HOME

24h

Shows

GOP

Phim Bộ

Online

Clips

Breaking
News Library Technology Giải Trí Portals Tin Sốt Home

Go Back   VietBF > Breaking News | Tin Nóng > Breaking News | Tin Sốt


Reply
 
Thread Tools
  #1  
Old  vnchcir Lá cờ Chính Nghĩa và Kiêu Hùng của dân tộc Việt


Hơn 85 năm qua, bọn phỉ quyền bù nh́n cộng sản Hà Nội lúc nào cũng t́m đủ mọi cách để trương ngọn cờ máu hôi tanh bẩn thỉu tay sai ngoại bang trên lănh thổ VN và những nơi chốn có người Việt tị nạn cộng sản (CS) sinh sống sau ngày mất nước 30-4-1975.

Hiệp Định Genève năm 1954 chia cắt VN thành hai miền riêng biệt tại vĩ tuyến 17, lấy con sông Bến Hải làm ranh giới. Theo quy định, mỗi một miền được đặt hai đồn canh, dọc theo bờ sông giới tuyến: Đồn Hiền Lương và Cửa Tùng (Bắc Việt), Xuân Ḥa và Cát Sơn (VNCH), cả hai phía đều có treo cờ hằng ngày. Và đó là nguyên nhân đă làm hai phía đổ máu nhiều lần v́ “Lá Cờ” được treo ở hai đầu cầu Hiền Lương.


Thời gian đầu thi hành Hiệp Định Geneve (1954-1956) c̣n có sự hiện diện của các toán kiểm soát đ́nh chiến, nên hai phía vẫn tôn trọng cỡ lá cờ được qui định 3.2x4.8m. Nhưng từ sau năm 1956, phía VNCH bên đồn canh Xuân Ḥa luôn thay đổi khổ lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, theo lệnh của các đơn vị trưởng trấn đóng miền giới tuyến.

Thế là trận giặc “Chọi Cờ” bùng nổ hai bên bờ sông Bến Hải, mà phần thắng luôn về phía VNCH v́ có đủ phương tiện và được tự do quyết định hơn phía cộng phỉ bắc việt, vốn bản chất chỉ là lũ lính đánh thuê, tay sai cho bọn quan thầy ngoại bang là Tàu-Nga và đám chư hầu cộng phỉ Đông Âu..

Theo các tài liệu c̣n lưu trữ cho biết suốt 20 năm chia cắt, cả hai phía đă thay đổi kích cỡ “cờ” tới 267 lần để ăn thua, trong đó nhiều lần cột cờ phía bắc bị máy bay oanh tạc mà nặng nhất vào năm 1967, cả cột cờ, đồn canh và cầu Hiền Lương về phía bọn CS bị bom đánh sập.

Có hiểu thấu những câu chuyện bên lề lịch sử, chúng ta mới thấy được tầm mức quan trọng và thiêng liêng của lá cờ. Cho nên không ai có quyền bắt buộc người khác phải theo ư ḿnh, đứng chung dưới một lá cờ mà trong thâm tâm của họ, đă coi nó như là biểu tượng của một chế độ dă man, xấu xa bán nước như lá cờ máu tay sai ngoại bang của bọn phỉ quyền Hà Nội.


Ngoài lá Quốc Kỳ “Màu Vàng Ba Sọc Đỏ”, Quốc Dân VN c̣n phải biết lịch sử của hai tiếng Việt Nam mà chúng ta đang trân trọng ǵn giữ và bảo tồn. Theo sử liệu, th́ quốc hiệu VIỆT NAM chính thức xuất hiện vào niên lịch 1802 (STL) là năm mà Đức Gia Long Hoàng Đế nhà Nguyễn, đă có công thống nhất được toàn cơi sơn hà từ Ải Nam Quan cho tới Mũi Cà Mâu, sau hơn 300 năm nội chiến triền miên, giữa các ḍng họ Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn và Tây Sơn.

Thật ra từ thế kỷ thứ XIV, hai tiếng Việt Nam đă thấy xuất hiện trong nhiều tác phẩm lúc đó như Nam Thế Chí của Hồ Tông Thốc, Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú, Dư Địa Chí của Nguyễn Trăi, Tŕnh Tiên Sinh Quốc Ngữ Văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm... Ngoài ra, các nhà khảo cồ sau này, c̣n t́m thấy nhiều bia đá có niên lịch ghi trước thế kỷ XVIII ở Bắc Việt. Trong tất cả các bia kư này, đều thấy có khắc hai chữ Việt Nam.

Theo nhận xét của các học giả, sử gia hiện tại, th́ hai chữ Việt Nam lúc đó, mang chung ư nghĩa rất thiêng liêng, nhằm chỉ về một nước Việt ở Nam Phương. Để đối chọi với sự mai mỉa khinh nhờn của người Tàu phương Bắc, mà suốt ḍng lịch sử, luôn coi VN như một quận huyện bản xứ, qua danh từ miệt thị “An Nam hay Giao Chỉ”.

Thời Pháp thuộc, thực dân cũng sử dụng những danh từ hạ bạc của người Tàu trong quá khứ, mục đích cũng chỉ để làm nhục dân tộc VN mà thôi.

Theo Dự Am Thi Tập của Phan Huy Chú viết năm 1792, cho biết vào thời Quang Trung thứ 5 nhà Tây Sơn, đă ban chiếu đổi quốc hiệu An Nam thành Việt Nam. Tiếc thay triều đại trên quá ngắn ngủi, nên việc sử dụng quốc hiệu VN cũng theo vận nước trôi vào quên lăng.


Riêng hai tiếng VN cũng đâu có khác ǵ thân phận của dân tộc Hồng-Lạc nhược tiểu, luôn bấp bênh trong ḍng sinh mệnh lịch sử. Năm 1802 ngay khi thống nhất được đất nước, vua Gia Long đă cử Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định đi sứ sang nhà Thanh, trả lại ấn phong của vua Quang Trung và xin nhận quốc hiệu cũ là Nam Việt.

Ta biết Nam Việt là quốc hiệu của VN thời nhà Triệu (207-111 trước tây lịch), có lănh thổ rộng lớn, bao gồm Vân Nam, Lưỡng Quảng, Hải Nam, Bắc Việt và ba tỉnh Thanh-Nghệ-Tĩnh phía bắc Trung Phần. Do đó, chừng nào vua Càn Long mới chịu chấp nhận.

Bởi vậy cho tới năm Gia Long thứ 3 (1804), nhà Thanh mới sai Tế Bá Sâm, mang quốc ấn và chiếu phong vua Gia Long, đồng thời cũng chấp nhận quốc hiệu của nước ta vào thời nhà Nguyễn là Việt Nam thay v́ Nam Việt. Tuy nhiên, phải đợi tới cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, hai tiếng Việt Nam mới được cả trong và ngoài nước, sử dụng với tất cả ư nghĩa thiêng liêng và toàn bích.

1. Cờ đỏ sao vàng của đảng CSVN

Hiện nay, bọn phỉ quyền Hà Nội đang sử dụng lá cờ máu đỏ sao vàng hôi tanh bẩn thỉu, rập khuôn theo đúng chỉ thị của bọn quan thầy cộng sản Trung Quốc là sử dụng lá cờ của đảng cộng sản Trung Hoa tỉnh Phúc Kiến. Cờ này chỉ xài tại nội địa và được treo bên trong các lănh sự quán của cộng phỉ ở hải ngoại.

Ngoài ra, phỉ quyền cộng sản Hà Nội c̣n xài thêm lá cờ nữa gọi đảng kỳ, h́nh thức giống lá cờ trên nhưng được vẽ thêm búa liềm. Cờ này cũng đưọc nhái theo nguyên mẫu lá cờ của quan thầy Liên Bang Xô Viết cũ, thể hiện rơ bản chất tay sai bán nước của bọn phỉ quyền Hà Nội chỉ là bọn lính đánh thuê của bọn cộng sản quốc tế.

Theo một số nguồn thông tin mới được bọn cộng phỉ ngụy tạo, bịa đặt viết lại cho có nguồn gốc, th́ lá cờ của phỉ quyền Hà Nội được gọi là Hồng Kỳ (Cờ Đỏ), do một tên cộng phỉ Nguyễn Hữu Tiến nào đó “vẽ mẫu” và xuất hiện lần đầu tiên vào tháng 11-1940 nhưng không hề có một bằng chứng nào về việc này và cũng không ai biết tên Tiến này là ai.

Tuy nhiên, thực tế là Lá Cờ Đảng chỉ mới xài từ sau ngày 20-7-1954 tới nay, đă khác với Kỳ Hiệu của Phong Trào Việt Minh, v́ các cạnh của ngôi sao vàng không c̣n là đường cong, mà đă trở thành đường thẳng, y chang cờ Liên Xô và Trung Cộng.

Tổng hợp các tài liệu viết về phong trào đầu tiên của bọn cộng sản Tàu tại Huyện Phúc Châu (Fuzhou) tỉnh Phúc Kiến vào năm 1934, đă t́m thấy Lá Cờ Đỏ Sao Vàng, mà bọn phỉ quyền Hà Nội đang sử dụng làm quốc kỳ từ đó đến nay.

Ngoài ra, phỉ quyền Hà Nội c̣n xài thêm Lá Cờ Búa Liềm, đă sao chép của quan thầy Liên Xô. Đây rơ ràng là những lá cờ của bọn ngoại bang đem về, nên làm sao có thể bắt buộc mọi người dân Việt Nam phải tôn trọng, trừ phi họ bị áp buộc và bị khủng bố bắt buộc miễn cưỡng phải theo.

2. Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ:

Quốc dân VN th́ chính thức sử dụng lá cờ màu vàng ba sọc đỏ, xuất hiện từ ngày 2-6-1948 cho tới tháng 7-1954. Sau đó, dù đất nước bị chia đôi nhưng chính phủ VNCH ở phía nam vĩ tuyến 17, từ Đồng Hà-Quảng Trị, vào tới Mũi Cà Mâu, vẫn tiếp tục sử dụng quốc kỳ của quốc dân VN.

Kể từ ngày 1-5-1975, tuy VNCH không c̣n nhưng Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ vẫn tồn tại và theo chân người Việt TNCS, qua khắp mọi nẻo đường hải ngoại, vẫn theo truyền thống của ông cha, trân quư bảo tồn và coi đó như một biểu tượng thiêng liêng của Tổ Quốc và Dân Tộc VN. (Sài G̣n trong tôi/ Hồ Đinh)

Tại các nước Âu Châu, Canada, Úc và nhất là Hoa Kỳ, có nhiều người Việt tỵ nạn định cư, sau bao chục năm đấu tranh liên tục, nên đă đạt được ư nguyện, thỉnh cầu chính quyền sở tại, công nhận “Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ” của VNCH, như là một biểu tượng tinh thần cao quư nhất của Cộng Đồng VN tỵ nạn.


Sự kiện mới đây, chính quyền thành phố Westminster thuộc Tiểu Bang California (Hoa Kỳ), ban hành quyết định “cấm lá cờ máu đỏ sao vàng của cộng phỉ xuất hiện nơi công cộng”, là một chiến thắng lớn của người Việt Quốc Gia tị nạn cộng sản, trên chặng đường đấu tranh quang phục đất nước, đang nằm dưới ách nô lệ của bạo quyền.

Về nguồn gốc của Lá Cờ, căn cứ theo tác phẩm “Quốc Kỳ Việt Nam” của tác giả Quốc Duy Nguyễn Văn An, th́ quốc kỳ VN được khởi đầu từ sáng kiến của Phan Thanh Giản. Năm 1863 khi làm Chánh Sứ hướng dẫn phái đoàn đi sứ sang Pháp, để xin chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Phần: Gia Định, Biên Ḥa và Định Tường, đă bị thực dân Pháp cưỡng chiếm vào năm 1862. Khi tàu vào tới hải cảng, Pháp yêu cầu phái bộ VN treo quốc kỳ, để họ tổ chức bắn súng đại bác chào đón theo nghi cách ngoại giao quốc tế.


V́ không chuẩn bị trước, nên Phan Thanh Giản phải lấy tạm chiếc khăn lụa màu vàng và dùng son đỏ viết trên đó bốn đại tự “Đại Nam Khâm Sứ”. Cũng từ đó, lá cờ trên đă trở thành Cờ Long Tỉnh, tượng trưng cho Triều Đ́nh Nhà Nguyễn, với lănh thổ c̣n lại gồm Bắc và Trung Phần.

Ngày 16-4-1945, học giả Trần Trọng Kim được Quốc Trưởng Bảo Đại, ủy nhiệm lập Chính Phủ với nội các gồm 10 Bộ Trưởng. Ngày 2-6-1945, Thủ Tướng Trần Trọng Kim quyết định chọn quốc kỳ mới cho VN. Đó là lá cờ nền vàng, ba sọc đỏ theo h́nh quẻ Ly (--) trong kinh Dịch. Ngày 30-6-1945, Ông lại chọn bài Đăng Đàn Cung làm Quốc Thiều.


Tháng 2-1946, D’Argenlieu được cử làm Cao Ủy Đông Dương, mục đích tái lập lại sự đô hộ trên ba nước Việt-Miên-Lào, mà Pháp đă bị quân phiệt Nhật đánh đuổi khỏi vùng vào ngày 3-9-1945. Để tiến tới ư đồ bất lương trên, thực dân mưu toan nhiều lần tách hẳn Nam Kỳ của VN, để nhập vào lănh thổ Pháp, đồng thời cai trị Bắc và Trung Phần như trước tháng 3-1945.
Tuy nhiên, âm mưu xảo trá và nguy hiểm của giặc, lần lượt bị quốc dân VN phát hiện và chống trả, khiến cho các chính phủ Nguyễn Văn Thinh và Lê Văn Hoạch, cũng lần lượt sụp đổ theo ư đồ thâu tóm đất đai của người Việt.

Ngày 8-10-1947, Nguyễn Văn Xuân làm Thủ Tướng và lập nội các mới, trong đó Trần Văn Ân được cử làm Thứ Trưởng Thông Tin. Trong giai đoạn này, hầu như tất cả các vị trí thức yêu nước cũng như những đảng phái quốc gia, đều cực lực chống lại chiêu bài chia cắt Nam Phần thành một miền tự trị thuộc Pháp.

Nương theo ḷng dân lúc đó, cụ Trần Văn Ân qua tư cách của một chính khách kiêm Thứ Trưởng Chính Phủ, đă đề nghị Thủ Tướng Xuân, sử dụng danh xưng “Nam Phần VN”, để thay thế cái gọi là “Nam Kỳ Cộng Ḥa Tự Trị”, mà Pháp và bọn Việt gian lúc đó đă ngụy xưng một cách trơ trẽn. Ngoài ra ông cũng đă chọn Quốc Ca - Quốc Kỳ cho cả nước.

Vào thời điểm 1948, lúc đó trên lănh thổ VN đang sử dụng năm lá cờ khác nhau: Ba lá của ba kỳ Bắc-Nam-Trung, một của đạo Cao Đài và lá thứ năm của Phật Giáo Ḥa Hảo.

Trong thành phần Ủy Ban chọn Quốc Ca và Quốc Kỳ cho Quốc Gia VN độc lập, lúc đó có Nguyễn Hữu Thiều là chủ tịch, cùng các đại diện Đỗ Quang Giai (Miền Bắc), Trần Văn Lư (Miền Trung), Nguyễn Văn Xuân (Miền Nam) cùng hai đại diện của Phật Giáo Ḥa Hảo và đạo Cao Đài. Cuộc triển lăm năm mẫu cờ tại Pḥng Khánh Tiết Sài G̣n. Cuối cùng Ủy Ban đă quyết định chọn Lá Cờ Nền Vàng Ba Sọc Đỏ, làm Quốc Kỳ của Quốc Dân và Quốc Gia VN.


Sự kiện lịch sử trên, về sau được Cựu Hoàng cũng là cựu Quốc Trưởng Bảo Đại, đề cập tới trong tác phẩm “Con Rồng Việt Nam (Le Dragon D’Annam)”, xuất bản năm 1990. Ngày 5-6-1949, trên chiến hạm Duguay Trovin, bỏ neo trong vịnh Hạ Long. Lúc đó trên tàu có sự hiện diện của Quốc Trưởng Bảo Đại, Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân, Cao Ủy Pháp tại Đông Dương là Emile Bollaert đại diện nước Pháp, thừa nhận nền độc lập của VN, mà quốc kỳ là lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ như chúng ta hiện tại đang trân quư trên khắp mọi nẻo đường lưu vong hải ngoại và ngay cả trong hồn tim của triệu triệu người VN trong nước đang sống nơi thiên đàng xhcn quái thai và bệnh hoạn.

Bởi vậy Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ có một ư nghĩ khác biệt với Lá Cờ Máu của cộng sản VN, v́ nó không phải là của riêng bất cứ ai, từ Bảo Đại tới Nguyễn Văn Xuân, Ngô Đ́nh Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Hương hay Dương Văn Minh.

Trong khi đó lá cờ máu sao vàng bẩn thỉu, từ h́nh thức tới nội dung là tài sản riêng của đệ tam cộng sản quốc tế, nương theo lá cờ của tỉnh Phúc Kiến, Trung Cộng và điều này càng làm lộ rơ bản chất tay sai bán nước của bọn cộng phỉ bắc việt cho bọn ngoại bang Trung Cộng.

Đó cũng là lư do thiêng liêng mà người Việt qua mọi giai đoạn lịch sử, từ trong nước cho tới cuộc sống lưu vong, vẫn quyết tâm ǵn giữ và đấu tranh để quốc tế công nhận, dù hiện nay người Việt quốc gia không có lănh thổ, từ sau ngày 30-4-1975, quốc hận, gia vong, đổi đời, súc vật lên làm chánh quyền, cai trị cả nước.

Lá Quốc Kỳ Việt Nam là biểu tượng cao quư nhất trong linh hồn người Việt. Tháng 7-1954 hơn hai triệu người đất Bắc và các tỉnh miền Trung bên kia vĩ tuyến 17 v́ công nhận Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của quốc dân, nên cắt ruột gạt nước mắt, bỏ xứ vào Nam t́m tự do dưới bóng lá Quốc Kỳ Màu Vàng. Ngày 30-4-1975 người Việt lại bỏ nước ra đi v́ không sống nổi dưới lá cờ máu hôi tanh của đảng cộng phỉ bắc việt, cho tới ngày nay, lập trường chính trị vẫn không hề thay đổi.

Lá Cờ của Quốc Dân VN hiện tại, nền màu vàng, h́nh chữ nhật bề ngang bằng 2/3 chiều dài. Trên nền vàng, ở phần giữa là Ba Sọc Đỏ có kích thước bằng nhau. Màu vàng của lá cờ tượng trưng cho dân tộc VN, trong cộng đồng các dân tộc Châu Á da vàng. Màu đỏ tượng trưng cho sự đấu tranh gian khổ, đẫm đầy huyết hận, nước mắt đoanh tṛng, trong suốt chiều dài của lịch sử chống ngăn ngoại xâm. Riêng Ba Sọc Đỏ tượng trưng cho ba phần của đất nước VN.


