Trong hồi kư của ông Hồ Thủ Nhâm (cư dân Sài G̣n, học Trường Sư phạm Sài G̣n, Đại học Văn khoa trước 1975, đi dạy học nhiều năm trước khi nghỉ hưu và mất tháng 5.2016) có hồi ức về đoạn đời khi ông c̣n bé, lưu lạc theo gia đ́nh từ Q.4 ra vùng Củ Chi thời Pháp chiếm đóng.
Sài G̣n chuyện đời của phố: Cuộc sống ven đô thời Pháp thuộc
Ông Hồ Thủ Nhâm, tác giả hồi kư
Cái nghèo “mạt, rận”
Năm 1941, mẹ tôi đang sống cùng gia đ́nh ở khu Cầu Ông Lănh, Q.4 th́ lên xe hoa khi mới mười bảy tuổi. Thời đó, lập gia đ́nh ở tuổi 17 là b́nh thường, nhưng là sự thay đổi lớn của cô gái thành thị lấy chồng vùng quê ven đô. Cảnh nhà lúc đó đă không c̣n sung túc như trước, ông ngoại có bệnh mắt, không c̣n đi làm lănh lương cao như thời làm việc cho Tây ở Sở Hỏa xa Đông Dương trên đường de la Somme (Hàm Nghi) nữa nên không c̣n ǵ luyến tiếc.
Mẹ tôi về làm dâu ở Tân Thạnh Đông, cái làng quê nghèo ở Củ Chi trong những năm nghèo đói nhất của đất nước, khi Chiến tranh thế giới thứ hai vừa bắt đầu. Thời đó, vùng này không có dầu lửa thắp đèn ban đêm, phải dùng dầu mù u. Không có vải, phải dùng bao bố may quần mà mặc. Không có chỉ may, phải cạo bẹ thơm lấy sợi làm chỉ vá áo quần. Thậm chí, nhiều đàn ông trung niên và cả thanh niên ra đồng làm đất phải hà tiện quần không dám mặc để tồng ngồng giữa đất và trời. Mẹ tôi kể hồi mới về làm dâu, đă nhiều lúc bà mắc cỡ, ù té chạy một nước khi nh́n thấy cảnh tượng cười ra nước mắt ấy.
Cái nghèo “mạt, rận” của dân làng Tân Thạnh Đông cũng từ đó v́ khi mặc bao bố thay vải, thỉnh thoảng dân làng phải lôi ra để giết mạt và rận (loại kư sinh ở gà và trâu ḅ) bằng cách cán chai thủy tinh lên chúng phát ra tiếng kêu lắc rắc.
Bà ngoại kể, mẹ tôi hồi trẻ nổi tiếng là đẹp ở vùng Cầu Ông Lănh, Q.4. Về Tân Thạnh Đông làm dâu, bà c̣n đẹp hơn sau khi sanh con đến nỗi bà con luôn tấm tắc khen: “Con nhỏ ngộ thấy lạnh!“. Lúc chưa có con, bà theo chân cha tôi hoạt động trong phong trào Thanh niên tiền phong, đi khắp lục tỉnh, vừa hoạt động vừa dạy dệt vải để che mắt địch. Rồi mỏi mệt, ông đưa bà về Cầu Ông Lănh năm 1942, chuyển bụng để sau đó sanh ra tôi đúng ngày lễ kỷ niệm Cách mạng Pháp, trong lúc vội sang cầu qua trung tâm Sài G̣n xem đốt pháo bông. Đầu năm 1945, Pháp oanh tạc Sài G̣n, cả gia đ́nh gồm ông bà ngoại, cha mẹ và tôi, cùng d́ Út về Tân Thạnh Đông lánh nạn. Lúc đó, bà nội của tôi nuôi tằm kéo lụa. Nhà nội được cả xóm nể nang v́ ăn mặc lành lặn hơn các gia đ́nh khác, không ai mặc quần bao áo bố. Món ăn dùng hoài không chán là những con nhộng kén, bỏ vào nồi luộc béo ngậy.
