vuitoichat
09-04-2013, 11:35
Trung Quốc nói rằng lịch sử hỗ trợ tuyên bố chủ quyền biển đảo của ḿnh. Nhưng Trung Quốc thực sự có chủ quyền ở những vùng biển đó?
Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền với gần như toàn bộ Biển Đông và đường chủ quyền của họ được in trong hộ chiếu mới của Trung Quốc và bản đồ chính thức. Lănh đạo Trung Quốc và người phát ngôn Bộ Ngoại giao nước họ ngày càng nhấn mạnh rằng các đảo, băi đá, và các rạn san hô ở Biển Đông là “lănh thổ Trung Quốc từ thời cổ đại”. Thông thường, các yêu sách chồng lấn về ranh giới chủ quyền và hàng hải phải được giải quyết thông qua luật pháp quốc tế, tố tụng tại Ṭa án Công lư Quốc tế hoặc Ṭa án Quốc tế về Luật Biển, hoặc ḥa giải theo Phụ lục 7 của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS). Trong khi Trung Quốc đă phê chuẩn UNCLOS và Công ước này băi bỏ tuyên bố chủ quyền “dựa trên lịch sử” nhưng đó là chính là căn cứ mà Bắc Kinh luôn dùng để khẳng định chủ quyền. Vào ngày 04 tháng 9 năm 2012, Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Tŕ nói với Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton rằng có “rất nhiều bằng chứng lịch sử và pháp lư cho thấy Trung Quốc có chủ quyền đối với các đảo ở Biển Đông và các vùng biển lân cận”.
Đa số các chuyên gia luật quốc tế đă kết luận rằng “tuyên bố chủ quyền dựa vào lịch sử” của Trung Quốc về Biển Đông, gồm quản lư chủ quyền và đặc quyền cho phép tàu bè đi lại qua vùng biển này, là phi lư và phi pháp. Các bằng chứng lịch sử của họ, nếu có, đều thiếu tính thuyết phục. Căn cứ Trung Quốc biện minh cho tuyên bố của ḿnh đến ḥn đảo và rạn san hô ở Biển Đông rất mâu thuẫn, ngay cả khi chúng có một chút tương đồng với luận điểm bành trướng mà Hoa Kỳ và các nước đế quốc châu Âu đă áp dụng trong thế kỷ 18-19. Để bảo vệ quan điểm của Trung Quốc trong việc mở rộng biên giới lănh hải của ḿnh bằng cách tuyên bố chủ quyền tại các đảo và rạn san hô ở Biển Đông, giáo sư Gia Kinh Quốc tại Khoa Nghiên cứu Quốc tế tại Đại học Bắc Kinh cho rằng Trung Quốc chỉ đơn thuần làm theo tiền lệ của phương Tây. Gần đây GS Giả c̣n nói với hăng tin AFP rằng “Chuyện này không có ǵ mới: Hoa Kỳ có đảo Guam ở châu Á cách xa Mỹ và người Pháp có các đảo ở Nam Thái B́nh Dương”.