Lúc đó, chính kư giả Nguyễn Kiên Giang (tên thật Lư Thanh Cần), giữ chức Giám Đốc Pḥng Báo Chí thời Thủ Tướng Xuân. Ông là người được chính phủ giao phó thực hiện lá quốc kỳ. Song song Thủ Tướng Xuân c̣n chấp nhận bài hát “Thanh Niên Hành khúc” của Lưu Hữu Phước sáng tác làm Quốc Ca, v́ lúc đó đương sự cũng như hằng triệu triệu thanh niên nam nữ VN yêu nước, đang dấn thân đấu tranh chống thực dân Pháp, trong hàng ngũ Việt Minh... nên tim óc, chữ nghĩa, chỉ hướng về hồn Đất Nước, hồn Dân Tộc.

Đó cũng là lư do mà Chính phủ VNCH khi trước và Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại hiện nay, không thay đổi bài hát nào khác, dù bài “Việt Nam Việt Nam” của Phạm Duy, rất được nhiều người ưa thích nên đề nghị dùng nó để thay thế bài hát của họ Lưu.

Cũng liên quan tới Lịch Sử Lá Quốc Kỳ, trong tác phẩm “Việt Nam Nhân Chứng”, cựu tướng Trần Văn Đôn đă viết là, chính ông ta và tướng Lê Văn Kim, là tác giả đă đề nghị thực hiện quốc kỳ và quốc ca VN hiện tại. Nhưng sự tuyên bố trên, chẳng những bị cụ Trần Văn Ân là nhân chứng, tác giả lá cờ và quốc ca, cực lực phản đối, mà c̣n bị nhiều người gạt bỏ không tin là sự thật.

Bởi vào năm 1948, Trần Văn Đôn cũng như Lê Văn Kim... chỉ là những sĩ quan cấp nhỏ trong quân đội Pháp, th́ chừng nào mới tới phiên được mời vào pḥng hội, để nghị sự một vấn đề trọng đại của quốc gia lúc đó, chỉ có Nguyên Thủ, các cấp Bộ Trưởng, Thủ Hiến ba kỳ và lănh đạo cao cấp của các giáo phái... mới được mời họp với ư kiến và quyết định.

Trong suốt cuộc chiến VN kéo dài 20 năm (1955-1975), những ai đă từng là người dân trong vùng chiến nạn, xôi đậu, bị giặc chiếm hay là lính trận chiến đấu nơi sa trường, đồn Nghĩa Quân cheo leo miền biên tái, những biệt chính, biệt kích cảm tử hoạt động riêng rẽ và các quân nhân bị thất lạc trong lúc đụng trận, mới cảm nhận được sự thiêng liêng của lá cờ và bản quốc ca hùng tráng, được thổi lên khi xung trận.

Quốc Kỳ VNCH như một ngọn đuốc, soi đường mở lối đấu tranh cho thanh niên nam nữ Miền Nam trong suốt 20 năm đoạn trường máu lệ, v́ đất nước bị bọn cộng phỉ bắc việt xâm lăng ăn cướp. Cũng nhờ Lá Quốc Kỳ VNCH, mà những người Việt lưu vong tỵ nạn khắp bốn phương trời, sau ngày mất nuớc 30-4-1975, đă ngồi lại với nhau để cùng sớt chia buồn vui vận nước. Đó là cấp lănh đạo tối cao nhất của Cộng Đồng VN Tỵ Nạn Hải Ngoại, hầu như từ truớc tới nay chưa có ai dám phản đối hay xúc phạm.

Có c̣n nhớ hay không những ngày tang tóc hỗn loạn của Tết Mậu Thân (1968), Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 tại An Lộc (B́nh Long), Quảng Trị, Kon Tum, B́nh Định... Rồi những ngày thi hành cái gọi là hiệp định ngưng bắn vào tháng 1-1973 và sau rốt là 55 ngày cuối cùng của VNCH vào năm 1975, lá cờ lại thấm đẫm thêm thịt xương, máu và nước mắt Người Lính VNCH.

Tại chiến trường, để treo được ngọn Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, biểu tượng của quốc gia, lên Kỳ Đài Huế trong Tết Mậu Thân, trên ngọn Đồi Đồng Long (An Lộc), Ṭa Hành Chánh Kon Tum và nhất là tại Cổ Thành Đinh Công Tráng - Quảng Trị... đă có không biết bao nhiêu sinh mạng của lính, trong mọi binh chủng từ NQ+ĐPQ, Bộ Binh, Biệt Động Quân, Biệt Kích Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Nhảy Dù, Thiết Giáp, Pháo Binh, Không Quân ... đă gục ngă, trong quyết tâm cùng đồng đội, tiếp nối hết lớp này tới đợt khác, mới đạt được thắng lợi cuối cùng chiếm lại Cổ Thành.

Năm 1973, phỉ quyền cộng sản Hà Nội qua đồng thuận của Mỹ, được đóng quân bất hợp pháp trên lănh thổ VNCH theo tinh thần hiệp ước ngưng bắn. Bọn chúng đă cố gắng treo dán khắp nơi từ cờ lớn tới cờ nhỏ, những lá cờ máu bẩn thỉu tay sai ngoại bang, khiến cho Người Lính VNCH, lại phải chịu nhiều thương vong, để bảo vệ xóm làng, dân chúng, không để mất vào tay lũ khủng bố cộng phỉ.

Điều vinh hạnh nhất hiện nay tại hải ngoại, đối với những người lính già mang mọi cấp bậc, thành phần, giai cấp xă hội... ai mà chẳng mơ ước được Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia và đồng đội, phủ cho ḿnh một Lá Quốc Kỳ Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ trên nắp quan tài, trước khi vĩnh viễn bước vào cơi niết bàn thênh thênh không vướng bận.

Tám mươi lăm năm qua, người Việt đă trăm lần ḥa hợp, ḥa giải, ḥa b́nh với bọn tiểu nhân cộng phỉ bắc việt nhưng trăm lần như một, lần nào cũng bị bọn chúng lưu manh, xảo quyệt, lường gạt, đâm sau lưng, mà lần cuối cùng đau đớn nhất là ngày 30-4-1975. Cho nên hơn bốn mươi năm nay, kể cả trẻ con cũng không c̣n ai tin vào sự hứa hẹn xảo trá của bọn cộng phỉ bắc việt, trừ bọn c̣ mồi không tim óc dù đă có cả núi bằng cấp và chữ nghĩa.

Bởi vậy chỉ c̣n một cách duy nhất, là cả nước đứng dậy phá tan xiềng xích nô lệ của đảng cộng sản, để đ̣i lại những ǵ mà chúng ta đă mất, trong đó quan trọng nhất là quyền sống của kiếp người.
VIETBF Diễn Đàn Hay Nhất Của Người Việt Nam

HOT NEWS 24h

HOT 3 Days

NEWS 3 Days

HOT 7 Days

NEWS 7 Days

HOME

Breaking News

VietOversea

World News

Business News

Car News

Computer News

Game News

USA News

Mobile News

Music News

Movies News

History

Thơ Ca

Sport News

Stranger Stories

Comedy Stories

Cooking Chat

Nice Pictures

Fashion

School

Travelling

Funny Videos

Canada Tin Hay

USA Tin Hay

Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
Gibbs's Avatar
Release: 2 Weeks Ago
Reputation: 585107


Profile:
Join Date: Nov 2006
Posts: 32,866
Last Update: None Rating: None
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	VBF495215024_1081756760662014_4903808149763899232_n.jpg
Views:	0
Size:	170.5 KB
ID:	2527872 Click image for larger version

Name:	VBF494512887_1080599537444403_2037387446476592144_n.jpg
Views:	0
Size:	216.6 KB
ID:	2527873 Click image for larger version

Name:	VBF494526105_1080595767444780_475517179572819289_n.jpg
Views:	0
Size:	210.5 KB
ID:	2527874 Click image for larger version

Name:	VBF494969636_1080599444111079_99488749472251723_n.jpg
Views:	0
Size:	207.4 KB
ID:	2527875 Click image for larger version

Name:	VBF495647490_1081755010662189_2379403456430646781_n.jpg
Views:	0
Size:	107.1 KB
ID:	2527876 Click image for larger version

Name:	VBF495564772_1081754827328874_2060139103831750031_n.jpg
Views:	0
Size:	193.6 KB
ID:	2527877 Click image for larger version

Name:	VBF495450376_1081755413995482_3065865757401009796_n.jpg
Views:	0
Size:	219.3 KB
ID:	2527878 Click image for larger version

Name:	VBF495292157_1081756223995401_5476160981477652082_n.jpg
Views:	0
Size:	199.4 KB
ID:	2527879 Click image for larger version

Name:	VBF495203043_1081755670662123_7350828947626608640_n.jpg
Views:	0
Size:	213.9 KB
ID:	2527880 Click image for larger version

Name:	VBF495147624_1081754923995531_7745994531181181213_n.jpg
Views:	0
Size:	308.8 KB
ID:	2527881
Gibbs_is_offline
Thanks: 29,021
Thanked 19,408 Times in 8,857 Posts
Mentioned: 162 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 791 Post(s)
Rep Power: 80 Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Old 2 Weeks Ago   #2
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 32,866
Thanks: 29,021
Thanked 19,408 Times in 8,857 Posts
Mentioned: 162 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 791 Post(s)
Rep Power: 80
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Default

Tôi măi nhớ không bao giờ quên ngày xử bắn ông Hồ Ngọc Cẩn. Mới tờ mờ sáng loa phóng thanh Cần Thơ đă lải nhải kêu gọi mỗi gia đ́nh phải đi 2 người mít ting nhưng không ai biết đi làm cái tṛ trống ǵ, chỉ biết theo sự hướng dẫn của bọn ḅ vàng công an phường đến sân banh Quang Trung Cần Thơ.

Trong lúc đó, chúng tôi thấy một chiếc xe jeep chạy đến, trên xe có một người bị trói hai tay phía sau, cổ đeo dây chuổi tràng hạt của người Công Giáo, hai chân bị khoá dây xích. Nhưng không ai biết ông là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Khi vào sân banh th́ dân chúng không vào hết, chỉ đứng lây quây trước cổng và cạnh sân banh dọc theo đường Quang Trung.

Dân chúng dự định bỏ về nhà th́ họ tuyên bố xử ông Đại Tá Tỉnh Trưởng Chương Thiện th́ dân chúng lại đổi ư, có người muốn biết ai là Tỉnh Trưởng Chương Thiện, riêng tôi muốn biết họ đang làm ǵ. Cả đám đông chen nhau ùa vào, thấy t́nh h́nh không ổn họ đóng cổng sân banh lại, nhưng dân chúng lại leo vách tường dọc đường Quang Trung tràn vào đông nghẹt sân banh.

Trước khán đài bọn chúng treo biểu ngữ Toà Án Nhân Dân, nhưng khi bắt đầu xử th́ chúng kéo biểu ngữ Toà Án Nhân Dân xuống mới ḷi biểu ngữ Toà Án Quân Sự, thiệt là tráo trở ngay ban ngày giữa chốn ngàn người. Khi xử Ông Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn chẳng khác ǵ người Do Thái xử Chúa Giêsu cách đây hơn 2000 năm.

Ông Hồ Ngọc Cẩn đứng chính giữa, bên phải là Đai Uư Chiêu Hồi, bên trái là mội người ăn trộm tại Cần Thơ ba người đều bị bịt mắt. Khi chúng kể hết tội lỗi nơi này sang tội lỗi nơi kia trực tiếp hay gián tiếp ông đă giết bao nhiêu ngàn chiến sĩ yêu nước và buộc Ông nhận tội.

Bọn chúng lại cho một tên du kích thổ phỉ đem micro phone cho Ông trả lời. Ông rất b́nh tĩnh, nét mặt tươi vui không lộ vẻ hằn thù oán ghét, Anh Dũng Hiên Ngang trả lời chậm rơ từng chữ. “CÁC ANH CÓ CHÍNH NGHĨA CỦA CÁC ANH, CHÚNG TÔI CÓ CHÍNH NGHĨA CỦA CHÚNH TÔI. V̀ CHÍNH NGHĨA BẢO VỆ QUÊ HƯƠNG TH̀ KHÔNG CÓ TỘI !” Nên nhớ lúc đó bọn chúng để loa phóng thanh toàn thành phố Cần Thơ ai cũng nghe Ông Hồ Ngọc Cẩn dơng dạc và hiên ngang trả lời bọn giặc cướp xâm lược từ phương bắc.

Thấy không ổn bọn chúng liền thay kế hoạch không cho Ông trả lời và tuyên án kết tội xử tử. Trước khi xử bắn bọn chúng hỏi cả ba người có muốn ǵ không? Người ăn trộm chỉ khóc lu bù. Ông Đại Uư Chiêu Hồi xin được về quê chôn cất tại huyện Cờ Đỏ, bọn chúng chấp thuận. C̣n Ông Cẩn yêu cầu được Mở khăn bịt mắt. Bọn chúng lại hỏi tại sao ông muốn như vậy.

Ông Hồ Ngọc Cẩn dơng dạc trả lời: “TÔI MUỐN NH̀N THẤY ĐỒNG BÀO CỦA TÔI TRƯỚC KHI CHẾT.”

Một tên cộng phỉ đội nón tai bèo đứng gần được lệnh mở khăn che mắt Ông Hồ Ngọc Cẩn. Lúc đó chỉ có những người ở hàng đẩu trong đó có tôi là nhân chứng. Mọi người ngồi bẹp xuống đất cách khoảng 6-8 mét mới nghe Ông Cẩn và người Đại Uư Chiêu Hồi nói lời cuối. Khi tràng súng thứ nhất Ông Hồ Ngọc Cẩn quỳ một gối, nhưng nét mặt vẫn tươi vui đưa ánh mắt nh́n quanh công chúng.

Khi tràng súng thứ nh́ Ông Hồ Ngọc Cẩn quỳ hai gối, nét mặt Ông vẫn tươi vui nh́n Đồng Bào như một Anh Hùng Tử Đạo Hiên Ngang Trước Pháp Trường. Tràng súng thứ ba, có lẽ v́ mất máu nhiều và bị đói khát lâu ngày nên kiệt sức Ông gục đầu xuống.

Cuối cùng, bọn chúng cho một phát ân huệ ngay đầu coi như mạng ông kết liễu từ đó. Ông Hồ Ngọc Cẩn măi măi là vị Anh Hùng trong ḷng người dân Cần Thơ và cả Miền Tây.

Khi loa phóng thanh tuyên bố Ông Hồ Ngọc Cẩn đă bị xử tử chết tại sân vận động Quang Trung Tỉnh Cần Thơ. Ông Bảy Từ đến hỏi ư kiến Ông Khen - Chủ Tịch Hội Đồng Giáo Xứ Nhà Thờ Họ Đạo An Thạnh đồng ư cho Ông Bảy Từ là bà con quen biết với Ông Cẩn lên Nhà Thờ Giật Chuông Tử cho mọi người Công Giáo trong Xứ Đạo Đọc Kinh Cầu Nguyện cho Linh Hồn Ông Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn được sớm về Thiên Đàng theo nghi thức Công Giáo.

Bọn công anphường Hưng Lợi cho gọi ông Chủ Tịch Khen, Hội Đồng Giáo Xứ Nhà Thờ An Thạnh đến đồn công an làm việc, nêu rơ lư do tại sao nhà thờ liên tục giật chuông không ngừng ngay sau khi trên loa tuyên bố Ông Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn bị xử bắn chết.

Ông Khen Hội Đồng Giáo Xứ Nhà Thờ An Thạnh trả lời cho họ biết đó là thông lệ, là luật đạo. Hễ ai là người Công Giáo mới qua đời đều được Giật Chuông Tử để cho mọi người trong Xứ Đạo cầu cho linh hồn đó được Chúa sớm rước về Thiên Đàng. Đám công an tiểu nhân tức tối lắm nhưng bọn chúng lại sợ cả khối người Công Giáo nên bỏ qua.

Sau khi xử bắn ông Cẩn, bọn tiểu nhân ác ôn cộng phỉ đă đem xác Ông Hồ Ngọc Cẩn liệng bên lề đường ngay nghĩa trang người Tàu cạnh nhà máy lọc nước, trước Trung Tâm Nhập Ngũ Quân Khu 4, đường Mạc Tử Sanh sau ngày chiếm được Miền Nam chúng đổi thành đường 30 tháng 4, v́ đó là đường chúng tiến vào tỉnh Cần Thơ. Bọn chúng kêu mấy người đàn ông thanh niên ở đó trong tổ Ông Khen đến chôn Ông Hồ Ngọc Cẩn.

Nhưng khi ông Tổ Trưởng Khen và mấy anh thanh niên đến th́ bọn chúng không cho đào sâu để chôn. Chỉ để xác ông Hồ Ngọc Cẩn ngay trên mặt đất, rồi đào đất xung quanh vừa phủ lấp lên xác Ông Hồ Ngọc Cẩn th́ mấy tên ḅ vàng (công an) phường Hưng Lợi nói là xong, không cho phủ đất lên thêm nữa.

Họ canh hai ngày đến ngày thứ ba th́ bắt đầu hôi thúi, mấy tên ḅ vàng (công an) phường Hưng Lợi không c̣n canh nữa. Sáng sớm ngày thứ tư, dân chúng đi bộ ngang thấy đất bị bới ra và xác Ông Hồ Ngọc Cẩn đă không có ở đó. Ông Khen lại bị đám ḅ vàng (công an) cho mời đến đồn làm việc.

Ông Khen giận dữ trả lời tay đôi với bọn ác thú rằng giết Hồ Ngọc Cẩn là mấy ông giết, chôn cạn Hồ Ngọc Cẩn cũng mấy ông muốn, canh xác Hồ Ngọc Cẩn cũng mấy ông coi. Bây giờ xác Hồ Ngọc Cẩn biến mất là tại mấy ông không tôn trọng người chết để hôi thúi cả một vùng trời, th́ ai đó làm phước đem đi nơi khác chôn cất đàng hoàng, không c̣n hôi tanh cho dân chúng đi ngang không phải tránh né.

Dân địa phương đồn rầm lên Ông Hồ Ngọc Cẩn sống lại và đi về tỉnh Chương Thiện rồi. Đó là chuyện rất vui mừng cho bà con cô bác tại Cần Thơ khi nghe tin đồn về xác Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Sau vài ngày, dân lại đồn lính của Ông Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đă lén đem xác Ông Hồ Ngọc Cẩn chôn nơi nào đố ai biết? Mà dẫu có biết cũng chả ai thèm nói cho bọn chúng tức cũng chả làm ǵ nhau.

Những thứ bịa đặt của bọn cộng phỉ nên xoá đi. Sử sách phải tường thuật cho thật thà không nên láo khoét. Nếu muốn biết thêm chi tiết, vào Paris Match của đầu thập niên 80 sẽ thấy bài viết và h́nh ảnh ngày xử bắn Ông Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn.

Tôi nhắc lại một lần nữa những thứ rác rưởi của bọn thổ phỉ bắc việt nên cắt bỏ đi v́ nó sẽ làm sỉ nhục và mất giá trị của người Anh Hùng Đất Phương Nam. Tôi là Châu, con Ông Khen đă có mặt trong ngày xử tử Ông Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, lúc đó tôi 17 tuổi c̣n trẻ c̣n khoẻ nên trèo vào hàng rào sân banh và chen lên hàng đầu chứng kiến từng giây phút.

Anh Hùng không nói lời thừa, không oán không hận làm Vua muôn đời. Đó mới là Danh Tướng Hồ Ngọc Cẩn cả Miền Nam ngày xưa chỉ có Một.

