Gibbs
12-10-2014, 13:06
Quan hệ song hành giữa chính phủ với chính phủ và đảng với đảng là tàn dư của một thời đã qua. Trong những năm trước và sau Thế Chiến thứ Hai, quan hệ giữa đảng với đảng có thể hữu ích, khi một đảng cùng ý thức hệ chưa nắm được chính quyền. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, quan hệ giữa đảng với đảng trong khối cộng sản là keo sơn để Liên Xô củng cố quyền lãnh đạo, và để Trung Quốc tìm hậu thuẫn thách đố quyền lãnh đạo ấy khi có xung đột giữa Bắc Kinh và Moscow.
http://vietsn.com/forum/attachment.php?attac hmentid=704888&stc=1&d=1418216709
Kể từ khi Bức Tường Bá Linh sụp đổ cách đây 25 năm, số nước cộng sản còn tồn tại chỉ như bàn tay năm ngón. Đấy là chưa kể chế độ cộng sản hình thức mà trong bản chất chỉ là chế độ độc tài độc đảng như Trung Quốc tư bản đỏ và Việt Nam với nền “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Cả thế giới còn lại, hầu hết chỉ có quan hệ giữa chính phủ với chính phủ trong bang giao quốc tế.
Trong vấn đề Giàn khoan HD 981 hồi giữa năm 2014, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu tiếp xúc nhưng Tổng bí thư Tập Cận Bình làm ngơ. Các chuyến đi qua lại của sứ giả Dương Khiết Trì và Lê Hồng Anh sau đó chỉ nhằm áp đặt và chấp nhận việc “khôi phục” một quan hệ được coi là bất bình đẳng. Vậy thì quan hệ song hành giữa hai Đảng Cộng Sản Trung Quốc và Việt Nam phục vụ quyền lợi của ai?
Trong thế giới đa cực ngày nay, một nước nhỏ trung thành với một nước lớn để “bảo vệ xã hội chủ nghĩa”, trói buộc mình vào một quan hệ đặc biệt 16 chữ vàng và tự cô lập về mặt an ninh quốc phòng, thì chính sách “Ba Không” phục vụ quyền lợi của ai?
Từ hai câu hỏi trên, chúng ta có thể đặt vấn đề: Khi tầm nhìn chiến lược mới đang thành hình trong khu vực vì yếu tố Trung Quốc, Việt Nam cần thích nghi thế nào trong thập niên thứ nhì của Thế Kỷ Châu Á?
Bước vào ngưỡng cửa năm 2015 với những chỉ dấu đang phát hiện, chúng ta thử hình dung một thế giới đa cực mà vùng Châu Á-Ấn Độ-Thái Bình Dương nói chung và Biển Đông nói riêng, sẽ nhìn thấy sự thách đố, cạnh tranh và hợp tác giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trở nên quyết liệt hơn, phức tạp hơn, và bàn cờ chiến lược có thêm hai tác nhân mới: Liên Bang Nga trở lại khu vực với hi vọng khôi phục thời kỳ huy hoàng cũ, và Ấn Độ đẩy mạnh hơn chính sách Hướng Đông trong nỗ lực mới nhằm cải thiện tư thế cường quốc toàn vùng, chớ không chỉ là một cường quốc Ấn Độ Dương.
Về mặt nhân sự lãnh đạo trong bối cảnh phức tạp này, chúng ta có một vài ẩn số bất định và một vài tác nhân không thay đổi.
Vài Ẩn Số và Tác Nhân Tại Vị
Trừ phi có những biến đổi bất thường, Ông Tập Cận Bình sẽ tiếp tục cầm quyền tại Trung Quốc, đại cường độc tài cộng sản đang trỗi dậy kinh tế và quân sự, và Ông Vladimir Putin, tại Liên Bang Nga, một siêu cường độc tài cộng sản trong thời kỳ chiến tranh lạnh đang được khôi phục vị thế như là một cường quốc độc tài.
Ông Tập Cận Bình / Xi Jinping (sinh năm 1953) được bầu làm Tổng Bí Thư trong Đại hội 18 của Đảng Cộng sản Trung Quốc hồi tháng 12 năm 2012. Ông trở thành Chủ tịch Nhà nước hồi tháng 3 năm 2013 và nắm giữ chức vụ then chốt Chủ tịch Quân ủy Trung ương. Nhân vật thứ nhì tại Bắc Kinh là Thủ tướng Lý Khắc Cường / Li keqiang (sinh năm 1955). Tập Cận Bình và Lý Khắc Cường hầu như sẽ được bầu lại vào chức vụ đương nhiệm trong Đại hội Đảng thứ 19 dự trù được tổ chức vào năm 2017. Trọn thời gian 2 nhiệm kỳ, họ sẽ lãnh đạo Trung Quốc trong 10 năm cho đến 2022.