Phân tích sâu hơn về các “bằng chứng lịch sử” trong tuyên bố của Trung Quốc cho thấy trên thực tế lịch sử không đứng về phía họ. Yêu sách của Bắc Kinh đối với quần đảo Trường Sa dựa trên cơ sở lịch sử rằng các vương triều trước đây đă không thực thi chủ quyền tại vùngbiển này. Tại châu Á thời tiền hiện đại, biên giới của các vương triều có đặc điểm là không xác định rơ ràng, không được bảo vệ nghiêm ngặt, và hay thay đổi. Thời đó bá quyền lấn át chủ quyền. Không giống như một quốc gia hiện đại, biên giới của các đế quốc Trung Hoa không được vạch định và tuần tra cẩn thận mà được mô tả như những vùng ranh nhằm bảo vệ trung tâm văn minh Thiên Triều khỏi các bộ tộc man ri ngoại bang. Quan trọng hơn, trong các tranh chấp lănh thổ với láng giềng như Ấn Độ, Miến Điện và Việt Nam, Bắc Kinh luôn xác định rằng ranh giới đất liền của họ không được xác định rơ rành. Nhưng khi nói đến các đảo, băi đá ngầm, và các rạn san hô ở Biển Đông, Bắc Kinh lại tuyên bố ngược lại. Nói cách khác, tuyên bố lịch sử của Trung Quốc rằng ranh giới đất liền của họ là bất định trái ngược hẳn với lập trường của họ rằng biên giới trên biển của Trung Quốc là xác định. Đây là một mâu thuẫn cơ bản không thể chấp nhận trong lập trường của Trung Quốc về ranh giới trên đất liền và trên biển. Trên thực tế, từ những năm giữa thế kỷ 20 Trung Quốc đă tập trung nỗ lực giải quyết mẫu thuẫn biên giới đất liền và biển đảo với các quốc gia láng giếng dựa trên khái niệm biên giới bá quyền. Nói đơn giản, chủ quyền biên giới rơ ràng là một khái niệm không có trong thời cổ đại mà chỉ được xác định với các quốc hiện đại sau giai đoạn đế quốc.
Khái niệm về chủ quyền bắt nguồn từ châu Âu với việc kư kết Hiệp ước Westphalia năm 1648 chứ không phải từ Trung Quốc hoặc châu Á. Đây là một khái niệm cho biên giới trên đất liền và không được áp dụng cho quốc gia ở châu Á và châu Phi cho đến giữa thế kỷ 20. Hệ thống Westphalia dựa trên khái niệm về b́nh đẳng pháp lư hay chủ quyền quốc gia với mốc giới rơ ràng không chỉ khác với quan niệm thời phong kiến ở châu Âu, mà c̣n với các nhà nước bá quyền ở châu Á, Ba Tư, Trung Quốc và Ấn Độ. Trước Hiệp ước Westphalia, các vương quốc ở châu Âu và các nơi khác không tuyên bố và thực thi chủ quyền theo quan điểm hiện nay.
Lịch sử, như chúng ta biết, được viết bởi người chiến thắng, không phải bởi kẻ chiến bại. Biên giới hiện tại của Trung Quốc chủ yếu phản ánh ranh giới được thiết lập trong thời kỳ bành trướng ngoạn mục của nhà Thanh (Măn Châu) trong thế kỷ 18 và dần dần định h́nh như hiện nay (ngoại trừ vùng Ngoại Mông do ảnh hưởng chủ yếu của Liên Xô), sau đó áp dụng hệ thống chủ quyền quốc gia Westphalia trên toàn châu Á trong thế kỷ 19-20. Sử sách chính thống của Trung Quốc ngày nay thường bóp méo tiến tŕnh lịch sử phức tạp này; họ tuyên bố rằng người Mông Cổ, Tây Tạng, Măn Châu, và Hán đều là người Trung Quốc trong khi thực tế Vạn Lư Trường Thành được xây dựng bởi các triều đại Trung Quốc để tránh bị tấn công v́ Mông Cổ và Măn Châu ở phía bắc đă nhiều lần đánh bại người Hán; Vạn Lư Trường Thành thực sự đại diện cho rào chắn an ninh bên ngoài của các vương triều nhà Hán. Trong khi hầu hết các sử gia nh́n rơ rằng cuộc tấn công của quân Mông Cổ do Thành Cát Tư Hăn chỉ đạo trong những năm 1200 là khởi điểm đe dọa sự sống c̣n của nền văn minh cổ đại ở Trung Quốc, Ấn Độ, Ba Tư và các quốc gia khác, người Trung Quốc đă xây dựng một huyền thoại rằng Thành Cát Tư Hăn là người “Trung Quốc”, và do đó tất cả các lănh thổ mà người Mông Cổ (nhà Nguyên) đă chiếm đóng hoặc chinh phục (như Tây Tạng và phần lớn Trung và Nội Á) thuộc về Trung Quốc bằng cách lồng khái niệm về chủ quyền của châu Âu ở thế kỷ mười sáu vào hoàn cảnh Châu Á ở thế kỷ mười hai. Tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc với Đài Loan và Biển Đông cũng dựa trên cơ sở là cả hai đều là một phần của đế chế Măn Châu. (Thực ra, trong bản đồ của nhà Thanh, chỉ có đảo Hải Nam chứ không phải là quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa là lănh thổ Trung Quốc). Trong phiên bản lịch sử này, bất kỳ lănh thổ nào được chinh phục bởi “Người Trung Quốc” trong quá khứ đều là của Trung Quốc, bất biết được chiếm từ bao giờ.