Người dân Cần Thơ lén đưa thi thể có Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn về… và phủ cho một lá cờ Việt Nam Cộng Ḥa… mà cố Đại Tá đă suốt đời phục vụ cho lư tưởng của Việt Nam Cộng Hoà.

Đại Tá Cẩn bị giải lên chỗ hành h́nh, mấy tên thổ phỉ mọi rợ hung hăng gh́m súng bao quanh người chiến sĩ anh hùng. Trước khi bắn người, tên chỉ huy bọn thổ phỉ láo xược "cho phép" người được nói. Đại Tá Cẩn trong chiếc áo tù vẫn hiên ngang để lại cho lịch sử lời khẳng khái: “Tôi chỉ có một ḿnh, không mang vũ khí, tôi không đầu hàng, các ông cứ bắn tôi đi. Nhưng trước khi bắn tôi xin được mặc quân phục và chào lá quốc kỳ của tôi lần cuối”.

Dĩ nhiên lời yêu cầu không được thỏa măn. Đại Tá Cẩn c̣n muốn nói thêm những lời trối trăn hào hùng nữa, nhưng người đă bị mấy tên thổ phỉ nón cối hèn hạ xông lên đè người xuống và bịt miệng lại. Tên chỉ huy ra lệnh hành quyết người anh hùng.

Điều duy nhất mà bọn chúng thỏa măn cho người là không bịt mắt, để người nh́n thẳng vào những họng súng thù, nh́n lần cuối quốc dân đồng bào. Rồi Người Anh Hùng Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đă hiên ngang ngạo nghễ đi vào Lịch Sử.

Cùng ngẩng cao đầu đi vào Chiến Sử Việt Nam Cộng Ḥa với Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn tại sân vận động Cần Thơ là người anh hùng Thiếu Tá Trịnh Tấn Tiếp, Quận Trưởng quận Kiến Thiện, bạn đồng khóa với Đại Tá Cẩn. Thiếu Tá Tiếp đă cùng các chiến sĩ Địa Phương Quân Chi Khu chiến đấu dũng cảm đến sáng ngày 1/5/1975 th́ ông bị sa vào tay giặc.

Thiếu Tá Tiếp là một sĩ quan xuất sắc, trí dũng song toàn. Ông đă từng gây rất nhiều tổn thất nặng nề cho quân địch, nhờ tổ chức thám sát chính xác, có lần ông đă gọi B-52 dội trúng một trung đoàn cộng phỉ bắc việt xâm lược và hầu như xóa sổ trung đoàn này.

Bọn cộng phỉ tiểu nhân hèn hạ ghi nhớ mối thù này, người anh hùng của chúng ta sa vào chúng, th́ chúng sẽ giết chết ông không thương tiếc. Hai người anh hùng cuối cùng của miền Tây đă vĩnh viễn ra đi. Đất trời những ngày đầu mùa mưa tháng 5/ 1975 bỗng tối sầm lại như tiếc thương hai người anh hùng sa cơ lỡ vận trước quân cướp nước.

Một nhân chứng đứng ở hàng đầu dân chúng kể lại rằng, trong những giây phút cuối cùng, Đại Tá Cẩn đă dơng dạc hét lớn: “Việt Nam Cộng Ḥa Muôn Năm! Đả đảo cộng sản”! Năm sáu tên bộ đội nhào vào tấn công như lũ lang sói, chúng la hét man rợ và đánh đấm người anh hùng sa cơ một cách tàn nhẫn.

Người phụ nữ nhân chứng nước mắt ràn rụa, bà nhắm nghiền mắt lại không dám nh́n. Bà nghe trong cơi âm thanh rừng rú có nhiều tiếng súng nổ chát chúa. Khi bà mở mắt ra th́ thấy nhiều tên việt cộng quây quanh thi thể của Đại Tá Cẩn và khiêng đem đi.

Đúng ra, phải vinh danh Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn là Cố Chuẩn Tướng Hồ Ngọc Cẩn, v́ người đă anh dũng chiến đấu trên chiến trường và vị quốc vong thân. Nhưng Tổng Thống Tổng Tư Lệnh, Tổng Tham Mưu Trưởng đă bỏ chạy từ lâu, Tư Lệnh Quân Khu IV đă tử tiết, lấy ai đủ tư cách trao gắn lon và truy thăng Chuẩn Tướng cho Người.

Anh linh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đă thăng thiên. Tên tuổi của ông đă đi vào lịch sử đến ngàn đời sau. Xin Người có linh thiêng hăy thương xót cho Dân Tộc và Đất Nước Việt Nam vẫn c̣n đang ch́m đắm trong tối tăm, đọa đày và gông xiềng bọn phỉ quyền Hà Nội, xin hăy ban cho những người c̣n đang sống khắc khoải thêm sức mạnh và quyết tâm, để cùng nhau đứng dậy lật đổ chúng, tất cả bọn con cháu loài dă thú man rợ từ phương bắc vào vực thẳm lạnh lẽo nhất của địa ngục.
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Old 2 Weeks Ago   #3
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 32,866
Thanks: 29,021
Thanked 19,408 Times in 8,857 Posts
Mentioned: 162 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 791 Post(s)
Rep Power: 80
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Default

𝐍𝐡𝐮̛̃𝐧𝐠 𝐯𝐢̣ 𝐓𝐮̛𝐨̛́𝐧𝐠 𝐋𝐚̃𝐧𝐡 𝐐𝐋.𝐕𝐍𝐂𝐇 𝐛𝐢̣ 𝐩𝐡𝐢̉ 𝐪𝐮𝐲𝐞̂̀𝐧 𝐇𝐚̀ 𝐍𝐨̣̂𝐢 𝐡𝐞̀𝐧 𝐡𝐚̣ 𝐭𝐫𝐚̉ 𝐭𝐡𝐮̀ 𝐯𝐚̀ đ𝐚̀𝐲 đ𝐨̣𝐚 𝐭𝐫𝐨𝐧𝐠 𝐧𝐡𝐮̛̃𝐧𝐠 𝐭𝐫𝐚̣𝐢 𝐭𝐮̀ 𝐥𝐚𝐨 đ𝐨̣̂𝐧𝐠 𝐤𝐡𝐨̂̉ 𝐬𝐚𝐢 𝐭𝐫𝐞̂𝐧 𝟏𝟕 𝐧𝐚̆𝐦 (𝟏𝟗𝟕𝟓 -1992)

𝟭– 𝗧𝗵𝗶𝗲̂́𝘂 𝗧𝘂̛𝗼̛́𝗻𝗴 𝗧𝗿𝗮̂̀𝗻 𝗕𝗮́ 𝗗𝗶, 𝗖𝗵𝗶̉ 𝗛𝘂𝘆 𝗧𝗿𝘂̛𝗼̛̉𝗻𝗴 𝗧𝗿𝘂𝗻𝗴 𝗧𝗮̂𝗺 𝗛𝘂𝗮̂́𝗻 𝗟𝘂𝘆𝗲̣̂𝗻 𝗤𝘂𝗮𝗻𝗴 𝗧𝗿𝘂𝗻𝗴.


Thiếu Tướng Trần Bá Di là một trong 4 vị Tướng sau cùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa mà bọn phỉ quyền Hà Nội hèn hạ và tàn ác đă thả sau 17 năm giam cầm đày đọa trong lao tù khổ sai khắc nghiệt. Nói đến Thiếu Tướng Trần Bá Di, những người đă từng biết ông, ai cũng thương mến và ca ngợi đức tánh xuề x̣a, chân thật, b́nh dị, hết ḷng với anh em nhưng rất kiên cường, bất khuất trước địch quân của ông.

Xuất thân Trường Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt khoá 5, ông làm Tỉnh Trưởng Cần Thơ từ năm 1962 đến 1964. Sau đó, ông đi tu nghiệp tại Hoa Kỳ và trở về làm Phó Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bộ Binh QL.VNCH.

Sau Tết Mậu Thân 1968, ông được vinh thăng làm Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn IV. Năm 1970, ông lại trở về Sư Đoàn 9 Bộ Binh với chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn.

Cho đến năm 1974, trước khi đổi về Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung và làm Chỉ Huy Trưởng đến ngày Miền Nam Việt Nam bị bọn cộng phỉ xâm lược cưỡng chiếm 30/4/1975, ông phụ trách Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 4/ Quân Khu 4.

Những ngày cuối tháng 4 năm 1975, Thiếu Tướng Trần Bá Di trong chức vụ Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Ông ở lại tử thủ đơn vị, chống lại sự xâm nhập của bọn cộng phỉ từ Hậu Nghĩa cho đến giây phút cuối cùng.

Trong lao tù cộng sản, Thiếu Tướng Trần Bá Di nổi tiếng là một tù nhân không khuất phục bọn cộng phỉ man rợ và vô giáo dục, xứng danh là Vị Tư Lệnh của Sư Đoàn 9 Mũi Tên Thép.

Ông chống đối lao động, không nói chuyện với lũ quản giáo, quản chế mọi rợ vô văn hóa. Nếu muốn nói chuyện với ông phải từ cấp Trưởng Trại trở lên. Ông tuyệt đối không ca hát nhạc cộng phỉ dù bị bắt buộc. Ông đă giữ đúng tư cách một vị Tướng anh hùng của Quân Lực VNCH.

Nhắc đến Thiếu Tướng Trần Bá Di, không ai không cảm mến con người rất mộc mạc, b́nh dị, ḥa đồng với thuộc cấp, chân thật với đồng đội như ông.

Thiếu Tướng Trần Bá Di là một trong các vị Tướng trong sạch, đáng kính mến của Miền Nam Việt Nam, là niềm hănh diện cao quư của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.

Thiếu Tướng Trần Bá Di từ trần ngày 23 tháng 3 năm 2018 tại TP Orlando, tiểu bang Florida. Ông hưởng thọ 88 tuổi.

**********
𝟮- 𝗧𝗵𝗶𝗲̂́𝘂 𝗧𝘂̛𝗼̛́𝗻𝗴 𝗟𝗲̂ 𝗠𝗶𝗻𝗵 Đ𝗮̉𝗼, 𝗧𝘂̛ 𝗟𝗲̣̂𝗻𝗵 𝗦𝘂̛ Đ𝗼𝗮̀𝗻 𝟭𝟴 𝗕𝗼̣̂ 𝗕𝗶𝗻𝗵

Người Hùng Chiến Trường Xuân Lộc 1975: “I will hold Long Khánh. I will knock them down here even if they bring two divisions or 3 divisions”. (Tôi sẽ giữ Long Khánh. Tôi sẽ đánh tan họ dù thậm chí họ có 2 hoặc 3 sư đoàn).

Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, tốt nghiệp Khóa 10 Trường Vơ Vị Quốc Gia Đà Lạt khi ông vừa đúng hai mươi tuổi. Là một chiến sĩ rất dũng cảm, chẳng mấy chốc mà số lượng huy chương tưởng thưởng cho ông đă đầy hết ngực áo. Nhưng với bản tính khiêm tốn, hiếm khi người ta thấy ông đeo những chiếc huy chương đó.

Thiếu Tướng Đảo là một trong những vị tướng đi lên chức vụ của ḿnh bằng những chiến công ngoài chiến trường. Ông đă từng đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng trong quân đội, từng làm Tỉnh Trưởng Chương Thiện và Định Tường. Đỉnh cao nhất trong đời quân ngũ của ông khi ông làm Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh từ tháng 4.1972, vinh thăng Chuẩn Tướng tháng 11 năm 1972.

Ngày 23.4.1975, Tổng Thống Trần Văn Hương gắn Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương và vinh thăng ông lên Thiếu Tướng. Thiếu Tướng Đảo nổi tiếng là một vị Tướng thanh liêm, cần mẫn, năng động, kiên quyết và trí dũng song toàn. Sĩ quan và binh sĩ dưới quyền rất thương mến vị Tư Lệnh của họ, v́ Thiếu Tướng Đảo luôn quan tâm chăm sóc đời sống thuộc cấp và gia đ́nh họ. Ông luôn có mặt ở những vị trí tiền tuyến của sư đoàn để nâng cao tinh thần chiến binh.

Nguyên tắc làm việc của ông mà ông đ̣i hỏi các cộng sự viên phải tuân thủ là liên lạc xuống dưới ít nhất hai cấp. Thí dụ, một Trung Đoàn Trưởng phải nắm được t́nh h́nh tận cấp Đại Đội, hay thấp hơn nữa. Với hệ thống làm việc sát cánh này, tinh thần binh sĩ lên rất cao, v́ lúc nào họ cũng nghe thấy cấp trên đang có mặt bên cạnh. Họ đền đáp sự quan tâm ấy bằng những chiến thắng vang dội và ḷng trung thành tuyệt đối.

Biến cố trưa ngày 30-04-75 … Sau khi nhận được lệnh buông súng, ông ra lệnh giải tán đơn vị và t́m cách về Cần Thơ rồi lại quay về Sài G̣n. Đến ngày 9 tháng 5 năm 1975, ông ra tŕnh diện và bị bọn phỉ quyền Hà Nội bắt đi tù lao động khổ sai, do tỏ thái độ bất hợp tác nên ông bị giam tới 17 năm, lâu nhất trong số các tướng VNCH. Măi đến ngày 5 tháng 5 năm 1992, ông mới được bọn chúng trả tự do.

Tháng 4 năm 1993, ông được xuất cảnh sang Hoa Kỳ theo diện H.O và định cư cùng gia đ́nh tại tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ. Sau khi ổn định cuộc sống tại Hoa Kỳ, ông tham gia và tích cực tổ chức các hoạt động trong giới cựu sĩ quan và binh sĩ Việt Nam Cộng Ḥa. Tháng 9 năm 2003, ông là một trong những đồng sáng lập tổ chức “Tập Thể Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Ḥa” và giữ chức Chủ Tịch Trung Tâm Điều Hợp Trung Ương.

Thiếu Tướng Lê Minh Đảo cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh VNCH đă mệnh chung vào lúc 1:45 pm ngày 19 tháng 3 năm 2020 tại tiểu bang Connecticut, Hoa Kỳ hưởng thọ 87 tuổi.

*****************
𝟯- 𝗧𝗵𝗶𝗲̂́𝘂 𝗧𝘂̛𝗼̛́𝗻𝗴 Đ𝗼̂̃ 𝗞𝗲̂́ 𝗚𝗶𝗮𝗶, 𝗖𝗵𝗶̉ 𝗛𝘂𝘆 𝗧𝗿𝘂̛𝗼̛̉𝗻𝗴 𝗯𝗶𝗻𝗵 𝗰𝗵𝘂̉𝗻𝗴 𝗕𝗶𝗲̣̂𝘁 Đ𝗼̣̂𝗻𝗴 𝗤𝘂𝗮̂𝗻.

Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai nguyên là một tướng lănh gốc Nhảy Dù của Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên ở trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam trong giai đoạn Quân Đội Liên Hiệp Pháp. Sau này, ông được chuyển sang lănh vực Tham Mưu và Chỉ Huy các đơn vị Bộ Binh. Sau cùng, ông đảm nhiệm chức vụ Chỉ Huy Trưởng Binh Chủng Biệt Động Quân.

Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai sinh năm 1929 tại Bến Tre, trong một gia đ́nh điền chủ. Ông theo học Khóa 5 Hoàng Diệu tại Trường Vơ Bị Liên Quân Đà Lạt, ra trường vào tháng 4, 1952. Đơn vị đầu tiên của ông là Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù.

Lần lượt ông đă giữ các chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng - Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, Chiến Đoàn Trưởng - Chiến Đoàn 2 Nhảy Dù (1962), Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn 25 Bộ Binh, Tư Lệnh Sư Đoàn 10 Bộ Binh (Tiền thân của Sư Đoàn 18 Bộ Binh).

Năm 1967 ông mang cấp bậc Chuẩn Tướng. Năm 1972, ông là Chỉ Huy Trưởng binh chủng Biệt Động Quân và được vinh thăng Thiếu Tướng vào tháng 4/1974.

Ngày 28 tháng 4/1975, tướng Times bên Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ ngỏ lời sẵn sàng giúp đưa cả gia đ́nh ông đi Mỹ, nhưng ông quyết định ở lại v́ trách nhiệm của một tướng lănh.

Ngày 15 tháng 5/1975, bọn phỉ quyền Hà Nội quỷ quyệt giả vờ đến nhà mời ông đi “họp” và đă bắt ông đưa thẳng vào khám Chí Ḥa, sau đó bọn chúng đưa ông cùng với các vị tướng lănh VNCH khác ra bắc việt đày đọa.

Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai bị bọn phỉ quyền Hà Nội giam tù lâu hơn cả các Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn, tổng cộng 17 năm. Nghe nói rằng bọn phỉ quyền Hà Nội đă hèn hạ trả thù ông v́ khi Dương Văn Minh mời ông cộng tác, ông đă dơng dạc nói rằng ông cầm quân không phải để đầu hàng bọn cộng phỉ.

Đến ngày 5 tháng 5/1992, sau 17 năm lao tù, ông mới được trả tự do. Ông là một trong 4 vị cấp tướng cuối cùng ra trại đó là Thiếu Tướng Trần Bá Di, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo và Chuẩn Tướng Lê Văn Thân.

Ông và gia đ́nh được xếp vào danh sách H.O. cuối cùng đến Mỹ vào tháng 11 năm 1994 và định cư tại thành phố Garland, tiểu bang Texas.

Cựu Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai qua đời ngày 21.2.2016 tại Bệnh viện Baylor Dallas, Texas, sau 4 năm sống tại viện dưỡng lăo Pleasant Valley Health Care Center.

*************
𝟰- 𝗖𝗵𝘂𝗮̂̉𝗻 𝗧𝘂̛𝗼̛́𝗻𝗴 𝗧𝗿𝗮̂̀𝗻 𝗤𝘂𝗮𝗻𝗴 𝗞𝗵𝗼̂𝗶, 𝗧𝘂̛ 𝗟𝗲̣̂𝗻𝗵 𝗟𝘂̛̃ Đ𝗼𝗮̀𝗻 𝟯 𝗞𝘆̣ 𝗕𝗶𝗻𝗵

Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi là vị tướng Thiết Giáp tài giỏi nhất trong Quân Lực VNCH.

Ông là một vị tướng oai hùng, chính trực, tài giỏi, chỉ huy tận tụy và cũng là vị chỉ huy Lữ Đoàn duy nhất trong 4 Lữ Đoàn của Binh Chủng Thiết Giáp và trong tất cả các Lữ Đoàn của QLVNCH được thăng cấp Chuẩn Tướng. Ông c̣n chỉ huy Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III.

Cựu Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi sinh ngày 24 tháng 1 năm 1930 tại quê ngoại Mỏ Cầy, Bến Tre. Năm 1951, Ông gia nhập Quân Đội Quốc Gia, ra trường với cấp bậc thiếu úy hiện dịch và ông chọn Binh Chủng Thiết Giáp. Kể từ đó ông gắn bó với binh chủng này cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Ông từng theo học các trường thiết giáp danh tiếng thế giới là Trường Thiết Giáp Saumur năm 1955 tại Pháp. Trường Thiết Giáp Fort Knox năm 1959 và Trường Đại học Chỉ Huy và Tham Mưu Lục Quân Fort Leavenworth 1973 tại Hoa Kỳ.

