Kể từ mùa xuân Mậu Dần 1698 khi Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh được Chúa Nguyễn Phúc Chu cử vào nam kinh lược, “lấy đất Nông Nại làm phủ Gia Định, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lập xứ Sài G̣n…” đến nay đă hơn 300 năm. Ba trăm năm với bao biến cố thăng trầm, dấu tích của Sài G̣n xưa đă dần nhạt phai dưới lớp bụi thời gian. “Vật đổi sao dời”, đây đó c̣n lưu lại một vài ngôi đ́nh, chùa miếu, lăng mộ… đă qua sửa chữa tu bổ nhiều lần dù có làm mất dần nét cổ kính nhưng phần nào c̣n thể hiện sự lưu tâm ǵn giữ. Lần theo sử sách và một vài dấu tích, chúng tôi đi t́m lại một “Sài G̣n Xưa” lâu nay chưa được nhiều người biết đến. Đó là một làng nghề nổi tiếng đă từng góp phần cho sự phát triển của vùng đất này: Xóm Ḷ gốm.
Là trung tâm của lưu vực Đồng Nai rộng lớn và trù phú, Sài G̣n – Bến Nghé ngay từ khi mới h́nh thành đă sớm mang dáng vẻ của một đô thị sôi động bởi hoạt động thương nghiệp và sản xuất của nhiều ngành nghề thủ công. Khoảng cuối thế kỷ XVIII tại đây đă có 62 ty thợ do nhà nước quản lư và hàng trăm phường thợ trong dân gian. Nhiều ngành nghề tập trung trong các khu vực nhất định để rồi xuất hiện những địa danh như xóm Chiếu, xóm Cốm, xóm Ḷ Rèn, xóm Dầu, xóm Chỉ, xóm Vôi, xóm Bột… riêng xóm Ḷ Gốm vẫn c̣n để lại một số địa danh như đường Ḷ Gốm – đường Ḷ Siêu – đường Xóm đất – bến Ḷ gốm – rạch Ḷ gốm – kênh Ḷ gốm – khu ḷ lu… thuộc khu vực quận 6, 8, 11 ngày nay. Sử liệu sớm nhất nói đến nghề làm gốm ở Sài G̣n xưa là sách “Gia Định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức viết khoảng năm 1820.
Đoạn viết về Mă trường Giang-kênh Ruột Ngựa như sau: “Nguyên xưa từ cửa Rạch Cát ra phía Bắc đến Ḷ Gốm có một đường nước đọng móng trâu, ghe thuyền không đi lại được.Mùa thu năm Nhâm Th́n (1772) cho đào con kênh thẳng như ruột ngựa nên mới đặt ra tên ấy…” Kênh Ruột Ngựa đă giúp cho ghe thuyền đi lại giữa Sài G̣n với miền Tây thêm thuận lợi.
Bản đồ Thành Gia Định do Trần Văn Học vẽ từ cuối năm 1815 đă có ghi địa danh Xóm Ḷ Gốm ở khoảng làng Phú Lâm- Phú Định (ngày nay là khu vực quận 6 tiếp giáp quận 8). Bài “Phú cổ Gia Định phong cảnh vịnh” sáng tác khoảng đầu thế kỷ XIX miêu tả: “Lạ lùng xóm Ḷ Gốm, chân ṿ ṿ bàn cổ xây trời…” Trong 62 ty thợ tập trung tại Sài G̣n làm việc cho nhà nước vào cuối thế kỷ XVIII đă có các ty thợ Ḷ chum, ngói mộc, gạch mộc, ḷ gạch…
Những dấu tích thăng trầm của xóm Ḷ Gốm Sài G̣n xưa
