Hanna
11-19-2011, 21:28
Phạm Trần
Chống tham nhũng-lăng phí ở Việt Nam là truyện dài không có đoạn kết. Mỗi lần đảng hứa sẽ “kiên quyết, kiên tŕ, thực hiện đồng bộ các giải pháp trong đấu tranh Pḥng chống Tham nhũng” th́ tham nhũng lại chương ph́nh ra to hơn trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên.
Chuyện ḷng ṿng này cứ như con thoi chạy từ cấp cao xuống cấp thấp rồi lại tất tưởi quay đầu chạy từ địa phương về trung ương từ năm này qua năm khác, dù Việt Nam đă có Luật pḥng, chống Tham nhũng từ ngày 29 tháng 11 năm 2005.
Đến ngày 04 tháng 8 năm 2007, Quốc hội lại bổ sung thêm điều 73 thành lập Ban chỉ đạo pḥng, chống tham nhũng. Thủ tướng Chính phủ được chỉ định làm Trưởng ban ở Trung ương, và Ban chỉ đạo tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về pḥng, chống tham nhũng do Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh đứng đầu.
Điều 74 (bổ sung) quy định các cấp bậc giám sát công tác pḥng, chống tham nhũng theo hệ thống như sau:
1. Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội giám sát công tác pḥng, chống tham nhũng trong phạm vi cả nước.
2. Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của ḿnh giám sát công tác pḥng ngừa tham nhũng thuộc lĩnh vực do ḿnh phụ trách.
Ủy ban tư pháp của Quốc hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của ḿnh giám sát việc phát hiện và xử lư hành vi tham nhũng.
3. Hội đồng nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của ḿnh có trách nhiệm giám sát công tác pḥng, chống tham nhũng tại địa phương.
4. Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của ḿnh giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về pḥng, chống tham nhũng.”
Như vậy tưởng rằng kẻ tham nhũng sẽ hết đường chạy. Nhưng chúng lại đi tắt về ngang nhanh hơn và tinh vi hơn v́ những kẻ tham nhũng, phần lớn là lớp người có chức có quyền đă bắc cầu và bao che cho nhau để đục khoét công quỹ và cướp tiền của mồ hôi, nước mắt đóng thuế của dân.
Nhưng chuyện chống tham nhũng lại trớ trêu ở chỗ kẻ lănh đạo, rất nhiều khi tham nhũng, lại đứng đầu cơ quan chống tham nhũng nên mới có chuyện bàn tán trong dân như nhà nước “vừa đá bóng, vừa thổi c̣i”. Cuối cùng không bắt được kẻ tham nhũng mà, trong nhiều trường hợp, người có công tố cáo kẻ tham nhũng lại bị những người đứng đầu, các quan đầu tỉnh, đầu ngành trù dập, trả thù từ đời cha đến đời con nên không ai dám tố cáo nữa.
Vậy Quốc hội và những cơ quan, tổ chức được Luật giao trách nhiệm giám sát công tác chống tham nhũng đă làm ǵ mà để cho những kẻ tham nhũng vẫn khơi khơi ng̣ai xă hội ?
Trả lời cho thắc mắc này không khó. Nếu làm đúng theo luật th́ tham nhũng đă giảm bớt rất nhiều. V́ Luật không được thi hành, trong nhiều trường hợp người có quyền giám sát không ai cho giám sát hay không dám giám sát v́ địa phương hay cơ quan không hợp tác nên đành quay lưng cho an phận.
Điển h́nh như đánh giá của Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng, trong phiên họp của Ban Chỉ đạo Trung ương về Pḥng chống tham nhũng (BCĐ-PCTN) ngày 15/11 (2011), tại Hà Nội, cho rằng “t́nh trạng khiếu kiện, đơn thư, tố cáo về PCTN; số vụ việc tham nhũng giảm hẳn. Tuy nhiên,: “Hành vi tham nhũng đă trở nên tinh vi hơn, khó phát hiện hơn. Bên cạnh đó, quá tŕnh xử lư, điều tra, truy tố, xét xử phải tuân theo quy định của pháp luật nên thường chậm, kéo dài, dẫn đến tâm tư lo lắng, hoài nghi trong nhân dân về sự kiên quyết, nghiêm minh trong đấu tranh PCTN.”
Theo tường thuật của Báo chí trong nước th́ Dũng “mong muốn, các thành viên BCĐ tiếp tục đề cao hơn nữa trách nhiệm trước Đảng, trước Nhà nước, kiên quyết, kiên tŕ, thực hiện đồng bộ các giải pháp trong đấu tranh PCTN.”
Nhưng kiên quyết, kiên tŕ đến bao giờ ?
Hăy nghe Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư đảng báo cáo tại Đại hội đảng XI ngày 12 tháng 1/2011 : “Tệ quan liêu, tham nhũng, lăng phí, tội phạm, tệ nạn xă hội, suy thoái đạo đức, lối sống... chưa được ngăn chặn, đẩy lùi.”