Tổng thống Vladimir Putin (sinh năm 1952) bắt đầu nhiệm kỳ 6 năm kể từ 2012. Trước đó, ông đã từng làm tổng thống 2 nhiệm kỳ từ 2000 đến 2008. Do giới hạn của hiến pháp lúc bấy giờ, ông đã không thể tiếp tục nhiệm kỳ thứ 3, nên tạm thời làm thủ tướng, để tái tranh cử tổng thống với nhiệm kỳ 6 năm, sau khi ông đã thay đổi được hiến pháp. Nếu phục vụ 2 nhiệm kỳ lần này, Putin sẽ cai trị Liên Bang Nga cho đến năm 2024.
Yếu tố bất định là các cường quốc dân chủ như Hoa Kỳ, Ấn Độ và Nhật Bản, tuy rằng Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng chia sẻ ẩn số nầy.
Khác với Trung Quốc, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam ít khi chuẩn bị công khai người kế nhiệm. Tại Bắc Kinh, Phó Chủ tịch Tập Cận Bình đã được coi là người kế nhiệm Chủ tịch kiêm Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào, lúc ông được bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương khoảng 2 năm tiền đại hội.
Trái lại ở Việt Nam, chỉ còn 2 năm nữa là Đại hội Đảng kỳ thứ 12 dự trù được tổ chức vào năm 2016 mà không ai trong nhóm quyền lực Bộ Chính Trị 16 người được coi là kế nhiệm Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (sinh năm 1944), Chủ tịch nước Trương Tấn Sang (sinh năm1949), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (sinh năm 1949), và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng (sinh năm 1946). Đảng có điều lệ qui định thành viên nghỉ hưu ở tuổi 65, nhưng không phải lúc nào cũng áp dụng. Hồi năm 2011, ông Nguyễn Phú Trọng đắc cử Tổng bí thư và Ông Nguyễn Sinh Hùng, Chủ tịch Quốc hội, lúc đã ngoài tuổi 65.
Không kể bốn nhân vật chóp bu mà một hoặc hai có thể được lưu nhiệm hoặc được cử chức vụ khác trong Bộ Chính Trị, những thành viên sau đây sẽ ngoài 65 tuổi vào năm 2016: Tô Huy Rứa (1947), Ngô Văn Dụ (1947), Lê Hồng Anh (1949), Phùng Quang Thanh (1949), Phạm Quang Nghị (1949) và Lê Thanh Hải (1950). Những người trẻ hơn gồm: Nguyễn Thiện Nhân (1953), Đinh Thế Huynh (1953), Nguyễn Thị Kim Ngân (1954), Tòng Thị Phóng (1954), Nguyễn Xuân Phúc (1954) và Trần Đại Quang (1956).
Nếu áp dụng đúng điều lệ về tuổi tác, Bộ Chính trị sẽ phải có 9 hoặc 10 thành viên mới, nhưng biết đâu điều bất ngờ lại xảy ra trong hậu trường chinh trị Việt Nam trong năm 2016. Người ta chú ý đến một cuộc bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội ngày 15.11.2014 mà kết quả cho thấy ông Nguyễn Tấn Dũng đã gia tăng số phiếu đáng kể (320/480 tức là gần 65% tín nhiệm), so với số phiếu tín nhiệm rất thấp hồi năm trước.
Trong số các nước lớn dân chủ, Nhật Bản là quốc gia khó dự đoán hơn cả, vì chính phủ tại Tokyo ít khi tồn tại hơn 5 năm, ngay cả khi Đảng Tự do Dân chủ (Liberal Democratic Party – LDP) tiếp tục cầm quyền. LDP là thế lực chính trị bảo thủ, cầm quyền gần như liên tục tại Nhật Bản trên 5 thập niên kể từ khi được thành lập hồi năm 1955. Thủ tướng Shinzo Abe (sinh năm 1954) là lãnh tụ thiên hữu của đảng chính trị bảo thủ này từ cuối năm 2012. Ông đã từng làm thủ tướng trong một thời gian ngắn hồi năm 2006-07.
Cũng là một chính trị gia thiên hữu và có tầm nhìn địa lý chính trị khu vực không khác nhiều với Ông Shinzo Abe là Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi (sinh năm 1950) của Đảng BJP (Bharatiya Janata Party). Đảng BJP, cũng là một thế lực chính trị bảo thủ mà Ông Modi là lãnh tụ, đã đánh bại Đảng Quốc đại (Congress Party có khuynh hướng trung-tả) với một đa số rõ rệt trong cuộc bầu cử quốc hội tháng 5 năm 2014. Nếu Ông Modi phục vụ hai nhiệm kỳ quốc hội tối đa 10 năm, thì ông sẽ là đối tác trên chính trường quốc tế với Ông Tập Cận Bình và Ông Putin cho đến đầu thập niên 2020.
