Hanna
03-01-2012, 21:33
1. Sơ lược về lịch sử.
Người Hoa đến nước Mỹ chậm hơn người một số nước khác. Trong khi người Anh di dân đến từ thế kỷ 17, người Irish từ Scottland đến từ thế kỷ 18, người Ireland đến từ chiến tranh Nam, Bắc… th́ măi tới cuối những năm 40 của thế kỷ 19, dân Trung Quốc mới tới Mỹ. Đó chủ yếu là v́, năm 1849 miền Tây nước Mỹ phát hiện ra nhiều mỏ vàng cần nhân công đến khai thác, tiếp đó Mỹ xây dựng tuyến đường sắt chiến lược Trung ương Thái B́nh Dương tại miền Tây, cần thêm nhiều nhân công, nên chỉ trong mấy năm người Hoa (chủ yếu là từ Quảng Đông, Phúc Kiến) kéo sang Mỹ khá nhiều (đến năm 1870-1880 đă lên tới 10 vạn Hoa kiều), gây ra những cạnh tranh, chống đối, xung đột với dân và chính quyền địa phương, khiến chính quyền Mỹ bắt đầu phải cử quan chức chuyên quản di dân và ban bố chính sách với di dân.
Chính sách của chính quyền Mỹ đối với người Hoa nhập cư có thể chia làm 4 thời kỳ dưới đây:
1. Thời kỳ tự do - Trước năm 1882.
Cuối đời Thanh, nhân dân Trung Quốc bị chính quyền phong kiến hủ bại đàn áp bóc lột thậm tệ. Do sau chiến tranh thuốc phiện lần thứ nhất (1840) Trung Quốc buộc phải mở cửa nên một bộ phận dân chúng nghèo khổ (nhất là ở mấy tỉnh ven biển miền Nam) bắt đầu t́m cách ra nước ngoài mưu sinh. Tuy vậy do cách xa về vị trí địa lư nên người Trung Quốc đến Mỹ tương đối chậm. Chỉ khi bang California Mỹ phát hiện ra mỏ vàng, rồi Mỹ xây dựng đường sắt chiến lược Trung ương Thái B́nh Dương tại miền Tây, cần gấp một lượng lớn nhân công, người Hoa mới ồ ạt kéo đến Mỹ (năm 1853 số nhân công người Hoa tại Mỹ chỉ có 42 người, nhưng năm 1854 đă tăng lên 13.000 người) cạnh tranh gay gắt trong việc t́m kiếm việc làm với dân bản địa, t́nh trạng bài xích công nhân Trung Quốc xuất hiện và ngày càng mạnh. Trước t́nh h́nh trên, năm 1868 Mỹ ban bố đạo luật Anson Buringame. Anson Buringame vốn là Công sứ của Mỹ tại Bắc Kinh, được chính quyền nhà Thanh rất coi trọng v́ đă có những hành động và lời nói tôn trọng lănh thổ Trung Quốc hoàn chỉnh. Năm 1868, ông này từ chức về nước. Ngay sau đó vào tháng 7/1868, ông ta được chính quyền nhà Thanh cử làm trưởng đoàn đại biểu Trung Quốc tới Mỹ kư một điều ước bổ sung cho “Hiệp ước Thiên Tân Trung Mỹ” (năm 1858) chính thức đặt vấn đề di dân giữa hai nước, khiến phong trào người Hoa nhập cư tuy vẫn bị bài xich nhưng không bị hạn chế được kéo dài tới năm 1882 khi “Luật bài Hoa” ra đời, lúc này tổng số người Hoa tới Trung Quốc đă đạt 39.579 người.
2. Thời kỳ cấm hẳn (từ năm 1882 đến năm 1943):
Ư kiến hạn chế công nhân người Hoa hầu như xuất hiện cùng một lúc khi có người Hoa tới Mỹ. Tuy vậy để trở thành một đạo luật bài xích công nhân người Hoa, nội bộ nước Mỹ đă phải trải qua nhiều cuộc tranh luận phức tạp kéo dài.
Trong các năm 1850-1860, bang California đặt ra nhiều tạp thuế hà khắc cho công nhân người Hoa nhằm hạn chế người Hoa nhập cư. Một ví dụ năm 1852, bang này thu thuế đầu người mỗi công nhân người Hoa là 3 USD, năm 1853 đă tăng lên 4 USD khiến khá nhiều công nhân người Hoa phải t́m cách chuyển nghề hoặc trở về nước. Năm 1862, bang này đặt ra “Thuế cảnh sát” qui định mỗi người Hoa trên 18 tuổi mà chưa đóng thuế đầu người và chưa có công ăn việc làm mỗi tháng phải đóng 2 USD thuế, rồi c̣n đặt ra nhiều loại thuế khác với những tên gọi kỳ lạ như “thuế đánh cá” , “thuế đ̣n gánh”... May mà sau một thời gian thi hành, các loại thuế đó bị ṭa án Bang và Liên bang can thiệp, phải hủy bỏ.
