johnnydan9
05-29-2012, 17:19
Cách đây 5 năm, trên Yahoo!Việt Nam Hỏi & Đáp có người nêu một câu hỏi cứ tưởng đâu ngô nghê ngờ nghệch: “Tại sao gọi là tranh trừu tượng?”. Lời đáp hay nhất, do chính người đặt câu hỏi b́nh chọn, như sau:
“Màu sắc là tiếng nói trực tiếp, trào tuôn từ tâm (hồn) người nghệ sĩ, không qua trung gian của lư trí mà tranh trừu tượng là điển h́nh. Những nét chấm phá đậm lợt là một thứ ngôn ngữ vô thanh, âm hưởng vào ḷng người thưởng ngoạn tùy theo mức độ tâm thức, tạo nên những rung cảm khác nhau, do đó cái nh́n cũng khác nhau. Cùng một bức tranh, mỗi người nh́n và cảm khác nhau, thật là kỳ diệu!
Phần đông, khi xem tranh trừu tượng người ta đều không hiểu, bởi cách đặt vấn đề sai, bao giờ cũng nghĩ tranh là phải vẽ một cái ǵ đấy cụ thể. Họ không biết rằng các họa sĩ thường vẽ bằng cảm giác, v́ vậy, mỗi khi xem tranh trừu tượng mọi người đừng quá cầu kỳ, hăy nghĩ giản đơn và trong sáng như một đứa trẻ, khi đó những nét đẹp sẽ toát ra từ các bức tranh trừu tượng”.
Người trả lời có ghi trích nguồn: Theo tạp chí Nghệ Thuật.
Lại có câu trả lời khác, dù không được b́nh chọn và sắp hạng, nhưng cũng đáng quan tâm:
“… Từ đó nảy sinh nhiều trường phái khác nhau trong tranh trừu tượng.
Tùy thiên hướng của người họa sĩ mà theo 1 trong 2 hướng:
+ Trọng h́nh hơn trọng màu: trường phái tả thực, trường phái siêu thực v...v...
+ Trọng màu hơn trọng h́nh: trường phái dă thú, trường phái lập thể v...v...”
À há! Eureka! Đây rồi! (Xin phép các họa sĩ đáng kính,) Thế là rơ:
Chủ Nghĩa Xă Hội của ta là loại bánh ga-tô có đủ cả 5 tính chất nói trên: Trừu tượng, Tả thực, Siêu thực, Lập thể, và, dễ nhận dạng nhất: Dă thú.
V́ sao à?
*
http://3.bp.blogspot.com/-TMvRPilVcm4/T8JAlSb37tI/AAAAAAAATlc/kAJ5l4vJVs0/s1600/hoctap1.jpg
Tạp chí Học Tập, số 35, tường thuật bài phát biểu của Hồ Chí Minh trong Đại hội Đảng Toàn quốc lần thứ II tại Việt Bắc, vào tháng 3 năm 1951, có đoạn như sau:
“Là v́ trong chính trị, cũng như trong mọi mặt công tác khác, Đảng ta có một chủ nghĩa cách mạng nhất, sáng suốt nhất, đó là chủ nghĩa của ba ông kia ḱa:
(Hồ-Chủ-tịch vươn tay chỉ và hướng mặt về phía chân dung 3 vị lănh tụ: Marx, Engels, Lénine)
(Đại hội vỗ tay vang dậy)
Đó là nhờ chúng ta, toàn giai cấp lao động thế giới, toàn quân đội nhân dân thế giới có một ông Tổng tư lệnh là ông kia ḱa.
(Hồ-Chủ-Tịch vươn tay chỉ và hướng mặt về phía chân dung đồng chí: STALINE)
(Đại hội vỗ tay dậy vang và cùng đứng dậy hô lớn)
(Đồng chí Staline muôn năm!)…”
Té ra, rơ ràng, cái Chủ Nghĩa Xă Hội mà Hồ Chí Minh đánh giá là cách mạng nhất, sáng suốt nhất, chính là một bức tranh trừu tượng của người khác.
Mà ngay cả tác giả của bức tranh trừu tượng đó cũng không hề coi ra ǵ đám xem tranh, cho dù là họ đang nức ḷng chỉ tay hướng mặt về bức h́nh tác giả:
“Staline vốn không coi Hồ Chí Minh là cộng sản chân chính. Ông Phạm Văn Đồng có lần nói với anh Hoàng Tuệ, khi hai người cùng công tác ở Liên Xô: Năm 1950, Staline triệu Hồ Chí Minh sang gặp. Ông ta không gọi Hồ Chí Minh là đồng chí ”. (Hồi Kư Nguyễn Đăng Mạnh).
Đă vậy,
“…Khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ở Hồng Kông, Nguyễn Ái Quốc có đưa ra một văn bản gọi là Chính cương vắn tắt, phân tích t́nh h́nh giai cấp sát với thực tế Việt Nam, nhất là về giai cấp địa chủ (chế độ công điền khiến địa chủ không phát triển được, v́ thế địa chủ ở Việt Nam có thể phân hóa được). Staline bèn phái Trần Phú về nước, vất chính cương của Nguyễn Ái Quốc đi, thay bằng Luận cương Trần Phú đă được đóng dấu ở Mạc Tư Khoa, và đặt tên đảng là Đảng Cộng sản Đông Dương. Staline c̣n chủ trương vô hiệu hóa Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam”. (Hồi Kư Nguyễn Đăng Mạnh).
Mà, coi nào, trong Chính Cương, Hồ Chí Minh đă viết những ǵ gọi là cốt lơi?
“Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu t*ư sản, trí thức, trung nông, (thanh niên, Tân Việt, phái Nguyễn An Ninh v.v…) để kéo họ đi về phe giai cấp vô sản. C̣n đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam th́ phải lợi dụng, ít nữa làm cho họ trung lập. Bộ phận nào đă ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến v.v…) th́ phải đánh đổ. Trong khi liên lạc tạm thời với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nh*ượng bộ một chút lợi ích ǵ của công nông mà đi vào đường lối thỏa hiệp”. (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 2, trang 297).
Nghị quyết 6 của Trung ương đảng tháng11/1939 đề ra khẩu hiệu “Công nông phải đưa cao cây cờ dân tộc lên”, và cả đảng có sứ mệnh phải “Dự bị những điều kiện bước tới bạo động làm cách mạng giải phóng dân tộc”.
Sắt máu tới vậy mà vẫn chưa vừa bụng Stalin!
Có nghĩa rằng tác giả bức tranh trừu tượng XHCN, kiêm Tổng tư lệnh nói trên, không đánh giá ngược rằng tay thưởng ngoạn như Hồ có đủ tầm xứng đáng để thưởng ngoạn.
Vậy th́, làm sao biết được Chủ Nghĩa Xă Hội đó tṛn méo ra sao, và làm sao tin nổi cái mà hắn đă từng cả đời ba hoa mô tả lại rằng nó đẹp lắm, cách mạng nhất, sáng suốt nhất?
Thêm một chi tiết khác:
“Ngày 16-9-1943, ông Hồ được trả lại tự do, cuốn Nhật kí trong tù vẫn được ông giữ cẩn thận.
Ngày 14-9-1955, ông đưa tác phẩm này cho ông Nguyễn Việt, Trưởng ban Tổ chức Triển lăm Cải cách Ruộng đất tại phố Bích Câu: ‘Tôi có quyển sổ tay cách đây mười mấy năm c̣n giữ được đến bây giờ, các cô, các chú xem có triển lăm được th́ dùng’. Nguyễn Việt đưa vào triển lăm, bày ở pḥng ‘Ngọn đuốc soi đường của Đảng Cộng sản Đông Dương’…” (Hồi Kư Nguyễn Đăng Mạnh).
Tức là, đối với giới thưởng ngoạn cấp 2, ngọn đuốc soi đường cho họ không hẳn là bức tranh trừu tượng CNXH của ba ông/bốn bà nào sất, mà (thảm thay,) chỉ là mấy bài thơ trong tù của người xem tranh cấp 1.
Chẳng nghi ngờ ǵ thêm nữa. Gia tài của Hồ Chí Minh chỉ có thế.
C̣n, CNXH của Hồ, với tính thật thà nói trên, hẳn phải là loại ga-tô tả thực?
*
Lê Duẩn, người Bích La thôn, Quảng Trị, nổi tiếng trong 3 năm đổi đảng 3 lần: 1928 – Tân Việt Cách Mạng đảng; 1929 – VN Thanh Niên Cách Mạng Đồng Minh hội; 1930 – Đông Dương Cộng Sản đảng.
Đến 1951, Lê Duẩn vào BCH/TW và Bộ chính trị, ngay trong đại hội toàn đảng kỳ II mà Hồ Chí Minh chỉ h́nh 3 ông trên vách vừa nói.
Có người bảo uy tín của Lê Duẩn bấy giờ, vượt mặt Đại tướng Vơ Nguyên Giáp, phần lớn là nhờ vào “bằng cấp” ở tù dài hạn và nhiều lần, y hệt như ư tứ ẩn dụ của người bày quyển Nhật kí trong tù vào pḥng triển lăm Ngọn đuốc soi đường… vừa kể.
Lại có người khẳng định uy tín đó có được là bởi niềm tin son sắt của Lê Duẩn vào phương thức phát triển Xô viết và các nguyên tắc kiểu Stalin hứa hẹn phù hợp mục tiêu “thực hiện công nghiệp hóa XHCN bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng”.
Từ đại hội IV (1976), Lê Duẩn giữ chức Tổng bí thư đảng cho tới chết (1986), với dấu ấn đậm màu về cuộc thanh trừng “chủ nghĩa xét lại hiện đại” long trời lở đất, và được cố Thủ tướng Vơ Văn Kiệt tuyên dương là “ngọn đèn 200 nến”.
“Giống như Mao và Stalin, Lê Duẩn khao khát quyền lực tuyệt đối. Thông qua việc cô lập ông Hồ, ông Giáp và các đồng minh của họ trong đảng, Lê Duẩn đă thiết lập một bộ máy lănh đạo ở Hà Nội không chỉ trung thành mà c̣n chung quyết tâm hoàn tất các mục tiêu cách mạng”. (Pierre Asselin).
Tác phẩm “để đời” của Lê Duẩn, ngoài vụ án “xét lại/chống đảng”, chính là bản Đề Cương Cách Mạng Miền Nam (1956 – hợp thức hóa 1959 – một giai đoạn mà Trần Văn Giàu đánh giá là đen tối nhất của CSVN).
“Trong Đề cương, anh Lê Duẩn sớm nêu lên ư tưởng sâu sắc sử dụng bạo lực cách mạng cùng với ư tưởng tập hợp toàn thể các tầng lớp nhân dân, ư tưởng tổng khởi nghĩa giành chính quyền để giải phóng miền Nam”. (Hoàng Tùng).