Nên biết Mạnh đă thay Lê Khả Phiên giừ chức Tổng Bí thư từ Khoá IX năm 2001, tiếp tục Khóa X đến năm 2011, nên trong suốt 10 năm giữ chức cao nhất trong đảng, Mạnh đă bất lực trước nạn tham nhũng như các Tổng Bí thư tiền nhiệm, trong đó có Lê Khả Phiêu (Khóa VIII), Đỗ Mười (Khóa VII).
Ng̣ai Mạnh, Thường trực Ban Bí thư đảng Trương Tấn Sang (Khóa X) c̣n Báo cáo tiếp thu giải tŕnh của Đoàn Chủ tịch về ư kiến thảo luận của các đại biểu đối với các văn kiện Đại hội XI của Đảng.
Về lĩnh vực tham nhũng, Sang nói: “ T́nh trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lăng phí là nghiêm trọng.”
Ng̣ai ra Mạnh c̣n hứa đảng sẽ : “Thực hiện có hiệu quả việc kê khai và công khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức theo quy định; xác định rơ trách nhiệm người đứng đầu khi để cơ quan, đơn vị xảy ra tham nhũng, lăng phí; xử lư đúng pháp luật, kịp thời, công khai cán bộ tham nhũng, tịch thu sung công tài sản tham nhũng và có nguồn gốc từ tham nhũng; có cơ chế khuyến khích và bảo vệ người đấu tranh chống tham nhũng, lăng phí, tiêu cực; tổng kết, đánh giá cơ chế, mô h́nh tổ chức cơ quan pḥng, chống tham nhũng để có chủ trương, giải pháp phù hợp.”
Nhưng tại sao Mạnh đă đổ trách nhiệm nặng nề này sang cho Nguyễn Phú Trọng, người thay Mạnh giữ chức Tổng Bí thưu Khoá XI, sau 10 năm không làm được ?
Thứ nhất, việc kê khai Tài sản chỉ làm có h́nh thức. Khai rồi, nạp cho Thủ trưởng cất đi. Không ai có quyền đ̣i xem v́ chưa có luật cho phép công khai, trừ trường hợp sau đó người khai bị tố cáo tham nhũng th́ hồ sơ mới được Ban điều tra mở ra xem.
Thứ hai, chưa có người đứng đầu cơ quan nào có cán bộ bị tố cáo tham nhũng bị cất chức, kỷ luật v́ người đứng đầu cơ quan cũng là người chịu trách nhiệm thi hành Luật chống Tham nhũng nên không ai dại ǵ lại vạch áo cơ quan ḿnh cho người xem lưng !
Nhưng ai phải kê khai tài sản ?
Theo Nghị định 37/2007/NĐ-CP th́ người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập gồm:
1. Đại biểu Quốc hội chuyên trách, đại biểu Hội đồng nhân dân chuyên trách, người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.
2. Cán bộ, công chức từ phó trưởng pḥng của Ủy ban nhân dân cấp huyện trở lên và người được hưởng phụ cấp chức vụ tương đương phó trưởng pḥng của Ủy ban nhân dân cấp huyện trở lên trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.
3. Sĩ quan giữ cương vị chỉ huy từ cấp phó tiểu đoàn trưởng, phó chỉ huy trưởng ban chỉ huy quân sự cấp huyện trở lên trong Quân đội nhân dân; sĩ quan giữ cương vị chỉ huy từ cấp phó tiểu đoàn trưởng, phó trưởng công an phường, thị trấn, phó đội trưởng trở lên trong Công an nhân dân.
4. Giám đốc, phó giám đốc, viện trưởng, phó viện trưởng, kế toán trưởng, trưởng pḥng, phó trưởng pḥng, trưởng khoa, phó trưởng khoa, bác sĩ chính tại các bệnh viện, viện nghiên cứu của Nhà nước.
5. Tổng biên tập, phó tổng biên tập, kế toán trưởng, trưởng pḥng, phó trưởng pḥng, trưởng ban, phó trưởng ban báo, tạp chí có sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước.
6. Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, kế toán trưởng trường mầm non, tiểu học của Nhà nước tại quận, thị xă, thành phố thuộc tỉnh; hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, kế toán trưởng trường trung học cơ sở, trung học phổ thông, trường trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề, trung tâm giáo dục thường xuyên của Nhà nước; hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, kế toán trưởng, trưởng pḥng, phó trưởng pḥng, trưởng khoa, phó trưởng khoa, giảng viên chính trường đại học, cao đẳng của Nhà nước.
7. Giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng, trưởng pḥng, phó trưởng pḥng, trưởng ban, phó trưởng ban tại ban quản lư dự án đầu tư xây dựng có sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước; giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng ban quản lư dự án sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA).
