vuitoichat
09-02-2012, 19:50
Trong lich sử tranh đấu giành độc lập của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ hai mươi, hai lần nước ta đă được các nhà cầm quyền đương thời chính thức tuyên bố độc lập.
http://iyouphim.com/forum/attachment.php?attac hmentid=184763&stc=1&d=1346615207
Biểu tượng của Việt nam. Ảnh web.
Lần thứ nhất vào ngày 11 tháng 3 năm 1945 bởi Hoàng Đế Bảo Đại và lần thứ hai vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 bởi Chủ tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa Hồ Chí Minh. Hai lần cả thảy, nhưng đa số người Việt chỉ biết hay chỉ được học có một lần. Họ chỉ biết hay chỉ được học bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 mà không biết hay không được học bản tuyên ngôn của Bảo Đại ngày 11 tháng 3. Lịch sử do đó chỉ được biết có một nửa thay v́ toàn vẹn. Bài này nhằm bổ khuyết cho t́nh trạng thiếu sót đó, đồng thời phân tích nội dung và ư nghĩa của từng bản.
TUYÊN NGÔN CỦA HOÀNG ĐẾ BẢO ĐẠI
Hoàn cảnh được công bố
http://news.data.vietinfo.e u//2012/09/02/177498/1346602567.7366.jpg
Bản tuyên ngôn độc Lập của Hoàng Đế Bảo Đại được công bố ngày 11 tháng 3 năm 1945, hai ngày sau khi Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương và sau một thời gian dài hơn bốn năm, từ tháng 9 năm 1940, sau khi quân Nhật vào phần đất này của Đông Nam Á, gần năm tháng trước khi Nhật Bản đầu hàng và Thế Chiến Thứ Hai kết thúc.
Trong thời gian này Việt Nam bị sống dưới sự cai trị của cả người Pháp, từ sau khi Ḥa Ước 1884 được kư kết, lẫn người Nhật, từ ngày 22 tháng 9 năm 1940, với một hậu quả khủng khiếp là Trận Đói Tháng Ba Năm Ất Dậu. Hoàn cảnh này đă làm cho không chỉ riêng những người Cộng Sản, vốn chủ trương đánh đổ chế độ quân chủ để cướp hay giành chính quyền (chữ của chính người Cộng Sản) để từ đó thực thi cách mạng vô sản mà luôn cả những người không những không có cảm t́nh với chế độ quân chủ đương thời mà c̣n chủ trương lật đổ chế độ này để thay thế bằng một chế độ dân chủ, không nh́n nhận giá trị đích thực của của bản tuyên ngôn này.
Lư do là v́ Bảo Đại luôn luôn bị coi như một ông vua bù nh́n, trước kia trong tay người Pháp và lúc đó trong tay người Nhật. Theo họ trước kia người Pháp bảo sao, ông làm vậy và sau đảo chính 9 tháng 3 năm 1945, người Nhật bảo ông tuyên bố độc lập th́ ông tuyên bố độc lập, thế thôi. Người ta hiểu hay được học đơn giản như vậy. Nền độc lập mà Bảo Đại tuyên bố theo họ chỉ là do người Nhật ban cho và bản tuyên ngôn của ông chẳng có một giá trị ǵ trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của người Việt.