Việc viết đi viết lại lịch sử theo góc độ dân tộc chủ nghĩa để thúc đẩy đoàn kết dân tộc và tăng cường tính hợp pháp của chế độ được coi là ưu tiên cao nhất của lănh đạo Trung Quốc từ cả hai phe: Quốc gia và Cộng Sản. Lănh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc cho ḿnh là người thừa kế di sản của đế quốc Trung Hoa và thường sử dụng các biểu tượng và cách phát ngôn như là Thiên Triều. Từ sách giáo khoa tiểu học đến phim truyền h́nh lịch sử, hệ thống thông tin do nhà nước kiểm soát đă nhồi nhét các thế hệ người Trung Quốc những tư tưởng về một đế chế Trung Hoa vĩ đại. Khi nhà Hán học người Úc Geremie Barmé chỉ ra rằng, “Chính sách giáo dục và tuyên truyền của Trung Quốc trong nhiều thập kỷ đă nhấn mạnh vai tṛ của lịch sử tới sự tồn vong của nhà nước Trung Quốc… trong khi chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông đă bị bỏ rơi hoàn toàn trừ cái tên, vai tṛ của lịch sử trong tương lai của Trung Quốc vẫn rất kiên định”. V́ vậy, các viện nghiên cứu, truyền thông đại chúng, và các cơ quan giáo dục do nhà nước kiểm soát đă ngụy tạo nhiều chứng cứ lịch sử như một công cụ bành trướng (điều này c̣n được gọi là “xâm lược bằng bản đồ” ).
Trung Quốc cũng sử dụng văn hóa dân gian, thần thoại, truyền thuyết, dă sử, để củng cố yêu sách lănh thổ và hàng hải lớn hơn và để tạo ra “thực tế” về biên giới trên đất liền và trên biển. Sách giáo khoa Trung Quốc giao giảng quan điểm rằng Thiên Triều là trung tâm vũ trụ có nền văn minh lâu đời nhất và tiên tiến nhất; các nước nhỏ xunh quanh đă bị Hán hóa một phần ở Đông và Đông Nam Á luôn phải khấu đầu tôn kính. Phiên bản của lịch sử Trung Quốc thường cố t́nh làm mờ đi sự khác biệt giữa ảnh hưởng bá quyền, quan hệ triều cống, quyền bá chủ ranh giới, thực tế kiểm soát lănh thổ. Theo quan điểm ai đă làm chủ trong quá khứ th́ kiểm soát được hiện tại hoạch định tương lai của ḿnh, Bắc Kinh luôn đánh giá cao “lá bài lịch sử” (xem xét các chứng cứ lịch sử đă được viết lại) trong các nỗ lực ngoại giao để đạt được mục tiêu đối ngoại, đặc biệt là để khai thác nhượng bộ lănh thổ từ các nước khác. Không lúc này th́ lúc khác, hầu như tất cả các nước tiếp giáp với Trung Quốc như Mông Cổ, Tây Tạng, Miến Điện, Hàn Quốc, Nga, Ấn Độ, Việt Nam, Philippines và Đài Loan đều bị chèn ép hoặc bằng quân sự hoặc theo quan điểm lịch sử viết lại của Trung Quốc. Martin Jacques đă lưu ư trong cuốn Khi Trung Quốc Thống Trị Thế Giới rằng “dân tộc chủ nghĩa ở Trung Quốc hiện nay có h́nh hài và thể thức của Đế quốc Trung Hoa”. Nếu không được kiểm soát, sự ngạo mạn đế quốc hoặc nỗi khát khao trở lại quá khứ hào hùng có thể có dẫn đến những hậu quả khôn lường với ḥa b́nh và ổn định trong khu vực.
Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền với gần như toàn bộ Biển Đông và đường chủ quyền của họ được in trong hộ chiếu mới của Trung Quốc và bản đồ chính thức. Lănh đạo Trung Quốc và người phát ngôn Bộ Ngoại giao nước họ ngày càng nhấn mạnh rằng các đảo, băi đá, và các rạn san hô ở Biển Đông là “lănh thổ Trung Quốc từ thời cổ đại”. Thông thường, các yêu sách chồng lấn về ranh giới chủ quyền và hàng hải phải được giải quyết thông qua luật pháp quốc tế, tố tụng tại Ṭa án Công lư Quốc tế hoặc Ṭa án Quốc tế về Luật Biển, hoặc ḥa giải theo Phụ lục 7 của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS). Trong khi Trung Quốc đă phê chuẩn UNCLOS và Công ước này băi bỏ tuyên bố chủ quyền “dựa trên lịch sử” nhưng đó là chính là căn cứ mà Bắc Kinh luôn dùng để khẳng định chủ quyền. Vào ngày 04 tháng 9 năm 2012, Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Tŕ nói với Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton rằng có “rất nhiều bằng chứng lịch sử và pháp lư cho thấy Trung Quốc có chủ quyền đối với các đảo ở Biển Đông và các vùng biển lân cận”.
Đa số các chuyên gia luật quốc tế đă kết luận rằng “tuyên bố chủ quyền dựa vào lịch sử” của Trung Quốc về Biển Đông, gồm quản lư chủ quyền và đặc quyền cho phép tàu bè đi lại qua vùng biển này, là phi lư và phi pháp. Các bằng chứng lịch sử của họ, nếu có, đều thiếu tính thuyết phục. Căn cứ Trung Quốc biện minh cho tuyên bố của ḿnh đến ḥn đảo và rạn san hô ở Biển Đông rất mâu thuẫn, ngay cả khi chúng có một chút tương đồng với luận điểm bành trướng mà Hoa Kỳ và các nước đế quốc châu Âu đă áp dụng trong thế kỷ 18-19. Để bảo vệ quan điểm của Trung Quốc trong việc mở rộng biên giới lănh hải của ḿnh bằng cách tuyên bố chủ quyền tại các đảo và rạn san hô ở Biển Đông, giáo sư Gia Kinh Quốc tại Khoa Nghiên cứu Quốc tế tại Đại học Bắc Kinh cho rằng Trung Quốc chỉ đơn thuần làm theo tiền lệ của phương Tây. Gần đây GS Giả c̣n nói với hăng tin AFP rằng “Chuyện này không có ǵ mới: Hoa Kỳ có đảo Guam ở châu Á cách xa Mỹ và người Pháp có các đảo ở Nam Thái B́nh Dương”.
Phân tích sâu hơn về các “bằng chứng lịch sử” trong tuyên bố của Trung Quốc cho thấy trên thực tế lịch sử không đứng về phía họ. Yêu sách của Bắc Kinh đối với quần đảo Trường Sa dựa trên cơ sở lịch sử rằng các vương triều trước đây đă không thực thi chủ quyền tại vùngbiển này. Tại châu Á thời tiền hiện đại, biên giới của các vương triều có đặc điểm là không xác định rơ ràng, không được bảo vệ nghiêm ngặt, và hay thay đổi. Thời đó bá quyền lấn át chủ quyền. Không giống như một quốc gia hiện đại, biên giới của các đế quốc Trung Hoa không được vạch định và tuần tra cẩn thận mà được mô tả như những vùng ranh nhằm bảo vệ trung tâm văn minh Thiên Triều khỏi các bộ tộc man ri ngoại bang. Quan trọng hơn, trong các tranh chấp lănh thổ với láng giềng như Ấn Độ, Miến Điện và Việt Nam, Bắc Kinh luôn xác định rằng ranh giới đất liền của họ không được xác định rơ rành. Nhưng khi nói đến các đảo, băi đá ngầm, và các rạn san hô ở Biển Đông, Bắc Kinh lại tuyên bố ngược lại. Nói cách khác, tuyên bố lịch sử của Trung Quốc rằng ranh giới đất liền của họ là bất định trái ngược hẳn với lập trường của họ rằng biên giới trên biển của Trung Quốc là xác định. Đây là một mâu thuẫn cơ bản không thể chấp nhận trong lập trường của Trung Quốc về ranh giới trên đất liền và trên biển. Trên thực tế, từ những năm giữa thế kỷ 20 Trung Quốc đă tập trung nỗ lực giải quyết mẫu thuẫn biên giới đất liền và biển đảo với các quốc gia láng giếng dựa trên khái niệm biên giới bá quyền. Nói đơn giản, chủ quyền biên giới rơ ràng là một khái niệm không có trong thời cổ đại mà chỉ được xác định với các quốc hiện đại sau giai đoạn đế quốc.