Trong cuộc đời binh nghiệp, ông được thăng cấp khá chậm, nhưng qua đó cho thấy ông trưởng thành trong khói lửa chiến tranh thật sự và hoàn toàn xứng đáng chứ không phải là may mắn… 1954 – Trung Úy, 1955 – Đại Úy, 1960 – Thiếu Tá, 1965 – Trung Tá, 1969 – Đại tá và 1974 – Chuẩn Tướng.

Các cấp chỉ huy của ông đều đánh giá cao thực tài của ông và danh tiếng cũng như những chiến công của họ cũng được chính ông góp phần. Ngay các cố vấn và giới quân sự Hoa Kỳ cũng hết sức khâm phục và không tiếc lời khen ngợi ông.

Thời đánh qua chiến trường Cao Miên 1970-1971 để t́m và diệt bọn phỉ quân cộng sản bắc việt, ông chỉ huy Chiến Đoàn 318 là một Chiến Đoàn Trưởng xuất sắc.

Có thể nói Ông là vị tướng thiết giáp xông xáo, táo bạo nhưng có tính toán. Ông phát huy tối đa tính cơ động và tận dụng hỏa lực để tạo những cú sốc chấn động, bất ngờ cho cộng quân. Ông tổ chức Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III (LLXKQĐ3) theo mô h́nh khá sáng tạo và linh động cho phù hợp với chiến trường và khả năng của QLVNCH. Ông cũng là người kết hợp nhuần nhuyễn nhị thức Thiết Giáp – Bộ Binh một các tài t́nh.

Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III do ông chỉ huy đă giải vây Căn Cứ Biên Pḥng Đức Huệ của TĐ 83 BĐQ và đánh bại công trường 5 (SĐ 5) cộng phỉ bắc việt chỉ trong ṿng 5 ngày. Ông cũng góp phần cho chiến thắng Xuân Lộc năm 1975. Sau khi rút về pḥng thủ Biên Ḥa, LLXKQĐ3 đă đánh bại sư đoàn 341 cộng phỉ.

Ông cùng một số ít tướng lănh VNCH bị đ̣n thù hèn hạ của bọn phỉ quyền Hà Nội đến 17 năm giam cầm lao động khổ sai. Ông qua định cư tại Virginia – Hoa Kỳ diện HO. Ông đă tốt nghiệp văn bằng Thạc Sĩ Văn Chương Pháp tại Đại Học George Mason năm 1998.

Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi tạ thế ngày 1 tháng 4 năm 2023 tại tiểu bang Virginia, hưởng thọ 93 tuổi.

************
𝟱- 𝗖𝗵𝘂𝗮̂̉𝗻 𝗧𝘂̛𝗼̛́𝗻𝗴 𝗣𝗵𝗮̣𝗺 𝗡𝗴𝗼𝗰 𝗦𝗮𝗻𝗴, 𝗧𝘂̛ 𝗟𝗲̣̂𝗻𝗵 𝗦𝘂̛ Đ𝗼𝗮̀𝗻 𝟲 𝗞𝗵𝗼̂𝗻𝗴 𝗤𝘂𝗮̂𝗻

Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang nguyên là một tướng lĩnh Không Quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Ông xuất thân từ một trường chuyên đào tạo sĩ quan trừ bị cho ngành Bộ Binh do Quân Đội Quốc Gia thành lập dưới sự hỗ trợ của Quân Đội Pháp. Tuy nhiên, sau đó trúng tuyển chuyến sang Không quân. Ông đă phục vụ ở Quân Chủng này cho đến ngày cuối cùng trong cuộc đời binh nghiệp của ḿnh.

Ngày 15 tháng 3, được lệnh di tản chiến thuật Sư Đoàn 6 Không Quân từ Pleiku xuống Phan Rang.

Trưa ngày 16 tháng 4, ông bị phỉ quân cộng sản bắc việt bắt cùng với Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi bị tạm giam tại Cam Lâm, Khánh Ḥa rồi Đà Nẵng, cuối cùng bị đưa ra Bắc qua các trại giam: Sơn Tây, Hoàng Liên Sơn, Hà Sơn B́nh, Nam Hà. Sau đó, ngày 30 tháng 11 năm 1988 được đưa về miền Nam giam giữ ở trại Z.30D Hàm Tân, B́nh Thuận. Cho đến ngày 11 tháng 2 năm 1992 ông mới được trả tự do.

Ngày 22 tháng 2 năm 1992, ông cùng với gia đ́nh xuất cảnh theo chương tŕnh diện H.O. Sau đó định cư tại Garden Grove, tiểu bang California, Hoa Kỳ.

Trước khi mất ông dồn sức cố viết một hồi ức về trận đánh Phan Rang và làm một điều chẳng ai bắt ông phải làm là tỏ lời cáo lỗi cùng đồng bào qua mấy ḍng bi tráng, “Tôi cảm nhận rất có tội với đồng bào, v́ làm tướng mà không giữ được thành.”

Ngày 30 tháng 11 năm 2002, ông từ trần tại nơi định cư. Hương thọ 71 tuổi.

****************

𝟲- 𝗖𝗵𝘂𝗮̂̉𝗻 𝗧𝘂̛𝗼̛́𝗻𝗴 𝗣𝗵𝗮̣𝗺 𝗗𝘂𝘆 𝗧𝗮̂́𝘁, 𝗖𝗵𝗶̉ 𝗛𝘂𝘆 𝗧𝗿𝘂̛𝗼̛̉𝗻𝗴 𝗕𝗶𝗲̣̂𝘁 Đ𝗼̣̂𝗻𝗴 𝗤𝘂𝗮̂𝗻 𝗤𝘂𝗮̂𝗻 𝗞𝗵𝘂 𝟮

Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất sinh 1933, nguyên là một tướng lănh Bộ Binh QL.VNCH, sau chuyển sang binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Ông xuất thân từ những khóa học ở giai đoạn đầu tiên ở trường Sĩ Quan Trừ Bị do Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam mở ra tại miền Nam Việt Nam. Năm 1970, khi binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt giải tán, ông chuyển sang binh chủng Biệt Động Quân.

Đầu năm 1975, kiêm chức vụ Tư Lệnh Chiến Trường Kontum. Ngày 14 tháng 3 1975, ông được thăng cấp Chuẩn Tướng tại nhiệm. Hai ngày sau (16 tháng 3), ông nhận chức vụ Tư Lệnh cuộc hành quân triệt thoái Quân Đoàn II khỏi Cao Nguyên trên Tỉnh Lộ 7, được đặt dưới quyền giám sát của Chuẩn Tướng Trần Văn Cẩm (đương nhiệm chức vụ Phụ Tá Hành Quân Quân Đoàn II).

Sau ngày 30 tháng 4 1975, ông ra tŕnh diện và bị bọn phỉ quyền Hà Nội bắt đi tù lao động khổ sai từ Nam ra Bắc cho tới ngày 11 tháng 2 năm 1992 mới được trả tự do. Cũng trong năm 1992, sau 17 năm trong lao tù cộng sản ông cùng với phu nhân và 2 người con xuất cảnh theo diện H.O được cứu xét trường hợp đặc biệt do Chính Phủ Hoa Kỳ bảo lănh đi định cư tại Amadale, tiểu bang Virginia, Hoa kỳ.

Cựu Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất, qua đời 11/12/2019 tại bệnh viện Inova Fairfax Hospital, Falls Church, Virginia, hưởng thọ 85 tuổi.

*************
𝟳- 𝗖𝗵𝘂𝗮̂̉𝗻 𝗧𝘂̛𝗼̛́𝗻𝗴 𝗟𝗲̂ 𝗩𝗮̆𝗻 𝗧𝗵𝗮̂𝗻, 𝗧𝘂̛ 𝗟𝗲̣̂𝗻𝗵 𝗣𝗵𝗼́ 𝗤𝘂𝗮̂𝗻 𝗞𝗵𝘂 𝗜𝗜

Chuẩn Tướng Lê Văn Thân (1932-2005), nguyên là một tướng lĩnh gốc Pháo binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên tại trường Vơ Bị Quốc Gia sau khi chuyển từ Huế về Nam Cao Nguyên Trung Phần. Ông đă phục vụ ở ngành chuyên môn của ḿnh một thời gian dài, sau ông được chuyển sang lĩnh vực Chỉ Huy và Tham Mưu và đă từng giữ chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn I Bộ Binh. Chức vụ sau cùng của Ông là Tư Lệnh Phó Quân Đoàn II.

Đầu năm 1960, ông được thăng cấp Thiếu tá và được cử làm Chỉ huy trưởng Pháo binh Sư đoàn 1 Bộ binh. Đầu tháng 2 năm 1964, sau cuộc Chỉnh lư nội bộ ngày 30 tháng 1 của tướng Nguyễn Khánh, ông được cử đi du học lớp Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp tại trường Chỉ Huy và Tham Mưu Fort Leavenworth, thuộc tiểu bang Kansas, Hoa Kỳ. Tháng 8 cùng năm măn khóa học về nước, ông được thăng cấp Trung Tá. Sau đó ông được chuyển về Bộ Tổng Tham Mưu giữ chức vụ Giám Đốc Trung Tâm Hành Quân. Ngày Quốc Khánh Đệ Nhị Cộng Ḥa 1 tháng 11 năm 1967, ông được thăng cấp Đại Tá tại nhiệm.

Tháng 3 năm 1968, ông được bổ nhiệm làm Tỉnh Trưởng và Tiểu Khu Trưởng tỉnh Thừa Thiên kiêm Thị Trưởng Thị Xă Huế thay thế Đại Tá Phan Văn Khoa.

Cuối tháng 1 năm 1972, ông nhận lệnh bàn giao tỉnh Thừa Thiên và thị xă Huế lại cho Đại tá Nguyễn Hữu Duệ. Ngay sau đó, ông được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 7 Bộ Binh do Chuẩn Tướng Nguyễn Khoa Nam làm Tư Lệnh. Đầu tháng 5, trở lại Quân Khu 1 ông được cử làm Phụ Tá cho Tư Lệnh Quân Đoàn I, Đặc trách hành quân kiêm Trưởng Ban Kế Hoạch tái chiếm Quảng Trị. Ngày 1 tháng 11 năm 1972, ông được thăng cấp Chuẩn Tướng và được bổ nhiệm chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, thay thế Thiếu Tướng Phạm Văn Phú.

Ngày 1 tháng 11 năm 1973, ông nhận lệnh bàn giao Sư Đoàn 1 Bộ Binh lại cho Đại tá Nguyễn Văn Điềm (nguyên Tư Lệnh Phó Sư Đoàn). Cùng ngày ông được chuyển về Quân Khu 2 giữ chức vụ Chỉ Huy Phó trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam, thay thế Đại Tá Phạm Tất Thông đi làm Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Quân Huấn. Cuối năm 1974, ông được chuyển về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II giữ chức vụ Tư Lệnh Phó lănh thổ Quân Khu 2 do Thiếu Tướng Phạm Văn Phú làm Tư Lệnh.

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông bị bọn phỉ quyền Hà Nội trả thù và bắt đi tù lưu đày cho tới ngày 5 tháng 5 năm 1992 mới được trả tự do. Năm 1993, ông cùng gia đ́nh xuất cảnh theo chương tŕnh diện H.O, do Chính Phủ Hoa Kỳ bảo lănh, sau đó định cư tại Westminster, tiểu bang California, Hoa kỳ.

Ngày 26 tháng 9 năm 2005, ông từ trần tại nơi định cư. Hưởng thọ 73 tuổi.

**************
𝟴- 𝗖𝗵𝘂𝗮̂̉𝗻 𝗧𝘂̛𝗼̛́𝗻𝗴 𝗠𝗮̣𝗰𝗵 𝗩𝗮̆𝗻 𝗧𝗿𝘂̛𝗼̛̀𝗻𝗴, 𝗧𝘂̛ 𝗟𝗲̣̂𝗻𝗵 𝗦𝘂̛ Đ𝗼𝗮̀𝗻 𝟮𝟭 𝗕𝗕

Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường (sinh 1936), xuất thân Khoá 12 VBQGVN, nguyên là một tướng lănh Bộ Binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Ông xuất thân từ Trường Vơ Bị Liên Quân vào thời kỳ Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa h́nh thành (1955). Trong thời gian tại ngũ, ngoài chuyên môn là một sĩ quan chỉ huy đơn vị Bộ Binh, ông cũng được giao phó chức vụ chỉ huy về lănh vực Hành Chánh Quân Sự.

Ngày Quân Lực VNCH 19 tháng 6 năm 1965, ông được thăng cấp Thiếu Tá và được cử giữ chức vụ Trưởng Pḥng 2 tại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh do Chuẩn Tướng Phạm Quốc Thuần làm Tư Lệnh. Qua đầu năm 1967, ông chuyển đi làm Phó Tỉnh Trưởng Nội An kiêm Tiểu Khu Phó Bạc Liêu.

Ngày Quân Lực VNCH 19 tháng 6 năm 1968, ông được thăng cấp Trung Tá tại nhiệm, sau đó chuyển về Thủ Đô giữ chức Tham Mưu Trưởng Ṭa Tổng Trấn Sài G̣n-Gia Định.

Giữa năm 1969, ông được chỉ định vào chức vụ Đặc Khu Trưởng Đặc Khu Thủ Đức. Giữa năm 1970, được cử đi học và tốt nghiệp khóa Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp ở trường Chỉ Huy và Tham Mưu tại Đà Lạt.

Đầu năm 1971 măn khóa học, ông được cử làm Trung Đoàn Phó Trung Đoàn 8, Sư Đoàn 5 Bộ Binh do Đại Tá Bùi Trạch Dần làm Trung Đoàn Trưởng. Tháng 7 cùng năm ông được lên giữ chức vụ Trung Đoàn Trưởng thay thế Đại Tá Dần dưới quyền Đại Tá Lê Văn Hưng Tư Lệnh Sư Đoàn.

Tháng 3 năm 1972, ông được thăng cấp Đại Tá tại nhiệm. Tháng 7 cùng năm, ông được chỉ định vào chức vụ Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 5 Bộ Binh vẫn do Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng làm Tư Lệnh, sau đó Đại Tá Trần Quốc Lịch thay thế làm Tư Lệnh Sư Đoàn. Tháng 11 cuối năm, Bộ Tổng Tham Mưu biệt phái ông sang lănh vực Hành Chánh Quân Sự và ông được bổ nhiệm làm Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Long Khánh.

Đầu năm 1974, rời chức vụ Tỉnh Trưởng, ông được cử theo học và tốt nghiệp Thủ Khoa khóa Tổng Thanh Tra Quân Lực. Tháng 4 cùng năm, ông được chuyển trở về Quân Khu 4, phục vụ tại Sư Đoàn 21 Bộ Binh giữ chức vụ Chánh Thanh Tra Sư Đoàn. Tháng 11 cuối năm, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh thay thế Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng được cử đi làm Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV và Quân Khu 4.

Ngày 17 tháng 5 năm 1975, ông bị bọn cộng phỉ bắt tại Cần Thơ và đưa đi tù lao động khổ sai từ Nam ra Bắc suốt 17 năm. Ngày 11 tháng 2 năm 1992 mới được trả tự do.

Cùng năm 1992, ông được Chính Phủ Hoa Kỳ bảo lănh theo diện H.O sang Mỹ tỵ nạn và định cư tại Houston, tiểu bang Texas, Hoa Kỳ. Ông từ trần ngày 30/6/2021 tại Houston, Texas USA.
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Old 2 Weeks Ago   #4
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 32,866
Thanks: 29,021
Thanked 19,408 Times in 8,857 Posts
Mentioned: 162 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 791 Post(s)
Rep Power: 80
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Default

Khi bị chuyển về khám đường Bà Rịa, tôi bị nhốt vào một căn pḥng rất nhỏ. Trong pḥng ấy đă có sẵn một người: ông Đoàn. Cửa pḥng là một bửng sắt khá dày, bị sét rỉ toàn bộ, chứng tỏ nó đă khá lâu đời. Sét rỉ đă xoi tấm cửa này thủng nhiều lỗ cỡ đầu ngón tay. Đặc biệt có một lỗ dưới cùng rộng có thể tḥ lọt cả bàn tay. Những lỗ đó đă cho chúng tôi chút ánh sáng trong căn pḥng ít khi được mở này.
Một hôm, tôi đang rầu rĩ bỗng nghe nhiều giọng nữ xôn xao bên ngoài. Tôi chạy lại cửa dán mắt vào mấy lỗ thủng. Th́ ra pḥng tù nữ ở gần pḥng tôi được cho ra tắm giặt. Thật là một cảnh sinh hoạt rộn ràng.

Tiếng gàu thau chạm nhau rổn rảng, tiếng người thúc giục nhau, chen lấn căi cọ nhau ỏm tỏi. Họ giặt đồ, tắm rửa, chải tóc, phơi quần áo…. trông ai cũng làm việc với vẻ gấp rút. Người quá đông mà chỉ có hai cái giếng, th́ giờ cho phép lại giới hạn, nên họ sợ hết phần …

Tôi bỗng giật ḿnh khi thấy một thằng nhỏ từ trong hiên nhảy ra. Nó chạy vụt lại phía hai con vịt xiêm đang rỉa lông cho nhau trước cửa pḥng tôi làm chúng hoảng hốt bay xa một đoạn. Một người đàn bà gọi với:
-Không được nghịch, mẹ đánh đấy!

Thằng nhỏ đứng lại. Qua giây phút hoảng hốt, đôi vịt lại tiếp tục rỉa lông cho nhau. Thằng nhỏ khoảng chừng ba bốn tuổi, trắng trẻo, kháu khỉnh làm sao! Tại sao nó lại lọt vào chốn tù ngục này? Nó làm sao chịu được cảnh thiếu ăn, thiếu bạn bè, thèm khát đủ thứ, ngày ngày ru rú trong một căn pḥng chật hẹp với không khí ngột ngạt, hôi hám ấy? Tâm tính nó sẽ ra sao về sau? (Sài G̣n trong tôi/ Ngô Viết Trọng)

Thằng nhỏ có vẻ khoái đôi vịt xiêm lắm. Nó đang say sưa ngắm chúng th́ mẹ nó gọi trở về pḥng. Nó vừa đi vừa ngoái cổ nh́n lui làm mẹ nó phải giục mấy lần. Tôi quay lại hỏi ông Đoàn:
-Bên pḥng nữ có một thằng nhỏ dễ thương quá! V́ sao nó phải vô trong này ông biết không?

Ông Đoàn nói:
-Nghe đâu cha nó là một viên thiếu tá đă đi Mỹ c̣n mẹ nó là một nhân viên Thiên Nga. Khi tôi vô đây đă thấy có nó rồi! Lúc đó nó mới biết đi lẫm đẫm.

Tôi tức cười thốt lên:
-Sau này có thể nó phải ghi vào lư lịch: Mới một tuổi tôi đă phải sống trong lao tù khổ sai của bọn cộng phỉ man rợ …

Mấy hôm nay tôi chỉ được phát mỗi ngày hai vắt nhỏ bột sắn xay chia làm hai bữa với một ít canh cải bẹ xanh mặn chát. Không hiểu thằng nhỏ có được phát tiêu chuẩn khẩu phần không hay phải ăn vào phần của mẹ nó? Tôi nói:
-Thằng nhỏ mặc sức mà thèm đường thèm sữa!

