Hanna
10-18-2011, 22:32
Huân tước Malloch-Brown nguyên là Quốc vụ khanh trong Bộ Ngoại giao Anh, đặc trách châu Phi và châu Á. Ông trước đây là phó Tổng thư kư và Chánh văn pḥng của Liên Hợp Quốc dưới thời Kofi Annan. Trong 6 năm ông là giám đốc UNDP, đi đầu trong những nỗ lực phát triển của Liên Hợp Quốc trên khắp thế giới. Ông bắt đầu sự nghiệp của ḿnh với tư cách là một nhà báo cho tờ The Economist. Ông làm chủ tịch Tổ chức Royal Africa Society và tham gia một số tổ chức phi lợi nhuận và tư vấn. Ông được phong hiệp sĩ năm 2007. Sau đây là bài nói của ông tại The Royal Society for Asian Affairs (Hội các vấn đề châu Á) về khả năng trỗi dậy của châu Á:
Có thể rất là nguy hiểm nếu xuất hiện trước mặt một nhóm chuyên gia về châu Á và không đưa ra lập luận ǵ khác ngoài việc cho rằng “sự trỗi dậy của châu Á tất nhiên là điều không thể tránh được”. Nhưng tôi là một người “to gan” dám nhảy vào hang cọp. Cho phép tôi cố gắng và đưa ra một số lư giải cho niềm hân hoan hiện nay về châu Á.
Cho phép tôi nói ngay rằng, bất chấp tước vị là ǵ, tôi hy vọng các quư vị sẽ lắng nghe một bài phát biểu rất ủng hộ châu Á. Đây là một khu vực mà tôi đă dành một phần lớn cuộc đời ḿnh ở đó. Tôi đă sống, vào những năm 20 tuổi, ở Thái Lan. Tôi đă dành một khoảng thời gian 5 năm làm cố vấn cho Cory Aquino khi bà là Tổng thống Philíppin, gặp bà mỗi tháng một lần. Tôi đă giám sát các chương tŕnh của Ngân hàng Thế giới và UNDP khi tôi là Nhà quản lư của UNDP ở châu Á trong nhiều năm, và sau đó tôi là Bộ trưởng của Anh phụ trách về châu Á. Phần lớn cuộc đời tôi đă gắn bó với khu vực này.
Có hai dạng bài phát biểu về “Sự trỗi dậy của châu Á là điều không thể tránh được” mà người ta có thể đưa ra. Một là bài phát biểu chỉ có một từ về nó – đúng hơn là hai từ, đó là “hăy nhớ lại Nhật Bản”. V́, chắc chắn là trong trường hợp của tôi khi tôi là một nhà báo trẻ viết về các vấn đề quốc tế, dường như đă không thể tránh được về sự chi phối trong tương lai của Nhật Bản như hiện nay đối với khu vực châu Á nói chung. Tôi nhớ lại, khi đang làm việc ở Niu Yoóc, sự tức giận khi Trung tâm Rockefeller rơi vào tay Nhật Bản, tiếp ngay sau đó là Câu lạc bộ Pebble Beach Golf ở California . Những bài báo quá khích đăng trên các tạp chí và những cuốn sách về sự trỗi dậy của Nhật Bản chỉ gây kích động hơn. Vài thập kỷ sau, chúng ta đă thấy một đất nước vẫn rất hùng mạnh nhưng đang trong t́nh trạng giảm phát kinh tế nổi bật và sự suy giảm về sức mạnh kinh tế của nước này mà không ai dự đoán vào thời điểm đó.
Tuy nhiên, đó thực sự không phải là luận điểm của tôi. Không phải đơn giản lập luận rằng bất kể sự thông thái hiện nay đến đâu cũng thường là sai lầm, mặc dù, tôi nghĩ rằng, có phần nào đúng trong sự khẳng định đó. Đây là một luận điểm tương đối khác: rằng sự thành công của châu Á trong những thập kỷ gần đây là phi thường, nhưng nếu tiếp tục về lâu dài hơn sẽ càng trở nên khó khăn hơn. Những khó khăn mà châu lục này đă phải đối mặt trong những thập kỷ đầu tăng trưởng kinh tế nhanh, mặc dù những đă là đáng kể, hiện sẽ được tiếp theo bởi những thập kỷ mà việc duy tŕ các mức tăng trưởng đó sẽ là khó khăn hơn, chứ không phải dễ dàng hơn.
Một nhận xét cũng nên được đưa ra đầu tiên là các nhà sử học đă b́nh luận rằng về một ư nghĩa nào đó sự tăng trưởng đáng kể về kinh tế của Trung Quốc, đặc biệt tỉ phần của nước này trong GDP toàn cầu, và cũng tương tự là Ấn Độ, trên thực tế đang trở lại nguyên trạng trước đây ; rằng đây là mức mà Trung Quốc đă thường đạt được như một tỉ phần trong GDP toàn cầu cách đây vài trăm năm; rằng tỉ phần này đang trở lại mức trung b́nh trong lịch sử của nó, không có ǵ mới.
Tôi muốn nói rằng liệu có hay không một lư lẽ lịch sử để giải thích tại sao châu Á chỉ đang trở lại thời điểm mà nó đă từng là vậy, chẳng hạn, vào năm 1800 hoặc trước đó, hoặc liệu có phải người ta muốn lập luận rằng gốc rễ của sự tăng trưởng hiện nay là mạnh mẽ và sâu sắc đến mức khó thấy được làm sao mà đà tăng trưởng này sẽ dừng lại, tôi sẽ cắm một số lá cờ đỏ, hoặc có thể chúng chỉ là những lá cờ màu da cam.
Tôi muốn nói rằng mọi thứ mà chúng ta coi là không thể tránh được có ít trường hợp lựa chọn thay thế cho nó. Lư lẽ “không thể tránh được” dựa vào một số định đề. Tất nhiên, thứ nhất là lập luận mà chúng ta thường nghe thấy về châu Á, đó là sự nổi lên của tầng lớp trung lưu mới rộng răi này với những khởi đầu của thói quen tiêu dùng phương Tây. Đây là một nhóm, theo lập luận này, sẽ tạo ra sự ổn định, và sẽ là đầu máy tri thức và ngày càng, thông qua tiết kiệm và đầu tư và thông qua tiêu dùng của nó, trở thành động cơ tài chính của một sự tăng trưởng tự lực ở châu Á. Thứ hai, như là một kết quả, là khi chi phí lao động tăng lên ở châu Á chúng ta sẽ chứng kiến trước hết ở Trung Quốc và sau đó ở những nơi khác một sự thay thế vốn rất suôn sẻ cho lợi thế trước đây của lao động giá rẻ.
