thiết lập 1 ṿng đai chiến lược để ngăn chặn Cộng Sản tràn xuống Nam Việt Nam.
Sau hai ngày học ca nhạc “cách mạng”, ban giám thị trại đă buộc chúng tôi phải tiếp tục như thế cho hết thời gian ở trại cải tạo Long Thành. Tôi không thể nhớ có bao nhiêu bản nhạc mà chúng tôi đă phải học thuộc trong thời gian này. Vài bản mà tôi vẫn nhớ từng đoạn cho đến giờ như “Sài G̣n quật khởi”, “Vàm cỏ Đông”, “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”, vân vân. Khi Việt Nam thống nhất, chúng tôi không được hát bản “Giải phóng miền Nam” nữa mà phải hát bài “Tiến Quân Ca”, bài quốc ca của Bắc Việt. Nhưng bản nhạc “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng” là bản nhạc mà chúng tôi đă phải hát mọi nơi mọi lúc ở mọi trại giam. Khi lên hội trường, khi bắt đầu hay chấm dứt một việc ǵ, đặc biệt là trước khi chấm dứt cuộc họp để đi ngủ, chúng tôi đều phải hát bản nhạc ấy, do đó nhiều trại viên gọi đó là bài ca “tạm biệt”. Đôi khi đi cầu, tôi đă nghe vài trại viên trẻ đổi lời của bài ca thành “như có con ḍi trong cầu tiêu của trại cải tạo”. Quả là một hành động liều lĩnh bởi v́ trong trại lúc nào cũng có những phần tử gọi là “ăn ten” báo cáo lên cán bộ mọi điều mà chúng nghe thấy, và chúng tôi đă được báo cho biết nói xấu Hồ là một trọng tội.
Bài ca “Tự Nguyện” là bài ca duy nhất của một sinh viên miền Nam mà chúng tôi được ca trong thời gian này. Chúng tôi cũng hơi ngạc nhiên v́ hầu hết chúng tôi đă biết bản nhạc ấy trong thời gian mà Sinh Viên Sài G̣n xuống đường đ̣i ḥa b́nh cho Việt Nam. Tôi vẫn nhớ những câu của bài ca:
“Nếu là chim tôi sẽ làm loài bồ câu trắng”
“Nếu là hoa tôi sẽ là một đóa hướng dương”
“Nếu là mây tôi sẽ làm một vầng mây ấm”
“Nếu là người tôi sẽ chết cho quê hương”
Một cán bộ đă giải thích rằng lời ca đó được trích từ một bài thơ của Hồ Chí Minh. Tôi không biết điều đó có đúng không, nhưng tôi nghĩ mọi cái đều là của Hồ! Sự tôn sùng lănh tụ là điều mà tất cả Cộng Sản thế giới đều làm chứ không riêng ǵ VC.
Bài học thứ hai, “Lũ Ngụy Quyền là bọn tay sai” được dạy trong 2 buổi sáng, nhưng phải thảo luận suốt một tuần lể. Sau 2 buổi chiều thảo luận, hầu hết là thú nhận tội lỗi và hứa sẽ sửa đổi, chúng tôi phải làm một bản sơ đồ tổ chức của Phủ Trung Ương T́nh Báo. Điệp, họa sĩ của ban A17 và tôi được mọi người cử ra để vẽ sơ đồ. Tài liệu th́ được cung cấp bởi những sếp cũ của chúng tôi như Lộc, đặc ủy trưởng, Thúy, trưởng ban R (ban nghiên cứu), Phong, trưởng ban Z (ban nội chính), Lương, trưởng ban A10 (ban tổng hợp tin tức), Trang, trưởng ban A8, Cang, cựu đặc ủy trưởng, Quân, trưởng ban Y (ban yểm trợ) vân vân. Điều buồn cười mà tôi thấy là toàn bộ Cơ Quan T́nh Báo, đầu năo của quốc gia đều nằm trong trại cải tạo và đang cung cấp tất cả mọi điều về cơ quan cho Cộng Sản. Sau này, Lộc và Thúy đă chết tại trại Nam Hà sau thời gian đi thẩm vấn tại trại Hỏa Ḷ, Hà Nội.
