vuitoichat
05-01-2013, 16:46
LTS : Bài dưới đây đă được viết vào tháng 5/1988 và đă gây tranh căi sôi nổi cách đây 14 năm. Những ǵ tác giả tŕnh bày cho đến nay vẫn c̣n giữ nguyên giá trị của nó. Nguyên nhân sâu xa đă khiến Miền Nam rơi vào tay đảng CSVN gồm hai lư do chính: đó là sự thiếu vắng của một nhân sự chính trị và sự thiếu vắng của một đồng thuận quốc gia. Những người đấu tranh cho dân chủ ngày nay phải vượt lên trên ngày 30/4/75 và phải đoạn tuyệt với cái lô gích của nó, phải giă từ cái tâm lư bại trận cũng như cái tâm lư đắc thắng. Chúng ta phải chấm dứt với một giai đoạn lịch sử và khởi hành vào một kỷ nguyên mới. Thông Luận xin trân trọng giới thiếu lại bài này cùng độc giả nhân kỷ niệm ngày 30/4/1975.
http://4.bp.blogspot.com/-uHU6YDCtsDg/UXove3GWDwI/AAAAAAAAH2Q/eE24qsg6ZrE/s320/11h30ngay30-4-1975.jpg
Sài G̣n 31/3/1975, trên chiếc xe đưa tôi về bộ. Tôi im lặng và ông tài xế cũng im lặng. Một lúc sau ông nói một cách như xa vắng : "Đà Nẵng mất rồi !". Tôi cũng vẫn im lặng. Ông tài xế nói tiếp: "Các ông phải làm ǵ chứ nếu không th́ hỏng hết rồi !". Câu nói của ông như một nhát dao cắt vào ruột tôi. Tôi biết làm ǵ bây giờ. Tôi cũng đang c̣n chờ sự sụp đổ của miền Nam như ông.
Câu nói cuối cùng của ông tài xế ngày hôm nay tôi vẫn c̣n nghe rất rơ. Nó vẫn đọng trong tai tôi, bởi vi nó tóm gọn cả một giai đoạn lịch sử và một thảm kịch của dân tộc này. Ông tài xế có một người con trai tử trận trong quân lực Việt Nam Cộng Ḥa. Ông là một công chức thâm niên. Ông là một người đại diện rất tiêu biểu cho những người dân thuộc phe quốc gia. Ông chưa bao giờ được hưởng một vinh quang nào, một đặc lợi nào. Nhưng ông đă chấp nhận tất cả. Đă nhịn nhục, đă chịu đựng và đă đặt tin tưởng vào các ông lớn để ngăn chặn không cho cộng sản thôn tính miền Nam. Tôi không biết lư do ǵ khiến ông chống cộng. Có lẽ ông thuộc nề nếp nho giáo, hay v́ ông có cảm t́nh với một người chống cộng nào đó, hay v́ ông ghét một người cộng sản nào đó, hay trong gia đ́nh ông có người đă là nạn nhân cộng sản. Hay chỉ v́ lư do giản dị là ông sinh sống ở vùng quốc gia. Nhưng ông chống cộng thực sự và ông đă chấp nhận trả cái giá rất đắt cho sự chọn lựa chính trị đó: một đời sống tăm tối nghèo khổ và một đứa con tử trận.
Nhưng bây giờ đất nước sắp rơi vào tay cộng sản. Những chịu đựng và hy sinh của ông đă trở thành vô ích. Các ông lớn đă phản bội ông. Đối với ông tài xế tôi cũng là một ông lớn, dù là trên thực tế tôi chẳng lớn chút nào. Tôi hổ thẹn như một tên lưu manh bị lật tẩy, như một kẻ quịt nợ. Tôi thương hại cho thế hệ của tôi và cho chính bản thân tôi. Trong số những người ở lứa tuổi 30 chúng tôi có một vài phần tử may mắn đă lên được tới những địa vị tạm gọi là cao nhưng sự thực chưa ai đạt tới một địa vị quyết định để có thể thay đổi được t́nh thế. Ngay cái địa vị hiện nay, chúng tôi cũng chỉ đă đến vừa đúng lúc để nhận phần hổ nhục, bởi v́ dầu sao chúng tôi cũng đă thuộc vào cấp lănh đạo và sự sụp đổ của miền Nam trước hết là do sự phản bội của những người lănh đạo. Một sự phản bội liên tục từ lâu chứ không phải chỉ bắt đầu với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu.