Chẳng hạn, Ấn Độ xét trên phạm vi rộng vẫn là một nền kinh tế có 20% khu vực hiện đại, 80% người dân vẫn sinh sống ở khu vực nông thôn với thu nhập rất thấp. Khu vực thứ hai đó cung cấp một lực lượng lao động gần như không hạn chế về những nam nữ thanh niên thông minh được thu hút vào các trường đại học kỹ thuật ở Bangolore và các nơi khác và trở thành các nhà lập tŕnh phần mềm thuộc thế hệ tiếp theo. Việc hỗ trợ điều đó sẽ là để cho tầng lớp trung lưu mới của Ấn Độ đưa sự tăng trưởng kinh tế đến với người nghèo vùng nông thôn.
Lập luận mà người ta thường thấy được nhắc đi nhắc lại hết lần này đến lần khác trên các phương tiện truyền thông của phương Tây là sự thịnh vượng đang nổi lên này của châu Á là một h́nh thức pḥng ngừa; rằng có một dạng giấc mơ tiêu dùng đằng sau đó mà người châu Á sắp đầu tư những thu nhập mới của họ vào tất cả những thứ tương tự mà chúng ta, và người dân Mỹ, đă đầu tư thu nhập của chúng ta khi chúng ta bắt đầu trở nên giàu có hơn: một chiếc ôtô thứ hai hay chiếc ôtô thứ nhất và một gara, vô tuyến truyền h́nh, các đồ dùng điện tử v.v…
Cuối cùng phần c̣n lại của thế giới tỏ ra thiện ư về sự tăng trưởng của châu Á. Đôi khi có căi vă về buôn bán với Mỹ hoặc với châu Âu. Tuy nhiên, nói chung có tinh thần hoan nghênh và không nói về cuộc xung đột giữa phương Tây và châu Á với bất cứ sự nghiêm trọng thực sự nào. Trên thực tế chúng ta nhận thấy các thể chế phương Tây được điều chỉnh và thích nghi, tạo không gian lớn hơn cho tiếng nói của châu Á. Người ta nói về cuộc cải cách của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc cho phép có thêm các nước thành viên châu Á tham gia hội đồng này, trong số những vấn đề khác, và G-20 mới đă thay thế G-8 nơi một lần nữa tiếng nói của châu Á được dành thêm nhiều không gian hơn so với trước đây.
Chúng ta chứng kiến châu Á giành thắng lợi trong nhiều cuộc chiến để đảm bảo an toàn cho các nguồn tài nguyên thiên nhiên mà châu lục này cần cho cơ sở công nghiệp hóa của nó. Chúng ta nhận thấy những nỗ lực mạnh mẽ mà châu lục này đang thực hiện để đảm bảo tiếp cận dầu lửa và các kim loại quư ở châu Phi. Chúng ta nhận thấy con đường đă làm cho Ôxtrâylia trở nên giàu có, v́ Ôxtrâylia là một nguồn khoáng sản và nhiều nguyên liệu thô khác cần thiết cho sự trỗi dậy của châu Á.
Tôi muốn xem xét một loạt giả định này mà tôi vừa phác thảo, điều củng cố rất nhiều cho những phân tích về sự thành công của châu Á. Trước hết tôi muốn xem xét kỹ ư niệm về tầng lớp trung lưu của châu Á và việc nó là nền tảng của sự ổn định và thịnh vượng đối với khu vực. Lập luận này cho rằng ở Trung Quốc tầng lớp trung lưu quá vui mừng về việc nó là tầng lớp trung lưu đến mức không đ̣i tự do chính trị, do đó những năng lực của nó được dành hoàn toàn vào việc cải thiện vị thế kinh tế của các gia đ́nh tầng lớp trung lưu, đảm bảo cho trẻ em tiếp cận nền giáo dục tốt nhất của Trung Quốc hoặc phương Tây và không có sức lực hay sự khích lệ nào được dành cho phản kháng chính trị.
Ở một mức độ nào đó điều đó là đúng, nhưng ở các khu vực nông thôn và thị trấn nhỏ ở Trung Quốc, nơi sự bóc lột và t́nh trạng rời bỏ nhà cửa ở mức độ cao hơn nhiều, chúng ta đă chứng kiến có tới 90.000 vụ phản kháng xă hội mỗi năm. Điều đó cho thấy mức độ xung đột xă hội tiềm ẩn như núi lửa ở Trung Quốc mà hiếm khi được phản ánh không chỉ trên các phương tiện truyền thông chính thức của Trung Quốc, mà thậm chí trên phương tiện truyền thông của phương Tây về nước này. Cơ quan tư vấn chiến lược của chính phủ Trung Quốc, Viện Xă hội Khoa học Trung Quốc, đưa tin năm 2009 rằng trên cơ sở từng năm phản kháng xă hội đang tăng lên ở nước này.
Chính phủ Trung Quốc có khả năng hơn biết rất rơ điều này và đang t́m cách giải quyết nó bằng cách phản ứng ở mức độ cao với những sự kiện khi chúng diễn ra, bằng cả “cái Gậy to” khi cần thiết, nhưng thường xuyên hơn nhiều bằng cách cố gắng xử lư nguồn gốc của các cuộc biểu t́nh này, xử lư nạn tham nhũng hoặc các chính quyền thành phố địa phương làm việc không có hiệu quả đă gây ra cuộc biểu t́nh, t́m cách loại bỏ các nhà doanh nghiệp tham nhũng và các chủ đất chiếm dụng đất công và chiếm đoạt ruộng đất từ tay nông dân, lẫn đánh mạnh vào nạn tham nhũng nói chung. Trung Quốc có thể là nước duy nhất trên thế giới nơi tham nhũng vẫn là một tội danh bị h́nh phạt treo cổ.
