Xuất thân trong 1 gia đ́nh quân nhân và đă làm tới chức tỉnh trưởng trước năm 1975 thế nhưng cuối cùng ông vẫn chọn con đường tu hành. Kẻ từ ngày đi tu ông đă có 1 cuộc sống hoàn toàn như ư đầy nhẹ nhàng. Dưới đây là những trải ḷng của ông về những năm tháng đă qua. Chọn con đường tu khi tuổi đời đă chất chồng. “Năm 73 tuổi tôi trở thành ông tăng, tới nay th́ tôi tu được 18 năm rồi,” Tỳ Kheo Thích Không Chiếu nhớ lại quăng thời gian xuất gia tu hành.
Ít ai biết rằng, ông chính là cựu Đại Tá Trần Văn Tự, tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Ninh Thuận trước năm 1975, và là trưởng nam nhà ái quốc Trần Văn Thạch – người được chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa tuyên dương và đặt tên cho một con đường nằm bên hông chợ Tân Định, Sài G̣n. Tiếp phóng viên nhật báo Người Việt tại khu chúng cư Greenfair Towers II, trên đường Fairgrounds, góc với đường Broadway, ở thành phố Sacramento, miền Bắc California, nhà sư Thích Không Chiếu say sưa nói về ḍng thiền Tánh Không, mà vị thiền chủ đă chủ trương thực hành thiền theo lời dạy của Đức Phật Thích Ca trong kinh, với bốn phương tiện Quán, Chỉ, Định, Huệ.
Theo Tỳ Kheo Thích Không Chiếu, ḍng thiền này vừa giúp thiền sinh điều chỉnh được bệnh tâm thể của ḿnh, hài ḥa thân tâm, hài ḥa với mọi người từ gia đ́nh đến cộng đồng, xă hội; vừa hướng dẫn cho thiền sinh tỉnh ngộ, chuyển đổi nhận thức, phát huy từ từ trí huệ tâm linh.
“Cách thiền của ḍng thiền Tánh Không do Ḥa Thượng Thích Thông Triệt sáng lập vào ngày 4 Tháng Giêng, 1995. Thầy xuất gia với Ḥa Thượng Thích Thanh Từ một thời gian tại Việt Nam theo ḍng thiền Trúc Lâm. Sau năm 1975, thầy bị Cộng Sản đưa đi tù ‘cải tạo’ suốt 14 năm. Trong hoàn cảnh khó khăn này, thầy vẫn tu tập theo pháp thiền do sư phụ truyền dạy, nhưng cuối cùng, thầy khám phá một pháp thiền mới dễ tu, dễ thực hành và mau có kết quả là thiền Tánh Không ngày nay, có sự liên hệ giữa thiền và khoa học năo bộ,” ông cho biết.
Đi tu để tâm thong thả
Nói về cơ duyên đi tu, ông kể: “Tôi hồi trước là sĩ quan quân đội thua trận, đi tŕnh diện, rồi Cộng Sản kêu đi ‘học tập’ một tháng. Một tháng mà kéo dài tới 12 năm 3 tháng. Vào tù, có mấy người lén đem kinh Phật vô, rồi họ đến chỗ chúng tôi hỏi người nào rảnh th́ sao ra nhiều bản, để có bị tịch thu cái này th́ c̣n cái khác. Lúc đó tôi rảnh nên lănh kinh sao ra. Chép tới chép lui từ từ tôi thấm.”
Ông đi tù “cải tạo” từ cuối Tháng Năm, 1975, ngay sau ngày mất nước, và được thả ra vào cuối Tháng Tám, 1987. “Sau khi ra tù, mấy năm sau đó tôi lang thang ở miền Nam. Đến cuối Tháng Hai, 1992, tôi sang Mỹ theo chương tŕnh tị nạn H.O.,” ông nhớ lại.
Ông bảo, ông “lang thang ở miền Nam” là bởi v́ khi ra tù th́ gia đ́nh ông chỉ c̣n một người con ở lại Việt Nam; vợ ông cùng sáu người con khác th́ ở Canada.