Ông Đoàn cười:
-Ông khỏi lo! Mấy ngày thăm nuôi nó được cán bộ thả đi lung tung, người ta cho nhiều quà lắm. Ngay tại pḥng nó lại có rất nhiều người đă từng làm mẹ, làm chị, chẳng ai nỡ để một đứa nhỏ dễ thương như thế đói đâu! Tôi đă từng thấy một con chó mẹ nằm cho mấy con mèo con bị mất mẹ bú. Thiên tính thương trẻ của các bà làm mẹ hẳn c̣n cao hơn nhiều!

Tôi cảm thán:
-Vậy sao? Hoá ra nó lại sướng hơn lũ con tôi! Tôi có ba thằng con, thằng út có lẽ cũng cỡ tuổi nó. Khi tôi đi tù nó mới vừa đúng một tuổi, chưa biết đứng. Trước kia ḿnh đâu biết dành dụm lo xa, khi vào tù tôi chẳng có chút ǵ để lại cho vợ con cả. Nghĩ đến cảnh một người đàn bà chân yếu tay mềm phải chạy vạy để nuôi sống ba đứa con giữa lúc này tôi đau ruột lắm Nhưng ăn năn cũng muộn mất rồi!

Mấy hôm sau pḥng tù nữ lại được mở cho ra tắm giặt. Thằng nhỏ sau khi tắm rửa xong lại chạy sang trước pḥng tôi. Không thấy đôi vịt, nó ngồi vào bậc thềm lưng dựa vào cửa pḥng. Tôi tḥ ngón tay ra lỗ thủng chọt vào lưng nó một cái. Nó giật ḿnh nhỏm dậy quay lại:
-Hết hồn!

Tôi lấy làm thú vị khi nghe một thằng tí hon lại dùng cái tiếng “hết hồn” có vẻ người lớn đó. Biết tôi đùa, thằng nhỏ lại ngồi xuống chỗ cũ. Tôi hỏi:
-Cháu tên gỉ?
-”Ngụy con”!

Tôi ngạc nhiên hỏi lại:
-Chú hỏi cháu tên là ǵ?
-”Ngụy con”!
-Ai đặt tên ấy cho cháu?
-Mấy chú cán bộ!
-Thế mẹ cháu không đặt tên cho cháu à?
-Có, mẹ cháu đặt tên “con”, mấy chú cán bộ th́ kêu “ngụy con” rồi các cô d́ trong pḥng cũng kêu cháu là ”ngụy con”!

Trời đất ơi! Cái tên này có thể tạo một ấn tượng khó đoán khi thằng nhỏ khôn lớn! Tôi định hỏi vài câu nữa nhưng nó đă bị mẹ nó gọi về pḥng

Rồi ngày thăm nuôi đến – ngày đó coi như ngày Tết của khám đường. Các pḥng giam đông người đều được mở cửa suốt thời gian cho thăm để người ta tiện đưa đồ thăm cũng như dẫn dắt những người được gặp mặt người thân ra vào.

Những người được ra gặp người thân phải mặc đồ lành sạch. Ai không có phải đi mượn đồ của người khác. V́ vậy, ngày thăm nuôi tù vẫn ăn mặc sáng sủa khác hẳn ngày thường. Các tên cán bộ cũng giả dối dẹp bớt cái vẻ nghiêm khắc hàng ngày để hồ hởi thưởng thức những hơi khói thơm…

Những người không được thăm cũng vui hơn v́ ít nhất cửa pḥng mở họ cũng hưởng được chút ánh sáng và không khí dễ thở. Họ cũng có thể hưởng ké được chút quà tươi hoặc sớt được phần ăn tiêu chuẩn của những người được thăm không dùng tới. Những pḥng ít người phần nhiều đang bị kỷ luật, ít được thăm, cửa đóng im ỉm, nhưng ít nhất ngày đó họ cũng yên trí không bị cán bộ quấy rầy.

Nói chung, trong ngày thăm nuôi, bất cứ ai đang sống tại khám đường cũng chia được ít nhiều niềm vui, dù chỉ là niềm vui tạm bợ giữa một hoàn cảnh bất hạnh. Kẻ hưởng được hạnh phúc thật sự hoạ chăng chỉ có một người: “thằng ngụy con”!(Sài G̣n trong tôi - Ngô Viết Trọng)
Trong lúc cán bộ và tù trật tự bận rộn mang đồ thăm hoặc dẫn tù đi gặp người thân th́ thằng nhỏ tung tăng chạy hết pḥng này đến pḥng khác. Nó rất khôn, cứ gặp cán bộ lại cất giọng lảnh lót “chào cán bộ” thật dễ thương. V́ thế không ai la rầy, cản trở nó cả.

Tôi nghĩ chính thằng nhỏ là một nhân tố làm giảm bớt vẻ ngăn cách giữa cán bộ và tù. Đến đâu nó cũng được tiếp đón nồng hậu, quà cứ nườm nượp vào tay nó. Bao nhiêu lần nó sung sướng ôm đầy quà trên tay: bánh tráng, cốm bắp, kẹo…về giao cho mẹ nó. Trông nét mặt hớn hở của nó vào những lúc ấy ai mà chẳng vui lây!

Rồi một tháng trôi qua, lại đến kỳ thăm nuôi. Hôm ấy trời mưa lâm râm và có gió hiu hắt. Tôi lại dán mắt trước cửa hưởng ké niềm vui của mọi người. Thằng nhỏ lại thả sức tung tăng đi nhận quà.

Thấy trời hơi lạnh, lại sợ con bị ướt nên mẹ nó đă cẩn thận bận thêm cho nó một cái áo mưa bằng nylon khá gọn. (Sài G̣n trong tôi/ Ngô Viết Trọng)

Lần ấy, có lẽ v́ quà tặng hơi nhiều, thằng nhỏ lại không biết sợ lạnh, nó cởi cái áo mưa làm đồ đựng. Khi nó đang ôm bọc quà hí hửng chạy về pḥng th́ gặp Sơn, một tên cán bộ hung ác, nghiêm khắc nhất khám đường. Gă tươi cười một cách đểu cáng, mất dạy, đón nó lại:
-”Ngụy con” có nhiều quà quá, chia cho chú với nào!

Thằng nhỏ lính quưnh giẫm vào chỗ đất trơn, té oạch một cái làm quà văng lung tung. Tên Sơn cúi xuống lượm giùm. Xong, gă vờ bốc lấy một gói giấy, bảo:
-Gói này cho chú xin nghe!

Thằng nhỏ tưởng thật hoảng hốt:
-Không được đâu! Gói này không được đưa cho cán bộ coi!

Nghe thằng nhỏ nói hơi lạ tai, tên Sơn nghi ngờ mở cái gói ra xem. Gă bỗng trừng mắt đạp vào ngực thằng nhỏ một cái làm thằng bé ngă bật ngửa. Thằng nhỏ nằm lặng đi một hồi rồi mới khóc nấc ra tiếng. Ai nấy chới với chưa hiểu chuyện ǵ th́ nghe tiếng tên Sơn nạt lớn:
– Đ.M. đồ cái giống nguỵ ra khác, chưa ráo máu đầu đă học phản động!

Quay lại phía tù trật tự, tên Sơn hét:
-Bắt nó quỳ dưới cột lưới bóng rổ!

Lập tức thằng nhỏ bị lôi dậy, kéo đi. Liền đó tên Sơn dẫn một anh tù trật tự khác đến pḥng B5. Gă đứng trước cửa hoạnh hoẹ hỏi chuyện. Lát sau một anh tù vừa mới được thăm nuôi hồi sáng bước ra khỏi pḥng. Tên Sơn bắt anh tù đứng nghiêm rồi tha hồ đấm đá người tù khốn khổ, tội nghiệp. Anh tù nhiều lần bị ngă nhưng tên Sơn lại bắt đứng lên để đấm đá tiếp hết sức tàn bạo.

Trong chốc lát anh tù đă xác xơ, rục ră. Nhưng tên Sơn ác ôn vẫn chưa tha, gă c̣ng cắp cánh tay anh ta lại rồi sai người đưa vào pḥng kỷ luật.
Trời vẫn mưa lâm râm, gió vẫn hiu hắt. Thằng nhỏ vẫn quỳ dưới chân cột lướí bóng rổ. Tên Sơn vẫn tiếp tục ra vào kiểm soát việc thăm nuôi. (Sài G̣n trong tôi/ Ngô Viết Trọng)

Quá nóng ruột, người mẹ phải liều vói mặt ra khỏi pḥng van xin chéo véo. Nhưng tên Sơn cứ phớt lờ, cả giờ sau gă mới chịu cho thằng nhỏ tội nghiệp về pḥng. Người nó lạnh như cục nước đá, run lập cập, nói không thành tiếng….

Buổi tối, khi đưa cơm vào pḥng tôi, tên Sơn c̣n ác độc cảnh cáo:
-Các anh coi chừng, chớ lợi dụng “thằng ngụy con” để thông tin tức với nhau! Dù là chỉ hỏi thăm sức khoẻ tôi cũng trị trắng máu ra!

Giờ th́ tôi đă hiểu là anh bạn tù ở pḥng B5 đă phạm nội quy của khám đường. Về sau tôi được biết rơ hơn là anh này đă gởi quà với mấy lời nhắn cho một người quen ở pḥng tù nữ. Vụ trừng phạt ấy cứ lởn vởn ở trong đầu tôi suốt đêm. Tội nghiệp thằng nhỏ đă bị đ̣n lại phải chịu đựng ướt lạnh suốt mấy giờ.
Sáng sơm hôm sau, tôi đă phải thức giấc bởi tiếng kêu cứu từ pḥng tù nữ:
-Báo cáo cán bộ A5 có người bệnh nặng!

Tôi giật ḿnh: biết đâu lại là thằng nhỏ? Tiếng từ pḥng trực hỏi lại:
-Nặng bao nhiêu kư?

Tiếng kêu cứu từ pḥng nữ có vẻ khẩn thiết hơn:
-Báo cáo cán bộ, pḥng A5 có người sắp chết!
-Nghe rồi, đợi đó giải quyết!

Chừng nửa giờ sau tôi nghe có người nói chuyện ồn ào trước sân. Có lẽ cán bộ y tế đă đến.
Rồi cả khám đường yên ắng trở lại. Gần sáng tôi lại bị ông Đoàn đánh thức:
-Ông nghe ǵ không?

Tôi lắng tai để nghe. Trời ơi, rơ là tiếng kêu khóc thảm thiết của một người đàn bà:
-Con ơi con, sao nỡ bỏ mẹ mà đi như thế con ơi! Con tôi chưa đầy ba tuổi đă biết ǵ đâu mà phản động, đau đớn lắm trời ơi!…

Tôi giật ḿnh thở dài: Trời ơi, thằng nguỵ con!!!

Liền đó, tôi nghe có tiếng nạt nộ của tên cán bộ Sơn mọi rợ ngu dốt, vô giáo dục:
-Để con bị sưng phổi không chiụ lo báo cáo sớm, bây giờ không để người ta chôn cất c̣n khóc gào đổ thừa cho ai?

Tiếp đó, tôi lại nghe nhiều tiếng khóc nấc nghẹn ngào, đau khổ, uất hờn của người đàn bà tội nghiệp…
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Old 2 Weeks Ago   #5
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 32,866
Thanks: 29,021
Thanked 19,408 Times in 8,857 Posts
Mentioned: 162 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 791 Post(s)
Rep Power: 80
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Default

Đối diện tôi là một ông già ốm yếu 75 tuổi nhưng c̣n rất minh mẫn. Nhắc lại chuyện cũ, ông vẫn nhớ như in từng chi tiết và thuật lại sống động mạch lạc như thể thời gian vẫn chưa làm hao ṃn kư ức ông. Tôi đă ngồi với ông từ 10g30 sáng đến 3g chiều mà câu chuyện vẫn chưa dứt.

Ông là Huỳnh Quang Nghĩa, cựu Trung Úy Chánh Văn Pḥng của Chuẩn Tướng Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV Lê Văn Hưng, Quân Lực VNCH. Trung Úy Nghĩa là nhân chứng mục kích từ đầu đến đuôi cái chết của Tướng Hưng. Câu chuyện được kể dưới đây là những ǵ được ghi trong hồi ức cá nhân mà Trung Úy Nghĩa cho tôi xem, cùng những ǵ ông kể với tôi hôm ấy, 21 -4 - 2016…

“Sau khi nghe tin Dương Văn Minh đầu hàng, Chuẩn Tướng bảo tôi (Huỳnh Quang Nghĩa) gọi để nói chuyện với 16 Tiểu Khu Trưởng, yêu cầu ban hành thiết quân luật trên toàn lănh thổ Quân Đoàn IV. Vùng IV có vẻ chuẩn bị đối phó với t́nh h́nh hơn là chấp nhận treo cờ rũ. Khi nghe tin Sài G̣n thất thủ, dân chúng Cần Thơ bắt đầu mua nhanh bán vội để thu xếp về nhà. Khuôn mặt ai nấy đều lo âu. Xe lướt nhanh hơn, người đi bộ gần như chạy, đường phố giống như đang trốn chạy khỏi cơn giông lớn.

Sau thông điệp bàn giao của TT Dương Văn Minh, mọi liên lạc với Sài G̣n đều bị cắt đứt. Tuy vậy, cho đến trưa, t́nh h́nh Cần Thơ cũng như 16 tỉnh miền Tây vẫn yên tĩnh. Các tiểu khu vẫn c̣n liên lạc tốt với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn .

13g, tôi trở vào Bộ Tư Lệnh, cách tư dinh Chuẩn Tướng Hưng chừng 300 mét. Tôi thấy chiếc Falcon đen đưa bà Chuẩn Tướng cùng hai con rời cổng dinh. Khuôn viên Bộ Tư Lệnh vắng ngắt đến nghẹt thở. Chuẩn Tướng đứng nơi hiên tiền đ́nh, nh́n mông lung ra khoảng sân phía trước. Tôi đứng bên trái ông, cách vài bước hơi chếch phía sau, hướng tầm mắt theo ông. Mới vào mùa hè mà cảnh vật như đă thu đông. Trời chiều ảm đạm, thê lương, từng mảng mưa bụi lạnh lẽo thả xuống tàng phượng vĩ nở đỏ ối giữa sân.

Chuẩn Tướng bất động. Tất cả mang đến cho tôi một cảm giác u buồn, tan tác. Bất chợt, ông quay lại hỏi tôi:
– Cô (bà phu nhân Chuẩn Tướng) đi đâu?
– Thưa, cô đến nhà thờ xin rửa tội.

Thật sự mấy ngày nay tôi thấy có chuyện hơi lạ trong dinh. T́nh h́nh nguy ngập như vậy mà người thợ may riêng không ngớt giải quyết mớ vải vóc mới tinh cho bà Chuẩn Tướng cùng thân quyến. Bây giờ bà và các con lại đi lễ. Tôi không thể ngờ được rằng ông bà Chuẩn Tướng đă âm thầm bàn bạc chuẩn bị cái chết cho toàn bộ gia đ́nh và bà Chuẩn Tướng cũng dọn ḿnh bằng cung cách riêng của bà. (Sài G̣n trong tôi/ Posted by Nguyễn Phúc An Sơn/ MK)

Bà muốn khi từ giă cơi đời sẽ cùng con cái được đón nhận là con chiên của Chúa và bước vào áo quan trong bộ đồ mới tinh trong trắng. Vào buổi sáng ngay sau thông điệp của Dương Văn Minh, bà Chuẩn Tướng gọi điện thoại sang văn pḥng tôi, bảo t́m càng nhiều càng tốt thuốc Valium 5mg…

Đèn pḥng vừa bật sáng, tôi giật ḿnh ngó qua khung cửa sổ. Bóng tối đă nhợt nhờ ngoài sân. Phía cuối pḥng, bà Chuẩn Tướng và gia đ́nh đă ngồi vào bàn ăn. Một người lính phục dịch đặt trên bàn Chuẩn Tướng dĩa, muỗng và hai quả trứng gà ngâm trong ly nước sôi. Đó là buổi ăn tối của ông hôm nay.

Đang miên man, tôi giựt ḿnh khi điện thoại reo. Nhấc ống nghe, tôi vội chuyển cho Chuẩn Tướng khi nhận ra giọng trầm trầm của Thiếu Tướng Tư Lệnh (Nguyễn Khoa Nam) đầu bên kia. Buông ống điện thoại, Chuẩn Tướng thừ người bất động. (Sài G̣n trong tôi/ Posted by Nguyễn Phúc An Sơn/ MK).Lần đầu tiên, tôi nhận rơ nét mệt mỏi tuyệt vọng trên gương mặt ông…

Chuẩn Tướng bảo tôi tập hợp toán lính gác để ông nói chuyện. Tiểu đội bảo vệ tư dinh Tư Lệnh Phó xếp thành hai hàng bên hông dinh chỗ khúc sân lối ra vào. Bằng giọng cảm động, chân t́nh, Chuẩn Tướng cám ơn họ vẫn ở bên ông đến giờ phút này và bảo anh em ai muốn rời dinh cứ tùy ư… 10 phút sau Chuẩn Tướng gọi tôi lên lầu. Tại đây, tôi thấy ngoài tôi và Thiếu Tá Phương, c̣n hiện diện đông đủ binh sĩ từng phục dịch Chuẩn Tướng và gia đ́nh.

Chuẩn Tướng đứng nơi pḥng ngủ, hai cánh tay gh́ chặt đứa con gái ba tuổi để đầu cháu tựa vào má ông. Bà Chuẩn Tướng đứng cạnh bên. Hai bàn tay măng non cháu bé hồn nhiên lùa trên tóc cha, làm ḷa x̣a vài lọn tóc rối trên trán Chuẩn Tướng. Bức tranh bi thảm ấy khiến ḷng tôi ngậm ngùi tê cứng. (Sài G̣n trong tôi/ Posted by Nguyễn Phúc An Sơn/ MK)

Bằng giọng tha thiết ân cần, Chuẩn tướng gởi lại bà cùng hai con cho chúng tôi. Ông quả quyết từ giờ cho đến sáng sẽ không có ǵ xảy ra, bảo chúng tôi cố gắng hộ tống bà Chuẩn Tướng và hai đứa bé về Sài G̣n rạng sáng ngày mai 1-5. Trước đó, ông đă thuyết phục bà phải sống để nuôi con chứ không thể giết con bằng ư định tự sát cả gia đ́nh như ban đầu.

Bất ngờ, ông quát bảo tất cả trở xuống dưới lầu, chỉ c̣n ḿnh tôi và bà Chuẩn Tướng. Lúc đó khoảng 8g30 tối 30-4-1975. Bên trong pḥng ngủ, khi nụ hôn vĩnh biệt của bà Chuẩn Tướng vừa kịp đặt lên má chồng, ông vội đẩy bà ra phía ngoài và đóng nhanh cánh cửa. Lúc quay lại, c̣n thấy tôi trong pḥng, ông thảng thốt: “Nghĩa! Mày đi ra!”. Vừa nói ông vừa nắm tay tôi lôi về phía cửa. Tôi bệu bạo: “Cho tôi ở lại cùng Chuẩn Tướng…”.