Quả thực, gần đây một số người, trong đó có một bộ trưởng, bị treo cổ v́ tham nhũng. Mặc dù vậy, không phải người Trung Quốc không nhận ra những nguy hiểm mà những loại vấn đề này gây ra đối với sự ổn định chính trị của nước này. Khi có thiên tai các quan chức phê phán kịch liệt những trường học nơi những học sinh bị thiệt mạng v́ luật xây dựng không được tuân thủ, và họ truy tố các kiến trúc sư, các kỹ sư và các quan chức thành phố những người cho phép xây dựng các ṭa nhà dưới chuẩn. Tôi cho rằng đây không phải là t́nh h́nh của một chính phủ không biết ǵ về các sức ép xă hội ngấm ngầm như núi lửa dưới mặt đất ở Trung Quốc. Hoàn toàn trái ngược. Tôi cho rằng họ biết rơ các vấn đề và tham gia t́m cách giải quyết chúng. Nhưng tôi nghĩ rằng vấn đề thực sự là khi người ta có một tầng lớp trung lưu ở một đất nước th́ người ta cũng gần như chắc chắn, trong giai đoạn phát triển này, có sự bất b́nh đẳng ngày càng nhiều.
Một người bạn thân của tôi làm việc ở UNDP, một quan chức cấp cao Trung Quốc, thường nói với tôi rằng Trung Quốc phải hiểu rằng để mọi người trở nên giàu có hơn, trong một khoảng thời gian một số người phải giàu có trước để phát triển vốn, các khoản tiền tiết kiệm và sự lănh đạo cần thiết để mang lại sự giàu có cho phần c̣n lại của xă hội. Nhưng đó là một giai đoạn rất nguy hiểm trong quá tŕnh phát triển của bất cứ xă hội nào nơi ở một mức độ rơ ràng nào đó một nhóm nhỏ đang trở nên giàu có và những người khác cảm thấy họ bị những thay đổi này bỏ rơi.
Loại khó khăn này xuất hiện ở Trung Quốc cũng xuất hiện ở Ấn Độ, nơi trên thực tế cuộc nổi dậy của những người Maoít ở các vùng nông thôn hiện nay tồi tệ hơn so với cuộc nổi dậy đă diễn ra trong một thời gian rất dài, bất chấp thực tế rằng Ấn Độ có thể đang có một chính phủ tốt nhất mà nước này đă có trong một thời gian rất dài. Ấn Độ rơ ràng là một nước dân chủ và có một nhóm các nhà cải cách kinh tế có lư tưởng làm việc rất có hiệu quả lănh đạo chính phủ đó hiện nay. Đảng cầm quyền, Đảng Quốc đại, đồng thời đang t́m cách tiến hành cải cách kinh tế và làm cho Ấn Độ can dự với thế giới, biết rất rơ điều này và chú ư tới 80% dân số bị bỏ lại đằng sau, phần lớn là người nghèo ở nông thôn.
Về một ư nghĩa nào đó, những khó khăn của Ấn Độ vượt ra ngoài chính phủ v́ mặc dù sự giải thích lăng mạn được ḷng dân là về việc những đứa trẻ thông minh từ những làng quê nghèo khổ bước vào các trường đại học kỹ thuật và có được công ăn việc làm trở thành các nhà lập tŕnh phần mềm, đó là một mức độ không đáng kể dân chúng so với những người bị bỏ ra ngoài sự kỳ diệu về kinh tế này. Trên thực tế, một lần nữa, các nguồn gốc gây bất b́nh đẳng và thất vọng phần lớn là v́ ở nước Ấn Độ đích thực, thậm chí cho đến tận hôm nay, nhà nước làm nông nghiệp Ấn Độ vẫn quan trọng hơn nhiều so với nhà nước phần mềm. Nếu người ta nh́n vào nhà nước làm nông nghiệp Ấn Độ hiện nay, người ta nhận thấy một số khiếm khuyết và những điểm dễ bị tổn thương gây ấn tượng mạnh mẽ. Sự gia tăng dân số có nghĩa là mức độ sở hữu ruộng đất trở nên nhỏ hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, v́ hầu hết các cử tri vẫn ở các khu vực nông thôn, đây là một chính phủ dũng cảm ở Đêli đă t́m cách giải quyết vấn đề này.
Vấn đề là một sự kết hợp của các đơn vị nông trại quá nhỏ và các mặt hàng đầu vào quá đắt đỏ trong canh tác mà không có sự tài trợ sẽ tạo điều kiện cho nông dân mua được các mặt hàng đầu vào đó. Một hệ thống trợ cấp và kiểm soát giá cả phức tạp có nghĩa là nông dân chi trả nhiều cho đầu vào của họ, nhưng không thu được nhiều lợi nhuận ở đầu ra do giá cả thu mua tại nông trang đối với nông phẩm mà họ trồng được v́ chính phủ t́m cách bảo hộ giá lương thực ở các thành phố. Có t́nh trạng đầu tư ngày càng thấp vào việc đổi mới các loại hạt giống mà đă tạo ra cuộc cách mạng xanh và các giải pháp hoàn toàn chưa thỏa đáng cho vấn đề khan hiếm nước trong canh tác nông nghiệp của Ấn Độ. Và có nhiều khả năng dễ bị tổn thương trước mùa mưa mà sự thay đổi của nó đang tăng lên khi sự thay đổi khí hậu tăng lên. Vào tháng 6 năm nay, giá nông phẩm ở Ấn Độ tăng 25% do mùa mưa nghiêm trọng.
Khu vực tŕ trệ, khó khăn này chỉ đi theo một hướng, hiện tại đang tương đối xuống dốc. Điều mà người ta yêu cầu là thương mại hóa có hiệu quả khu vực này, không nhất thiết là thương mại hóa việc canh tác của tiểu chủ, nhưng tuy nhiên các công ty nông nghiệp lớn tham gia và cung cấp tài chính cho các tiểu nông, cung cấp hạt giống thế hệ mới cho những người nông dân đó, làm tăng thêm giá trị bằng cách đưa thêm khâu chế biến lương thực vào nền kinh tế nông thôn của Ấn Độ. Tuy nhiên, h́nh thức canh tác mang tính thương mại phần lớn bị loại bỏ bởi các hoạt động chính trị của khu vực; đây chỉ là một sự quan tâm bên lề.
