Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam mới đây cho ý kiến báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2030. Chương trình này sẽ triển khai trên phạm vi cả nước và tại một số quốc gia có mối quan hệ văn hóa lâu dài, tương tác văn hóa lâu dài với Việt Nam, có đông người Việt Nam.
Chương trình có 10 nội dung thành phần, 153 chỉ tiêu chi tiết, 42 nhiệm vụ cụ thể, 186 hoạt động chi tiết, với tổng vốn cho giai đoạn 2025-2030 là 122.250 tỉ đồng; giai đoạn 2031-2035 là 134.000 tỉ đồng. Tổng vốn thực hiện chương trình này trong 11 năm là 256.250 tỉ đồng.
Mục tiêu của chương trình là đến năm 2030, các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp vào 7% GDP của cả nước và đóng góp 8% GDP cả nước vào năm 2035.
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định cho rằng nhân chương trình này, cần phải quan tâm đặc biệt đến công nghiệp văn hóa vì đây là xu thế thời đại.
Ông Định nói trên thế giới nhiều năm qua công nghiệp văn hóa rất phát triển, trở thành động lực tăng trưởng; được nhiều nước quan tâm. Trong khi đó, Việt Nam có rất nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển công nghiệp văn hóa.
"Lâu nay chúng ta cứ hiểu văn hóa là ngành đi tiêu tiền, nhưng trên thế giới hiện nay đây là ngành làm ra rất nhiều tiền, là ngành có giá trị gia tăng rất cao. Mấy cô ca sĩ Hàn Quốc sang đây diễn có mấy đêm thôi bằng một doanh nghiệp của chúng ta làm trong nhiều tháng''.
Từ nhiều năm nay, các quan chức lãnh đạo Việt Nam luôn nhấn mạnh đến “công nghiệp văn hóa” như một ngành “hái ra tiền”. Thấy Hàn Quốc làm thành công, giới lãnh đạo Việt Nam đã nhiều lần đề xuất hợp tác “công nghiệp văn hóa”.
Việt Nam hiện duy trì một cơ chế kiểm soát, kiểm duyệt khắt khe về văn hóa, tư tưởng, với nhiều hình thức và biện pháp cực gắt: kiểm soát nghệ sĩ, người nổi tiếng không được “lệch chuẩn”; kiểm soát chặt các dự án điện ảnh nước ngoài quay hoặc chiếu tại Việt Nam; kiểm duyệt các nội dung phim ảnh, sách báo...