Tại Mỹ, Tổng thống Barack Obama đang bước vào 2 năm cuối của nhiệm kỳ thứ nhì. Vì không thể tranh cử vào năm 2016, nên chẳng mấy chốc Ông Obama sẽ bị coi là “lame duck” trên chính trường quốc nội và quốc tế. Kiểm soát được cả Hạ Viện và Thượng Viện Mỹ sau cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ hồi đầu tháng 11 năm 2014, Đảng Cộng hòa sẽ tạo thêm nhiều khó khăn cho Tổng thống Obama thuộc Đảng Dân chủ.
Tiến trình bầu cử tổng thống Mỹ kéo dài khá lâu và người ta không thể biết được trong năm 2015 ai sẽ làm ứng cử viên Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ vào tháng 11 năm 2016 để tranh nhau quyền kế vị Ông Obama. Nhìn từ động thái của chính phủ Tony Abbott tại Australia, ứng cử viên có thể là cựu Ngoại trưởng Hillary Clinton (sinh năm 1947) đại diện Đảng Dân chủ và Ông Jeb Bush (sinh năm 1953), cựu Thống đốc Đảng Cộng hòa tại Tiểu Bang Florida. Ông Jeb Bush là em của cựu Tổng thống George W Bush và con của cựu Tổng thống George H Bush.
Ông Jeb Bush chưa trình bày rõ quan điểm về Châu Á-Ấn Độ-Thái Bình Dương, nhưng Bà Hillary Clinton là chính trị gia Mỹ có quan tâm nhiều về khu vực này và ủng hộ mạnh mẽ chiến lược tái định vị (pivot or rebalance) và Hiệp định Hợp tác xuyên Thái Bình Dương (Trans Pacific Partnership – TPP) của Tổng Thống Obama. Nếu được chọn làm ứng cử viên và chiến thắng 2 nhiệm kỳ tổng thống, một trong hai chính trị gia này sẽ đương đầu với ông Tập Cận Bình và ông Putin trong 8 năm cho đến 2024.
Chiến Lược và Chính sách: Thông Điệp mâu thuẫn của Bắc Kinh
Nhìn chung, yếu tố Trung Quốc là điểm nổi bật chi phối hầu hết các sinh hoạt an ninh quốc phòng và kinh tế thương mại khu vực trên căn bản song phương và đa phương, kể cả trong vấn đề tranh chấp tại Biển Hoa Đông (East China Sea) giữa Tokyo và Bắc Kinh, và Biển Đông còn được gọi là Biển Hoa Nam (South China Sea) giữa Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Philippines, Brunei, Malaysia và một phần nào đó, Indonesia.
Tuy đây là vấn đề tồn đọng từ cả mấy chục năm nay, chính sách căn bản của các nước lớn, nhỏ trực tiếp hoặc gián tiếp có tranh chấp được xác nhận lại, hoặc được công bố, hay thảo luận tại ba hội nghị thượng đỉnh quan trọng trong tháng 11 năm 2014: Đó là Diễn đàn Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC) tại Bắc Kinh, Đông Á tại Nay Pyi Taw, Miến Điện / Myanmar và G 20 tại Brisbane, Australia.
Tất cả tác nhân chính yếu đều có mặt tại ba diễn đàn này, ngoại trừ Thủ tướng Modi không tham dự APEC, một phần vì Ấn Độ chưa phải là thành viên. Ông Trương Tấn Sang có mặt tại Hội nghị APEC (và TPP bên lề Hội nghị APEC) và ông Nguyễn Tấn Dũng, Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á. Việt Nam không phải là thành viên và không được mời tham dự Hội nghị G 20.
Với tư cách chủ nhà, ông Tập Cận Bình đã tận dụng mọi cơ hội trước và trong Hội nghị APEC để cải thiện vai trò lãnh đạo của Trung Quốc, bằng cách công bố, phát động sáng kiến mới như Ngân hàng Đầu tư Hạ tầng Châu Á (AIIB) và khởi động nghiên cứu Vùng Tự do mậu dịch toàn châu Á Thái Bình Dương (FTAAP). Nếu thành công, đây có thể là hai cấu trúc mới hữu ích, nhưng Trung Quốc đâu phải là công dân thế giới vô vị lợi.
Tất nhiên Châu Á cần đầu tư để phát triển hạ tầng cơ sở, nhưng Ngân hàng AIIB tại Thượng Hải sẽ cạnh tranh với Ngân hàng Thế giới (The World Bank) tại Washington DC do Mỹ lãnh đạo và Ngân hàng Phát triển Á châu (ADB) tại Manila do Nhật Bản điều hành. Vùng tự do mậu dịch FTAAP được 21 nền kinh tế thành viên APEC ủng hộ nhưng người ta chưa biết rõ cấu trúc mới này, nếu được thành lập, sẽ vận hành như thế nào bên cạnh TPP do Mỹ lãnh đạo và Đối tác Toàn diện Kinh tế Khu vực (Regional Comprehensive Economic Partnership – RCEP) do chính Trung Quốc triệu tập tại Hội nghi thượng đỉnh Đông Á ở Phnom Penh, Cambodia, hồi cuối năm 2012.
