Gibbs
02-07-2022, 01:52
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1998737&stc=1&d=1644198697
Đây là một bài báo rất cảm động đăng trên The Washington Post (ngày 03/02/2022), viết về một sư cô người Việt ở Nhật Bản đă giúp đỡ những lao động Việt Nam ở nước này đang gặp khó khăn trong đại dịch cúm Tàu suốt 2 năm qua.
Dưới đây là bản dịch:
Trong một góc thiếu sáng bên cạnh bàn thờ ở Daionji (Đại Ân tự) là những tấm bài vị bằng gỗ ghi tên những người Việt Nam nhập cư [vào Nhật Bản] vừa qua đời, cùng với ngày sinh và năm mất, tuổi và pháp danh của họ.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1998743&stc=1&d=1644198829
Những tấm bài vị này tượng trưng cho những người nhập cư từ Việt Nam sang Nhật Bản với lời hứa về việc làm hoặc học hành. Nhưng họ đă chết trong đơn độc, thường là sau khi trở thành người vô gia cư, không việc làm hoặc bỏ trốn. Họ không có người thân yêu để chăm sóc cho hài cốt của họ - ngoại trừ một sư cô người Việt Nam: Thích Tâm Trí.
Ngôi chùa 43 năm tuổi này là điểm dừng chân lư tưởng cho những người Việt Nam nhập cư đang phải vật lộn để t́m nhà ở Nhật Bản và lấp đầy lỗ hổng trong mạng lưới an toàn xă hội của nền kinh tế lớn thứ ba thế giới. Cộng đồng người Việt Nam đă tăng gấp 10 lần trong thập kỷ qua và chiếm tỷ trọng lao động nước ngoài lớn nhất trong nước, nhưng những người nhập cư này vẫn bị chính phủ coi thường, vốn sống dựa vào sức lao động của họ và thường bị các công ty thuê họ bóc lột.
“Là một nữ tu sĩ, nỗ lực của tôi không dựa trên động cơ chính trị hay muốn chỉ trích một hệ thống, mà chỉ đơn giản là từ quan điểm nhân đạo,” sư cô Thích Tâm Trí nói. “Nếu có ai đó ở ngoài kia cần tôi giúp đỡ, th́ tôi muốn giúp họ một cách tự nguyện, và tôi rất vui. Ngôi chùa của chúng tôi không có cổng, và luôn cửa mở cho tất cả mọi người”.
Đại dịch cúm Tàu đă làm trầm trọng thêm sự cô lập của những công nhân này, và để đáp ứng nhu cầu quá lớn, sư cô Thích Tâm Trí đă mở một địa điểm mới vào tháng 11/2021. Kể từ tháng 4/2020, cô đă chuyển hơn 60.000 gói thực phẩm và cứu trợ cho người Việt Nam nhập cư vào Nhật Bản đang gặp khó khăn trong đại dịch.
Lực lượng lao động của Nhật Bản đang thu hẹp khi dân số già đi, buộc đất nước này phải mở rộng đáng kể, điều mà trước đây không thể tưởng tượng được, trong một xă hội phần lớn đồng nhất, nơi người nước ngoài chiếm khoảng 2% dân số - lao động nhập cư. Trong số các chương tŕnh trọng điểm là Chương tŕnh đào tạo thực tập sinh kỹ thuật, chủ yếu cho các nghề sản xuất, nông nghiệp và ngư nghiệp ở nông thôn.
Những công việc này rất quan trọng đối với nền kinh tế của đất nước nhưng không hấp dẫn đối với những người Nhật Bản trẻ tuổi, những người ngày càng đổ xô đến các thành phố lớn để t́m những công việc được trả lương cao hơn.
Tuy nhiên, trong thập kỷ qua, đă có những lo ngại về thực tiễn việc làm của chương tŕnh và về các lỗ hổng quy định chưa được giải quyết đầy đủ. Chương tŕnh, ban đầu được thiết kế để chuyển giao kỹ năng kỹ thuật cho người lao động từ các nước đang phát triển, đă nhiều lần được nêu tên trong báo cáo buôn bán người hàng năm của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, trong đó nêu lên những lo ngại về các hoạt động cưỡng bức lao động cũng như điều kiện sống và làm việc kém.