Thực chất của nó chỉ là “sự tuyên bố công khai việc thay thầy đổi chủ của triều đ́nh Bảo Đại”[1] không hơn không kém. Nhiều người lại viện lư do là nền độc lập này chưa hàn toàn. Sự thực không đơn giản như vậy. Người Nhật có lư do làm đảo chính lật đổ người Pháp và Bảo Đại có lư do phải chấp nhận yêu cầu của người Nhật tuyên bố Việt Nam độc lập. Lư do của Bảo Đại đă được ông giải thích khi tiếp kiến Trần Trọng Kim và cố gắng thuyết phục ông này chấp nhận làm thủ tướng đầu tiên của chính phủ Việt Nam độc lập. Nguyên văn câu nói của Bảo Đại được Trần Trọng Kim kể lại như sau:
“Trước kia nước Pháp giữ quyền bảo hộ nước ta, nay đă không giữ được nước cho ta, để quân Nhật đánh đổ, vậy những điều trong hiệp ước năm 1884 không có hiệu quả nữa, nên Bộ thượng thư đă tuyên hủy hiệp ước ấy. Trẫm phải dứng vai chủ trương việc nước và lập chính phủ để đối phó mọi việc.”[2]
Người ta cần phải nhớ là hơn mười năm trước đó, sau khi du học từ Pháp về tới Huế được hai ngày, ngày tháng 10 tháng 9 năm 1932, Bảo Đại đă ra Dụ số 1 tuyên bố chấp chính và khẳng định chế độ quân chủ của Nam Triều hủy bỏ Quy Ước 6 tháng 11 năm 1925 do Hội Đồng Phụ Chính, đứng đầu là Tôn Thất Hân, kư với Toàn Quyền Đông Dương thời ông c̣n nhỏ tuổi và đang du học bên Pháp, tước bỏ hầu hết các quyền hành c̣n lại của nhà vua trừ các quyền có tính cách nghi lễ, ân xá, sắc phong, tế lễ…kèm theo nhiều dụ khác nhằm thực hiện những cải cách qui mô trong nền hành chánh của chính phủ Nam Triều, nhưng đă bị người Pháp ngăn cản và bị thất bại.
Đảo chính 9 tháng 3 năm 1945 và lời yêu cầu tuyên bố độc lập của người Nhật dù ǵ đi chăng nữa cũng là điều vị hoàng đế c̣n trẻ tuổi từ lâu mong đợi. Ngoài ra theo nhận định và giải thích nhằm thúc đẩy Trần Trong Kim chịu khó lập chính phủ mới. Ông nói :
“Trước kia người ḿnh chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn, nhưng ḿnh cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có chính phủ th́ người Nhật bảo ḿnh bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông nên v́ nghĩa vụ cố lập thành một chính phủ để lo việc nước.”[3]
Hai tiếng “cơ hội” Bảo Đại dùng ở đây cho ta thấy từ lâu ông đă mong có dịp này. Đồng thời ông cũng hiểu rằng nền độc lập mà ông tuyên cáo “chưa phải độc lập hẳn”.” Chưa hết, tuyên bố rồi ông c̣n nói tới nhu cầu “phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập” và nhất là để tránh không cho người Nhật “lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta”, một sự e ngại chỉ có những người có kiến thức về lịch sử và chính trị học mói biết được. Ngoài ra những tiếng “rất có hại cho nước ta” cũng cho người ta thấy đối tương của hành động tuyên cáo độc lập của ông không phải là ngôi vua mà là đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam, đất nước của ông và thần dân của ông. Cái nh́n và quan điểm này cũng như sự hiểu biết của ông về t́nh h́nh thế giới và thế tất bại của người Nhật về sau đă được ông nói rơ trong hồi kư của ông. Riêng đối với người Nhật, ông đă không tin tưởng ở họ cũng như chiêu bài Đại Đông Á của họ. Nói cách khác Bảo Đại ở vị thế phải chấp nhận nhập cuộc dù ông hiểu rơ sự phức tạp của vấn đề. Phần khác như ông cũng nói tới trong hồi kư của ông: Độc lập là ước mơ của tất cả mọi người Việt Nam thời đó.
Nội dung bản Tuyên ngôn
Đây là một bản văn tương đối ngắn so với những bản văn cùng loại, nhằm ba mục tiêu chính yếu là hủy bỏ một ḥa ước Triều Đ́nh Huế trước kia đă kư với nước Pháp, tuyên bố Việt Nam độc lập, đứng vào khối Đại Đông Á trong chương tŕnh phát triển chung, đồng thời bày tỏ sự tin tưởng vào “ḷng thành” của nước Nhật với nguyên văn như sau:
“Cứ t́nh h́nh chung trong thiên hạ, t́nh thế riêng cơi Đông Á, chính phủ Việt Nam tuyên bố từ ngày này điều ước bảo hộ với nước Pháp băi bỏ và nước Nam khôi phục quyền độc lập.
“Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập và theo như lời tuyên ngôn chung của Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vương chung.
“Vậy Chính Phủ Việt Nam một ḷng tin cậy ḷng thành ở Nhật Bản đế quốc, quyết chí hợp tác với nước Nhật, đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên.[4]
Bản Tuyên Ngôn được đề ngày 11 tháng Ba năm 1945 tức ngày 27 tháng Giêng năm Bảo Đại thứ 20 được Bảo Đại kư tên với sáu thượng thư phó thự. Sáu vị nthương thư gồm có: Phạm Quỳnh, bộ Lại, Hồ Đắc Khải, bộ Hộ, Ưng Úy, bộ Lễ, Bùi Bằng Đoàn, bộ H́nh, Trần Thanh Đạt, bộ Học, và Trương Như Định, bộ Công. Theo Bảo Đại đây là lần đầu tiên trong lịch sử một văn kiện được kư bởi nhà vua và tất cả các nhân vật quan trọng nhất trong triều đ́nh.[5]
Đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập này của Bảo Đại, người ta cần chú ư tới những chi tiết sau đây:
Thứ nhất: Bản tuyên ngôn được mở đầu bằng quyết định hủy bỏ một điều ước đă được kư kết trước đó mà v́ t́nh h́nh biến chuyển, một trong hai phía đă không tôn trọng những ǵ ḿnh đă kư kết hay không thực thi được những ǵ ḿnh đă kư kết trong một sinh hoạt quốc tế. Điều ước bị hủy bỏ ở đây là Ḥa Ước Giáp Thân được kư kết giữa Triều Đ́nh Huế và người Pháp ngày 6 tháng 6 năm 1884, đặc biệt hai điều khoản của ḥa ước này là điều khoản thứ nhất, theo đó Việt Nam công nhận và chấp nhận Quyền Bảo Hộ của nước Pháp và điều khoản thứ mười lăm, theo đó nước Pháp cam kết bảo đảm sự toàn vẹn lănh thổ của các xứ do vua Việt Nam cai trị và bảo vệ nhà vua chống lại những sự xâm nhập từ bên ngoài và những cuộc nổi loạn từ bên trong…[6]
Sự hủy bỏ này phải được hiểu là do người Pháp bất lực không bảo vệ được Việt Nam trước sự bành trướng của quân đội Nhật và cuối cùng là chính người Pháp đă bị người Nhật lật đổ trong cuộc Đảo Chính ngày 9 tháng 3 năm 1945. Sự hủy bỏ này cũng có tính cách đơn phương từ phía Bảo Đại với tư cách là người kế vị chính thống của Triều Đ́nh Nhà Nguyễn căn cứ vào những ǵ đă xảy ra vào thời điểm này.
