Hanna
06-21-2011, 21:31
Hôm nay [16 tháng 6 năm 2011] Bắc Kinh đă cử một chiếc tàu tuần dương tới Biển Hoa Nam.
Ấy thế nhưng phát ngôn viên của Bộ ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi vẫn xác nhận rằng Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa sẽ “không sử dụng sức mạnh” trong tranh chấp gia tăng với Việt Nam và năm nước và vùng lănh thổ về chủ quyền đối với vùng nước có giá trị lớn này.
Nhưng đến giờ th́ thực sự cũng chẳng ai biết có bao nhiêu khí thiên nhiên và dầu mỏ ở bên dưới đáy biển Hoa Nam.
Một số nguồn tin của Trung Quốc ước tính trữ lượng là trên 200 tỉ thùng, tức là xấp xỉ 80% trữ lượng dầu mỏ của Ả-Rập Saudi, song số khác lại cho rằng đó là một sự thổi phồng quá mức.
Lợi th́ chưa thấy đâu nhưng ngay bây giờ th́ Trung Quốc đă có thể tính toán được rằng t́nh h́nh tranh chấp leo thang với Việt Nam về vùng biển nói trên sẽ gây thiệt hại thế nào tới nền kinh tế của Trung Quốc.
Nh́n sơ sơ thôi th́ chi phí thiệt hại đă là 12,7 tỉ đô la Mỹ – tổng số tiền thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc trong năm 2010, theo nguồn tin của Tổng cục Thống Kê của Việt Nam.
Số tiền đó bằng bảy phần trăm thặng dư thương mại của Trung Quốc trong năm ngoái, một con số tuy nhỏ nhưng là một khúc quan trọng trong thu nhập của nước này.
Mặt khác, các nhà phân tích cho rằng nếu Trung Quốc dốc toàn lực cho cuộc chiến tranh có thể xảy ra th́ tổn thất phải tính đến sẽ lớn hơn rất nhiều.
Đáp trả cuộc tập trận bắn đạn thật kéo dài sáu tiếng đồng hồ của Việt Nam ở Biển Hoa Nam – một tiếng đồng cho mỗi một nước và vùng lănh thổ đang tuyên bố khẳng định chủ quyền đối với vùng biển này – phát ngôn viên của Bộ ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi tuyên bố rằng Trung Quốc “sẽ không sử dụng sức mạnh” để đáp trả điều họ coi là những cuộc tấn công vào một khu vực mà nước Cộng Ḥa nhân dân Trung Hoa đang khẳng định có “chủ quyền không thể tranh căi”.”
“Tôi nghĩ rằng kinh tế dứt khoát có mối liên quan nào đó trong lời tuyên bố này,” chuyên gia kinh tế trưởng Nariman Behravesh của tổ chức phân tích kinh tế hàng đầu thế giới IHS Global Insight đă nói như vậy trong một cuộc điện đàm từ Luân Đôn.
“Trung Quốc đang có mối liên kết thương mại ngày càng phát triển với tất cả các nước châu Á, nhất là những nước quan tâm tới Quần đảo Trường Sa,” Behravesh nói trong lúc ám chỉ tới những ḥn đảo đang có tranh chấp ở ngoài khơi bờ biển chung của Trung Quốc và Việt Nam.
Các nhà phân tích tin rằng bất chấp Trung Quốc đang dùng những từ ngữ gay gắt tuôn ra dồn dập tại thời điểm này để buộc tội Việt Nam đe dọa quyền tự trị của Trung Quốc ở khu vực này, song Trung Quốc có lẽ rồi sẽ thực hiện đúng lời hứa của họ là sẽ giảm bớt căng thẳng trong quan hệ hai nước.
“Có một cách để đánh giá khả năng có thể dẫn đến xung đột vũ trang,” Tiến sĩ Donald K. Emmerson giám đốc Diễn đàn Đông Nam Á của Đại học Stanford đă nói như vậy.