Shoichi Ibusuki, một luật sư nhân quyền tại Tokyo và là nhà vận động lâu năm cho người lao động nước ngoài tại Nhật Bản cho biết: “Chương tŕnh đào tạo thực tập sinh kỹ thuật không trở nên tồi tệ mà chỉ đơn giản là tồi tệ trong suốt 30 năm. “Đă có một số biện pháp được thực hiện dẫn đến những thay đổi nhỏ, nhưng vẫn luôn có những kẽ hở xung quanh nó, bởi v́ về cơ bản hệ thống vẫn chưa được thay đổi”.
Người Việt Nam chiếm 1/4 trong tổng số 1,7 triệu lao động nước ngoài ở Nhật Bản tính đến tháng 10/2020. Họ chiếm khoảng 57% trong số 354.104 lao động trong chương tŕnh thực tập sinh.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1998738&stc=1&d=1644198697
Chương tŕnh này đă bị bắt đầu trong những tuần gần đây sau khi một video lan truyền trên mạng về một công nhân Việt Nam dường như đă bị đồng nghiệp Nhật Bản đánh đập. Trong clip do công đoàn đại diện cho người lao động tung ra, người quay có thể nghe thấy tiếng cười [của những người đang đánh đập công nhân Việt Nam].
Vào tháng 1/2022, Bộ trưởng Tư pháp Nhật Bản Yoshihisa Furukawa đă ra lệnh điều tra vụ việc và xem xét lại toàn bộ chương tŕnh để đáp lại những chỉ trích gần đây. Luật sư Ibusuki cho biết ông ấy hy vọng việc xem xét sẽ tạo động lực cho sự thay đổi lâu dài.
“Tôi hy vọng rằng những thay đổi thực sự sẽ diễn ra khi quyền con người của người lao động nước ngoài đang được ưu tiên và đó sẽ không phải là một chương tŕnh mới được tŕnh bày dưới dạng ngụy tạo,” ông nói.
* “TÔI MUỐN THÀNH TÂM GIÚP ĐỠ HỌ”
Sư cô Thích Tâm Trí là con gái của một bà mẹ đơn thân, đă đi tu từ nhỏ, lớn lên ở làng quê Gia Lai, miền Trung Việt Nam trước khi sang Nhật Bản vào khoảng năm 2000 để học Phật pháp. Nhưng thảm họa kinh hoàng năm 2011 gồm động đất, sóng thần và sự cố nhà máy điện hạt nhân đă thôi thúc sư cô Thích Tâm Trí lưu lại đây và phục vụ cộng đồng.
Trong những năm qua, Đại sứ quán Việt Nam, các hăng hàng không Việt Nam và các thành viên của cộng đồng 440.000 người Việt Nam ở Nhật Bản đều t́m kiếm sự hỗ trợ từ sư cô Thích Tâm Trí.
Điện thoại của cô hiếm khi ngừng đổ chuông và liên tục đổ chuông với các cuộc gọi, tin nhắn, email và tin nhắn Facebook từ những người đang t́m kiếm sự giúp đỡ của cô. Sư cô Thích Tâm Trí, người nói tiếng Nhật lưu loát, đă giúp người nhập cư vượt qua rào cản ngôn ngữ và văn hóa.
Sư cô đă thương lượng các hóa đơn viện phí cho người lao động, số tiền này rất đắt v́ những người lao động nhập cư ở Nhật Bản không có bảo hiểm của công ty [thuê mướn họ]. Khi các công ty tịch thu hộ chiếu của người lao động, cô ấy sẽ giúp họ khai báo họ bị mất để làm lại hộ chiếu mới. Cô ấy tổ chức các chuyến đi miễn phí cho người nhập cư ra sân bay để họ trở về Việt Nam.
Ở Nhật Bản, những bi kịch liên tiếp đă tạo cơ hội cho những lời kêu gọi thúc đẩy các nguồn lực dành cho sức khỏe tâm thần và giáo dục [của người lao động] vốn bị lăng quên.
Đại dịch cúm Tàu đă làm cho sư cô càng bận rộn hơn, giúp đỡ những người bị mất việc làm hoặc đang bỏ trốn, do họ không thể hiểu được các quy tắc về biên giới và nhập cư, hoặc đang phải vật lộn để mua khẩu trang chống dịch. Sư cô đă giúp đỡ hàng chục công nhân bằng cách thuê học làm việc tại ngôi chùa của ḿnh, khi họ không thể trở về Việt Nam.
“Là một người Việt Nam, tôi muốn giúp đỡ những người Việt Nam tại Nhật Bản. Nếu tôi không giúp họ, họ sẽ không có giấy tờ tùy thân và rơi vào hoàn cảnh khó khăn, và với những người ngoài kia như vậy, bản thân tôi cũng không thể hạnh phúc được”, sư cô nói.