Sự dứt khoát của nghiêm lệnh hàng ngày trong giây phút xúc động mănh liệt làm giọng Chuẩn tướng lạc đi. Ông cố đẩy tôi ra cửa. Sự va chạm ngắn ngủi đầy bi thương ấy khiến tôi có cảm giác như thỏi nam châm đang cố rút khỏi thanh sắt. Ôi! Cái chết hoàn toàn được sắp đặt trước, lần đầu tiên trong đời tôi mới chứng kiến. (Sài G̣n trong tôi/ Posted by Nguyễn Phúc An Sơn/ MK)

Tôi chợt bật khóc và cùng bà Chuẩn Tướng quỳ xuống trên nền cửa bên ngoài. Bên tai c̣n vọng nghe tiếng rít khô khốc của tiếng then cài. Mọi sự diễn ra không đầy một phút sau. Tiếng nổ chát chúa vang lên sau cánh cửa. Tôi hoảng hốt bật dậy và kêu lớn khi thấy ba bốn cái đầu đang nhớn nhác nh́n lên từ dưới chân cầu thang: “Con dao, lấy con dao cạy cửa mau!…”.

Người tài xế tên Giêng cầm con dao to nhọn vội vàng chạy lên. Mọi người ùa vào pḥng. Tôi bàng hoàng khóc ngất. Tất cả cũng khóc và chạy đến chỗ giường ngủ của Chuẩn Tướng. Ông nằm ngửa trên tấm nệm drap trắng, hai cánh tay buông ngang, khuy cổ và ngực áo bung ra, máu tươi nhuộm thắm ngực trái chiếc thun trắng bên trong. Có lẽ Chuẩn Tướng đă ngồi ở thành giường, một tay cởi hai khuy áo trên, tay kia đưa ṇng khẩu Colt 45 ấn vào tim…

Tôi c̣n nhớ lúc ông đảm nhiệm Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh, một buổi chiều sau giờ nghỉ việc, tôi theo ông thả bộ và dừng lại nơi nhà nghỉ trong khuôn viên Bộ Tư Lệnh. Không biết đang nghĩ ǵ, ông cười cười quay lại nói với tôi: “Mày c̣n nhớ không, lúc ở Trung Đoàn, tuy ở bất kỳ vùng hành quân nào, trước khi đi ngủ, Đồng hoặc mày đều gọi về Chương Thiện để tao nói chuyện với cô (bà phu nhân Chuẩn Tướng). Ở mặt trận An Lộc cũng vậy, tối nào tao cũng gọi về Lai Khê nói chuyện với cổ”. Chuẩn Tướng nói thêm: “Lúc đó (nếu An Lộc thất thủ), tao chợt nghĩ nếu tao bắn vào đầu chắc cô mày không dám nh́n mặt, nên tao đă quyết ư có ǵ th́ sẽ bắn vào tim”.

Viên đạn oan nghiệt đă xuyên chính xác qua tim. Đứa con trai đầu ḷng Lê Uy Hải khi đó vừa tṛn sáu tuổi nhặt đầu đạn đưa mọi người xem, rồi mím môi, khép năm ngón tay giữ chặt. Nh́n cử chỉ ấy, tôi nghĩ tuổi thơ ngây dại của cháu đă trôi qua mất kể từ buổi tối hôm ấy rồi.

Trước đó một tiếng, một anh trai và một em gái ba tuổi c̣n đùa giỡn trên tấm nệm cao su đặt dưới nền gạch cạnh pḥng cha, hai đứa bé không hề hay biết lát nữa đây vành khăn tang trắng sẽ phủ lên tuổi ấu thơ hồn nhiên của chúng… (Sài G̣n trong tôi/ Posted by Nguyễn Phúc An Sơn/ MK)

Với tôi, âm hưởng Tướng Hưng vẫn vang vọng lại hồn tôi rơ ràng từng lời, nhức nhối như từng vết dao đâm: “Nghĩa, tùy mày. Tao đă quyết định cuộc đời của tao! Chuẩn Tướng, Thiếu Tá hay Trung Úy không là ǵ cả, cái quan trọng là có sống nhục được hay không!”

Trung Úy Huỳnh Quang Nghĩa cho tôi biết thêm, đám tang Tướng Hưng được tổ chức theo nghi lễ Quân Đội VNCH, và sáng ngày 1-5, ông được mang về mảnh đất quê nhà Cái Răng để chôn vội. Đó là mảnh đất chứ không phải khu nhà riêng của Tướng Hưng và là tài sản c̣n lại duy nhất của Tướng Hưng.

Trong suốt cuộc đời binh nghiệp hiển hách kể từ khi gia nhập Quân Lực VNCH năm 1954 đến khi chết, Tướng Hưng chưa từng có căn nhà riêng nào. Sau 1975, mảnh đất có mộ Tướng Hưng rơi vào tay một thiếu tá “thắng trận”. Khoảng trước năm 2000, ngôi mộ bị sụp lún, gia đ́nh Tướng Hưng được báo cho biết. Bà Hưng từ Mỹ âm thầm về cải táng và mang tro cốt chồng theo. (Sài G̣n trong tôi/ Posted by Nguyễn Phúc An Sơn/ MK)

Tôi cũng gặp cô con gái của Tướng Hưng, chị Lê Ánh Tuyết, con của người vợ đầu (bà Nguyễn Xuân Mai). Chị Tuyết (sinh năm 1954) hiện tá túc nghèo khổ cùng bà mẹ già 85 tuổi trong một căn nhà ở G̣ Vấp mà chủ nhà không lấy tiền thuê. Cụ bà đă lẫn, không c̣n biết và nhớ ǵ. Do mẹ chị Tuyết và Tướng Hưng sớm ly dị nên kư ức chị Tuyết về cha ḿnh không nhiều, chỉ nhớ rằng cha luôn chu cấp đều đặn cho mẹ con chị.

Quanh câu chuyện Tướng Hưng, Trung Úy Huỳnh Quang Nghĩa có nhờ tôi cải chính giùm ông một ngộ nhận nhỏ. Khi chết, trong ḿnh Tướng Hưng có hai chiếc quẹt Zippo. Một chiếc được bà Hưng lấy làm kỷ vật; chiếc kia do ông Nghĩa giữ. Năm 1998, ông Nghĩa tặng cái Zippo ấy cho ông anh rể thứ ba được bảo lănh đi Pháp.

Ông Nghĩa c̣n giữ thêm cái gạt tàn thuốc lá. Đó là cái gạt tàn của Sư Đoàn 21 Bộ Binh QLVNCH do Tiểu Đoàn 21 Tiếp Vận làm từ vỏ đạn 115 ly, có đính phù hiệu Quân Đoàn IV và phù hiệu Sư Đoàn 21 Bộ Binh, để trên bàn làm việc của Tướng Hưng. Khi ông Nghĩa đi tù khổ sai của việt cộng về, cha của ông, v́ sợ, nên đục bỏ hai miếng đồng phù hiệu Quân Đoàn IV và Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Khoảng năm 1998 hoặc 1999, khi ông anh rể thứ tư từ Mỹ về thăm, ông Nghĩa lại tặng di vật ấy.

Trở về Mỹ, bác này trao cái gạt tàn cho một Viện Bảo Tàng Quân Lực VNCH ở California, nhưng không rơ v́ lư do ǵ, cái gạt tàn lại được ghi là di vật của Tướng Nguyễn Khoa Nam.
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Old 2 Weeks Ago   #6
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 32,866
Thanks: 29,021
Thanked 19,408 Times in 8,857 Posts
Mentioned: 162 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 791 Post(s)
Rep Power: 80
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Default

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau khi Dương Văn Minh ra lệnh bức tử Quân Đội VNCH buông súng dâng miền Nam cho bọn giặc cướp cộng sản Bắc Việt th́ một số quân nhân các cấp không chấp nhận đă tiếp tục chiến đấu đến hơi thở cuối cùng hoặc tự sát. Trong số các vị Anh Hùng đó, có các Danh Tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ, Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh, nguyên Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân.

Với mục đích góp thêm vài nét chấm phá rất thực để tưởng niệm một người quân nhân thuần túy bất khuất, coi quyền lực như không có và đôi khi gần như ngạo mạn, không tham sân si và cả cuộc đời chỉ nhằm đóng góp nỗ lực cho Non Sông Đất Nước...

Phải thẳng thắn nh́n nhận là ít ai để ư và biết tới tân Thiếu Úy Trần Văn Hai tốt nghiệp Khóa 7 trường Vơ Bị Đà Lạt t́nh nguyện ra chiến đấu tại chiến trường Bắc Việt năm 1952 bổ nhiệm về phục vụ Tiểu Đoàn 4 Việt Nam (Thiếu Tá Đặng Văn Sơn Tiểu Đoàn Trưởng, sau này là Đại Tá Tư Lệnh Su Đoàn 2 rồi Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện BĐQ Dục Mỹ). (Sài G̣n trong tôi - Người Lính Già Đa Hiệu 52)

Sau khi đất nước bị chia đôi và người Pháp lần lượt trao trả quyền quản trị, điều khiển các quân khu lại cho Quân Đội Quốc Gia Việt Nam (đặc biệt là Quân Khu 4 trên cao nguyên từ trước vẫn hoàn toàn do các sĩ quan Pháp nắm giữ) và do một cơ duyên nào đó ông Hai gặp Đại Úy Đặng Hữu Hồng là một chuyên viên t́nh báo mới được bổ nhiệm lên cao nguyên làm Trưởng Pḥng 2 Quân Khu 4.

Đại Úy Hồng đă nhận thấy ông Hai rất có thiện chí với nhiều khả năng về t́nh báo nên đă đề nghị rút về phụ trách ban binh địa của Pḥng 2 Quân Khu, sau đó vinh thăng Đại Úy đi làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 81 địa phương đồn trú tại Phan Thiết rồi về làm Đại Đội Trưởng chỉ huy công vụ Trung Đoàn 44 thuộc Sư Đoàn 23 Bộ Binh.

Năm 1961, sau khi tốt nghiệp khóa bộ binh cao cấp tại Hoa Kỳ th́ Đại Úy Trần Văn Hai đă trở nên quen thuộc và được nhiều người biết đến trong t́nh thân thương cũng có mà thù ghét cũng không phải là ít. Khi Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ được thành lập để huấn luyện các đơn vị Biệt Động Quân cũnh như rừng núi śnh lầy, mưu sinh thoát hiểm cho sĩ quan, hạ sĩ quan của các đơn vị và sinh viên sĩ quan của trường Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt.

Đại Úy Hai là một trong số những huấn luyện viên tận tụy làm viếc hết ḿnh theo đúng quan niệm: Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu, và mồ hôi của ông luôn luôn ướt sũng bộ đồ tác chiến như mọi người đă nh́n thấy. (Sài G̣n trong tôi - Người Lính Già Đa Hiệu 52)

Năm 1964, Đại Úy Trần Văn Hai được vinh thăng Thiếu Tá sau khi mang lon Đại Úy liên tiếp 9 năm và được bổ nhiệm làm Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Phú Yên và cũng chính từ ở chức vụ này ông đă có dịp bộc lộ các cá tính và con người thực.

Dưới đây là phần trích dẫn bài của Lôi Tam viết lại cuộc đối thoại của một nhóm quân nhân và công chức trẻ mà chính anh là một:
- Tụi bây bỏ hết công việc ra đây mai mốt anh Mũ Nâu lại gọi vào chửi cho cả đám.

Anh Mũ Nâu là biệt danh chúng tôi dùng để gọi Trung Tá Hai Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng vốn xuất thân là Biệt Động Quân.
- Ối ăn nhằm ǵ, chửi bới là nghề của anh ấy, không có chuyện cho anh ấy chửi, anh ấy bệnh ngay. Dưới mắt anh ấy cả nước này chỉ có ḿnh anh ấy là khá, kỳ dư c̣n lại là lũ ăn hại, đái nát...
- Tụi bây chửi anh ấy cũng tội nghiệp, phải công nhận là anh ấy có thiện chí. Nếu nước ḿnh mà có vài mươi mạng như anh ấy th́ cũng đỡ khổ.
- Đỡ qúa chứ cũng đỡ ǵ...chỉ riêng cái việc anh ấy không ăn bẩn là tao sợ anh ấy rồi...

Chúng tôi kính phục Trung Tá Hai v́ sự trong sạch, thái độ ngay thẳng và ḷng yêu mến dân chúng thật t́nh của ông. Trong thời gian phục vụ dưới quyền ông, chúng tôi phải làm việc gấp hai ba lần hơn khi làm việc với các ông Tỉnh Trưởng khác nhưng cũng là thời gian mà chúng tôi thích thú nhất...

...Ông không bao giờ cười, họa hoằn lắm mới có một cái nhếch mép nhưng lại có máu khôi hài lạnh. Tôi nhớ sau cuộc hành quân tại Vũng Rô, một phái đoàn Tướng Tá Việt Mỹ đến Phú Yên tham dự cuộc thuyết tŕnh về thành quả. Trong khi ông Hai đang thuyết tŕnh về tổn thất địch th́ một ông Đại Tá Mỹ đứng dậy đặt câu hỏi là trong số thương vong của địch có bao nhiêu phần trăm do hỏa lực bộ binh?

Trung Tá Hai không trả lời ngày, ông có vẻ suy nghĩ, một lát sau ông nói:
- Tôi rất tiếc không thể trả lời câu hỏi của Đại Tá lúc này được.

Mọi người có vẻ ngạc nhiên, viên Đại Tá Mỹ cau mày hỏi:
- Tại sao vậy Trung Tá?

Ông Hai hơi nhếch mép, tôi biết ông đang cố gắng nén cái cười ngạo mạn.
- Tại v́ tôi chưa kịp viết thư cho viên Tướng Cộng Sản ở vùng này. Lẽ ra tôi phải viết thư trước và yêu cầu hắn chỉ thị cho binh sĩ của hắn khi bị sát hại bằng hỏa lực phi pháo th́ phải nằm riêng ra một chỗ và khi bị bộ binh bắn chết th́ phải nằm riêng ra một chỗ để chúng ta dễ đếm và thống kê. Lần này th́ chịu, theo nhận định của Bộ Chỉ Huy hỗn hợp th́ đầy là một cuộc hành quân phối hợp hoàn hảo của Hải, Lục, Không Quân, thương vong của địch rải rác lẫn lộn, t́nh thế cũng không cho phép binh sĩ của ta ở lại lâu tại vị trí giao tranh để làm thống kê tỉ mỉ, v́ vậy tôi không thể trả lời được câu hỏi của Đại Tá.

Trung Tá Hai có thể nén cười được, nhưng chúng tôi th́ không...

Trung Tá Hai rời chức vụ Tỉnh Trưởng v́ một chuyện rất nhỏ...Ông Tướng Tư Lệnh Vùng đang say mê một cô ca sĩ; biết rơ như thế nên một số các ông Tỉnh Trưởng trong vùng thi nhau làm vui ḷng ông mỗi khi cô ca sĩ này đến tŕnh diễn tại địa phương. (Sài G̣n trong tôi - Người Lính Già Đa Hiệu 52)

Ông Hai không cần biết điều này và ông cũng không cần t́m biết làm ǵ v́ bản chất của ông: thanh liêm, chính trực. Sau một lần không làm vừa ḷng Tướng Tư Lệnh về những chuyện công vụ, một tháng sau ông Hai bị thay thế. Chúng tôi tiễn ông ra máy bay trực thăng... và hành trang của ông chỉ là một túi vải nhỏ, loại mà các phi công thường sử dụng mỗi khi đi bay...

- Tôi cám ơn các anh chị đă tận t́nh làm việc với tôi trong những tháng vừa qua, có thể người ta cho rằng ḿnh là những đứa dại, chỉ biết làm việc mà không biết đục khoét. Nhưng tôi tin là ḿnh đă làm đúng...

Thảo luận với ông về những khó khăn trở ngại ông thường nói: “Tôi biết, tôi biết, tôi đă di qua chiếc cầu đó rồi, đừng nản, sớm muộn ǵ đất nước ḿnh cũng có ngày sáng sủa...” (Sài G̣n trong tôi - Người Lính Già Đa Hiệu 52)

...Ông về làm Chỉ Huy Trưởng BĐQ vinh thăng Đại Tá...Sau Tết Mậu Thân 1968, ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, vinh thăng Chuẩn Tướng, Tư Lệnh Biệt Khu 44, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 2, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn kiêm Huấn Khu Dục Mỹ và cuối cùng là Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh.

Khi ông vừa rời Phú Yên về tŕnh diện Bộ Quốc Pḥng th́ cũng đúng lúc chức Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân đang trống và ông Hai được bổ nhiệm điều khuyết để trở lại nơi ông đă xuất thân với những t́nh cảm thân thương.

Vừa nhận chức với buổi họp tham mưu đầu tiên tại Bộ Chỉ Huy, ông đă giành tối đa thời giờ để lên lớp đúng theo danh từ mà Lôi Tam dùng để diễn tả các chỉ thị Tham Mưu chính yếu nhằm quét dọn rác rưới trong việc điều hành, thuyên chuyển nhân viên, sử dụng quỹ xă hội cách rất đúng đắn và những ngày sau đó đi thăm viếng các đơn vị, đặc biệt là những đơn vị trú đóng những căn cứ hẻo lánh, các trại gia binh và các thương bệnh binh đang nằm điều trị tại các quân y viện. (Sài G̣n trong tôi - Người Lính Già Đa Hiệu 52)

Quyết định đầu tiên của ông là xuất quỹ xă hội trao tặng cho mỗ đơn vị 5000 dồng để tổ chức cây mùa xuân, ông quan niệm đây là tiền của anh em đóng vào th́ họ phải được hưởng, và hơn nữa ông là một người trong sạch nên ông coi giá trị đồng tiền khá cao, tại mỗi đơn vị ông giơ cao bao thơ đựng tiền lập đi lập lại nhiều lần khiến mọi người phải cười thầm.

Đặc điểm của ông là luôn luôn lắng nghe và ghi nhận những khó khăn của các đơn vị trưởng và dù với cấp bậc khiêm nhượng ông không ngần ngại đến gơ cửa chính các vị Tư Lệnh vùng để trực tiếp can thiệp giải quyết vấn đề chứ không qua các vị Tham Mưu Trưởng. — đâu có đụng chạm, có khó khăn là có sự hiện diện của ông.

Đặc biệt, nhiều khi mùi khét của thuốc súng giao tranh chưa tan ông cũng không ngần ngại đáp trực thăng xuống để cùng chia sẻ ngay tại chỗ với đơn vị và đặc biệt với các cấp chỉ huy về những nỗi khó khăn gặp phải mặc dù đó không phải là nhiệm vụ chính yếu được ấn định cho chức vụ Chỉ Huy Trưởng binh chủng của ông là quản trị.

Trong cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 1968, chính ông đă trực tiếp điều khiển các Liên Đoàn Biệt Động Quân hành quân giải tỏa vùng ven đô gây tổn thất nặng nề cho địch quân cũng như giảm thiểu thiệt hại cho dân chúng. (Sài G̣n trong tôi - Người Lính Già Đa Hiệu 52)

Khi được bổ nhiệm làm Tổng Giám Đốc CSQG, ông có đem theo một số sĩ quan và hạ sĩ quan để cùng tiếp tay với ông điều hành công vụ và ông đă tỏ ra rất cứng rắn đối với những người này.

Trường hợp Đại Úy La Thành H. cùng quê và được ông coi như một người em đỡ đầu được bổ nhiệm làm Trưởng Ty Cảnh Sát Quận 10 nhưng có những hành động lợi dụng chức vụ, tức khắc bị ông áp dụng biện pháp trừng phạt và trả về quân đội, trong đó có luôn cả chánh văn pḥng của ông.

