johnnydan9
03-22-2012, 19:13
Việt Nam và Hoa Kỳ không kết luận giống nhau về quyền con người của công dân Việt Nam bị vi phạm ngay trên quê hương ḿnh, nhưng giữa người Việt với nhau th́ sao? Chúng ta có đi chung một đường không hay cũng mỗi người mỗi ngả?
Trước hết, Hoa Kỳ kết luận trong Báo cáo phát hành ngày 8/4/2011 về T́nh h́nh Nhân quyền ở Việt Nam năm 2010, tóm tắt như sau:
“Công dân bị giam giữ tùy tiện v́ tham gia hoạt động chính trị và c̣n bị tước quyền được xét xử công bằng và nhanh chóng. Hệ thống tư pháp bị bóp méo nghiêm trọng do những ảnh hưởng chính trị. Nạn tham nhũng cục bộ và thiếu hiệu quả. Chính phủ tiếp tục hạn chế quyền riêng tư của công dân và tự do báo chí, tự do ngôn luận, hội họp, đi lại và lập hội. Chính phủ kiểm soát gắt gao hơn tự do Internet và đă đồng loạt tiến hành tấn công các trang web chỉ trích Chính phủ cũng như bí mật theo dơi các blogger bất đồng chính kiến. Cách hiểu và bảo vệ quyền tự do tôn giáo vẫn không thống nhất.
Mặc dù đă đạt được nhiều bước tiến đáng kể nhưng đây vẫn là một vấn đề nhức nhối, đặc biệt là ở cấp tỉnh và cấp xă. Tham nhũng trong ngành công an vẫn là một vấn nạn. Chính phủ duy tŕ lệnh cấm đối với các tổ chức nhân quyền độc lập. Bạo lực, phân biệt đối xử với phụ nữ và nạn buôn người vẫn là những vấn đề nhức nhối mặc dù luật pháp và Chính phủ đă nỗ lực giải quyết. Một số nhóm dân tộc thiểu số bị xă hội phân biệt đối xử. Chính phủ hạn chế quyền của người lao động trong việc lập và tham gia các hội đoàn độc lập.
Các vụ giam giữ tùy tiện, đặc biệt đối với các nhà hoạt động chính trị vẫn là một vấn đề nổi cộm. Chính phủ sử dụng các nghị định, sắc lệnh và các biện pháp khác để giam giữ các nhà hoạt động bày tỏ những quan điểm chính trị đối lập một cách ḥa b́nh … Chính quyền đă tăng cường kết án những người bất đồng chính kiến do vi phạm điều 79, “âm mưu lật đổ chính quyền” do họ tham gia vào các đảng chính trị khác không phải Đảng Cộng sản…. Tiếp tục có những báo cáo về việc các quan chức chính quyền ở Tây Nguyên và Tây Bắc tạm giữ các cá nhân người dân tộc thiểu số do liên lạc với cộng đồng thiểu số ở nước ngoài….”
LẠM DỤNG LUẬT H̀NH SỰ
Hoa Kỳ và những người Việt trong nước đang đấu tranh cho nhân quyền, dân chủ và tự do đă từ lâu đ̣i Nhà cầm quyền rút lại 3 Điều của Luật H́nh Sự ngăn cấm các quyền tự do tư tưởng,tự do tập họp và lập hội của công dân v́ Nhà nước đă lạm dụng những điều này để đàn áp người dân không muốn sống theo chủ nghĩa Cộng sản, vi phạm những quy định trong Hiến pháp, bộ Luật cao nhất của Quốc gia.
Các điều này, trong số 15 điều ghi trong Chương XI của Luật H́nh sự quy định “Các tội xâm phạm an ninh quốc gia”, được Chính quyền Việt Nam sử dụng để đàn áp những người bất đồng quan điểm chính trị nguyên văn như sau:
Điều 79. Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân
Người nào hoạt động thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, th́ bị phạt như sau:
Người tổ chức, người xúi giục, người hoạt động đắc lực hoặc gây hậu quả nghiêm trọng, th́ bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử h́nh.
Người đồng phạm khác th́ bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.
Điều 88. Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Việt Nam
Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống Nhà nước Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Việt Nam, th́ bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm:
a) Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân;
b) Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lư, phao tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân;
c) Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hoá phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng th́ bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm.
Điều 89. Tội phá rối an ninh
Người nào nhằm chống chính quyền nhân dân mà kích động, lôi kéo, tụ tập nhiều người phá rối an ninh, chống người thi hành công vụ, cản trở hoạt động của cơ quan, tổ chức, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 82 của Bộ luật này, th́ bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.