Điểm cần được lưu ư ở đây là từ ngữ ḥa ước trong văn kiện này được dùng theo số ít, trong tiếng Việt, không có chữ “các” hay “những” đi kèm và trong tiếng Pháp không có chữ “s” theo sau. Điều này có nghĩa là bản tuyên cáo chỉ hủy bỏ ḥa ước bảo hộ tức Ḥa Ước Giáp Thân 1884 mà thôi thay v́ hủy bỏ tất cả các ḥa ước đă được kư kết trước đó. Đó là các Ḥa Ước Nhâm Tuất 1862 và Ḥa Ước Giáp Tuất 1874 liên hệ tới xứ Nam Kỳ theo đó xứ này đă bị nhường dứt cho người Pháp và trở thành thuộc địa của họ, không c̣n thuộc quyền cai trị của Vua và Triều Đ́nh Huế nữa. Vấn đề thâu hồi xứ Nam Kỳ do đó chưa được giải quyết ngay nhưng đă trở thành mối bận tâm và một phần hành quan trọng của chính Bảo Đại ngay từ buổi nhà vua tiếp kiến Đại Sứ Nhật Yokoyama và của Chính Phủ Trần Trọng Kim trong gần suốt thời gian chính phủ này tồn tại. Xứ Nam Kỳ chỉ được người Nhật trao trả trong những ngày cuối của chính phủ này và chỉ chính thức trở về với lănh thổ quốc gia Việt Nam ngót năm năm sau, vào giữa tháng 6 năm 1949, và do Bảo Đại với tư cách Quốc Trưởng tiếp nhận từ tay người Pháp. Đây cũng là một sự kiện ít người biết đến. Hai chữ “độc lập” đă được sử dụng (nước Việt Nam khôi phục quyền độc lập) và nhà vua đă dùng danh từ tuyên ngôn độc lập (proclamation d’indépendance) khi nói tới văn kiện này trong hồi kư của ông.[7]
Thứ hai: ”Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập….giúp cho cuộc thịnh vượng chung.” Câu này xác định phương thức hoạt động nhằm thực hiện tư cách độc lập (tự phát triển như một quốc gia độc lập không phụ thuộc vào nước ngoài cho xứng đáng một quốc gia độc lập) và thế đứng của Việt Nam trên trường quốc tế (tự coi ḿnh là một phần tử Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vượng chung). Nên để tới khẩu hiệu Châu Á của Người Á do người Nhật đưa ra trong thời gian này, một khẩu hiệu hàm chứa sự độc lập của các nước Á Châu lúc đó c̣n là thuộc địa của các đế quốc Âu Châu. Đây cũng là một cách nói trước một cách khéo léo để ngăn chặn trước sự can thiệp vào nội t́nh Việt Nam của người Nhật.
Thứ ba: “Chính phủ Việt Nam một ḷng tin cậy ḷng thành ở Nhật Bản đế quốc…”. Câu này nhằm buộc chặt lời hứa của người Nhật bằng cách nhấn mạnh vào sự trung thành với những ǵ họ đă nói, với quan niệm trung thành như một truyền thống chung của các dân tộc Á Đông.
Thứ tư: “”quyết chí hợp tác với nước Nhật đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên.” Mục đích như trên là mục đích ǵ? Phải hiểu mục đích này bao gồm hai phần là “tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập” và “giúp cho cuộc thịnh vương chung” như là một phần tử của khối Đại Đông Á chứ không phải cho Đế Quốc Nhật Bản hay rơ hơn nữa là choriêng nước Nhật.”
Nói cách khác, đây là một bản văn tuy ngắn ngủi, cô đọng nhưng rất quan trọng v́ nó vừa mang tính cách pháp lư, có liên hệ tới nhiều văn kiện ngoại giao khác đă được h́nh thành trước đó, vừa biểu lộ chủ trương của một quốc gia được trao trả độc lập trong một hoàn cảnh không nhận không được, vô cùng tế nhị và phức tạp vào lúc t́nh h́nh thế giới biến chuyển quá nhanh và hoàn toàn bất lợi cho quân đội và quốc gia đảm nhận sự trao trả nền độc lập này. Mỗi điều nói ra, mỗi chữ được viết đều đ̣i hỏi người soạn thảo phải vô cùng thận trong và ước tính kỹ càng.
Ai là tác giả của bản tuyên ngôn này?
Người được nói đến nhiều nhất là Phạm Quỳnh, lúc đó đang giữ chức thượng thư bộ lại. Điều này có nhiều phần đúng nếu người ta để ư tới khả năng nghị luận và viết văn, viết báo kèm theo sự hiểu biết và kinh nghiệm của một học giả, một người làm báo, và sau đó là một ngự tiền văn pḥng tổng lư của nhà vua cũng như thượng thư bộ lại trước đó. Nó cũng được Phạm Khắc Ḥe, đương thời là ngự tiền văn pḥng tổng lư của Bảo Đại, trong hồi kư của ông này xác nhận.[8] Ngoài ra ta không c̣n một tài liệu nào khác nói về sự kiện này.
http://iyouphim.com/forum/attachment.php?attac hmentid=184763&stc=1&d=1346615207
Biểu tượng của Việt nam. Ảnh web.