Thực ra, phe chống cộng không có lănh đạo mà cũng không có cả một nhân sự chính trị.
Nhân sự chính trị là yếu tố trọng tâm của mọi dân tộc. Nó là hiện thân của chủ quyền quốc gia. Nó là di sản của lịch sử. Nó không thể tự nhiên mà có. Sự h́nh thành của một giai cấp chính trị chỉ có thể là kết quả của nhiều cố gắng liên tục qua nhiều thế hệ. Nhưng từ một thế kỷ nay chúng ta không có nhân sự chính trị.
Trước đây ta có giai cấp sĩ. Đó dĩ nhiên không phải là giai cấp chính trị đáp ứng mọi tiêu chuẩn cần có của một giai cấp chính trị trong thời đại này, nhưng cũng đă đủ cho tới hết nửa đầu thế kỷ 19. Từ nửa sau thế kỷ 19, một thách đố mới xuất hiện. Thách đố này là sự va động với nền văn minh tây phương. Nó đặt lại tất cả mọi vấn đề. Nó đ̣i hỏi phải thay đổi tất cả, nó đảo lộn tất cả. Nó quan trọng và khó khăn hơn tất cả mọi cuộc thách đố khác mà dân tộc ta đă từng gặp trong quá tŕnh dựng nước và giữ nước. Lúc đó lại chính là lúc chúng ta chưa phục hồi sau hơn 200 năm nội chiến khốc liệt, kế tiếp là những cuộc trả thù báo oán của Gia Long, rồi cuộc ly khai của Lê Văn Duyệt, rồi những vụ giết hại công thần, những thanh toán trong gia tộc nhà Nguyễn, những vụ cấm đạo và giết giáo dân. Chúng ta đă không đủ sức khỏe tinh thần và thân xác để đương đầu với thách đố đó. Chúng ta đă thất bại và mất nước.
Giai cấp sĩ đă thất bại và tệ hơn nữa đă từ nhiệm. Nguyễn Khuyến, người đại diện tiêu biểu nhất của giai cấp sĩ, người đă đậu thủ khoa cả ba kỳ thi lớn và đă có một nhân cách được cả nước kính phục, bỏ về quê làm ruộng. Cùng lúc ấy cô Tư Hồng, một cô gái giang hồ lấy viên thiếu tá quân trấn người Pháp tại Hà Nội và trở thành một mệnh phụ phu nhân kiểu mới. Một giai cấp đă rút lui nhường chỗ cho một giai cấp khác.
Cuộc đô hộ của người Pháp đă kéo dài quá lâu. Con cháu Nguyễn Khuyến mai một đi và tiêu hóa vào quần chúng. Giai cấp sĩ tan ră. Trong khi đó đám con cháu của cô tư Hồng đă tiến lên, đă trở thành giàu có và bề thế, đă đi học, đă đậu cử nhân, tiến sĩ, luật sư, kỹ sư.v.v. Họ đă trở thành một giai cấp thượng lưu mới. Nhưng lớp thượng lưu mới này không phải là một nhân sự chính trị mà chỉ là một công cụ của guồng máy thuộc địa. Họ chỉ là trung gian tiếp tay cho sự thống trị của người Pháp. Họ đứng trong hàng ngũ chống đối với cuộc đấu tranh giành lại chủ quyền dân tộc. Trong đại bộ phận họ là những người đă từ bỏ hoặc phản bội dân tộc.
Nói tóm lại chúng ta không c̣n giai cấp sĩ và cũng không có một nhân sự chính trị kể từ khi ta mất chủ quyền.
Dĩ nhiên là chúng ta vẫn c̣n những kẻ sĩ, vẫn c̣n những con người bất khuất dám liều chết cho nền độc lập dân tộc. Nhưng đó chỉ là những cá nhân chứ không phải là một giai cấp chính trị. Đó là một bất hạnh rất lớn cho chúng ta bởi v́ một quốc gia không thể không có một nhân sự chính trị.