Người đồng phạm khác th́ bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
Trong tất cả các vụ án chính trị ở Việt Nam, kể cả 2 vụ nổi tiếng bỏ tù Linh mục Nguyễn Văn Lư và Tiến sỹ Luật Cù Huy Hà Vũ, đă do nhà nước “vẽ rắn thêm chân, vẽ rồng thêm cánh” để gán cho nạn nhân những tội danh không có trong hành động và ngôn từ của họ để bịt miệng những người đă can đảm chống lại chính sách cai trị độc tài và đ̣i quyền tự do tư tưởng.
V́ vậy chính phủ CSVN chưa bao giờ dám thừa nhận có “tù chính trị” ở Việt Nam mà nói rằng những người bị bắt giam và bị tuyên án v́ đă “vi phạm an ninh quốc gia”, một tội danh mơ hồ có thể quy chụp cho bất cứ người nào nhà nước muốn bắt mà không cần có lư do chính đáng.
Nhưng Hoa Kỳ và các nước Tây phương, kể cả các Tổ chức Nhân quyền, Tôn giáo và bảo vệ Quyền tự do Báo chí đă bác bỏ lập luận của Việt Nam v́ nó vi phạm tất cả các nguyên tắc ghi trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và Hiến chương Liên Hiệp Quốc mà Việt Nam là một thành viên.
Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, David Shear, trong lời tuyên bố ngày 11/03 (2012) tại Falls Church, Virginia (bên ngoài Thủ đô Hoa Thịnh Đốn) đă xác nhận Mỹ và Việt Nam vẫn c̣n có những bất đồng sâu xa về nhân quyền, và t́nh h́nh tiếp tục tồi tệ trong hai lĩnh vực tự do tư tưởng và quyền hội họp của người dân Việt Nam.
T́nh h́nh này cũng đă phản ảnh trong Cuộc đối thọai lần thứ 16 về nhân quyền giữa Hoa Thịnh Đốn và Hà Nội hồi tháng 11 năm 2011.
Trong cuộc họp báo tại Hà Nội ngày 15/11 (2011), người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, Lương Thanh Nghị nói:
“Đối thoại nhân quyền Việt Nam – Hoa Kỳ lần thứ 16 đă diễn ra trong hai ngày 09 và 10/11/2011 tại Thủ đô Oa-sinh-tơn (Hoa Kỳ). Hai bên đă trao đổi một cách cởi mở, thẳng thắn, sâu rộng về những vấn đề hai bên cùng quan tâm, trong đó có vấn đề tự do tôn giáo, tự do bày tỏ chính kiến, xây dựng nhà nước pháp quyền, quyền lao động, phân biệt chủng tộc, thực hiện các cam kết quốc tế về nhân quyền, cũng như khả năng hợp tác trong lĩnh vực này.
Phía Việt Nam đă thông tin về những thành tựu trong việc đảm bảo các quyền con người ở Việt Nam, đặc biệt là thành tựu phát triển kinh tế - xă hội, mở rộng dân chủ, đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền, sự phát triển lớn mạnh, đa dạng, vai tṛ tích cực của báo chí trên các lĩnh vực đời sống xă hội, và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của người dân. Phía Việt Nam cũng đă thẳng thắn trao đổi, làm rơ sự thật về những thông tin sai lệch, không phản ánh đúng t́nh h́nh thực tế ở Việt Nam.”
Sự thật th́ không có tiến bộ ǵ cả. Lương Thanh Nghị đă nói những điều không thật, và mỉa mai thay, đă phản lại một thực tế phũ phàng đang xẩy ra trong xă hội Việt Nam, một đất nước chỉ có “quyền con người” theo chính sách “xin-cho” của nhà nước.
Đại sứ David Shear trở về Hoa Thịnh Đốn đă nói rằng Lănh đạo Việt Nam từ trung ương xuống địa phương đều được ông cho biết hợp tác về kinh tế, ngọai giao và chiến lược, bao gồm cả an ninh và quốc pḥng giữa hai nước, sẽ tùy thuộc vào những tiến bộ về nhân quyền từ phía Việt Nam.
Hoa Kỳ cũng muốn Việt Nam thả hết tù nhân chính trị, những tù nhân lương tâm và chấm dứt các hành động sách nhiễu những nhà bất đồng chính kiến.
Không ai biết hiện có bao nhiêu người đang ở trong tù ở Việt Nam v́ đă công khai bất đồng với đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng các nhà ngọai giao Tây phương dự đóan ít nhất cũng trên vài trăm người, sau các đợt truy bắt những thanh niên, thiếu nữ đă tham gia trong 11 cuộc biểu t́nh chống Tầu ở Sài G̣n và Hà Nội hồi cuối năm 2011.
Trong hai tháng 1 và 2 đầu năm 2012, hai phái đ̣an của Thượng nghị sỹ Cộng hoà John McCain và Kurt Campbell, Phụ tá Ngọai trưởng Hoa Kỳ, đặc trách Đông Á và Thái B́nh Dương đă đến Hà Nội thảo luận về vấn đề nhân quyền.