Về mặt Liên bang, năm 1862, Quốc hội Mỹ thông qua đạo luật do nghị sĩ Elliott đề xuất cấm không được mua bán “người khổ sai” Trung Quốc trên các tàu thuyền. Luật này cho rằng những “người khổ sai” đến Mỹ không phải là di dân tự do mà là sự mua bán nô lệ biến tướng, là một hành vi mậu dịch không hợp pháp. Đạo luật này không trực tiếp hạn chế công nhân người Hoa tới Mỹ nhưng đă gây cho họ rất nhiều bất tiện. Đạo luật tỏ ra hiểu được những khổ nạn của người Hoa nhưng lại không biểu thị đồng t́nh. Thực ra t́nh trạng người Hoa đến Mỹ lúc này không khác những “công nhân theo hợp đồng” (indentured labor) đến châu Âu từ thế kỷ 17, nhưng có khác biệt với những công nhân nô lệ.
Phong trào bài Hoa từ bang California là trung tâm, từ từ lan đi các nơi khác, thanh thế ngày một lớn. Trước t́nh h́nh đó, năm 1876, Quốc hội Mỹ cử một đoàn tới California điều tra, và rút ra kết luận: “Người Trung Quốc không cầu tiến bộ, có thói quen xấu, tiêu chuẩn đạo đức thấp hơn người châu Âu, đối xử với người bệnh tàn bạo, thường đẩy họ ra đường bỏ mặc cho đến chết. Tóm lại họ không bao giờ có thể đồng hoá với người da trắng”.
Năm 1880, dân số thành phố Sanfrancisco là 292.874 người th́ người Hoa đă chiếm tới một phần tư, tức 71.328 người, đông hơn hẳn người Irland, người Anh, người Đức, người Pháp, người Tây Ban Nha, người Italia tại Mỹ lúc đó. V́ thế báo cáo điều tra c̣n cho rằng người da trắng ở California sẽ lâm vào nguy cơ bị người Hoa áp đảo, đề nghị chính phủ phải sửa lại điều ước di dân với Trung Quốc, hạn chế người châu Á nhập cư (chủ yếu là người Hoa). Báo cáo này có ảnh hưởng tới 20 năm sau đó.
Năm 1877-1878, dưới sự kích động của Denní Kearney, bang California thành lập đảng Sand-lots, thi hành điên cuồng bài Hoa. Năm 1879, để hạn chế người Hoa, các nghị sĩ tại các bang ở bờ Thái B́nh Dương đề nghị quốc hội thông qua một dự luật hạn chế số lượng người Hoa nhập khẩu trên mỗi chiếc tầu đến không được vượt quá 15 người, nhưng Tổng thống Hayes cho rằng dự luật này trái với mục tự do di dân trong điều ước Anson Buringame nên đă từ chối kư.
Hành động này không có nghĩa là chính phủ Liên bang Mỹ thực sự phản đối tâm tư bài Hoa của nhân dân các bang ở bờ Tây, tuy vậy sau đó họ đă cử một đoàn đại biểu do Angell làm trưởng đoàn tới Trung Quốc thương thảo về điều ước Anson Buringame vào năm 1880 và đă kư với đoàn đại biểu toàn quyền nhà Thanh do Lư Hồng Chương đứng đầu một phụ kiện bổ sung trong đó qui định các điểm cốt yếu sau: “Phàm là những người truyền giáo, đi học, đi buôn, du lịch v.v... vẫn được qua lại tự do, những công nhân người Hoa đă ở Mỹ vẫn được bảo hộ; nhưng những người mới tới phải có giới hạn về số lượng và số tuổi, không được xỉ nhục”. Thế nhưng trong nguyên bản tiếng Anh đă sử dụng một số từ có thể hiểu theo nhiều nghĩa: nhằm hạn chế hoặc ngừng cho công nhân người Hoa nhập cư, ư đồ lật bỏ điều ước Anson Buringame, đặt cơ sở cho luật chống di dân người Hoa.
