vuitoichat
01-22-2012, 10:03
Thế kỷ XX đă khép lại với rất nhiều sự kiện in dấu đậm nét trong lịch sử nhân loại. Thế kỷ XX cũng đă ghi nhận những kỳ tích tuyệt vời của dân tộc Việt Nam. Và cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đă đi vào lịch sử như một sự kiện hào hùng nhất của một dân tộc nhỏ bé đă vượt qua những thách thức vô cùng to lớn để chiến đấu và chiến thắng.
http://iyouphim.com/forum/attachment.php?attac hmentid=146540&stc=1&d=1327226429
Ảnh minh họa internet
Trong cuộc đấu tranh hiện nay v́ độc lập dân tộc, hạnh phúc và tiến bộ xă hội trên thế giới, cuộc chiến tranh thần thánh của nhân dân Việt Nam là biểu tượng cho khát khao tự do, hoà b́nh và của bản lĩnh, trí tuệ. Chính v́ thế, tầm vóc, nguyên nhân thắng lợi và những vấn đề liên quan đến cuộc kháng chiến chống Mỹ luôn chiếm được sự quan tâm nghiên cứu và thảo luận sôi nổi. Một trong những câu hỏi thường được đặt ra là: Quan hệ Việt Nam với đồng minh chiến lược quan trọng của ḿnh là Liên Xô trong giai đoạn khốc liệt nhất của cuộc kháng chiến có diện mạo như thế nào? Nó bị tác động ra sao và ở chừng mực nào bởi các mối quan hệ quốc tế liên quan khác? Bài viết dưới đây, trong khả năng có thể, nhằm mục đích t́m câu trả lời cho những câu hỏi ấy.
1. Quan hệ Việt Nam – Liên Xô ấm lên và phát triển
Sở dĩ có thể đưa ra nhận định rằng, trong những năm 1965-1975, quan hệ Việt Nam – Liên Xô có những biến đổi rơ rệt, theo chiều hướng tích cực là bởi dựa trên kết quả của việc so sánh quan hệ Việt Nam – Liên Xô trong những năm 1965-1975 với giai đoạn trước đó – từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao tới trước năm 1965.
Quan hệ Việt Nam – Liên Xô trong những năm 1950-1965 nổi lên hai xu hướng chính:
Xu hướng tích cực
Xu hướng này thể hiện ở hai điểm chủ yếu:
Thứ nhất, trong thời kỳ 1950-1954, Liên Xô triển khai nhiều hoạt động hỗ trợ cuộc đấu tranh v́ độc lập của nhân dân Việt Nam về mặt vật chất và tinh thần, tạo điều kiện choViệt Nam đẩy nhanh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đi đến kết thúc; thứ hai, từ năm 1954-1965, mặt tích cực trong quan hệ Việt Nam – Liên Xô được đánh giá thông qua chủ trương ủng hộ việc khôi phục, xây dựng miền Bắc với sự viện trợ vật chất to lớn (viện trợ không hoàn lại, cho vay các khoản ưu đăi và vay dài hạn; giúp Việt Nam chuyên gia, thiết bị và kỹ thuật trong các kế hoạch kinh tế 1954-1957, 1957-1960, 1961-1965…).
Xu hướng tiêu cực
Xu hướng này nổi trội và là kết quả của những tính toán chiến lược của Liên Xô trong bối cảnh thế giới diễn biến đầy phức tạp, chịu sự tác động mạnh mẽ của lợi ích Liên Xô và Mỹ. Xu hướng này được biểu hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, Liên Xô vẫn chưa coi trọng quan hệ với Việt Nam như với một số nước châu Á khác (Ấn Độ, Miến Điện, Inđônêxia…). Liên Xô tích cực giúp đỡ các nước lớn không phải thể chế chính trị XHCN ở châu Á1, nhưng trong quan hệ với Việt Nam th́ lại nhạt nhoà.
Thứ hai, Liên Xô thực hiện một chính sách đối ngoại khôn ngoan, tránh dính líu trực tiếp vào các xung đột, tranh chấp khu vực. Tại Hội nghị Geneve, Liên Xô giữ quan hệ Pháp – Tưởng làm đối trọng, nên đă im lặng trước mục tiêu quay lại Đông Dương của Pháp, nhằm chống âm mưu gây chiến mà Mỹ theo đuổi.
Thứ ba, thái độ của Liên Xô đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam Việt Nam có nhiều điểm không thuận. Liên Xô muốn Việt Nam chỉ tập trung xây dựng kinh tế ở miền Bắc, chủ trương giữ nguyên hiện trạng ở miền Nam và hoà b́nh thi hành Hiệp định Geneve, giải quyết vấn đề miền Nam thông qua thương lượng. Quan hệ Việt Nam – Liên Xô đặc biệt xấu đi kể từ sau Hội nghị lần thứ 9 BCH Trung ương Đảng (khoá III- 12/1963)2.
Khơrusôp gây sức ép với Việt Nam, doạ cắt khoản viện trợ quân sự vốn đă ít ỏi (2-1964), có những tín hiệu để Việt Nam hiểu rằng “sẽ không có triển vọng cho việc hợp tác chặt chẽ giữa hai nước, nếu Hà Nội không thay đổi lập trường”3. Khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam ra đời (12-1960), Liên Xô không muốn đề cao vai tṛ của của Mặt trận, phản ứng thận trọng trước sự kiện Vịnh Bắc Bộ (8-1964). Đây là giai đoạn xấu nhất trong lịch sử hai nước.
Từ năm 1965 trở đi, t́nh h́nh quốc tế ngày càng có những diễn biến mới, phức tạp.