Trong khi Điệp và tôi vẽ sơ đồ tổ chức của Phủ th́ những người khác phải viết bản tự khai đầu tiên. Những cán bộ của trại đến từng pḥng giam hàng ngày khuyến khích rằng ai viết thành thật những tội lỗi của ḿnh th́ sẽ được hưởng lượng khoan hồng của Đảng và Nhà nước. Một điều khôi hài khác lại xảy ra là có những trại viên không thể nhớ được những điều ḿnh đă làm trước đây, họ phải đi hỏi lại những người đă làm chung công việc ấy rồi viết vào để mong rằng ḿnh sẽ được tha ra khỏi trại sớm như lời hứa của cán bộ.
Cũng trong lúc ấy, những người giữ chức vụ cao của cơ quan lại di chuyển qua trại Thủ Đức. Hầu hết những người đang cung cấp tài liệu để chúng tôi vẽ lại sơ đồ tổ chức của cơ quan đều chuyển đi, do đó Điệp và tôi đă phải ngưng làm công việc ấy và trở lại làm bản tự khai như mọi người khác. Tôi suy nghĩ hầu hết tài liệu đă bỏ lại trong cơ quan, và mọi người đều đă khai báo hết mọi cái rồi. Tôi đành phải viết những điều mà tôi đă làm và nêu tên những người mà tôi thấy trong trại cũng như những người mà tôi chắc rằng đă trốn khỏi đất nước như những cộng tác viên. Tôi đă tránh không khai cho những người mà tôi không thấy trong trại và không biết chắc về t́nh trạng của họ. Tôi nghĩ thế nào VC cũng hỏi lại những điều khai báo này nên tôi đă viết thêm 1 bản phụ để giử riêng.
Trong những ngày viết bản tự khai, chúng tôi được cho ăn một ít thịt, điều mà VC gọi là “bồi dưỡng” cho chúng tôi trong lúc chúng tôi “động năo”! Nhiều danh từ mà tôi chưa từng nghe trong ngôn ngữ của Việt Nam. Khi chúng tôi có một ít thịt trong bửa ăn th́ họ bảo rằng chúng tôi được “ăn tươi”. Khi chúng tôi trồng được ít rau để ăn thêm th́ chúng bảo rằng chúng tôi “cải thiện”. Khi họ bắt chúng tôi đi lao động trong ngày Chúa Nhật th́ họ gọi là “lao động Xă Hội Chủ Nghĩa”!
Ngày Chúa Nhật hôm ấy, lần đầu tiên chúng tôi phải đi lao động Xă Hội Chủ Nghĩa từ sáng sớm đến trưa. Ai có cuốc th́ phải sửa lại con đường chính từ cổng đến dăy nhà cuối cùng: đào mương dọc 2 bên đường và lấy đất đấp thêm lên con đường. Những người không có cuốc th́ dùng tay không mà nhổ cỏ và dọn dẹp vệ sinh trong khu trại và khu cơ quan.
Khi ở trong trại th́ mỗi người đều mang trong ḿnh một suy nghĩ riêng, nhưng tôi nghĩ rằng cái ư nghĩ chung nhất của mọi người là những suy tư về gia đ́nh và sự mong đợi ngày về. Mọi diễn biến đều được diễn dịch theo những điều hoặc là thuận lợi hay bất lợi đối với những mong mơi ấy. Khi “Ban Giám thị trại” cung cấp ván cho chúng tôi làm sạp nằm th́ vài người đă cho rằng chắc là chúng tôi phải ở đây lâu hơn là một tháng. Nhiều người c̣n cho rằng chúng tôi phải cải tạo ít nhất là sáu tháng khi nghe cán bộ bảo chúng tôi phải trồng khoai ḿ bởi v́ khoai ḿ muốn có củ th́ phải trồng ít nhất 6 tháng. Những điều phát biểu này đă tới tai các cán bộ, và họ đă đến từng buồng giam để trấn an chúng tôi rằng “chính sách của Đảng và Nhà Nước” trước sau như một, ai đạt được nhiều tiến bộ trong cải tạo sẽ được về sớm. Cách giải thích này tôi được nghe lập đi lập lại nhiều lần ở nhiều trại khác nhau. Tôi nghĩ đó là những ǵ mà các cán bộ đă học tập khi nói chuyện với trại viên.
