goodidea
02-25-2022, 01:42
Những năm 1980, lúc đó tôi học lớp 11, cứ đến ngày nghỉ tôi và nhóm bạn trong lớp hay rủ nhau đi xe đạp về thăm Chùa Thầy, Chùa Tây Phương. Ngày ấy chúng tôi gồm 4 đứa con gái, đi hai xe đạp, thay nhau đèo cho đỡ mệt, lại còn chuẩn bị đầy đủ cơm nắm muối vừng, bánh mì giò chả thẳng tiến hướng chùa Thầy. Nhớ lại những ngày ấy, cho đến tận bây giờ tôi cũng không hiểu sao cả đám bạn tôi chẳng đi đâu xa hơn, chỉ quanh quẩn hai ngôi chùa đó. Có lẽ vì tên có chữ “ Thầy” nên học sinh là phải đến đó chăng? Vì thời ấy không chỉ riêng chúng tôi mà còn nhiều bạn học sinh khác cũng hay tới đó lắm.
Thời bây giờ, xe cộ, đường xá đẹp đẽ, tiện lợi, nhưng lại có cảm giác Chùa Thầy xa xôi, nhưng thời trẻ của tôi khi xưa, cảm giác chùa rất gần Hà Nội, chúng tôi men theo đường Thanh Xuân, qua ba cái nhà máy tỏa mùi thơm của thuốc lá, xà phòng …cứ thế thẳng tiến. Tôi còn nhớ rõ cảnh đường đi, đẹp lắm, cả hai bên toàn ruộng lúa, gió mát lồng lộng, đường thanh vắng, yên bình, chúng tôi vừa đạp xe vừa ngắm cảnh, nói chuyện vang đường nên chẳng khi nào thấy mệt.
Phần lễ chùa, chúng tôi thường vào chùa Hạ trước. Đến giờ vẫn nhớ như in cái cảm giác của nơi thâm nghiêm khi nhìn những bức tượng cổ, những bàn thờ cổ xưa, mấy chúng tôi đứa nào đứa nấy đều lộ vẻ sợ sệt, nghiêm cẩn chắp tay vái lạy đầy thành kính.
Nơi yêu thích của cả nhóm tôi là ngắm Thuỷ Đình, hết loanh quanh ngắm Thủy Đình từ dưới đất xong lại leo lên núi ngắm xuống. Hình ảnh Thủy Đình, nhìn qua không nhớ biết bao lần rồi, nhưng vẫn không hề chán, chỉ thấy ở đó sự thanh thản, bình yên và gần gũi thân quen vô cùng. Từ góc nhìn xuống Thủy Đình từ trên cao, hướng ra xung quanh, lại là những ô ruộng đủ màu sắc, những ô ruộng này cũng chẳng bao giờ giống nhau, cứ mỗi lần ngắm chúng, lại là một gam màu khác, một cảm xúc khác, chẳng biết phải tả nhiều thế nào, chỉ nhớ đứa nào cũng xuýt xoa khen đẹp.
Những giây phút len lỏi trên mỏm đá núi cũng gợi lại nhiều kỷ niệm, cung đường lên núi còn nhớ là khó đi lắm, lối đi hẹp, lại dốc cao, chúng tôi cứ men theo cây rừng, lối mòn trèo lên, qua mỏm đá để đến hang Cắc Cớ. Đến hang này lần nào cũng cứ cảm giác vừa sợ vừa thích lẫn lộn, thật khó để hình dung được ngay cạnh Hà Nội mà lại có cái hang âm u, đi vài bước vào hang mà cảm giác như sâu thăm thẳm chốn địa ngục. Hơi lạnh của hang xộc lên, sởn cả gai ốc, bọn chúng tôi cứ nép vào nhau, xuống sâu trong lòng hang. Nắng lọt qua các khe núi, hút theo từng bước chân, một cảm giác vừa hồi hộp, sợ hãi, nhưng cũng đầy phấn khích, khó quên.
