Những bức ảnh được chụp từ vệ tinh cách nhau 90 năm. Và trong suốt quá tŕnh đó những băi biển này không có hoạt động bồi đắp hay cải tạo đáng kể từ con người.
"Biến đổi khí hậu không có thật", "Trái Đất không ấm lên" và "nước biển không dâng cao hơn", đó là những ǵ mà bạn hay thấy trong chủ đề thảo luận của những nhóm hoài nghi phủ nhận biến đổi khí hậu.
Đôi khi họ đưa ra một số bằng chứng, ví dụ như bức ảnh vệ tinh dưới đây chụp bờ biển Coolangatta ở Australia vào 2 thời điểm, năm 1930 và 2020.
Lập luận của những người này là: Nếu nước biển dâng lên th́ tại sao bờ biển của Coolangatta không bị xói ṃn mà trái lại mở rộng hẳn ra sau 90 năm? Chính quyền địa phương cũng xác nhận họ gần như không có sự can thiệp hay bồi đắp nhân tạo nào vào băi biển này.
Vậy thực sự th́ điều ǵ đang diễn ra?
Băi biển Coolangatta ở Australia vào 2 thời điểm năm 1930 và 2020.
Những băi biển mở rộng bất chấp nước biển dâng
Theo các nghiên cứu về biến đổi khí hậu dự báo, nhiệt độ của Trái Đất đă tăng thêm 1,09 độ C so với thời kỳ tiền công nghiệp. Mực nước biển hiện tại cũng đă cao hơn 20 cm so với khoảng giữa thế kỷ 18.
Hậu quả của nước biển dâng là nó sẽ nuốt chửng các băi biển, nhấn ch́m các đảo đá ngầm. Một nghiên cứu đăng trên tạp chí Nature Climate Change năm ngoái dự báo tới hơn một phần ba (37%) băi biển trên thế giới có thể sẽ biến mất vào năm 2100. Trong đó, một ḿnh nước Úc có thể mất tới 12.000 km bờ biển đầy cát.
Nhưng thật kỳ lạ, cũng một nghiên cứu mới đăng trên tạp chí Ocean & Coastal Management vào năm nay lại chỉ ra điều ngược lại. Một số đường bờ biển ở Queensland và New South Wales lại đang mở rộng ra thay v́ xói ṃn.
Điều này rơ ràng là trái ngược với hiểu biết chung của chúng ta về cách biến đổi khí hậu tác động đến bờ biển. Nó thậm chí c̣n dẫn đến sự nhầm lẫn và trở thành nguồn "fake news" cho những người phản đối biến đổi khí hậu và nước biển dâng.
Sự mở rộng của băi biển Bucasia ở Australia từ năm 1953 đến năm 2020.
Để xem xét hiện tượng này, một nhóm các nhà khoa học tại Đại học Queensland đă sử dụng ảnh chụp từ trên cao và hồ sơ vệ tinh để t́m hiểu, chính xác th́ điều ǵ đă xảy ra?
Kết quả cho thấy có ít nhất 15 băi biển ở Queensland, trải dài từ phía bắc Cooktown đến Coolangatta, đă lấn dần ra biển so với năm 1930. Cùng với đó, hiện tượng này cũng được quan sát thấy ở một số quốc gia Châu Phi và Đông Nam Á.
Trong khi một số băi biển mở rộng ở Trung Quốc có thể được giải thích bằng hoạt động bồi đắp nhân tạo, những băi biển ở Australia gần như không có sự tác động nào đáng kể của con người.
Những băi biển có ngân sách trầm tích dương
Hóa ra, đó chính là nguyên nhân dẫn tới sự mở rộng của các băi biển. Các nhà khoa học cho biết một băi biển mở rộng hay xói ṃn phụ thuộc vào một khái niệm được gọi là "ngân sách trầm tích ven biển".