Nhưng không ai sẵn sàng đảm nhiệm việc này và thực sự dẫn đến cuộc cách mạng xanh thứ hai ở Ấn Độ, mà sẽ phân phối tốt hơn hạt giống cho các tiểu nông, và sẽ giải quyết toàn bộ sự phức tạp của việc định giá, các nguyên liệu đầu vào, tài trợ và thương mại hóa sản phẩm của các nông trang theo cách vượt ra ngoài ư chí chính trị hiện nay nhằm giải quyết vấn đề này. Nếu Pháp, với 2% dân số của họ làm trong lĩnh vực nông nghiệp, nhận thấy về mặt chính trị rất khó cải cách nông nghiệp của Pháp, th́ Ấn Độ, với hơn một nửa dân số trong khu vực nông nghiệp, phải đối mặt với một thách thức quả thực làm nản ḷng.
Vấn đề bất b́nh đẳng này, là hậu quả của các khu vực nông thôn thất bại và tăng trưởng cao ở khu vực thành thị theo kiểu dịch vụ phần mềm, không giới hạn ở Ấn Độ và Trung Quốc. Nếu quay sang Thái Lan, chúng ta thật sự chứng kiến những đường lối sai lầm được bộc lộ mạnh mẽ trong những tháng gần đây. Đất nước lạ thường này trong nhiều thập kỷ qua đă giải quyết được phương thức phân phối của cải khá nhanh trong khi phân phối quyền lực chính trị chậm hơn nhiều. Dưới sự lănh đạo nhân từ của nhà Vua và một loạt tương đối ổn định các chính phủ dân chủ và, đôi khi, quân sự, chúng ta đă chứng kiến sự tiến triển của Thái Lan rất tốt.
Nhưng hiện nay nước này đă tan vỡ mạnh mẽ như ở bất cứ nơi nào khác ở châu Á. Vấn đề lại hoàn toàn không phải là đói nghèo. Vấn đề là sự bất b́nh đẳng mà là hậu quả của sự tăng trưởng kinh tế thành công. Một số nhóm ở Thái Lan cảm thấy họ đang bị bỏ lại đằng sau. Trên thực tế họ cảm thấy dễ chịu hơn so với 5 hoặc 10 năm trước, nhưng họ cảm thấy không sung túc bằng những người tương ứng với họ ở thành phố. Do đó khoảng cách giữa thành thị/nông thôn này mà chúng ta đang nhận thấy ở Thái Lan có thể là một ví dụ tiểu biểu nhất hiện nay về cái mà tôi nghi ngờ sẽ tự bộc lộ ở châu Á – những thách thức đối với sự ổn định xuất phát từ cái gọi là “sự bất công” của tăng trưởng kinh tế.
V́ vậy, nếu người ta xem xét lư giải công khai khác của tôi – nh́n nhận lạc quan về sự thành công, triển vọng của châu Á như một sự pḥng ngừa – nếu người ta xem xét thấu đáo những yếu tố của sự thịnh vượng đang gia tăng đó trong từng vấn đề th́ có sự khó khăn. Cho phép tôi chỉ nói đôi lời về vấn đề nhà ở, lương thực, xe ôtô, tiết kiệm so với tiêu dùng, các nguồn tài lực và môi trường. Trước hết nói về lĩnh vực nhà ở: một nửa dân số châu Á đă được đô thị hóa, điều đó có nghĩa là một nửa người dân châu Á sống ở các thành phố, và con số đó đang ngày càng tăng lên. Ngoài các thành phố lớn mà chúng ta đều biết rơ, Bắc Kinh cũng như Tôkyô, Băngcốc và Mumbai, có một loạt thành phố quy mô nhỏ hơn và do đó nằm dưới tầm theo dơi.
Ở Bộ Ngoại giao, tôi đă ngạc nhiên khi nhận thấy rằng chúng ta đă có các Tổng lănh sự ở các thành phố mà tôi chưa bao giờ nghe nói đến, và điều mà tôi không cho rằng Bộ Ngoại giao đă nghe nói về nó 20 năm trước! Với các thành phố thương mại mới trong khu vực của Trung Quốc và các nơi khác, đến năm 2015 sẽ có 253 thành phố ở châu Á với dân số từ 1 triệu đến 5 triệu. Con số đó không bao gồm tất cả các thành phố lớn; đây là toàn bộ tầng đô thị hóa thứ hai. Một khi người ta có thành phố trên một triệu dân, người ta gặp nhiều vấn đề về đô thị và người ta phải đầu tư nhiều vào cơ sở hạ tầng và các ngành dịch vụ để làm cho một cộng đồng có quy mô đó hoạt động có hiệu quả. Nói một cách thẳng thắn, không xảy ra nhiều ở Trung Quốc nhưng xảy ra ở các khu vực khác thuộc châu Á, người ta rất ít lập kế hoạch, tổ chức và đầu tư thích hợp cần thiết để làm cho các thành phố này trở thành những nơi hạnh phúc, thành công.
Thứ hai, tôi muốn nói về vấn đề lương thực. Có một cuộc cách mạng “ăn uống” diễn ra trong khắp khu vực với những người đi từ những chế độ phần lớn ăn chay gạo và ngũ cốc, sang những chế độ chủ yếu ăn thịt – đó là những ǵ mà tầng lớp trung lưu ăn ở mọi nơi, họ ăn bánh mỳ kẹp thịt nướng và họ ăn thịt trên bàn ăn mỗi ngày một lần, và người châu Á không khác ǵ so với phần c̣n lại của chúng ta. Trung Quốc đă tiêu thụ hơn một nửa lượng thịt lợn tiêu thụ trên thế giới. Nhưng vấn đề với chế độ ăn thịt là phải tốn một lượng nước tính theo đơn vị tiêu thụ cao gấp 10 lần so với ăn rau và ngũ cốc. Do đó ở một khu vực vốn đă căng thẳng về nước chúng ta đang gây ra một thách thức lớn mới, mà cùng với những nhu cầu quá mức về nước cho nền kinh tế công nghiệp và khu vực thành thị, có nghĩa là việc canh tác nông nghiệp lại đang bị cắt giảm.
Tôi thậm chí không cần đề cập đến việc thống kê về số lượng xe ôtô – vật sở hữu lớn mang tính biểu tượng của tầng lớp trung lưu – trừ việc nói rằng đường sá của Trung Quốc và Ấn Độ bị tắc nghẽn như người ta có thể h́nh dung. Trong khi đang t́m kiếm những giải pháp cho các hệ thống vận tải công cộng tốt hơn, thực tế là cho đến nay châu Á là thị trường tăng trưởng cao nhất về doanh số bán xe ôtô. Công ty General Motor hy vọng sẽ là một nhà sản xuất ôtô không chỉ bán hàng ở Bắc Mỹ mà c̣n bán hàng ở Trung Quốc. Đây là một gánh nặng lớn đè lên xă hội, cơ sở hạ tầng và môi trường. Điều này đi đôi với vấn đề gây thách thức thậm chí với một tầng lớp trung lưu đang nổi lên, vẫn có một tỉ lệ tiết kiệm rất cao đặc biệt ở Trung Quốc v́ việc chi tiêu tiền cho hàng tiêu dùng là chưa đủ.