Một bất hạnh khác cũng to lớn không kém là chúng ta thiếu hẳn một tư tưởng riêng của dân tộc. Chúng ta không có những triết gia và những nhà tư tưởng. Trong suốt ḍng lịch sử trừ một vài trường hợp ngoại lệ như Nguyễn Trăi, Lê Quí Đôn, chúng ta đă không chịu đầu tư vào một việc mà bất cứ một dân tộc lớn nào cũng phải làm là tạo cho ḿnh một hệ thống tư tưởng riêng. Về mặt tư tưởng chúng ta đă chỉ luôn luôn rập khuôn theo Trung Hoa và đi sau Trung Hoa một bước. Sang đến thế kỷ 20, một danh sĩ uy tín như Phan Kế Bính vẫn c̣n cho rằng : "Đạo lư là đạo lư Khổng Mạnh" !
Cuộc đấu tranh chống Pháp giành độc lập của ta đă diễn ra trong cái bối cănh tồi tệ ấy. Thoạt đầu là đám sĩ phu Cần Vương, Văn Thân hoàn toàn lỗi thời, rồi đến lớp thanh niên vừa tới tuổi trưởng thành như Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thái Học, v.v... Tất cả chỉ nói lên được tinh thần bất khuất của dân tộc ta chứ không đạt được một tầm vóc hay quy mô nào. Tất cả chỉ tố cáo sự yếu nhược của chúng ta: không có người lănh đạo mà cũng không có tư tưởng chỉ đạo.
Chính trong hoàn cảnh đó mà chủ nghĩa cộng sản đă được du nhập vào nước ta. Nó đă gặp một hoàn cảnh vô cùng thuận lợi. Ít ra nó đem đến một tư tưởng mới. Dù tư tưởng đó hay hay dở nhưng đă có một tư tưởng chỉ đạo.
Một điều cần phải nhận định ngay là những người lănh đạo phong trào cộng sản cũng không phải là một giai cấp chính trị mới của dân tộc. Họ cũng ở trong một hoàn cảnh, trên lư thuyết, tương tự như đám quan lại trong chính quyền thuộc địa Pháp. Họ cũng chỉ là trung gian của phong trào cộng sản quốc tế như những người kia là trung gian cho chế độ thuộc địa pháp.
Hồ Chí Minh đă về Việt Nam không phải với tư cách một nhà cách mạng Việt Nam mà với tư cách một người được sự ủy quyền của Đệ Tam Quốc Tế.
Chỉ có điều khác biệt là phong trào cộng sản quốc tế lúc đó đứng về phía các dân tộc bị áp bức và do đó trên thực tế người cộng sản gần với dân tộc Việt Nam hơn là những người làm quan cho Pháp. Sự khác biệt này đă khiến đảng cộng sản ở trong một địa vị hơn hẳn so với những người chống đối họ trong các chính quyền quốc gia sau này.
Mặt khác, v́ là thành phần của phong trào cộng sản quốc tế nên không những họ được sự hỗ trợ của cả một liên minh quốc tế mà c̣n thừa hưởng được những kinh nghiệm đấu tranh rất quí báu. Do đó Đảng Cộng Sản Việt Nam so với các đảng cách mạng thuộc phe quốc gia đă tranh đấu có kỹ thuật hơn, có phương pháp hơn, có đường lối hơn, nói chung là có hiệu năng cao hơn. Một thí dụ là họ đă biết sử dụng tối đa giai đoạn dễ dăi khi Mặt Trận Nhân Dân (Front Populaire) lên cầm quyền tại Pháp để phối hợp hoạt động tuyên truyền quần chúng công khai với hoạt động xây dựng tổ chức bí mật và đă bành trướng được ảnh hưởng một cách mạnh mẽ. Trong khi đó phe quốc gia từ sau thất bại 1929 đă hoàn toàn rút vào ṿng bí mật và chỉ c̣n vài hoạt động khủng bố lẻ tẻ. Các lănh tụ phần lớn đă trốn ra nước ngoài, số c̣n lại th́ chỉ lo làm sao thoát được màng lưới mật thám của Pháp. Khi chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu cán cân lực lượng đă lệch hẳn về phía người cộng sản.