“Gia cảnh tôi cũng hơi lộn xộn chút. Người phối ngẫu cũ của tôi vượt biên, chừng phỏng vấn vào Mỹ th́ không biết v́ lư do ǵ mà Mỹ từ chối. Bà ấy mới qua Canada với các con. Khi qua Mỹ, những năm 1993, 1994 tôi dời lên ở Buffalo, New York, để chạy qua chạy lại gần với Canada, gần với các con của ḿnh. Hồi lúc ở tù tôi bị suyễn quá, tôi sợ lạnh, nên không qua Canada ở,” ông kể.
“Tôi sang Mỹ khi đă 65 tuổi. Ngày tôi ra tù, gặp lại gia đ́nh, th́ thấy không giống như ngày xưa nữa. Tôi đi vắng mặt 12 năm, con cái tôi lớn hết ráo rồi, tôi đâu c̣n như ông bố ngày xưa để dạy dỗ con nữa, tôi lạc hậu, không biết ǵ hết. Nhớ lại thời gian trong tù chép kinh, tôi nhớ lời Phật dạy, và thấy trong người khỏe hơn, nên nghĩ đến chuyện xin gia đ́nh cho xuất gia. Chính v́ vậy, khi ở Buffalo, tôi có nói với mấy đứa nhỏ, mà chúng nó chưa đồng ư đâu. Măi cho đến cuối năm 1999 th́ tôi mới được con cái chấp nhận cho đi tu, và đầu năm 2000 tôi trở thành ông tăng,” ông kể tiếp. “Nhiều lư do để tôi đi tu lắm, nhưng lư do quan trọng nhất là tôi nhận thấy cuộc sống thế gian này vô thường lắm, nên đi tu để tâm thong thả, không bị khổ sở về cuộc đời. Chứ nếu cứ ngồi nghĩ lại chuyện cũ, chuyện xưa th́ khổ sở lắm. Ḿnh mất nước, rồi đi tù, trở ra, cũng không c̣n cái cũ. Vô thường lắm, nên lo tu cho rồi,” ông nói.
Khi sang Mỹ, ông gặp lại Ḥa Thượng Thích Thông Triệt, người ở chung trong tù với ông. “Lúc đó tôi biết thầy Thông Triệt có mở lớp thiền trên Portland, Oregon, nên cuối năm 1999 tôi xin theo thầy xuất gia,” ông cho biết.
Ông kể, nhờ chép kinh trong thời gian ở tù nên ông bước vào con đường tu nhanh chóng, và “thầy chỉ cần hệ thống hóa các pháp lại là tôi lĩnh hội được ngay. Thực hành thiền là một cách huấn luyện cho tâm từ động trở nên yên lặng, giúp cho cuộc sống của người thực hành trở nên thanh thản, thân tâm hài ḥa và hài ḥa với môi trường chung quanh.”
“Thí dụ, khi c̣n ở tù, hằng đêm cán bộ quản giáo tập họp chúng tôi ra trước sân, trời lạnh cũng như trời nóng, phải ngồi một tiếng đồng hồ để bị chửi bới, nào là tay sai, nào lính đánh thuê, nào là ăn gan uống máu… Người ta có thể kêu ngay tên ḿnh, chỉ ngay trước mặt, chửi ḿnh nữa. Mục đích là để ḿnh tức quá, khó ngủ thôi. Nhưng tôi học được bài học của Phật rồi, tôi nói thầm, anh chửi là chuyện của anh, tôi nghe là chuyện của tôi. Từ đó tiếng chửi bới của họ không làm khổ tôi nữa. Đạo Phật lạ ở chỗ đó,” ông nói thêm.
Đi tu để sám hối v́ ‘không giữ được miền Nam’
Ông hào hứng kể chuyện tu tập bao nhiêu th́ ông lại dè dặt mỗi khi nhắc đến chuyện cũ bấy nhiêu. Bởi lẽ, chuyện đời ông là một chuỗi ngày dài như sợi dây liên kết. Do đó, câu chuyện của ông cứ đứt quăng mỗi khi ông nhắc chuyện xưa.