Với những qui định trên có thể nói những ràng buộc tự do di dân hầu như không c̣n nữa. Năm 1882, quốc hội Mỹ đă thông qua một đạo luật mà nhân dân các bang miền Tây mong mỏi đă lâu là ngừng không nhập khẩu công nhân người Hoa trong 20 năm, nhưng Tổng thống Arthur từ chối kư v́ cho rằng thời gian quá dài hơn nữa lại vô lư. Mấy tuần lễ sau thời hạn được sửa thành 10 năm, trước t́nh h́nh đó Tổng thống đành phải kư. Đó là đạo luật có ư nghĩa thời đại trong lịch sử di dân thế giới. Nội dung chủ yếu của đạo luật bài Hoa này (Chinese Exclusion Act of 1882) như sau “(1) Ngừng cho công nhân người Hoa vào Mỹ 10 năm. (2) Những công nhân người Hoa đă cư trú tại Mỹ và đă nhận được văn kiện chứng minh của hải quan trước ngày 17 tháng 11 năm 1880 th́ khi tạm thời xuất cảnh vẫn cho phép trở lại nước Mỹ. (3) Những người có văn bản đăng kư bằng tiếng Anh của chính phủ Trung Quốc chứng minh là những người Hoa (không phải là công nhân Hoa) có quyền vào Mỹ theo điều ước, được phép vào Mỹ. (4) Những người Hoa không được phép vào Mỹ nhưng đă vào, th́ sau khi đạo luật này được thông qua sẽ căn cứ vào phán quyết của ṭa án Mỹ mà bị trục xuất khỏi Mỹ. (5) Sau đó, ṭa án bang hoặc ṭa án liên bang đều không được cho phép người Hoa chuyển thành công dân Mỹ.
“Luật bài Hoa” năm 1882, mới chỉ là sự mở đầu, phải qua nhiều lần sửa chữa mới hoàn chỉnh. Chủ yếu có những điều sau (1) Chỉ thị bổ sung luật năm 1884: người Hoa bất kỳ đến từ nơi nào trên thế giới đều coi là người Trung Quốc, sinh trưởng ở đất Trung Quốc cũng thế mà sinh trưởng ở Luân Đôn cũng thế. Mở rộng định nghĩa công nhân người Hoa bao gồm tiểu chủ, người giặt quần áo, bán hoa quả, đánh bắt cá v.v... (2) Luật năm 1882 qui định: người Hoa xuất cảnh phải có vợ con cha mẹ tại Mỹ, hoặc có tài sản 1000 USD th́ mới được hải quan cấp giấy cho phép sau 1 năm vẫn được vào Mỹ. (3) Luật Scott Act năm 1888 qui định, công nhân người Hoa sau khi xuất cảnh không kể là có giấy phép cho trở lại Mỹ hay không về căn bản không cho trở lại. V́ vậy những qui định mới này đă ảnh hưởng tới hơn hai vạn người Hoa đă đăng kư về nước và hơn sáu trăm người Hoa đang trên đường trở lại Mỹ, và làm cho những người Hoa ở Mỹ không dám tính đến chuyện về nước thăm gia đ́nh.
Năm 1898 là năm Mỹ có vai tṛ khá nổi bật trên thế giới: đánh bại Tây Ban Nha, chiếm Hawai, chiếm Philippine v.v.... Cùng năm này quốc hội Mỹ thông qua luật: người Hoa không được tự do vào Hawai. Hai năm sau luật này c̣n qui định thêm: người Hoa đă ở Hawai, phải đăng kư với chính quyền để được cấp giấy chứng nhận cư trú trong thời hạn một năm. Từ đó người Hoa cũng không c̣n có quyền di cư tới Philippine.
Một đạo luật công bố năm 1902 đă kéo dài Luật bài Hoa nói trên thêm 10 năm nữa, hai năm sau lại có một đạo luật qui định dứt khoát kéo dài Luật bài Hoa không thời hạn, hơn nữa c̣n cấm công nhân người Hoa từ các đảo như Hawai, Philippine v.v... được vào đại lục Mỹ.
Chính quyền Trung Quốc không phải là không có kháng nghị đối với Luật bài Hoa, nhưng trên thực tế không có hiệu quả ǵ. Như năm 1882, khi Luật bài Hoa được thông qua và tuyên bố có hiệu lực, Công sứ Trung Quốc tại Washington đă kháng nghị mạnh mẽ với Quốc vụ viện Mỹ nhưng không có tác dụng. Năm 1888 Công sứ Trung Quốc kháng nghị với Quốc Vụ viện Mỹ về “Luật Scott”, nhưng ngay trả lời phía Mỹ cũng không có. Sáu tháng sau Công sứ Trung Quốc lại kháng nghị Mỹ vi phạm điều ước Trung Mỹ, Bộ ngoại giao Mỹ về cơ bản không chịu thảo luận vấn đề này bằng cách trả lời: quốc hội chế định và băi bỏ luật, tổng thống có thể phủ quyết, bộ ngoại giao chúng tôi không thể làm điều ǵ. v.v... Ngày 27 tháng 4 năm 1904, Quốc hội Mỹ ra quyết nghị: mọi đạo luật bài Hoa trước đây có hiệu quả vĩnh viễn. Đến đây những nhen nhóm bài Hoa bắt đầu tại bang California từ 50 năm trước đă được thực hiện hoàn toàn.
