Tôi đang đứng trên một bờ ruộng cạnh quốc lộ 22 hướng về tỉnh Tây Ninh, phía sau tôi là cây cầu cũng mang tên cầu Bông, trùng tên với cây cầu
trong khu Đa Kao thuộc nội đô Sài G̣n. Cây cầu Bông này là mốc địa giới giữa quận Hốc Môn thuộc tỉnh Gia Định và quận Củ Chi của tỉnh Hậu Nghĩa. Thấp thoáng trên các thửa ruộng và sau hàng cây trâm bầu là những chiếc xe tank M 113, xe GMC, xe Jeep... của binh sĩ Sư Đoàn 25 Bộ Binh miền Nam Việt Nam Cộng Ḥa đă bỏ lại sau khi cả nước tan hàng tập thể trong hơn tháng trước. Trí tưởng của một thanh niên mới vừa 18 tuổi về h́nh ảnh người lính chiến đă khiến tôi háo hức rảo bước vào khu vực có các xe quân sự ở đây. Theo sát bên là Trí, em họ, con người cậu ruột tôi. Cả hai lần lượt trèo vào từng chiếc xe, nhất là xe tăng M 113, xà vào chỗ mà những người lính đă từng ngồi khi họ chạy xe hoặc lúc tác xạ. Súng trường M 16, súng đại liên M 60, súng M 79, mũ sắt, giầy trận, quần áo lính, giấy tờ và các dây đạn vàng chóe... vẫn c̣n sót lại trong ḷng xe cùng nằm rải rác dọc theo các bờ ruộng, trên các đoạn đường nhựa nơi tôi và Trí vừa đi qua.
Là dân sống trong nội đô Sài G̣n, tôi theo mẹ về dưới đây, một xứ đạo di cư từ thời 1954 trong vùng Hốc Môn để bà nhờ thân nhân là cha mẹ của Trí dọ t́m mua ruộng trồng lúa trong buổi giao thời, thay v́ chờ nhà nước Cộng Sản đưa đi vùng kinh tế mới như những lời đồn đăi của hàng xóm trong khu phố. Chợt có tiếng lên đạn loạt soạt vọng lại không xa, tôi vội trèo lên khỏi ḷng chiếc xe tăng và đảo mắt nh́n chung quanh. Ngay sau các thân xe nhà binh gần kế, vài thanh thiếu niên cũng trạc tuổi hoặc nhỏ hơn tôi đang cầm một cây súng trường M 16 trên tay. Tiếng một thanh niên trong nhóm đó chỉ dẫn cho các bạn ḿnh biết cách sử dụng cây súng và rồi là tiếng bấm c̣, tiếng kim hỏa mổ vào chỗ trống. Cây súng đó không gắn đạn. Các thanh thiếu niên trong nhóm chuyền tay nhau, lập lại các động tác vừa được chỉ dẫn vài lần trong tiếng cười vui đùa giỡn rồi sau đó, họ vất cây súng vào một thùng xe và kéo nhau bỏ đi.
- Mấy thằng đó thấy có vẻ rành súng đạn quá mầy Trí. Tụi nó là ai vậy? Tôi nh́n theo đám thanh thiếu niên, buột miệng hỏi.
- Đám con lính đó anh. Tụi nó ở khu gia binh công binh gần chợ Thành Ông Năm, em biết mặt hết nhưng không quen. Trí trả lời tôi.