“Bây giờ tôi tu rồi, tôi không muốn đổ thừa ai, chê trách ai. Tôi cho đó là cái nghiệp, cái duyên của ḿnh thôi. Chuyện cũ ḿnh moi ra, phê phán, không được đâu, khó lắm. Chuyện cũ cứ để nó vậy thôi. Nhưng nó cũng có lợi lắm, nó giúp cho ḿnh sáng ra, đừng để lầm vết xe cũ nữa. Nếu ḿnh học được bài học cũ th́ ḿnh khôn hơn hồi trước,” ông ngập ngừng nói.
“Hồi xưa ḿnh nghĩ ḿnh đi lính, rồi nhờ Mỹ giúp đỡ nên ḿnh chống sự xâm chiếm của miền Bắc, bảo vệ miền Nam. Rốt cuộc cái đùng phá tiêu hết. Anh Mỹ lo chạy. Thành ra cái mộng của ḿnh tiêu tùng, đổ vỡ hết. Hồi xưa ḿnh có lư tưởng nhưng tiêu rồi. Nên đi tu để ḿnh sám hối, để ḿnh bớt khổ thôi,” ông trầm tư nói.
Ông tâm sự: “Khi đi tu tôi mới thấy khác. Khác là v́ khi cái tâm ḿnh nghĩ khác th́ sự việc sẽ khác. Lúc trước tôi nghĩ thế này, Mỹ bỏ ḿnh, ḿnh bị phản bội, ḿnh tức ḿnh khổ. Rồi tôi nghĩ, mấy ông tướng lĩnh bỏ chạy, ḿnh khổ. Nếu cứ nghĩ như vậy hoài th́ ḿnh tức ḿnh khổ thôi. Tôi thấy thế này, ḿnh yếu th́ ḿnh phải làm con cờ cho người ta. Muốn không làm con cờ th́ ḿnh phải mạnh lên, phải tự lực thôi. Bây giờ nước nào cũng vậy, dựa vào người ta là bị người ta xài xể. Người ta buông ḿnh cái rụp th́ chới với ngay. Thành ra ḿnh thành con cờ. Tôi đi tu để không làm con cờ nữa.” “Con cờ” trên bàn cờ quốc tế mà ông nói chính là Hiệp Định Paris 1973 do bốn bên tham chiến gồm Hoa Kỳ, Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa, Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng Ḥa kư kết tại Paris ngày 27 Tháng Giêng, 1973. Về mặt công khai th́ đàm phán có bốn bên, nhưng việc đàm phán để đạt được nội dung hiệp định lại chủ yếu là các phiên họp kín giữa hai đoàn Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa và Hoa Kỳ quyết định. Trong quá tŕnh đàm phán, Hoa Kỳ gần như phớt lờ ư kiến của đoàn Việt Nam Cộng Ḥa và tự sắp đặt mọi chuyện trong các cuộc họp kín với Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa.
Ông nói: “Tôi có mấy người bạn là đại tá không quân, họ nói lănh nhiệm vụ thả bom trên đường ṃn. Mỹ chỉ định phải thả những cây cầu. Nhưng thật sự Cộng Sản vô họ t́m chỗ nước cạn rồi sắp đá đi. C̣n cầu chỉ là giả tạo thôi, nó ngầm để cao xạ, nếu ḿnh chúi đầu xuống thả bom mấy cây cầu th́ bị cao xạ tỉa. Đó là cái mồi để dụ máy bay. Thành ra mấy ông đại tá không quân nói không dại ǵ đi đánh mấy cái cầu, mà đi đánh mấy đoàn xe. Nhưng hễ đi đánh mấy đoàn xe th́ về bị rầy. Tôi tự hỏi, tại sao lạ vậy? Th́ hóa ra họ kư kết ngầm làm sao ḿnh đâu có biết, họ liên lạc với nhau bằng ngoại giao hay bằng ǵ ḿnh không biết, mà ḿnh cứ đánh trật chứ không đánh trúng. Mỹ và miền Bắc kư kết. Miền Nam cuối cùng mới kẹt. Ḿnh là con cờ. Ḿnh không có quyền ǵ hết. Nếu Mỹ không buông th́ miền Nam không bao giờ thua. Người ra giúp ḿnh, nếu là chủ th́ ḿnh không bị thí. C̣n người ta là chủ, th́ ḿnh không thể nói năng ǵ được với người ta, thành ra ḿnh thua là phải rồi.”