8. Tổng giám đốc, phó tổng giám đốc, giám đốc, phó giám đốc, chủ tịch hội đồng quản trị, phó chủ tịch hội đồng quản trị, thành viên hội đồng quản trị, trưởng ban kiểm soát, phó trưởng ban kiểm soát, thành viên ban kiểm soát, kế toán trưởng, trưởng pḥng, phó trưởng pḥng, trưởng ban, phó trưởng ban các pḥng, ban nghiệp vụ trong công ty nhà nước; người được Nhà nước cử giữ chức vụ kể trên trong doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước.
9. Bí thư, phó bí thư Đảng ủy; chủ tịch, phó chủ tịch Hội đồng nhân dân; chủ tịch, phó chủ tịch, uỷ viên Ủy ban nhân dân xă, phường, thị trấn; trưởng công an, chỉ huy trưởng quân sự xă; cán bộ địa chính - xây dựng, tài chính - kế toán của Ủy ban nhân dân xă, phường, thị trấn.
10. Điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, thư kư toà án, kiểm toán viên nhà nước, thanh tra viên, chấp hành viên, công chứng viên nhà nước.
11. Bộ trưởng Bộ Nội vụ, sau khi thống nhất với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ nhiệm Văn pḥng Quốc hội, Chủ nhiệm Văn pḥng Chủ tịch nước, Chánh Văn pḥng Trung ương Đảng, Trưởng các ban của Trung ương Đảng, người đứng đầu cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xă hội, tŕnh Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh sách đối với người có nghĩa vụ phải kê khai tài sản, thu nhập là: người làm công tác quản lư ngân sách, tài sản của Nhà nước hoặc trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong cơ quan hành chính nhà nước các cấp, cơ quan của Đảng, tổ chức chính trị - xă hội, Văn pḥng Quốc hội, Văn pḥng Hội đồng nhân dân, Văn pḥng Chủ tịch nước.
Thành phần phải khai như vậy là rất kỹ, rất ít người được lọt sổ nhưng tại sao vẫn có rất nhiều cán bộ, đảng viên lương ít mà vẫn có tiền mua nhiều nhà, tậu nhiều đất, nhiều xe sang và dư tiền gửi con ra nước ng̣ai du học ?
Không ai ở Việt Nam có thể trả lời được, nhưng đảng không thể nói không biết hay không t́m ra manh mối được, nếu muốn làm đến nơi đến chốn.
Đă có một số Đại biểu Quốc hội đ̣i nhà nước làm cuộc tổng kiểm tra nhưng không ai hưởng ứng v́ anh nào tay cũng nhúng chàm cả nên không dám xung phong.
VẪN ĐỨNG TRƯỚC MẶT
V́ vậy, nếu nhà nước làm như đă nói th́ làm ǵ c̣n có Báo cáo của Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá XIII, ngày 20 tháng 10 năm 2011 nh́n nhận: “Tham nhũng, lăng phí chưa được đẩy lùi.”
Trong năm 2010, Nguyễn Tấn Dũng cũng báo cáo như thế tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XII, ngày 20 tháng 10 năm 2010: “Kết quả pḥng chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm c̣n hạn chế.”
Như vậy có phải t́nh trạng tham nhũng vẫn tồn tại và nhà nước đă ḥan ṭan bất lực không ?
Bằng chứng khác về bất lực của đảng đă diễn ra tại phiên họp thứ 3 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 14/10 (2011), khi các Đại biểu thảo luận và cho ư kiến về báo cáo công tác pḥng, chống tham nhũng và báo cáo công tác thực hành tiết kiệm, chống lăng phí năm 2011 của Chính phủ.
Báo Điện tử của đảng CSVN viết : “Báo cáo công tác pḥng, chống tham nhũng năm 2011, Tổng Thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh nêu rơ: Công tác truyền thông, giáo dục về pḥng chống tham nhũng tiếp tục được quan tâm thực hiện. Nhiều văn bản cần thiết, quan trọng đă được ban hành, sửa đổi, bổ sung. Các giải pháp pḥng ngừa tham nhũng từng bước phát huy tác dụng, mang lại hiệu quả nhất định, củng cố niềm tin trong nhân dân và dư luận quốc tế….Tuy nhiên, Tổng Thanh tra cũng thừa nhận rằng, nh́n chung, t́nh trạng tham nhũng vẫn c̣n phức tạp, chưa thực hiện được mục tiêu đề ra là ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng.”
Trong khi đó, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội cũng phê b́nh: “Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về pḥng chống tham nhũng vẫn c̣n h́nh thức, chưa thiết thực, hiệu quả chưa cao. Người dân, ngay cả cán bộ, công chức, viên chức vẫn coi pḥng chống tham nhũng là công việc của Nhà nước, ít quan tâm tới việc phát hiện, tố cáo tham nhũng. Một bộ phận người dân v́ công việc riêng sẵn sàng đưa hối lộ để được việc.