Thảo nào! Tôi nghĩ thầm, Trí quay qua tôi nói: " Ḿnh ráng kiếm xem coi có cây ru lô nào không anh ". Tuổi thanh thiếu niên, hầu như ai cũng thích được sở hữu một khẩu súng lục trong tay, Trí và tôi cũng vậy. Do đó, nó mới rủ tôi đến đoàn xe nhà binh vô chủ trên cánh đồng để kiếm nhưng hai đứa leo tới leo lui lục lọi từng chiếc một mà vẫn không thấy. Nếu c̣n th́ đám thanh thiếu niên ban năy đă xí phần rồi v́ khi tôi và Trí vào đây đă thấy mặt họ từ trước. Dù vậy, cả hai đứa tôi vẫn cố sục sạo trong đống đồ đạc lính bỏ sót lại ở thùng xe. Súng trường M 16 nằm đầy chung quanh nhưng làm sao tôi dám mang một khẩu về nhà! Đám du kích biết là chết, ru lô th́ c̣n dấu trong người được. Chỗ nào cũng gặp lựu đạn thân tṛn như quả vú sữa hoặc giống hệt quả na rất đẹp nhưng sợ nó nổ bất tử nên hai đứa tôi chẳng dám đụng vào. Gió đồng bắt đầu thổi tạo thành các vệt sóng màu cẩm thạch uốn éo trên mặt lúa con gái trong các thửa ruộng trông thật đẹp. T́m không ra súng, tôi và Trí đành bỏ đoàn xe và quay trở ra ngoài đường lộ mà chưa biết sẽ làm ǵ tiếp. Trời đă gần chiều, xa xa có bóng một phụ nữ mặc áo trắng đang lui cui nhặt t́m cái ǵ đó ở gần lề đường. Hai đứa tôi tiến lại chỗ người phụ nữ. Bà đang xem từng tấm thẻ căn cước quân nhân, thẻ bài kim khí, thẻ lănh lương của lính vất nằm vương văi trên đường, ở các cạnh bờ ruộng hoặc dạt vào chân các bụi lúa. Nhiều tấm thẻ nḥe mực dấu đỏ, bết đất śnh hoặc thấm ướt đẫm nước. Vài mũ sắt, giầy trận, dây thắt lưng lính... nằm rải rác sát đường nhựa. Mắt người phụ nữ này đỏ hoe như vừa khóc xong. Tôi nh́n bà, hỏi:
- D́ kiếm cái ǵ vậy hả d́?
- Chị xem coi có giấy tờ của anh ấy không? Chiến tranh chấm dứt rồi mà chị không thấy ảnh về nhà.
Rồi người phụ nữ kể thêm, chồng bà là một binh sĩ Biệt Động Quân tăng phái chiến đấu tại khu vực Hốc Môn-Thành Ông Năm này trong những này cuối cuộc chiến của tháng 4 vừa qua. Gượng gạo cười với hai đứa tôi, bà tiếp:
- Ảnh tên Tia, Nguyễn Văn Tia... Các em nếu thấy tấm thẻ bài hoặc giấy tờ nào có ghi tên Nguyễn Văn Tia th́ đưa cho chị nha. Rồi bà lầm thầm: " Anh Tia ơi! Anh ở đâu sao không về. Để một ḿnh em với các con biết làm sao xoay sở đây hả anh? ". Tôi và Trí nh́n nhau trong im lặng rồi gật đầu với bà. Người phụ nữ quay đi, ḷ ṃ nhặt tiếp các tờ giấy vương văi dọc theo các bờ ruộng. Hai đứa tôi kéo nhau băng sang qua phía bên kia con đường nhựa. Ngay chân trụ điện cao thế sát lộ, loang lổ đất cát lấp vội vào một hố cá nhân nhưng vẫn c̣n để lộ ra các lóng xương, mảnh vụn thi thể người ở bên dưới. Mũ sắt, súng trường M 16 cùng vài băng đạn vẫn c̣n nằm gần bên trên mặt hố. Chúng tôi vội lùi xa khi luồng gió đồng thổi đến làm bốc lên mùi xác người đă rữa. Không xa lắm gần mép bờ ruộng có một g̣ đất nhỏ mới đắp, đúng hơn, đó là nấm mộ v́ ngay phía trên đầu có một khẩu súng trường M 16 cắm ngập xuống đất với chiếc mũ sắt chụp phủ lên báng. H́nh ảnh nấm mộ trông in hệt trong một cảnh phim chiến tranh lúc tàn cuộc. Chợt có tiếng người phụ nữ ban năy gọi chúng tôi từ xa xa, hai đứa liền quay trở lại. Đến gần, tôi nh́n kỹ mặt bà, một phụ nữ người miền Nam khoảng 40 tuổi. Vẻ nhẫn nại, chịu đựng với nét buồn bă của người vợ lính đi t́m tông tích chồng nhưng vô vọng, làm tôi tự dưng có cảm t́nh với bà. Bà hỏi:
- Các em ơi! Có biết lính ḿnh c̣n đóng quân ở đâu nữa không? Các em có nghe có thấy nơi nào trong vùng này mà... lính quốc gia ḿnh vẫn c̣n chiến đấu chưa ra hàng không? Chỉ cho chị biết chỗ đó đi.