Mặt khác cũng với đặc quyền của nước chủ nhà, ông Tập Cận Bình loại bỏ ra khỏi nghị trình vấn đề tranh chấp tại Biển Hoa Đông và Biển Đông. Những năm trước đây, hai vấn đề này thường được thảo luận tại Hội nghị APEC, mặc dầu có sự chống đối của ông Hồ Cẩm Đào, hoặc Thủ tướng Ôn Gia Bảo.
Quan sát các động thái của Trung Quốc tại ba hội nghị thượng đỉnh, người ta không thể không thấy sự xoay chiều chiến lược khá rõ rệt. Ông Tập Cận Bình tại APEC và G 20 – và Ông Lý Khắc Cường tại Miến Điện – đều đóng vai chính khách hoà bình, cổ xúy một nước Trung Hoa trỗi dậy hoà bình đem lại phúc lợi cho dân tộc Trung Hoa yêu chuộng hoà bình, như được thể hiện trong “Giấc Mơ Trung Quốc” mà ông Tập Cận Bình đã nhiều lần nhắc nhở. Trong chuyến công du cấp nhà nước tại Australia sau Hội nghị G 20, ông Tập Cậ́n Bình còn xác quyết rằng “Trung Quốc sẽ không sử dụng võ lực để giải quyết tranh chấp”. Tại Hội nghị Đông Á, Ông Lý Khắc Cường cũng nói rằng Trung Quốc sẵn sàng ký kết một hiệp ước thân hữu với mười thành viên Asean.
Thế nhưng trong thực tế, Bắc Kinh đã đơn phương áp đặt vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) tại Biển Hoa Đông hồi tháng 11 năm 2013 và sẵn sàng sử dụng không quân và hải quân để xác quyết chủ quyền Đảo Điếu Ngư mà Nhật Bản quản trị với tên gọi là Đảo Senkaku. Tại Biển Đông, Trung Quốc chưa hề tuyên bố từ bỏ ý định thiết lập một vùng nhận dạng phòng không tương tự.
Tại Biển Đông, Bắc Kinh cũng không hoặc chưa cần sử dụng võ lực, sau khi đã quân sự hóa đội tàu hải giám, kiểm ngư và hải cảnh theo phương thức “chiến hạm vỏ trắng”.
Điều này đã hiển nhiên khi Bắc Kinh phô trương lực lượng để uy hiếp Việt Nam và bảo vệ Giàn khoan HD 981 được hạ đặt phi pháp trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) Việt Nam từ đầu tháng 5 đến giữa tháng 7 năm 2014.
Bắc Kinh còn sử dụng sức mạnh kỹ thuật và nguồn tài nguyên lớn lao tạo lập nhiều đảo nhân tạo, chẳng hạn như tại Đá Gạc Ma (Johnson South Reef) , Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef), Đá Châu Viên (Cuateron Reef), ̣Đá Ga Ven và Đá Lạc (Gaven Reefs) thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Tại Đảo Phú Lâm (Woody Island) thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam và tại Đá Gạc Ma và Đá Chữ Thập, Bắc Kinh còn xây dựng sân bay mà Không quân Trung Quốc có thể sử dụng trong tương lai. Đây là mối đe dọa quân sự không những đối với Việt Nam, Philippines mà còn đối với nền an ninh của Australia và các nước khác chung quanh Biển Đông.
Một khái niệm an ninh được manh nha khi ông Tập Cận Bình bắt đầu nhiệm kỳ lãnh đạo và được ông diễn đạt nhiều lần và mỗi lần một rõ hơn bên lề Hội nghị APEC. Đó là “người Á Châu phải trách nhiệm cho nền an ninh Châu Á”. Thật ra, đây là mật khẩu cho một sách lược có lẽ đã được Trung Quốc chuẩn bị từ lâu và thực hiện khi thời cơ thuận lợi. Chiêu bài này biểu lộ tham vọng bá quyền của Bắc Kinh. Ông Đặng Tiểu Bình bắt đầu kế hoạch canh tân Trung Quốc hồi năm 1978 với một cung cách thích hợp khi chưa đủ mạnh là Trung Quốc phải che đậy “hào quang”. Ngày nay, Trung Quốc là cường quốc kinh tế thứ nhì thế giới và có thể qua mặt nước Mỹ trong thập niên tới, thì Bắc Kinh không cần che đậy hào quang nữa.
Trái với những phát biểu đậm đà mỹ từ ngoại giao, mục tiêu tối hậu của Bắc Kinh vẫn là đẩy lùi ảnh hưởng của Hoa Kỳ ra khỏi vùng Châu Á Thái Bình Dương, hay ít ra là giảm dần tầm ảnh hưởng của Mỹ và đồng thời tăng dần ảnh hưởng của Trung Quốc, bằng cả quyền lực cứng (sức mạnh quân sự) cũng như quyền lực mềm (sức mạnh kinh tế, chính trị, ngoại giao).