Cụ thể ra, Vơ Văn Kiệt phục Lê Duẩn ở 3 công tŕnh trọng điểm: Xua quân dàn trận Mậu Thân, trận Đường 9 Nam Lào, và trận Cổ Thành Quảng Trị. Hai công tŕnh phụ trội của Lê Duẫn mà Vơ Văn Kiệt không dám nhắc là trận đánh chiếm Nam Vang/Siêm Rệp và trận phản công Cao Bằng/Lạng Sơn. Rất tiếc là các công tŕnh đó không đạt yêu cầu, trong lúc toàn dân phải cắn răng đánh đổi bằng nhiều vạn bộ đội con em của họ.
Ngược lại, về mặt tư tưởng, có thể vinh danh là một phiên bản CNXH, họa sĩ Lê Duẩn cũng có tác phẩm để đời:
“Anh không tán thành áp đặt thể chế nhà nước ‘chuyên chính vô sản’ khi mà nhân dân đă giành được quyền làm chủ đất nước bằng những hy sinh không sao kể xiết. Không thể ‘vô sản’ lại chuyên chính với chính ḿnh, với nhân dân. Tư tưởng về ‘Làm Chủ Tập Thể’ mà Anh nung nấu chính là sự cố gắng t́m đường bứt phá ra khỏi những công thức giáo điều không phản ánh được sự vận động và biến đổi của cuộc sống, xa rời ư chí và nguyện vọng của nhân dân”. (Vơ Văn Kiệt).
Cốt lơi là vậy, chi tiết thế nào?
“Có thể tóm tắt một số ư để minh chứng những suy nghĩ đó của Anh:
Dân chủ đến mức thực sự nhân dân làm chủ, con người làm chủ tập thể.
Phát huy dân tộc và phát huy cá nhân từng người.
Vận dụng thị trường để xây dựng chủ nghĩa xă hội…
Quá tŕnh tạo dựng xă hội mới là quá tŕnh nảy sinh chứ không phải chỉ là quá độ.
Khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế…
Cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt…
Phải vươn lên văn hóa và tri thức tiên tiến…
Bảo vệ Tổ quốc, giữ vững quốc pḥng và an ninh bằng ḷng dân, sức dân…
Đảng lănh đạo, Đảng không cai trị, Đảng phát huy Nhà nước là công cụ chủ yếu, sắc bén nhất để dân làm chủ.
Đảng viên nhất thiết không được quan liêu, sách nhiễu và ăn cắp của dân. Đưa ngay những kẻ như vậy ra khỏi Đảng.
Con người Việt Nam là con người của lẽ phải và t́nh thương, t́nh thương và lẽ phải”. (Vơ Văn Kiệt).
Trên thực tế, qua nhận xét của một học giả nước ngoài:
“Niềm tin rằng phong trào cách mạng quan trọng hơn mọi quyền lợi cá nhân đă dẫn tới sự coi thường quyền và lợi ích của nhân dân, và thường trở thành lư cớ cho việc lạm dụng quyền lực của những cán bộ, những người coi thường quy tắc pháp trị tư sản, và cho rằng mục tiêu cách mạng có thể biện minh cho phương pháp”. (Pierre Asselin).
Với tư duy Làm Chủ Tập Thể này, được coi là tư tưởng cốt lơi về CNXH của Lê Duẩn, chỉ ¼ thế kỷ sau khi Lê Duẩn đi dự hội nghị với Mác, đảng viên CSVN đă tự động lật ngược điều áp chót vừa nói, để chia đất/giành đất/cướp đất, bằng một tác phẩm mới cáu là “giải phóng mặt bằng”, và tự biến thành những triệu phú, thậm chí cả tỷ phú đỏ đít.
Ai làm chủ tập thể? Chắc chắn không phải dân:
“Tôi vẫn nhớ, có lần trong những năm 60, trong một cuộc họp ở Đồ Sơn, Anh đă nổi nóng với Chính phủ: ‘Chúng ta cầm quyền mà không lo nổi rau muống và nước lă cho dân th́ nên từ chức đi…’. Anh Tô (Phạm Văn Đồng) không nói một lời”. (Trần Phương – VNeconomy.vn 06/12/2009).
Năm 1976, Lê Duẩn hồ hởi tuyên bố: “Trong ṿng mười năm nữa, mỗi gia đ́nh ở Việt Nam sẽ có một radio, một TV và một tủ lạnh”.
Năm 1986, ngay lúc hấp hối, vào giai đoạn đen tối nhất của kinh tế VN, Lê Duẩn đă thiết tha lệnh cho Chủ tịch Ủy ban Kế hoạch nhà nước là bằng mọi cách, “nhân dân thủ đô Hà Nội phải có dự trữ gạo đủ 2 tháng ăn”. Nhớ là chỉ riêng nhân dân Hà Nội!
Đă có một vài học giả đồng ư với nhận xét: Những thay đổi ngay sau năm 1986 ở Việt Nam, khi Lê Duẩn chuyển sang từ trần, cũng có thể được xem là tương tự giai đoạn “tan băng” ở Liên Xô sau khi Stalin qua đời. Nghĩa là chấm dứt một thời kỳ thổ tả thượng hạng ngoại hạng.
C̣n trong nội bộ đảng?
“Sau khi Lê Duẩn qua đời, những người lănh đạo đất nước, những người trước đó đă ca ngợi Lê Duẩn (hay) không dám hé răng nói một lời xấu về Lê Duẩn, đă cố ư hay vô t́nh để cho chiến dịch bôi nhọ và phủ định Lê Duẩn ngày càng qui mô hơn”. (Trần Quỳnh, nguyên thư kư riêng của Lê Duẩn).
Tức là đảng viên chỉ phải khen lúc sống, sau đó quá mừng v́ đă cất gánh nặng về một chế độ Stalin ngay trong nội bộ đảng:
“Lê Duẩn có kẻ thù ở hầu khắp mọi nơi”. (Pierre Asselin).