Hỏi ông, có phải miền Nam chủ quan khi có Mỹ hỗ trợ phía sau? Ông nhận định: “Tôi nghĩ rằng thế này, miền Nam quá là tự do, quá là rộng răi, quá là dân chủ… cho nên không ai nói ai nghe. Mà không thấy thực tế chủ nghĩa Cộng Sản như thế nào. Ḿnh đă một lần cắt đứt rồi, khi cả triệu người từ miền Bắc di cư vô vào năm 1954 rồi, mà cũng chưa thấm được chủ nghĩa Cộng Sản nữa. Miền Nam không có đồng ḷng, không có quyết tâm. Ḿnh cứ mất quyền chủ động của ḿnh là vậy.”
“Ḿnh có sáu năm b́nh yên mà, từ năm 1954 đến 1960 lận. Ḿnh cứ thản nhiên b́nh yên, ḿnh không biết Cộng Sản cấy người, không biết Cộng Sản nằm vùng, không biết ǵ hết về Cộng Sản… Và ḿnh mất sáu năm b́nh yên!” ông suy tư nói.
Kể về thời gian làm tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Ninh Thuận, ông cho hay: “Tôi ở Ninh Thuận được sáu năm, từ năm 1969 đến 1975 th́ ‘sập tiệm.’ Sáu năm đó ở Phan Rang tương đối yên, tốt.”
Để có được chức vụ này, ông cho biết: “Nó cũng có lư do, không phải tự nhiên. Bố tôi là giáo sư Pháp Văn ở các trường tư thục tại Sài G̣n. Trong số những học tṛ của bố tôi có ông Nguyễn Văn Kiểu, tức anh ruột Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu; và ông Năm Tôn, anh rể ông Thiệu. Một lần t́nh cờ tôi than phiền với ông Kiểu là t́nh h́nh an ninh của mấy tỉnh chung quanh Sài G̣n không tốt. Ban đêm th́ du kích cũng xuất hiện dài dài. Ông Kiểu hỏi tôi, ‘Ông nói t́nh h́nh như vậy mà ông có làm được không?’ Tôi nói cho tôi thử. Thế là ông ấy điều tôi ra Ninh Thuận thử.”
Ông cho biết, ông xuất thân trường sĩ quan Vơ Bị Đà Lạt khóa 5, sau đó đi tác chiến ở các tiểu đoàn Sơn Cước miền Ban Mê Thuột. Có thời gian dài ông ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Sau đảo chánh lật đổ ông Ngô Đ́nh Diệm th́ ông về Bộ Tổng Tham Mưu, rồi ra Trung Đoàn 44, Sư Đoàn 23.
Ông được cử theo học khóa Chỉ Huy và Tham Mưu Cao Cấp tại Trường Đại Học Quân Sự Đà Lạt. Ra trường ông được về Sư Đoàn 18 ở Xuân Lộc, Long Khánh. Năm 1969 ông nhận chức tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Ninh Thuận.
