Tổng thống Mỹ Joe Biden muốn thúc đẩy gói giải cứu 1.900 tỷ USD liên quan đại dịch COVID-19. Tuy nhiên, câu hỏi quan trọng là: Mỹ lấy tiền ở đâu để trả cho gói giải cứu này?
Theo kênh CNN, gói giải cứu này là cần thiết và nằm trong khả năng chi trả của Mỹ.
Kế hoạch phục hồi từ đại dịch COVID-19 của ông Biden nhằm giải quyết ba nhu cầu quan trọng.
Một là, gói giải cứu sẽ chi 400 tỷ cho cuộc chiến chống COVID-19 thông qua chương tŕnh tiêm chủng, mở rộng lực lượng lao động ngành y tế và các biện pháp khác.
Hai là, gói này dành khoảng 1.000 tỷ USD để chi cho các gia đ́nh tầng lớp lao động, trong đó nhiều người bị đại dịch tác động mạnh.
Ba là, gói giải cứu cũng dành khoảng 440 tỷ USD để hỗ trợ các bang và thành phố có tiền bù vào thâm hụt và chi cho các doanh nghiệp nhỏ không thể tiếp cận vốn trên thị trường.
Theo Văn pḥng Ngân sách Quốc hội (CBO), giá trị của gói giải cứu tương đối lớn, tương đương khoảng 8,7% GDP năm 2021 của Mỹ theo dự báo. Mỹ có thể trang trải khoản này nhưng khoản tiền vẫn tương đối lớn so với nguồn ngân sách hiện nay của chính phủ Mỹ. Trong thực tế, chỉ riêng gói này đă chiếm tới 54% trong số 3.500 tỷ USD mà CBO dự kiến ngân sách chính phủ liên bang sẽ thu về trong năm 2021.
Cũng cần lưu ư rằng gói giải cứu 1.900 tỷ USD chỉ là một phần trong các khoản chi tiêu ngày càng tăng của Mỹ để đáp ứng nhu cầu cấp thiết nảy sinh từ đại dịch.
Nhu cầu về dài hạn cũng rất lớn. Suốt nhiều chục năm qua, Mỹ đă không đầu tư đủ vào giáo dục, dạy kỹ năng, cơ sở hạ tầng, dịch vụ số, năng lượng tái tạo và một loạt nhu cầu khác. V́ lư do này, ông Biden đă đề xuất tăng chi tiêu cho cơ sở hạ tầng 2.000 tỷ USD.
Mỹ có ba cách để chi trả cho gói kích thích 1.900 tỷ USD. Cách đầu tiên là chính phủ liên bang vay tiền. Cách thứ hai là Cục Dự trữ Liên bang Mỹ in thêm tiền. Cách thứ ba là tăng thuế, đặc biệt là thuế đánh vào người giàu, tập đoàn, tác nhân gây ô nhiễm… Hoặc là Mỹ có thể sử dụng cả ba cách trên.
Vay tiền
Cách vay tiền dường như không mấy phức tạp khi mà lăi suất đang ở mức thấp kỷ lục nên chi phí lăi với nợ công cũng thấp. Nợ công của Mỹ vào cuối năm 2020 tương đương 100,1% GDP, tỷ lệ cao kể từ cuối Thế chiến II.
Tuy nhiên, CBO dự báo chi phí trả nợ năm 2021 sẽ chỉ tương đương 1,5% GDP v́ lăi suất trung b́nh hàng năm với nợ chỉ là 1,5%. Chính phủ Mỹ cần vay dài hạn (30 năm) để tận dụng lăi suất thấp.
Việc chính phủ liên bang vay tiền khi lăi suất thấp như vậy là hợp lư. Nhưng vẫn sẽ có giới hạn với việc này v́ lăi suất có thể tăng trong tương lai. Không ai dự báo được lăi suất ở Mỹ sẽ thấp như hiện nay và cũng khó dự báo lăi suất tương lai sẽ thế nào. Lăi suất có thể tăng sớm hơn dự báo v́ người vay khắp thế giới tăng cường đầu tư để tận dụng điều kiện vay ưu đăi.
In thêm tiền
Những người ủng hộ Thuyết Tiền tệ Hiện đại (MMT) cho rằng chính phủ có thể chi nhiều tiền hơn nhờ in thêm tiền. Trong thực tế, FED đă in thêm lượng tiền giá trị 1.800 tỷ USD từ tháng 12/2019. Tuy nhiên, cũng như vay tiền, in tiền cũng có hạn chế v́ nảy sinh rủi ro lạm phát.