Cuộc chiến tranh do Mỹ tiến hành ở Việt Nam ngày càng trở nên khốc liệt và thu hút sự chú ư, quan tâm của cả nhân loại. Vấn đề Việt Nam thực sự trở thành vấn đề chính trị quốc tế, liên quan trực tiếp đến lợi ích của nhiều nước trên thế giới. Đối với Liên Xô, chính sách tiêu cực với cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam đă làm cho uy tín của Liên Xô bị giảm sút trong phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế. Sự thay đổi Ban lănh đạo (10- 1964) ở Liên Xô đă dẫn đến những điều chỉnh về đường lối đối nội, đối ngoại, nhằm khôi phục uy tín trong và ngoài nước, đồng thời tăng cường lực lượng của Liên Xô nhân lúc Mỹ bị sa lầy ở Việt Nam, tạo thế có lợi để tiếp tục hoà hoăn với Mỹ, đối phó với sự đả kích của Trung Quốc. Trong bối cảnh ấy, quan hệ Việt Nam – Liên Xô dần ấm lên, thể hiện trên những mặt sau:
Ủng hộ về mặt chính trị
Từ năm 1965 trở đi, Liên Xô tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác chặt chẽ với Việt Nam, dành cho Việt Nam sự ủng hộ to lớn và toàn diện. Đảng và Nhà nước Liên Xô khẳng định lại vai tṛ “đồng Chủ tịch Hội nghị Giơneve” về Đông Dương. Tháng 1-1965, Liên Xô chấp thuận cho MTDTGPMN đặt đại diện thường trú tại Liên Xô. Tháng 2- 1965, Đoàn đại biểu Liên bang CHXHCN Xô – viết do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô A.N.Côxưghin dẫn đầu thăm chính thức Việt Nam. Trong cuộc gặp gỡ, Liên Xô và Việt Nam cũng nhất trí về những biện pháp nhằm củng cố khả năng pḥng thủ của Việt Nam DCCH. Quan điểm này của Liên Xô được đưa ra đúng vào thời điểm Mỹ bắt đầu ném bom dữ dội miền Bắc Việt Nam. Do vậy, nó đă góp phần cổ vũ nhân dân Việt Nam và củng cố hơn nữa quan hệ hai nước. Sau chuyến thăm Việt Nam, Thủ tướng A.N. Côxưgin đă ghé qua Bắc Kinh trên đường về nước, gặp Thủ tướng Chu Ân Lai và nêu vấn đề “thống nhất hành động ủng hộ Việt Nam”. Kể từ thời điểm này, mối quan hệ Việt Nam – Liên Xô bước vào một giai đoạn phát triển mới về chất. Hàng loạt các chuyến thăm viếng ngoại giao giữa hai nước đă chứng minh nhận định trên. Theo thống kê, từ năm 1965-1975, giữa Việt Nam và Liên Xô đă có “51 cuộc gặp gỡ cấp cao từ uỷ viên Bộ Chính trị trở lên”4. Các cuộc hội đàm nhằm mục đích thống nhất nhận thức và đảm bảo cho lợi ích của từng nước, cũng như lợi ích chung.
Ngày 17-8-1966, tại Liên Xô, 6.000 đại biểu nhân dân Thủ đô Matxcơva đă họp mít tinh, nhiệt liệt hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh chống Mỹ. Đại hội XXIII Đảng Cộng sản Liên Xô (1966) được tổ chức trùng vào thời điểm Mỹ đánh phá ác liệt, mở rộng “chiến tranh cục bộ” trên toàn bộ chiến trường miền Nam. Đại hội đă giao trọng trách cho Đảng Cộng sản Liên Xô và Chính phủ Xô-viết “làm tất cả những ǵ có khả năng để chấm dứt sự xâm lược của Mỹ tại Việt Nam, để quân đội Mỹ và quân đội nước ngoài rút khỏi miền Nam Việt Nam, tạo điều kiện cho nhân dân Việt Nam tự giải quyết công việc nội bộ của ḿnh”5. Năm 1969, khi Chính phủ Cách mạng lâm thời ở miền Nam Việt Nam được thành lập một thời gian, Liên Xô đă công nhận và thiết lập quan hệ ở cấp đại sứ với Chính phủ. Sự kiện này góp phần làm tăng thêm uy tín của cơ quan chính quyền nhân dân miền Nam Việt Nam trên trường quốc tế. Từ đó, Liên Xô thường xuyên có những cuộc tiếp xúc, trao đổi về mặt nhà nước với Chính phủ CMLTMNVN, đánh giá cao và ủng hộ đề nghị 10 điểm của Chính phủ CMLTMNVN.
Liên Xô luôn thể hiện thái độ ủng hộ Việt Nam trong quan hệ với Mỹ, đề cao vấn đề Việt Nam trên trường quốc tế. Trong cuộc gặp gỡ cấp cao giữa Tổng thống Mỹ Giônxơn và Thủ tướng A.N. Côxưghin tại Mỹ (6-1967), Liên Xô thể hiện mong muốn một giải pháp hoà b́nh cho vấn đề Việt Nam, đồng thời nhấn mạnh: Việc giải quyết vấn đề Việt Nam chỉ có thể thực hiện được nếu Mỹ chấm dứt ném bom Việt Nam DCCH và rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam. Ngày 9-2- 1965, lần đầu tiên về mặt Nhà nước, Liên Xô chính thức ra tuyên bố cảnh cáo Mỹ ném bom lănh thổ nước Việt Nam DCCH. Đặc biệt, việc Liên Xô lên án đế quốc Mỹ một cách găy gắt khi Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất đă góp phần động viên tinh thần của nhân dân Việt Nam và tập trung sự chú ư của dư luận tiến bộ trên thế giới vào vấn đề này. Năm 1968, Liên Xô đă nỗ lực triệu tập Hội nghị bốn bên tại Paris để t́m một giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam. Từ năm 1970-1975, trên các diễn đàn quốc tế, trong Đại hội các Đảng Cộng sản và Công nhân quốc tế, hoặc nhân các chuyến trao đổi đoàn đại biểu các cấp với các nước khác… Liên Xô thường xuyên nêu lên và ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam. Liên Xô cũng tích cực giúp đỡ Việt Nam vận động các đoàn thể chính trị thế giới, tổ chức nhiều hội nghị quốc tế, tranh thủ sự đồng t́nh của các lực lượng tiến bộ đối với Việt Nam.
