VBF-Sau khi VNCH sụp đổ đă có rất nhiều người tháo chạy khỏi quê hương. Đáng chú ư hơn cả là những em bé, chúng được đưa sang Mỹ nhưng ít ai biết được số phận của những em bé đó hiện ra sao. Đă từ lâu, số phận những em bé trong chiến dịch Không vận Trẻ em Việt Nam năm 1975 được nhiều người quan tâm.
Giờ đây, những em bé Việt Nam ấy đă trưởng thành. Họ lớn lên và vẫn luôn đau đáu hướng về quê hương và tự hỏi rằng: Liệu họ có gặp được người thân để có những cuộc trùng phùng thiêng liêng, ruột thịt?
Chúng tôi đă kết nối với dịch giả Hoàng Nhương, người dịch cuốn sách Những mảnh đời được ban tặng và một số em bé được đưa lên máy bay trong chiến dịch Không vận Trẻ em (Operation Babylift) tháng 4/1975, để t́m hiểu và ghi nhận được không ít sự kỳ lạ của số phận liên quan đến những em bé trong chiến dịch không vận này.
Đau đáu hướng về quê hương
Cuốn sách về Chiến dịch Không vận Trẻ em Việt Nam 1975 đă được NXB Trẻ ấn hành với tựa đề Những mảnh đời được ban tặng là tác phẩm phóng sự gồm 3 phần, 16 chương của nhà văn, nhà báo Dana Sachs do dịch giả Hoàng Nhương (cũng là một nhà báo hiện công tác tại TTXVN trưởng cơ quan thường trú TTXVN tại tỉnh Hà Nam) chuyển thể sang bản tiếng Việt.

Tác giả Dana Sachs và dịch giả Hoàng Nhương trong lần gặp gỡ ngày mới đây tại Hà Nội.
Theo đó, vào tháng 4/1975, chiến tranh ở Việt Nam chuẩn bị kết thúc, một số cô nhi viện với sự giúp đỡ của Chính phủ Mỹ đă sử dụng máy bay đưa 3 ngàn trẻ em ra khỏi Sài G̣n để đến với các gia đ́nh bố mẹ nuôi ở nước ngoài.
Những số phận trẻ em ấy được Dana Sachs tác giả cuốn sách được anh Hoàng Nhương dịch ra tiếng Việt kể lại một cách sống động và xúc động về từng em bé Việt Nam cụ thể, như nhân vật David: “Anh ấy không biết tên bố mẹ đẻ. Anh ấy không biết tên khai sinh đầu tiên của ḿnh, mặc dù anh nhớ người ta đă gọi anh là “Hen Ly”. Anh cũng không biết nơi ḿnh sinh ra, thậm chí là tuổi của ḿnh (anh sinh vào một thời điểm nào đó giữa năm 1967 và 1969. Chính điều này đă khiến mọi người xác định, khi được khoảng 6 đến 8 tuổi anh đặt chân đến Mỹ).
Anh tin rằng, ḿnh đă sống ở Sài G̣n nhưng không biết một cách chắc chắn. Khi đến Mỹ, David hầu như không có thông tin nhận dạng đi kèm, do đó anh phải trông cậy nhiều vào những kư ức về quăng thời gian cách đây 30 năm. Những kư ức này rất thưa thớt, mỏng manh, gần giống như những giấc mơ siêu nhiên”.

Nhân vật Tanya Mai hiện đang sống tại Mỹ.
Hay như bà Mỹ - một người mẹ suốt 20 năm lúc nào cũng mang tập hồ sơ về đứa con gái lai trong ḿnh và ḍ hỏi khắp nơi cho tới ngày gặp con. Hay một bà mẹ t́m cách t́m bảy người con ra đi trong chiến dịch không vận, bà phải đối diện với nhiều gian khó trên đất Mỹ để giành lại những đứa con từ tay cha mẹ nuôi chúng..., cô bé Tanya Mai cũng rời khỏi Việt Nam trong chiến dịch Không vận Trẻ em (Operation Babylift) tháng 4/1975.
Sau khi rời Việt Nam, Tanya được đưa đến Anh cùng khoảng 100 anh, chị em khác. Hơn 200.000 gia đ́nh đă nộp đơn xin nhận nuôi những em bé này trong thời điểm đó. Và cô vẫn băn khoăn rằng, quê ḿnh ở đâu, bố mẹ ḿnh là ai?
Anh Hoàng Nhương cho biết: “Tôi bắt đầu dịch tác phẩm này từ năm 2012, v́ làm việc trong hệ thống của Thông tấn xă nên tôi có tiếp cận được bản gốc của phóng sự. Trong hai tháng, tôi dịch xong cuốn sách gần 400 trang này. Sau đó, tôi có liên lạc với Nhà xuất bản Trẻ, sau khi thẩm định bản dịch này, họ đồng ư xuất bản sách.
Năm 2013 cuốn sách Những mảnh đời được ban tặng lần đầu được xuất bản, và tái bản lần 2 vào năm 2014. Cuốn sách có nhiều nhân vật, trong đó Ngọc Anh, Hân, Lê Thị Hà, Tanya Mai... là những em bé có số phận đặc biệt.