Có thể rất là nguy hiểm nếu xuất hiện trước mặt một nhóm chuyên gia về châu Á và không đưa ra lập luận ǵ khác ngoài việc cho rằng “sự trỗi dậy của châu Á tất nhiên là điều không thể tránh được”. Nhưng tôi là một người “to gan” dám nhảy vào hang cọp. Cho phép tôi cố gắng và đưa ra một số lư giải cho niềm hân hoan hiện nay về châu Á.
Cho phép tôi nói ngay rằng, bất chấp tước vị là ǵ, tôi hy vọng các quư vị sẽ lắng nghe một bài phát biểu rất ủng hộ châu Á. Đây là một khu vực mà tôi đă dành một phần lớn cuộc đời ḿnh ở đó. Tôi đă sống, vào những năm 20 tuổi, ở Thái Lan. Tôi đă dành một khoảng thời gian 5 năm làm cố vấn cho Cory Aquino khi bà là Tổng thống Philíppin, gặp bà mỗi tháng một lần. Tôi đă giám sát các chương tŕnh của Ngân hàng Thế giới và UNDP khi tôi là Nhà quản lư của UNDP ở châu Á trong nhiều năm, và sau đó tôi là Bộ trưởng của Anh phụ trách về châu Á. Phần lớn cuộc đời tôi đă gắn bó với khu vực này.
Có hai dạng bài phát biểu về “Sự trỗi dậy của châu Á là điều không thể tránh được” mà người ta có thể đưa ra. Một là bài phát biểu chỉ có một từ về nó – đúng hơn là hai từ, đó là “hăy nhớ lại Nhật Bản”. V́, chắc chắn là trong trường hợp của tôi khi tôi là một nhà báo trẻ viết về các vấn đề quốc tế, dường như đă không thể tránh được về sự chi phối trong tương lai của Nhật Bản như hiện nay đối với khu vực châu Á nói chung. Tôi nhớ lại, khi đang làm việc ở Niu Yoóc, sự tức giận khi Trung tâm Rockefeller rơi vào tay Nhật Bản, tiếp ngay sau đó là Câu lạc bộ Pebble Beach Golf ở California . Những bài báo quá khích đăng trên các tạp chí và những cuốn sách về sự trỗi dậy của Nhật Bản chỉ gây kích động hơn. Vài thập kỷ sau, chúng ta đă thấy một đất nước vẫn rất hùng mạnh nhưng đang trong t́nh trạng giảm phát kinh tế nổi bật và sự suy giảm về sức mạnh kinh tế của nước này mà không ai dự đoán vào thời điểm đó.
Tuy nhiên, đó thực sự không phải là luận điểm của tôi. Không phải đơn giản lập luận rằng bất kể sự thông thái hiện nay đến đâu cũng thường là sai lầm, mặc dù, tôi nghĩ rằng, có phần nào đúng trong sự khẳng định đó. Đây là một luận điểm tương đối khác: rằng sự thành công của châu Á trong những thập kỷ gần đây là phi thường, nhưng nếu tiếp tục về lâu dài hơn sẽ càng trở nên khó khăn hơn. Những khó khăn mà châu lục này đă phải đối mặt trong những thập kỷ đầu tăng trưởng kinh tế nhanh, mặc dù những đă là đáng kể, hiện sẽ được tiếp theo bởi những thập kỷ mà việc duy tŕ các mức tăng trưởng đó sẽ là khó khăn hơn, chứ không phải dễ dàng hơn.
Một nhận xét cũng nên được đưa ra đầu tiên là các nhà sử học đă b́nh luận rằng về một ư nghĩa nào đó sự tăng trưởng đáng kể về kinh tế của Trung Quốc, đặc biệt tỉ phần của nước này trong GDP toàn cầu, và cũng tương tự là Ấn Độ, trên thực tế đang trở lại nguyên trạng trước đây ; rằng đây là mức mà Trung Quốc đă thường đạt được như một tỉ phần trong GDP toàn cầu cách đây vài trăm năm; rằng tỉ phần này đang trở lại mức trung b́nh trong lịch sử của nó, không có ǵ mới.
Tôi muốn nói rằng liệu có hay không một lư lẽ lịch sử để giải thích tại sao châu Á chỉ đang trở lại thời điểm mà nó đă từng là vậy, chẳng hạn, vào năm 1800 hoặc trước đó, hoặc liệu có phải người ta muốn lập luận rằng gốc rễ của sự tăng trưởng hiện nay là mạnh mẽ và sâu sắc đến mức khó thấy được làm sao mà đà tăng trưởng này sẽ dừng lại, tôi sẽ cắm một số lá cờ đỏ, hoặc có thể chúng chỉ là những lá cờ màu da cam.
Tôi muốn nói rằng mọi thứ mà chúng ta coi là không thể tránh được có ít trường hợp lựa chọn thay thế cho nó. Lư lẽ “không thể tránh được” dựa vào một số định đề. Tất nhiên, thứ nhất là lập luận mà chúng ta thường nghe thấy về châu Á, đó là sự nổi lên của tầng lớp trung lưu mới rộng răi này với những khởi đầu của thói quen tiêu dùng phương Tây. Đây là một nhóm, theo lập luận này, sẽ tạo ra sự ổn định, và sẽ là đầu máy tri thức và ngày càng, thông qua tiết kiệm và đầu tư và thông qua tiêu dùng của nó, trở thành động cơ tài chính của một sự tăng trưởng tự lực ở châu Á. Thứ hai, như là một kết quả, là khi chi phí lao động tăng lên ở châu Á chúng ta sẽ chứng kiến trước hết ở Trung Quốc và sau đó ở những nơi khác một sự thay thế vốn rất suôn sẻ cho lợi thế trước đây của lao động giá rẻ.
