Trong số các nhà báo ngoại quốc ở Việt Nam, kư giả Dan Southerland là một trong ít người ở lại tới ngày cuối cùng và chứng kiến ngày chót của Việt Nam Cộng Ḥa 30 Tháng Tư 1975.
Từ 1985 đến 1990, ông là giám đốc văn pḥng Washington Post tại Bắc Kinh và tường thuật vụ đàn áp đẫm máu phong trào dân chủ Thiên An Môn, và do loạt bài này ông được trao giải Pulitzer.
Trong cuộc chiến Việt Nam, ông làm việc cho hăng tin UPI và tờ The Christian Science Monitor, và cũng từng tường thuật chiến sự tại Cambodia, Lào, và cuộc chiến giữa Ấn Độ và Pakistan năm 1971.
Ông từng là phó tổng giám đốc đặc trách chương tŕnh của Đài Á Châu Tự Do (RFA) và từng viết cho nhiều hăng tin và báo chí quốc tế trong giai đoạn ông thường trú tại Tokyo, Hong Kong, Sài G̣n, Bắc Kinh.
Tháng Tư năm 2011, qua email, ông Dan Southerland trả lời phỏng vấn của Đinh Quang Anh Thái về những diễn biến ở Việt Nam ngày 30 Tháng Tư, 1975.
***
– Đinh Quang Anh Thái: Khi Sài G̣n sụp đổ cách đây 36 năm, lúc bấy giờ ông ở đâu?
– Dan Southerland: Tuần lễ cuối cùng của Tháng Tư trước khi Sài G̣n sụp đổ, trong bối cảnh các xe tăng của quân Bắc Việt tiến gần vào Sài G̣n, lúc đó tôi ở tại khách sạn Continental để viết bài cho tờ The Christian Science Monitor. Tôi tường thuật những giây phút cuối cùng của Việt Nam Cộng Ḥa với hai sự kiện trọng đại là việc Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức và lễ nhậm chức tổng thống của Tướng Dương Văn Minh.
– ĐQAT: Tâm trạng của ông ra sao khi chứng kiến những sự kiện lịch sử đó?
– Dan Southerland: Tôi buồn khi nh́n thấy cảnh hỗn loạn của Sài G̣n. Tôi cố trấn an người thầy dạy tôi tiếng Việt và người thông dịch viên lâu năm của tôi. Tôi cũng đưa ra vài ư kiến là họ nên làm ǵ trong t́nh huống này. Cả hai quyết định ở lại; người dạy tiếng Việt th́ v́ hoàn cảnh gia đ́nh, c̣n người thông dịch th́ cho rằng chẳng có ǵ để lo sợ Việt Cộng. Khi tôi đến căn nhà nhỏ của anh thông dịch viên, anh chỉ cho tôi t́nh cảnh sống quá nghèo nàn của anh và bảo rằng không có lư do nào khiến anh bị cộng sản kết án.
Tôi ước rằng phải chi tôi khuyên được anh ra đi. Khi cộng sản chiếm chính quyền, họ hành hạ anh rất nặng nề, một phần cũng v́ anh có quan hệ với tôi, nên sau đó anh vượt biên và tôi đă có dịp gặp lại anh ở Paris. Anh xin tôi tha lỗi v́ trong thời gian bị cộng sản tra khảo, anh đă có những lời khai không đúng về tôi. Phần tôi, tôi cũng đă xin lỗi anh v́ đă không hết sức thuyết phục anh thoát khỏi Sài G̣n thời gian đó.
Cũng vào những giờ phút cuối của Tháng Tư 75, tôi đă dàn xếp cho một giáo sư của đại học Sài G̣n cùng vợ và đứa con mới sanh của ông ta ra đi bằng trực thăng nhưng ông ta đổi ư vào giờ chót và ở lại, v́ tin rằng Tướng “Big Minh” có thể thương lượng một cách ổn thỏa việc chia quyền với những người cộng sản.
Một quân nhân Việt Nam Cộng Ḥa hỏi cung tù binh cộng sản,
bên trái là ông Southerland, trong trận Mậu Thân II tháng 5 năm 1968
tại Sài G̣n. (H́nh: Dan Southerland gửi cho ĐQAT)
Không chịu đi, nhưng ông giáo sư này lại gọi điện thoại nhờ tôi giúp đưa một quân nhân là bà con của ông ta ra đi. Lúc bấy giờ, tại mặt trận Xuân Lộc cách Sài G̣n khoảng 90 cây số về phía Đông, Sư Đoàn 18 của Việt Nam Cộng Ḥa đang chống trả trước những đợt tấn công dữ dội của quân Bắc Việt. Cho nên ư kiến đưa một quân nhân trốn khỏi đất nước trong khi những đồng đội khác đang chiến đấu sống c̣n khiến tôi tức điên lên và tôi đă đập nát chiếc điện thoại trên tay. Tôi ư thức rơ là tôi đang bị căng thẳng.
T́nh cảnh lúc đó ngay tại Ṭa Đại Sứ Mỹ, giấy tờ tài liệu bị xé nát, hành lư và súng đạn bị vất ngổn ngang. Binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đang đẩy lui hàng ngàn người Việt Nam xô lấn nhau muốn xông vào sân Ṭa Đại Sứ để t́m đường thoát thân. Nhiều người ném giấy tờ tùy thân vào bên trong và kêu gọi giúp đỡ. Một người trong đám đông nhận ra tôi. Ông ta kêu tên một viên chức Mỹ. Tôi t́m được viên chức này và cùng nhau giúp đưa người đàn ông kia lọt qua cổng vào bên trong.