Ủy ban Tư pháp cũng cho rằng, nhiều hạn chế đă được chỉ ra tại báo cáo thẩm tra những năm trước vẫn chưa được khắc phục. Báo cáo của Chính phủ chưa chỉ rơ cơ quan nào làm tốt hay chưa tốt công tác pḥng chống tham nhũng, cũng chưa làm rơ được là tham nhũng tăng hay giảm.”
Ủy ban Tài chính – Ngân sách đánh giá: “Mặc dù đạt được nhiều kết quả quan trọng, song cho rằng t́nh trạng lăng phí thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật thực hành tiết kiệm, chống lăng phí vẫn c̣n tồn tại trên tất cả các lĩnh vực và ở các mức độ khác nhau. Báo cáo của Chính phủ và hầu hết báo cáo của các bộ, ngành, địa phương đánh giá về t́nh trạng lăng phí c̣n thiếu tính cụ thể.”
Trong một bài viết khác, Tác gỉa Đặng Hiếu phơi bầy trên trang báo Điện tử của Đảng ngày 17/01/2011 rằng : “Theo Bảng xếp hạng về tham nhũng của Tổ chức Minh bạch quốc tế, năm 2010 Việt Nam được 2,7/10 điểm (những nước có điểm số dưới 5 bị coi là có t́nh trạng tham nhũng cao). Cũng theo Tổ chức Minh bạch quốc tế, năm 2009, Việt Nam được 2,7/10; trong các năm 2005-2008, Việt Nam đều ở mức 2,6/10, bằng năm 2001 (năm 2001 cũng ở mức 2,6/10). Điều này cho thấy, t́nh trạng tham nhũng ở Việt Nam hầu như chưa được cải thiện đáng kể.
Chúng ta cần kiềm chế và ngăn chặn tham nhũng; coi đây là một ưu tiên phát triển v́ tham nhũng luôn là một mối đe doạ đối với tiến bộ xă hội. Tham nhũng làm huỷ hoại ḷng tin của các nhà đầu tư trong và ngoài nước; làm kiệt quệ năng lực của Chính phủ và làm ảnh hưởng đến lợi ích của toàn xă hội. Nghiêm trọng hơn, tham nhũng làm tổn hại các giá trị và các chuẩn mực xă hội, làm giảm ḷng tin của người dân đối với một số đội ngũ cán bộ lănh đạo suy thoái.”
Đặng Hiếu c̣n tiết lộ: “Theo một kết quả nghiên cứu của Ban Nội chính Trung ương năm 2005 cho thấy, các cơ quan liên quan đến đất đai, hải quan, cảnh sát giao thông, thuế, cơ quan cấp phép xây dựng là nơi nạn tham nhũng nghiêm trọng nhất. H́nh thức tham nhũng ở Việt Nam rất đa dạng, nhưng phổ biến nhất là cố t́nh gây trở ngại để nhận hối lộ; nhận hối lộ để đổi lấy một số ưu đăi, sử dụng tài sản công để tư lợi.”
Như vậy đảng đă hết thuốc chữa chưa ? Hay những thứ xấu xa này cũng lại do các “thế lực thù địch” và “diễn biến ḥa b́nh” bịa đặt ra để nói xấu cán bộ đảng viên và bôi nhọ đảng ?
Dù trong trường hợp nào đi nữa th́ t́nh trạng trên bảo dưới không nghe, nhà dột từ nóc dột xuống đă rơ như ban ngày.
Chỉ có những kẻ lănh đạo vô cảm mới không thấy được nỗi thống khổ của người dân trước việc đảng để mặc cho cán bộ đảng viên công khai vi phạm 2 trong số 19 Điều của QUY ĐỊNH số 115- QĐ/TW, ngày 07/12/2007 của Ban Chấp hành Trung ương cấm đảng viên không được làm, đó là:
8)- “Quan liêu, thiếu trách nhiệm, bao che, báo cáo sai sự thật, để cơ quan, đơn vị, địa phương do ḿnh trực tiếp phụ trách xảy ra t́nh trạng mất đoàn kết, tham nhũng, buôn lậu, lăng phí, thất thoát tài sản và các tiêu cực khác.
13)- Kê khai không đầy đủ tài sản, thu nhập theo quy định của pháp luật; trốn, tŕ hoăn nộp thuế; mở tài khoản ở nước ngoài trái quy định của pháp luật; tham gia hoạt động rửa tiền.”