Nghị sỹ John McCain cho biết phái đ̣an của ông đă cho Hà Nội biết rằng Việt Nam phải thực hiện những cải cách tích cực về t́nh trạng nhân quyền trước khi Hoa Kỳ có thể cứu xét việc Hoa Kỳ bán vũ khí cho Việt Nam.
Về phần ḿnh, ông Campbell nói tại Hà Nội ngày 2/2/ (2012): “I think, as you know, there is a prohibition currently on the provision of certain defense articles between the United States and Vietnam. And there are some fledgling interactions between our two militaries. I think our desire is to take this process in a step-by-step manner. So what we would like to see in the first instance is a greater exchange of views and dialogue between our two military establishments, to build trust and confidence over the next phase. Then we would very much like to see some of these changes that I'm talking about in terms of human rights so that we will be able to see a more fulsome relationship between our two sides.”
Tạm dịch: “Tôi nghĩ, như ông biết, hiện nay có những điều hạn chế nhất định về sự hợp tác quốc pḥng giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Nhưng cũng có những cam kết hợp tác giữa hai quân đội. Tôi nghĩ là cả hai phiá đều muốn thực hiện sự hợp tác này từng bước một. Như vậy chúng tôi muốn thấy việc đầu tiên là sự trao đổi ư kiến và đối thọai giữa hai hệ thống quân giai để tạo sự tin tưởng và tin cậy lẫn nhau trong giai đọan tới. Và chúng tôi rất muốn thấy có những thay đổi mà tôi đang nói ở đây liên quan đến vấn đề nhân quyền để chúng ta có thể nh́n thấy mối quan hệ tốt đẹp hơn giữa đôi bên.”
Lập trường bán vũ khí cho Việt Nam cũng đă được cựu Đại sứ Michael Michalak nói với Hà Nội trước khi bàn giao lại cho ông David Shear.
Ông Campbell cũng nói thêm: “We did make clear that for the United States and Vietnam to go to the next level it will require some significant steps on the part of Vietnam to address both individual cases of concerns, human rights concerns, but also more systemic challenges associated with freedom of expression, freedom of organization. We were able to communicate I think quite directly what some of the things we would like to see in terms of improvements in this regard.”
Tạm dịch: “Chúng tôi đă nói rơ rằng để cho Hoa Kỳ và Việt Nam có thể đi đến bước kế tiếp th́ phải có những bước tiến bộ rơ rệt từ phiá Việt Nam đối với trường hợp của một số cá nhân, vấn đề nhân quyền, nhưng đồng thời cũng phải đối phó một cách có hệ thống liên quan đến quyền tự do bầy tỏ quan điểm, tự do tập hợp. Tôi nghĩ là chúng tôi đă có thể trao đổi với nhau một cách thẳng thắn về những điều mà chúng tôi muốn nh́n thấy có tiến bộ trong lĩnh vực này.”
Nhưng liệu Việt Nam có làm theo yêu cầu của Mỹ không?
USCIRF VÀ TỰ DO TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
Trong khi chờ đợi th́ vào ngày 20-3 (2012), Ủy hội Quốc tế Tự do Tôn giáo của Hoa Kỳ (U.S. Commission on International Religious Freedom, USCIRF) đă, một lần nữa kêu gọi Chính phủ Mỹ đặt Việt Nam trở lại danh sách là một nước đáng quan tâm (Country of Particular Concern, CPC), v́ Việt Nam tiếp tục có những vị phạm nghiêm trọng có hệ thống (Given these systematic, ongoing, and egregious violations) đối với quyền tự do tôn giáo của người dân Việt Nam.
Tổ chức USCIRF, từ năm 2001 đă liên tục đề nghị Bộ Ngọai giao Hoa Kỳ đem Việt Nam trở lại danh sách CPC, nhưng Chính phủ Mỹ không làm theo, mặc dù đồng ư Việt Nam chưa có những hành động tích cực cải thiện t́nh h́nh.
Việt Nam đă bị đặt vào danh sách CPC trong 2 năm 2004 và 2005, nhưng đến năm 2006 th́ Tổng thống Cộng ḥa George W, Bush quyết định bỏ Việt Nam ra v́ đă thỏa măn một số yêu cầu của Hoa Kỳ để được gia nhập Tổ chức Mậu dịch Thế giới (World Trade Organization, WTO)
Báo cáo năm 2012 của USCIRF viết rằng: “The government of Vietnam continues to control all religious communities, restrict and penalize independent religious practice severely, and repress individuals and groups viewed as challenging its authority. Religious activity continues to grow in Vietnam and the government has made some important changes in the past decade in response to international attention, including from its designation as a ―country of particular concern (CPC).”