- Lính... th́... thấy hay đóng trong khu rừng Điều lắm... Mà khi đó chứ bây giờ chắc không c̣n ai nữa đâu d́ ơi. Không c̣n ai nữa. Hết cả rồi. Trí luống cuống trả lời bà.
Mắt người phụ nữ sáng lên và nh́n trân trối vào Trí, miệng bà lắp bắp hỏi dồn dập: " Rừng Điều! Lính c̣n đóng ở đó hả? Cách đây bao xa? Làm sao đi vào trong đó được? Hay là em vào đó t́m anh Tia giúp chị đi. Chị gửi tiền cho em ngay bây giờ. Đi ngay đi em, giúp chị đi mà. Tội nghiệp chị ". Rồi bà nấc lên khóc, khóc ngon lành trong màn lệ khi nh́n chúng tôi. Tôi bối rối, thương cảm, quay qua nh́n Trí ḍ hỏi. Nó im lặng nh́n tôi, nh́n người phụ nữ trong chốc lát rồi khẽ lắc đầu, quả quyết:
- Không c̣n lính ḿnh trong đó nữa đâu d́ ơi! Cháu biết rơ như vậy, với lại muốn đi vào trong đó th́ phải có xuồng chứ lội bộ śnh lầy không cách nào được.
Người phụ nữ hai mắt đỏ hoe, sụt sùi nài nỉ Trí cố giúp nhưng nó vẫn lắc đầu, đứng yên. Thấy không xong, bà ta quay qua nắm lấy tay tôi, van nài:
- Giúp chị nha em? Tội nghiệp chị mà! Nhà chị ở xa lắm, đến đây nào có biết đường đi vào đó đâu.
Nước mắt bắt đầu từ từ rỉ ra ở khóe mắt tôi. Khẽ gỡ tay bà, tôi trả lời:
- D́ ơi, D́! cháu cũng ở Sài g̣n mới về đây có ít ngày hà. Cháu thực không biết chỗ đó đâu. Nếu biết th́ cháu...
Tôi chưa nói hết câu th́ đă bị Trí kéo tay đi ra chỗ khác. Được một quăng khá xa rồi nó mới nói:
- Anh đừng nhận lời giúp bả. Làm sao mà ḿnh đi vào trong đó được? Hơn một tháng giải phóng rồi, không c̣n lính nào c̣n trong rừng Điều đó hết. Em biết rơ như vậy.
Tôi chưng hửng nh́n Trí rồi quay đầu về chỗ người phụ nữ, bà vẫn c̣n đứng đó, tay vẫy vẫy chúng tôi trong tiếng nấc. Hai đứa tôi lại đi dọc theo con đường nhựa và ở khoảng cách không xa lắm trước mặt, một thiết vận xa M 113 nằm khuất bên rặng cây b́nh bát mọc chung với các bụi sim dại cùng dứa gai gần sát lề đường. Tôi và Trí hăm hở tiến đến cùng ư nghĩ sẽ vớ được một khẩu ru lô trong chiếc xe tăng đó và quên hẳn chuyện bà phụ nữ đáng thương. Đến nơi, nh́n qua cánh cửa mở toang ở phía đằng sau, trong ḷng chiến xa có nguyên một cây súng Cối khá lớn. Một chút ngạc nhiên v́ lần đầu tôi thấy súng Cối được đặt trong ḷng xe tăng M 113. Tôi hăm hở, nắm tay vào cạnh cửa xe, định trèo vào trong th́ mũi ngửi thấy mùi khăn khẳn. Cái mùi của xác người chết. Tôi dừng lại để nh́n cho kỹ bên trong xe. Thi hài một quân nhân c̣n nguyên cả đồ trận, giầy saut nằm ngay trên sàn xe sát cạnh chân đế của cây súng Cối. Tiếng ruồi vo ve gần bên làm tôi bước lùi lại. Nh́n thân chiếc xe tăng không một vết đạn, không lẽ người lính này đă tự sát hoặc bị thương rồi chịu đựng không nổi, kiệt sức mà chết, tôi thầm nghĩ. Trí tḥ đầu vào cửa xe th́ thấy có người nằm chết nên nó vội kéo tay tôi đi ra xa và nhăn mặt, nói khẽ:
- Sao không ai chôn ông lính đó đi... Để vậy trông ghê quá anh.
- Ê! Hay ḿnh lại chỗ bà vừa rồi bảo bả đến đây xem thử cái xe tăng này. Biết đâu chồng bà là ông lính nằm ở trong đó mầy. Tôi nói với Trí.