Như vậy là từ năm 1882 cho đến năm 1943, công nhân người Hoa không được phép vào Mỹ, mà ngược lại những người đă tập kết tại miền Tây chỉ có cách trở về nước hoặc len lỏi vào số người Hoa đă định cư tại một số thành phố phía Đông như Newyork, Boston, Chicago.. chịu cảnh phân biệt đối xử với nhiều áp lực. Những “phố người Đường” (China town) trong các thành phố lớn của Mỹ hiện nay đều được h́nh thành từ thời kỳ này. Những công nhân người Hoa thời đó đă chọn hai nghề chính là mở cửa hàng ăn và giặt quần áo là những nghề khó có thể phân biệt đối xử là v́ vậy.
3. Thời kỳ hạn chế (năm 1943 đến năm 1956)
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Mỹ nhảy vọt lên thành cường quốc hàng đầu thế giới. Tuy công nghiệp phát triển rất mạnh, nhưng lại không cần những công nhân đến từ nước ngoài không thành thạo nghề dù giá rẻ, nên Mỹ vẫn hạn chế công nhân người Hoa vào Mỹ.
Chế độ phân phối số lượng người được hưởng quốc tịch (National origin quota system) mà cụ thể là “Luật phân phối số lượng người được hưởng quốc tịch thứ nhất” (The Quota Act of 1921) được thông qua năm 1921 qui định, mỗi năm tổng số người các quốc tịch di dân tới Mỹ không được vượt quá 357.803 người. Số lượng người mỗi nuớc được nhập khẩu là 3% số người nước đó tại Mỹ năm 1910. Ba năm sau luật thứ hai ra đời (The Quota Act of 1924) thay thế luật thứ nhất, theo luật này th́ số người các nước được nhập cư vào Mỹ bằng 2% tổng số người nước đó tại Mỹ năm 1909, nhưng tổng số của các nước mỗi năm chỉ là 164.677 người. Mục đích của lần sửa đổi này là (1) giảm bớt tổng mức người di dân tới Mỹ. (2) hạn chế số di dân của các nước đông và nam châu Âu (nhất là Italia) từ sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất. (3) cho các nước là nguồn gốc của người Mỹ được hưởng mức di dân cao nhất (như cho Anh mức 60000 người). (4) chỉ cho các nước phương đông một lượng nhỏ nhoi. Trung Quốc chỉ được phân 105 người do bị ảnh hưởng của Luật bài Hoa trước đây.
Vào thời gian giữa của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, Trung Quốc sát cánh chiến đấu cùng Mỹ nên bước đầu phá bỏ được cục diện cứng nhắc hơn 60 năm trước. Ngay từ năm 1943, Chính phủ Trung Quốc đă đề nghị với Mỹ hủy bỏ “Luật bài Hoa” và được đông đảo nhân sĩ Mỹ tán thành và Tổng thống Roosevelt ủng hộ. Ngày 11 tháng 10 cùng năm ông nói tại Quốc hội Mỹ: việc hủy bỏ Luật bài Hoa kéo dài quá lâu, chúng ta phải thông qua quyết định sửa chữa sai lầm với bạn bè của ḿnh. Trải qua thời gian gần 1 năm và qua hơn 20 lần tranh luận tại quốc hội cuối cùng mới thông qua được việc hủy bỏ Luật bài Hoa vào ngày 26 tháng 11 năm 1943 và được Tổng thống kư vào ngày 17 tháng 12 năm 1943. Từ đó căn cứ vào mức 105 người được phép vào Mỹ, bất kể là người Trung Quốc nào sinh trưởng tại bất kỳ nơi nào trên thế giới đều có thể xin di cư tới Mỹ, và c̣n qui định cụ thể trong đó có 75% số người là sinh trưởng tại Trung Quốc c̣n 25% là người Hoa ở nước ngoài. Chỉ cần người có 50% huyết thống Trung Quốc th́ bất kể ở đâu cũng được coi là thuộc số lượng 105 kể trên.