Một biến cố khác đă có tác dụng làm cho sự thắng thế của đảng cộng sản trở thành tuyệt đối là nạn đói năm 1945. Đảng cộng sản đă lợi dụng được thảm kịch này bởi v́ quần chúng sau khi hơn một triệu người chết đói vào tháng ba năm Ất Dậu đă trở thành vô cùng nhạy cảm trước những tiếng gọi vô sản chuyên chính, đấu tranh giai cấp, xóa bỏ giàu nghèo, v.v...
Nói tóm lại, vừa có hỗ trợ quốc tế vừa có đường lối rơ rệt, vừa làm việc có phương pháp có kỹ thuật, lại gặp thời cơ thuận lợi nên đảng cộng sản đă nắm được thời cơ năm 1945 sau khi Nhật đầu hàng. Năm 1946, khi các lănh tụ ṇng cốt của phe quốc gia bỏ trốn sang Trung Hoa, lực lượng của phe quốc gia kể như đă bị xóa bỏ. Những phần tử quốc gia c̣n lại trong nước phần th́ ngả theo đảng cộng sản, phần th́ bị thủ tiêu, phần th́ bỏ cuộc, ḥa nhập vào dân chúng. Phe quốc gia không c̣n nữa.
Người ta đă nói nhiều về Chính Phủ Liên Hiệp Quốc-Cộng năm 1946. Nhiều người đă kết luận rằng bài học đó cho ta thấy hễ liên hiệp với cộng sản là chết. Sự thực phức tạp hơn nhiều. Khi một người bị cảm sốt th́ không phải lỗi tại cái hàn thử biểu. Tại khắp vùng Đông Nam Á, trong các cuộc cạnh tranh và đụng chạm giữa phe quốc gia và phe cộng sản, có những lúc họ hợp tác với nhau và cũng có những lúc họ chống đối nhau, nhưng ở đâu phe cộng sản cũng thất bại, trừ ở Việt Nam. Sự thất bại của phe quốc gia và sự thắng lợi của phe cộng sản ở Việt Nam là một ngoại lệ chứ không phải là một thông lệ. Sự kiện đó là do ở hai nguyên nhân mà ta vừa phân tích. Đó là sự thiếu vắng của một nhân sự chính trị và sự thiếu vắng của một đồng thuận quốc gia.
Các đảng quốc gia đă là nạn nhân của hai sự thiếu vắng đó. C̣n đảng cộng sản th́ khác. Họ chỉ là một thành phần của đảng cộng sản quốc tế nên sự thiếu vắng một nhân sự chính trị thuần túy dân tộc không những không có hại mà c̣n có lợi cho họ. Họ đă có chủ nghĩa vô sản quốc tế nên sự thiếu vắng của một tư tưởng dân tộc không những không có hại mà c̣n có lợi cho họ. Trái lại khi người ta tranh đấu trên lập trường thuần túy dân tộc th́ hai yếu tố đó không có không được. Đó là tất cả vấn đề.
Một sự lẫn lộn danh từ đă đưa đến sự đồng hóa phe quốc gia với các chính quyền kế tiếp được Pháp và Mỹ đỡ đầu sau này. Sự thực th́ các lực lượng quốc gia đă tan ră từ năm 1946 và không có liên hệ ǵ với các chính phủ Bảo Đại, Ngô Đ́nh Diệm, v.v... Khi Bảo Đại được người Pháp đem về đứng đầu chính quyền do họ thành lập để làm công cụ chống đối lại mặt trận Việt Minh, một guồng máy nhà nước được thành lập lấy tên là Quốc Gia Việt Nam. Chữ "Quốc Gia" ở đây, dịch từ chữ Etat của tiếng pháp hay State của tiếng Anh, có nghĩa là một nước không có đầy đủ chủ quyền, khác với một nước cộng ḥa chẳng hạn, chứ không có nghĩa là "lấy đất nước và dân tộc làm trọng" đối chọi với chủ nghĩa vô sản quốc tế. Những người "lănh đạo" cái Quốc Gia Việt Nam của Bảo Đại này hoàn toàn không liên hệ ǵ với những lực lượng quốc gia trước đây. Có một vài nhân vật thuộc các lực lượng cách mạng của phe quốc gia đă tham gia với chính quyền Bảo Đại, nhưng đó chỉ là những chọn lựa cá nhân mà thôi. Trong đại bộ phận guồng máy nhà nước của Quốc Gia Việt Nam là những tri phủ, tri huyện, đốc phủ sứ, thông phán của guồng máy thực dân cũ. Họ là những người đă đứng về phía ngoại nhân, chống đối lại cuộc tranh đấu giành chủ quyền dân tộc, những người mà ta có thể xem như những đứa cháu nội, cháu ngoại của cô Tư Hồng. Sự khác biệt này rất quan trọng nhưng cho tới nay ít người nhấn mạnh.