Emmerson đă tham dự cuộc đối thoại Shangri-La 2011 tại Singapore sau khi tàu của Trung Quốc cắt đứt cáp của tàu khảo sát của PetroVietnam hồi cuối tháng trước. Trung Quốc vẫn giữ giọng điệu ḥa giải vào thời điểm đó và cho đến tận lần tấn công tiếp theo vào hôm 9 tháng 6 khi một chiếc tàu khác của Trung Quốc đă cắt đứt cáp của tàu của PetroVietNam trong một diễn biến mà phát ngôn viên của Bộ ngoại giao Việt Nam Nguyễn Phương Nga gọi là một cuộc tấn công “có suy tính trước”.
“Trung Quốc ngày càng phụ thuộc vào lượng nhập khẩu nhiên liệu từ Trung Đông. Nhiên liệu nhập khẩu này đi qua Eo biển Malacca để đi vào Biển Hoa Nam. Nếu Trung Quốc tiến hành một cuộc chiến tranh tại khu vực vận chuyển quá cảnh nhiên liệu quan trọng bậc nhất này th́ quyết định đó sẽ là không khôn ngoan,” Emmerson nói.
Đó là một lư do để chiến tranh không xảy ra ở Biển Hoa Nam.
Một lư do khác nữa để các nước Đông Nam Á và các vùng lănh thổ đang có tranh chấp ở vùng biển này – tổng số là sáu, trong đó có Việt Nam, Philippine và Đài Loan – không gây chiến với Trung Quốc ấy là để duy tŕ sự ổn định địa chính trị trong vùng.
“Các nước có chung biên giới [biển] hiểu rằng một cuộc chiến tranh thực sự với những chiếc tàu chở dầu bị nổ tung trên biển sẽ là điều quá nguy hiểm đối với những quốc gia liên quan,” ông nói đồng thời giải thích rằng nền kinh tế thế giới sẽ rung chuyển dữ dội bởi sự gián đoạn của tuyến đường vận chuyển quan trọng này.
Hàng năm một nửa số tàu thuyền thương mại của thế giới tính theo khối lượng hàng hóa đi qua Biển Hoa Nam, Emmerson nói.
“Đó là một tuyến đường huyết mạch khổng lồ của thương mại toàn cầu. Mặc dù đúng là Biển Hoa Nam là hành lang [tốt nhất], song c̣n có những tuyến đường lựa chọn khác đ̣i hỏi chi phí cao hơn, ấy là đi tiếp về phía đông qua Philippine và Indonesia.”
Nếu chọn các giải pháp đó th́ cả Emmerson lẫn Behravesh làm việc tại Global Insight đều coi tương lai của Trung Quốc nằm ở sự hợp tác của nước này với các đối tác ASEAN ở phía Nam.
Và điều này là có tiền lệ.
Emmerson giải thích rằng vào tháng 7 năm 2005 Trung Quốc, Trung Quốc, Philippine và Việt Nam đă cùng nhau tiến hành một dự án khảo sát địa chấn biển – các bên tham gia kư kết là các công ty như PetroVietnam chứ không phải là các ngoại trưởng hoặc thủ tướng. Dự án được tiến hành với danh nghĩa công việc chung giữa các công ty nhằm bắt đầu t́m kiếm để biết xem trữ lượng dầu dưới đáy biển là bao nhiêu.
“Lúc đầu điều họ muốn là dự án thăm ḍ chung rồi sau đó mới là khai thác chung. Sau đó th́ dự án này đă hết hiệu lực vào năm 2008,” ông nói thêm.
Nếu Trung Quốc cứ dứt khoát bám lấy lợi ích từ nguồn dầu mỏ có thêm này [từ Biển Đông] trong cuộc chạy đua không ngừng nhằm cung cấp nhiên liệu cho nền kinh tế đang tăng trưởng, thế th́ Việt Nam cũng sẽ bám lấy lợi ích của họ.
“Tôi dĩ nhiên nghĩ rằng Việt Nam có đủ năng lực để khai thác nguồn dự trữ đó [dầu mỏ và khí đốt ở Biển Đông] thông qua các liên doanh,” Behravesh nói đồng thời giải thích rằng một mối quan hệ đối tác hai bên cùng có lợi trong lĩnh vực dầu mỏ có thể góp phần làm dịu sức nóng địa chính trị trong khu vực và cho phép sự khai thác chung các nguồn tài nguyên của khu vực.