http://news.data.vietinfo.e u//2012/01/21/167876/1327152906.3723.jpg
Tăng cường viện trợ vật chất
Một trong những ủng hộ kịp thời và giá trị của Liên Xô đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam trong những năm 1965-1975 là viện trợ quân sự. Tên lửa “đất đối không” của Liên Xô đă được sử dụng lần đầu tiên tại Việt Nam vào ngày 24-7- 1965 và đă bắn rơi máy bay Mỹ. Trong giai đoạn 1965-1968, số hàng viện trợ quân sự của Liên Xô cũng tăng vọt: 226.969 tấn 6. Mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, khi cuộc chiến đấu của quân dân ta trên cả hai miền Nam, Bắc diễn ra quyết liệt, chúng ta rất cần vũ khí, đạn dược, Liên Xô đă đưa gấp sang Việt Nam “100 khẩu súng chống tăng, 500 súng cối các loại, 400 dàn pháo phản lực và 45 chiếc máy bay chiến đấu” 7. Như vậy, trong hai năm 1966-1967, Liên Xô là nước cung cấp chủ yếu viện trợ quân sự cho Việt Nam. Tính ra, “Liên Xô đă cung cấp 500 triệu rúp trang thiết bị cho lực lượng quân sự Bắc Việt Nam (xấp xỉ 550,5 triệu USD)”8.
Trong những năm 1969-1972, mức viện trợ quân sự của Liên Xô cho ta đạt 143.793 tấn. Chỉ riêng năm 1969, giá trị hàng viện trợ quân sự lên tới 1,1 tỷ rúp. Cùng với viện trợ quân sự, Liên Xô c̣n tích cực đào tạo giúp Việt Nam đội ngũ cán bộ quân sự giỏi, có thể vận hành được những vũ khí hiện đại do Liên Xô cung cấp. Riêng năm 1966, có 2.600 sĩ quan Việt Nam được đào tạo tại Liên Xô. Đồng thời, nhiều chuyên gia quân sự của Liên Xô cũng đă sang chiến trường Việt Nam trực tiếp giúp bộ đội Việt Nam về mặt kỹ thuật. Từ năm 1969-1971, Liên Xô đă kư với Việt Nam 7 hiệp nghị viện trợ và tăng cường hợp tác kinh tế, quốc pḥng.
Từ năm 1973-1975, Liên Xô chuyển sang Việt Nam 65.601 tấn 9 hàng hậu cần và trang bị vũ khí, kỹ thuật. Đây là một trong những điều kiện đảm bảo cho quân dân ta đẩy mạnh các hoạt động quân sự và giành thắng lợi quyết định trên chiến trường, buộc Mỹ phải kư Hiệp định Paris (1-1973) và đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ đi đến kết thúc. Liên Xô cũng không ngừng viện trợ kinh tế cho Việt Nam. Kể từ năm 1965, Liên Xô đă kư với Việt Nam nhiều hiệp định viện trợ và hợp tác. Riêng năm 1965-1966, Liên Xô đă chuyển sang Việt Nam khối lượng hàng hoá trị giá khoảng 38,5 triệu rúp 10. Trong năm 1968, Liên Xô đă viện trợ quân sự và kinh tế cho Việt Nam ước tính khoảng 543,3 triệu rúp (tương đương với 608,1 triệu USD)11. Như vậy, viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam trong năm 1968 đạt mức cao nhất, chiếm khoảng 50% viện trợ của các nước XHCN.
Từ năm 1969-1972, Liên Xô và Việt Nam liên tiếp kư kết các hiệp định về việc Liên Xô viện trợ không hoàn lại, cho vay dài hạn, về trao đổi hàng hoá… phục vụ cho nhu cầu củng cố quốc pḥng và phát triển kinh tế của Việt Nam. Trên tinh thần các hiệp định đă kư kết, Liên Xô cho Việt Nam vay khoản tiền ưu đăi là 152 triệu rúp không phải trả lăi. Năm 1973, Liên Xô đă xoá cho Việt Nam các khoản nợ cũ từ năm 1973 trở về trước (khoảng 1,3 tỷ rúp). Trong những năm 1974-1975, Liên Xô đă cố gắng giải quyết những nhu cầu thiết yếu của Việt Nam về lương thực, thực phấm, xăng dầu, sắt thép…, góp phần tích cực phát triển kinh tế Việt Nam.
2. Những mặt không thuận trong quan hệ Việt Nam – Liên Xô
Bên cạnh những biểu hiện tích cực, thái độ của Liên Xô đối với vấn đề Việt Nam c̣n nhiều phức tạp. Liên Xô kiên tŕ gợi ư Việt Nam hạn chế thâm nhập và bó hẹp các hoạt động quân sự ở miền Nam, đổi lấy việc Mỹ không đem quân vào. Trước sau như một, Liên Xô chủ trương giải quyết vấn đề Việt Nam bằng thương lượng, thông qua vai tṛ trung gian của ḿnh, mà điều kiện đưa ra là thấp hơn so với yêu cầu của Việt Nam.