Sau cùng, CNXH của Lê Duẩn, với tính nghi ngờ hết thảy mọi người, chính là cha đẻ của truyền thống chia ghế 3 vị trí lănh đạo theo công thức cân bằng vùng miền, hầu tránh tái diễn một đảng nhỏ cầm quyền đảng lớn có tên là Duẩn-Thọ-Thanh.
“Triều đại Lê Duẩn – Lê Đức Thọ là triều đại thiết lập và khẳng định chuyên chính vô sản, hay nói cho đúng hơn, chuyên chính vô sản lưu manh – Lumpenproletariat… Áp đặt là phép trị dân mang tính chiến lược. Không áp đặt được th́ khủng bố”. (Vũ Thư Hiên – Đêm giữa ban ngày).
Lê Duẩn nắm giữ chức Tổng bí thư lâu nhất lịch sử CSVN: 25 năm và 303 ngày. Vào những ngày cuối, lạm phát VN vượt lên mức kỷ lục: 774% (bảy trăm bảy mươi bốn phần trăm).
Phiên bản CNXH của Lê Duẩn chính là chiếc khẩu trang của Liên Xô có in h́nh 2 chữ S. Chữ S đầu là Stalin. Chữ S sau là lănh thổ VN. Khi dân bịt vào th́ miễn ăn và hết nói. C̣n đảng viên bịt vào th́… vô phương nhận diện.
Đó là loại ga-tô CNXH dă thú.
*
Nguyễn Văn Linh, gia nhập đảng cộng sản Đông Dương năm 1936, măi 40 năm sau, tại Đại hội Đảng lần thứ IV th́ được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương, giữ chức Trưởng ban Cải tạo Xă hội Chủ nghĩa của Trung ương.
Đến đại hội V, Nguyễn Văn Linh rút khỏi TW, nhường chỗ cho Vơ Văn Kiệt. Về sau, đương sự giải thích với Vơ Trần Chí rằng: “Bởi v́ ḿnh thấy các anh ấy không muốn ḿnh ở đó nên ḿnh xin rút…”. Các anh ấy, ở đây, chính là mỗi ḿnh Lê Đức Thọ.
Tháng 7 năm 1983, nhân cơ hội Lê Duẩn đi nghỉ mát ở Liên Xô, c̣n Trường Chinnh, Phạm Văn Đồng và Vơ Chí Công nghỉ mát ở Đà Lạt, Nguyễn Văn Linh đă tổ chức cuộc “Hội Nghị Đà Lạt” kéo dài vừa đúng một tuần lễ, trước khi Lê Duẩn hồi giá.
Tháng 12 năm 1986, tại Đại hội Đảng lần thứ VI, Nguyễn Văn Linh được bầu vào BCH/TW, Ủy viên BCT, giữ chức Tổng Bí thư:
“Đại hội VI kết thúc bằng sự lên ngôi của một nhân vật không mấy tiếng tăm là Nguyễn Văn Linh, bí danh Mười Cúc. Câu chuyện ngụ ngôn của La Fontaine về hai anh nông dân và con ṣ được thiên hạ nhắc tới nhiều trong thời kỳ này”. (Vũ Thư Hiên – Đêm giữa ban ngày).
Chính NVL cũng biết rất rơ trận chiến giành ghế giữa Trường Chinh và Lê Đức Thọ thời bấy giờ:
“Anh Nguyễn Văn Linh đă nói nhiều lần ở Hội nghị Trung ương: ‘Tôi có được chuẩn bị làm Tổng Bí thư đâu’, và lúc cần quá, phải đi t́m người, anh Linh ví: ‘Chẳng khác ǵ cầm bó đóm đi t́m ếch, t́m không được ếch, lại bắt được nhái’…”. (Đoàn Duy Thành – Hồi Kư)
Và không một ai tin chuyện nhái ễnh bụng thành ḅ:
“Từ năm 1986 đến 1991 trong nhiệm kỳ làm Tổng Bí thư, Nguyễn Văn Linh đă góp phần có ư nghĩa quyết định làm xoay chuyển t́nh thế, mở đường cho sự nghiệp đổi mới tiến lên. Nhằm khắc phục những bất cập, lạc hậu của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp của Việt Nam, ông đă đưa ra những ư tưởng mới, quan niệm mới, cách làm mới. Kiên quyết làm gương về chống tác phong quan liêu, xa dân, từ bỏ những đặc quyền đặc lợi, ông đă bỏ chế độ lănh đạo cấp cao đi máy bay chuyên cơ trong nước, đi công tác bằng xe Lada không có máy điều hoà (tiêu chuẩn dùng cho cấp Thứ trưởng); vào Nam ra Bắc đi máy bay chung với mọi người; cắt giảm chế độ bảo vệ an ninh,…" (Phạm Quang Nghị, Hồi Ức, 07/01/2010).
Đó là một phần nội dung “đổi mới hay là chết” được tŕnh bày trong Hội nghị Đà Lạt nói trên.
“Trong cuộc đời ḿnh, tôi chưa từng thấy vị lănh đạo nào dám lội ngược ḍng chính trị, ngược ḍng lịch sử – lội ngược mà không ch́m như anh Nguyễn Văn Linh… Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, đang nằm trong Bộ Chính trị th́ đến cuối nhiệm kỳ, anh Linh đă xin rút rồi được phân công trở về làm Bí thư Thành ủy TPHCM vào đúng thời kỳ cam go nhất. Anh đă vực dậy kinh tế TP, trở lại tham gia Bộ Chính trị rồi trở thành Tổng Bí thư. Mọi biến động, thăng trầm trong cuộc đời làm cách mạng, làm chính trị đi ngang qua anh và anh đón nhận tất cả với một thái độ b́nh thản đến lạ lùng”. (Vơ Trần Chí).