Suốt ngày, sinh viên Việt Nam và những người dân Nhật Bản gần đó đến để cầu nguyện trước bàn thờ và nói chuyện với cô và nhân viên của cô. Daionji (Đại Ân tự) trong tiếng Nhật có nghĩa là “Ngôi chùa của ân sủng và ḷng biết ơn vĩ đại” - nằm ở đầu con đường uốn quanh những ngôi nhà và cánh đồng nông trại ở tỉnh Saitama, phía bắc Tokyo. Ngôi chùa thường xuyên lạnh giá vào mùa đông, v́ vậy mỗi ni cô phải mặc ít nhất ba lớp quần áo ngay cả khi bật máy sưởi.
Sư cô Thích Tâm Trí đặc biệt tâm niệm phải dành cho những người đă khuất một lời tạm biệt đúng nghĩa, đầy t́nh yêu thương. Sư cô làm việc với cảnh sát để xác định danh tính thi thể của những người Việt Nam qua đời một ḿnh, đồng thời thu xếp tang lễ, hỏa táng và vận chuyển tro cốt của họ về gia đ́nh ở Việt Nam.
“Tôi có được vị trí ngày hôm nay là nhờ kinh nghiệm và sự học hỏi của tôi ở Nhật Bản, v́ vậy tôi thực sự yêu Nhật Bản,” cô nói. “Tôi muốn nhiệt t́nh giúp đỡ họ trong chuyến hành tŕnh cuối cùng tại Nhật Bản, để họ trút bỏ nỗi uất hận và trở về Việt Nam với cảm giác tích cực hơn.”
* THIẾU HỤT HỆ THỐNG
Đặng Tùng Lâm, 28 tuổi, đến Nhật Bản vào năm 2017 để làm việc tại một công ty sản xuất ở Fukuoka, phía tây nam nước này. Anh mơ ước sẽ làm việc chăm chỉ trong chương tŕnh thực tập sinh ba năm, tiết kiệm tiền, học tiếng Nhật và trở về Việt Nam làm việc cho một công ty Nhật Bản với mức lương cao hơn.
Nhưng trên thực tế, Lâm chỉ kéo dài được bốn tháng. Anh ta kiếm được khoảng 863 đô la một tháng - một phần trong số đó anh ta gửi về nhà để hỗ trợ gia đ́nh - trong khi bị các đồng nghiệp Nhật Bản và sếp của anh ta bắt nạt hàng ngày, Lâm nói. Công ty đă thu giữ hộ chiếu của Lâm và anh ấy không thể rời khỏi Nhật Bản. Anh ấy đă bỏ trốn và chuyển sang làm công việc dọn dẹp bán thời gian và công việc lao động chân tay như một công nhân không có giấy tờ tùy thân.
Lâm nói: “Nếu chỉ là yêu cầu về lao động, người Việt Nam có thể kiên tŕ… nhưng đó là sự bắt nạt mà chúng tôi không thể chịu đựng được”.
Lâm trở nên khó t́m việc hơn trong trận đại dịch, v́ vậy năm ngoái, anh đă chuyển đến Daionji. Tại đây, anh đă có được thị thực để ở lại Nhật Bản, một công việc mới và một hộ chiếu mới để một ngày nào đó anh có thể về nước và theo đuổi ước mơ mở một nhà hàng Nhật Bản tại Việt Nam.
Nhiều người lao động như Lâm bị ràng buộc về tài chính và pháp lư khi sang Nhật. Họ thường mắc nợ v́ phải trả tiền cho công ty môi giới lao động ở Việt Nam. Hộ chiếu và điện thoại di động của họ thường xuyên bị tịch thu, những người cùng cảnh ngộ với Lâm cho biết. Theo yêu cầu của chương tŕnh, họ phải duy tŕ công việc tương tự trong 3 đến 5 năm và không thể chuyển sang công ty mới, ngay cả khi họ phải đối mặt với các sự hiếp đáp trong công việc hoặc điều kiện làm việc bất hợp pháp.
Trong số 8.124 công ty thuê mướn lao động nước ngoài làm việc, có 70,8% công ty được xác nhận là đă vi phạm luật lao động, bao gồm các vấn đề về an toàn, thanh toán tiền lương và thời gian làm việc quá mức, theo một báo cáo kiểm tra của Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi Nhật Bản vào năm 2020.