Trong một bài viết về cựu Đại Tá Trần Văn Tự, ông Huy Vân – một người đồng đội của ông ở Ninh Thuận – viết: “Nói đến tỉnh Ninh Thuận là phải nhắc đến ông Đại Tá Trần Văn Tự, vị đầu tỉnh có tiếng thanh liêm chính trực, kế hoạch chống Cộng Sản xâm nhập ấp hữu hiệu. Ông phục vụ tại tỉnh Ninh Thuận kế hoạch chống Cộng Sản hơn cả các vị tiền nhiệm. Mỗi lần địch xâm nhập hầu như bỏ lại xác tại trận. Tiếng tăm ông cũng vang một thời. Ông phạt tôi cũng nhiều lần và chính ông cũng đỡ tôi dậy. V́ lẽ, ông làm việc xét qua nhăn quan của người có kinh nghiệm lịch lăm, một cấp chỉ huy có tinh thần quốc gia dân tộc, mọi việc ông tự quyết đoán và ít khi ông nghe theo thành phần nịnh bợ. Ninh Thuận bỏ ngỏ không phải do ông hành động, chính do kế hoạch trung ương lệnh.”
“Phải nói Đại Tá Tự là người chống Cộng quyết liệt, v́ lẽ theo tinh thần thân sinh ông là cụ Trần Văn Thạch cũng là người có tên tuổi đi vào lịch sử. Sau 13 năm trong ngục tù Cộng Sản – đôi khi gặp lại ông rất ôn tồn, vui vẻ nhận lấy thương đau bi thảm của đất nước! Phục vụ dưới thời ông là điều vinh dự cho riêng cá nhân tôi; sự thưởng phạt rất công minh, không phe phái lăng nhăng. Tuy nhiên có lúc ông cũng bị mang tai tiếng… Chắc chắn là không ai vẹn toàn trong lúc thi hành nhiệm vụ. Giờ đây ông cũng an cư thiền tịnh lo việc tu hành, cầu xin ơn trên trời Phật độ cho ông thêm nhiều sức khỏe tu luyện sớm đạt được công quả,” trích bài viết “Tản mạn qua 16 năm sống trên đất Mỹ” vào ngày 23 Tháng Tám, 2008, của ông Huy Vân.
91 tuổi vẫn lái xe ngược xuôi Bắc Nam
Ông trải ḷng: “Tôi là thầy chùa gốc lính. Thành ra tôi bị kẹt khi nói chuyện chính trị, nói chuyện t́nh h́nh. B́nh thường ông tăng không nói chuyện đó. Thật ra, ḿnh nói cũng không phải để oán hận, để buồn khổ ǵ hết. Nói để kể v́ sự t́nh nó như vậy thôi.”
Sinh năm 1927 tại Pháp, ông sống ở Sài G̣n, rồi ngược xuôi Cần Thơ-Sài G̣n. V́ thời cuộc, gia đ́nh riêng của ông cũng ly tán sau biến cố 1975.
“Trước năm 1975, tôi có cho hai đứa con lớn đi du học. Sau đó chúng ở Canada với mẹ, nhưng rồi mỗi đứa cũng tứ xứ. Bây giờ th́ con gái đầu ḷng ở Pháp, ba đứa con ở Canada, hai đứa ở Mỹ (California, Arizona), và một đứa ở Việt Nam,” ông kể.
“Tuy vậy, bảy đứa con không phải đều thành đạt, bởi v́ có hai đứa phải vất vả kiếm sống. Không phải nó dở, mà nó không thích làm công chức, không thích làm có lương, nó muốn sống tự lập vậy thôi. Hồi xưa tôi cứ lo con ḿnh nó nghịch nhau, gây gổ nhau, nhưng thật ra tụi nó thương yêu nhau lắm, vẫn thường xuyên liên lạc với nhau, đứa này thất nghiệp có đứa kia giúp. Con tôi có mấy đứa cũng học thiền nữa, tự học thôi chứ tôi không bắt,” ông kể thêm.
Giờ đây, ở một ḿnh trong căn apartments (được ‘housing’) ông tự đi chợ, tự nấu ăn, tự giặt đồ, tự làm hết mọi thứ. “Tôi qua đây đúng 65 tuổi nên được nhận tiền già. Hồi trước có $400, $500, nay lên $900 rồi. Cứ mỗi tháng nhận tiền sinh sống. Đi chợ búa có xe, ở nhà có bếp nấu. C̣n quần áo thay v́ đem xuống máy giặt nhưng mặc ít nên dơ cái nào th́ tôi giặt cái đó rồi phơi,” ông nói.
