Theo người đại diện ủy quyền của doanh nhân Đào Lan Hương. Bà Hương đă làm việc với thừa phát lại để lập vi bằng các bài viết trên trang cá nhân của Phương Oanh về mối quan hệ t́nh cảm giữa nữ diễn viên và chồng bà là Shark B́nh. Mục đích nhằm củng cố chứng cứ chứng minh hành vi vi phạm và đề nghị xử phạt diễn viên Phương Oanh.
Về phía nữ diễn viên Phương Oanh, cô đă ẩn một số bài viết, h́nh ảnh liên quan đến Shark B́nh trên trang cá nhân của ḿnh. Song người đại diện theo uỷ quyền của bà Hương khẳng định, các bài viết, h́nh ảnh trên đă được chụp lại, lưu trữ trên các phương tiện truyền thông chính thống khác.
Cư dân mạng đặt ra nhiều thắc mắc về việc lập vi bằng là ǵ? Phương Oanh đă xoá bài viết, liệu phía doanh nhân Đào Lan Hương lập vi bằng trên phương tiện truyền thông chính thống có đúng luật không?
Những chứng cứ ấy có giá trị pháp lư ra sao?, việc lập vi bằng có lợi ǵ cho nữ doanh nhân?
Ts. Ls. Đặng Văn Cường, Trưởng Văn pḥng luật sư Chính Pháp, Đoàn luật sư Hà Nội, cho biết vi bằng là văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi có thật do Thừa phát lại trực tiếp chứng kiến, lập theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định của Nghị định 08/2020/NĐ-CP ngày 08/01/2020.
Vi bằng không phải là thủ tục xác nhận nội dung mà chỉ xác nhận về mặt h́nh thức, chứng minh một sự kiện đă xảy ra trong đời sống xă hội. Bởi vậy nhiều người vẫn nhầm lẫn v́ bằng với công chứng.
Theo đó, vi bằng không thay thế văn bản công chứng, văn bản chứng thực, văn bản hành chính khác.
Vi bằng là nguồn chứng cứ để Ṭa án xem xét khi giải quyết vụ việc dân sự và hành chính theo quy định của pháp luật; là căn cứ để thực hiện giao dịch giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật.
Lập v́ bằng là ghi nhận lại thông tin sự việc làm chứng cứ để chứng minh cho một sự kiện đă diễn ra trong đời sống xă hội. Những hành vi thể hiện qua mạng xă hội cũng là căn cứ để xác định một sự việc đă diễn ra.
Nếu tài khoản Facebook đưa thông tin giả mạo, người đưa thông tin sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Trường hợp Facebook của những người trong cuộc, thông tin là do họ đưa ra sau đó xóa đi, trước khi xóa những người có liên quan đă lập Vi bằng để ghi nhận sự việc th́ đó là chứng cứ để chứng minh một sự việc đă diễn ra.
Luật sư Cường cũng cho biết, vi bằng chỉ ghi nhận h́nh thức sự việc chứ không có giá trị về mặt nội dung. Nội dung sự việc đó như thế nào, có vi phạm pháp luật hay không th́ sẽ do cơ quan có thẩm quyền xác định.
Nếu kết quả giải quyết vụ án ly hôn có căn cứ cho thấy một trong hai bên đă ngoại t́nh, đó là nguyên nhân dẫn đến hôn nhân tan vỡ th́ khi chia tài sản, người có lỗi dẫn đến hôn nhân tan vỡ sẽ phải chịu thiệt.
Đối với một vụ án ly hôn, ṭa án sẽ giải quyết các vấn đề về t́nh cảm, về nuôi con sau khi ly hôn và về tài sản nếu đương sự có yêu cầu. Đối với vấn đề về t́nh cảm nếu hai bên thuận t́nh ly hôn, đều đồng ư ly hôn th́ ṭa án sẽ xem xét và có thể chấp nhận.
Trường hợp một bên yêu cầu ly hôn mà bên kia không chấp nhận th́ sẽ được xác định là ly hôn đơn phương, khi đó người đề nghị ly hôn phải chứng minh rằng t́nh trạng hôn nhân đă trầm trọng, một trong những căn cứ cho thấy hôn nhân trầm trọng là một bên ngoại t́nh.
Theo Luật sư Cường, vi bằng có nội dung người chồng công khai t́nh cảm với người thứ ba khi cuộc hôn nhân chưa kết thúc mà đă được khuyên can của bạn bè, người thân nhưng người chồng vẫn duy tŕ mối quan hệ này th́ đây sẽ là căn cứ để chứng minh người chồng vi phạm luật hôn nhân, không chung thủy.
Căn cứ vào nội dung vi bằng này người vợ đề nghị ly hôn theo quy định của pháp luật, trong trường hợp này không cần người chồng phải đồng ư ly hôn.
Kể cả sau đó các bên đă xóa h́nh ảnh, xóa nội dung công khai trên mạng xă hội nhưng những thứ đă lưu lại cũng được đánh giá là chứng cứ để chứng minh việc ngoại t́nh đă xảy ra trong thời kỳ hôn nhân.
“Những thông tin được các tài khoản mạng xă hội đưa lên th́ việc lập Vi bằng sẽ ghi lại chứng cứ trước khi họ xóa bỏ và vi bằng đó có giá trị chứng minh là vào thời điểm đó đă xuất hiện thông tin đó trên mạng xă hội.
C̣n nội dung thông tin đó có ư nghĩa như thế nào th́ sẽ do cơ quan có thẩm quyền xác định trên cơ sở nội dung thông tin”.