Những bận rộn hàng ngày như lên lớp, thảo luận, và tranh đấu với cuộc sống đă giúp tôi ít suy nghĩ đến gia đ́nh, nhưng khi chui vào mùng, tất cả lại hiện ra một cách rỏ ràng trong óc tôi. Đặc biệt là đứa con c̣n trong bụng, nó là trai hay gái, và vợ tôi ra sao khi cô ấy sanh nở, những điều này luôn xâm chiếm lấy tâm hồn tôi. Tôi đă cố thử viết ra những ư tưởng này, nhưng không thành công v́ tôi chưa hề quen với việc viết nhật kư. Đêm trong trại cải tạo rất dài. V́ chưa hề ngủ dưới đất, do đó lúc đầu tôi rất khó vỗ giấc ngủ, nhưng rồi tôi đă cố gắng bằng cách thở thật sâu và đếm từ 1 đến 100 rồi lại tiếp tục lại như vậy. Sau khoảng 4 đêm, tôi bắt đầu quen với việc ấy và có thể ngủ dễ dàng mỗi khi chui vào mùng. Thêm vào đó, tôi cố làm việc bận rộn suốt ngày. Nếu không làm những việc mà họ bảo làm th́ tôi đi tưới những luống khoai của riêng tôi, đi lấy nước xài, hay làm những công việc riêng. Sau khi buổi họp tổ chấm dứt chui vào chỗ nằm, tôi cảm thấy mệt mơi và ch́m vào giấc ngủ một cách dể dàng. Tôi biết rằng giấc ngủ sẽ rất cần thiết cho tôi trong trại, và cố gắng không suy nghĩ ǵ nữa mỗi khi chui vào mùng. Tôi đă giữ được thói quen này suốt gần 17 năm trong các trại cải tạo và chính nhờ vậy mà tôi đă vượt qua được những khó khăn gặp phải.
Việc di chuyển một số trại viên qua trại Thủ Đức đă xăy ra và Linh, chồng của chị vợ tôi cũng đi sang đó. Tôi nghe nói trại Thủ Đức nguyên là trại giam nữ can phạm trước đây. Chị vợ tôi là Lan vẫn ở lại trại Long Thành, do đó hàng ngày tôi vẫn thường đến để giúp chị ấy. Tôi nghĩ rằng cuộc sống của phụ nữ ở trong trại có phần khó khăn hơn nam giới, do đó tôi thường dành cho chị ấy những thuận lợi hơn của chính tôi, đặc biệt là nước xử dụng hàng ngày. Mỗi khi đến pḥng giam dành cho nữ, tôi thường gặp những người bạn của vợ tôi; họ cũng thường hỏi tôi có biết ǵ về vợ tôi và đứa con không. Điều này thường làm tôi rất lúng túng mỗi khi trả lời. Tuy nhiên tôi có thể nói được ǵ ngoài chử “không”!
Vợ và con tôi ra sao? Câu hỏi này luôn lởn vởn trong đầu óc tôi. Tôi vẫn nhớ lúc tôi chở vợ tôi vào pḥng cấp cứu khi cô ấy sẩy thai lần đầu và ngồi bên ngoài chờ đợi. Tôi không nghe tiếng rên siết nào của vợ tôi, và sau đó mấy ngày, cô ấy đă kể lại rằng cô ấy đă cố nín chịu đau v́ không muốn tôi lo lắng cho cô ấy. Tôi không biết cô ấy sẽ làm sao đây khi tôi không có ở gần bên để lo cho cô ấy lúc sinh nở. Tôi cảm thấy tội nghiệp cho vợ tôi rồi lại nghĩ đến một câu ca dao của Việt Nam rằng: “Người ta đi biển có đôi, c̣n tôi đi biển mồ côi một ḿnh.”