Chẳng hạn, Ấn Độ xét trên phạm vi rộng vẫn là một nền kinh tế có 20% khu vực hiện đại, 80% người dân vẫn sinh sống ở khu vực nông thôn với thu nhập rất thấp. Khu vực thứ hai đó cung cấp một lực lượng lao động gần như không hạn chế về những nam nữ thanh niên thông minh được thu hút vào các trường đại học kỹ thuật ở Bangolore và các nơi khác và trở thành các nhà lập tŕnh phần mềm thuộc thế hệ tiếp theo. Việc hỗ trợ điều đó sẽ là để cho tầng lớp trung lưu mới của Ấn Độ đưa sự tăng trưởng kinh tế đến với người nghèo vùng nông thôn.
Lập luận mà người ta thường thấy được nhắc đi nhắc lại hết lần này đến lần khác trên các phương tiện truyền thông của phương Tây là sự thịnh vượng đang nổi lên này của châu Á là một h́nh thức pḥng ngừa; rằng có một dạng giấc mơ tiêu dùng đằng sau đó mà người châu Á sắp đầu tư những thu nhập mới của họ vào tất cả những thứ tương tự mà chúng ta, và người dân Mỹ, đă đầu tư thu nhập của chúng ta khi chúng ta bắt đầu trở nên giàu có hơn: một chiếc ôtô thứ hai hay chiếc ôtô thứ nhất và một gara, vô tuyến truyền h́nh, các đồ dùng điện tử v.v…
Cuối cùng phần c̣n lại của thế giới tỏ ra thiện ư về sự tăng trưởng của châu Á. Đôi khi có căi vă về buôn bán với Mỹ hoặc với châu Âu. Tuy nhiên, nói chung có tinh thần hoan nghênh và không nói về cuộc xung đột giữa phương Tây và châu Á với bất cứ sự nghiêm trọng thực sự nào. Trên thực tế chúng ta nhận thấy các thể chế phương Tây được điều chỉnh và thích nghi, tạo không gian lớn hơn cho tiếng nói của châu Á. Người ta nói về cuộc cải cách của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc cho phép có thêm các nước thành viên châu Á tham gia hội đồng này, trong số những vấn đề khác, và G-20 mới đă thay thế G-8 nơi một lần nữa tiếng nói của châu Á được dành thêm nhiều không gian hơn so với trước đây.
Chúng ta chứng kiến châu Á giành thắng lợi trong nhiều cuộc chiến để đảm bảo an toàn cho các nguồn tài nguyên thiên nhiên mà châu lục này cần cho cơ sở công nghiệp hóa của nó. Chúng ta nhận thấy những nỗ lực mạnh mẽ mà châu lục này đang thực hiện để đảm bảo tiếp cận dầu lửa và các kim loại quư ở châu Phi. Chúng ta nhận thấy con đường đă làm cho Ôxtrâylia trở nên giàu có, v́ Ôxtrâylia là một nguồn khoáng sản và nhiều nguyên liệu thô khác cần thiết cho sự trỗi dậy của châu Á.
Tôi muốn xem xét một loạt giả định này mà tôi vừa phác thảo, điều củng cố rất nhiều cho những phân tích về sự thành công của châu Á. Trước hết tôi muốn xem xét kỹ ư niệm về tầng lớp trung lưu của châu Á và việc nó là nền tảng của sự ổn định và thịnh vượng đối với khu vực. Lập luận này cho rằng ở Trung Quốc tầng lớp trung lưu quá vui mừng về việc nó là tầng lớp trung lưu đến mức không đ̣i tự do chính trị, do đó những năng lực của nó được dành hoàn toàn vào việc cải thiện vị thế kinh tế của các gia đ́nh tầng lớp trung lưu, đảm bảo cho trẻ em tiếp cận nền giáo dục tốt nhất của Trung Quốc hoặc phương Tây và không có sức lực hay sự khích lệ nào được dành cho phản kháng chính trị.
Ở một mức độ nào đó điều đó là đúng, nhưng ở các khu vực nông thôn và thị trấn nhỏ ở Trung Quốc, nơi sự bóc lột và t́nh trạng rời bỏ nhà cửa ở mức độ cao hơn nhiều, chúng ta đă chứng kiến có tới 90.000 vụ phản kháng xă hội mỗi năm. Điều đó cho thấy mức độ xung đột xă hội tiềm ẩn như núi lửa ở Trung Quốc mà hiếm khi được phản ánh không chỉ trên các phương tiện truyền thông chính thức của Trung Quốc, mà thậm chí trên phương tiện truyền thông của phương Tây về nước này. Cơ quan tư vấn chiến lược của chính phủ Trung Quốc, Viện Xă hội Khoa học Trung Quốc, đưa tin năm 2009 rằng trên cơ sở từng năm phản kháng xă hội đang tăng lên ở nước này.
Chính phủ Trung Quốc có khả năng hơn biết rất rơ điều này và đang t́m cách giải quyết nó bằng cách phản ứng ở mức độ cao với những sự kiện khi chúng diễn ra, bằng cả “cái Gậy to” khi cần thiết, nhưng thường xuyên hơn nhiều bằng cách cố gắng xử lư nguồn gốc của các cuộc biểu t́nh này, xử lư nạn tham nhũng hoặc các chính quyền thành phố địa phương làm việc không có hiệu quả đă gây ra cuộc biểu t́nh, t́m cách loại bỏ các nhà doanh nghiệp tham nhũng và các chủ đất chiếm dụng đất công và chiếm đoạt ruộng đất từ tay nông dân, lẫn đánh mạnh vào nạn tham nhũng nói chung. Trung Quốc có thể là nước duy nhất trên thế giới nơi tham nhũng vẫn là một tội danh bị h́nh phạt treo cổ.
Quả thực, gần đây một số người, trong đó có một bộ trưởng, bị treo cổ v́ tham nhũng. Mặc dù vậy, không phải người Trung Quốc không nhận ra những nguy hiểm mà những loại vấn đề này gây ra đối với sự ổn định chính trị của nước này. Khi có thiên tai các quan chức phê phán kịch liệt những trường học nơi những học sinh bị thiệt mạng v́ luật xây dựng không được tuân thủ, và họ truy tố các kiến trúc sư, các kỹ sư và các quan chức thành phố những người cho phép xây dựng các ṭa nhà dưới chuẩn. Tôi cho rằng đây không phải là t́nh h́nh của một chính phủ không biết ǵ về các sức ép xă hội ngấm ngầm như núi lửa dưới mặt đất ở Trung Quốc. Hoàn toàn trái ngược. Tôi cho rằng họ biết rơ các vấn đề và tham gia t́m cách giải quyết chúng. Nhưng tôi nghĩ rằng vấn đề thực sự là khi người ta có một tầng lớp trung lưu ở một đất nước th́ người ta cũng gần như chắc chắn, trong giai đoạn phát triển này, có sự bất b́nh đẳng ngày càng nhiều.