http://4.bp.blogspot.com/-uHU6YDCtsDg/UXove3GWDwI/AAAAAAAAH2Q/eE24qsg6ZrE/s320/11h30ngay30-4-1975.jpg
Sài G̣n 31/3/1975, trên chiếc xe đưa tôi về bộ. Tôi im lặng và ông tài xế cũng im lặng. Một lúc sau ông nói một cách như xa vắng : "Đà Nẵng mất rồi !". Tôi cũng vẫn im lặng. Ông tài xế nói tiếp: "Các ông phải làm ǵ chứ nếu không th́ hỏng hết rồi !". Câu nói của ông như một nhát dao cắt vào ruột tôi. Tôi biết làm ǵ bây giờ. Tôi cũng đang c̣n chờ sự sụp đổ của miền Nam như ông.
Câu nói cuối cùng của ông tài xế ngày hôm nay tôi vẫn c̣n nghe rất rơ. Nó vẫn đọng trong tai tôi, bởi vi nó tóm gọn cả một giai đoạn lịch sử và một thảm kịch của dân tộc này. Ông tài xế có một người con trai tử trận trong quân lực Việt Nam Cộng Ḥa. Ông là một công chức thâm niên. Ông là một người đại diện rất tiêu biểu cho những người dân thuộc phe quốc gia. Ông chưa bao giờ được hưởng một vinh quang nào, một đặc lợi nào. Nhưng ông đă chấp nhận tất cả. Đă nhịn nhục, đă chịu đựng và đă đặt tin tưởng vào các ông lớn để ngăn chặn không cho cộng sản thôn tính miền Nam. Tôi không biết lư do ǵ khiến ông chống cộng. Có lẽ ông thuộc nề nếp nho giáo, hay v́ ông có cảm t́nh với một người chống cộng nào đó, hay v́ ông ghét một người cộng sản nào đó, hay trong gia đ́nh ông có người đă là nạn nhân cộng sản. Hay chỉ v́ lư do giản dị là ông sinh sống ở vùng quốc gia. Nhưng ông chống cộng thực sự và ông đă chấp nhận trả cái giá rất đắt cho sự chọn lựa chính trị đó: một đời sống tăm tối nghèo khổ và một đứa con tử trận.
Nhưng bây giờ đất nước sắp rơi vào tay cộng sản. Những chịu đựng và hy sinh của ông đă trở thành vô ích. Các ông lớn đă phản bội ông. Đối với ông tài xế tôi cũng là một ông lớn, dù là trên thực tế tôi chẳng lớn chút nào. Tôi hổ thẹn như một tên lưu manh bị lật tẩy, như một kẻ quịt nợ. Tôi thương hại cho thế hệ của tôi và cho chính bản thân tôi. Trong số những người ở lứa tuổi 30 chúng tôi có một vài phần tử may mắn đă lên được tới những địa vị tạm gọi là cao nhưng sự thực chưa ai đạt tới một địa vị quyết định để có thể thay đổi được t́nh thế. Ngay cái địa vị hiện nay, chúng tôi cũng chỉ đă đến vừa đúng lúc để nhận phần hổ nhục, bởi v́ dầu sao chúng tôi cũng đă thuộc vào cấp lănh đạo và sự sụp đổ của miền Nam trước hết là do sự phản bội của những người lănh đạo. Một sự phản bội liên tục từ lâu chứ không phải chỉ bắt đầu với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu.
Thực ra, phe chống cộng không có lănh đạo mà cũng không có cả một nhân sự chính trị.