Từ tháng 2-1965, Liên Xô đă đưa ra gợi ư triệu tập một Hội nghị quốc tế về Đông Dương do Liên Xô làm chủ tịch, theo mô thức của Hội nghị Geneve. Trên tinh thần ấy, Liên Xô đă vận động các nước hữu quan như Anh, Pháp, Campuchia, Ấn Độ, Miến Điện… Sau khi bị Việt Nam khước từ với lư do là điều kiện chưa chín muồi, Liên Xô đă chuyển sang h́nh thức truyền đạt cho Việt Nam ư kiến của các nước muốn làm trung gian cho Mỹ, hoặc của chính Mỹ cho tới năm 1973. Đỉnh cao là trong những năm 1967-1968 và trong năm 1972, khi Việt Nam, Mỹ đă ngồi vào bàn thương lượng và khi khả năng đi đến giải pháp đă thành hiện thực, Liên Xô liên tục tác động tới Việt Nam, vận động Việt Nam thương lượng trên những điều kiện thấp (cho rằng, Việt Nam đ̣i Mỹ chấm dứt đánh phá “không điều kiện” là không thực tế; muốn Việt Nam đáp ứng các yêu cầu của Mỹ trên nguyên tắc “có đi, có lại” – nghĩa là Việt Nam chấm dứt chiến đấu và rút quân ra khỏi miền Nam…). Liên Xô cũng chủ trương giải quyết vấn đề ngừng ném bom miền Bắc trước, vấn đề miền Nam sau; giải quyết vấn đề quân sự miền Nam trước, vấn đề chính trị sau.
Cũng trong những năm 1967-1968, Liên Xô liên tục đề nghị Việt Nam nói chuyện với chính quyền Sài G̣n và tỏ ư không hài ḷng khi Việt Nam từ chối. Cũng chính v́ lư do đó mà Liên Xô đă không ngay lập tức công nhận Mặt trận DTGPMNVN và Chính phủ CMLTMNVN là đại diện chân chính, duy nhất của nhân dân Việt Nam. Liên Xô cũng luôn muốn đóng vai tṛ trung gian từ khi nổ ra cuộc chiến tranh đến khi kư Hiệp định Paris. Liên Xô đă nhiều lần gợi ư để Mỹ và Việt Nam gặp nhau hoặc ở Matxcơva, hoặc trên tàu chiến của Liên Xô, hoặc tại Đại sứ quán Liên Xô ở Paris. Liên Xô cũng không ngừng yêu cầu Việt Nam cho biết lập trường và nội dung các giải pháp của các cuộc đàm phán. Tháng 3-1970, khi t́nh h́nh Campuchia căng thẳng, Liên Xô đă hai lần yêu cầu Việt Nam rút quân khỏi Campuchia.
Tháng 4-1972, nhân chuyến thăm Việt Nam, Kotuchov một lần nữa lại thể hiện quan điểm giải quyết vấn đề quân sự ở miền Nam trước, “c̣n các vấn đề chính trị, ta tiếp tục đấu tranh đ̣i hỏi giải quyết theo lập trường của ta”12. Về h́nh thức thương lượng, năm 1972, khi Mỹ muốn họp bí mật trước, họp công khai sau, Liên Xô cũng muốn Việt Nam chấp thuận. Tháng 10-1972, Liên Xô vận động Việt Nam hoăn việc kư Dự thảo hiệp định đă được hoàn tất. Năm 1972 cũng là năm Mỹ muốn tranh thủ Liên Xô và Trung Quốc để gây sức ép với Việt Nam, giành thế chủ động trên bàn đàm phán trong Hội nghị Paris. Với Liên Xô, Nicsơn chủ trương đặt việc giải quyết vấn đề Việt Nam trong “cuộc mặc cả toàn cầu”. Quan hệ Xô – Mỹ đi vào hoà hoăn, làm ảnh hưởng tiêu cực đến tiến tŕnh cách mạng Việt Nam.
Từ sau khi Hiệp định Paris được kư kết (1-1973), Liên Xô không muốn để chiến tranh bùng nổ lại; việc hoàn thành độc lập và dân chủ ở miền Nam, Liên Xô muốn Việt Nam thực hiện bằng con đường chính trị. Như vậy, Liên Xô muốn duy tŕ “nguyên trạng” đă đạt được bởi Hiệp định Paris, giữ nguyên hai vùng kiểm soát, hai chính quyền và ba lực lượng chính trị (trong đó Liên Xô có quan hệ với cả ba bên). Liên Xô tiếp tục muốn đóng vai tṛ trung gian chuyển ư kiến của Mỹ cho Việt Nam. Có thể nhận thấy rằng, sau Hiệp định Paris, thái độ của Liên Xô đối với việc hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam là không thuận. Liên Xô không ủng hộ Việt Nam giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam.