“Màu sắc là tiếng nói trực tiếp, trào tuôn từ tâm (hồn) người nghệ sĩ, không qua trung gian của lư trí mà tranh trừu tượng là điển h́nh. Những nét chấm phá đậm lợt là một thứ ngôn ngữ vô thanh, âm hưởng vào ḷng người thưởng ngoạn tùy theo mức độ tâm thức, tạo nên những rung cảm khác nhau, do đó cái nh́n cũng khác nhau. Cùng một bức tranh, mỗi người nh́n và cảm khác nhau, thật là kỳ diệu!
Phần đông, khi xem tranh trừu tượng người ta đều không hiểu, bởi cách đặt vấn đề sai, bao giờ cũng nghĩ tranh là phải vẽ một cái ǵ đấy cụ thể. Họ không biết rằng các họa sĩ thường vẽ bằng cảm giác, v́ vậy, mỗi khi xem tranh trừu tượng mọi người đừng quá cầu kỳ, hăy nghĩ giản đơn và trong sáng như một đứa trẻ, khi đó những nét đẹp sẽ toát ra từ các bức tranh trừu tượng”.
Người trả lời có ghi trích nguồn: Theo tạp chí Nghệ Thuật.
Lại có câu trả lời khác, dù không được b́nh chọn và sắp hạng, nhưng cũng đáng quan tâm:
“… Từ đó nảy sinh nhiều trường phái khác nhau trong tranh trừu tượng.
Tùy thiên hướng của người họa sĩ mà theo 1 trong 2 hướng:
+ Trọng h́nh hơn trọng màu: trường phái tả thực, trường phái siêu thực v...v...
+ Trọng màu hơn trọng h́nh: trường phái dă thú, trường phái lập thể v...v...”
À há! Eureka! Đây rồi! (Xin phép các họa sĩ đáng kính,) Thế là rơ:
Chủ Nghĩa Xă Hội của ta là loại bánh ga-tô có đủ cả 5 tính chất nói trên: Trừu tượng, Tả thực, Siêu thực, Lập thể, và, dễ nhận dạng nhất: Dă thú.
V́ sao à?
*
http://3.bp.blogspot.com/-TMvRPilVcm4/T8JAlSb37tI/AAAAAAAATlc/kAJ5l4vJVs0/s1600/hoctap1.jpg
Tạp chí Học Tập, số 35, tường thuật bài phát biểu của Hồ Chí Minh trong Đại hội Đảng Toàn quốc lần thứ II tại Việt Bắc, vào tháng 3 năm 1951, có đoạn như sau:
“Là v́ trong chính trị, cũng như trong mọi mặt công tác khác, Đảng ta có một chủ nghĩa cách mạng nhất, sáng suốt nhất, đó là chủ nghĩa của ba ông kia ḱa:
(Hồ-Chủ-tịch vươn tay chỉ và hướng mặt về phía chân dung 3 vị lănh tụ: Marx, Engels, Lénine)
(Đại hội vỗ tay vang dậy)
Đó là nhờ chúng ta, toàn giai cấp lao động thế giới, toàn quân đội nhân dân thế giới có một ông Tổng tư lệnh là ông kia ḱa.
(Hồ-Chủ-Tịch vươn tay chỉ và hướng mặt về phía chân dung đồng chí: STALINE)
(Đại hội vỗ tay dậy vang và cùng đứng dậy hô lớn)
(Đồng chí Staline muôn năm!)…”
Té ra, rơ ràng, cái Chủ Nghĩa Xă Hội mà Hồ Chí Minh đánh giá là cách mạng nhất, sáng suốt nhất, chính là một bức tranh trừu tượng của người khác.
Mà ngay cả tác giả của bức tranh trừu tượng đó cũng không hề coi ra ǵ đám xem tranh, cho dù là họ đang nức ḷng chỉ tay hướng mặt về bức h́nh tác giả:
“Staline vốn không coi Hồ Chí Minh là cộng sản chân chính. Ông Phạm Văn Đồng có lần nói với anh Hoàng Tuệ, khi hai người cùng công tác ở Liên Xô: Năm 1950, Staline triệu Hồ Chí Minh sang gặp. Ông ta không gọi Hồ Chí Minh là đồng chí ”. (Hồi Kư Nguyễn Đăng Mạnh).
Đă vậy,
“…Khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ở Hồng Kông, Nguyễn Ái Quốc có đưa ra một văn bản gọi là Chính cương vắn tắt, phân tích t́nh h́nh giai cấp sát với thực tế Việt Nam, nhất là về giai cấp địa chủ (chế độ công điền khiến địa chủ không phát triển được, v́ thế địa chủ ở Việt Nam có thể phân hóa được). Staline bèn phái Trần Phú về nước, vất chính cương của Nguyễn Ái Quốc đi, thay bằng Luận cương Trần Phú đă được đóng dấu ở Mạc Tư Khoa, và đặt tên đảng là Đảng Cộng sản Đông Dương. Staline c̣n chủ trương vô hiệu hóa Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam”. (Hồi Kư Nguyễn Đăng Mạnh).
Mà, coi nào, trong Chính Cương, Hồ Chí Minh đă viết những ǵ gọi là cốt lơi?
“Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu t*ư sản, trí thức, trung nông, (thanh niên, Tân Việt, phái Nguyễn An Ninh v.v…) để kéo họ đi về phe giai cấp vô sản. C̣n đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam th́ phải lợi dụng, ít nữa làm cho họ trung lập. Bộ phận nào đă ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến v.v…) th́ phải đánh đổ. Trong khi liên lạc tạm thời với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nh*ượng bộ một chút lợi ích ǵ của công nông mà đi vào đường lối thỏa hiệp”. (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 2, trang 297).
Nghị quyết 6 của Trung ương đảng tháng11/1939 đề ra khẩu hiệu “Công nông phải đưa cao cây cờ dân tộc lên”, và cả đảng có sứ mệnh phải “Dự bị những điều kiện bước tới bạo động làm cách mạng giải phóng dân tộc”.
Sắt máu tới vậy mà vẫn chưa vừa bụng Stalin!
Có nghĩa rằng tác giả bức tranh trừu tượng XHCN, kiêm Tổng tư lệnh nói trên, không đánh giá ngược rằng tay thưởng ngoạn như Hồ có đủ tầm xứng đáng để thưởng ngoạn.
Vậy th́, làm sao biết được Chủ Nghĩa Xă Hội đó tṛn méo ra sao, và làm sao tin nổi cái mà hắn đă từng cả đời ba hoa mô tả lại rằng nó đẹp lắm, cách mạng nhất, sáng suốt nhất?
Thêm một chi tiết khác:
“Ngày 16-9-1943, ông Hồ được trả lại tự do, cuốn Nhật kí trong tù vẫn được ông giữ cẩn thận.
Ngày 14-9-1955, ông đưa tác phẩm này cho ông Nguyễn Việt, Trưởng ban Tổ chức Triển lăm Cải cách Ruộng đất tại phố Bích Câu: ‘Tôi có quyển sổ tay cách đây mười mấy năm c̣n giữ được đến bây giờ, các cô, các chú xem có triển lăm được th́ dùng’. Nguyễn Việt đưa vào triển lăm, bày ở pḥng ‘Ngọn đuốc soi đường của Đảng Cộng sản Đông Dương’…” (Hồi Kư Nguyễn Đăng Mạnh).
Tức là, đối với giới thưởng ngoạn cấp 2, ngọn đuốc soi đường cho họ không hẳn là bức tranh trừu tượng CNXH của ba ông/bốn bà nào sất, mà (thảm thay,) chỉ là mấy bài thơ trong tù của người xem tranh cấp 1.
Chẳng nghi ngờ ǵ thêm nữa. Gia tài của Hồ Chí Minh chỉ có thế.
C̣n, CNXH của Hồ, với tính thật thà nói trên, hẳn phải là loại ga-tô tả thực?
*
Lê Duẩn, người Bích La thôn, Quảng Trị, nổi tiếng trong 3 năm đổi đảng 3 lần: 1928 – Tân Việt Cách Mạng đảng; 1929 – VN Thanh Niên Cách Mạng Đồng Minh hội; 1930 – Đông Dương Cộng Sản đảng.
Đến 1951, Lê Duẩn vào BCH/TW và Bộ chính trị, ngay trong đại hội toàn đảng kỳ II mà Hồ Chí Minh chỉ h́nh 3 ông trên vách vừa nói.
Có người bảo uy tín của Lê Duẩn bấy giờ, vượt mặt Đại tướng Vơ Nguyên Giáp, phần lớn là nhờ vào “bằng cấp” ở tù dài hạn và nhiều lần, y hệt như ư tứ ẩn dụ của người bày quyển Nhật kí trong tù vào pḥng triển lăm Ngọn đuốc soi đường… vừa kể.
Lại có người khẳng định uy tín đó có được là bởi niềm tin son sắt của Lê Duẩn vào phương thức phát triển Xô viết và các nguyên tắc kiểu Stalin hứa hẹn phù hợp mục tiêu “thực hiện công nghiệp hóa XHCN bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng”.
Từ đại hội IV (1976), Lê Duẩn giữ chức Tổng bí thư đảng cho tới chết (1986), với dấu ấn đậm màu về cuộc thanh trừng “chủ nghĩa xét lại hiện đại” long trời lở đất, và được cố Thủ tướng Vơ Văn Kiệt tuyên dương là “ngọn đèn 200 nến”.
“Giống như Mao và Stalin, Lê Duẩn khao khát quyền lực tuyệt đối. Thông qua việc cô lập ông Hồ, ông Giáp và các đồng minh của họ trong đảng, Lê Duẩn đă thiết lập một bộ máy lănh đạo ở Hà Nội không chỉ trung thành mà c̣n chung quyết tâm hoàn tất các mục tiêu cách mạng”. (Pierre Asselin).
Tác phẩm “để đời” của Lê Duẩn, ngoài vụ án “xét lại/chống đảng”, chính là bản Đề Cương Cách Mạng Miền Nam (1956 – hợp thức hóa 1959 – một giai đoạn mà Trần Văn Giàu đánh giá là đen tối nhất của CSVN).
“Trong Đề cương, anh Lê Duẩn sớm nêu lên ư tưởng sâu sắc sử dụng bạo lực cách mạng cùng với ư tưởng tập hợp toàn thể các tầng lớp nhân dân, ư tưởng tổng khởi nghĩa giành chính quyền để giải phóng miền Nam”. (Hoàng Tùng).
Cụ thể ra, Vơ Văn Kiệt phục Lê Duẩn ở 3 công tŕnh trọng điểm: Xua quân dàn trận Mậu Thân, trận Đường 9 Nam Lào, và trận Cổ Thành Quảng Trị. Hai công tŕnh phụ trội của Lê Duẫn mà Vơ Văn Kiệt không dám nhắc là trận đánh chiếm Nam Vang/Siêm Rệp và trận phản công Cao Bằng/Lạng Sơn. Rất tiếc là các công tŕnh đó không đạt yêu cầu, trong lúc toàn dân phải cắn răng đánh đổi bằng nhiều vạn bộ đội con em của họ.