Nhân sự chính trị là yếu tố trọng tâm của mọi dân tộc. Nó là hiện thân của chủ quyền quốc gia. Nó là di sản của lịch sử. Nó không thể tự nhiên mà có. Sự h́nh thành của một giai cấp chính trị chỉ có thể là kết quả của nhiều cố gắng liên tục qua nhiều thế hệ. Nhưng từ một thế kỷ nay chúng ta không có nhân sự chính trị.
Trước đây ta có giai cấp sĩ. Đó dĩ nhiên không phải là giai cấp chính trị đáp ứng mọi tiêu chuẩn cần có của một giai cấp chính trị trong thời đại này, nhưng cũng đă đủ cho tới hết nửa đầu thế kỷ 19. Từ nửa sau thế kỷ 19, một thách đố mới xuất hiện. Thách đố này là sự va động với nền văn minh tây phương. Nó đặt lại tất cả mọi vấn đề. Nó đ̣i hỏi phải thay đổi tất cả, nó đảo lộn tất cả. Nó quan trọng và khó khăn hơn tất cả mọi cuộc thách đố khác mà dân tộc ta đă từng gặp trong quá tŕnh dựng nước và giữ nước. Lúc đó lại chính là lúc chúng ta chưa phục hồi sau hơn 200 năm nội chiến khốc liệt, kế tiếp là những cuộc trả thù báo oán của Gia Long, rồi cuộc ly khai của Lê Văn Duyệt, rồi những vụ giết hại công thần, những thanh toán trong gia tộc nhà Nguyễn, những vụ cấm đạo và giết giáo dân. Chúng ta đă không đủ sức khỏe tinh thần và thân xác để đương đầu với thách đố đó. Chúng ta đă thất bại và mất nước.
Giai cấp sĩ đă thất bại và tệ hơn nữa đă từ nhiệm. Nguyễn Khuyến, người đại diện tiêu biểu nhất của giai cấp sĩ, người đă đậu thủ khoa cả ba kỳ thi lớn và đă có một nhân cách được cả nước kính phục, bỏ về quê làm ruộng. Cùng lúc ấy cô Tư Hồng, một cô gái giang hồ lấy viên thiếu tá quân trấn người Pháp tại Hà Nội và trở thành một mệnh phụ phu nhân kiểu mới. Một giai cấp đă rút lui nhường chỗ cho một giai cấp khác.
Cuộc đô hộ của người Pháp đă kéo dài quá lâu. Con cháu Nguyễn Khuyến mai một đi và tiêu hóa vào quần chúng. Giai cấp sĩ tan ră. Trong khi đó đám con cháu của cô tư Hồng đă tiến lên, đă trở thành giàu có và bề thế, đă đi học, đă đậu cử nhân, tiến sĩ, luật sư, kỹ sư.v.v. Họ đă trở thành một giai cấp thượng lưu mới. Nhưng lớp thượng lưu mới này không phải là một nhân sự chính trị mà chỉ là một công cụ của guồng máy thuộc địa. Họ chỉ là trung gian tiếp tay cho sự thống trị của người Pháp. Họ đứng trong hàng ngũ chống đối với cuộc đấu tranh giành lại chủ quyền dân tộc. Trong đại bộ phận họ là những người đă từ bỏ hoặc phản bội dân tộc.
Nói tóm lại chúng ta không c̣n giai cấp sĩ và cũng không có một nhân sự chính trị kể từ khi ta mất chủ quyền.
Dĩ nhiên là chúng ta vẫn c̣n những kẻ sĩ, vẫn c̣n những con người bất khuất dám liều chết cho nền độc lập dân tộc. Nhưng đó chỉ là những cá nhân chứ không phải là một giai cấp chính trị. Đó là một bất hạnh rất lớn cho chúng ta bởi v́ một quốc gia không thể không có một nhân sự chính trị.
Một bất hạnh khác cũng to lớn không kém là chúng ta thiếu hẳn một tư tưởng riêng của dân tộc. Chúng ta không có những triết gia và những nhà tư tưởng. Trong suốt ḍng lịch sử trừ một vài trường hợp ngoại lệ như Nguyễn Trăi, Lê Quí Đôn, chúng ta đă không chịu đầu tư vào một việc mà bất cứ một dân tộc lớn nào cũng phải làm là tạo cho ḿnh một hệ thống tư tưởng riêng. Về mặt tư tưởng chúng ta đă chỉ luôn luôn rập khuôn theo Trung Hoa và đi sau Trung Hoa một bước. Sang đến thế kỷ 20, một danh sĩ uy tín như Phan Kế Bính vẫn c̣n cho rằng : "Đạo lư là đạo lư Khổng Mạnh" !