Đó là toàn bộ lượng cát, đá và các chất trầm tích có thể di chuyển ra hoặc vào băi biển theo thời gian. Ngân sách trầm tích dương là khi có nhiều trầm tích bồi tụ lên băi biển hơn so với trầm tích bị xói ṃn. Ngân sách trầm tích âm th́ ngược lại, khi cát bị đưa ra khỏi bờ biển nhiều hơn lượng được đưa vào.
Có rất nhiều yếu tố tác động đến ngân sách trầm tích hay cát trên bờ biển, không chỉ có hiện tượng nước biển dâng.
Sự dịch chuyển ra vào của trầm tích phụ thuộc vào nhiều yếu tố, từ sóng, thủy triều cho đến ḍng biển và thậm chí chỉ bằng một cơn băo. Ví dụ vào năm 2015, người dân sống ở vùng ven băi biển Porthleven ở Anh đă tỉnh dậy và thấy toàn bộ cát trên băi biển biến mất chỉ sau một đêm.
Đó là đêm mà một cơn băo mạnh đă quét qua phía tây nam khu vực sinh sống của họ. Không ai thực sự biết cát đă biến đi đâu. Nhưng tất cả băi biển đột nhiên lại được trả về nguyên trạng như cũ chỉ một ngày sau đó. Cát đă trở lại.
Đối với các băi biển đang mở rộng ở Queensland, chẳng hạn như băi Bucasia. Nó đang được bồi tụ nhờ lớp trầm tích đến từ một con sông gần đó. Các khu vực khác, chẳng hạn như biển Suriname ở Nam Mỹ đă phát triển do các con sông lớn chảy xiết vận chuyển một lượng lớn phù sa đến đây.
Theo thời gian, ngân sách trầm tích dương sẽ thúc đẩy sự mở rộng của các bờ biển, nó vượt qua sự xói ṃn có thể gây ra bởi hiện tượng nước biển dâng. Nói cách khác, lượng cát đến bờ biển lúc này vẫn lớn hơn lượng bị mất đi do biến đổi khí hậu.
Toàn bộ cát ở băi biển Porthleven ở Anh bị kéo ra kéo vào chỉ trong một đêm.
Những con thuyền ở Bucasia mắc cạn sau khi nước triều rút.
Không phải một cái cớ để chủ quan
Tuy nhiên, tất cả những điều này không có nghĩa là sự xói ṃn do nước biển dâng không phải là nguy cơ đe dọa các bờ biển trong tương lai. Thay vào đó, chúng ta nên đặt ra một câu hỏi: Điều ǵ sẽ xảy ra khi theo dự báo tốc độ nước biển dâng vẫn đang tiếp tục tăng nhanh?
Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC) dự báo mực nước biển sẽ cao hơn tới 1,01 m (so với mức 1995–2014) vào năm 2100, nếu lượng khí thải toàn cầu tiếp tục không suy giảm.
Hơn nữa, mực nước biển dâng ngày càng nhanh. IPCC nhận thấy nó tăng 1,3 mm mỗi năm trong giai đoạn 1901–1971, 1,9 mm mỗi năm trong giai đoạn 1971–2006 và 3,7 mm mỗi năm trong giai đoạn 2006–2018.
Một số băi biển trên thế giới đang thực sự bị co hẹp lại trong những thập kỷ qua.
Sự gia tăng mực nước biển này cuối cùng sẽ lớn đến mức, ngân sách trầm tích dương hiện tại không c̣n bù đắp cho nó được nữa. Điều này cuối cùng cũng sẽ gây ra hiện tượng xói ṃn ở các băi biển hiện c̣n đang mở rộng.
V́ vậy, việc các đường bờ biển đang xâm lấn ra hiện nay không phải là bằng chứng cho thấy mực nước biển không dâng lên hoặc không thể làm xói ṃn bờ biển. Đó chỉ là lập luận ngụy biện của những người theo chủ nghĩa hoài nghi biến đổi khí hậu đưa ra mà thôi.