Những người ủng hộ MMT cho rằng lạm phát vẫn sẽ ở mức thấp chừng nào c̣n có cơ chế giám sát. Họ chỉ ra rằng nhiều người Mỹ không có việc làm và sẽ chưa sớm có lại việc làm. Tăng tổng chi tiêu có thể đi kèm với tăng sản lượng và việc làm, từ đó sẽ khiến nền kinh tế không quá nóng.
Dù vậy, trong 12 tháng qua, Mỹ đă chứng kiến giá cả một số mặt hàng tăng đáng kể, như kim loại quư, ngũ cốc, bất động sản, tài sản tài chính. Giá các mặt hàng này tăng có thể là dấu hiệu cảnh báo sớm về t́nh trạng lạm phát rộng hơn sắp xảy ra do động thái của FED và Bộ Tài chính khi tung ra hàng ngh́n tỷ USD và tăng cường sức mua trong nền kinh tế.
Cho dù tăng lượng tiền in ra không gây lạm phát th́ động thái này có thể tạo ra bong bóng tài chính mới và do đó gây ra một chu kỳ bùng nổ-đổ vỡ mới. Đây chính là điều đă xảy ra trong nhiều năm trước cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008. Nhiều năm cho vay dễ dăi và giảm bớt luật lệ trên thị trường tài chính từ cuối những năm 1990 đă khiến bong bóng xuất hiện trên thị trường nhà đất Mỹ. Khi bong bóng vỡ năm 2008, nó đă kéo đổ hệ thống ngân hàng và làm suy giảm kinh tế trầm trọng.
Tăng thuế
Sau khi phân tích hai khả năng trên, khả năng thứ ba được đặt ra: tăng thuế.
Từ thời Tổng thống Ronald Reagan, người Mỹ đă có suy nghĩ rằng không cần thiết phải đánh thuế cao để có tiền cho chính phủ chi tiêu. Phe Cộng ḥa đă thúc đẩy ư tưởng này khi cho rằng giảm thuế sẽ có lợi v́ thúc đẩy tăng trưởng và thu được nhiều thuế hơn. Tuy nhiên, ư tưởng này đă bị chứng minh là sai v́ khi chính phủ của phe Cộng ḥa cắt giảm thuế năm 1981, 2001 và 2017, ngân sách đều giảm và thâm hụt.
Do đó, không thể kỳ vọng vay tiền và in tiền sẽ đủ cho chính phủ hoạt động về dài hạn. Tăng thuế sẽ là biện pháp cần thiết để có tiền cho các dịch vụ công.
Không ngạc nhiên khi các chính phủ như Canada, Anh, Đức và Thụy Điển đều có mức chi tiêu công/GDP cao hơn và cũng đánh thuế cao hơn. Trong thực tế, Mỹ có nguồn ngân sách từ thuế/GDP thấp thứ hai trong số các nền dân chủ có mức thu nhập cao thuộc Tổ chức Phát triển và Hợp tác Kinh tế (OECD).
Do đó, theo ông Jeffrey Sachs, Giáo sư Trung tâm Phát triển Bền vững tại Đại học Columbia, Mỹ cần nhanh chóng thông qua gói giải cứu 1.900 tỷ USD và theo đuổi kế hoạch phục hồi táo bạo dựa trên đầu từ dài hạn vào cơ sở hạ tầng, năng lượng sạch, giáo dục và công nghệ. Mỹ cũng cần sẵn sàng tăng thuế, đặc biệt là khi lăi suất bắt đầu tăng và lạm phát, bong bóng tài sản bắt đầu cho thấy hạn chế của việc in tiền. Mỹ có nhiều con đường để tăng ngân sách từ nguồn thu thuế, bắt đầu từ các tập đoàn giàu có, các tỷ phú kiếm đậm tiền trong dịch COVID-19 và những tác nhân gây ô nhiễm cần phải gánh chịu chi phí xă hội mà họ làm tổn hại.
Mục tiêu của đảng Dân chủ là thông qua gói giải cứu vào giữa tháng 3 tới khi mà các gói hỗ trợ trước đó hết hạn.
VietBF @ Sưu tầm