Ngược lại, về mặt tư tưởng, có thể vinh danh là một phiên bản CNXH, họa sĩ Lê Duẩn cũng có tác phẩm để đời:
“Anh không tán thành áp đặt thể chế nhà nước ‘chuyên chính vô sản’ khi mà nhân dân đă giành được quyền làm chủ đất nước bằng những hy sinh không sao kể xiết. Không thể ‘vô sản’ lại chuyên chính với chính ḿnh, với nhân dân. Tư tưởng về ‘Làm Chủ Tập Thể’ mà Anh nung nấu chính là sự cố gắng t́m đường bứt phá ra khỏi những công thức giáo điều không phản ánh được sự vận động và biến đổi của cuộc sống, xa rời ư chí và nguyện vọng của nhân dân”. (Vơ Văn Kiệt).
Cốt lơi là vậy, chi tiết thế nào?
“Có thể tóm tắt một số ư để minh chứng những suy nghĩ đó của Anh:
Dân chủ đến mức thực sự nhân dân làm chủ, con người làm chủ tập thể.
Phát huy dân tộc và phát huy cá nhân từng người.
Vận dụng thị trường để xây dựng chủ nghĩa xă hội…
Quá tŕnh tạo dựng xă hội mới là quá tŕnh nảy sinh chứ không phải chỉ là quá độ.
Khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế…
Cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt…
Phải vươn lên văn hóa và tri thức tiên tiến…
Bảo vệ Tổ quốc, giữ vững quốc pḥng và an ninh bằng ḷng dân, sức dân…
Đảng lănh đạo, Đảng không cai trị, Đảng phát huy Nhà nước là công cụ chủ yếu, sắc bén nhất để dân làm chủ.
Đảng viên nhất thiết không được quan liêu, sách nhiễu và ăn cắp của dân. Đưa ngay những kẻ như vậy ra khỏi Đảng.
Con người Việt Nam là con người của lẽ phải và t́nh thương, t́nh thương và lẽ phải”. (Vơ Văn Kiệt).
Trên thực tế, qua nhận xét của một học giả nước ngoài:
“Niềm tin rằng phong trào cách mạng quan trọng hơn mọi quyền lợi cá nhân đă dẫn tới sự coi thường quyền và lợi ích của nhân dân, và thường trở thành lư cớ cho việc lạm dụng quyền lực của những cán bộ, những người coi thường quy tắc pháp trị tư sản, và cho rằng mục tiêu cách mạng có thể biện minh cho phương pháp”. (Pierre Asselin).
Với tư duy Làm Chủ Tập Thể này, được coi là tư tưởng cốt lơi về CNXH của Lê Duẩn, chỉ ¼ thế kỷ sau khi Lê Duẩn đi dự hội nghị với Mác, đảng viên CSVN đă tự động lật ngược điều áp chót vừa nói, để chia đất/giành đất/cướp đất, bằng một tác phẩm mới cáu là “giải phóng mặt bằng”, và tự biến thành những triệu phú, thậm chí cả tỷ phú đỏ đít.
Ai làm chủ tập thể? Chắc chắn không phải dân:
“Tôi vẫn nhớ, có lần trong những năm 60, trong một cuộc họp ở Đồ Sơn, Anh đă nổi nóng với Chính phủ: ‘Chúng ta cầm quyền mà không lo nổi rau muống và nước lă cho dân th́ nên từ chức đi…’. Anh Tô (Phạm Văn Đồng) không nói một lời”. (Trần Phương – VNeconomy.vn 06/12/2009).
Năm 1976, Lê Duẩn hồ hởi tuyên bố: “Trong ṿng mười năm nữa, mỗi gia đ́nh ở Việt Nam sẽ có một radio, một TV và một tủ lạnh”.
Năm 1986, ngay lúc hấp hối, vào giai đoạn đen tối nhất của kinh tế VN, Lê Duẩn đă thiết tha lệnh cho Chủ tịch Ủy ban Kế hoạch nhà nước là bằng mọi cách, “nhân dân thủ đô Hà Nội phải có dự trữ gạo đủ 2 tháng ăn”. Nhớ là chỉ riêng nhân dân Hà Nội!
Đă có một vài học giả đồng ư với nhận xét: Những thay đổi ngay sau năm 1986 ở Việt Nam, khi Lê Duẩn chuyển sang từ trần, cũng có thể được xem là tương tự giai đoạn “tan băng” ở Liên Xô sau khi Stalin qua đời. Nghĩa là chấm dứt một thời kỳ thổ tả thượng hạng ngoại hạng.
C̣n trong nội bộ đảng?
“Sau khi Lê Duẩn qua đời, những người lănh đạo đất nước, những người trước đó đă ca ngợi Lê Duẩn (hay) không dám hé răng nói một lời xấu về Lê Duẩn, đă cố ư hay vô t́nh để cho chiến dịch bôi nhọ và phủ định Lê Duẩn ngày càng qui mô hơn”. (Trần Quỳnh, nguyên thư kư riêng của Lê Duẩn).
Tức là đảng viên chỉ phải khen lúc sống, sau đó quá mừng v́ đă cất gánh nặng về một chế độ Stalin ngay trong nội bộ đảng:
“Lê Duẩn có kẻ thù ở hầu khắp mọi nơi”. (Pierre Asselin).