Trong không khí hoảng loạn đó, tôi gào qua điện thoại để gửi bài viết cho một đồng nghiệp cũng đang làm việc ở Sài G̣n chỉ tích tắc trước khi hệ thống điện thoại của Ṭa Đại Sứ bị cắt. Người điều hành pḥng máy điện thoại đang lên máy bay để ra đi.
Tâm trạng tôi khi ấy giống như một số người Mỹ khác, cảm thấy rất đau buồn khi chứng kiến cảnh người Mỹ di tản trong khi nhiều người Việt Nam từng làm việc với Mỹ bị bỏ rơi lại. Quả thật, ra đi như thế thật là nhục nhă.
– ĐQAT: Ông từng đi theo và viết bài về các đơn vị của quân đội Việt Nam Cộng Ḥa, ông nhận xét ra sao về những quân nhân này?
– Dan Southerland: Thành thật mà nói, quân lực Việt Nam Cộng Ḥa (QLVNCH) đă chiến đấu anh dũng khi đẩy lui cuộc tấn công của Việt Cộng trong Tết Mậu Thân 1968. Tôi cũng rất thán phục một số đơn vị của quân đội này trong các trận đánh tại Quảng Trị và An Lộc suốt thời gian diễn ra cuộc tấn công quy mô của Bắc quân năm 1972.
Tuy nhiên cũng phải nh́n nhận là có sự cách biệt khá lớn về khả năng tác chiến giữa đơn vị này và đơn vị khác của QLVNCH. Đơn cử một thí dụ, năm 1972, trái ngược với Thủy Quân Lục Chiến của Việt Nam đă chứng tỏ là một đơn vị thiện chiến trong các trận đánh tại Quảng Trị cho dù không đủ quân số, th́ Sư Đoàn 3 Bộ Binh đă bị tan ră v́ thiếu kinh nghiệm.
Tôi đă từng tường thuật về nhiều vấn đề trong quân đội Việt Nam Cộng Ḥa, như t́nh trạng đào ngũ, hôi của, tham nhũng và thiếu khả năng của một số sĩ quan. Một vấn đề nữa là QLVNCH lệ thuộc vào không trợ của Mỹ, kể cả bom B-52. Khi sự hỗ trợ đó bị rút đi, hậu quả trở thành tai hại. Nhưng nếu nh́n tổng quát th́ vẫn thấy có sự tiến bộ rơ rệt trong một số đơn vị QLVNCH giữa 1972 và 1973, kể cả khi Mỹ đă rút quân.
Một số bài tường thuật của hăng tin Mỹ khiến người ta có cảm tưởng VNCH bị thất trận trong cuộc tấn công của Cộng quân năm 1972. Năm đó, ngày 11 Tháng Tư, trong một điện tín gửi cho mẹ tôi sống tại Arlington tiểu bang Virginia, tôi viết rằng: “Cho tới nay không có ǵ giống như trận Tết Mậu Thân 1978. Con vừa từ Quảng Trị và Huế về lại Sài G̣n và con thấy QLVNCH pḥng thủ mạnh mẽ hơn những ǵ báo chí Mỹ tường thuật. Và rơ ràng là Bắc quân đang di chuyển dọc biên giới Cambodia khó ḷng đặt chân đến Sài G̣n.”
Tôi cho rằng nhiều phóng viên Mỹ không tường thuật về QLVNCH, hoặc là họ đă tường thuật thoáng qua mà thôi. Cá nhân ḿnh, tôi cũng nhiều lần tự chỉ trích về những cách tường thuật của ḿnh. Chỉ có vài phóng viên ngoại quốc là nói được tiếng Việt để làm trọn vẹn việc tường thuật tin tức khi đi với quân đội VNCH; số đông c̣n lại đă chọn cách dễ dàng hơn là đi theo các đơn vị Hoa Kỳ.
Tôi đă từng viết một bài về tính nhân bản của các quân nhân thuộc binh chủng Thủy Quân Lục Chiến của VNCH. Và tôi cũng đă viết câu chuyện về những người anh hùng của QLVNCH tại mặt trận An Lộc, với quân số ít ỏi so với Cộng quân và chỉ với những khẩu súng chống chiến xa loại nhẹ, họ đă tiêu diệt những xe tăng của Cộng quân. Dù vậy, tôi vẫn nghĩ ḿnh chưa mô tả được trọn vẹn những ǵ tôi chứng kiến.
Đầu năm 1970, tôi ngưng làm việc với hăng tin UPI để dành thời gian vài tháng học tiếng Việt ḥng có thể viết những câu chuyện sâu hơn với tư cách một phóng viên tự do. Nhưng rất tiếc, việc học Việt ngữ của tôi bị gián đoạn khi tờ The Christian Science Monitor mời tôi cộng tác. Đúng lúc đó, chiến tranh bùng nổ tại Cambodia, thế là tôi bỗng nhiên phải tường thuật tin tức chiến sự của hai cuộc chiến.