Do những quan điểm tiêu cực trên đây, mà trong việc viện trợ cho Việt Nam, Liên Xô cũng tính toán lại. Liên Xô đă giải quyết rất ít những yêu cầu của ta về viện trợ quân sự cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, hoăn việc trao viện trợ quân sự trong hai tháng, hoăn kư hiệp định viện trợ cho năm 1969. Như vậy, viện trợ quân sự của Liên Xô cho Việt Nam giảm hẳn trong năm 1969. Năm 1972, song song với việc giảm viện trợ kinh tế, phía Liên Xô đă ngừng cung cấp viện trợ quân sự, kể cả các khoản đă được kư kết trước đó. Liên Xô cũng không giải quyết yêu cầu của Việt Nam về tên lửa hiện đại để chống B.52 trong đợt Mỹ mở cuộc tập kích chiến lược cuối năm 1972. Sau Hiệp định Paris (1-1973), do tác động từ hoà hoăn Xô – Mỹ, nên viện trợ quân sự của Liên Xô cho Việt Nam giảm đi nhiều so với trước.
http://iyouphim.com/forum/attachment.php?attac hmentid=146540&stc=1&d=1327226429
Ảnh minh họa internet
Trong cuộc đấu tranh hiện nay v́ độc lập dân tộc, hạnh phúc và tiến bộ xă hội trên thế giới, cuộc chiến tranh thần thánh của nhân dân Việt Nam là biểu tượng cho khát khao tự do, hoà b́nh và của bản lĩnh, trí tuệ. Chính v́ thế, tầm vóc, nguyên nhân thắng lợi và những vấn đề liên quan đến cuộc kháng chiến chống Mỹ luôn chiếm được sự quan tâm nghiên cứu và thảo luận sôi nổi. Một trong những câu hỏi thường được đặt ra là: Quan hệ Việt Nam với đồng minh chiến lược quan trọng của ḿnh là Liên Xô trong giai đoạn khốc liệt nhất của cuộc kháng chiến có diện mạo như thế nào? Nó bị tác động ra sao và ở chừng mực nào bởi các mối quan hệ quốc tế liên quan khác? Bài viết dưới đây, trong khả năng có thể, nhằm mục đích t́m câu trả lời cho những câu hỏi ấy.
1. Quan hệ Việt Nam – Liên Xô ấm lên và phát triển
Sở dĩ có thể đưa ra nhận định rằng, trong những năm 1965-1975, quan hệ Việt Nam – Liên Xô có những biến đổi rơ rệt, theo chiều hướng tích cực là bởi dựa trên kết quả của việc so sánh quan hệ Việt Nam – Liên Xô trong những năm 1965-1975 với giai đoạn trước đó – từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao tới trước năm 1965.
Quan hệ Việt Nam – Liên Xô trong những năm 1950-1965 nổi lên hai xu hướng chính:
Xu hướng tích cực
Xu hướng này thể hiện ở hai điểm chủ yếu:
Thứ nhất, trong thời kỳ 1950-1954, Liên Xô triển khai nhiều hoạt động hỗ trợ cuộc đấu tranh v́ độc lập của nhân dân Việt Nam về mặt vật chất và tinh thần, tạo điều kiện choViệt Nam đẩy nhanh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đi đến kết thúc; thứ hai, từ năm 1954-1965, mặt tích cực trong quan hệ Việt Nam – Liên Xô được đánh giá thông qua chủ trương ủng hộ việc khôi phục, xây dựng miền Bắc với sự viện trợ vật chất to lớn (viện trợ không hoàn lại, cho vay các khoản ưu đăi và vay dài hạn; giúp Việt Nam chuyên gia, thiết bị và kỹ thuật trong các kế hoạch kinh tế 1954-1957, 1957-1960, 1961-1965…).
Xu hướng tiêu cực
Xu hướng này nổi trội và là kết quả của những tính toán chiến lược của Liên Xô trong bối cảnh thế giới diễn biến đầy phức tạp, chịu sự tác động mạnh mẽ của lợi ích Liên Xô và Mỹ. Xu hướng này được biểu hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, Liên Xô vẫn chưa coi trọng quan hệ với Việt Nam như với một số nước châu Á khác (Ấn Độ, Miến Điện, Inđônêxia…). Liên Xô tích cực giúp đỡ các nước lớn không phải thể chế chính trị XHCN ở châu Á1, nhưng trong quan hệ với Việt Nam th́ lại nhạt nhoà.
Thứ hai, Liên Xô thực hiện một chính sách đối ngoại khôn ngoan, tránh dính líu trực tiếp vào các xung đột, tranh chấp khu vực. Tại Hội nghị Geneve, Liên Xô giữ quan hệ Pháp – Tưởng làm đối trọng, nên đă im lặng trước mục tiêu quay lại Đông Dương của Pháp, nhằm chống âm mưu gây chiến mà Mỹ theo đuổi.
Thứ ba, thái độ của Liên Xô đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam Việt Nam có nhiều điểm không thuận. Liên Xô muốn Việt Nam chỉ tập trung xây dựng kinh tế ở miền Bắc, chủ trương giữ nguyên hiện trạng ở miền Nam và hoà b́nh thi hành Hiệp định Geneve, giải quyết vấn đề miền Nam thông qua thương lượng. Quan hệ Việt Nam – Liên Xô đặc biệt xấu đi kể từ sau Hội nghị lần thứ 9 BCH Trung ương Đảng (khoá III- 12/1963)2.
Khơrusôp gây sức ép với Việt Nam, doạ cắt khoản viện trợ quân sự vốn đă ít ỏi (2-1964), có những tín hiệu để Việt Nam hiểu rằng “sẽ không có triển vọng cho việc hợp tác chặt chẽ giữa hai nước, nếu Hà Nội không thay đổi lập trường”3. Khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam ra đời (12-1960), Liên Xô không muốn đề cao vai tṛ của của Mặt trận, phản ứng thận trọng trước sự kiện Vịnh Bắc Bộ (8-1964). Đây là giai đoạn xấu nhất trong lịch sử hai nước.
Từ năm 1965 trở đi, t́nh h́nh quốc tế ngày càng có những diễn biến mới, phức tạp.