“Tôi tu nhưng không có chùa. Chỗ nào cần th́ đến giảng, chỉ cho họ cách tu, cũng như đem kinh nghiệm của ḿnh trao đổi với họ thôi. Mỗi lần đi giảng, nếu đạo tràng đưa ít th́ lấy, c̣n nhiều th́ tôi chia bớt cho đạo tràng v́ tôi không có xài nhiều làm chi, chỉ giữ đủ xài thôi, hoặc là có chỗ này chỗ kia xây dựng th́ tôi cúng dường,” ông nói tiếp.
“Tôi ăn chay, với người ta giúp đỡ này kia thành ra ít tốn kém lắm. Nhiều khi đi sửa xe, mấy ông thợ cũng sửa giùm nữa. Cái ǵ đáng họ mới lấy tiền, họ cũng không tính tiền công nữa. Rồi tôi cũng ngại, không muốn lợi dụng ḷng tốt người ta, nên tôi kiếm chỗ nào thợ không biết ḿnh mà họ tử tế th́ sửa. C̣n mấy ông thợ sửa giùm th́ tôi ‘chạy.’ Người ta tốn tiền mướn xưởng, mướn thợ, mà để người ta sửa giùm hoài ngại lắm,” ông thổ lộ.
Một ngày của Tỳ Kheo Thích Không Chiếu bắt đầu lúc 5 giờ sáng tọa thiền đến 6 giờ. Sau đó có một tiếng thể dục, tắm rửa. Đến 7-8 giờ th́ ăn sáng, nấu cơm. Đi bộ khoảng một tiếng sau đó. Từ 10-11 giờ tọa thiền. Ông ăn cơm trưa khoảng 12 giờ, và ngủ nghỉ đến 2 giờ trưa. Bắt đầu 2-3 giờ chiều th́ tọa thiền. Sau đó dành một tiếng đi bộ, đến 4-5 giờ chiều soạn bài giảng. Khoảng 6 giờ 30 phút ăn chiều, sau đó tọa thiền đến 8 giờ 30 phút tối. Từ sau 9 giờ tối ông đi ngủ.
Ở cái tuổi xưa nay hiếm, nhưng hằng ngày ông vẫn cùng chiếc xe cà tàng rong ruổi khắp nơi. Ông phụ trách đạo tràng ở Sacramento và San Jose. Ở Sacramento th́ chỉ cách nhà khoảng 15 phút, nhưng mỗi lần đi giảng ở San Jose, ông phải mất khoảng hai tiếng. “Đi riết nó quen, sáng đi, chiều chạy về,” ông nói.
Vậy nhưng, ông c̣n chạy từ Sacramento xuống Santa Ana, Nam California, để giảng cho những nơi muốn nghe ông hướng dẫn.
“Hồi xưa tôi đi nổi, chứ giờ già rồi, hơn 90 tuổi rồi, tôi phải chia làm hai đoạn. Tôi tới Fresno ngủ nhờ nhà quen ở đó rồi hôm sau đi tiếp. Mỗi khúc như vậy đi khoảng 5-6 tiếng, c̣n nếu đi ‘một lèo’ th́ cũng được, nhưng mệt lắm. Mệt th́ mất sức lắm, cả tuần lễ mới lấy lại sức được. Bây giờ già yếu rồi, thành ra không dám liều như hồi xưa. Liệu sức thôi. Ăn cũng vậy, tôi ăn vừa đủ no thôi, không ăn no nữa,” ông chia sẻ.
Nói về sự hướng dẫn trực tiếp của thiền sư, đạo hữu Thông Văn Phạm Ẩn, 69 tuổi, cho biết: “Xuyên qua sự hướng dẫn của thầy Thích Không Chiếu, thầy giúp ích chúng tôi rất nhiều qua bài giảng của thầy, từ lúc thầy ở trong tù sau đó thầy đi ra ngoài làm tỳ kheo. Sự giúp đỡ của thầy khiến chúng tôi có mănh tiến hơn trên con đường tu tập Phật pháp, cũng như trau dồi tâm linh cho từng cá nhân thiền sinh.”