Michael Martin
Ngày 16 tháng 6 năm 2011
Người dịch: Hiền Ba
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2011
Ấy thế nhưng phát ngôn viên của Bộ ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi vẫn xác nhận rằng Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa sẽ “không sử dụng sức mạnh” trong tranh chấp gia tăng với Việt Nam và năm nước và vùng lănh thổ về chủ quyền đối với vùng nước có giá trị lớn này.
Nhưng đến giờ th́ thực sự cũng chẳng ai biết có bao nhiêu khí thiên nhiên và dầu mỏ ở bên dưới đáy biển Hoa Nam.
Một số nguồn tin của Trung Quốc ước tính trữ lượng là trên 200 tỉ thùng, tức là xấp xỉ 80% trữ lượng dầu mỏ của Ả-Rập Saudi, song số khác lại cho rằng đó là một sự thổi phồng quá mức.
Lợi th́ chưa thấy đâu nhưng ngay bây giờ th́ Trung Quốc đă có thể tính toán được rằng t́nh h́nh tranh chấp leo thang với Việt Nam về vùng biển nói trên sẽ gây thiệt hại thế nào tới nền kinh tế của Trung Quốc.
Nh́n sơ sơ thôi th́ chi phí thiệt hại đă là 12,7 tỉ đô la Mỹ – tổng số tiền thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc trong năm 2010, theo nguồn tin của Tổng cục Thống Kê của Việt Nam.
Số tiền đó bằng bảy phần trăm thặng dư thương mại của Trung Quốc trong năm ngoái, một con số tuy nhỏ nhưng là một khúc quan trọng trong thu nhập của nước này.
Mặt khác, các nhà phân tích cho rằng nếu Trung Quốc dốc toàn lực cho cuộc chiến tranh có thể xảy ra th́ tổn thất phải tính đến sẽ lớn hơn rất nhiều.
Đáp trả cuộc tập trận bắn đạn thật kéo dài sáu tiếng đồng hồ của Việt Nam ở Biển Hoa Nam – một tiếng đồng cho mỗi một nước và vùng lănh thổ đang tuyên bố khẳng định chủ quyền đối với vùng biển này – phát ngôn viên của Bộ ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi tuyên bố rằng Trung Quốc “sẽ không sử dụng sức mạnh” để đáp trả điều họ coi là những cuộc tấn công vào một khu vực mà nước Cộng Ḥa nhân dân Trung Hoa đang khẳng định có “chủ quyền không thể tranh căi”.”
“Tôi nghĩ rằng kinh tế dứt khoát có mối liên quan nào đó trong lời tuyên bố này,” chuyên gia kinh tế trưởng Nariman Behravesh của tổ chức phân tích kinh tế hàng đầu thế giới IHS Global Insight đă nói như vậy trong một cuộc điện đàm từ Luân Đôn.
“Trung Quốc đang có mối liên kết thương mại ngày càng phát triển với tất cả các nước châu Á, nhất là những nước quan tâm tới Quần đảo Trường Sa,” Behravesh nói trong lúc ám chỉ tới những ḥn đảo đang có tranh chấp ở ngoài khơi bờ biển chung của Trung Quốc và Việt Nam.
Các nhà phân tích tin rằng bất chấp Trung Quốc đang dùng những từ ngữ gay gắt tuôn ra dồn dập tại thời điểm này để buộc tội Việt Nam đe dọa quyền tự trị của Trung Quốc ở khu vực này, song Trung Quốc có lẽ rồi sẽ thực hiện đúng lời hứa của họ là sẽ giảm bớt căng thẳng trong quan hệ hai nước.
“Có một cách để đánh giá khả năng có thể dẫn đến xung đột vũ trang,” Tiến sĩ Donald K. Emmerson giám đốc Diễn đàn Đông Nam Á của Đại học Stanford đă nói như vậy.
Emmerson đă tham dự cuộc đối thoại Shangri-La 2011 tại Singapore sau khi tàu của Trung Quốc cắt đứt cáp của tàu khảo sát của PetroVietnam hồi cuối tháng trước. Trung Quốc vẫn giữ giọng điệu ḥa giải vào thời điểm đó và cho đến tận lần tấn công tiếp theo vào hôm 9 tháng 6 khi một chiếc tàu khác của Trung Quốc đă cắt đứt cáp của tàu của PetroVietNam trong một diễn biến mà phát ngôn viên của Bộ ngoại giao Việt Nam Nguyễn Phương Nga gọi là một cuộc tấn công “có suy tính trước”.