Khái niệm về chủ quyền bắt nguồn từ châu Âu với việc kư kết Hiệp ước Westphalia năm 1648 chứ không phải từ Trung Quốc hoặc châu Á. Đây là một khái niệm cho biên giới trên đất liền và không được áp dụng cho quốc gia ở châu Á và châu Phi cho đến giữa thế kỷ 20. Hệ thống Westphalia dựa trên khái niệm về b́nh đẳng pháp lư hay chủ quyền quốc gia với mốc giới rơ ràng không chỉ khác với quan niệm thời phong kiến ở châu Âu, mà c̣n với các nhà nước bá quyền ở châu Á, Ba Tư, Trung Quốc và Ấn Độ. Trước Hiệp ước Westphalia, các vương quốc ở châu Âu và các nơi khác không tuyên bố và thực thi chủ quyền theo quan điểm hiện nay.
Lịch sử, như chúng ta biết, được viết bởi người chiến thắng, không phải bởi kẻ chiến bại. Biên giới hiện tại của Trung Quốc chủ yếu phản ánh ranh giới được thiết lập trong thời kỳ bành trướng ngoạn mục của nhà Thanh (Măn Châu) trong thế kỷ 18 và dần dần định h́nh như hiện nay (ngoại trừ vùng Ngoại Mông do ảnh hưởng chủ yếu của Liên Xô), sau đó áp dụng hệ thống chủ quyền quốc gia Westphalia trên toàn châu Á trong thế kỷ 19-20. Sử sách chính thống của Trung Quốc ngày nay thường bóp méo tiến tŕnh lịch sử phức tạp này; họ tuyên bố rằng người Mông Cổ, Tây Tạng, Măn Châu, và Hán đều là người Trung Quốc trong khi thực tế Vạn Lư Trường Thành được xây dựng bởi các triều đại Trung Quốc để tránh bị tấn công v́ Mông Cổ và Măn Châu ở phía bắc đă nhiều lần đánh bại người Hán; Vạn Lư Trường Thành thực sự đại diện cho rào chắn an ninh bên ngoài của các vương triều nhà Hán. Trong khi hầu hết các sử gia nh́n rơ rằng cuộc tấn công của quân Mông Cổ do Thành Cát Tư Hăn chỉ đạo trong những năm 1200 là khởi điểm đe dọa sự sống c̣n của nền văn minh cổ đại ở Trung Quốc, Ấn Độ, Ba Tư và các quốc gia khác, người Trung Quốc đă xây dựng một huyền thoại rằng Thành Cát Tư Hăn là người “Trung Quốc”, và do đó tất cả các lănh thổ mà người Mông Cổ (nhà Nguyên) đă chiếm đóng hoặc chinh phục (như Tây Tạng và phần lớn Trung và Nội Á) thuộc về Trung Quốc bằng cách lồng khái niệm về chủ quyền của châu Âu ở thế kỷ mười sáu vào hoàn cảnh Châu Á ở thế kỷ mười hai. Tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc với Đài Loan và Biển Đông cũng dựa trên cơ sở là cả hai đều là một phần của đế chế Măn Châu. (Thực ra, trong bản đồ của nhà Thanh, chỉ có đảo Hải Nam chứ không phải là quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa là lănh thổ Trung Quốc). Trong phiên bản lịch sử này, bất kỳ lănh thổ nào được chinh phục bởi “Người Trung Quốc” trong quá khứ đều là của Trung Quốc, bất biết được chiếm từ bao giờ.