Người Hoa đến nước Mỹ chậm hơn người một số nước khác. Trong khi người Anh di dân đến từ thế kỷ 17, người Irish từ Scottland đến từ thế kỷ 18, người Ireland đến từ chiến tranh Nam, Bắc… th́ măi tới cuối những năm 40 của thế kỷ 19, dân Trung Quốc mới tới Mỹ. Đó chủ yếu là v́, năm 1849 miền Tây nước Mỹ phát hiện ra nhiều mỏ vàng cần nhân công đến khai thác, tiếp đó Mỹ xây dựng tuyến đường sắt chiến lược Trung ương Thái B́nh Dương tại miền Tây, cần thêm nhiều nhân công, nên chỉ trong mấy năm người Hoa (chủ yếu là từ Quảng Đông, Phúc Kiến) kéo sang Mỹ khá nhiều (đến năm 1870-1880 đă lên tới 10 vạn Hoa kiều), gây ra những cạnh tranh, chống đối, xung đột với dân và chính quyền địa phương, khiến chính quyền Mỹ bắt đầu phải cử quan chức chuyên quản di dân và ban bố chính sách với di dân.
Chính sách của chính quyền Mỹ đối với người Hoa nhập cư có thể chia làm 4 thời kỳ dưới đây:
1. Thời kỳ tự do - Trước năm 1882.
Cuối đời Thanh, nhân dân Trung Quốc bị chính quyền phong kiến hủ bại đàn áp bóc lột thậm tệ. Do sau chiến tranh thuốc phiện lần thứ nhất (1840) Trung Quốc buộc phải mở cửa nên một bộ phận dân chúng nghèo khổ (nhất là ở mấy tỉnh ven biển miền Nam) bắt đầu t́m cách ra nước ngoài mưu sinh. Tuy vậy do cách xa về vị trí địa lư nên người Trung Quốc đến Mỹ tương đối chậm. Chỉ khi bang California Mỹ phát hiện ra mỏ vàng, rồi Mỹ xây dựng đường sắt chiến lược Trung ương Thái B́nh Dương tại miền Tây, cần gấp một lượng lớn nhân công, người Hoa mới ồ ạt kéo đến Mỹ (năm 1853 số nhân công người Hoa tại Mỹ chỉ có 42 người, nhưng năm 1854 đă tăng lên 13.000 người) cạnh tranh gay gắt trong việc t́m kiếm việc làm với dân bản địa, t́nh trạng bài xích công nhân Trung Quốc xuất hiện và ngày càng mạnh. Trước t́nh h́nh trên, năm 1868 Mỹ ban bố đạo luật Anson Buringame. Anson Buringame vốn là Công sứ của Mỹ tại Bắc Kinh, được chính quyền nhà Thanh rất coi trọng v́ đă có những hành động và lời nói tôn trọng lănh thổ Trung Quốc hoàn chỉnh. Năm 1868, ông này từ chức về nước. Ngay sau đó vào tháng 7/1868, ông ta được chính quyền nhà Thanh cử làm trưởng đoàn đại biểu Trung Quốc tới Mỹ kư một điều ước bổ sung cho “Hiệp ước Thiên Tân Trung Mỹ” (năm 1858) chính thức đặt vấn đề di dân giữa hai nước, khiến phong trào người Hoa nhập cư tuy vẫn bị bài xich nhưng không bị hạn chế được kéo dài tới năm 1882 khi “Luật bài Hoa” ra đời, lúc này tổng số người Hoa tới Trung Quốc đă đạt 39.579 người.
2. Thời kỳ cấm hẳn (từ năm 1882 đến năm 1943):
Ư kiến hạn chế công nhân người Hoa hầu như xuất hiện cùng một lúc khi có người Hoa tới Mỹ. Tuy vậy để trở thành một đạo luật bài xích công nhân người Hoa, nội bộ nước Mỹ đă phải trải qua nhiều cuộc tranh luận phức tạp kéo dài.
Trong các năm 1850-1860, bang California đặt ra nhiều tạp thuế hà khắc cho công nhân người Hoa nhằm hạn chế người Hoa nhập cư. Một ví dụ năm 1852, bang này thu thuế đầu người mỗi công nhân người Hoa là 3 USD, năm 1853 đă tăng lên 4 USD khiến khá nhiều công nhân người Hoa phải t́m cách chuyển nghề hoặc trở về nước. Năm 1862, bang này đặt ra “Thuế cảnh sát” qui định mỗi người Hoa trên 18 tuổi mà chưa đóng thuế đầu người và chưa có công ăn việc làm mỗi tháng phải đóng 2 USD thuế, rồi c̣n đặt ra nhiều loại thuế khác với những tên gọi kỳ lạ như “thuế đánh cá” , “thuế đ̣n gánh”... May mà sau một thời gian thi hành, các loại thuế đó bị ṭa án Bang và Liên bang can thiệp, phải hủy bỏ.