Một vài tài liệu của Pháp, tuy tản mạn và có phần phiến diện, cũng phản ánh về việc sản xuất gốm ở Chợ Lớn vào cuối thế kỷ XIX: Tại Chợ Lớn có khoảng 30 ḷ gốm tập trung ở Ḥa Lục, Phú Định, Cây Mai… vùng Chợ Lớn sản xuất lu và các đồ gốm thông dụng như chậu vịm, siêu ấm, nồi trách, hũ khạp, cà ràng… vùng Cây Mai có một ḷ sản xuất đồ sành. Các ḷ này lấy nguyên liệu tại chỗ, tuỳ chất đất mà sản xuất thành các loại sản phẩm. Mỗi ḷ gốm hàng năm có thể sản xuất hàng trăm ngàn sản phẩm. Đến đầu thế kỷ XX vẫn c̣n nhiều ḷ gốm nổi tiếng như ḷ Tín Di Hưng, Quảng Di Thành, Hiệp Hưng, Bửu Nguyên, Đồng Ḥa, các ḷ chuyên sản xuất lu, khạp và đồ gia dụng… Theo học giả Vương Hồng Sển th́: “Từ khi lấp rạch Chợ Lớn th́ rạch Ḷ gốm, kinh Ṿng Thành không thông thương và ḷ gốm chỉ c̣n sót lại cái tên trơn và không sản xuất đồ gốm nữa…”
Từ những tư liệu lịch sử trên và qua khảo sát thực tế có thể nhận biết địa bàn xóm Ḷ Gốm xưa khá rộng, gồm các làng Ḥa Lục (quận 8), Phú Định-Phú Lâm (quận 6), Phú Giáo-G̣ Cây Mai (quận 11) trải dài đôi bờ kênh Ruột Ngựa, kênh-rạch Ḷ Gốm. Những con kênh này là tuyến đường giao thông chính của khu vực Sài G̣n cũ – nay là Chợ Lớn: một vùng thấp trũng chằng chịt kênh rạch lớn nhỏ, mọi sự đi lại đều dùng ghe xuồng. Kênh Ruột Ngựa và rạch Ḷ Gốm c̣n nối liền rạch Chợ Lớn với rạch Cát (Sa Giang) và rạch Bến Nghé. Từ ngă ba “Nhà Bè nước chảy chia hai” xuồng ghe theo rạch Bến Nghé và kênh Tàu Hũ qua kênh Ruột Ngựa ra sông Cát về miền Tây. Ngày nay rạch Chợ Lớn không c̣n nữa, nhiều đoạn rạch Ḷ Gốm biến mất – nhất là khu vực G̣ Cây Mai hầu như không c̣n dấu tích con đường thuỷ quan trọng này. Kênh Ruột Ngựa không c̣n thẳng như tên gọi do bị bồi lấp lấn chiếm hai bên bờ. Kênh Ḷ Gốm ngày càng cạn hẹp dù đă nạo vét nhiều lần… Tuy nhiên ghe xuồng vẫn theo con nước mà xuôi ngược, dù nơi đây đă phát triển hệ thống đường bộ chằng chịt như mạng nhện, dù các làng nghề – phố nghề ven kênh rạch không c̣n nữa… Đủ biết trước đây trước đây tuyến đường thủy này quan trọng như thế nào.
Những dấu tích thăng trầm của xóm Ḷ Gốm Sài G̣n xưa
Dấu tích vật chất của xóm Ḷ Gốm ngày xưa nay chỉ c̣n lại di tích ḷ gốm Hưng Lợi thuộc làng Ḥa Lục (phường 16 quận 8), nằm ven kênh Ruột Ngựa. Đối diện là làng Phú Định cách đây vài năm c̣n một số gia đ́nh làm nghề “nặn ông ḷ” – bếp gốm. Di tích là g̣ lớn chứa đầy mảnh gốm của các loại lu, khạp, siêu, chậu… Cuộc khai quật năm 1997-1998 đă t́m thấy tại đây phế tích 3 ḷ gốm kiểu ḷ ống (ḷ Tàu) là loại ḷ thông từ bầu lửa đến ống khói, dốc và hẹp, nền ḷ được gia cố nhiều lần, thành ḷ đắp dày bằng phế phẩm. Các đoạn vách ḷ c̣n lại được xây bằng loại gạch lớn chảy men dày, ḷng ḷ chứa đầy mảnh sản phẩm mà qua đó có thể nhận biết một số loại sản phẩm đặc trưng của ḷ Hưng Lợi. Ba ḷ gốm này sản xuất nối tiếp nhau trong một thời gian khá dài nhưng có thể không liên tục v́ ḷ gốm của giai đoạn sau được xây trên một phần ḷ cũ hoặc sửa chữa gia cố lại ḷ cũ.
