Lượng ngoại tệ tính trong quư 1/2014 đă được ngân hàng Nhà nước mua được lên tới 7,7 tỷ USD. Nguồn ngoại tệ mua được này không chỉ đến từ nguồn thặng dư từ hoạt động xuất, nhập khẩu, ḍng vốn đầu tư nước ngoài…, mà c̣n mua được từ chính lượng ngoại tệ từ các khu vực trong nền kinh tế từng găm giữ, nay vị thế VND và lợi ích nắm VND cao hơn nên đă kích thích sự chuyển đổi.
Với lượng mua vào liên tiếp và mức độ lớn từ năm 2011 đến nay, dự trữ ngoại hối của Việt Nam đă lên mức cao nhất từ trước đến nay, ước tính cao hơn rất nhiều so với năm 2007 - năm bùng nổ của vốn ngoại khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Một nguồn lực quốc gia được củng cố. Theo đó, có thể kỳ vọng hạng mức tín nhiệm quốc gia đang có một yếu tố hỗ trợ để có những đánh giá tốt hơn từ các tổ chức quốc tế; cùng với đó, nguồn lực cần thiết để ổn định tỷ giá cũng góp phần cải thiện niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài.
Nhưng, có những câu hỏi cơ bản và cả quan ngại về hoạt động mua vào này, gắn với quy mô “khủng” nói trên.
V́ sao Ngân hàng Nhà nước mua được một lượng ngoại tệ lớn như vậy? Nguồn bán lại từ đâu? Nguồn tiền mua ngoại tệ lấy ở đâu? Việc mua ngoại tệ với một lượng lớn, đồng nghĩa với việc phải bơm một lượng lớn tiền đồng ra nền kinh tế sẽ gây áp lực tới lạm phát và khó khăn trong điều hành chính sách tiền tệ như thế nào?
Trả lời VnEconomy những câu hỏi trên, Ngân hàng Nhà nước đưa ra những thông tin đáng chú ư.
Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước mua được lượng lớn là do trong quư 1/2014 lượng cung ngoại tệ tương đối dồi dào trong khi cầu ngoại tệ tương đối thấp. Các số liệu thống kê cho thấy trong quư 1, cả nước xuất siêu khoảng 1 tỷ USD; nguồn kiều hối và các ḍng vốn nước ngoài như đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp tiếp tục vào Việt Nam.
Thứ hai, các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá đă và đang được thực hiện theo hướng nâng cao vị thế đồng Việt Nam, giảm lợi thế của việc nắm giữ ngoại tệ (trong điều hành, Ngân hàng Nhà nước kết hợp chặt chẽ giữa việc quy định trần lăi suất huy động VND và USD phù hợp với kỳ vọng tăng tỷ giá).
“Việc điều hành chính sách của Ngân hàng Nhà nước đă thực sự chủ động dẫn dắt thị trường, đi từ các tuyên bố, cam kết đến việc tổ chức triển khai quyết liệt và hiệu quả để đạt được các cam kết đó. Nhờ vậy mà xu hướng găm giữ ngoại tệ không c̣n diễn ra như trước nữa”, Ngân hàng Nhà nước đánh giá.
Cụ thể, trong quư 1 vừa qua, các tổ chức và cá nhân đă tích cực bán ngoại tệ cho hệ thống tổ chức tín dụng. Theo dơi số liệu cho thấy hệ thống các tổ chức tín dụng liên tục trong nhiều ngày mua ṛng ngoại tệ từ các khách hàng, sau đó bán lại cho Ngân hàng Nhà nước.
Bên cạnh nguồn ngoại tệ mua được của các tổ chức và cá nhân, Ngân hàng Nhà nước c̣n mua được ngoại tệ của ngân sách Nhà nước, của các tổ chức quốc tế và mua được ngoại tệ của chính các tổ chức tín dụng.
Như vậy, nguồn ngoại tệ mà Ngân hàng Nhà nước mua được không chỉ từ nguồn thặng dư từ hoạt động xuất, nhập khẩu, ḍng vốn đầu tư nước ngoài…, mà c̣n mua được từ chính lượng ngoại tệ từ các khu vực trong nền kinh tế từng găm giữ, nay vị thế VND và lợi ích nắm VND cao hơn nên đă kích thích sự chuyển đổi.
Để mua ngoại tệ, Ngân hàng Nhà nước sử dụng nguồn tiền cung ứng, được xác định và quyết định bởi Thống đốc Ngân hàng Nhà nước để đảm bảo đạt được các mục tiêu chính sách tiền tệ. Để hạn chế áp lực tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng lạm phát, cơ quan này đă thực hiện các biện pháp can thiệp trung ḥa tác động này ngay từ đầu năm.
Hiểu một cách nôm na, Ngân hàng Nhà nước đưa tiền ra qua kênh mua ngoại tệ nhưng thực hiện hút tiền về thông qua các kênh khác, mà ở đây chủ yếu hút tiền về qua việc phát hành tín phiếu trên nghiệp vụ thị trường mở.
Giải pháp hút tiền về một cách kịp thời, hài ḥa để duy tŕ lượng thanh khoản cho hệ thống một cách hợp lư, không để dư thừa quá mức đă góp phần giảm áp lực lạm phát, giảm áp lực tăng tỷ giá. Đây cũng là kinh nghiệm được đúc rút từ chính năm 2007, khi lượng tiền cung ứng đưa ra mua ngoại tệ lớn, điều ḥa chưa hợp lư là một trong những tác nhân khiến lạm phát bùng nổ ngay sau đó; và Ngân hàng Nhà nước đă phải gấp rút phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc đầu 2008…
Lần này, với 7,7 tỷ USD, lượng tiền cung ứng tương đương với gần 160 ngh́n tỷ đồng - một quy mô rất lớn. Tuy nhiên, quy mô này không phải dồn cùng lúc, cũng không phải Ngân hàng Nhà nước dùng 160 ngh́n tỷ đồng tiền mặt để mua.
Có thể hiểu, nhà điều hành sử dụng một lượng tiền mặt nhất định (tiền cung ứng), giả sử khoảng 21.000 tỷ đồng để mua 1 tỷ USD, nhưng ngay sau đó phát hành tín phiếu để hút 21.000 tỷ đồng đó về rồi lại dùng chính nó để mua tiếp ngoại tệ. Ṿng quay “cuốn chiếu” một cách tương đối này giúp trung ḥa tác động của lượng tiền cung ứng, nhất là ở khía cạnh áp lực lạm phát. Điểm tích tụ ở đây là khối lượng tín phiếu phát hành, ṿng quay đáo hạn và lăi suất phải trả.
Mua được thêm 7,7 tỷ USD để tăng nguồn lực dự trữ quốc gia th́ chi phí phải trả qua lăi suất tín phiếu là đương nhiên, nhất là với cả mục đích trung ḥa tác động đến lạm phát.
Theo
Vneconomy