Về mặt Liên bang, năm 1862, Quốc hội Mỹ thông qua đạo luật do nghị sĩ Elliott đề xuất cấm không được mua bán “người khổ sai” Trung Quốc trên các tàu thuyền. Luật này cho rằng những “người khổ sai” đến Mỹ không phải là di dân tự do mà là sự mua bán nô lệ biến tướng, là một hành vi mậu dịch không hợp pháp. Đạo luật này không trực tiếp hạn chế công nhân người Hoa tới Mỹ nhưng đă gây cho họ rất nhiều bất tiện. Đạo luật tỏ ra hiểu được những khổ nạn của người Hoa nhưng lại không biểu thị đồng t́nh. Thực ra t́nh trạng người Hoa đến Mỹ lúc này không khác những “công nhân theo hợp đồng” (indentured labor) đến châu Âu từ thế kỷ 17, nhưng có khác biệt với những công nhân nô lệ.
Phong trào bài Hoa từ bang California là trung tâm, từ từ lan đi các nơi khác, thanh thế ngày một lớn. Trước t́nh h́nh đó, năm 1876, Quốc hội Mỹ cử một đoàn tới California điều tra, và rút ra kết luận: “Người Trung Quốc không cầu tiến bộ, có thói quen xấu, tiêu chuẩn đạo đức thấp hơn người châu Âu, đối xử với người bệnh tàn bạo, thường đẩy họ ra đường bỏ mặc cho đến chết. Tóm lại họ không bao giờ có thể đồng hoá với người da trắng”.
Năm 1880, dân số thành phố Sanfrancisco là 292.874 người th́ người Hoa đă chiếm tới một phần tư, tức 71.328 người, đông hơn hẳn người Irland, người Anh, người Đức, người Pháp, người Tây Ban Nha, người Italia tại Mỹ lúc đó. V́ thế báo cáo điều tra c̣n cho rằng người da trắng ở California sẽ lâm vào nguy cơ bị người Hoa áp đảo, đề nghị chính phủ phải sửa lại điều ước di dân với Trung Quốc, hạn chế người châu Á nhập cư (chủ yếu là người Hoa). Báo cáo này có ảnh hưởng tới 20 năm sau đó.
Năm 1877-1878, dưới sự kích động của Denní Kearney, bang California thành lập đảng Sand-lots, thi hành điên cuồng bài Hoa. Năm 1879, để hạn chế người Hoa, các nghị sĩ tại các bang ở bờ Thái B́nh Dương đề nghị quốc hội thông qua một dự luật hạn chế số lượng người Hoa nhập khẩu trên mỗi chiếc tầu đến không được vượt quá 15 người, nhưng Tổng thống Hayes cho rằng dự luật này trái với mục tự do di dân trong điều ước Anson Buringame nên đă từ chối kư.
Hành động này không có nghĩa là chính phủ Liên bang Mỹ thực sự phản đối tâm tư bài Hoa của nhân dân các bang ở bờ Tây, tuy vậy sau đó họ đă cử một đoàn đại biểu do Angell làm trưởng đoàn tới Trung Quốc thương thảo về điều ước Anson Buringame vào năm 1880 và đă kư với đoàn đại biểu toàn quyền nhà Thanh do Lư Hồng Chương đứng đầu một phụ kiện bổ sung trong đó qui định các điểm cốt yếu sau: “Phàm là những người truyền giáo, đi học, đi buôn, du lịch v.v... vẫn được qua lại tự do, những công nhân người Hoa đă ở Mỹ vẫn được bảo hộ; nhưng những người mới tới phải có giới hạn về số lượng và số tuổi, không được xỉ nhục”. Thế nhưng trong nguyên bản tiếng Anh đă sử dụng một số từ có thể hiểu theo nhiều nghĩa: nhằm hạn chế hoặc ngừng cho công nhân người Hoa nhập cư, ư đồ lật bỏ điều ước Anson Buringame, đặt cơ sở cho luật chống di dân người Hoa.