Yoshihisa Saito, phó giáo sư tại Đại học Kobe và là nhà vận động lâu năm cho các lao động nước ngoài tại Nhật Bản, cho biết những công ty [sử dụng lao động nước ngoài] nói trên được giám sát bởi một cơ quan chính phủ, đó là Tổ chức Đào tạo Thực tập sinh Kỹ thuật, nhưng vấn đề là người lao động được thuê bởi các công ty cung cấp không được cấp phép.
Trong khi đó, v́ các vấn đề chính trị, Nhật Bản thường im lặng trong việc này. Tổ chức Đào tạo Thực tập sinh Kỹ thuật đă từ chối trả lời các câu hỏi, nhưng một đại diện của tổ chức này đă viện dẫn vào một hướng dẫn ở trang 591, nói rằng cơ quan quản lư hàng năm đối với các công ty đă đăng kư [tuyển dụng lao động nước ngoài nói trên] rằng các hướng dẫn đối với người lao động la do công ty quy định, và nếu công ty vi phạm th́ sẽ bị đóng cửa hoặc bị phạt.
Tuy nhiên, nếu không có kỹ năng ngôn ngữ chắc chắn, th́ các thực tập sinh khi gặp rắc rối sẽ rất khó khăn trong việc yêu cầu trợ giúp, hoặc họ lo sợ hậu quả [mất việc / bị trục xuất], Saito nói. Thậm chí có hai nữ thực tập sinh có thai cho biết họ rất sợ hăi sẽ bị mất việc làm trong chương tŕnh hợp tác đào tạo [thực chất là thuê mướn lao động từ Việt Nam] nếu công ty của họ phát hiện ra họ có thai.
Saito nói: “Một cách có hệ thống, công việc giáo dục và bộ lọc phù hợp thực sự cần phải được đưa ra, cũng như một cách an toàn để các thực tập sinh t́m kiếm sự giúp đỡ. Trong khi đó, [chùa] Daionji đă cung cấp một mạng lưới an toàn hiếm hoi, ông nói.
Sư cô Thích Tâm Trí đă giúp đỡ hàng chục ngh́n người trong những năm qua, nhưng một số câu chuyện mà cô kể lại cho biết cô cảm thấy ḿnh vẫn chưa thể làm đủ như mong muốn.
Một người là cựu tập sinh có hai con ở Việt Nam đă bỏ công việc ở công ty để làm một công việc khác mà không có giấy tờ tùy thân. Khi đại dịch xảy đến, cô ấy rất lo lắng về công việc, và muốn trở về nhà với các con của ḿnh. Sư cô Thích Tâm Trí đă thu xếp một chuyến xe đển đến đón cô ấy về chùa. Tuy nhiên hai ngày trước khi sư cô Tâm Trí cho xe đến đón, người phụ nữ nói trên đă bị chiếc ô tô tông phải và đă tử vong.
Sư cô Thích Tâm Trí đă lo liệu và tổ chức tang lễ cho người phụ nữ xấu số. Trong lúc thu dọn đồ đạc của người phụ nữ, sư cô t́m thấy một cuốn nhật kư. Trong đó là từng trang ghi lại những lời cầu nguyện của người phụ nữa cho các con của cô.
“Tôi thực sự cảm thấy hối tiếc v́ có thể mọi chuyện đă khác nếu tôi có thể giúp cô ấy sớm hơn”, Sư cô Thích Tâm Trí nói.
Việc bị cô lập mà người Việt Nam thường phải trải qua ở Nhật Bản là kết quả của sự va chạm văn hóa, khi họ là những người ngoại tộc trong một xă hội độc tôn sâu sắc, sư cô Thích Tâm Trí nói. Sư cô hy vọng những nỗ lực của ḿnh sẽ truyền cảm hứng cho công chúng Nhật Bản, giúp tạo ra một xă hội nơi người nước ngoài - những người đóng vai tṛ quan trọng đối với nền kinh tế của đất nước - được đón nhận.
Sư cô nói: “V́ dân số Nhật Bản đang ít đi và không có đủ lao động trẻ, nên Nhật Bản không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc dựa vào lao động nước ngoài. “Thực tập sinh nước ngoài có thể đóng góp rất lớn cho xă hội Nhật Bản về lâu dài, v́ vậy tôi muốn họ được trân trọng”.