Tạm dịch: “Chính phủ Việt Nam tiếp tục kiểm soát tất cả các cộng đồng tôn giáo, hạn chế và ngăn chặn các hoạt động tôn giáo độc lập một cách khe khắt, đồng thời đàn áp những cá nhân và nhóm bị coi là chống lại thẩm quyền của nhà nước. Hoạt động tôn giáo tiếp tục gia tăng ở Việt Nam và chính phủ đă có một số những thay đổi quan trọng trong thế kỷ vừa qua nhằm đáp ứng lại sự quan tâm của quốc tế, nhất là đối với sự quan ngại sẽ bị đặt trở lại là một nước đáng quan tâm.”
Báo cáo viết tiếp rằng: "Tuy nhiên, nhiều người tiếp tục bị bỏ tù hay bị bắt giam v́ những lư do có liên quan đến họat động tôn giáo hay cổ vơ cho tự do tôn giáo; họat động tôn giáo độc lập tiếp tục bị coi là bất hợp pháp; việc bảo vệ hợp pháp dành cho các tổ chức tôn giáo được chấp thuận cho hoạt động cũng rất mơ hồ và tùy tiện hoặc bị kỳ thị dựa theo các yếu tố về chính trị; những tân ṭng của tín đồ Tin Lành dân tộc thiểu số và các phật tử của một cộng đồng Phật giáo bị kỳ thị, khủng bố tinh thần và áp lực bỏ đạo.”
(Nevertheless, individuals continue to be imprisoned or detained for reasons related to their religious activity or religious freedom advocacy; independent religious activity remains illegal; legal protections for government-approved religious organizations are both vague and subject to arbitrary or discriminatory interpretations based on political factors; and new converts to ethnic-minority Protestantism and members of one Buddhist community face discrimination, intimidation, and pressure to renounce their faith.”
USCIRF cũng tố cáo có t́nh trạng gia tăng bắt bớ, giam giữ và de dọa các nhóm và cá nhân bị coi như thù nghịch của đảng Cộng sản, kể cả những vụ bạo động chống lại những cuộc tập hợp ôn hoà của các nhóm dân thiểu số, cũng như đối với những nhóm người Công giáo chống lại những hành động chiếm đất và bị đe dọa. Liên hệ cũng suy đồi giữa những người Công giáo với các chính quyền địa phương ở Hà Nội, Đà Nẵng, Vinh và thành phố Hồ Chí Minh.
Cảnh sát cũng đă dung vũ lực để chống lại các cuộc tập hợp cầu nguyện của người công giáo tại những khu đất có tranh chấp và đă bắt đi một số tín đồ Công giáo chống đối.
Các tổ chức Tin lành độc lập ở Tây nguyên và Ḥa Hảo độc lập cũng bị đàn áp, bị bắt, tài sản của họ bị phá hủy.
Các vụ cưỡng chế bắt bỏ đạo đă xẩy ra ở các Tỉnh vùng tây bắc trong vùng các dân tộc thiểu số Hmong theo đạo Tin lành và ở vùng Tây Nguyên. Linh mục Nguyễn Văn Lư đă bị bắt trở lại nhà tù sau một năm cho phép về nhà chữa bệnh.
(In the past reporting period, there were marked increases in arrests, detentions, and harassment of groups and individuals viewed as hostile to the Communist Party, including violence aimed at peaceful ethnic minority gatherings and Catholics protesting land confiscations and harassment. Relations deteriorated between Catholics and local government officials in Hanoi, DaNang, Vinh, and Ho Chi Minh City. Police used force to disperse peaceful Catholic prayer vigils at disputed properties and arrested over a dozen Catholic activists and several ethnic minority Catholics. Independent Protestants in the Central Highlands were detained and had their property destroyed in an ongoing campaign to repress their activities. Independent Hoa Hao activists were arrested and sentenced and congregations harassed. Forced renunciations of faith continued in the northwest provinces among Hmong Protestants and some areas in the Central Highlands. Father Nguyen Van Ly was returned to prison after being given a one-year medical parole.)
V́ những vị phạm nghiệm trọng nêu trên, ng̣ai yêu cầu đưa Việt Nam trở lại danh sách CPC, cơ quan USCIRF c̣n khuyến cáo chính phủ Mỹ hăy sử dụng sức mạnh ngọai giao và chính trị để đạt được tự do tôn giáo và nhân quyền cho Việt Nam.
(The U.S. government should use its diplomatic and political resources to advance religious freedom and related human rights in Vietnam.)
USCIRF c̣n yêu cầu bất cứ sự nới rộng quan hệ thương mại nào với Việt Nam cũng phải lien kết với tiến bộ về nhân quyền ở Việt Nam, đồng thời hăy có những sáng kiến liên quan đến tự do tôn giáo và các chương tŕnh trong lĩnh vực phi thương mại theo tiêu chuẩn của luật pháp và sự phát triển của xă hội dân sự.
