LTS: Năm 1969 có thể xem là điểm mốc thời gian đỉnh cao trong sự nghiệp nhạc sĩ Trịnh Công Sơn . Sức ảnh hưởng của tên tuổi Trịnh Công Sơn qua các bản t́nh ca, nhạc phản chiến không chỉ ở phạm vi trong nước, mà c̣n trên các diễn đàn văn hóa, báo chí quốc tế.
Với sức ảnh hưởng đó, đầu năm 1969, GS Tăng Kim Đông, Tổng trưởng Văn hóa - Giáo dục của chính quyền Việt Nam Cộng ḥa, có khẩu lệnh thực hiện một cuộc điều tra về Trịnh Công Sơn. Sau hai tuần “móc nối và lôi cuốn”, Bộ Thông tin Sài G̣n có một phiếu tŕnh đóng dấu “Mật” báo cáo về “lư lịch, thân thế sự nghiệp, quá tŕnh hoạt động trong quá khứ, hiện tại cùng xu hướng chính trị của đương sự”.
Tác giả biên khảo Nguyễn Vĩnh Nguyên mới t́m thấy bộ tài liệu này tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, TP.HCM (Phông Phủ Tổng thống, Hồ sơ 16689), đă xử lư và khai thác độc quyền cho Thanh Niên; cung cấp một góc nh́n mới, thú vị về Trịnh Công Sơn trong thời điểm bộ phim Em và Trịnh đang gây tranh căi.
B́a hai tập nhạc phản chiến gây tiếng vang của Trịnh Công Sơn vào cuối thập niên 1960
TL
“Bob Dylan của Việt Nam”?
Có những tương đồng đáng chú ư khi Trịnh Công Sơn và Bob Dylan cùng viết những bản nhạc phản chiến, dù cho hai nhạc sĩ này sống ở hai nền văn hóa, bối cảnh và sự liên đới với cuộc chiến tranh khác nhau. Đó là lư do báo chí tại Việt Nam cuối thập niên 1960 đều dùng cách nói “Bob Dylan của Việt Nam” khi nhắc về Trịnh Công Sơn.
Nhà nghiên cứu John C.Schafer trong cuốn Trịnh Công Sơn và Bob Dylan (Cao Thị Như Quỳnh dịch, Phanbook & NXB Đà Nẵng, 2019) có nhắc tới lối ví von này dù chưa thể xác định ai là người phát ngôn đầu tiên. Nhưng dù là ai th́ cách so sánh tương đồng cũng khẳng định tiếng vang quốc tế của ḍng nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn vào khoảng nửa cuối những năm 60 của thế kỷ trước. Luận án tiến sĩ về nhạc Trịnh Công Sơn của Michiko Yoshi tại Đại học Paris đă chỉ ra rằng trong 136 bài hát Trịnh Công Sơn viết từ 1959 - 1972 th́ có đến 69 bài là phản chiến.
Năm 1969 là thời điểm mà tập nhạc Ca khúc Da vàng (Nhân Bản, 1967) được tái bản. Ngoài những ca khúc như: Gia tài của mẹ, Ngày dài trên quê hương, Đại bác ru đêm hay Người con gái Việt Nam... tập nhạc này được bổ sung thêm hai ca khúc phản chiến c̣n nóng hổi từ trải nghiệm biến cố tàn khốc vừa đi qua (trận Mậu Thân, 1968): Hát trên những xác người, Bài ca dành cho những xác người.
Cũng phải nhắc tới ảnh hưởng của tập Kinh Việt Nam (Nhân Bản, 1968). Kinh Việt Nam là tiếng cầu kinh mang t́nh tự của một dân tộc khát khao ḥa b́nh, là viễn cảnh tốt đẹp của sự chung ḷng tái thiết đất nước và chữa lành nhân tâm, của dự cảm “từ Bắc vô Nam nối liền nắm tay” khi sự phân chia giới tuyến c̣n khốc liệt. Những ca khúc trong tập “kinh ca” này: Nối ṿng tay lớn, Chờ nh́n quê hương sáng chói, Ta thấy ǵ đêm nay hay Dựng lại người dựng lại nhà... củng cố, dưỡng nuôi niềm tin rằng những trải nghiệm xót xa trong Ca khúc Da vàng rồi đây sẽ kết thúc, vết thương chiến tranh sẽ khép lại. Kinh Việt Nam nối tiếp liền lạc và nhất quán tinh thần phản-chiến-độc-lập, không phải bằng việc xoáy sâu vào vết thương hay hô hào chọn bên, mà người viết nêu ra một viễn tượng phản đề của chiến tranh: Ḥa b́nh!