Nhưng những thói hư tật xấu này không mới. Chúng đă được nuôi ăn béo mỡ trong đảng từ nhiều năm qua. Nếu đảng không làm ngơ cho chúng sống để được chia quyền và bổng lộc th́ đảng đă chết từ lâu rồi. /-
Phạm Trần
(11/011)
VB
Chống tham nhũng-lăng phí ở Việt Nam là truyện dài không có đoạn kết. Mỗi lần đảng hứa sẽ “kiên quyết, kiên tŕ, thực hiện đồng bộ các giải pháp trong đấu tranh Pḥng chống Tham nhũng” th́ tham nhũng lại chương ph́nh ra to hơn trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên.
Chuyện ḷng ṿng này cứ như con thoi chạy từ cấp cao xuống cấp thấp rồi lại tất tưởi quay đầu chạy từ địa phương về trung ương từ năm này qua năm khác, dù Việt Nam đă có Luật pḥng, chống Tham nhũng từ ngày 29 tháng 11 năm 2005.
Đến ngày 04 tháng 8 năm 2007, Quốc hội lại bổ sung thêm điều 73 thành lập Ban chỉ đạo pḥng, chống tham nhũng. Thủ tướng Chính phủ được chỉ định làm Trưởng ban ở Trung ương, và Ban chỉ đạo tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về pḥng, chống tham nhũng do Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh đứng đầu.
Điều 74 (bổ sung) quy định các cấp bậc giám sát công tác pḥng, chống tham nhũng theo hệ thống như sau:
1. Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội giám sát công tác pḥng, chống tham nhũng trong phạm vi cả nước.
2. Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của ḿnh giám sát công tác pḥng ngừa tham nhũng thuộc lĩnh vực do ḿnh phụ trách.
Ủy ban tư pháp của Quốc hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của ḿnh giám sát việc phát hiện và xử lư hành vi tham nhũng.
3. Hội đồng nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của ḿnh có trách nhiệm giám sát công tác pḥng, chống tham nhũng tại địa phương.
4. Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của ḿnh giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về pḥng, chống tham nhũng.”
Như vậy tưởng rằng kẻ tham nhũng sẽ hết đường chạy. Nhưng chúng lại đi tắt về ngang nhanh hơn và tinh vi hơn v́ những kẻ tham nhũng, phần lớn là lớp người có chức có quyền đă bắc cầu và bao che cho nhau để đục khoét công quỹ và cướp tiền của mồ hôi, nước mắt đóng thuế của dân.
Nhưng chuyện chống tham nhũng lại trớ trêu ở chỗ kẻ lănh đạo, rất nhiều khi tham nhũng, lại đứng đầu cơ quan chống tham nhũng nên mới có chuyện bàn tán trong dân như nhà nước “vừa đá bóng, vừa thổi c̣i”. Cuối cùng không bắt được kẻ tham nhũng mà, trong nhiều trường hợp, người có công tố cáo kẻ tham nhũng lại bị những người đứng đầu, các quan đầu tỉnh, đầu ngành trù dập, trả thù từ đời cha đến đời con nên không ai dám tố cáo nữa.
Vậy Quốc hội và những cơ quan, tổ chức được Luật giao trách nhiệm giám sát công tác chống tham nhũng đă làm ǵ mà để cho những kẻ tham nhũng vẫn khơi khơi ng̣ai xă hội ?
Trả lời cho thắc mắc này không khó. Nếu làm đúng theo luật th́ tham nhũng đă giảm bớt rất nhiều. V́ Luật không được thi hành, trong nhiều trường hợp người có quyền giám sát không ai cho giám sát hay không dám giám sát v́ địa phương hay cơ quan không hợp tác nên đành quay lưng cho an phận.
Điển h́nh như đánh giá của Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng, trong phiên họp của Ban Chỉ đạo Trung ương về Pḥng chống tham nhũng (BCĐ-PCTN) ngày 15/11 (2011), tại Hà Nội, cho rằng “t́nh trạng khiếu kiện, đơn thư, tố cáo về PCTN; số vụ việc tham nhũng giảm hẳn. Tuy nhiên,: “Hành vi tham nhũng đă trở nên tinh vi hơn, khó phát hiện hơn. Bên cạnh đó, quá tŕnh xử lư, điều tra, truy tố, xét xử phải tuân theo quy định của pháp luật nên thường chậm, kéo dài, dẫn đến tâm tư lo lắng, hoài nghi trong nhân dân về sự kiên quyết, nghiêm minh trong đấu tranh PCTN.”
Theo tường thuật của Báo chí trong nước th́ Dũng “mong muốn, các thành viên BCĐ tiếp tục đề cao hơn nữa trách nhiệm trước Đảng, trước Nhà nước, kiên quyết, kiên tŕ, thực hiện đồng bộ các giải pháp trong đấu tranh PCTN.”
Nhưng kiên quyết, kiên tŕ đến bao giờ ?
Hăy nghe Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư đảng báo cáo tại Đại hội đảng XI ngày 12 tháng 1/2011 : “Tệ quan liêu, tham nhũng, lăng phí, tội phạm, tệ nạn xă hội, suy thoái đạo đức, lối sống... chưa được ngăn chặn, đẩy lùi.”