Lần thứ nhất vào ngày 11 tháng 3 năm 1945 bởi Hoàng Đế Bảo Đại và lần thứ hai vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 bởi Chủ tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa Hồ Chí Minh. Hai lần cả thảy, nhưng đa số người Việt chỉ biết hay chỉ được học có một lần. Họ chỉ biết hay chỉ được học bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 mà không biết hay không được học bản tuyên ngôn của Bảo Đại ngày 11 tháng 3. Lịch sử do đó chỉ được biết có một nửa thay v́ toàn vẹn. Bài này nhằm bổ khuyết cho t́nh trạng thiếu sót đó, đồng thời phân tích nội dung và ư nghĩa của từng bản.
TUYÊN NGÔN CỦA HOÀNG ĐẾ BẢO ĐẠI
Hoàn cảnh được công bố
http://news.data.vietinfo.e u//2012/09/02/177498/1346602567.7366.jpg
Bản tuyên ngôn độc Lập của Hoàng Đế Bảo Đại được công bố ngày 11 tháng 3 năm 1945, hai ngày sau khi Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương và sau một thời gian dài hơn bốn năm, từ tháng 9 năm 1940, sau khi quân Nhật vào phần đất này của Đông Nam Á, gần năm tháng trước khi Nhật Bản đầu hàng và Thế Chiến Thứ Hai kết thúc.
Trong thời gian này Việt Nam bị sống dưới sự cai trị của cả người Pháp, từ sau khi Ḥa Ước 1884 được kư kết, lẫn người Nhật, từ ngày 22 tháng 9 năm 1940, với một hậu quả khủng khiếp là Trận Đói Tháng Ba Năm Ất Dậu. Hoàn cảnh này đă làm cho không chỉ riêng những người Cộng Sản, vốn chủ trương đánh đổ chế độ quân chủ để cướp hay giành chính quyền (chữ của chính người Cộng Sản) để từ đó thực thi cách mạng vô sản mà luôn cả những người không những không có cảm t́nh với chế độ quân chủ đương thời mà c̣n chủ trương lật đổ chế độ này để thay thế bằng một chế độ dân chủ, không nh́n nhận giá trị đích thực của của bản tuyên ngôn này.
Lư do là v́ Bảo Đại luôn luôn bị coi như một ông vua bù nh́n, trước kia trong tay người Pháp và lúc đó trong tay người Nhật. Theo họ trước kia người Pháp bảo sao, ông làm vậy và sau đảo chính 9 tháng 3 năm 1945, người Nhật bảo ông tuyên bố độc lập th́ ông tuyên bố độc lập, thế thôi. Người ta hiểu hay được học đơn giản như vậy. Nền độc lập mà Bảo Đại tuyên bố theo họ chỉ là do người Nhật ban cho và bản tuyên ngôn của ông chẳng có một giá trị ǵ trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của người Việt.