(USCIRF recommends that any expansion of U.S. economic or security assistance programs in Vietnam be linked with human rights progress and the creation of new and sustainable initiatives in religious freedom and programs in non-commercial rule of law and civil society development.)
Trước hết, Hoa Kỳ kết luận trong Báo cáo phát hành ngày 8/4/2011 về T́nh h́nh Nhân quyền ở Việt Nam năm 2010, tóm tắt như sau:
“Công dân bị giam giữ tùy tiện v́ tham gia hoạt động chính trị và c̣n bị tước quyền được xét xử công bằng và nhanh chóng. Hệ thống tư pháp bị bóp méo nghiêm trọng do những ảnh hưởng chính trị. Nạn tham nhũng cục bộ và thiếu hiệu quả. Chính phủ tiếp tục hạn chế quyền riêng tư của công dân và tự do báo chí, tự do ngôn luận, hội họp, đi lại và lập hội. Chính phủ kiểm soát gắt gao hơn tự do Internet và đă đồng loạt tiến hành tấn công các trang web chỉ trích Chính phủ cũng như bí mật theo dơi các blogger bất đồng chính kiến. Cách hiểu và bảo vệ quyền tự do tôn giáo vẫn không thống nhất.
Mặc dù đă đạt được nhiều bước tiến đáng kể nhưng đây vẫn là một vấn đề nhức nhối, đặc biệt là ở cấp tỉnh và cấp xă. Tham nhũng trong ngành công an vẫn là một vấn nạn. Chính phủ duy tŕ lệnh cấm đối với các tổ chức nhân quyền độc lập. Bạo lực, phân biệt đối xử với phụ nữ và nạn buôn người vẫn là những vấn đề nhức nhối mặc dù luật pháp và Chính phủ đă nỗ lực giải quyết. Một số nhóm dân tộc thiểu số bị xă hội phân biệt đối xử. Chính phủ hạn chế quyền của người lao động trong việc lập và tham gia các hội đoàn độc lập.
Các vụ giam giữ tùy tiện, đặc biệt đối với các nhà hoạt động chính trị vẫn là một vấn đề nổi cộm. Chính phủ sử dụng các nghị định, sắc lệnh và các biện pháp khác để giam giữ các nhà hoạt động bày tỏ những quan điểm chính trị đối lập một cách ḥa b́nh … Chính quyền đă tăng cường kết án những người bất đồng chính kiến do vi phạm điều 79, “âm mưu lật đổ chính quyền” do họ tham gia vào các đảng chính trị khác không phải Đảng Cộng sản…. Tiếp tục có những báo cáo về việc các quan chức chính quyền ở Tây Nguyên và Tây Bắc tạm giữ các cá nhân người dân tộc thiểu số do liên lạc với cộng đồng thiểu số ở nước ngoài….”
LẠM DỤNG LUẬT H̀NH SỰ
Hoa Kỳ và những người Việt trong nước đang đấu tranh cho nhân quyền, dân chủ và tự do đă từ lâu đ̣i Nhà cầm quyền rút lại 3 Điều của Luật H́nh Sự ngăn cấm các quyền tự do tư tưởng,tự do tập họp và lập hội của công dân v́ Nhà nước đă lạm dụng những điều này để đàn áp người dân không muốn sống theo chủ nghĩa Cộng sản, vi phạm những quy định trong Hiến pháp, bộ Luật cao nhất của Quốc gia.
Các điều này, trong số 15 điều ghi trong Chương XI của Luật H́nh sự quy định “Các tội xâm phạm an ninh quốc gia”, được Chính quyền Việt Nam sử dụng để đàn áp những người bất đồng quan điểm chính trị nguyên văn như sau:
Điều 79. Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân
Người nào hoạt động thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, th́ bị phạt như sau:
Người tổ chức, người xúi giục, người hoạt động đắc lực hoặc gây hậu quả nghiêm trọng, th́ bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử h́nh.
Người đồng phạm khác th́ bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.
Điều 88. Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Việt Nam
Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống Nhà nước Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Việt Nam, th́ bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm:
a) Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân;
b) Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lư, phao tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân;
c) Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hoá phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng th́ bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm.
Điều 89. Tội phá rối an ninh
Người nào nhằm chống chính quyền nhân dân mà kích động, lôi kéo, tụ tập nhiều người phá rối an ninh, chống người thi hành công vụ, cản trở hoạt động của cơ quan, tổ chức, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 82 của Bộ luật này, th́ bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.
Người đồng phạm khác th́ bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
Trong tất cả các vụ án chính trị ở Việt Nam, kể cả 2 vụ nổi tiếng bỏ tù Linh mục Nguyễn Văn Lư và Tiến sỹ Luật Cù Huy Hà Vũ, đă do nhà nước “vẽ rắn thêm chân, vẽ rồng thêm cánh” để gán cho nạn nhân những tội danh không có trong hành động và ngôn từ của họ để bịt miệng những người đă can đảm chống lại chính sách cai trị độc tài và đ̣i quyền tự do tư tưởng.