Sau bài học thứ hai, chúng tôi đợi những bài học kế tiếp, nhưng vẫn không thấy ǵ xảy ra trong suốt 1 tuần lễ. Trại viên bắt đầu lo lắng v́ mọi người đều mong chấm dứt 10 bài học tập để c̣n được trở về với gia đ́nh! Chúng tôi đều nghĩ rằng chúng tôi không thể tin vào một tháng cải tạo, nhưng làm thế nào sống mà không có chút hy vọng? Tôi nghĩ rằng Ban Giám Thị trại biết điều này nên họ cho các cán bộ đến từng buồng giam và nói rằng họ đang đợi những cán bộ từ Hà Nội vào để dạy chúng tôi những bài học c̣n lại.
Những tin đồn về 1 cuộc di chuyển nữa sẽ xảy ra sau khi một số trại viên được di chuyển sang trại Thủ Đức. Tối thứ bảy ấy, trại viên được đi xem phim ngoài trời. Trước khi chiếu phim, trưởng trại Hai Côn nói rằng chúng tôi sẽ không đi đâu nữa hết mà phải cố gắng để cải tạo ngỏ hầu hưởng lượng khoan hồng của Đảng và Nhà Nước. Ban Giám Thị và các cán bộ ở trung ương đang nghiên cứu các bản tự khai của trại viên và sẽ hỏi một vài điều trong các bản tự khai ấy trước khi tiếp tục chương tŕnh học tập.
Phim chiếu tối hôm ấy nói về trận chiến Điện Biên Phủ và nêu gương những người anh hùng đă dùng thân ḿnh để chặn những khẩu đại pháo bị đứt dây lăn xuống triền dốc hay những người đă dùng thân ḿnh lấp lỗ châu mai trong trận chiến. Chiến thắng Điện Biên Phủ là một niềm kiêu hảnh của VC, nhưng trong phim tôi lại thấy rằng người dân Việt Nam đă là những người hy sinh quá nhiều cho chiến thắng ấy. Chỉ với sức lao động, người dân Việt đă phải chống lại với máy móc và phi cơ của Thực Dân Pháp. Họ không phải là Cộng Sản, họ chỉ là những người dân thường với ḷng yêu nước. Cộng Sản đă lợi dụng ḷng ái quốc của nhân dân để nắm chính quyền rồi lại nói rằng “yêu nước là yêu Chủ Nghĩa Xă Hội!” Thật là một sự liên kết kỳ cục! Những điều mà họ nói như: “Với bàn tay ta làm nên tất cả, có sức người sỏi đá cũng thành cơm” hay “Nơi nào cần thanh niên có, nơi nào khó có thanh niên” chỉ là những chiêu bài để lợi dụng sức lao động của nhân dân. Người dân miền Bắc đă bị lợi dụng trên 30 năm trường, và bây giờ là đến phiên người dân miền Nam. Lao động Xă Hội Chủ Nghĩa có ǵ khác hơn là làm việc không công.