Thông điệp của Trung Quốc đầy mâu thuẩn, vì lời nói và hành động tương phản.
http://vietsn.com/forum/attachment.php?attac hmentid=704888&stc=1&d=1418216709
Kể từ khi Bức Tường Bá Linh sụp đổ cách đây 25 năm, số nước cộng sản còn tồn tại chỉ như bàn tay năm ngón. Đấy là chưa kể chế độ cộng sản hình thức mà trong bản chất chỉ là chế độ độc tài độc đảng như Trung Quốc tư bản đỏ và Việt Nam với nền “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Cả thế giới còn lại, hầu hết chỉ có quan hệ giữa chính phủ với chính phủ trong bang giao quốc tế.
Trong vấn đề Giàn khoan HD 981 hồi giữa năm 2014, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu tiếp xúc nhưng Tổng bí thư Tập Cận Bình làm ngơ. Các chuyến đi qua lại của sứ giả Dương Khiết Trì và Lê Hồng Anh sau đó chỉ nhằm áp đặt và chấp nhận việc “khôi phục” một quan hệ được coi là bất bình đẳng. Vậy thì quan hệ song hành giữa hai Đảng Cộng Sản Trung Quốc và Việt Nam phục vụ quyền lợi của ai?
Trong thế giới đa cực ngày nay, một nước nhỏ trung thành với một nước lớn để “bảo vệ xã hội chủ nghĩa”, trói buộc mình vào một quan hệ đặc biệt 16 chữ vàng và tự cô lập về mặt an ninh quốc phòng, thì chính sách “Ba Không” phục vụ quyền lợi của ai?
Từ hai câu hỏi trên, chúng ta có thể đặt vấn đề: Khi tầm nhìn chiến lược mới đang thành hình trong khu vực vì yếu tố Trung Quốc, Việt Nam cần thích nghi thế nào trong thập niên thứ nhì của Thế Kỷ Châu Á?
Bước vào ngưỡng cửa năm 2015 với những chỉ dấu đang phát hiện, chúng ta thử hình dung một thế giới đa cực mà vùng Châu Á-Ấn Độ-Thái Bình Dương nói chung và Biển Đông nói riêng, sẽ nhìn thấy sự thách đố, cạnh tranh và hợp tác giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trở nên quyết liệt hơn, phức tạp hơn, và bàn cờ chiến lược có thêm hai tác nhân mới: Liên Bang Nga trở lại khu vực với hi vọng khôi phục thời kỳ huy hoàng cũ, và Ấn Độ đẩy mạnh hơn chính sách Hướng Đông trong nỗ lực mới nhằm cải thiện tư thế cường quốc toàn vùng, chớ không chỉ là một cường quốc Ấn Độ Dương.
Về mặt nhân sự lãnh đạo trong bối cảnh phức tạp này, chúng ta có một vài ẩn số bất định và một vài tác nhân không thay đổi.
Vài Ẩn Số và Tác Nhân Tại Vị
Trừ phi có những biến đổi bất thường, Ông Tập Cận Bình sẽ tiếp tục cầm quyền tại Trung Quốc, đại cường độc tài cộng sản đang trỗi dậy kinh tế và quân sự, và Ông Vladimir Putin, tại Liên Bang Nga, một siêu cường độc tài cộng sản trong thời kỳ chiến tranh lạnh đang được khôi phục vị thế như là một cường quốc độc tài.
Ông Tập Cận Bình / Xi Jinping (sinh năm 1953) được bầu làm Tổng Bí Thư trong Đại hội 18 của Đảng Cộng sản Trung Quốc hồi tháng 12 năm 2012. Ông trở thành Chủ tịch Nhà nước hồi tháng 3 năm 2013 và nắm giữ chức vụ then chốt Chủ tịch Quân ủy Trung ương. Nhân vật thứ nhì tại Bắc Kinh là Thủ tướng Lý Khắc Cường / Li keqiang (sinh năm 1955). Tập Cận Bình và Lý Khắc Cường hầu như sẽ được bầu lại vào chức vụ đương nhiệm trong Đại hội Đảng thứ 19 dự trù được tổ chức vào năm 2017. Trọn thời gian 2 nhiệm kỳ, họ sẽ lãnh đạo Trung Quốc trong 10 năm cho đến 2022.
Tổng thống Vladimir Putin (sinh năm 1952) bắt đầu nhiệm kỳ 6 năm kể từ 2012. Trước đó, ông đã từng làm tổng thống 2 nhiệm kỳ từ 2000 đến 2008. Do giới hạn của hiến pháp lúc bấy giờ, ông đã không thể tiếp tục nhiệm kỳ thứ 3, nên tạm thời làm thủ tướng, để tái tranh cử tổng thống với nhiệm kỳ 6 năm, sau khi ông đã thay đổi được hiến pháp. Nếu phục vụ 2 nhiệm kỳ lần này, Putin sẽ cai trị Liên Bang Nga cho đến năm 2024.