Với những qui định trên có thể nói những ràng buộc tự do di dân hầu như không c̣n nữa. Năm 1882, quốc hội Mỹ đă thông qua một đạo luật mà nhân dân các bang miền Tây mong mỏi đă lâu là ngừng không nhập khẩu công nhân người Hoa trong 20 năm, nhưng Tổng thống Arthur từ chối kư v́ cho rằng thời gian quá dài hơn nữa lại vô lư. Mấy tuần lễ sau thời hạn được sửa thành 10 năm, trước t́nh h́nh đó Tổng thống đành phải kư. Đó là đạo luật có ư nghĩa thời đại trong lịch sử di dân thế giới. Nội dung chủ yếu của đạo luật bài Hoa này (Chinese Exclusion Act of 1882) như sau “(1) Ngừng cho công nhân người Hoa vào Mỹ 10 năm. (2) Những công nhân người Hoa đă cư trú tại Mỹ và đă nhận được văn kiện chứng minh của hải quan trước ngày 17 tháng 11 năm 1880 th́ khi tạm thời xuất cảnh vẫn cho phép trở lại nước Mỹ. (3) Những người có văn bản đăng kư bằng tiếng Anh của chính phủ Trung Quốc chứng minh là những người Hoa (không phải là công nhân Hoa) có quyền vào Mỹ theo điều ước, được phép vào Mỹ. (4) Những người Hoa không được phép vào Mỹ nhưng đă vào, th́ sau khi đạo luật này được thông qua sẽ căn cứ vào phán quyết của ṭa án Mỹ mà bị trục xuất khỏi Mỹ. (5) Sau đó, ṭa án bang hoặc ṭa án liên bang đều không được cho phép người Hoa chuyển thành công dân Mỹ.
“Luật bài Hoa” năm 1882, mới chỉ là sự mở đầu, phải qua nhiều lần sửa chữa mới hoàn chỉnh. Chủ yếu có những điều sau (1) Chỉ thị bổ sung luật năm 1884: người Hoa bất kỳ đến từ nơi nào trên thế giới đều coi là người Trung Quốc, sinh trưởng ở đất Trung Quốc cũng thế mà sinh trưởng ở Luân Đôn cũng thế. Mở rộng định nghĩa công nhân người Hoa bao gồm tiểu chủ, người giặt quần áo, bán hoa quả, đánh bắt cá v.v... (2) Luật năm 1882 qui định: người Hoa xuất cảnh phải có vợ con cha mẹ tại Mỹ, hoặc có tài sản 1000 USD th́ mới được hải quan cấp giấy cho phép sau 1 năm vẫn được vào Mỹ. (3) Luật Scott Act năm 1888 qui định, công nhân người Hoa sau khi xuất cảnh không kể là có giấy phép cho trở lại Mỹ hay không về căn bản không cho trở lại. V́ vậy những qui định mới này đă ảnh hưởng tới hơn hai vạn người Hoa đă đăng kư về nước và hơn sáu trăm người Hoa đang trên đường trở lại Mỹ, và làm cho những người Hoa ở Mỹ không dám tính đến chuyện về nước thăm gia đ́nh.
Năm 1898 là năm Mỹ có vai tṛ khá nổi bật trên thế giới: đánh bại Tây Ban Nha, chiếm Hawai, chiếm Philippine v.v.... Cùng năm này quốc hội Mỹ thông qua luật: người Hoa không được tự do vào Hawai. Hai năm sau luật này c̣n qui định thêm: người Hoa đă ở Hawai, phải đăng kư với chính quyền để được cấp giấy chứng nhận cư trú trong thời hạn một năm. Từ đó người Hoa cũng không c̣n có quyền di cư tới Philippine.
Một đạo luật công bố năm 1902 đă kéo dài Luật bài Hoa nói trên thêm 10 năm nữa, hai năm sau lại có một đạo luật qui định dứt khoát kéo dài Luật bài Hoa không thời hạn, hơn nữa c̣n cấm công nhân người Hoa từ các đảo như Hawai, Philippine v.v... được vào đại lục Mỹ.
Chính quyền Trung Quốc không phải là không có kháng nghị đối với Luật bài Hoa, nhưng trên thực tế không có hiệu quả ǵ. Như năm 1882, khi Luật bài Hoa được thông qua và tuyên bố có hiệu lực, Công sứ Trung Quốc tại Washington đă kháng nghị mạnh mẽ với Quốc vụ viện Mỹ nhưng không có tác dụng. Năm 1888 Công sứ Trung Quốc kháng nghị với Quốc Vụ viện Mỹ về “Luật Scott”, nhưng ngay trả lời phía Mỹ cũng không có. Sáu tháng sau Công sứ Trung Quốc lại kháng nghị Mỹ vi phạm điều ước Trung Mỹ, Bộ ngoại giao Mỹ về cơ bản không chịu thảo luận vấn đề này bằng cách trả lời: quốc hội chế định và băi bỏ luật, tổng thống có thể phủ quyết, bộ ngoại giao chúng tôi không thể làm điều ǵ. v.v... Ngày 27 tháng 4 năm 1904, Quốc hội Mỹ ra quyết nghị: mọi đạo luật bài Hoa trước đây có hiệu quả vĩnh viễn. Đến đây những nhen nhóm bài Hoa bắt đầu tại bang California từ 50 năm trước đă được thực hiện hoàn toàn.