Khi một đại diện của Giám Sát Viện phàn nàn với ông về những bê bối trong ngành Cảnh Sát, ông trầm ngâm trả lời: Tôi biết, nhưng vấn đền không thể giải quyết một sớm một chiều mà phải kiên nhẫn t́m ra những đầu mối, những tương quan thế lực chằng chịt th́ mới ngăn chận được. Từ ngày về đây tôi đă gặp khá nhiếu khó khăn, ḿnh như người vác chiếc thang dài đi trong căn nhà hẹp, bốn bề đều đụng chạm. Không ai muốn ḿnh làm những điều ḿnh thấy cần phải làm.

Tướng Hai là một quân nhân thuần túy, không biết hay nói cho đúng hơn là không bao giờ chịu luồn cúi. Khi mới nhận chức Chỉ Huy Trưởng BĐQ và lúc đó uy quyền của Tân Sơn Nhứt hay nói đúng hơn là Tướng Kỳ đang ở thế thượng phong nên có người đặt vấn đề là nếu ông muốn vững tiến th́ cần phải t́m cách móc nối để lọt vào ṿng ảnh hưởng, nhưng ông làm ngơ. Với ông, bè phái là một từ ngữ xa lạ.

Theo tiết lộ của cụ Trần Văn Hương khi cụ được chỉ định làm Thủ Tướng thay thế Luật Sư Lộc, cụ đề nghị với Tổng Thống bổ nhiệm một tướng lănh có khả năng chỉ huy chiến trường là Trung Tướng Đỗ Cao Trí làm Tư Lệnh Quân Đoàn 3 và Đại Tá Trần Văn Hai, một sĩ quan trong sạch làm Tổng Giám Đốc Cảnh Sát. (Sài G̣n trong tôi - Người Lính Già Đa Hiệu 52) Nhưng có lẽ đó cũng là một sự trùng hợp ngẫu nhiên nằm trong kế hoạch loại bỏ ảnh hưởng của ông Kỳ.

Khi vừa nhận chức được ít lâu th́ ông Bộ Trưởng Nội Vụ muốn đưa đàn em về coi Cảnh Sát Tư Pháp nên yêu cầu ông Hai cất chức Phụ Tá Tư Pháp là Luật Sư Đinh Thành Châu, nhưng ông Hai thẳng thắn trả lời: “Nếu ông Bộ Trưởng muốn thay xin cứ ban hành nghị định, tôi sẽ thi hành nhưng tôi không thấy LS Châu có lỗi lầm ǵ hết”.

Để dằn mặt và trả dũa về sự cứng đầu của ông, phụ phí cho Cảnh Sát đă bị cắt giảm quá một nửa. Ông biết như vậy sẽ gặp rất nhiều trở ngại cho sự thi hành nhiệm vụ nhưng vẫn làm những ǵ mà lương tâm ông nghĩ và coi đó là lẽ phải.

Với thời gian hơn một năm làm TGĐ, ông Hai chỉ đến gặp Tổng Thống, Phó Tổng Thống và Thủ Tướng khi có lệnh hoặc v́ công vụ phải đích thân tŕnh bày, ngoài ra không bao giờ mon men cầu cạnh và chưa bao giờ người ta thấy ông mặc thường phục đi xe hơi mang số ẩn tế hoặc công xa lộng lẫy với xe hộ tống vơ trang cùng ḿnh chạy trước, chạy sau dẹp đường mà chỉ sử dụng chiếc xe jeep cũ của BĐQ mang theo với vài người cận vệ ngồi phía sau.

Người ta cũng không mấy ngạc nhiên khi thấy ông bị thay thế trở về Quân Đội v́ cụ Hương đă rời phủ Thủ Tướng và hơn thế nữa, các thế lực sẽ không thể chi phối các hoạt động của Cảnh Sát nếu c̣n để ông tiếp tục nắm giữ quyền điều khiển cơ quan này. (Sài G̣n trong tôi - Người Lính Già Đa Hiệu 52)

Mùa hè đỏ lửa 72, bọn cộng phỉ đẩy mạnh các nỗ lực tấn công có tính cách trận điạ chiến cắt đứt các trục giao thông chiến lược, đặc biệt là đoạn Quốc Lộ 14 nối liền hai thị xă Kontum Pleiku và Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn 2 Quân Khu 2 cũng vừa mới nhận chức muốn chứng tỏ khả năng chỉ huy của ông cũng như tạo một tiếng vang nên ra lệnh cho lực lượng BĐQ phải hành quân giải tỏa đoạn Quốc Lộ nêu trên với sư tăng cường của một Chi Đoàn Thiết Kỵ giao tiếp với một thành phần của Sư Đoàn 23 BB.

Tuy nhiên, cuộc hành quân đă không thu được kết quả như ư muốn của ông nên trong một buổi họp tham Mưu, Tướng Tư Lệnh đă trút giận dữ cho là BĐQ không chịu đánh, ra lệnh thay thế các cấp chỉ huy liên hệ bằng những sĩ quan khác đồng thời c̣n hướng về Tướng Hai lúc này đă được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Phó Quân Đoàn và nói: Biệt Động Quân của anh đó. (Sài G̣n trong tôi - Người Lính Già Đa Hiệu 52)

Bị miệt thị và nhất là tự ái binh chủng của ông nên ông đă thẳng thắn đáp lễ là ông sẽ đứng ra trực tiếp điều khiển cuộc hành quân và ngay sau chấm dứt ông sẽ rời khỏi Quân Đoàn 2 v́ ông không thể cộng tác với một ông Tư Lệnh làm việc tùy hứng...Hai ngày sau đó lực lượng Biệt Động Quân giao tiếp được thành phần tiếp đón từ Kontum tiến ra, Tướng Tư Lệnh đă bay tới nơi với một phái đoàn báo chí để ngợi khen cái bắt tay có tính quyết định này.

Tuy nhiên, để giữ lời hứa, Tướng Hai yêu cầu được rời Quân Đoàn 2, sau đó về làm Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn kiêm Huấn Khu Dục Mỹ, nơi mà trước đây ông đă phục vụ với tính cách một huấn luyện viên nhỏ bé.

Nhưng ông chưa ngồi ở chức vụ này được bao lâu th́ Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Quân Đoàn 4 nên ông Hai được bổ nhiệm thay thế Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam trong chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh, một đại đơn vị nổi danh với những vị Tư Lệnh tiền nhiệm yêu nước, trong sạch gồm cố Trung Tướng Nguyền Viết Thanh và Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam.

Sư Đoàn 7 Bộ Binh là một đơn vị đă hoạt động một cách hữu hiệu trong nhiệm vụ chận đứng sự xâm nhập của bọn cộng phỉ trong mưu toan cắt đứt đường liên lạc tiếp tế từ miền Tây về thủ đô Sài G̣n và đó cũng là đơn vị đă chứng kiến hành động khí phách phi thường nhất của ông với niềm tin sắt đá sớm muộn ǵ đất nước ḿnh rồi sẽ có ngày sáng sủa.

Cùng với các Danh Tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Phạm Văn Phú, Danh Tướng Trần Văn Hai đă ghi đậm một nét son sáng ngời cho những trang cuối cùng của Quân Sử hào hùng và bi tráng của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.

Xin đốt nén hương ḷng cho những trang trung liệt, những người Anh Hùng đời đời là nỗi tiếc thương và niềm hănh diện chung cho toàn thể Quân Dân Miền Nam Việt Nam, cho mọi thế hệ, cho mọi thời đại của gịng sử đấu tranh Việt Nam. (Sài G̣n trong tôi - Người Lính Già Đa Hiệu 52)
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Old 2 Weeks Ago   #7
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 32,866
Thanks: 29,021
Thanked 19,408 Times in 8,857 Posts
Mentioned: 162 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 791 Post(s)
Rep Power: 80
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Default

Năm 1971, Không Quân VNCH tiếp tục tuyển mộ thêm các khóa Không Quân Phi Hành nhằm bổ sung cho các phi đoàn Trực Thăng và Vận Tải của Không Quân VNCH, đang thiếu hụt quân số, khi quân đội Hoa Kỳ ào ạt chuyển giao phi cơ cho Không Quân VNCH theo chương tŕnh “Việt Nam Hoá Chiến Tranh” của chính phủ Mỹ. Khóa 1/71 HSQ Cơ Khí Phi Hành Trực Thăng được tuyển mộ, vào tháng 4, năm 1971.

Đặng Hoàng, biệt danh Hoàng “C̣”, đă gia nhập Quân Chủng Không Quân khóa 1/ 71, Đại Đội 55, gồm 102 khóa sinh. Học hai giai đoạn Căn Bản Quân Sự HSQ xong, Đại Đội 55 được chia ra làm ba nhóm theo học chuyên nghiệp: một phần ba quân số Đại Đội 55 theo học khóa Cơ Phi Trực Thăng, một phần ba theo học Cơ phi Vận tải và một phần ba c̣n lại theo học phi cơ Trực Thăng Vận Tải.

Đặng Hoàng đă may mắn được theo học vận tải cơ “có cánh”. Sau khi thụ huấn khóa Cơ Phi Vận Tải xong, ra trường, Đặng Hoàng đă được phục vụ cho Phi Đoàn Vận Tải Cơ C-7A Caribou, đồn trú ở căn cứ Phù Cát. Sau 6 tháng thành lập Phi Đoàn Thần Long 427, đơn vị của Đặng Hoàng được chuyển ra Căn cứ Đà Nẳng, đảm trách các phi vụ tiếp tế tiền đồn thuộc Quân Đoàn I, Vùng I Chiến Thuật.

Đặng Hoàng đă phục vụ cho Phi Đoàn Thần Long 427, C-7A Caribou được hơn 3 năm với 2,000 giờ bay.

Thành phố Đà Nẵng bắt đầu rơi vào cuộc di tản nhiều hỗn loạn. Người cơ khí viên Trực thăng UH-1H Nguyễn Thế Đoàn, một chiến sĩ vô danh, thầm lặng, Thế Đoàn là người bạn thân cùng khóa 1/71 HSQ Cơ phi, cùng đại đội 55 với Đặng Hoàng. Thế Đoàn cũng chịu chung hoàn cảnh di tản gian nan, khắc nghiệt, nội tâm hoang mang, mọi người đang t́m kiếm các phương tiện rời Đà Nẵng. Dù người di tản chưa thực sự nh́n thấy bóng dáng của cộng sản, họ đă phải tranh giành, t́m đường thoát thân, di tản khỏi thành phố thân yêu Đà Nẳng, để đi vào trong nam, lánh xa những tên cộng phỉ bắc việt ác ôn và hiểm độc.

Với những ám ảnh về các vụ tàn sát tập thể thường dân vô tội do cộng sản Việt Nam đă gây ra cho chính đồng bào của họ; đấu tố ngoài Bắc hay chôn sống thường dân Tết Mậu Thân 1968 tại Huế, đủ chứng minh cho bất cứ người Việt Nam nào cũng đă biết rơ sự tàn ác và man rợ của cs VN đă vượt ra ngoài sức tưởng tượng của con người.

Từ những vụ sát nhân tập thể của Nhân Văn Giai Phẩm, Cải Cách Ruộng Đất ở ngoài Bắc, khiến một triệu người miền Bắc Việt Nam phải “bỏ của chạy lấy mạng” vào trong Nam, cho đến những vụ chon sống và tàn sát tập thể một cách vô cảm, dă man, vô tội vạ ở Huế; đủ để chứng minh sự độc ác, man rợ và nguy hiểm của bọn cộng sản bắc việt, ai cũng muốn lánh xa tên cộng sản sát nhân máu lạnh đó, để khỏi bị trở thành là những nạn nhân chết oan cho sự sát nhân bừa băi, vô trách nhiệm.

Chàng lính Không Quân trẻ 23 tuổi mang nhiều ưu tư, trầm cảm, lo lắng cho tương lai của đất nước, thân nhân, gia đ́nh và bản thân, chưa biết cuộc sống ngày mai sẽ ra sao dưới sự cai trị khắc nghiệt của bọn cộng sản, vốn bản chất rất độc ác, xảo trá và quỷ quyệt.

Gương mặt Nguyễn Thế Đoàn trở nên lầm ĺ, tuyệt vọng, cay cú, oán hận những người Hoa kỳ đă xúi giục chiến tranh chống cộng, rồi phản bội, bỏ rơi nhân dân Việt Nam Cộng hoà phải gánh chịu hậu quả đau đớn của cuộc chiến, trong bàn tay máu của bọn cs VN.

Cuộc di tản gian truân

Thành Phố Đà Nẳng đă bắt đầu di tản. Đêm 28 tháng 3, 1975. Phi hành đoàn của Đại úy Nguyễn Văn Vinh (sau chiến tranh, anh đă qua đời ở Huế), Đại Úy Hoàng Văn Thủy (đang sống ở USA), Cơ Phi Nguyễn Thế Đoàn và Vũ Khí Phi Hành Trịnh Văn Liêm, c̣n rất trẻ, mới ra trường, vừa về phục vụ cho Phi Đoàn 253, Sói Thần, trong một thời gian ngắn. Họ là phi hành đoàn Trực Thăng Vơ Trang UH-1H, Gunship của Phi Đoàn 253 Sói Thần, phi hành đoàn cuối cùng sắp di tản khỏi Đà Nẳng, phi cơ của họ thiếu xăng, c̣n đang bay ṿng ṿng t́m thêm xăng để ra đi.

T́nh h́nh thành phố Đà Nẳng càng lúc càng trở nên tồi tệ, trong sự rối ren, hỗn loạn. Chiếc phi cơ trực thăng UH-1H, Gunship của Nguyễn Thế Đoàn có sức chứa 1,200 pound nhiên liệu phản lực JP-4 để họ có thể di chuyển về Nha Trang. Có phi cơ nhưng không có nhiên liệu cũng giống như “đại bàng không có cánh”. Phi hành đoàn đă quyết định bay từ Non Nước trở lại phi trường Đà Nẳng t́m xăng để di tản.

Cuộc dẫn độ trên không

Vừa bay qua khỏi Sa Huỳnh để vào không phận tỉnh B́nh Định. T́nh h́nh chiến sự Việt Nam rất căng thẳng, đề pḥng cộng quân nhiều thủ đoạn, có thể chúng sẽ xử dụng phi cơ của KL VNCH đă bỏ lại ở phi trường Đà Nẳng để tấn công chúng ta. Sư đoàn VI Không quân đă ra lệnh kiểm soát chặt chẽ không phận, truy đuổi và áp giải các phi cơ lạ bay trong không phận Vùng II Chiến thuật.

Chiếc Bạch Yến đă bay kè trên đầu, chuyển tín hiệu cấm không cho phi hành đoàn chiếc trực thăng UH-1, Gunship của Đại úy Vinh không được phép bay vào trong Miền nam. Thêm hai chiếc trực thăng UH-1H, Gunship của phi đoàn Mănh Sư 243, Phù Cát, tiếp trợ, bay kè hai bên, ép buộc và áp giải chiếc phi cơ của Đại úy Vinh phải đáp xuống phi trường Phù Cát, chờ xác định lư lịch của Không quân.

Lúc phi cơ đáp ở Phù cát, với 4 anh chàng Không quân “trơ trụi” trông giống như 4 anh du kích sống ở trong bưng, họ đă lái phi cơ với quần xà lỏn, áo thun, chân đất. Thêm hai chiếc chiến xa M113, kè kè hai bên, áp giải 4 anh Không quân “trơ trụi” chưa biết Không quân thật hay giả, về Bộ chỉ huy Căn Cứ Phù Cát.

Cấp chỉ huy căn cứ Phù Cát đă liên lạc với Phi Đoàn Sói Thần 253 đă di tản về đến Nha Trang, để chứng minh lư lịch những người Không Quân vừa bị bắt, họ đă khai, họ là nhân viên phi hành của Phi Đoàn Sói Thần 253, Đà Nẵng, đang trên đường di tản về Nha Trang. Trên đường đi, họ chẳng may đă bị cướp hết quần áo và giấy tờ tùy thân. Sói Thần 2, giới chức cao cấp nhất của phi đoàn Sói Thần đă di tản và hiện có mặt tại Nha Trang. Phi hành đoàn Sói Thần 2 đă phải bay ra Phù Cát để nhận diện nhân viên của họ. Cuối cùng, Sói Thần 2 đă nhận ra và xác nhận, đúng họ là các nhân viên phi hành của Phi Đoàn Sói Thần và Phi hành đoàn Sói Thần 2 đă xin phép mang 4 nhân viên phi hành lạc loài của họ về Nha Trang.

Tại đây, Mevo Thế Đoàn vui mừng gặp lại và đoàn tụ với người bạn cùng khoá 1/71, Đại Đội 55, bạn Đặng Hoàng (c̣) hai đứa đă quen thân từ nhỏ, Hoàng là cơ phi C-7A Caribou, Phi Đoàn 427 Thần Long, cả hai người cùng đóng ở căn cứ Đà Nẵng, Đặng Hoàng đang theo học khóa Cao Đẳng Cơ Phi Vận Tải tại Trung Tâm Huấn Luyện Nha Trang.

Thành phố Nha Trang cũng đang bắt đầu phải di tản. Thế Đoàn và Đặng Hoàng đă được C130 chở về Sài g̣n, tŕnh diện Bộ Tư Lệnh KQ, trước khi thành phố Nha Trang thất thủ.

Người lính trẻ Không quân vô danh, Đặng Hoàng vô cùng đau khổ, tuyệt vọng cho đất nước Việt Nam Cộng ḥa đang tan thương và oan nghiệt cho vận nước đen tối. Suốt lộ tŕnh vượt thoát Cộng sản Việt Nam từ Miền trung về đến Sài g̣n, chàng Không quân Đặng Hoàng đă chuẩn bị sẵn cho cuộc đời ḿnh, anh suy tính và đang sắp xếp cho một cuộc “ra đi” êm đẹp trong cái ngày đau thương, Sài g̣n thất thủ, khi người Cộng sản chiến thắng, chiếm trọn Miền nam.

Đặng Hoàng cố gắng về Sài g̣n gặp mặt cha mẹ và thân nhân lần cuối cùng cho một quyết định bí ẩn trong tâm tư người lính Không quân hiền lành ít nói, rất gan dạ. Ba tuần lễ Hoàng đă sống trong cái không khí nặng nề, đầy tử khí và ám ảnh của một cuộc chiến bại đau đớn tại thủ đô Sài g̣n, đang chậm chạp diễn ra.

Về Sài g̣n, hai người, Đặng Hoàng và Thế Đoàn càng gắn bó với nhau trong t́nh thân hữu của những ngày đất nước VNCH đen tối. Nhiều lần, bạn Thế Đoàn tính toán, đă rủ Đặng Hoàng vào phi trường Tân Sơn Nhứt, chực chờ, t́m cơ hội di tản ra ngoại quốc, sống b́nh an, nếu cộng sản Việt Nam cưỡng chiếm và cai trị tàn bạo ở Miền nam Việt Nam. Đă là hai nhân viên phi hành, từng phục vụ trong hai ngành không vận quan trọng: Trực thăng và Vận tải của Không Lực, họ có đủ tư cách và cơ hội để theo đoàn chiến sĩ Không quân ra đi di tản trên các chuyến bay ra ngoại quốc. Nhưng Đăng Hoàng đă mệt mỏi, chán nản với cuộc sống không c̣n một chút tương lai, bị lừa lọc, sống vô nghiă, không thể bỏ lại thân nhân, đàng sau cuộc chiến, gánh chịu những oan trái của chiến tranh. Hoàng đă âm thầm có những quyết định riêng cho chính ḿnh. Dường như, anh đă có một giải pháp cá nhân êm đẹp nào đó.