Nguồn: The Washington Post
https://www.washingtonpost.c om/world/2022/02/03/japan-pandemic-vietnamese-migrants-nun/?fbclid=IwAR2VJ5_MSr 6YurlS5FfBFwzTvYn4Kt SoOzouUsx74reVU56_Nk 0TVgorpgg
Đây là một bài báo rất cảm động đăng trên The Washington Post (ngày 03/02/2022), viết về một sư cô người Việt ở Nhật Bản đă giúp đỡ những lao động Việt Nam ở nước này đang gặp khó khăn trong đại dịch cúm Tàu suốt 2 năm qua.
Dưới đây là bản dịch:
Trong một góc thiếu sáng bên cạnh bàn thờ ở Daionji (Đại Ân tự) là những tấm bài vị bằng gỗ ghi tên những người Việt Nam nhập cư [vào Nhật Bản] vừa qua đời, cùng với ngày sinh và năm mất, tuổi và pháp danh của họ.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1998743&stc=1&d=1644198829
Những tấm bài vị này tượng trưng cho những người nhập cư từ Việt Nam sang Nhật Bản với lời hứa về việc làm hoặc học hành. Nhưng họ đă chết trong đơn độc, thường là sau khi trở thành người vô gia cư, không việc làm hoặc bỏ trốn. Họ không có người thân yêu để chăm sóc cho hài cốt của họ - ngoại trừ một sư cô người Việt Nam: Thích Tâm Trí.
Ngôi chùa 43 năm tuổi này là điểm dừng chân lư tưởng cho những người Việt Nam nhập cư đang phải vật lộn để t́m nhà ở Nhật Bản và lấp đầy lỗ hổng trong mạng lưới an toàn xă hội của nền kinh tế lớn thứ ba thế giới. Cộng đồng người Việt Nam đă tăng gấp 10 lần trong thập kỷ qua và chiếm tỷ trọng lao động nước ngoài lớn nhất trong nước, nhưng những người nhập cư này vẫn bị chính phủ coi thường, vốn sống dựa vào sức lao động của họ và thường bị các công ty thuê họ bóc lột.
“Là một nữ tu sĩ, nỗ lực của tôi không dựa trên động cơ chính trị hay muốn chỉ trích một hệ thống, mà chỉ đơn giản là từ quan điểm nhân đạo,” sư cô Thích Tâm Trí nói. “Nếu có ai đó ở ngoài kia cần tôi giúp đỡ, th́ tôi muốn giúp họ một cách tự nguyện, và tôi rất vui. Ngôi chùa của chúng tôi không có cổng, và luôn cửa mở cho tất cả mọi người”.
Đại dịch cúm Tàu đă làm trầm trọng thêm sự cô lập của những công nhân này, và để đáp ứng nhu cầu quá lớn, sư cô Thích Tâm Trí đă mở một địa điểm mới vào tháng 11/2021. Kể từ tháng 4/2020, cô đă chuyển hơn 60.000 gói thực phẩm và cứu trợ cho người Việt Nam nhập cư vào Nhật Bản đang gặp khó khăn trong đại dịch.
Lực lượng lao động của Nhật Bản đang thu hẹp khi dân số già đi, buộc đất nước này phải mở rộng đáng kể, điều mà trước đây không thể tưởng tượng được, trong một xă hội phần lớn đồng nhất, nơi người nước ngoài chiếm khoảng 2% dân số - lao động nhập cư. Trong số các chương tŕnh trọng điểm là Chương tŕnh đào tạo thực tập sinh kỹ thuật, chủ yếu cho các nghề sản xuất, nông nghiệp và ngư nghiệp ở nông thôn.
Những công việc này rất quan trọng đối với nền kinh tế của đất nước nhưng không hấp dẫn đối với những người Nhật Bản trẻ tuổi, những người ngày càng đổ xô đến các thành phố lớn để t́m những công việc được trả lương cao hơn.
Tuy nhiên, trong thập kỷ qua, đă có những lo ngại về thực tiễn việc làm của chương tŕnh và về các lỗ hổng quy định chưa được giải quyết đầy đủ. Chương tŕnh, ban đầu được thiết kế để chuyển giao kỹ năng kỹ thuật cho người lao động từ các nước đang phát triển, đă nhiều lần được nêu tên trong báo cáo buôn bán người hàng năm của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, trong đó nêu lên những lo ngại về các hoạt động cưỡng bức lao động cũng như điều kiện sống và làm việc kém.
Shoichi Ibusuki, một luật sư nhân quyền tại Tokyo và là nhà vận động lâu năm cho người lao động nước ngoài tại Nhật Bản cho biết: “Chương tŕnh đào tạo thực tập sinh kỹ thuật không trở nên tồi tệ mà chỉ đơn giản là tồi tệ trong suốt 30 năm. “Đă có một số biện pháp được thực hiện dẫn đến những thay đổi nhỏ, nhưng vẫn luôn có những kẽ hở xung quanh nó, bởi v́ về cơ bản hệ thống vẫn chưa được thay đổi”.