Giai đoạn đầu khu ḷ này chủ yếu sản xuất lu chứa nước bằng chất liệu sành nâu, dáng thuôn vào đáy hoặc bầu tṛn, kích thước khá lớn: thường được gọi là “lu 3 đôi” hay “lu 5 đôi” (mỗi đôi nước – 2 thùng – khoảng 40 lít nước). Lu gốm làm bằng phương pháp nặn tay bằng “dải cuộn kết hợp bàn dập, bàn xoa” nên độ dày và dáng tṛn đều, bên trong vành miệng lu c̣n dấu ngón tay để lại khi dùng tay vuốt cho vành miệng tṛn và gắn chặt vào thân lu. Trong số hàng ngàn mảnh lu thống kê được th́ mảnh nắp chiếm đến gần 2/3, cho biết nắp được sản xuất nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu v́ nắp hay bị vỡ hỏng khi sử dụng. Do mảnh lu, nắp lu nhiều nên khu ḷ này c̣n được gọi là Ḷ Lu. Ḷ sản xuất lu đựng nước có niên đại sớm nhất ở khu ḷ này, khoảng nửa sau thế kỷ XVIII. Mảnh phế phẩm của ḷ lu c̣n phân bố trên một diện rất rộng xung quanh ḷ, đào sâu xuống hơn 1m vẫn gặp mảnh lu gốm.
Chiếm tỷ lệ lớn nhất là mảnh các loại sản phẩm gốm và sành men nâu, men vàng hoặc không men. Đó là hũ, khạp, hộp, siêu, nồi có tay cầm… dưới đáy có in 3 chữ Hán “Hưng Lợi diêu” (ḷ Hưng Lợi). Bên cạnh đó là các kiểu chậu bông h́nh tṛn hay lục giác, bát giác phủ men xanh lam hay xanh đồng – màu men đặc trưng của “Gốm Sài G̣n”. Chậu bông phần lớn có kích thước nhỏ, hoa văn in nổi trong các ô không men là hoa mai, hoa cúc hoặc tứ quư, bát tiên…
Đây là sản phẩm của giai đoạn thứ hai, giai đoạn có tên ḷ Hưng Lợi khoảng thế kỷ XIX. Các sản phẩm này vẫn dùng kỹ thuật nặn tay nhưng có kết hợp khuôn in, chất liệu gốm sành nhẹ lửa, không sử dụng “bao nung” (hộp nung) nhưng phổ biến các loại “con kê” trong việc chồng kê sản phẩm trong ḷ nung. Đặc trưng là “con kê” h́nh ống có thể chồng lên nhau tạo nhiều độ cao thấp khác nhau nhằm tận dụng thể tích ḷ nung.
Giai đoạn thứ 3 ở đây sản xuất gốm sứ gồm các loại chén, tô, đĩa, ly, cốc, muỗng, ấm trà, lư hương… men trắng hoa văn men xanh và men nhiều màu, chai men trắng ngà… Sản phẩm làm bằng bàn xoay, có nhiều loại bao nung cho một hay nhiều sản phẩm. Các loại đồ gốm gia dụng tuy đơn giản về kiểu dáng nhưng có nhiều kích thước khác nhau, theo thời gian có sự khác biệt nhỏ ở chi tiết tạo dáng hay hoa văn. Một số sản phẩm có chữ Hán như Việt lợi, Kim ngọc, Chấn hoa xuất phẩm, Nhất phiến băng tâm… các chữ này không phổ biến trên sản phẩm, không có chữ Diêu kèm theo nên chắc hẳn không phải tên ḷ sản xuất mà rất có thể là tên của vựa gốm lớn hay cửa hàng bán đồ gốm in lên các sản phẩm mà họ đặt ḷ sản xuất, tức là giai đoạn này ḷ sản xuất theo đặt hàng cả về số lượng và từng loại sản phẩm. T́nh trạng sản xuất theo sự đặt hàng của chủ hàng là người buôn bán cho biết đă có sự chuyên hóa giữa sản xuất và lưu thông hàng hóa khi nhu cầu của thị trường ngày càng đa dạng và thay đổi thường xuyên. Chất liệu làm gốm là loại đất sét tương đối trắng không có tại chỗ mà chắc phải khai thác từ miền Đông về. Dựa vào loại h́nh sản phẩm và tính chất sản xuất nói trên có thể nhận thấy ḷ gốm này có niên đại khoảng nửa đầu thế kỷ XX.