Cuộc chiến tranh do Mỹ tiến hành ở Việt Nam ngày càng trở nên khốc liệt và thu hút sự chú ư, quan tâm của cả nhân loại. Vấn đề Việt Nam thực sự trở thành vấn đề chính trị quốc tế, liên quan trực tiếp đến lợi ích của nhiều nước trên thế giới. Đối với Liên Xô, chính sách tiêu cực với cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam đă làm cho uy tín của Liên Xô bị giảm sút trong phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế. Sự thay đổi Ban lănh đạo (10- 1964) ở Liên Xô đă dẫn đến những điều chỉnh về đường lối đối nội, đối ngoại, nhằm khôi phục uy tín trong và ngoài nước, đồng thời tăng cường lực lượng của Liên Xô nhân lúc Mỹ bị sa lầy ở Việt Nam, tạo thế có lợi để tiếp tục hoà hoăn với Mỹ, đối phó với sự đả kích của Trung Quốc. Trong bối cảnh ấy, quan hệ Việt Nam – Liên Xô dần ấm lên, thể hiện trên những mặt sau:
Ủng hộ về mặt chính trị
Từ năm 1965 trở đi, Liên Xô tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác chặt chẽ với Việt Nam, dành cho Việt Nam sự ủng hộ to lớn và toàn diện. Đảng và Nhà nước Liên Xô khẳng định lại vai tṛ “đồng Chủ tịch Hội nghị Giơneve” về Đông Dương. Tháng 1-1965, Liên Xô chấp thuận cho MTDTGPMN đặt đại diện thường trú tại Liên Xô. Tháng 2- 1965, Đoàn đại biểu Liên bang CHXHCN Xô – viết do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô A.N.Côxưghin dẫn đầu thăm chính thức Việt Nam. Trong cuộc gặp gỡ, Liên Xô và Việt Nam cũng nhất trí về những biện pháp nhằm củng cố khả năng pḥng thủ của Việt Nam DCCH. Quan điểm này của Liên Xô được đưa ra đúng vào thời điểm Mỹ bắt đầu ném bom dữ dội miền Bắc Việt Nam. Do vậy, nó đă góp phần cổ vũ nhân dân Việt Nam và củng cố hơn nữa quan hệ hai nước. Sau chuyến thăm Việt Nam, Thủ tướng A.N. Côxưgin đă ghé qua Bắc Kinh trên đường về nước, gặp Thủ tướng Chu Ân Lai và nêu vấn đề “thống nhất hành động ủng hộ Việt Nam”. Kể từ thời điểm này, mối quan hệ Việt Nam – Liên Xô bước vào một giai đoạn phát triển mới về chất. Hàng loạt các chuyến thăm viếng ngoại giao giữa hai nước đă chứng minh nhận định trên. Theo thống kê, từ năm 1965-1975, giữa Việt Nam và Liên Xô đă có “51 cuộc gặp gỡ cấp cao từ uỷ viên Bộ Chính trị trở lên”4. Các cuộc hội đàm nhằm mục đích thống nhất nhận thức và đảm bảo cho lợi ích của từng nước, cũng như lợi ích chung.
Ngày 17-8-1966, tại Liên Xô, 6.000 đại biểu nhân dân Thủ đô Matxcơva đă họp mít tinh, nhiệt liệt hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh chống Mỹ. Đại hội XXIII Đảng Cộng sản Liên Xô (1966) được tổ chức trùng vào thời điểm Mỹ đánh phá ác liệt, mở rộng “chiến tranh cục bộ” trên toàn bộ chiến trường miền Nam. Đại hội đă giao trọng trách cho Đảng Cộng sản Liên Xô và Chính phủ Xô-viết “làm tất cả những ǵ có khả năng để chấm dứt sự xâm lược của Mỹ tại Việt Nam, để quân đội Mỹ và quân đội nước ngoài rút khỏi miền Nam Việt Nam, tạo điều kiện cho nhân dân Việt Nam tự giải quyết công việc nội bộ của ḿnh”5. Năm 1969, khi Chính phủ Cách mạng lâm thời ở miền Nam Việt Nam được thành lập một thời gian, Liên Xô đă công nhận và thiết lập quan hệ ở cấp đại sứ với Chính phủ. Sự kiện này góp phần làm tăng thêm uy tín của cơ quan chính quyền nhân dân miền Nam Việt Nam trên trường quốc tế. Từ đó, Liên Xô thường xuyên có những cuộc tiếp xúc, trao đổi về mặt nhà nước với Chính phủ CMLTMNVN, đánh giá cao và ủng hộ đề nghị 10 điểm của Chính phủ CMLTMNVN.
Liên Xô luôn thể hiện thái độ ủng hộ Việt Nam trong quan hệ với Mỹ, đề cao vấn đề Việt Nam trên trường quốc tế. Trong cuộc gặp gỡ cấp cao giữa Tổng thống Mỹ Giônxơn và Thủ tướng A.N. Côxưghin tại Mỹ (6-1967), Liên Xô thể hiện mong muốn một giải pháp hoà b́nh cho vấn đề Việt Nam, đồng thời nhấn mạnh: Việc giải quyết vấn đề Việt Nam chỉ có thể thực hiện được nếu Mỹ chấm dứt ném bom Việt Nam DCCH và rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam. Ngày 9-2- 1965, lần đầu tiên về mặt Nhà nước, Liên Xô chính thức ra tuyên bố cảnh cáo Mỹ ném bom lănh thổ nước Việt Nam DCCH. Đặc biệt, việc Liên Xô lên án đế quốc Mỹ một cách găy gắt khi Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất đă góp phần động viên tinh thần của nhân dân Việt Nam và tập trung sự chú ư của dư luận tiến bộ trên thế giới vào vấn đề này. Năm 1968, Liên Xô đă nỗ lực triệu tập Hội nghị bốn bên tại Paris để t́m một giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam. Từ năm 1970-1975, trên các diễn đàn quốc tế, trong Đại hội các Đảng Cộng sản và Công nhân quốc tế, hoặc nhân các chuyến trao đổi đoàn đại biểu các cấp với các nước khác… Liên Xô thường xuyên nêu lên và ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam. Liên Xô cũng tích cực giúp đỡ Việt Nam vận động các đoàn thể chính trị thế giới, tổ chức nhiều hội nghị quốc tế, tranh thủ sự đồng t́nh của các lực lượng tiến bộ đối với Việt Nam.