Thực chất của nó chỉ là “sự tuyên bố công khai việc thay thầy đổi chủ của triều đ́nh Bảo Đại”[1] không hơn không kém. Nhiều người lại viện lư do là nền độc lập này chưa hàn toàn. Sự thực không đơn giản như vậy. Người Nhật có lư do làm đảo chính lật đổ người Pháp và Bảo Đại có lư do phải chấp nhận yêu cầu của người Nhật tuyên bố Việt Nam độc lập. Lư do của Bảo Đại đă được ông giải thích khi tiếp kiến Trần Trọng Kim và cố gắng thuyết phục ông này chấp nhận làm thủ tướng đầu tiên của chính phủ Việt Nam độc lập. Nguyên văn câu nói của Bảo Đại được Trần Trọng Kim kể lại như sau:
“Trước kia nước Pháp giữ quyền bảo hộ nước ta, nay đă không giữ được nước cho ta, để quân Nhật đánh đổ, vậy những điều trong hiệp ước năm 1884 không có hiệu quả nữa, nên Bộ thượng thư đă tuyên hủy hiệp ước ấy. Trẫm phải dứng vai chủ trương việc nước và lập chính phủ để đối phó mọi việc.”[2]
Người ta cần phải nhớ là hơn mười năm trước đó, sau khi du học từ Pháp về tới Huế được hai ngày, ngày tháng 10 tháng 9 năm 1932, Bảo Đại đă ra Dụ số 1 tuyên bố chấp chính và khẳng định chế độ quân chủ của Nam Triều hủy bỏ Quy Ước 6 tháng 11 năm 1925 do Hội Đồng Phụ Chính, đứng đầu là Tôn Thất Hân, kư với Toàn Quyền Đông Dương thời ông c̣n nhỏ tuổi và đang du học bên Pháp, tước bỏ hầu hết các quyền hành c̣n lại của nhà vua trừ các quyền có tính cách nghi lễ, ân xá, sắc phong, tế lễ…kèm theo nhiều dụ khác nhằm thực hiện những cải cách qui mô trong nền hành chánh của chính phủ Nam Triều, nhưng đă bị người Pháp ngăn cản và bị thất bại.
Đảo chính 9 tháng 3 năm 1945 và lời yêu cầu tuyên bố độc lập của người Nhật dù ǵ đi chăng nữa cũng là điều vị hoàng đế c̣n trẻ tuổi từ lâu mong đợi. Ngoài ra theo nhận định và giải thích nhằm thúc đẩy Trần Trong Kim chịu khó lập chính phủ mới. Ông nói :
“Trước kia người ḿnh chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn, nhưng ḿnh cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có chính phủ th́ người Nhật bảo ḿnh bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông nên v́ nghĩa vụ cố lập thành một chính phủ để lo việc nước.”[3]
Hai tiếng “cơ hội” Bảo Đại dùng ở đây cho ta thấy từ lâu ông đă mong có dịp này. Đồng thời ông cũng hiểu rằng nền độc lập mà ông tuyên cáo “chưa phải độc lập hẳn”.” Chưa hết, tuyên bố rồi ông c̣n nói tới nhu cầu “phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập” và nhất là để tránh không cho người Nhật “lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta”, một sự e ngại chỉ có những người có kiến thức về lịch sử và chính trị học mói biết được. Ngoài ra những tiếng “rất có hại cho nước ta” cũng cho người ta thấy đối tương của hành động tuyên cáo độc lập của ông không phải là ngôi vua mà là đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam, đất nước của ông và thần dân của ông. Cái nh́n và quan điểm này cũng như sự hiểu biết của ông về t́nh h́nh thế giới và thế tất bại của người Nhật về sau đă được ông nói rơ trong hồi kư của ông. Riêng đối với người Nhật, ông đă không tin tưởng ở họ cũng như chiêu bài Đại Đông Á của họ. Nói cách khác Bảo Đại ở vị thế phải chấp nhận nhập cuộc dù ông hiểu rơ sự phức tạp của vấn đề. Phần khác như ông cũng nói tới trong hồi kư của ông: Độc lập là ước mơ của tất cả mọi người Việt Nam thời đó.
Nội dung bản Tuyên ngôn
Đây là một bản văn tương đối ngắn so với những bản văn cùng loại, nhằm ba mục tiêu chính yếu là hủy bỏ một ḥa ước Triều Đ́nh Huế trước kia đă kư với nước Pháp, tuyên bố Việt Nam độc lập, đứng vào khối Đại Đông Á trong chương tŕnh phát triển chung, đồng thời bày tỏ sự tin tưởng vào “ḷng thành” của nước Nhật với nguyên văn như sau:
“Cứ t́nh h́nh chung trong thiên hạ, t́nh thế riêng cơi Đông Á, chính phủ Việt Nam tuyên bố từ ngày này điều ước bảo hộ với nước Pháp băi bỏ và nước Nam khôi phục quyền độc lập.
“Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập và theo như lời tuyên ngôn chung của Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vương chung.
“Vậy Chính Phủ Việt Nam một ḷng tin cậy ḷng thành ở Nhật Bản đế quốc, quyết chí hợp tác với nước Nhật, đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên.[4]
Bản Tuyên Ngôn được đề ngày 11 tháng Ba năm 1945 tức ngày 27 tháng Giêng năm Bảo Đại thứ 20 được Bảo Đại kư tên với sáu thượng thư phó thự. Sáu vị nthương thư gồm có: Phạm Quỳnh, bộ Lại, Hồ Đắc Khải, bộ Hộ, Ưng Úy, bộ Lễ, Bùi Bằng Đoàn, bộ H́nh, Trần Thanh Đạt, bộ Học, và Trương Như Định, bộ Công. Theo Bảo Đại đây là lần đầu tiên trong lịch sử một văn kiện được kư bởi nhà vua và tất cả các nhân vật quan trọng nhất trong triều đ́nh.[5]
Đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập này của Bảo Đại, người ta cần chú ư tới những chi tiết sau đây:
Thứ nhất: Bản tuyên ngôn được mở đầu bằng quyết định hủy bỏ một điều ước đă được kư kết trước đó mà v́ t́nh h́nh biến chuyển, một trong hai phía đă không tôn trọng những ǵ ḿnh đă kư kết hay không thực thi được những ǵ ḿnh đă kư kết trong một sinh hoạt quốc tế. Điều ước bị hủy bỏ ở đây là Ḥa Ước Giáp Thân được kư kết giữa Triều Đ́nh Huế và người Pháp ngày 6 tháng 6 năm 1884, đặc biệt hai điều khoản của ḥa ước này là điều khoản thứ nhất, theo đó Việt Nam công nhận và chấp nhận Quyền Bảo Hộ của nước Pháp và điều khoản thứ mười lăm, theo đó nước Pháp cam kết bảo đảm sự toàn vẹn lănh thổ của các xứ do vua Việt Nam cai trị và bảo vệ nhà vua chống lại những sự xâm nhập từ bên ngoài và những cuộc nổi loạn từ bên trong…[6]
Sự hủy bỏ này phải được hiểu là do người Pháp bất lực không bảo vệ được Việt Nam trước sự bành trướng của quân đội Nhật và cuối cùng là chính người Pháp đă bị người Nhật lật đổ trong cuộc Đảo Chính ngày 9 tháng 3 năm 1945. Sự hủy bỏ này cũng có tính cách đơn phương từ phía Bảo Đại với tư cách là người kế vị chính thống của Triều Đ́nh Nhà Nguyễn căn cứ vào những ǵ đă xảy ra vào thời điểm này.