Chantal Doecke tên Việt Nam là Lê Thị Hà (bên trái) cùng anh chị em nuôi của ḿnh.
Là một dịch giả, tôi cũng phải nói rằng, cuốn sách này khá kén người đọc, tuy nhiên ai đă đọc được th́ thấy rất thú vị. Trong quá tŕnh dịch sách có nhiều nhân vật gây xúc động cho tôi, có những lúc tôi vừa dịch, vừa khóc v́ thương số phận những em bé Việt Nam ấy.
Tác giả Dana Sachs đă từng tâm sự với tôi rằng, với trách nhiệm của một nhà văn, nhà báo, bà đă bỏ ra nhiều năm trời t́m đến các thư viện, các trung tâm lưu trữ, thực hiện vô số những cuộc gặp xúc động, phỏng vấn ở cả Mỹ và Việt Nam, để có những tư liệu dày dặn viết sách, bổ sung cho độc giả những mảnh ghép tinh tế và sâu sắc của chiến tranh. Bạn đọc sẽ thêm một lần rưng rưng trước những câu chuyện đặc biệt về chiến tranh và con người và đôi khi cũng phải cảm ơn sự kỳ lạ của số phận...”.
Trong hành tŕnh của bài viết này, phóng viên tôi đă kết nối được với nhân vật Tanya Mai. Tanya kể rằng: “Sau khi sang Mỹ, tôi được làm con nuôi trong gia đ́nh ông bà Ken và Ellen Clarke ở London. Gia đ́nh Clarke đă có 3 người con khác là Ali, Linda và Nicky nhưng họ rất thương yêu tôi, thậm chí, họ c̣n đặt cho tôi tên ở nhà gọi là Tawny.
Sau 40 năm sang Mỹ, tôi đang là một họa sỹ ở thành phố Belfast, Bắc Ireland. Tuy nhiên, tôi cũng trải qua một thời gian dài day dứt về thân phận và nguồn gốc bản thân. Tôi không biết gia đ́nh ruột thịt của ḿnh như thế nào. Tôi thậm chí c̣n không biết ngày sinh của ḿnh. Giấy tờ đều đă mất sạch trong chiến tranh. Tôi cảm thấy sự khác biệt khi trưởng thành v́ mái tóc đen và nước da ngăm. Thời niên thiếu của tôi ở trường phổ thông Coleraine rất khó khăn. Tôi đă khóc rất nhiều. Nhưng tôi luôn đau đáu hướng về Việt Nam – nơi tôi được sinh ra...”.
“T́nh huống kỳ lạ”
Tác giả Dana Sachs từng tâm sự rằng, mùa xuân năm 2004, trong khi t́m kiếm tư liệu về Việt Nam trên Internet, bà đă t́nh cờ nh́n thấy một tấm ảnh các trẻ em quấn pijama đặt trong những chiếc hộp nằm trên ghế trong cabin máy bay và có ư nghĩ rằng: “Những đứa trẻ này trông giống như những con búp bê mà những đứa trẻ 3 tuổi sau khi chơi chán thường vứt ở ghế sofa. Một số đứa đang ngủ. Một đứa nh́n thẳng vào máy ảnh với ánh mắt vừa ṭ ṃ vừa xa vắng....”.
Bức ảnh đầy xúc động đó đă thôi thúc bà bước vào hành tŕnh khám phá câu chuyện cảm động về những đứa trẻ trong chiến dịch Không vận Trẻ em. Với bà, chiến dịch này là một “t́nh huống kỳ lạ” mà chiến tranh tạo ra. Điều này đă thôi thúc Dana Sachs dành thời gian t́m kiếm tài liệu để viết tác phẩm trên.
C̣n nhân vật Chantal Doecke (tên Việt Nam là Lê Thị Hà) th́ kể lại rằng: “Tôi được nhận nuôi tại một gia đ́nh ở Australia. Mẹ ruột của tôi đă lặng lẽ rời khỏi bệnh viện Từ Dũ sau khi sinh. Máy bay chở tôi đáp tại sân bay Australia vào ngày 5/4/1975. Khi đó, tôi chỉ khoảng vài ngày tuổi, tôi lớn lên trong sự yêu thương của gia đ́nh Diggins. Rời nơi “chôn nhau cắt rốn” khi c̣n quá nhỏ nên tôi không thể lưu giữ nhiều kư ức về quê hương Việt Nam. Tôi cảm thấy đau đớn v́ phải rời xa quê hương và gia đ́nh khi c̣n quá nhỏ. Tôi đă phải nén cảm xúc khi nghĩ về những người thân yêu và mảnh đất nơi tôi sinh ra. Tuy nhiên, tôi chưa bao giờ thoát khỏi nỗi suy tư về những người thân ruột thịt thực sự của ḿnh...”.
Trao đổi với PV báo ĐS&PL, tiến sỹ Lê Vương (viện Khoa học Lịch sử Việt Nam) cho biết: “Tập phóng sự Những mảnh đời được ban tặng cho phép những người bị ảnh hưởng trực tiếp nói lên tiếng nói, kể cho mọi người nghe về những trải nghiệm của họ... Khó có tác phẩm nào có thể sánh được về bề rộng sự kiện và chiều sâu nhận thức như vậy...
Sự kiện lịch sử tháng 4/1975 là một giai đoạn lịch sử quan trọng cho cả Việt Nam và nước Mỹ, tác giả Dana Sachs đă cho chúng ta biết rằng “Chiến dịch Không vận Trẻ em” đă tác động mạnh mẽ thế nào đến nhận thức của nước Mỹ, ảnh hưởng đến nhiều số phận trong đó có nhiều số phận trẻ em Việt Nam...”.
tm