Hôm sau, thay v́ đi lao động Xă Hội Chủ Nghĩa, chúng tôi phải thảo luận cuốn phim và so sánh chiến thắng của trận đánh Điện Biên Phủ với chiến thắng của cái gọi là “Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử” để giải phóng miền Nam Việt Nam ngày 30 tháng 4 năm 1975. Dưới sự điều khiển của cán bộ, buổi thảo luận sau đó đă biến thành dịp để chúng tôi thú nhận những tội lỗi mà chúng tôi đă làm trong việc ngăn cản tiến tŕnh của chiến dịch ấy. Thật là một việc buồn cười! Nhưng tôi chợt biết rằng mọi việc xảy ra trong trại cải tạo đều phải theo cách ấy mà thôi, và tôi phải chấp nhận điều này không cần suy nghĩ. Thái độ của tôi sẽ là nói càng ít càng tốt, tôi tự nhủ như vậy trong khi nghĩ tới một câu chuyện ngụ ngôn mà tôi học được lúc c̣n bé ở trường tiểu học. Chúng ta chỉ có một cái miệng mà phải làm hai công việc là ăn và nói, trong khi lại có tới hai lổ tai chỉ để nghe mà thôi. Tại sao chúng ta không nói ít mà nghe nhiều; đừng để cái miệng làm việc quá sức nó.
Trại viên toàn trại rất lo lắng về một trại viên trong khối một bị chuyển đi. Các cán bộ giải thích rằng trại viên ấy đă có “nợ máu” với nhân dân trong vùng mà anh ấy hoạt động trước đây, do đó anh ấy phải ra trước “ṭa án nhân dân” trước khi đến một trại cải tạo khác. Chúng tôi không biết ǵ về t́nh trạng của anh ta sau này, nhưng chúng tôi lại không xa lạ ǵ với cái gọi là “ṭa án nhân dân” của VC kể từ giai đoạn “cải cách ruộng đất” sau khi Cộng Sản chiếm miền Bắc Việt Nam 1954. Mọi việc đều diễn ra theo một tŕnh tự mà Cộng Sản muốn. Trong lúc đó, họ cũng cho chúng tôi biết rằng chúng tôi được giữ trong trại chính là để được bảo vệ bởi v́ nhân dân rất là giận dữ về những tội ác mà chúng tôi đă làm để ngăn cản tiến tŕnh giải phóng nhân dân! Thật cảm ơn cho sự tốt đẹp của “cách mạng”; chúng tôi đang được kẻ thù bảo vệ và đang được hưởng sự khoan hồng của Đảng và Nhà Nước. Quá nhiều những danh từ được dùng để che dấu cho một hành động trả thù. Tôi nhớ lại một bài hát của Phạm Duy, một nhạc sĩ nỗi tiếng của miền Nam Việt Nam, trong đó có dùng một từ “một rỗ danh từ”, và cũng nhớ một thành ngử Việt Nam “mật miệng gươm ḷng” để áp dụng cho những người dùng lời nói tốt đẹp để che đậy những ư đồ xấu xa. Tôi nghĩ tôi có thể dùng những điều này cùng với câu nói của Nguyễn Văn Thiệu rằng “đừng nghe những ǵ Cộng Sản nói mà hăy nh́n kỹ những ǵ Cộng Sản làm” để làm phương châm cho cuộc sống của tôi trong những ngày sắp tới trong trại cải tạo.
Kinh nghiệm sống trong trại cải tạo đă đến với tôi từng bước một. Tôi không biết tôi có thể sống cho đến lúc rời trại được không, nhưng tôi nghĩ rằng tôi sẽ cố gắng với tất cả khả năng của tôi. Tôi cũng hiểu được rằng mọi sự thất vọng đều sẽ dẫn đến sự thất bại không cứu văn nổi.
Lư Muối Liềm, một nữ thiếu tá cảnh sát của Nam Việt Nam là người đầu tiên được tha ra khỏi trại để điều hành trung tâm điện toán ở bộ chỉ huy cảnh sát. Sự di chuyển của một số cấp cao sang trại Thủ Đức diễn ra tiếp theo, và rồi một trại viên được đưa ra ṭa án nhân dân. Điều ǵ sẽ xảy ra tiếp theo cho chúng tôi, những người c̣n lại? Chúng tôi tất cả đều sống trong sự lo lắng, nhưng chúng tôi không biết phải làm ǵ ngoài việc chờ đợi mọi việc diễn ra không có cách ǵ cưỡng lại được.