Cuộc đấu tranh chống Pháp giành độc lập của ta đă diễn ra trong cái bối cănh tồi tệ ấy. Thoạt đầu là đám sĩ phu Cần Vương, Văn Thân hoàn toàn lỗi thời, rồi đến lớp thanh niên vừa tới tuổi trưởng thành như Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thái Học, v.v... Tất cả chỉ nói lên được tinh thần bất khuất của dân tộc ta chứ không đạt được một tầm vóc hay quy mô nào. Tất cả chỉ tố cáo sự yếu nhược của chúng ta: không có người lănh đạo mà cũng không có tư tưởng chỉ đạo.
Chính trong hoàn cảnh đó mà chủ nghĩa cộng sản đă được du nhập vào nước ta. Nó đă gặp một hoàn cảnh vô cùng thuận lợi. Ít ra nó đem đến một tư tưởng mới. Dù tư tưởng đó hay hay dở nhưng đă có một tư tưởng chỉ đạo.
Một điều cần phải nhận định ngay là những người lănh đạo phong trào cộng sản cũng không phải là một giai cấp chính trị mới của dân tộc. Họ cũng ở trong một hoàn cảnh, trên lư thuyết, tương tự như đám quan lại trong chính quyền thuộc địa Pháp. Họ cũng chỉ là trung gian của phong trào cộng sản quốc tế như những người kia là trung gian cho chế độ thuộc địa pháp.
Hồ Chí Minh đă về Việt Nam không phải với tư cách một nhà cách mạng Việt Nam mà với tư cách một người được sự ủy quyền của Đệ Tam Quốc Tế.
Chỉ có điều khác biệt là phong trào cộng sản quốc tế lúc đó đứng về phía các dân tộc bị áp bức và do đó trên thực tế người cộng sản gần với dân tộc Việt Nam hơn là những người làm quan cho Pháp. Sự khác biệt này đă khiến đảng cộng sản ở trong một địa vị hơn hẳn so với những người chống đối họ trong các chính quyền quốc gia sau này.
Mặt khác, v́ là thành phần của phong trào cộng sản quốc tế nên không những họ được sự hỗ trợ của cả một liên minh quốc tế mà c̣n thừa hưởng được những kinh nghiệm đấu tranh rất quí báu. Do đó Đảng Cộng Sản Việt Nam so với các đảng cách mạng thuộc phe quốc gia đă tranh đấu có kỹ thuật hơn, có phương pháp hơn, có đường lối hơn, nói chung là có hiệu năng cao hơn. Một thí dụ là họ đă biết sử dụng tối đa giai đoạn dễ dăi khi Mặt Trận Nhân Dân (Front Populaire) lên cầm quyền tại Pháp để phối hợp hoạt động tuyên truyền quần chúng công khai với hoạt động xây dựng tổ chức bí mật và đă bành trướng được ảnh hưởng một cách mạnh mẽ. Trong khi đó phe quốc gia từ sau thất bại 1929 đă hoàn toàn rút vào ṿng bí mật và chỉ c̣n vài hoạt động khủng bố lẻ tẻ. Các lănh tụ phần lớn đă trốn ra nước ngoài, số c̣n lại th́ chỉ lo làm sao thoát được màng lưới mật thám của Pháp. Khi chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu cán cân lực lượng đă lệch hẳn về phía người cộng sản.
Một biến cố khác đă có tác dụng làm cho sự thắng thế của đảng cộng sản trở thành tuyệt đối là nạn đói năm 1945. Đảng cộng sản đă lợi dụng được thảm kịch này bởi v́ quần chúng sau khi hơn một triệu người chết đói vào tháng ba năm Ất Dậu đă trở thành vô cùng nhạy cảm trước những tiếng gọi vô sản chuyên chính, đấu tranh giai cấp, xóa bỏ giàu nghèo, v.v...