V́ vậy chính phủ CSVN chưa bao giờ dám thừa nhận có “tù chính trị” ở Việt Nam mà nói rằng những người bị bắt giam và bị tuyên án v́ đă “vi phạm an ninh quốc gia”, một tội danh mơ hồ có thể quy chụp cho bất cứ người nào nhà nước muốn bắt mà không cần có lư do chính đáng.
Nhưng Hoa Kỳ và các nước Tây phương, kể cả các Tổ chức Nhân quyền, Tôn giáo và bảo vệ Quyền tự do Báo chí đă bác bỏ lập luận của Việt Nam v́ nó vi phạm tất cả các nguyên tắc ghi trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và Hiến chương Liên Hiệp Quốc mà Việt Nam là một thành viên.
Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, David Shear, trong lời tuyên bố ngày 11/03 (2012) tại Falls Church, Virginia (bên ngoài Thủ đô Hoa Thịnh Đốn) đă xác nhận Mỹ và Việt Nam vẫn c̣n có những bất đồng sâu xa về nhân quyền, và t́nh h́nh tiếp tục tồi tệ trong hai lĩnh vực tự do tư tưởng và quyền hội họp của người dân Việt Nam.
T́nh h́nh này cũng đă phản ảnh trong Cuộc đối thọai lần thứ 16 về nhân quyền giữa Hoa Thịnh Đốn và Hà Nội hồi tháng 11 năm 2011.
Trong cuộc họp báo tại Hà Nội ngày 15/11 (2011), người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, Lương Thanh Nghị nói:
“Đối thoại nhân quyền Việt Nam – Hoa Kỳ lần thứ 16 đă diễn ra trong hai ngày 09 và 10/11/2011 tại Thủ đô Oa-sinh-tơn (Hoa Kỳ). Hai bên đă trao đổi một cách cởi mở, thẳng thắn, sâu rộng về những vấn đề hai bên cùng quan tâm, trong đó có vấn đề tự do tôn giáo, tự do bày tỏ chính kiến, xây dựng nhà nước pháp quyền, quyền lao động, phân biệt chủng tộc, thực hiện các cam kết quốc tế về nhân quyền, cũng như khả năng hợp tác trong lĩnh vực này.
Phía Việt Nam đă thông tin về những thành tựu trong việc đảm bảo các quyền con người ở Việt Nam, đặc biệt là thành tựu phát triển kinh tế - xă hội, mở rộng dân chủ, đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền, sự phát triển lớn mạnh, đa dạng, vai tṛ tích cực của báo chí trên các lĩnh vực đời sống xă hội, và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của người dân. Phía Việt Nam cũng đă thẳng thắn trao đổi, làm rơ sự thật về những thông tin sai lệch, không phản ánh đúng t́nh h́nh thực tế ở Việt Nam.”
Sự thật th́ không có tiến bộ ǵ cả. Lương Thanh Nghị đă nói những điều không thật, và mỉa mai thay, đă phản lại một thực tế phũ phàng đang xẩy ra trong xă hội Việt Nam, một đất nước chỉ có “quyền con người” theo chính sách “xin-cho” của nhà nước.
Đại sứ David Shear trở về Hoa Thịnh Đốn đă nói rằng Lănh đạo Việt Nam từ trung ương xuống địa phương đều được ông cho biết hợp tác về kinh tế, ngọai giao và chiến lược, bao gồm cả an ninh và quốc pḥng giữa hai nước, sẽ tùy thuộc vào những tiến bộ về nhân quyền từ phía Việt Nam.
Hoa Kỳ cũng muốn Việt Nam thả hết tù nhân chính trị, những tù nhân lương tâm và chấm dứt các hành động sách nhiễu những nhà bất đồng chính kiến.
Không ai biết hiện có bao nhiêu người đang ở trong tù ở Việt Nam v́ đă công khai bất đồng với đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng các nhà ngọai giao Tây phương dự đóan ít nhất cũng trên vài trăm người, sau các đợt truy bắt những thanh niên, thiếu nữ đă tham gia trong 11 cuộc biểu t́nh chống Tầu ở Sài G̣n và Hà Nội hồi cuối năm 2011.
Trong hai tháng 1 và 2 đầu năm 2012, hai phái đ̣an của Thượng nghị sỹ Cộng hoà John McCain và Kurt Campbell, Phụ tá Ngọai trưởng Hoa Kỳ, đặc trách Đông Á và Thái B́nh Dương đă đến Hà Nội thảo luận về vấn đề nhân quyền.