Sau cùng, CNXH của Lê Duẩn, với tính nghi ngờ hết thảy mọi người, chính là cha đẻ của truyền thống chia ghế 3 vị trí lănh đạo theo công thức cân bằng vùng miền, hầu tránh tái diễn một đảng nhỏ cầm quyền đảng lớn có tên là Duẩn-Thọ-Thanh.
“Triều đại Lê Duẩn – Lê Đức Thọ là triều đại thiết lập và khẳng định chuyên chính vô sản, hay nói cho đúng hơn, chuyên chính vô sản lưu manh – Lumpenproletariat… Áp đặt là phép trị dân mang tính chiến lược. Không áp đặt được th́ khủng bố”. (Vũ Thư Hiên – Đêm giữa ban ngày).
Lê Duẩn nắm giữ chức Tổng bí thư lâu nhất lịch sử CSVN: 25 năm và 303 ngày. Vào những ngày cuối, lạm phát VN vượt lên mức kỷ lục: 774% (bảy trăm bảy mươi bốn phần trăm).
Phiên bản CNXH của Lê Duẩn chính là chiếc khẩu trang của Liên Xô có in h́nh 2 chữ S. Chữ S đầu là Stalin. Chữ S sau là lănh thổ VN. Khi dân bịt vào th́ miễn ăn và hết nói. C̣n đảng viên bịt vào th́… vô phương nhận diện.
Đó là loại ga-tô CNXH dă thú.
*
Nguyễn Văn Linh, gia nhập đảng cộng sản Đông Dương năm 1936, măi 40 năm sau, tại Đại hội Đảng lần thứ IV th́ được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương, giữ chức Trưởng ban Cải tạo Xă hội Chủ nghĩa của Trung ương.
Đến đại hội V, Nguyễn Văn Linh rút khỏi TW, nhường chỗ cho Vơ Văn Kiệt. Về sau, đương sự giải thích với Vơ Trần Chí rằng: “Bởi v́ ḿnh thấy các anh ấy không muốn ḿnh ở đó nên ḿnh xin rút…”. Các anh ấy, ở đây, chính là mỗi ḿnh Lê Đức Thọ.
Tháng 7 năm 1983, nhân cơ hội Lê Duẩn đi nghỉ mát ở Liên Xô, c̣n Trường Chinnh, Phạm Văn Đồng và Vơ Chí Công nghỉ mát ở Đà Lạt, Nguyễn Văn Linh đă tổ chức cuộc “Hội Nghị Đà Lạt” kéo dài vừa đúng một tuần lễ, trước khi Lê Duẩn hồi giá.
Tháng 12 năm 1986, tại Đại hội Đảng lần thứ VI, Nguyễn Văn Linh được bầu vào BCH/TW, Ủy viên BCT, giữ chức Tổng Bí thư:
“Đại hội VI kết thúc bằng sự lên ngôi của một nhân vật không mấy tiếng tăm là Nguyễn Văn Linh, bí danh Mười Cúc. Câu chuyện ngụ ngôn của La Fontaine về hai anh nông dân và con ṣ được thiên hạ nhắc tới nhiều trong thời kỳ này”. (Vũ Thư Hiên – Đêm giữa ban ngày).
Chính NVL cũng biết rất rơ trận chiến giành ghế giữa Trường Chinh và Lê Đức Thọ thời bấy giờ:
“Anh Nguyễn Văn Linh đă nói nhiều lần ở Hội nghị Trung ương: ‘Tôi có được chuẩn bị làm Tổng Bí thư đâu’, và lúc cần quá, phải đi t́m người, anh Linh ví: ‘Chẳng khác ǵ cầm bó đóm đi t́m ếch, t́m không được ếch, lại bắt được nhái’…”. (Đoàn Duy Thành – Hồi Kư)
Và không một ai tin chuyện nhái ễnh bụng thành ḅ:
“Từ năm 1986 đến 1991 trong nhiệm kỳ làm Tổng Bí thư, Nguyễn Văn Linh đă góp phần có ư nghĩa quyết định làm xoay chuyển t́nh thế, mở đường cho sự nghiệp đổi mới tiến lên. Nhằm khắc phục những bất cập, lạc hậu của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp của Việt Nam, ông đă đưa ra những ư tưởng mới, quan niệm mới, cách làm mới. Kiên quyết làm gương về chống tác phong quan liêu, xa dân, từ bỏ những đặc quyền đặc lợi, ông đă bỏ chế độ lănh đạo cấp cao đi máy bay chuyên cơ trong nước, đi công tác bằng xe Lada không có máy điều hoà (tiêu chuẩn dùng cho cấp Thứ trưởng); vào Nam ra Bắc đi máy bay chung với mọi người; cắt giảm chế độ bảo vệ an ninh,…" (Phạm Quang Nghị, Hồi Ức, 07/01/2010).
Đó là một phần nội dung “đổi mới hay là chết” được tŕnh bày trong Hội nghị Đà Lạt nói trên.
“Trong cuộc đời ḿnh, tôi chưa từng thấy vị lănh đạo nào dám lội ngược ḍng chính trị, ngược ḍng lịch sử – lội ngược mà không ch́m như anh Nguyễn Văn Linh… Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, đang nằm trong Bộ Chính trị th́ đến cuối nhiệm kỳ, anh Linh đă xin rút rồi được phân công trở về làm Bí thư Thành ủy TPHCM vào đúng thời kỳ cam go nhất. Anh đă vực dậy kinh tế TP, trở lại tham gia Bộ Chính trị rồi trở thành Tổng Bí thư. Mọi biến động, thăng trầm trong cuộc đời làm cách mạng, làm chính trị đi ngang qua anh và anh đón nhận tất cả với một thái độ b́nh thản đến lạ lùng”. (Vơ Trần Chí).