- Thôi anh, hơi sức nào. Trí lắc đầu rồi sau đó tiếp: " Chồng bả là lính Biệt Động Quân c̣n ông nằm trong xe mặc đồ xanh bộ binh mà, không phải đâu, kệ bả ".
Hai đứa tôi đi thêm một đoạn đường nữa th́ gặp một cây cầu xi măng đúc bắc ngang qua mặt con rạch sát với lề đường nhựa quốc lộ. Trí kéo tôi băng qua cầu, tiến vào bên trong của khu đất khá rộng. Một ṭa nhà gạch lớn nhưng chỉ c̣n các bờ tường chung quanh cùng nền nhà loang lổ, trống trơ, toác hoác nằm giữa khu đất. Cây dừa cụt ngọn cùng cây mít èo ọt đứng gần một hố nước lớn nổi váng xanh ŕ. Mái nhà lợp ngói đă sụp gần hết, ḷi ra những rui gỗ cháy đen nhẻm, lở dở. Những phần tường c̣n lại th́ đầy vết đạn nham nhở ḷi ra gạch nâu đỏ. Dấu vết một trận giao tranh đă từng xẩy ra ở đây. Ṭa nhà được ai cất biệt lập giữa cánh đồng và bị hoang phế bao lâu rồi? Tôi thắc mắc hỏi th́ Trí cho biết:
- Nhà này có từ thời Tây lận và bị tan tành khá lâu rồi. Mấy ổng năm đó kéo về cố thủ rồi trực thăng bay đến quần nhau mới teng beng như vậy. Xác người chết nhiều lắm, em nghe kể vậy chứ cũng không thấy v́ lúc đó c̣n bé tí biết ǵ nhiều anh.
Phần cuối khu đất đó dẫn ra một con đường hẹp có các lùm b́nh bát, bụi ô rô, cụm cóc kèn, vạt nhành nhành, dứa hoang hoặc đám sim dại mọc xum xuê về một phía như khu rừng lưa thưa. Phía đối diện khu đất là con rạch nhỏ chạy song song với con đường đất. Hoa sim mầu tím sẫm cùng cánh trắng của các đóa nhành nhành đung đưa trong làn gió chiều. Vài con ong rung cánh u u bay kiếm mật lướt ngang các bông hoa dại. Cánh mỏng của con chuồn chuồn ngô đỏ sậm khẽ đáp rồi lại đậu chập chờn trên các cành cây b́nh bát la đà sát mặt nước. Nước trong vắt chảy lững lờ dưới con rạch, lôi vài nụ bèo cái cùng giề lục b́nh trôi nhè nhẹ. Chợt Trí lấy tay chỉ tôi xem cái ǵ như quần áo nổi lùm xùm trong một bụi năng. Hai đứa tiến lại xem. Trời! Một xác người đang rữa nát. Đi tiếp, tôi và Trí trông thấy thêm các xác người khác nổi dập dềnh đây đó trong ḷng con rạch. Họ là thường dân, chắc chắn như vậy v́ đều mặc thường phục. Hầu hết là xác đàn ông nhưng cũng có một xác phụ nữ qua mái tóc dài cùng bộ y phục hoa ḥe trên người. Trí kéo tay, chỉ tôi nh́n một xác đàn ông nổi úp mặt, phơi lưng gần bờ mà hai tay bị trói chặt bằng sợi dây thừng. Bước chồm sát tới để xem cho rơ, chân của Trí vô t́nh đạp trúng vài cục đất trên bờ rạch làm chúng lăn ṭm xuống nước. Nghe động nước, một đàn cá rô bơi ra từ dưới bụng của xác người đó. Tôi dơi mắt theo đàn cá phải cả hàng mấy chục con là ít rồi nh́n lại xác người. Trên lưng áo trắng bỏ vào quần của nạn nhân c̣n dấu những vết đạn, máu loang lổ đă phai, đổi sang màu nâu sậm. Tôi và Trí lấy tay bụm miệng kinh hoàng nh́n nhau. Những xác người nổi ph́nh trong con rạch này là ai? Tại sao họ bị thảm sát bỏ xác ở đây và ai đă giết họ? Tôi khẽ gật đầu đồng ư khi nghe Trí thều thào: " Mấy người này chắc mới bị giết chừng hai ba tuần lễ, anh à ".