Như vậy là từ năm 1882 cho đến năm 1943, công nhân người Hoa không được phép vào Mỹ, mà ngược lại những người đă tập kết tại miền Tây chỉ có cách trở về nước hoặc len lỏi vào số người Hoa đă định cư tại một số thành phố phía Đông như Newyork, Boston, Chicago.. chịu cảnh phân biệt đối xử với nhiều áp lực. Những “phố người Đường” (China town) trong các thành phố lớn của Mỹ hiện nay đều được h́nh thành từ thời kỳ này. Những công nhân người Hoa thời đó đă chọn hai nghề chính là mở cửa hàng ăn và giặt quần áo là những nghề khó có thể phân biệt đối xử là v́ vậy.
3. Thời kỳ hạn chế (năm 1943 đến năm 1956)
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Mỹ nhảy vọt lên thành cường quốc hàng đầu thế giới. Tuy công nghiệp phát triển rất mạnh, nhưng lại không cần những công nhân đến từ nước ngoài không thành thạo nghề dù giá rẻ, nên Mỹ vẫn hạn chế công nhân người Hoa vào Mỹ.
Chế độ phân phối số lượng người được hưởng quốc tịch (National origin quota system) mà cụ thể là “Luật phân phối số lượng người được hưởng quốc tịch thứ nhất” (The Quota Act of 1921) được thông qua năm 1921 qui định, mỗi năm tổng số người các quốc tịch di dân tới Mỹ không được vượt quá 357.803 người. Số lượng người mỗi nuớc được nhập khẩu là 3% số người nước đó tại Mỹ năm 1910. Ba năm sau luật thứ hai ra đời (The Quota Act of 1924) thay thế luật thứ nhất, theo luật này th́ số người các nước được nhập cư vào Mỹ bằng 2% tổng số người nước đó tại Mỹ năm 1909, nhưng tổng số của các nước mỗi năm chỉ là 164.677 người. Mục đích của lần sửa đổi này là (1) giảm bớt tổng mức người di dân tới Mỹ. (2) hạn chế số di dân của các nước đông và nam châu Âu (nhất là Italia) từ sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất. (3) cho các nước là nguồn gốc của người Mỹ được hưởng mức di dân cao nhất (như cho Anh mức 60000 người). (4) chỉ cho các nước phương đông một lượng nhỏ nhoi. Trung Quốc chỉ được phân 105 người do bị ảnh hưởng của Luật bài Hoa trước đây.
Vào thời gian giữa của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, Trung Quốc sát cánh chiến đấu cùng Mỹ nên bước đầu phá bỏ được cục diện cứng nhắc hơn 60 năm trước. Ngay từ năm 1943, Chính phủ Trung Quốc đă đề nghị với Mỹ hủy bỏ “Luật bài Hoa” và được đông đảo nhân sĩ Mỹ tán thành và Tổng thống Roosevelt ủng hộ. Ngày 11 tháng 10 cùng năm ông nói tại Quốc hội Mỹ: việc hủy bỏ Luật bài Hoa kéo dài quá lâu, chúng ta phải thông qua quyết định sửa chữa sai lầm với bạn bè của ḿnh. Trải qua thời gian gần 1 năm và qua hơn 20 lần tranh luận tại quốc hội cuối cùng mới thông qua được việc hủy bỏ Luật bài Hoa vào ngày 26 tháng 11 năm 1943 và được Tổng thống kư vào ngày 17 tháng 12 năm 1943. Từ đó căn cứ vào mức 105 người được phép vào Mỹ, bất kể là người Trung Quốc nào sinh trưởng tại bất kỳ nơi nào trên thế giới đều có thể xin di cư tới Mỹ, và c̣n qui định cụ thể trong đó có 75% số người là sinh trưởng tại Trung Quốc c̣n 25% là người Hoa ở nước ngoài. Chỉ cần người có 50% huyết thống Trung Quốc th́ bất kể ở đâu cũng được coi là thuộc số lượng 105 kể trên.