Cảnh chợ quê Nam bộ xưa (trích trong bộ tranh Monographie dessinée de l’Indochine (Chuyên khảo có minh họa về Đông Dương) do học sinh Trường Mỹ thuật Gia Định xuất bản năm 1935 đến 1938
Kư ức đau thương
Trời cho tôi có trí nhớ sớm, chỉ mới vài tuổi mà nhớ nhiều h́nh ảnh về làng quê vùng ven này. Những buổi trưa hè, được cha âu yếm đ̣ng đ̣ng trên vai, tôi cười như nắc nẻ trên tấm thân vững chăi của ông. Chúng tôi đi trên đường gập ghềnh mô đất, hai bên bờ là những bụi tre gai. Thỉnh thoảng cha dừng lại, kiễng chân hái mấy chùm nhăn lồng vàng mọc xen vào bụi tre hay mấy trái gấm chua ngọt lủng lẳng trên cành. Chung quanh đầy âm thanh, tiếng chim tu hú kêu rời rạc gọi bầy xen lẫn tiếng cuốc kêu khắc khoải, từ xa là tiếng chày giă gạo nhịp đôi, nhịp tư cắc cum khi nhặt khi khoan. Những âm thanh h́nh ảnh mà cho tới bảy mươi tuổi, thỉnh thoảng hiện về trong giấc mộng để rồi có khi tôi bừng tỉnh với nḥe nhoẹt nước mắt.
Mỗi sáng, cha một tay dắt d́ Út là em nhỏ nhất của mẹ tôi đưa đến trường và đ̣ng tôi trên vai. Ông ghé nhiều nhà bạn bè, th́ thầm những chuyện mà sau này tôi hiểu là chuyện hoạt động bí mật chống Tây. Tôi cười như nắc nẻ trên vai cha, tay níu mớ tóc xoăn của ông, tay kia nắm lấy chùm nhăn lồng. Buổi chiều mẹ tôi đứng đón hai cha con ở ngưỡng cửa. Bữa cơm đầm ấm, tôi luẩn quẩn bên chân cha, con chó mực bên cạnh chực chờ chiếc xương hay đầu cá nướng. Có những buổi tối hăi hùng cả nhà nằm co ḿnh dưới hầm tránh đạn, tiếng giặc Tây bố ráp chạy rầm rập. Đạn bay vèo vèo quanh nhà, vài tiếng chân người chạy vụt qua rồi biến mất.
Nhức nhối trong tôi bi kịch về một buổi sáng, được bồi đắp bằng lời kể của mẹ tôi...
Sáng mùng 5 tháng chạp năm 1945, cha đột nhiên gọi má tôi: “Vú On ạ, tối qua Tây nó bố dữ quá, sáng nay nhà bên có làm heo, hay là ḿnh mua một vài kư về ăn rồi cho chết cũng đáng!” (On là tên gọi ở nhà của tôi). Mẹ tôi trước câu nói gở ấy tuy có giật ḿnh nhưng cũng nghe lời ông le te sang mua thịt heo. Thịt về chưa kịp làm th́ giặc rần rần kéo tới. Đó là trận càn đầu tiên của giặc Pháp từ Thủ Dầu Một kéo sang. Cả nhà vội vàng kéo nhau chạy sang nhà nội lánh nạn, bỗng nhiên cha nằng nặc đ̣i quay trở lại. Mấy tiếng đồng hồ sau giặc rút, im tiếng súng, cả gia đ́nh nhận được cái tin khủng khiếp: Cha đă bị Tây bắn chết!
Đám tang cha diễn ra vội vàng. Những năm đó cả làng quê nghèo đói nên cái ǵ cũng hiếm. V́ thế, rất khó để t́m một chiếc quan tài cho cha. Ông bà nội của tôi, bà ngoại và mẹ dùng một bộ ván gơ và mấy chục thước vải lụa tơ tằm nhà có sẵn quấn vào để mai táng thi hài ông. Mộ nằm ngay nghĩa địa trước nhà nội.
(Trích Sài G̣n - Chuyện đời của phố tập 4, NXB Văn hóa - Văn nghệ TP.HCM và Phương Nam Book)