Nghị sỹ John McCain cho biết phái đ̣an của ông đă cho Hà Nội biết rằng Việt Nam phải thực hiện những cải cách tích cực về t́nh trạng nhân quyền trước khi Hoa Kỳ có thể cứu xét việc Hoa Kỳ bán vũ khí cho Việt Nam.
Về phần ḿnh, ông Campbell nói tại Hà Nội ngày 2/2/ (2012): “I think, as you know, there is a prohibition currently on the provision of certain defense articles between the United States and Vietnam. And there are some fledgling interactions between our two militaries. I think our desire is to take this process in a step-by-step manner. So what we would like to see in the first instance is a greater exchange of views and dialogue between our two military establishments, to build trust and confidence over the next phase. Then we would very much like to see some of these changes that I'm talking about in terms of human rights so that we will be able to see a more fulsome relationship between our two sides.”
Tạm dịch: “Tôi nghĩ, như ông biết, hiện nay có những điều hạn chế nhất định về sự hợp tác quốc pḥng giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Nhưng cũng có những cam kết hợp tác giữa hai quân đội. Tôi nghĩ là cả hai phiá đều muốn thực hiện sự hợp tác này từng bước một. Như vậy chúng tôi muốn thấy việc đầu tiên là sự trao đổi ư kiến và đối thọai giữa hai hệ thống quân giai để tạo sự tin tưởng và tin cậy lẫn nhau trong giai đọan tới. Và chúng tôi rất muốn thấy có những thay đổi mà tôi đang nói ở đây liên quan đến vấn đề nhân quyền để chúng ta có thể nh́n thấy mối quan hệ tốt đẹp hơn giữa đôi bên.”
Lập trường bán vũ khí cho Việt Nam cũng đă được cựu Đại sứ Michael Michalak nói với Hà Nội trước khi bàn giao lại cho ông David Shear.
Ông Campbell cũng nói thêm: “We did make clear that for the United States and Vietnam to go to the next level it will require some significant steps on the part of Vietnam to address both individual cases of concerns, human rights concerns, but also more systemic challenges associated with freedom of expression, freedom of organization. We were able to communicate I think quite directly what some of the things we would like to see in terms of improvements in this regard.”
Tạm dịch: “Chúng tôi đă nói rơ rằng để cho Hoa Kỳ và Việt Nam có thể đi đến bước kế tiếp th́ phải có những bước tiến bộ rơ rệt từ phiá Việt Nam đối với trường hợp của một số cá nhân, vấn đề nhân quyền, nhưng đồng thời cũng phải đối phó một cách có hệ thống liên quan đến quyền tự do bầy tỏ quan điểm, tự do tập hợp. Tôi nghĩ là chúng tôi đă có thể trao đổi với nhau một cách thẳng thắn về những điều mà chúng tôi muốn nh́n thấy có tiến bộ trong lĩnh vực này.”
Nhưng liệu Việt Nam có làm theo yêu cầu của Mỹ không?
USCIRF VÀ TỰ DO TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
Trong khi chờ đợi th́ vào ngày 20-3 (2012), Ủy hội Quốc tế Tự do Tôn giáo của Hoa Kỳ (U.S. Commission on International Religious Freedom, USCIRF) đă, một lần nữa kêu gọi Chính phủ Mỹ đặt Việt Nam trở lại danh sách là một nước đáng quan tâm (Country of Particular Concern, CPC), v́ Việt Nam tiếp tục có những vị phạm nghiêm trọng có hệ thống (Given these systematic, ongoing, and egregious violations) đối với quyền tự do tôn giáo của người dân Việt Nam.
Tổ chức USCIRF, từ năm 2001 đă liên tục đề nghị Bộ Ngọai giao Hoa Kỳ đem Việt Nam trở lại danh sách CPC, nhưng Chính phủ Mỹ không làm theo, mặc dù đồng ư Việt Nam chưa có những hành động tích cực cải thiện t́nh h́nh.
Việt Nam đă bị đặt vào danh sách CPC trong 2 năm 2004 và 2005, nhưng đến năm 2006 th́ Tổng thống Cộng ḥa George W, Bush quyết định bỏ Việt Nam ra v́ đă thỏa măn một số yêu cầu của Hoa Kỳ để được gia nhập Tổ chức Mậu dịch Thế giới (World Trade Organization, WTO)
Báo cáo năm 2012 của USCIRF viết rằng: “The government of Vietnam continues to control all religious communities, restrict and penalize independent religious practice severely, and repress individuals and groups viewed as challenging its authority. Religious activity continues to grow in Vietnam and the government has made some important changes in the past decade in response to international attention, including from its designation as a ―country of particular concern (CPC).”