Nên biết Mạnh đă thay Lê Khả Phiên giừ chức Tổng Bí thư từ Khoá IX năm 2001, tiếp tục Khóa X đến năm 2011, nên trong suốt 10 năm giữ chức cao nhất trong đảng, Mạnh đă bất lực trước nạn tham nhũng như các Tổng Bí thư tiền nhiệm, trong đó có Lê Khả Phiêu (Khóa VIII), Đỗ Mười (Khóa VII).
Ng̣ai Mạnh, Thường trực Ban Bí thư đảng Trương Tấn Sang (Khóa X) c̣n Báo cáo tiếp thu giải tŕnh của Đoàn Chủ tịch về ư kiến thảo luận của các đại biểu đối với các văn kiện Đại hội XI của Đảng.
Về lĩnh vực tham nhũng, Sang nói: “ T́nh trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lăng phí là nghiêm trọng.”
Ng̣ai ra Mạnh c̣n hứa đảng sẽ : “Thực hiện có hiệu quả việc kê khai và công khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức theo quy định; xác định rơ trách nhiệm người đứng đầu khi để cơ quan, đơn vị xảy ra tham nhũng, lăng phí; xử lư đúng pháp luật, kịp thời, công khai cán bộ tham nhũng, tịch thu sung công tài sản tham nhũng và có nguồn gốc từ tham nhũng; có cơ chế khuyến khích và bảo vệ người đấu tranh chống tham nhũng, lăng phí, tiêu cực; tổng kết, đánh giá cơ chế, mô h́nh tổ chức cơ quan pḥng, chống tham nhũng để có chủ trương, giải pháp phù hợp.”
Nhưng tại sao Mạnh đă đổ trách nhiệm nặng nề này sang cho Nguyễn Phú Trọng, người thay Mạnh giữ chức Tổng Bí thưu Khoá XI, sau 10 năm không làm được ?
Thứ nhất, việc kê khai Tài sản chỉ làm có h́nh thức. Khai rồi, nạp cho Thủ trưởng cất đi. Không ai có quyền đ̣i xem v́ chưa có luật cho phép công khai, trừ trường hợp sau đó người khai bị tố cáo tham nhũng th́ hồ sơ mới được Ban điều tra mở ra xem.
Thứ hai, chưa có người đứng đầu cơ quan nào có cán bộ bị tố cáo tham nhũng bị cất chức, kỷ luật v́ người đứng đầu cơ quan cũng là người chịu trách nhiệm thi hành Luật chống Tham nhũng nên không ai dại ǵ lại vạch áo cơ quan ḿnh cho người xem lưng !
Nhưng ai phải kê khai tài sản ?
Theo Nghị định 37/2007/NĐ-CP th́ người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập gồm:
1. Đại biểu Quốc hội chuyên trách, đại biểu Hội đồng nhân dân chuyên trách, người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.
2. Cán bộ, công chức từ phó trưởng pḥng của Ủy ban nhân dân cấp huyện trở lên và người được hưởng phụ cấp chức vụ tương đương phó trưởng pḥng của Ủy ban nhân dân cấp huyện trở lên trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.
3. Sĩ quan giữ cương vị chỉ huy từ cấp phó tiểu đoàn trưởng, phó chỉ huy trưởng ban chỉ huy quân sự cấp huyện trở lên trong Quân đội nhân dân; sĩ quan giữ cương vị chỉ huy từ cấp phó tiểu đoàn trưởng, phó trưởng công an phường, thị trấn, phó đội trưởng trở lên trong Công an nhân dân.
4. Giám đốc, phó giám đốc, viện trưởng, phó viện trưởng, kế toán trưởng, trưởng pḥng, phó trưởng pḥng, trưởng khoa, phó trưởng khoa, bác sĩ chính tại các bệnh viện, viện nghiên cứu của Nhà nước.
5. Tổng biên tập, phó tổng biên tập, kế toán trưởng, trưởng pḥng, phó trưởng pḥng, trưởng ban, phó trưởng ban báo, tạp chí có sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước.
6. Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, kế toán trưởng trường mầm non, tiểu học của Nhà nước tại quận, thị xă, thành phố thuộc tỉnh; hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, kế toán trưởng trường trung học cơ sở, trung học phổ thông, trường trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề, trung tâm giáo dục thường xuyên của Nhà nước; hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, kế toán trưởng, trưởng pḥng, phó trưởng pḥng, trưởng khoa, phó trưởng khoa, giảng viên chính trường đại học, cao đẳng của Nhà nước.
7. Giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng, trưởng pḥng, phó trưởng pḥng, trưởng ban, phó trưởng ban tại ban quản lư dự án đầu tư xây dựng có sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước; giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng ban quản lư dự án sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA).