Đạo hữu Nguyễn Thị Nguyệt, 68 tuổi, chia sẻ: “Thầy Thích Không Chiếu là một chân tu, cuộc sống thầy rất đạm bạc, thầy không màng có chùa, không muốn những cái ǵ cho riêng thầy. Pháp của thầy đi vào thực tế, đi vào đời sống, rất cần thiết, nên các thiền sinh khi nghe pháp của thầy rất lợi lạc.”
Đạo hữu Tâm Sơn Nguyễn Văn Đàng, 62 tuổi, cho hay: “Lần đầu tiên tôi đến ḍng thiền Tánh Không là năm 2014. Trong bốn năm qua, khi tiếp xúc với thầy theo thời gian, tôi cảm nhận được sự quư trọng của ḿnh đối với thầy càng ngày càng tăng dần. Đối với những pháp của thiền Tánh Không mà tôi được học, được tiếp cận th́ nó có nhiều cái lợi lạc trong cuộc sống của tôi, trong cơ thể, tâm hồn, nhận thức, suy nghĩ, quan điểm sống, thái độ sống, cách cư xử hằng ngày của ḿnh trong gia đ́nh và xă hội có những thay đổi theo chiều hướng tích cực, tốt hơn cho bản thân ḿnh. Thầy dạy rất thực tế, nêu thí dụ thực tế, chứ không phải cao sâu, huyền bí ǵ cả, nên mọi người rất muốn nghe thầy giảng. Dù người nào đó có bận công việc ǵ đó cũng cố gắng sắp xếp để tới nghe thầy giảng.”
Đạo hữu Minh Phạm, 40 tuổi, từ Đức sang thăm gia đ́nh cũng đến học thiền với Tỳ Kheo Thích Không Chiếu. Anh nói: “Trước đây tôi có thực hành thiền theo ḍng thiền của Thiền Sư Nhất Hạnh, cũng được bốn năm th́ mẹ tôi giới thiệu ḍng thiền Tánh Không này. Công việc của tôi là software engineer (kỹ sư nhu liệu), nên áp dụng thiền đỡ bị stress rất nhiều. Tôi thấy ḍng thiền này thích hợp bởi v́ đơn giản, khoa học, không bị một sự ràng buộc nào hết, và tôi gặt hái được nhiều lợi lạc. Tôi học từ Tháng Mười Một, 2017, đến nay được bảy tháng. Mỗi tuần đều được giáo thọ ở đây hướng dẫn học qua điện thoại bằng cách gọi qua ứng dụng Viber.”
Đạo hữu Uyển Như Nguyễn Thị Yến, 67 tuổi, giáo sư dạy Việt Ngữ tại trường đại học cộng đồng Cosumnes River College (CRC), đến với thiền Tánh Không từ năm 2007, nói: “Tôi gặp được thiền Tánh Không như một món quà vô giá, đến nay đă 11 năm rồi. Năm 2007 chỉ là một nhóm nhỏ thường sinh hoạt thiền tập với nhau. Đến năm 2011 nhóm nhỏ này trở thành đạo tràng. Năm 2013 được chính phủ California công nhận là một tổ chức vô vụ lợi. Đạo tràng Sacramento có một thuận lợi rất lớn là có sự hướng dẫn trực tiếp của thầy Không Chiếu. Thầy là một trong các vị giáo thọ có bài dạy rất gần gũi, đi vào đời sống rất cụ thể.”
Và cứ thế, đều đặn mỗi tuần, ông đến sinh hoạt thiền tập vào mỗi Chủ Nhật cùng đạo tràng Sacramento, thuê tại địa điểm của Trung Tâm Sinh Hoạt Cộng Đồng Sacramento.