Tạm dịch: “Chính phủ Việt Nam tiếp tục kiểm soát tất cả các cộng đồng tôn giáo, hạn chế và ngăn chặn các hoạt động tôn giáo độc lập một cách khe khắt, đồng thời đàn áp những cá nhân và nhóm bị coi là chống lại thẩm quyền của nhà nước. Hoạt động tôn giáo tiếp tục gia tăng ở Việt Nam và chính phủ đă có một số những thay đổi quan trọng trong thế kỷ vừa qua nhằm đáp ứng lại sự quan tâm của quốc tế, nhất là đối với sự quan ngại sẽ bị đặt trở lại là một nước đáng quan tâm.”
Báo cáo viết tiếp rằng: "Tuy nhiên, nhiều người tiếp tục bị bỏ tù hay bị bắt giam v́ những lư do có liên quan đến họat động tôn giáo hay cổ vơ cho tự do tôn giáo; họat động tôn giáo độc lập tiếp tục bị coi là bất hợp pháp; việc bảo vệ hợp pháp dành cho các tổ chức tôn giáo được chấp thuận cho hoạt động cũng rất mơ hồ và tùy tiện hoặc bị kỳ thị dựa theo các yếu tố về chính trị; những tân ṭng của tín đồ Tin Lành dân tộc thiểu số và các phật tử của một cộng đồng Phật giáo bị kỳ thị, khủng bố tinh thần và áp lực bỏ đạo.”
(Nevertheless, individuals continue to be imprisoned or detained for reasons related to their religious activity or religious freedom advocacy; independent religious activity remains illegal; legal protections for government-approved religious organizations are both vague and subject to arbitrary or discriminatory interpretations based on political factors; and new converts to ethnic-minority Protestantism and members of one Buddhist community face discrimination, intimidation, and pressure to renounce their faith.”
USCIRF cũng tố cáo có t́nh trạng gia tăng bắt bớ, giam giữ và de dọa các nhóm và cá nhân bị coi như thù nghịch của đảng Cộng sản, kể cả những vụ bạo động chống lại những cuộc tập hợp ôn hoà của các nhóm dân thiểu số, cũng như đối với những nhóm người Công giáo chống lại những hành động chiếm đất và bị đe dọa. Liên hệ cũng suy đồi giữa những người Công giáo với các chính quyền địa phương ở Hà Nội, Đà Nẵng, Vinh và thành phố Hồ Chí Minh.
Cảnh sát cũng đă dung vũ lực để chống lại các cuộc tập hợp cầu nguyện của người công giáo tại những khu đất có tranh chấp và đă bắt đi một số tín đồ Công giáo chống đối.
Các tổ chức Tin lành độc lập ở Tây nguyên và Ḥa Hảo độc lập cũng bị đàn áp, bị bắt, tài sản của họ bị phá hủy.
Các vụ cưỡng chế bắt bỏ đạo đă xẩy ra ở các Tỉnh vùng tây bắc trong vùng các dân tộc thiểu số Hmong theo đạo Tin lành và ở vùng Tây Nguyên. Linh mục Nguyễn Văn Lư đă bị bắt trở lại nhà tù sau một năm cho phép về nhà chữa bệnh.
(In the past reporting period, there were marked increases in arrests, detentions, and harassment of groups and individuals viewed as hostile to the Communist Party, including violence aimed at peaceful ethnic minority gatherings and Catholics protesting land confiscations and harassment. Relations deteriorated between Catholics and local government officials in Hanoi, DaNang, Vinh, and Ho Chi Minh City. Police used force to disperse peaceful Catholic prayer vigils at disputed properties and arrested over a dozen Catholic activists and several ethnic minority Catholics. Independent Protestants in the Central Highlands were detained and had their property destroyed in an ongoing campaign to repress their activities. Independent Hoa Hao activists were arrested and sentenced and congregations harassed. Forced renunciations of faith continued in the northwest provinces among Hmong Protestants and some areas in the Central Highlands. Father Nguyen Van Ly was returned to prison after being given a one-year medical parole.)
V́ những vị phạm nghiệm trọng nêu trên, ng̣ai yêu cầu đưa Việt Nam trở lại danh sách CPC, cơ quan USCIRF c̣n khuyến cáo chính phủ Mỹ hăy sử dụng sức mạnh ngọai giao và chính trị để đạt được tự do tôn giáo và nhân quyền cho Việt Nam.
(The U.S. government should use its diplomatic and political resources to advance religious freedom and related human rights in Vietnam.)
USCIRF c̣n yêu cầu bất cứ sự nới rộng quan hệ thương mại nào với Việt Nam cũng phải lien kết với tiến bộ về nhân quyền ở Việt Nam, đồng thời hăy có những sáng kiến liên quan đến tự do tôn giáo và các chương tŕnh trong lĩnh vực phi thương mại theo tiêu chuẩn của luật pháp và sự phát triển của xă hội dân sự.
(USCIRF recommends that any expansion of U.S. economic or security assistance programs in Vietnam be linked with human rights progress and the creation of new and sustainable initiatives in religious freedom and programs in non-commercial rule of law and civil society development.)