Một người bạn thân của tôi làm việc ở UNDP, một quan chức cấp cao Trung Quốc, thường nói với tôi rằng Trung Quốc phải hiểu rằng để mọi người trở nên giàu có hơn, trong một khoảng thời gian một số người phải giàu có trước để phát triển vốn, các khoản tiền tiết kiệm và sự lănh đạo cần thiết để mang lại sự giàu có cho phần c̣n lại của xă hội. Nhưng đó là một giai đoạn rất nguy hiểm trong quá tŕnh phát triển của bất cứ xă hội nào nơi ở một mức độ rơ ràng nào đó một nhóm nhỏ đang trở nên giàu có và những người khác cảm thấy họ bị những thay đổi này bỏ rơi.
Loại khó khăn này xuất hiện ở Trung Quốc cũng xuất hiện ở Ấn Độ, nơi trên thực tế cuộc nổi dậy của những người Maoít ở các vùng nông thôn hiện nay tồi tệ hơn so với cuộc nổi dậy đă diễn ra trong một thời gian rất dài, bất chấp thực tế rằng Ấn Độ có thể đang có một chính phủ tốt nhất mà nước này đă có trong một thời gian rất dài. Ấn Độ rơ ràng là một nước dân chủ và có một nhóm các nhà cải cách kinh tế có lư tưởng làm việc rất có hiệu quả lănh đạo chính phủ đó hiện nay. Đảng cầm quyền, Đảng Quốc đại, đồng thời đang t́m cách tiến hành cải cách kinh tế và làm cho Ấn Độ can dự với thế giới, biết rất rơ điều này và chú ư tới 80% dân số bị bỏ lại đằng sau, phần lớn là người nghèo ở nông thôn.
Về một ư nghĩa nào đó, những khó khăn của Ấn Độ vượt ra ngoài chính phủ v́ mặc dù sự giải thích lăng mạn được ḷng dân là về việc những đứa trẻ thông minh từ những làng quê nghèo khổ bước vào các trường đại học kỹ thuật và có được công ăn việc làm trở thành các nhà lập tŕnh phần mềm, đó là một mức độ không đáng kể dân chúng so với những người bị bỏ ra ngoài sự kỳ diệu về kinh tế này. Trên thực tế, một lần nữa, các nguồn gốc gây bất b́nh đẳng và thất vọng phần lớn là v́ ở nước Ấn Độ đích thực, thậm chí cho đến tận hôm nay, nhà nước làm nông nghiệp Ấn Độ vẫn quan trọng hơn nhiều so với nhà nước phần mềm. Nếu người ta nh́n vào nhà nước làm nông nghiệp Ấn Độ hiện nay, người ta nhận thấy một số khiếm khuyết và những điểm dễ bị tổn thương gây ấn tượng mạnh mẽ. Sự gia tăng dân số có nghĩa là mức độ sở hữu ruộng đất trở nên nhỏ hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, v́ hầu hết các cử tri vẫn ở các khu vực nông thôn, đây là một chính phủ dũng cảm ở Đêli đă t́m cách giải quyết vấn đề này.
Vấn đề là một sự kết hợp của các đơn vị nông trại quá nhỏ và các mặt hàng đầu vào quá đắt đỏ trong canh tác mà không có sự tài trợ sẽ tạo điều kiện cho nông dân mua được các mặt hàng đầu vào đó. Một hệ thống trợ cấp và kiểm soát giá cả phức tạp có nghĩa là nông dân chi trả nhiều cho đầu vào của họ, nhưng không thu được nhiều lợi nhuận ở đầu ra do giá cả thu mua tại nông trang đối với nông phẩm mà họ trồng được v́ chính phủ t́m cách bảo hộ giá lương thực ở các thành phố. Có t́nh trạng đầu tư ngày càng thấp vào việc đổi mới các loại hạt giống mà đă tạo ra cuộc cách mạng xanh và các giải pháp hoàn toàn chưa thỏa đáng cho vấn đề khan hiếm nước trong canh tác nông nghiệp của Ấn Độ. Và có nhiều khả năng dễ bị tổn thương trước mùa mưa mà sự thay đổi của nó đang tăng lên khi sự thay đổi khí hậu tăng lên. Vào tháng 6 năm nay, giá nông phẩm ở Ấn Độ tăng 25% do mùa mưa nghiêm trọng.
Khu vực tŕ trệ, khó khăn này chỉ đi theo một hướng, hiện tại đang tương đối xuống dốc. Điều mà người ta yêu cầu là thương mại hóa có hiệu quả khu vực này, không nhất thiết là thương mại hóa việc canh tác của tiểu chủ, nhưng tuy nhiên các công ty nông nghiệp lớn tham gia và cung cấp tài chính cho các tiểu nông, cung cấp hạt giống thế hệ mới cho những người nông dân đó, làm tăng thêm giá trị bằng cách đưa thêm khâu chế biến lương thực vào nền kinh tế nông thôn của Ấn Độ. Tuy nhiên, h́nh thức canh tác mang tính thương mại phần lớn bị loại bỏ bởi các hoạt động chính trị của khu vực; đây chỉ là một sự quan tâm bên lề.
Nhưng không ai sẵn sàng đảm nhiệm việc này và thực sự dẫn đến cuộc cách mạng xanh thứ hai ở Ấn Độ, mà sẽ phân phối tốt hơn hạt giống cho các tiểu nông, và sẽ giải quyết toàn bộ sự phức tạp của việc định giá, các nguyên liệu đầu vào, tài trợ và thương mại hóa sản phẩm của các nông trang theo cách vượt ra ngoài ư chí chính trị hiện nay nhằm giải quyết vấn đề này. Nếu Pháp, với 2% dân số của họ làm trong lĩnh vực nông nghiệp, nhận thấy về mặt chính trị rất khó cải cách nông nghiệp của Pháp, th́ Ấn Độ, với hơn một nửa dân số trong khu vực nông nghiệp, phải đối mặt với một thách thức quả thực làm nản ḷng.