8. Tổng giám đốc, phó tổng giám đốc, giám đốc, phó giám đốc, chủ tịch hội đồng quản trị, phó chủ tịch hội đồng quản trị, thành viên hội đồng quản trị, trưởng ban kiểm soát, phó trưởng ban kiểm soát, thành viên ban kiểm soát, kế toán trưởng, trưởng pḥng, phó trưởng pḥng, trưởng ban, phó trưởng ban các pḥng, ban nghiệp vụ trong công ty nhà nước; người được Nhà nước cử giữ chức vụ kể trên trong doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước.
9. Bí thư, phó bí thư Đảng ủy; chủ tịch, phó chủ tịch Hội đồng nhân dân; chủ tịch, phó chủ tịch, uỷ viên Ủy ban nhân dân xă, phường, thị trấn; trưởng công an, chỉ huy trưởng quân sự xă; cán bộ địa chính - xây dựng, tài chính - kế toán của Ủy ban nhân dân xă, phường, thị trấn.
10. Điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, thư kư toà án, kiểm toán viên nhà nước, thanh tra viên, chấp hành viên, công chứng viên nhà nước.
11. Bộ trưởng Bộ Nội vụ, sau khi thống nhất với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ nhiệm Văn pḥng Quốc hội, Chủ nhiệm Văn pḥng Chủ tịch nước, Chánh Văn pḥng Trung ương Đảng, Trưởng các ban của Trung ương Đảng, người đứng đầu cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xă hội, tŕnh Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh sách đối với người có nghĩa vụ phải kê khai tài sản, thu nhập là: người làm công tác quản lư ngân sách, tài sản của Nhà nước hoặc trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong cơ quan hành chính nhà nước các cấp, cơ quan của Đảng, tổ chức chính trị - xă hội, Văn pḥng Quốc hội, Văn pḥng Hội đồng nhân dân, Văn pḥng Chủ tịch nước.
Thành phần phải khai như vậy là rất kỹ, rất ít người được lọt sổ nhưng tại sao vẫn có rất nhiều cán bộ, đảng viên lương ít mà vẫn có tiền mua nhiều nhà, tậu nhiều đất, nhiều xe sang và dư tiền gửi con ra nước ng̣ai du học ?
Không ai ở Việt Nam có thể trả lời được, nhưng đảng không thể nói không biết hay không t́m ra manh mối được, nếu muốn làm đến nơi đến chốn.
Đă có một số Đại biểu Quốc hội đ̣i nhà nước làm cuộc tổng kiểm tra nhưng không ai hưởng ứng v́ anh nào tay cũng nhúng chàm cả nên không dám xung phong.
VẪN ĐỨNG TRƯỚC MẶT
V́ vậy, nếu nhà nước làm như đă nói th́ làm ǵ c̣n có Báo cáo của Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá XIII, ngày 20 tháng 10 năm 2011 nh́n nhận: “Tham nhũng, lăng phí chưa được đẩy lùi.”
Trong năm 2010, Nguyễn Tấn Dũng cũng báo cáo như thế tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XII, ngày 20 tháng 10 năm 2010: “Kết quả pḥng chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm c̣n hạn chế.”
Như vậy có phải t́nh trạng tham nhũng vẫn tồn tại và nhà nước đă ḥan ṭan bất lực không ?
Bằng chứng khác về bất lực của đảng đă diễn ra tại phiên họp thứ 3 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 14/10 (2011), khi các Đại biểu thảo luận và cho ư kiến về báo cáo công tác pḥng, chống tham nhũng và báo cáo công tác thực hành tiết kiệm, chống lăng phí năm 2011 của Chính phủ.
Báo Điện tử của đảng CSVN viết : “Báo cáo công tác pḥng, chống tham nhũng năm 2011, Tổng Thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh nêu rơ: Công tác truyền thông, giáo dục về pḥng chống tham nhũng tiếp tục được quan tâm thực hiện. Nhiều văn bản cần thiết, quan trọng đă được ban hành, sửa đổi, bổ sung. Các giải pháp pḥng ngừa tham nhũng từng bước phát huy tác dụng, mang lại hiệu quả nhất định, củng cố niềm tin trong nhân dân và dư luận quốc tế….Tuy nhiên, Tổng Thanh tra cũng thừa nhận rằng, nh́n chung, t́nh trạng tham nhũng vẫn c̣n phức tạp, chưa thực hiện được mục tiêu đề ra là ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng.”
Trong khi đó, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội cũng phê b́nh: “Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về pḥng chống tham nhũng vẫn c̣n h́nh thức, chưa thiết thực, hiệu quả chưa cao. Người dân, ngay cả cán bộ, công chức, viên chức vẫn coi pḥng chống tham nhũng là công việc của Nhà nước, ít quan tâm tới việc phát hiện, tố cáo tham nhũng. Một bộ phận người dân v́ công việc riêng sẵn sàng đưa hối lộ để được việc.