Yếu tố bất định là các cường quốc dân chủ như Hoa Kỳ, Ấn Độ và Nhật Bản, tuy rằng Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng chia sẻ ẩn số nầy.
Khác với Trung Quốc, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam ít khi chuẩn bị công khai người kế nhiệm. Tại Bắc Kinh, Phó Chủ tịch Tập Cận Bình đã được coi là người kế nhiệm Chủ tịch kiêm Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào, lúc ông được bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương khoảng 2 năm tiền đại hội.
Trái lại ở Việt Nam, chỉ còn 2 năm nữa là Đại hội Đảng kỳ thứ 12 dự trù được tổ chức vào năm 2016 mà không ai trong nhóm quyền lực Bộ Chính Trị 16 người được coi là kế nhiệm Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (sinh năm 1944), Chủ tịch nước Trương Tấn Sang (sinh năm1949), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (sinh năm 1949), và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng (sinh năm 1946). Đảng có điều lệ qui định thành viên nghỉ hưu ở tuổi 65, nhưng không phải lúc nào cũng áp dụng. Hồi năm 2011, ông Nguyễn Phú Trọng đắc cử Tổng bí thư và Ông Nguyễn Sinh Hùng, Chủ tịch Quốc hội, lúc đã ngoài tuổi 65.
Không kể bốn nhân vật chóp bu mà một hoặc hai có thể được lưu nhiệm hoặc được cử chức vụ khác trong Bộ Chính Trị, những thành viên sau đây sẽ ngoài 65 tuổi vào năm 2016: Tô Huy Rứa (1947), Ngô Văn Dụ (1947), Lê Hồng Anh (1949), Phùng Quang Thanh (1949), Phạm Quang Nghị (1949) và Lê Thanh Hải (1950). Những người trẻ hơn gồm: Nguyễn Thiện Nhân (1953), Đinh Thế Huynh (1953), Nguyễn Thị Kim Ngân (1954), Tòng Thị Phóng (1954), Nguyễn Xuân Phúc (1954) và Trần Đại Quang (1956).
Nếu áp dụng đúng điều lệ về tuổi tác, Bộ Chính trị sẽ phải có 9 hoặc 10 thành viên mới, nhưng biết đâu điều bất ngờ lại xảy ra trong hậu trường chinh trị Việt Nam trong năm 2016. Người ta chú ý đến một cuộc bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội ngày 15.11.2014 mà kết quả cho thấy ông Nguyễn Tấn Dũng đã gia tăng số phiếu đáng kể (320/480 tức là gần 65% tín nhiệm), so với số phiếu tín nhiệm rất thấp hồi năm trước.
Trong số các nước lớn dân chủ, Nhật Bản là quốc gia khó dự đoán hơn cả, vì chính phủ tại Tokyo ít khi tồn tại hơn 5 năm, ngay cả khi Đảng Tự do Dân chủ (Liberal Democratic Party – LDP) tiếp tục cầm quyền. LDP là thế lực chính trị bảo thủ, cầm quyền gần như liên tục tại Nhật Bản trên 5 thập niên kể từ khi được thành lập hồi năm 1955. Thủ tướng Shinzo Abe (sinh năm 1954) là lãnh tụ thiên hữu của đảng chính trị bảo thủ này từ cuối năm 2012. Ông đã từng làm thủ tướng trong một thời gian ngắn hồi năm 2006-07.
Cũng là một chính trị gia thiên hữu và có tầm nhìn địa lý chính trị khu vực không khác nhiều với Ông Shinzo Abe là Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi (sinh năm 1950) của Đảng BJP (Bharatiya Janata Party). Đảng BJP, cũng là một thế lực chính trị bảo thủ mà Ông Modi là lãnh tụ, đã đánh bại Đảng Quốc đại (Congress Party có khuynh hướng trung-tả) với một đa số rõ rệt trong cuộc bầu cử quốc hội tháng 5 năm 2014. Nếu Ông Modi phục vụ hai nhiệm kỳ quốc hội tối đa 10 năm, thì ông sẽ là đối tác trên chính trường quốc tế với Ông Tập Cận Bình và Ông Putin cho đến đầu thập niên 2020.
Tại Mỹ, Tổng thống Barack Obama đang bước vào 2 năm cuối của nhiệm kỳ thứ nhì. Vì không thể tranh cử vào năm 2016, nên chẳng mấy chốc Ông Obama sẽ bị coi là “lame duck” trên chính trường quốc nội và quốc tế. Kiểm soát được cả Hạ Viện và Thượng Viện Mỹ sau cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ hồi đầu tháng 11 năm 2014, Đảng Cộng hòa sẽ tạo thêm nhiều khó khăn cho Tổng thống Obama thuộc Đảng Dân chủ.