Việc viết đi viết lại lịch sử theo góc độ dân tộc chủ nghĩa để thúc đẩy đoàn kết dân tộc và tăng cường tính hợp pháp của chế độ được coi là ưu tiên cao nhất của lănh đạo Trung Quốc từ cả hai phe: Quốc gia và Cộng Sản. Lănh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc cho ḿnh là người thừa kế di sản của đế quốc Trung Hoa và thường sử dụng các biểu tượng và cách phát ngôn như là Thiên Triều. Từ sách giáo khoa tiểu học đến phim truyền h́nh lịch sử, hệ thống thông tin do nhà nước kiểm soát đă nhồi nhét các thế hệ người Trung Quốc những tư tưởng về một đế chế Trung Hoa vĩ đại. Khi nhà Hán học người Úc Geremie Barmé chỉ ra rằng, “Chính sách giáo dục và tuyên truyền của Trung Quốc trong nhiều thập kỷ đă nhấn mạnh vai tṛ của lịch sử tới sự tồn vong của nhà nước Trung Quốc… trong khi chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông đă bị bỏ rơi hoàn toàn trừ cái tên, vai tṛ của lịch sử trong tương lai của Trung Quốc vẫn rất kiên định”. V́ vậy, các viện nghiên cứu, truyền thông đại chúng, và các cơ quan giáo dục do nhà nước kiểm soát đă ngụy tạo nhiều chứng cứ lịch sử như một công cụ bành trướng (điều này c̣n được gọi là “xâm lược bằng bản đồ” ).
Trung Quốc cũng sử dụng văn hóa dân gian, thần thoại, truyền thuyết, dă sử, để củng cố yêu sách lănh thổ và hàng hải lớn hơn và để tạo ra “thực tế” về biên giới trên đất liền và trên biển. Sách giáo khoa Trung Quốc giao giảng quan điểm rằng Thiên Triều là trung tâm vũ trụ có nền văn minh lâu đời nhất và tiên tiến nhất; các nước nhỏ xunh quanh đă bị Hán hóa một phần ở Đông và Đông Nam Á luôn phải khấu đầu tôn kính. Phiên bản của lịch sử Trung Quốc thường cố t́nh làm mờ đi sự khác biệt giữa ảnh hưởng bá quyền, quan hệ triều cống, quyền bá chủ ranh giới, thực tế kiểm soát lănh thổ. Theo quan điểm ai đă làm chủ trong quá khứ th́ kiểm soát được hiện tại hoạch định tương lai của ḿnh, Bắc Kinh luôn đánh giá cao “lá bài lịch sử” (xem xét các chứng cứ lịch sử đă được viết lại) trong các nỗ lực ngoại giao để đạt được mục tiêu đối ngoại, đặc biệt là để khai thác nhượng bộ lănh thổ từ các nước khác. Không lúc này th́ lúc khác, hầu như tất cả các nước tiếp giáp với Trung Quốc như Mông Cổ, Tây Tạng, Miến Điện, Hàn Quốc, Nga, Ấn Độ, Việt Nam, Philippines và Đài Loan đều bị chèn ép hoặc bằng quân sự hoặc theo quan điểm lịch sử viết lại của Trung Quốc. Martin Jacques đă lưu ư trong cuốn Khi Trung Quốc Thống Trị Thế Giới rằng “dân tộc chủ nghĩa ở Trung Quốc hiện nay có h́nh hài và thể thức của Đế quốc Trung Hoa”. Nếu không được kiểm soát, sự ngạo mạn đế quốc hoặc nỗi khát khao trở lại quá khứ hào hùng có thể có dẫn đến những hậu quả khôn lường với ḥa b́nh và ổn định trong khu vực.