Ủy ban Tư pháp cũng cho rằng, nhiều hạn chế đă được chỉ ra tại báo cáo thẩm tra những năm trước vẫn chưa được khắc phục. Báo cáo của Chính phủ chưa chỉ rơ cơ quan nào làm tốt hay chưa tốt công tác pḥng chống tham nhũng, cũng chưa làm rơ được là tham nhũng tăng hay giảm.”
Ủy ban Tài chính – Ngân sách đánh giá: “Mặc dù đạt được nhiều kết quả quan trọng, song cho rằng t́nh trạng lăng phí thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật thực hành tiết kiệm, chống lăng phí vẫn c̣n tồn tại trên tất cả các lĩnh vực và ở các mức độ khác nhau. Báo cáo của Chính phủ và hầu hết báo cáo của các bộ, ngành, địa phương đánh giá về t́nh trạng lăng phí c̣n thiếu tính cụ thể.”
Trong một bài viết khác, Tác gỉa Đặng Hiếu phơi bầy trên trang báo Điện tử của Đảng ngày 17/01/2011 rằng : “Theo Bảng xếp hạng về tham nhũng của Tổ chức Minh bạch quốc tế, năm 2010 Việt Nam được 2,7/10 điểm (những nước có điểm số dưới 5 bị coi là có t́nh trạng tham nhũng cao). Cũng theo Tổ chức Minh bạch quốc tế, năm 2009, Việt Nam được 2,7/10; trong các năm 2005-2008, Việt Nam đều ở mức 2,6/10, bằng năm 2001 (năm 2001 cũng ở mức 2,6/10). Điều này cho thấy, t́nh trạng tham nhũng ở Việt Nam hầu như chưa được cải thiện đáng kể.
Chúng ta cần kiềm chế và ngăn chặn tham nhũng; coi đây là một ưu tiên phát triển v́ tham nhũng luôn là một mối đe doạ đối với tiến bộ xă hội. Tham nhũng làm huỷ hoại ḷng tin của các nhà đầu tư trong và ngoài nước; làm kiệt quệ năng lực của Chính phủ và làm ảnh hưởng đến lợi ích của toàn xă hội. Nghiêm trọng hơn, tham nhũng làm tổn hại các giá trị và các chuẩn mực xă hội, làm giảm ḷng tin của người dân đối với một số đội ngũ cán bộ lănh đạo suy thoái.”
Đặng Hiếu c̣n tiết lộ: “Theo một kết quả nghiên cứu của Ban Nội chính Trung ương năm 2005 cho thấy, các cơ quan liên quan đến đất đai, hải quan, cảnh sát giao thông, thuế, cơ quan cấp phép xây dựng là nơi nạn tham nhũng nghiêm trọng nhất. H́nh thức tham nhũng ở Việt Nam rất đa dạng, nhưng phổ biến nhất là cố t́nh gây trở ngại để nhận hối lộ; nhận hối lộ để đổi lấy một số ưu đăi, sử dụng tài sản công để tư lợi.”
Như vậy đảng đă hết thuốc chữa chưa ? Hay những thứ xấu xa này cũng lại do các “thế lực thù địch” và “diễn biến ḥa b́nh” bịa đặt ra để nói xấu cán bộ đảng viên và bôi nhọ đảng ?
Dù trong trường hợp nào đi nữa th́ t́nh trạng trên bảo dưới không nghe, nhà dột từ nóc dột xuống đă rơ như ban ngày.
Chỉ có những kẻ lănh đạo vô cảm mới không thấy được nỗi thống khổ của người dân trước việc đảng để mặc cho cán bộ đảng viên công khai vi phạm 2 trong số 19 Điều của QUY ĐỊNH số 115- QĐ/TW, ngày 07/12/2007 của Ban Chấp hành Trung ương cấm đảng viên không được làm, đó là:
8)- “Quan liêu, thiếu trách nhiệm, bao che, báo cáo sai sự thật, để cơ quan, đơn vị, địa phương do ḿnh trực tiếp phụ trách xảy ra t́nh trạng mất đoàn kết, tham nhũng, buôn lậu, lăng phí, thất thoát tài sản và các tiêu cực khác.
13)- Kê khai không đầy đủ tài sản, thu nhập theo quy định của pháp luật; trốn, tŕ hoăn nộp thuế; mở tài khoản ở nước ngoài trái quy định của pháp luật; tham gia hoạt động rửa tiền.”
Nhưng những thói hư tật xấu này không mới. Chúng đă được nuôi ăn béo mỡ trong đảng từ nhiều năm qua. Nếu đảng không làm ngơ cho chúng sống để được chia quyền và bổng lộc th́ đảng đă chết từ lâu rồi. /-
Phạm Trần
(11/011)
VB