Tiến trình bầu cử tổng thống Mỹ kéo dài khá lâu và người ta không thể biết được trong năm 2015 ai sẽ làm ứng cử viên Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ vào tháng 11 năm 2016 để tranh nhau quyền kế vị Ông Obama. Nhìn từ động thái của chính phủ Tony Abbott tại Australia, ứng cử viên có thể là cựu Ngoại trưởng Hillary Clinton (sinh năm 1947) đại diện Đảng Dân chủ và Ông Jeb Bush (sinh năm 1953), cựu Thống đốc Đảng Cộng hòa tại Tiểu Bang Florida. Ông Jeb Bush là em của cựu Tổng thống George W Bush và con của cựu Tổng thống George H Bush.
Ông Jeb Bush chưa trình bày rõ quan điểm về Châu Á-Ấn Độ-Thái Bình Dương, nhưng Bà Hillary Clinton là chính trị gia Mỹ có quan tâm nhiều về khu vực này và ủng hộ mạnh mẽ chiến lược tái định vị (pivot or rebalance) và Hiệp định Hợp tác xuyên Thái Bình Dương (Trans Pacific Partnership – TPP) của Tổng Thống Obama. Nếu được chọn làm ứng cử viên và chiến thắng 2 nhiệm kỳ tổng thống, một trong hai chính trị gia này sẽ đương đầu với ông Tập Cận Bình và ông Putin trong 8 năm cho đến 2024.
Chiến Lược và Chính sách: Thông Điệp mâu thuẫn của Bắc Kinh
Nhìn chung, yếu tố Trung Quốc là điểm nổi bật chi phối hầu hết các sinh hoạt an ninh quốc phòng và kinh tế thương mại khu vực trên căn bản song phương và đa phương, kể cả trong vấn đề tranh chấp tại Biển Hoa Đông (East China Sea) giữa Tokyo và Bắc Kinh, và Biển Đông còn được gọi là Biển Hoa Nam (South China Sea) giữa Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Philippines, Brunei, Malaysia và một phần nào đó, Indonesia.
Tuy đây là vấn đề tồn đọng từ cả mấy chục năm nay, chính sách căn bản của các nước lớn, nhỏ trực tiếp hoặc gián tiếp có tranh chấp được xác nhận lại, hoặc được công bố, hay thảo luận tại ba hội nghị thượng đỉnh quan trọng trong tháng 11 năm 2014: Đó là Diễn đàn Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC) tại Bắc Kinh, Đông Á tại Nay Pyi Taw, Miến Điện / Myanmar và G 20 tại Brisbane, Australia.
Tất cả tác nhân chính yếu đều có mặt tại ba diễn đàn này, ngoại trừ Thủ tướng Modi không tham dự APEC, một phần vì Ấn Độ chưa phải là thành viên. Ông Trương Tấn Sang có mặt tại Hội nghị APEC (và TPP bên lề Hội nghị APEC) và ông Nguyễn Tấn Dũng, Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á. Việt Nam không phải là thành viên và không được mời tham dự Hội nghị G 20.
Với tư cách chủ nhà, ông Tập Cận Bình đã tận dụng mọi cơ hội trước và trong Hội nghị APEC để cải thiện vai trò lãnh đạo của Trung Quốc, bằng cách công bố, phát động sáng kiến mới như Ngân hàng Đầu tư Hạ tầng Châu Á (AIIB) và khởi động nghiên cứu Vùng Tự do mậu dịch toàn châu Á Thái Bình Dương (FTAAP). Nếu thành công, đây có thể là hai cấu trúc mới hữu ích, nhưng Trung Quốc đâu phải là công dân thế giới vô vị lợi.
Tất nhiên Châu Á cần đầu tư để phát triển hạ tầng cơ sở, nhưng Ngân hàng AIIB tại Thượng Hải sẽ cạnh tranh với Ngân hàng Thế giới (The World Bank) tại Washington DC do Mỹ lãnh đạo và Ngân hàng Phát triển Á châu (ADB) tại Manila do Nhật Bản điều hành. Vùng tự do mậu dịch FTAAP được 21 nền kinh tế thành viên APEC ủng hộ nhưng người ta chưa biết rõ cấu trúc mới này, nếu được thành lập, sẽ vận hành như thế nào bên cạnh TPP do Mỹ lãnh đạo và Đối tác Toàn diện Kinh tế Khu vực (Regional Comprehensive Economic Partnership – RCEP) do chính Trung Quốc triệu tập tại Hội nghi thượng đỉnh Đông Á ở Phnom Penh, Cambodia, hồi cuối năm 2012.