Tuy có ba giai đoạn với những loại sản phẩm đặc trưng cho từng giai đoạn nhưng kỹ thuật sản xuất ở khu ḷ cổ này khá thống nhất: Cấu trúc ḷ gốm (loại ḷ ống – ḷ tàu), kỹ thuật tạo dáng (bàn xoay, in khuôn), hoa văn, phương pháp chồng ḷ và nung gốm, sản phẩm của hai giai đoạn đầu (lu, khạp, siêu, nồi có tay cầm…) đều mang đậm dấu ấn kỹ thuật làm gốm của người Hoa. Theo nhiều nhà nghiên cứu, nguồn gốc của nghề làm gốm mang tính chất sản xuất hàng hóa ở Gia Định-Đồng Nai là sự kết hợp nghề gốm của lưu dân người Việt với truyền thống kỹ thuật sản xuất gốm mà người Hoa mang vào vùng đất này trong bước đường lưu lạc kiếm sống. Từ khi được các Chúa Nguyễn cho vào định cư tại Cù Lao Phố, vùng Sài G̣n (cũ) và rải rác một số nơi khác, người Hoa sinh sống chủ yếu bằng thương nghiệp và thủ công nghiệp. Tại Cù Lao Phố trên sông Đồng Nai (nay thuộc thành phố Biên Hoà) cũng có Rạch Ḷ Gốm, bến Miểng Sành mà qua khảo sát, các loại sản phẩm hầu như không khác biệt với sản phẩm ở khu ḷ gốm cổ Hưng Lợi. Các phường thợ làm gốm của người Hoa thường gồm những người “đồng hương” và chuyên sản xuất một vài loại sản phẩm: người Hẹ chuyên làm lu, khạp, hũ men nâu và men vàng (men da lươn, da ḅ); người Tiều (Triều châu) chuyên làm đồ “bỏ bạch” (không men) như siêu, nồi có tay cầm…; người Quảng (Đông) chuyên làm chén, đĩa có men trắng hay men nhiều màu… Hiện nay truyền thống kỹ thuật này vẫn phổ biến ở những ḷ lu, ḷ gốm ở khu vực Quận 9-Sài G̣n (như ḷ Long Trường), ở Tân Vạn-TP Biên Ḥa và Lái Thiệu-B́nh Dương… dù các chủ ḷ có thể không phải là người Hoa. Cần nói thêm rằng, cho đến nay một số dân tộc ở miền Nam (người Chăm, người Khmer…) vẫn bảo lưu kỹ thuật làm gốm cổ truyền Đông Nam Á là nặn tay, không dùng bàn xoay và nung gốm ngoài trời, sản phẩm là gốm đất nung ít có sự thay đổi về kiểu dáng, số lượng không nhiều, v́ vậy sản xuất chỉ mang tính chất tự cung tự cấp.
Đối với nghề làm gốm muốn tồn tại và phát triển th́ phải có vị trí thuận lợi: là nơi có hoặc gần nguồn nguyên liệu, có hệ thống đường thuỷ tiện cho việc chuyên chở hàng hóa đi nhiều nơi, gần trung tâm thương nghiệp để nắm bắt nhanh nhu cầu thị trường… Xóm Ḷ Gốm của Sài G̣n xưa đă có những điều kiện thuận lợi đó: nguyên liệu ở đây thích hợp cho việc sản xuất các loại gốm gia dụng và gốm xây dựng. “Nhất cận thị, nhị cận giang”, làng nghề này lại ở giữa Sài g̣n – nơi tập trung nhiều phố chợ nhất miền Gia Định khi ấy: “phố xá trù mật buôn bán suốt ngày đêm, là nơi đô hội thương thuyền của các nước cho nên trăm món hàng hóa phải tụ hội nơi đây”. Nam bộ khi ấy là vùng đất đang trong quá tŕnh khai phá nên nhu cầu về đồ gốm gia dụng rất lớn, do vậy thị trường của Xóm Ḷ Gốm không phải chỉ là Sài G̣n – Bến Nghé mà c̣n là cả miền Tây rộng lớn.