“Trung Quốc ngày càng phụ thuộc vào lượng nhập khẩu nhiên liệu từ Trung Đông. Nhiên liệu nhập khẩu này đi qua Eo biển Malacca để đi vào Biển Hoa Nam. Nếu Trung Quốc tiến hành một cuộc chiến tranh tại khu vực vận chuyển quá cảnh nhiên liệu quan trọng bậc nhất này th́ quyết định đó sẽ là không khôn ngoan,” Emmerson nói.
Đó là một lư do để chiến tranh không xảy ra ở Biển Hoa Nam.
Một lư do khác nữa để các nước Đông Nam Á và các vùng lănh thổ đang có tranh chấp ở vùng biển này – tổng số là sáu, trong đó có Việt Nam, Philippine và Đài Loan – không gây chiến với Trung Quốc ấy là để duy tŕ sự ổn định địa chính trị trong vùng.
“Các nước có chung biên giới [biển] hiểu rằng một cuộc chiến tranh thực sự với những chiếc tàu chở dầu bị nổ tung trên biển sẽ là điều quá nguy hiểm đối với những quốc gia liên quan,” ông nói đồng thời giải thích rằng nền kinh tế thế giới sẽ rung chuyển dữ dội bởi sự gián đoạn của tuyến đường vận chuyển quan trọng này.
Hàng năm một nửa số tàu thuyền thương mại của thế giới tính theo khối lượng hàng hóa đi qua Biển Hoa Nam, Emmerson nói.
“Đó là một tuyến đường huyết mạch khổng lồ của thương mại toàn cầu. Mặc dù đúng là Biển Hoa Nam là hành lang [tốt nhất], song c̣n có những tuyến đường lựa chọn khác đ̣i hỏi chi phí cao hơn, ấy là đi tiếp về phía đông qua Philippine và Indonesia.”
Nếu chọn các giải pháp đó th́ cả Emmerson lẫn Behravesh làm việc tại Global Insight đều coi tương lai của Trung Quốc nằm ở sự hợp tác của nước này với các đối tác ASEAN ở phía Nam.
Và điều này là có tiền lệ.
Emmerson giải thích rằng vào tháng 7 năm 2005 Trung Quốc, Trung Quốc, Philippine và Việt Nam đă cùng nhau tiến hành một dự án khảo sát địa chấn biển – các bên tham gia kư kết là các công ty như PetroVietnam chứ không phải là các ngoại trưởng hoặc thủ tướng. Dự án được tiến hành với danh nghĩa công việc chung giữa các công ty nhằm bắt đầu t́m kiếm để biết xem trữ lượng dầu dưới đáy biển là bao nhiêu.
“Lúc đầu điều họ muốn là dự án thăm ḍ chung rồi sau đó mới là khai thác chung. Sau đó th́ dự án này đă hết hiệu lực vào năm 2008,” ông nói thêm.
Nếu Trung Quốc cứ dứt khoát bám lấy lợi ích từ nguồn dầu mỏ có thêm này [từ Biển Đông] trong cuộc chạy đua không ngừng nhằm cung cấp nhiên liệu cho nền kinh tế đang tăng trưởng, thế th́ Việt Nam cũng sẽ bám lấy lợi ích của họ.
“Tôi dĩ nhiên nghĩ rằng Việt Nam có đủ năng lực để khai thác nguồn dự trữ đó [dầu mỏ và khí đốt ở Biển Đông] thông qua các liên doanh,” Behravesh nói đồng thời giải thích rằng một mối quan hệ đối tác hai bên cùng có lợi trong lĩnh vực dầu mỏ có thể góp phần làm dịu sức nóng địa chính trị trong khu vực và cho phép sự khai thác chung các nguồn tài nguyên của khu vực.
Michael Martin
Ngày 16 tháng 6 năm 2011
Người dịch: Hiền Ba
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2011