Mặt khác cũng với đặc quyền của nước chủ nhà, ông Tập Cận Bình loại bỏ ra khỏi nghị trình vấn đề tranh chấp tại Biển Hoa Đông và Biển Đông. Những năm trước đây, hai vấn đề này thường được thảo luận tại Hội nghị APEC, mặc dầu có sự chống đối của ông Hồ Cẩm Đào, hoặc Thủ tướng Ôn Gia Bảo.
Quan sát các động thái của Trung Quốc tại ba hội nghị thượng đỉnh, người ta không thể không thấy sự xoay chiều chiến lược khá rõ rệt. Ông Tập Cận Bình tại APEC và G 20 – và Ông Lý Khắc Cường tại Miến Điện – đều đóng vai chính khách hoà bình, cổ xúy một nước Trung Hoa trỗi dậy hoà bình đem lại phúc lợi cho dân tộc Trung Hoa yêu chuộng hoà bình, như được thể hiện trong “Giấc Mơ Trung Quốc” mà ông Tập Cận Bình đã nhiều lần nhắc nhở. Trong chuyến công du cấp nhà nước tại Australia sau Hội nghị G 20, ông Tập Cậ́n Bình còn xác quyết rằng “Trung Quốc sẽ không sử dụng võ lực để giải quyết tranh chấp”. Tại Hội nghị Đông Á, Ông Lý Khắc Cường cũng nói rằng Trung Quốc sẵn sàng ký kết một hiệp ước thân hữu với mười thành viên Asean.
Thế nhưng trong thực tế, Bắc Kinh đã đơn phương áp đặt vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) tại Biển Hoa Đông hồi tháng 11 năm 2013 và sẵn sàng sử dụng không quân và hải quân để xác quyết chủ quyền Đảo Điếu Ngư mà Nhật Bản quản trị với tên gọi là Đảo Senkaku. Tại Biển Đông, Trung Quốc chưa hề tuyên bố từ bỏ ý định thiết lập một vùng nhận dạng phòng không tương tự.
Tại Biển Đông, Bắc Kinh cũng không hoặc chưa cần sử dụng võ lực, sau khi đã quân sự hóa đội tàu hải giám, kiểm ngư và hải cảnh theo phương thức “chiến hạm vỏ trắng”.
Điều này đã hiển nhiên khi Bắc Kinh phô trương lực lượng để uy hiếp Việt Nam và bảo vệ Giàn khoan HD 981 được hạ đặt phi pháp trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) Việt Nam từ đầu tháng 5 đến giữa tháng 7 năm 2014.
Bắc Kinh còn sử dụng sức mạnh kỹ thuật và nguồn tài nguyên lớn lao tạo lập nhiều đảo nhân tạo, chẳng hạn như tại Đá Gạc Ma (Johnson South Reef) , Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef), Đá Châu Viên (Cuateron Reef), ̣Đá Ga Ven và Đá Lạc (Gaven Reefs) thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Tại Đảo Phú Lâm (Woody Island) thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam và tại Đá Gạc Ma và Đá Chữ Thập, Bắc Kinh còn xây dựng sân bay mà Không quân Trung Quốc có thể sử dụng trong tương lai. Đây là mối đe dọa quân sự không những đối với Việt Nam, Philippines mà còn đối với nền an ninh của Australia và các nước khác chung quanh Biển Đông.
Một khái niệm an ninh được manh nha khi ông Tập Cận Bình bắt đầu nhiệm kỳ lãnh đạo và được ông diễn đạt nhiều lần và mỗi lần một rõ hơn bên lề Hội nghị APEC. Đó là “người Á Châu phải trách nhiệm cho nền an ninh Châu Á”. Thật ra, đây là mật khẩu cho một sách lược có lẽ đã được Trung Quốc chuẩn bị từ lâu và thực hiện khi thời cơ thuận lợi. Chiêu bài này biểu lộ tham vọng bá quyền của Bắc Kinh. Ông Đặng Tiểu Bình bắt đầu kế hoạch canh tân Trung Quốc hồi năm 1978 với một cung cách thích hợp khi chưa đủ mạnh là Trung Quốc phải che đậy “hào quang”. Ngày nay, Trung Quốc là cường quốc kinh tế thứ nhì thế giới và có thể qua mặt nước Mỹ trong thập niên tới, thì Bắc Kinh không cần che đậy hào quang nữa.
Trái với những phát biểu đậm đà mỹ từ ngoại giao, mục tiêu tối hậu của Bắc Kinh vẫn là đẩy lùi ảnh hưởng của Hoa Kỳ ra khỏi vùng Châu Á Thái Bình Dương, hay ít ra là giảm dần tầm ảnh hưởng của Mỹ và đồng thời tăng dần ảnh hưởng của Trung Quốc, bằng cả quyền lực cứng (sức mạnh quân sự) cũng như quyền lực mềm (sức mạnh kinh tế, chính trị, ngoại giao).
Thông điệp của Trung Quốc đầy mâu thuẩn, vì lời nói và hành động tương phản.