Điểm cần được lưu ư ở đây là từ ngữ ḥa ước trong văn kiện này được dùng theo số ít, trong tiếng Việt, không có chữ “các” hay “những” đi kèm và trong tiếng Pháp không có chữ “s” theo sau. Điều này có nghĩa là bản tuyên cáo chỉ hủy bỏ ḥa ước bảo hộ tức Ḥa Ước Giáp Thân 1884 mà thôi thay v́ hủy bỏ tất cả các ḥa ước đă được kư kết trước đó. Đó là các Ḥa Ước Nhâm Tuất 1862 và Ḥa Ước Giáp Tuất 1874 liên hệ tới xứ Nam Kỳ theo đó xứ này đă bị nhường dứt cho người Pháp và trở thành thuộc địa của họ, không c̣n thuộc quyền cai trị của Vua và Triều Đ́nh Huế nữa. Vấn đề thâu hồi xứ Nam Kỳ do đó chưa được giải quyết ngay nhưng đă trở thành mối bận tâm và một phần hành quan trọng của chính Bảo Đại ngay từ buổi nhà vua tiếp kiến Đại Sứ Nhật Yokoyama và của Chính Phủ Trần Trọng Kim trong gần suốt thời gian chính phủ này tồn tại. Xứ Nam Kỳ chỉ được người Nhật trao trả trong những ngày cuối của chính phủ này và chỉ chính thức trở về với lănh thổ quốc gia Việt Nam ngót năm năm sau, vào giữa tháng 6 năm 1949, và do Bảo Đại với tư cách Quốc Trưởng tiếp nhận từ tay người Pháp. Đây cũng là một sự kiện ít người biết đến. Hai chữ “độc lập” đă được sử dụng (nước Việt Nam khôi phục quyền độc lập) và nhà vua đă dùng danh từ tuyên ngôn độc lập (proclamation d’indépendance) khi nói tới văn kiện này trong hồi kư của ông.[7]
Thứ hai: ”Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập….giúp cho cuộc thịnh vượng chung.” Câu này xác định phương thức hoạt động nhằm thực hiện tư cách độc lập (tự phát triển như một quốc gia độc lập không phụ thuộc vào nước ngoài cho xứng đáng một quốc gia độc lập) và thế đứng của Việt Nam trên trường quốc tế (tự coi ḿnh là một phần tử Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vượng chung). Nên để tới khẩu hiệu Châu Á của Người Á do người Nhật đưa ra trong thời gian này, một khẩu hiệu hàm chứa sự độc lập của các nước Á Châu lúc đó c̣n là thuộc địa của các đế quốc Âu Châu. Đây cũng là một cách nói trước một cách khéo léo để ngăn chặn trước sự can thiệp vào nội t́nh Việt Nam của người Nhật.
Thứ ba: “Chính phủ Việt Nam một ḷng tin cậy ḷng thành ở Nhật Bản đế quốc…”. Câu này nhằm buộc chặt lời hứa của người Nhật bằng cách nhấn mạnh vào sự trung thành với những ǵ họ đă nói, với quan niệm trung thành như một truyền thống chung của các dân tộc Á Đông.
Thứ tư: “”quyết chí hợp tác với nước Nhật đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên.” Mục đích như trên là mục đích ǵ? Phải hiểu mục đích này bao gồm hai phần là “tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập” và “giúp cho cuộc thịnh vương chung” như là một phần tử của khối Đại Đông Á chứ không phải cho Đế Quốc Nhật Bản hay rơ hơn nữa là choriêng nước Nhật.”
Nói cách khác, đây là một bản văn tuy ngắn ngủi, cô đọng nhưng rất quan trọng v́ nó vừa mang tính cách pháp lư, có liên hệ tới nhiều văn kiện ngoại giao khác đă được h́nh thành trước đó, vừa biểu lộ chủ trương của một quốc gia được trao trả độc lập trong một hoàn cảnh không nhận không được, vô cùng tế nhị và phức tạp vào lúc t́nh h́nh thế giới biến chuyển quá nhanh và hoàn toàn bất lợi cho quân đội và quốc gia đảm nhận sự trao trả nền độc lập này. Mỗi điều nói ra, mỗi chữ được viết đều đ̣i hỏi người soạn thảo phải vô cùng thận trong và ước tính kỹ càng.
Ai là tác giả của bản tuyên ngôn này?
Người được nói đến nhiều nhất là Phạm Quỳnh, lúc đó đang giữ chức thượng thư bộ lại. Điều này có nhiều phần đúng nếu người ta để ư tới khả năng nghị luận và viết văn, viết báo kèm theo sự hiểu biết và kinh nghiệm của một học giả, một người làm báo, và sau đó là một ngự tiền văn pḥng tổng lư của nhà vua cũng như thượng thư bộ lại trước đó. Nó cũng được Phạm Khắc Ḥe, đương thời là ngự tiền văn pḥng tổng lư của Bảo Đại, trong hồi kư của ông này xác nhận.[8] Ngoài ra ta không c̣n một tài liệu nào khác nói về sự kiện này.