Vấn đề bất b́nh đẳng này, là hậu quả của các khu vực nông thôn thất bại và tăng trưởng cao ở khu vực thành thị theo kiểu dịch vụ phần mềm, không giới hạn ở Ấn Độ và Trung Quốc. Nếu quay sang Thái Lan, chúng ta thật sự chứng kiến những đường lối sai lầm được bộc lộ mạnh mẽ trong những tháng gần đây. Đất nước lạ thường này trong nhiều thập kỷ qua đă giải quyết được phương thức phân phối của cải khá nhanh trong khi phân phối quyền lực chính trị chậm hơn nhiều. Dưới sự lănh đạo nhân từ của nhà Vua và một loạt tương đối ổn định các chính phủ dân chủ và, đôi khi, quân sự, chúng ta đă chứng kiến sự tiến triển của Thái Lan rất tốt.
Nhưng hiện nay nước này đă tan vỡ mạnh mẽ như ở bất cứ nơi nào khác ở châu Á. Vấn đề lại hoàn toàn không phải là đói nghèo. Vấn đề là sự bất b́nh đẳng mà là hậu quả của sự tăng trưởng kinh tế thành công. Một số nhóm ở Thái Lan cảm thấy họ đang bị bỏ lại đằng sau. Trên thực tế họ cảm thấy dễ chịu hơn so với 5 hoặc 10 năm trước, nhưng họ cảm thấy không sung túc bằng những người tương ứng với họ ở thành phố. Do đó khoảng cách giữa thành thị/nông thôn này mà chúng ta đang nhận thấy ở Thái Lan có thể là một ví dụ tiểu biểu nhất hiện nay về cái mà tôi nghi ngờ sẽ tự bộc lộ ở châu Á – những thách thức đối với sự ổn định xuất phát từ cái gọi là “sự bất công” của tăng trưởng kinh tế.
V́ vậy, nếu người ta xem xét lư giải công khai khác của tôi – nh́n nhận lạc quan về sự thành công, triển vọng của châu Á như một sự pḥng ngừa – nếu người ta xem xét thấu đáo những yếu tố của sự thịnh vượng đang gia tăng đó trong từng vấn đề th́ có sự khó khăn. Cho phép tôi chỉ nói đôi lời về vấn đề nhà ở, lương thực, xe ôtô, tiết kiệm so với tiêu dùng, các nguồn tài lực và môi trường. Trước hết nói về lĩnh vực nhà ở: một nửa dân số châu Á đă được đô thị hóa, điều đó có nghĩa là một nửa người dân châu Á sống ở các thành phố, và con số đó đang ngày càng tăng lên. Ngoài các thành phố lớn mà chúng ta đều biết rơ, Bắc Kinh cũng như Tôkyô, Băngcốc và Mumbai, có một loạt thành phố quy mô nhỏ hơn và do đó nằm dưới tầm theo dơi.
Ở Bộ Ngoại giao, tôi đă ngạc nhiên khi nhận thấy rằng chúng ta đă có các Tổng lănh sự ở các thành phố mà tôi chưa bao giờ nghe nói đến, và điều mà tôi không cho rằng Bộ Ngoại giao đă nghe nói về nó 20 năm trước! Với các thành phố thương mại mới trong khu vực của Trung Quốc và các nơi khác, đến năm 2015 sẽ có 253 thành phố ở châu Á với dân số từ 1 triệu đến 5 triệu. Con số đó không bao gồm tất cả các thành phố lớn; đây là toàn bộ tầng đô thị hóa thứ hai. Một khi người ta có thành phố trên một triệu dân, người ta gặp nhiều vấn đề về đô thị và người ta phải đầu tư nhiều vào cơ sở hạ tầng và các ngành dịch vụ để làm cho một cộng đồng có quy mô đó hoạt động có hiệu quả. Nói một cách thẳng thắn, không xảy ra nhiều ở Trung Quốc nhưng xảy ra ở các khu vực khác thuộc châu Á, người ta rất ít lập kế hoạch, tổ chức và đầu tư thích hợp cần thiết để làm cho các thành phố này trở thành những nơi hạnh phúc, thành công.
Thứ hai, tôi muốn nói về vấn đề lương thực. Có một cuộc cách mạng “ăn uống” diễn ra trong khắp khu vực với những người đi từ những chế độ phần lớn ăn chay gạo và ngũ cốc, sang những chế độ chủ yếu ăn thịt – đó là những ǵ mà tầng lớp trung lưu ăn ở mọi nơi, họ ăn bánh mỳ kẹp thịt nướng và họ ăn thịt trên bàn ăn mỗi ngày một lần, và người châu Á không khác ǵ so với phần c̣n lại của chúng ta. Trung Quốc đă tiêu thụ hơn một nửa lượng thịt lợn tiêu thụ trên thế giới. Nhưng vấn đề với chế độ ăn thịt là phải tốn một lượng nước tính theo đơn vị tiêu thụ cao gấp 10 lần so với ăn rau và ngũ cốc. Do đó ở một khu vực vốn đă căng thẳng về nước chúng ta đang gây ra một thách thức lớn mới, mà cùng với những nhu cầu quá mức về nước cho nền kinh tế công nghiệp và khu vực thành thị, có nghĩa là việc canh tác nông nghiệp lại đang bị cắt giảm.
Tôi thậm chí không cần đề cập đến việc thống kê về số lượng xe ôtô – vật sở hữu lớn mang tính biểu tượng của tầng lớp trung lưu – trừ việc nói rằng đường sá của Trung Quốc và Ấn Độ bị tắc nghẽn như người ta có thể h́nh dung. Trong khi đang t́m kiếm những giải pháp cho các hệ thống vận tải công cộng tốt hơn, thực tế là cho đến nay châu Á là thị trường tăng trưởng cao nhất về doanh số bán xe ôtô. Công ty General Motor hy vọng sẽ là một nhà sản xuất ôtô không chỉ bán hàng ở Bắc Mỹ mà c̣n bán hàng ở Trung Quốc. Đây là một gánh nặng lớn đè lên xă hội, cơ sở hạ tầng và môi trường. Điều này đi đôi với vấn đề gây thách thức thậm chí với một tầng lớp trung lưu đang nổi lên, vẫn có một tỉ lệ tiết kiệm rất cao đặc biệt ở Trung Quốc v́ việc chi tiêu tiền cho hàng tiêu dùng là chưa đủ.