Người Việt Nam chiếm 1/4 trong tổng số 1,7 triệu lao động nước ngoài ở Nhật Bản tính đến tháng 10/2020. Họ chiếm khoảng 57% trong số 354.104 lao động trong chương tŕnh thực tập sinh.
https://www.vietbf.com/forum/attachment.php?attac hmentid=1998738&stc=1&d=1644198697
Chương tŕnh này đă bị bắt đầu trong những tuần gần đây sau khi một video lan truyền trên mạng về một công nhân Việt Nam dường như đă bị đồng nghiệp Nhật Bản đánh đập. Trong clip do công đoàn đại diện cho người lao động tung ra, người quay có thể nghe thấy tiếng cười [của những người đang đánh đập công nhân Việt Nam].
Vào tháng 1/2022, Bộ trưởng Tư pháp Nhật Bản Yoshihisa Furukawa đă ra lệnh điều tra vụ việc và xem xét lại toàn bộ chương tŕnh để đáp lại những chỉ trích gần đây. Luật sư Ibusuki cho biết ông ấy hy vọng việc xem xét sẽ tạo động lực cho sự thay đổi lâu dài.
“Tôi hy vọng rằng những thay đổi thực sự sẽ diễn ra khi quyền con người của người lao động nước ngoài đang được ưu tiên và đó sẽ không phải là một chương tŕnh mới được tŕnh bày dưới dạng ngụy tạo,” ông nói.
* “TÔI MUỐN THÀNH TÂM GIÚP ĐỠ HỌ”
Sư cô Thích Tâm Trí là con gái của một bà mẹ đơn thân, đă đi tu từ nhỏ, lớn lên ở làng quê Gia Lai, miền Trung Việt Nam trước khi sang Nhật Bản vào khoảng năm 2000 để học Phật pháp. Nhưng thảm họa kinh hoàng năm 2011 gồm động đất, sóng thần và sự cố nhà máy điện hạt nhân đă thôi thúc sư cô Thích Tâm Trí lưu lại đây và phục vụ cộng đồng.
Trong những năm qua, Đại sứ quán Việt Nam, các hăng hàng không Việt Nam và các thành viên của cộng đồng 440.000 người Việt Nam ở Nhật Bản đều t́m kiếm sự hỗ trợ từ sư cô Thích Tâm Trí.
Điện thoại của cô hiếm khi ngừng đổ chuông và liên tục đổ chuông với các cuộc gọi, tin nhắn, email và tin nhắn Facebook từ những người đang t́m kiếm sự giúp đỡ của cô. Sư cô Thích Tâm Trí, người nói tiếng Nhật lưu loát, đă giúp người nhập cư vượt qua rào cản ngôn ngữ và văn hóa.
Sư cô đă thương lượng các hóa đơn viện phí cho người lao động, số tiền này rất đắt v́ những người lao động nhập cư ở Nhật Bản không có bảo hiểm của công ty [thuê mướn họ]. Khi các công ty tịch thu hộ chiếu của người lao động, cô ấy sẽ giúp họ khai báo họ bị mất để làm lại hộ chiếu mới. Cô ấy tổ chức các chuyến đi miễn phí cho người nhập cư ra sân bay để họ trở về Việt Nam.
Ở Nhật Bản, những bi kịch liên tiếp đă tạo cơ hội cho những lời kêu gọi thúc đẩy các nguồn lực dành cho sức khỏe tâm thần và giáo dục [của người lao động] vốn bị lăng quên.
Đại dịch cúm Tàu đă làm cho sư cô càng bận rộn hơn, giúp đỡ những người bị mất việc làm hoặc đang bỏ trốn, do họ không thể hiểu được các quy tắc về biên giới và nhập cư, hoặc đang phải vật lộn để mua khẩu trang chống dịch. Sư cô đă giúp đỡ hàng chục công nhân bằng cách thuê học làm việc tại ngôi chùa của ḿnh, khi họ không thể trở về Việt Nam.
“Là một người Việt Nam, tôi muốn giúp đỡ những người Việt Nam tại Nhật Bản. Nếu tôi không giúp họ, họ sẽ không có giấy tờ tùy thân và rơi vào hoàn cảnh khó khăn, và với những người ngoài kia như vậy, bản thân tôi cũng không thể hạnh phúc được”, sư cô nói.