http://news.data.vietinfo.e u//2012/01/21/167876/1327152906.3723.jpg
Tăng cường viện trợ vật chất
Một trong những ủng hộ kịp thời và giá trị của Liên Xô đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam trong những năm 1965-1975 là viện trợ quân sự. Tên lửa “đất đối không” của Liên Xô đă được sử dụng lần đầu tiên tại Việt Nam vào ngày 24-7- 1965 và đă bắn rơi máy bay Mỹ. Trong giai đoạn 1965-1968, số hàng viện trợ quân sự của Liên Xô cũng tăng vọt: 226.969 tấn 6. Mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, khi cuộc chiến đấu của quân dân ta trên cả hai miền Nam, Bắc diễn ra quyết liệt, chúng ta rất cần vũ khí, đạn dược, Liên Xô đă đưa gấp sang Việt Nam “100 khẩu súng chống tăng, 500 súng cối các loại, 400 dàn pháo phản lực và 45 chiếc máy bay chiến đấu” 7. Như vậy, trong hai năm 1966-1967, Liên Xô là nước cung cấp chủ yếu viện trợ quân sự cho Việt Nam. Tính ra, “Liên Xô đă cung cấp 500 triệu rúp trang thiết bị cho lực lượng quân sự Bắc Việt Nam (xấp xỉ 550,5 triệu USD)”8.
Trong những năm 1969-1972, mức viện trợ quân sự của Liên Xô cho ta đạt 143.793 tấn. Chỉ riêng năm 1969, giá trị hàng viện trợ quân sự lên tới 1,1 tỷ rúp. Cùng với viện trợ quân sự, Liên Xô c̣n tích cực đào tạo giúp Việt Nam đội ngũ cán bộ quân sự giỏi, có thể vận hành được những vũ khí hiện đại do Liên Xô cung cấp. Riêng năm 1966, có 2.600 sĩ quan Việt Nam được đào tạo tại Liên Xô. Đồng thời, nhiều chuyên gia quân sự của Liên Xô cũng đă sang chiến trường Việt Nam trực tiếp giúp bộ đội Việt Nam về mặt kỹ thuật. Từ năm 1969-1971, Liên Xô đă kư với Việt Nam 7 hiệp nghị viện trợ và tăng cường hợp tác kinh tế, quốc pḥng.
Từ năm 1973-1975, Liên Xô chuyển sang Việt Nam 65.601 tấn 9 hàng hậu cần và trang bị vũ khí, kỹ thuật. Đây là một trong những điều kiện đảm bảo cho quân dân ta đẩy mạnh các hoạt động quân sự và giành thắng lợi quyết định trên chiến trường, buộc Mỹ phải kư Hiệp định Paris (1-1973) và đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ đi đến kết thúc. Liên Xô cũng không ngừng viện trợ kinh tế cho Việt Nam. Kể từ năm 1965, Liên Xô đă kư với Việt Nam nhiều hiệp định viện trợ và hợp tác. Riêng năm 1965-1966, Liên Xô đă chuyển sang Việt Nam khối lượng hàng hoá trị giá khoảng 38,5 triệu rúp 10. Trong năm 1968, Liên Xô đă viện trợ quân sự và kinh tế cho Việt Nam ước tính khoảng 543,3 triệu rúp (tương đương với 608,1 triệu USD)11. Như vậy, viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam trong năm 1968 đạt mức cao nhất, chiếm khoảng 50% viện trợ của các nước XHCN.
Từ năm 1969-1972, Liên Xô và Việt Nam liên tiếp kư kết các hiệp định về việc Liên Xô viện trợ không hoàn lại, cho vay dài hạn, về trao đổi hàng hoá… phục vụ cho nhu cầu củng cố quốc pḥng và phát triển kinh tế của Việt Nam. Trên tinh thần các hiệp định đă kư kết, Liên Xô cho Việt Nam vay khoản tiền ưu đăi là 152 triệu rúp không phải trả lăi. Năm 1973, Liên Xô đă xoá cho Việt Nam các khoản nợ cũ từ năm 1973 trở về trước (khoảng 1,3 tỷ rúp). Trong những năm 1974-1975, Liên Xô đă cố gắng giải quyết những nhu cầu thiết yếu của Việt Nam về lương thực, thực phấm, xăng dầu, sắt thép…, góp phần tích cực phát triển kinh tế Việt Nam.
2. Những mặt không thuận trong quan hệ Việt Nam – Liên Xô
Bên cạnh những biểu hiện tích cực, thái độ của Liên Xô đối với vấn đề Việt Nam c̣n nhiều phức tạp. Liên Xô kiên tŕ gợi ư Việt Nam hạn chế thâm nhập và bó hẹp các hoạt động quân sự ở miền Nam, đổi lấy việc Mỹ không đem quân vào. Trước sau như một, Liên Xô chủ trương giải quyết vấn đề Việt Nam bằng thương lượng, thông qua vai tṛ trung gian của ḿnh, mà điều kiện đưa ra là thấp hơn so với yêu cầu của Việt Nam.