Ngày ấy, hàng quán còn hiếm hoi lắm, khi đã vãn cảnh chán chê, chúng tôi ngồi nghỉ và lôi thức thức ăn chuẩn bị sẵn từ nhà để giải tỏa cơn đói, xong làm vài kiểu ảnh kỷ niệm, rồi cả nhóm lại dắt díu nhau đạp xe sang chùa Tây Phương.
Đường lên chùa Tây Phương ngày ấy, cứ như đi lên tiên cảnh, hai bên thỉnh thoảng là vài mái nhà ngói, nuôi lợn gà, trồng hoa màu quanh nhà, với cây rơm, khói bếp, cả mùi ngai ngái của phân trâu bò… Đường lên chùa ngập một cảnh, sắc, hương của đồng quê như thế.
Vào những mùa hoa gạo nở tháng 03, cảnh chùa thật tuyệt, người vãn cảnh đông vui. Giờ khi đã lớn, trở lại những không gian linh thiêng ấy, tôi vẫn thấy đâu đó ít nhiều khung cảnh của ngày xưa, từ những pho tượng cổ, từ mùi của hương khói, từ tiếng rì rầm khấn nguyện, cầu kinh. Lại nhớ đến ngày xưa, nhất là những lúc chiều về, khi thấy khói bếp bay cao, toát lên cả mùi hương của cơm mới, nghe tiếng các bà, các mẹ í ới gọi trẻ về ăn cơm chiều, nhóm chúng tôi lại hối hả xuống núi, đạp xe về Hà Nội cho nhanh trước cảnh chiều tàn.
Chưa về đến Hà Nội thì đã bàn tính chuyện cuối tuần sau lại tiếp tục đi chơi. Chốn quê miền cổ tích của tôi ở cả tuổi thanh xuân, cứ thế, mãi không thể quên. Tôi hay tìm về những không gian ấy, cho đến giờ vẫn vậy, bởi ở đó, tôi dễ dàng gặp lại ký ức về ngôi nhà và làng quê Ấm Thượng nơi tôi có thời gian sống với ông bà nội. Những hình bóng thân thương của ông bà đã khuất, cảm giác cứ như ẩn, như hiện nơi cuộc sống làng quê xứ Đoài và tới giờ cũng vậy, nỗi nhớ đó càng thêm sâu nặng hơn. Người ta nói càng thêm tuổi, con người ta càng thương nhớ, hoài niệm về quê hương xứ sở, bởi có lẽ, trong đời, ai cũng muốn nơi mình sinh ra, cũng chính là nơi được trở về.
VietBF©sưu tập
Thời bây giờ, xe cộ, đường xá đẹp đẽ, tiện lợi, nhưng lại có cảm giác Chùa Thầy xa xôi, nhưng thời trẻ của tôi khi xưa, cảm giác chùa rất gần Hà Nội, chúng tôi men theo đường Thanh Xuân, qua ba cái nhà máy tỏa mùi thơm của thuốc lá, xà phòng …cứ thế thẳng tiến. Tôi còn nhớ rõ cảnh đường đi, đẹp lắm, cả hai bên toàn ruộng lúa, gió mát lồng lộng, đường thanh vắng, yên bình, chúng tôi vừa đạp xe vừa ngắm cảnh, nói chuyện vang đường nên chẳng khi nào thấy mệt.
Phần lễ chùa, chúng tôi thường vào chùa Hạ trước. Đến giờ vẫn nhớ như in cái cảm giác của nơi thâm nghiêm khi nhìn những bức tượng cổ, những bàn thờ cổ xưa, mấy chúng tôi đứa nào đứa nấy đều lộ vẻ sợ sệt, nghiêm cẩn chắp tay vái lạy đầy thành kính.