Nói tóm lại, vừa có hỗ trợ quốc tế vừa có đường lối rơ rệt, vừa làm việc có phương pháp có kỹ thuật, lại gặp thời cơ thuận lợi nên đảng cộng sản đă nắm được thời cơ năm 1945 sau khi Nhật đầu hàng. Năm 1946, khi các lănh tụ ṇng cốt của phe quốc gia bỏ trốn sang Trung Hoa, lực lượng của phe quốc gia kể như đă bị xóa bỏ. Những phần tử quốc gia c̣n lại trong nước phần th́ ngả theo đảng cộng sản, phần th́ bị thủ tiêu, phần th́ bỏ cuộc, ḥa nhập vào dân chúng. Phe quốc gia không c̣n nữa.
Người ta đă nói nhiều về Chính Phủ Liên Hiệp Quốc-Cộng năm 1946. Nhiều người đă kết luận rằng bài học đó cho ta thấy hễ liên hiệp với cộng sản là chết. Sự thực phức tạp hơn nhiều. Khi một người bị cảm sốt th́ không phải lỗi tại cái hàn thử biểu. Tại khắp vùng Đông Nam Á, trong các cuộc cạnh tranh và đụng chạm giữa phe quốc gia và phe cộng sản, có những lúc họ hợp tác với nhau và cũng có những lúc họ chống đối nhau, nhưng ở đâu phe cộng sản cũng thất bại, trừ ở Việt Nam. Sự thất bại của phe quốc gia và sự thắng lợi của phe cộng sản ở Việt Nam là một ngoại lệ chứ không phải là một thông lệ. Sự kiện đó là do ở hai nguyên nhân mà ta vừa phân tích. Đó là sự thiếu vắng của một nhân sự chính trị và sự thiếu vắng của một đồng thuận quốc gia.
Các đảng quốc gia đă là nạn nhân của hai sự thiếu vắng đó. C̣n đảng cộng sản th́ khác. Họ chỉ là một thành phần của đảng cộng sản quốc tế nên sự thiếu vắng một nhân sự chính trị thuần túy dân tộc không những không có hại mà c̣n có lợi cho họ. Họ đă có chủ nghĩa vô sản quốc tế nên sự thiếu vắng của một tư tưởng dân tộc không những không có hại mà c̣n có lợi cho họ. Trái lại khi người ta tranh đấu trên lập trường thuần túy dân tộc th́ hai yếu tố đó không có không được. Đó là tất cả vấn đề.
Một sự lẫn lộn danh từ đă đưa đến sự đồng hóa phe quốc gia với các chính quyền kế tiếp được Pháp và Mỹ đỡ đầu sau này. Sự thực th́ các lực lượng quốc gia đă tan ră từ năm 1946 và không có liên hệ ǵ với các chính phủ Bảo Đại, Ngô Đ́nh Diệm, v.v... Khi Bảo Đại được người Pháp đem về đứng đầu chính quyền do họ thành lập để làm công cụ chống đối lại mặt trận Việt Minh, một guồng máy nhà nước được thành lập lấy tên là Quốc Gia Việt Nam. Chữ "Quốc Gia" ở đây, dịch từ chữ Etat của tiếng pháp hay State của tiếng Anh, có nghĩa là một nước không có đầy đủ chủ quyền, khác với một nước cộng ḥa chẳng hạn, chứ không có nghĩa là "lấy đất nước và dân tộc làm trọng" đối chọi với chủ nghĩa vô sản quốc tế. Những người "lănh đạo" cái Quốc Gia Việt Nam của Bảo Đại này hoàn toàn không liên hệ ǵ với những lực lượng quốc gia trước đây. Có một vài nhân vật thuộc các lực lượng cách mạng của phe quốc gia đă tham gia với chính quyền Bảo Đại, nhưng đó chỉ là những chọn lựa cá nhân mà thôi. Trong đại bộ phận guồng máy nhà nước của Quốc Gia Việt Nam là những tri phủ, tri huyện, đốc phủ sứ, thông phán của guồng máy thực dân cũ. Họ là những người đă đứng về phía ngoại nhân, chống đối lại cuộc tranh đấu giành chủ quyền dân tộc, những người mà ta có thể xem như những đứa cháu nội, cháu ngoại của cô Tư Hồng. Sự khác biệt này rất quan trọng nhưng cho tới nay ít người nhấn mạnh.