Từ tháng 2-1965, Liên Xô đă đưa ra gợi ư triệu tập một Hội nghị quốc tế về Đông Dương do Liên Xô làm chủ tịch, theo mô thức của Hội nghị Geneve. Trên tinh thần ấy, Liên Xô đă vận động các nước hữu quan như Anh, Pháp, Campuchia, Ấn Độ, Miến Điện… Sau khi bị Việt Nam khước từ với lư do là điều kiện chưa chín muồi, Liên Xô đă chuyển sang h́nh thức truyền đạt cho Việt Nam ư kiến của các nước muốn làm trung gian cho Mỹ, hoặc của chính Mỹ cho tới năm 1973. Đỉnh cao là trong những năm 1967-1968 và trong năm 1972, khi Việt Nam, Mỹ đă ngồi vào bàn thương lượng và khi khả năng đi đến giải pháp đă thành hiện thực, Liên Xô liên tục tác động tới Việt Nam, vận động Việt Nam thương lượng trên những điều kiện thấp (cho rằng, Việt Nam đ̣i Mỹ chấm dứt đánh phá “không điều kiện” là không thực tế; muốn Việt Nam đáp ứng các yêu cầu của Mỹ trên nguyên tắc “có đi, có lại” – nghĩa là Việt Nam chấm dứt chiến đấu và rút quân ra khỏi miền Nam…). Liên Xô cũng chủ trương giải quyết vấn đề ngừng ném bom miền Bắc trước, vấn đề miền Nam sau; giải quyết vấn đề quân sự miền Nam trước, vấn đề chính trị sau.
Cũng trong những năm 1967-1968, Liên Xô liên tục đề nghị Việt Nam nói chuyện với chính quyền Sài G̣n và tỏ ư không hài ḷng khi Việt Nam từ chối. Cũng chính v́ lư do đó mà Liên Xô đă không ngay lập tức công nhận Mặt trận DTGPMNVN và Chính phủ CMLTMNVN là đại diện chân chính, duy nhất của nhân dân Việt Nam. Liên Xô cũng luôn muốn đóng vai tṛ trung gian từ khi nổ ra cuộc chiến tranh đến khi kư Hiệp định Paris. Liên Xô đă nhiều lần gợi ư để Mỹ và Việt Nam gặp nhau hoặc ở Matxcơva, hoặc trên tàu chiến của Liên Xô, hoặc tại Đại sứ quán Liên Xô ở Paris. Liên Xô cũng không ngừng yêu cầu Việt Nam cho biết lập trường và nội dung các giải pháp của các cuộc đàm phán. Tháng 3-1970, khi t́nh h́nh Campuchia căng thẳng, Liên Xô đă hai lần yêu cầu Việt Nam rút quân khỏi Campuchia.
Tháng 4-1972, nhân chuyến thăm Việt Nam, Kotuchov một lần nữa lại thể hiện quan điểm giải quyết vấn đề quân sự ở miền Nam trước, “c̣n các vấn đề chính trị, ta tiếp tục đấu tranh đ̣i hỏi giải quyết theo lập trường của ta”12. Về h́nh thức thương lượng, năm 1972, khi Mỹ muốn họp bí mật trước, họp công khai sau, Liên Xô cũng muốn Việt Nam chấp thuận. Tháng 10-1972, Liên Xô vận động Việt Nam hoăn việc kư Dự thảo hiệp định đă được hoàn tất. Năm 1972 cũng là năm Mỹ muốn tranh thủ Liên Xô và Trung Quốc để gây sức ép với Việt Nam, giành thế chủ động trên bàn đàm phán trong Hội nghị Paris. Với Liên Xô, Nicsơn chủ trương đặt việc giải quyết vấn đề Việt Nam trong “cuộc mặc cả toàn cầu”. Quan hệ Xô – Mỹ đi vào hoà hoăn, làm ảnh hưởng tiêu cực đến tiến tŕnh cách mạng Việt Nam.
Từ sau khi Hiệp định Paris được kư kết (1-1973), Liên Xô không muốn để chiến tranh bùng nổ lại; việc hoàn thành độc lập và dân chủ ở miền Nam, Liên Xô muốn Việt Nam thực hiện bằng con đường chính trị. Như vậy, Liên Xô muốn duy tŕ “nguyên trạng” đă đạt được bởi Hiệp định Paris, giữ nguyên hai vùng kiểm soát, hai chính quyền và ba lực lượng chính trị (trong đó Liên Xô có quan hệ với cả ba bên). Liên Xô tiếp tục muốn đóng vai tṛ trung gian chuyển ư kiến của Mỹ cho Việt Nam. Có thể nhận thấy rằng, sau Hiệp định Paris, thái độ của Liên Xô đối với việc hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam là không thuận. Liên Xô không ủng hộ Việt Nam giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam.
Do những quan điểm tiêu cực trên đây, mà trong việc viện trợ cho Việt Nam, Liên Xô cũng tính toán lại. Liên Xô đă giải quyết rất ít những yêu cầu của ta về viện trợ quân sự cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, hoăn việc trao viện trợ quân sự trong hai tháng, hoăn kư hiệp định viện trợ cho năm 1969. Như vậy, viện trợ quân sự của Liên Xô cho Việt Nam giảm hẳn trong năm 1969. Năm 1972, song song với việc giảm viện trợ kinh tế, phía Liên Xô đă ngừng cung cấp viện trợ quân sự, kể cả các khoản đă được kư kết trước đó. Liên Xô cũng không giải quyết yêu cầu của Việt Nam về tên lửa hiện đại để chống B.52 trong đợt Mỹ mở cuộc tập kích chiến lược cuối năm 1972. Sau Hiệp định Paris (1-1973), do tác động từ hoà hoăn Xô – Mỹ, nên viện trợ quân sự của Liên Xô cho Việt Nam giảm đi nhiều so với trước.