Nơi yêu thích của cả nhóm tôi là ngắm Thuỷ Đình, hết loanh quanh ngắm Thủy Đình từ dưới đất xong lại leo lên núi ngắm xuống. Hình ảnh Thủy Đình, nhìn qua không nhớ biết bao lần rồi, nhưng vẫn không hề chán, chỉ thấy ở đó sự thanh thản, bình yên và gần gũi thân quen vô cùng. Từ góc nhìn xuống Thủy Đình từ trên cao, hướng ra xung quanh, lại là những ô ruộng đủ màu sắc, những ô ruộng này cũng chẳng bao giờ giống nhau, cứ mỗi lần ngắm chúng, lại là một gam màu khác, một cảm xúc khác, chẳng biết phải tả nhiều thế nào, chỉ nhớ đứa nào cũng xuýt xoa khen đẹp.
Những giây phút len lỏi trên mỏm đá núi cũng gợi lại nhiều kỷ niệm, cung đường lên núi còn nhớ là khó đi lắm, lối đi hẹp, lại dốc cao, chúng tôi cứ men theo cây rừng, lối mòn trèo lên, qua mỏm đá để đến hang Cắc Cớ. Đến hang này lần nào cũng cứ cảm giác vừa sợ vừa thích lẫn lộn, thật khó để hình dung được ngay cạnh Hà Nội mà lại có cái hang âm u, đi vài bước vào hang mà cảm giác như sâu thăm thẳm chốn địa ngục. Hơi lạnh của hang xộc lên, sởn cả gai ốc, bọn chúng tôi cứ nép vào nhau, xuống sâu trong lòng hang. Nắng lọt qua các khe núi, hút theo từng bước chân, một cảm giác vừa hồi hộp, sợ hãi, nhưng cũng đầy phấn khích, khó quên.
Ngày ấy, hàng quán còn hiếm hoi lắm, khi đã vãn cảnh chán chê, chúng tôi ngồi nghỉ và lôi thức thức ăn chuẩn bị sẵn từ nhà để giải tỏa cơn đói, xong làm vài kiểu ảnh kỷ niệm, rồi cả nhóm lại dắt díu nhau đạp xe sang chùa Tây Phương.
Đường lên chùa Tây Phương ngày ấy, cứ như đi lên tiên cảnh, hai bên thỉnh thoảng là vài mái nhà ngói, nuôi lợn gà, trồng hoa màu quanh nhà, với cây rơm, khói bếp, cả mùi ngai ngái của phân trâu bò… Đường lên chùa ngập một cảnh, sắc, hương của đồng quê như thế.
Vào những mùa hoa gạo nở tháng 03, cảnh chùa thật tuyệt, người vãn cảnh đông vui. Giờ khi đã lớn, trở lại những không gian linh thiêng ấy, tôi vẫn thấy đâu đó ít nhiều khung cảnh của ngày xưa, từ những pho tượng cổ, từ mùi của hương khói, từ tiếng rì rầm khấn nguyện, cầu kinh. Lại nhớ đến ngày xưa, nhất là những lúc chiều về, khi thấy khói bếp bay cao, toát lên cả mùi hương của cơm mới, nghe tiếng các bà, các mẹ í ới gọi trẻ về ăn cơm chiều, nhóm chúng tôi lại hối hả xuống núi, đạp xe về Hà Nội cho nhanh trước cảnh chiều tàn.
Chưa về đến Hà Nội thì đã bàn tính chuyện cuối tuần sau lại tiếp tục đi chơi. Chốn quê miền cổ tích của tôi ở cả tuổi thanh xuân, cứ thế, mãi không thể quên. Tôi hay tìm về những không gian ấy, cho đến giờ vẫn vậy, bởi ở đó, tôi dễ dàng gặp lại ký ức về ngôi nhà và làng quê Ấm Thượng nơi tôi có thời gian sống với ông bà nội. Những hình bóng thân thương của ông bà đã khuất, cảm giác cứ như ẩn, như hiện nơi cuộc sống làng quê xứ Đoài và tới giờ cũng vậy, nỗi nhớ đó càng thêm sâu nặng hơn. Người ta nói càng thêm tuổi, con người ta càng thương nhớ, hoài niệm về quê hương xứ sở, bởi có lẽ, trong đời, ai cũng muốn nơi mình sinh ra, cũng chính là nơi được trở về.
VietBF©sưu tập