Suốt ngày, sinh viên Việt Nam và những người dân Nhật Bản gần đó đến để cầu nguyện trước bàn thờ và nói chuyện với cô và nhân viên của cô. Daionji (Đại Ân tự) trong tiếng Nhật có nghĩa là “Ngôi chùa của ân sủng và ḷng biết ơn vĩ đại” - nằm ở đầu con đường uốn quanh những ngôi nhà và cánh đồng nông trại ở tỉnh Saitama, phía bắc Tokyo. Ngôi chùa thường xuyên lạnh giá vào mùa đông, v́ vậy mỗi ni cô phải mặc ít nhất ba lớp quần áo ngay cả khi bật máy sưởi.
Sư cô Thích Tâm Trí đặc biệt tâm niệm phải dành cho những người đă khuất một lời tạm biệt đúng nghĩa, đầy t́nh yêu thương. Sư cô làm việc với cảnh sát để xác định danh tính thi thể của những người Việt Nam qua đời một ḿnh, đồng thời thu xếp tang lễ, hỏa táng và vận chuyển tro cốt của họ về gia đ́nh ở Việt Nam.
“Tôi có được vị trí ngày hôm nay là nhờ kinh nghiệm và sự học hỏi của tôi ở Nhật Bản, v́ vậy tôi thực sự yêu Nhật Bản,” cô nói. “Tôi muốn nhiệt t́nh giúp đỡ họ trong chuyến hành tŕnh cuối cùng tại Nhật Bản, để họ trút bỏ nỗi uất hận và trở về Việt Nam với cảm giác tích cực hơn.”
* THIẾU HỤT HỆ THỐNG
Đặng Tùng Lâm, 28 tuổi, đến Nhật Bản vào năm 2017 để làm việc tại một công ty sản xuất ở Fukuoka, phía tây nam nước này. Anh mơ ước sẽ làm việc chăm chỉ trong chương tŕnh thực tập sinh ba năm, tiết kiệm tiền, học tiếng Nhật và trở về Việt Nam làm việc cho một công ty Nhật Bản với mức lương cao hơn.
Nhưng trên thực tế, Lâm chỉ kéo dài được bốn tháng. Anh ta kiếm được khoảng 863 đô la một tháng - một phần trong số đó anh ta gửi về nhà để hỗ trợ gia đ́nh - trong khi bị các đồng nghiệp Nhật Bản và sếp của anh ta bắt nạt hàng ngày, Lâm nói. Công ty đă thu giữ hộ chiếu của Lâm và anh ấy không thể rời khỏi Nhật Bản. Anh ấy đă bỏ trốn và chuyển sang làm công việc dọn dẹp bán thời gian và công việc lao động chân tay như một công nhân không có giấy tờ tùy thân.
Lâm nói: “Nếu chỉ là yêu cầu về lao động, người Việt Nam có thể kiên tŕ… nhưng đó là sự bắt nạt mà chúng tôi không thể chịu đựng được”.
Lâm trở nên khó t́m việc hơn trong trận đại dịch, v́ vậy năm ngoái, anh đă chuyển đến Daionji. Tại đây, anh đă có được thị thực để ở lại Nhật Bản, một công việc mới và một hộ chiếu mới để một ngày nào đó anh có thể về nước và theo đuổi ước mơ mở một nhà hàng Nhật Bản tại Việt Nam.
Nhiều người lao động như Lâm bị ràng buộc về tài chính và pháp lư khi sang Nhật. Họ thường mắc nợ v́ phải trả tiền cho công ty môi giới lao động ở Việt Nam. Hộ chiếu và điện thoại di động của họ thường xuyên bị tịch thu, những người cùng cảnh ngộ với Lâm cho biết. Theo yêu cầu của chương tŕnh, họ phải duy tŕ công việc tương tự trong 3 đến 5 năm và không thể chuyển sang công ty mới, ngay cả khi họ phải đối mặt với các sự hiếp đáp trong công việc hoặc điều kiện làm việc bất hợp pháp.
Trong số 8.124 công ty thuê mướn lao động nước ngoài làm việc, có 70,8% công ty được xác nhận là đă vi phạm luật lao động, bao gồm các vấn đề về an toàn, thanh toán tiền lương và thời gian làm việc quá mức, theo một báo cáo kiểm tra của Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi Nhật Bản vào năm 2020.
Yoshihisa Saito, phó giáo sư tại Đại học Kobe và là nhà vận động lâu năm cho các lao động nước ngoài tại Nhật Bản, cho biết những công ty [sử dụng lao động nước ngoài] nói trên được giám sát bởi một cơ quan chính phủ, đó là Tổ chức Đào tạo Thực tập sinh Kỹ thuật, nhưng vấn đề là người lao động được thuê bởi các công ty cung cấp không được cấp phép.
Trong khi đó, v́ các vấn đề chính trị, Nhật Bản thường im lặng trong việc này. Tổ chức Đào tạo Thực tập sinh Kỹ thuật đă từ chối trả lời các câu hỏi, nhưng một đại diện của tổ chức này đă viện dẫn vào một hướng dẫn ở trang 591, nói rằng cơ quan quản lư hàng năm đối với các công ty đă đăng kư [tuyển dụng lao động nước ngoài nói trên] rằng các hướng dẫn đối với người lao động la do công ty quy định, và nếu công ty vi phạm th́ sẽ bị đóng cửa hoặc bị phạt.
Tuy nhiên, nếu không có kỹ năng ngôn ngữ chắc chắn, th́ các thực tập sinh khi gặp rắc rối sẽ rất khó khăn trong việc yêu cầu trợ giúp, hoặc họ lo sợ hậu quả [mất việc / bị trục xuất], Saito nói. Thậm chí có hai nữ thực tập sinh có thai cho biết họ rất sợ hăi sẽ bị mất việc làm trong chương tŕnh hợp tác đào tạo [thực chất là thuê mướn lao động từ Việt Nam] nếu công ty của họ phát hiện ra họ có thai.
Saito nói: “Một cách có hệ thống, công việc giáo dục và bộ lọc phù hợp thực sự cần phải được đưa ra, cũng như một cách an toàn để các thực tập sinh t́m kiếm sự giúp đỡ. Trong khi đó, [chùa] Daionji đă cung cấp một mạng lưới an toàn hiếm hoi, ông nói.
Sư cô Thích Tâm Trí đă giúp đỡ hàng chục ngh́n người trong những năm qua, nhưng một số câu chuyện mà cô kể lại cho biết cô cảm thấy ḿnh vẫn chưa thể làm đủ như mong muốn.
Một người là cựu tập sinh có hai con ở Việt Nam đă bỏ công việc ở công ty để làm một công việc khác mà không có giấy tờ tùy thân. Khi đại dịch xảy đến, cô ấy rất lo lắng về công việc, và muốn trở về nhà với các con của ḿnh. Sư cô Thích Tâm Trí đă thu xếp một chuyến xe đển đến đón cô ấy về chùa. Tuy nhiên hai ngày trước khi sư cô Tâm Trí cho xe đến đón, người phụ nữ nói trên đă bị chiếc ô tô tông phải và đă tử vong.
Sư cô Thích Tâm Trí đă lo liệu và tổ chức tang lễ cho người phụ nữ xấu số. Trong lúc thu dọn đồ đạc của người phụ nữ, sư cô t́m thấy một cuốn nhật kư. Trong đó là từng trang ghi lại những lời cầu nguyện của người phụ nữa cho các con của cô.
“Tôi thực sự cảm thấy hối tiếc v́ có thể mọi chuyện đă khác nếu tôi có thể giúp cô ấy sớm hơn”, Sư cô Thích Tâm Trí nói.
Việc bị cô lập mà người Việt Nam thường phải trải qua ở Nhật Bản là kết quả của sự va chạm văn hóa, khi họ là những người ngoại tộc trong một xă hội độc tôn sâu sắc, sư cô Thích Tâm Trí nói. Sư cô hy vọng những nỗ lực của ḿnh sẽ truyền cảm hứng cho công chúng Nhật Bản, giúp tạo ra một xă hội nơi người nước ngoài - những người đóng vai tṛ quan trọng đối với nền kinh tế của đất nước - được đón nhận.
Sư cô nói: “V́ dân số Nhật Bản đang ít đi và không có đủ lao động trẻ, nên Nhật Bản không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc dựa vào lao động nước ngoài. “Thực tập sinh nước ngoài có thể đóng góp rất lớn cho xă hội Nhật Bản về lâu dài, v́ vậy tôi muốn họ được trân trọng”.
Nguồn: The Washington Post
https://www.washingtonpost.c om/world/2022/02/03/japan-pandemic-vietnamese-migrants-nun/?fbclid=IwAR2VJ5_MSr 6YurlS5FfBFwzTvYn4Kt SoOzouUsx74reVU56_Nk 0TVgorpgg