Tất cả niềm hy vọng chiến đấu cho một Thủ đô Sài g̣n và Miền nam Việt Nam sống trong sự b́nh an, vui vẻ, hạnh phúc, được hưởng một bầu không khí tự do dân chủ, tốt đẹp như bao nhiêu quốc gia ḥa b́nh và thân thiện khác, đúng với ư nghĩa của một con người. Nào ngờ, bây giờ, khát vọng đó của toàn dân VNCH đă hoàn toàn sụp đổ theo gót giầy xâm lược của bộ đội Bắc Việt đang tràn ngập Vùng III Chiến thuật, vây kín thủ đô. Họ sẽ pháo kích tan tành, tấn công tàn sát, cưỡng chiếm Miền nam Việt Nam và rồi bọn họ sẽ hớn hở, ca hát, nhảy múa, vui mừng chiến thắng.

SÀI G̉N NHUỘM MÁU

Đặng Hoàng đă thay bộ y phục dân sự, vẻ mặt b́nh tĩnh, anh đă tỏ ra không một chút sợ hăi, khi đă có sẵn trong tư tưởng những hành động, anh sẵn sàng đối diện với kẻ thù Cộng sản, Hai đêm dài, Cộng quân pháo kích tan tành, giao tranh ác liệt, tấn chiếm phi trường Tân Sơn Nhứt và thành phố Sài g̣n, Đặng Hoàng không thể t́m được một giấc ngủ b́nh yên.

Suốt từ sáng sớm, ngày 30-4-1975, anh đă lái xe đi quan sát t́nh h́nh khắp nơi trong thành phố Sài g̣n. Thôi rồi, Miền Nam Tự Do của Việt Nam Cộng Hoà không c̣n nữa rồi ! Bọn giặc cướp cộng sản Bắc Việt đă thực sự chiến thắng: một bầy nón cối, dép râu, súng AK-47, chiến xa T-54, cờ xí, du kích, bộ đội, đă tràn ngập thủ đô, chúng xuất hiện khắp mọi nẻo đường, làm ô uế, dơ bẩn thành phồ Sài G̣n thân yêu.

Lúc 10 giờ sáng, ngày 30-4-1975, Đặng Hoàng đă bủn rủn tay chân, buồn rũ rượi, khi nghe lệnh của tên tướng phản chủ Dương Văn Minh, một tay chính trị gia thân cộng, đă hai lần phá hoại chính thể Đệ I lẫn Đệ II VNCH, làm lợi cho bọn giặc cướp cs VN: hắn ta đă sát hại Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, phế bỏ Ấp Chiến Lược và bây giờ, đă kêu gọi Quân Đội VNCH giữ nguyên vị trí chờ bàn giao vũ khí cho bọn giặc cướp cs.

Đặng Hoàng tuyệt vọng, đau buồn tiếp tục đón nhận thêm những tin tức đau thương dồn dập xảy đến. Vào buổi trưa, ngày 30-4-1975, tin tức rúng động Sài g̣n về cái chết dũng cảm của Trung tá Nguyễn Văn Long, cảnh sát Quốc gia VNCH đă dũng cảm tự sát, ông không muốn sống với kẻ thù cộng sản, để bị cộng sản Việt Nam bắt làm nô lệ, trả thù tàn nhẫn.

Nguồn tin tự sát tập thể chấn động khác lại tiếp nối. Người dân Sài g̣n vô cùng đau thương cho một cuộc tự sát tập thể, một tiểu đội chiến sĩ Nhảy Dù kiêu hùng, đă dũng cảm chiến đấu tại Sài G̣n, bắn cháy mấy chiếc chiến xa T-54 của bọn giặc cộng trước cổng phi trường Tân Sơn Nhứt, họ đă rút về vườn Tao Đàn. Quá đau đớn, v́ đă bị ép buộc phải thi hành theo lệnh đầu hàng quân cộng sản của một tên tướng phản chủ, Dương Văn Minh. Họ đă ôm nhau cùng chia sẻ những quả lựu đạn cuối cùng dành cho chính ḿnh, họ hiên ngang ra đi giữa ḷng thủ đô, những người chiến sĩ trả nợ núi sông khi giấc mộng giữ nước không thành. Ôi đẹp đẽ biết bao, sự tiết tháo hào hùng của những người lính Nhảy Dù dũng cảm của Quân Đội VNCH, vang danh một thuở.

Đặng Hoàng đă nhỏ lệ tiếc thương cho các vị sĩ quan và binh sĩ dũng cảm, họ đă anh dũng tự hủy hoại mạng sống của chính ḿnh, trả nợ núi sông và đă chọn cái chết cho sự b́nh an cá nhân, làm rạng danh Quân Đội VNCH, là những hành động dũng cảm của những người chiến sĩ can trường, xem cái chết nhẹ tựa hồng mao. H́nh ảnh cao đẹp ngàn đời đó như đă ngấm ngầm khích lệ tinh thần người lính trẻ Không Quân Đặng Hoàng của đoàn quân VNCH đă bị bức tử và bại trận.

Tối đêm 30-4-1975, ba mẹ Đặng Hoàng đă nh́n thấy vẻ mặt tươi tĩnh của người con trai, hai vợ chồng có vẻ an tâm đôi chút, trong cái bầu không khí của Sài g̣n đang căng thẳng, nghẹt thở và khắc nghiệt, họ đinh ninh con ḿnh sẽ t́m đường ra đi, lo cho tương lai, khi hai vợ chồng nh́n thấy đứa con của họ đang thu xếp vội vă mấy bộ quân phục, và khẩu súng lục Ruleau P.38 vào túi xách.

Hoàng rút vội cái áo lạnh Không Quân đắt tiền, choàng lên người cho mẹ của anh, tặng mẹ, giữ làm kỷ niệm, Hoàng có vẻ đang suy tính và vội vă t́m đường di tản, mấy ngày trước bố mẹ anh cũng đă bao lần hối thúc Hoàng vào phi trường Tân Sơn Nhứt t́m phương tiện trốn ra ngoại quốc. Anh cứ ở ĺ trong nhà. Chỉ có Hoàng là con trai nối dơi tông đường. Bố mẹ anh lo sợ mất anh, gia đ́nh sẽ bị tuyệt tông. Bây giờ, anh mới chịu lo toan, không biết c̣n kịp và có con đường nào cho anh trốn ra ngoại quốc nữa hay không đây?

Đăng Hoàng cũng đă hẹn trước với người bạn thân Thế Đoàn, anh ta mới vừa rời khỏi biệt đội di tản, vừa trở về Sài G̣n từ Cần Thơ, Vùng IV Chiến thuật, có cái hẹn, hai đứa sẽ gặp nhau sáng ngày mai, 1-5-1975, tại nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi. Đặng Hoàng chỉ nói ngắn gọn: “cả hai sẽ cùng ra đi, nếu Thế Đoàn muốn đi theo Hoàng”. Nhưng tại sao lại gặp nhau ở nghĩa trang? Đi đâu mới được? Dù người bạn thân Thế Đoàn có thắc mắc, Hoàng vẫn giữ im lặng, không giải thích, là bọn họ sẽ đi đâu.

Sài G̣n, đêm dài nhất

Suốt cả đêm Đặng Hoàng trằn trọc, không tài nào chợp mắt được, h́nh ảnh CSVN lởn vởn trong đầu quấy nhiễu tâm tư của người lính bại trận. H́nh ảnh VC giết người rùn rợn anh đă chứng kiến trong suốt thời gian chiến tranh, như một đoạn phim cũ từng tự quay lại trong tâm trí anh. Anh không c̣n tha thiết để sống trong một xă hội chủ nghĩa dối trá.

Nhận thấy người bạn thân của ḿnh Nguyễn Thế Đoàn thiếu cương quyết, yêu đời, dễ ǵ anh ta chấp nhận ra đi với ḿnh. Nh́n đồng hồ gần 2 giờ sáng. Đặng Hoàng hủy bỏ ư định chờ trời sáng gặp Thế Đoàn cùng ra đi chung. Đặng Hoàng quyết định ra đi một ḿnh.

Lúc 2 giờ sáng, Đặng Hoàng đánh thức bố mẹ của anh dậy để từ giă ra đi. Ông bà thân sinh của anh rất lo lắng với t́nh h́nh Sài G̣n vẫn c̣n đang rối ren, nóng bỏng, đầy bất trắc, bọn giặc cướp xâm lược từ phương bắc vẫn đang tràn ngập khắp mọi nẻo đường thành phố Sài G̣n. Bố mẹ Hoàng lo sợ bọn cộng phỉ bắc việt sẽ khám xét, khám phá ra quân phục và vũ khí của anh đă mang theo, có thể họ sẽ xử tử Đặng Hoàng. Anh là con trai nối dơi tông đường, Hoàng mất đi gia đ́nh anh sẽ bị tuyệt tự.

Ông bà van xin người con trai hăy giấu đi những thứ đồ vật quân đội nguy hiểm đó ở trong nhà, ông bà mới an ḷng. Đặng Hoàng đă quyết định phải mang theo các vật bất ly thân của người lính. Bố mẹ Hoàng đă đau ḷng tiễn đưa con ra đi trong nước mắt, đầy lo âu. Ông bà thân sinh của Đặng Hoàng không ngớt cầu nguyện sự may mắn cho người con trai thân yêu của họ.

Lúc này, bọn giặc cướp từ bắc việt đang đóng chốt dầy đặc khắp nơi. Trong đêm khuya, Đặng Hoàng đă luồn lách qua những con đường nhỏ và may mắn đi đến nghiă trang Mạc Đĩnh Chi, b́nh an vô sự.

Màn đêm bao phủ nghiă trang âm u của đêm 30 tăm tối. Tiếng côn trùng hoà lẫn tiếng ve dế rên rỉ thảm năo trong đêm trường cô tịch. Đặng Hoàng gục đầu thổn thức, hai hàng nước mắt rưng rưng, tạ lỗi cùng cha mẹ, gia đ́nh và dân tộc Việt Nam. Nước mắt của anh đă tuôn rơi cho thảm cảnh bại trận tức tưởi của Quân Đội Miền Nam Việt Nam, bao gia đ́nh sẽ ly tán, khổ đau. Thương người dân từ nay phải sống trong bàn tay sắt máu của bọn ác quỷ cộng sản hiểm độc.

Khẩu súng lục Ruleau P-38 lạnh lùng nằm trong tay của Đặng Hoàng, 3 năm nó đă theo và bảo vệ sinh mạng cho anh trên khắp nẻo đường đất nước, giờ đây, cũng chính nó sẽ giúp chàng, rời xa thế gian nhiễu nhương, bỏ lại đàng sau nước Việt Nam khổ ải.

Đặng Hoàng lau khô ḍng nước mắt căm hờn, đặt mũi súng trên màng tang bên phải. Nhắm nghiền đôi mắt, rít lấy hơi thở dài xua tan tư tưởng u ám, sợ hăi. Anh tự nhủ: “cơn đau chỉ một thoáng trôi qua” cùng ư tưởng, anh đă mạnh mẽ tự ra lệnh cho ngón tay trỏ của chính ḿnh siết mạnh c̣ súng.

Tiếng súng nổ chát chúa vang động một góc trời trong nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi. Côn trùng và tiếng ve dế khóc than rên rỉ trong đêm khuya đều im bặt, như đón chào linh hồn của một người vừa mới ra đi.

Máu tươi hoà lẫn óc người trắng hếu, phun vọt từ lỗ đạn thoát ra bên trái, loang lổ trên mặt đất, văng tung tóe, lốm đốm dính đầy trên cái mộ bia bên cạnh, Đăng Hoàng bật ngă người xuống mặt đất, máu tươi trào ra ướt đẫm nửa gương mặt, rồi đọng thành vũng trên mặt đất. Đôi mắt Hoàng lồi lên v́ viên đạn đă đẩy nó về phía trước, nó co giựt mạnh, những ngón tay và ngón chân giựt liên hồi, rút cong queo, như chống chọi cơn đau đớn thấu tim. Miệng ngáp ngáp, phát ra âm thanh kḥ khè, cố kéo những hơi thở cuối cùng cho sự sống. Đôi mắt Hoàng từ từ đứng im, thân thể, tứ chi cũng dần dần buông xuôi, bất động. Anh đă thực sự nhẹ nhàng ra đi êm ả, sau cơn đau ngắn ngủi. Giă từ thế gian lọc lừa, khổ ải và nhiều tội ác.

Tiếng súng của Đặng Hoàng lẻ loi vang động giữa ḷng Thủ Đô Sài G̣n của ngày bọn ác quỷ cộng phỉ bắc việt xâm chiếm Thủ Đô Sài g̣n của Miền Nam Việt Nam, 1-5-1975. Hàng trăm tiếng súng khác cũng đang nổ rải rác trên mảnh đất oan nghiệt Miền Nam Việt Nam đau thương. Đă có bao nhiêu người Chiến Sĩ QL.VNCH cùng cảm nghĩ, cùng trách nhiệm và cùng sự tự quyết không đội trời chung với bọn cộng sản độc ác và man rợ.

Trong số những quân nhân VNCH tuẫn tiết này lần lượt đă có những vị danh tướng được nhân dân VNCH kính trọng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, và hàng trăm sĩ quan, chiến sĩ anh hùng khác đă cùng đồng hành với người chiến sĩ Không Quân VNCH Đặng Hoàng đă anh dũng tuẫn tiết chứ nhất quyết không hàng bọn giặc cướp xâm lược. Để rồi, họ đă có chung một ngày giỗ tập thể của Quân Đội VNCH. 1-5-1975.

Xác người chiến sĩ VNCH trong nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi sáng 01/ 05/1975

Trời Sài g̣n sáng trắng. Theo lời hẹn với người bạn thân, Đặng Hoàng, Nguyễn Thế Đoàn đă lái chiếc xe đến nhà người bạn. Khi đến nơi, Thế Đoàn chưng hửng qua lời kể của bố mẹ Hoàng đă cho biết, Hoàng đă ra đi từ lúc 2 giờ sáng, người nhà chẳng biết anh đi đâu. Chỉ biết Hoàng ra đi với túi hành trang nhỏ. Gia đ́nh tin rằng Hoàng đang t́m đường di tản ra khỏi nước Việt Nam.

Thế Đoàn bàng hoàng nghĩ ngợi. Không biết lư do ǵ Đặng Hoàng đă hẹn với ḿnh ra nghiă trang, rồi anh bạn ấy lại thay đổi ư định, ra đi một ḿnh. Thế Đoàn đang hồi hộp lo lắng cho số phận của người bạn thân. Anh nhanh chóng từ giă bố mẹ Đặng Hoàng, phóng xe một mạch đi thằng đến điểm hẹn ở nghiă trang Mạc Đĩnh Chi, theo lời dặn ḍ của người bạn thân.

Vừa đậu xe vào cổng nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, Thế Đoàn vội vàng tắt máy xe, chạy một ṿng đi t́m kiếm Đặng Hoàng. Anh ta lục lạo kỹ càng khắp mọi nơi, vẫn không t́m ra được dấu vết ǵ của Đặng Hoàng. Đoàn mừng thầm trong bụng với hy vọng Đặng Hoàng thực sự đă có ư định t́m đường đi di tản ở đâu đó. Anh quyết định phải đi t́m cho ra tông tích của người bạn thân.

Vừa trở lại, định lấy xe ra đi. Thế Đoàn đă may mắn gặp người quản lư nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi. Nh́n thấy vẻ mặt ngơ ngác, dáng điệu vội vă, cử chi nhiều lo âu. Thế Đoàn vừa mới mở lời chào và định hỏi thăm. Người quản lư nghiă trang đă suy đoán, nhận ra ngay anh đang đi t́m kiếm người bạn đă tự sát tối hôm qua. Người quản lư nghĩa trang sau khi chứng kiến đă lấp vội xác người lính trẻ đă tự vận lúc rạng sáng, ông đă tạm thời chôn xác nạn nhân xuống một cái huyệt bỏ trống, do đă có người bốc mộ thân nhân ba tuần trước.

Thế Đoàn vừa nghe qua, anh bủn rủn cả tay chân, nuôi hy vọng người tự sát đó không phải là Đặng Hoàng. Đoàn chạy nhanh vào góc trong của nghĩa trang, t́m ngôi mộ mới vừa lấp đất của người quản lư đă chỉ dẫn. Khi đến nơi, anh vừa run, vừa sợ phải đối diện với xác chết, hồn ma, vừa thương bạn, nước mắt của anh chảy đầm đià.

Đúng rồi! Một ngôi mộ mới vừa phủ đất sơ, mặt đất trũng, hiện ra trước mặt anh. Đoàn nhanh nhẹn quỳ xuống, ḷng thương yêu bạn dâng cao khiến anh dùng cả đôi tay cào xới liên hồi những mảng đất xốp vừa phủ lên người đă chết, bằng hai bàn tay Đoàn cào bới lia lịa. Anh khựng lại, khi đôi tay anh chạm phải những vật mềm, h́nh như vải áo quần màu xanh của quân đội, họ đă cuốn lấy thân xác người đă chết. Đúng rồi, họ đă dùng các vải áo quần để liệm xác nạn nhân. Thế Đoàn nhẹ nhàng tháo gỡ mấy viên gạch họ đă dằn trên thân người quá cố. Đôi tay anh run lên bần bật, nước mắt ràn rụa, đầy lo âu. Đoàn vẫn c̣n nuôi một hy vọng nhỏ, người chết nằm đây không phải là người bạn thân thương Đặng Hoàng của anh.

Bàn tay run rẩy của Đoàn chậm chạp, kéo nhẹ tấm vải che cái đầu của người quá cố. Phản ứng tự nhiên, Đoàn ngă bật ngửa ra phía sau, kinh hoàng, anh cố tránh né cái nh́n khủng khiếp của người đă chết, ma quái, rất rùng rợn. Gương mặt người chết kinh khủng quá, không c̣n giống Đặng Hoàng bạn thân của ḿnh, đôi mắt chăm chăm nh́n Đoàn trong sự kinh hoàng. Những đường máu ngoằn ngoèo trên gương mặt vẫn c̣n nguyên hiện trộn lẫn những mảng óc người trăng trắng, dính đầy bụi đất, phủ trên gương mặt đă cạn hết máu xanh lè, với đôi mắt lồi ra trông thật quái dị. Đoàn bật khóc sướt mướt, chỉ thốt được những tiếng rên rỉ thảm năo “Hoàng ơi! Sao mầy bỏ tao mà đi !”.

Cơn sốc nhanh chống lướt qua, Thế Đoàn hoàn hồn, ḷng thương bạn mạnh mẽ hơn sự sợ hăi, lấy lại b́nh tĩnh, tay anh run run kéo mảnh vải che lấy gương mặt Đặng Hoàng thân thương. Nó vội vă, lái xe chạy như bay về nhà báo tin cho gia đ́nh Hoàng đến mang xác anh về nhà tắm rửa, tẩn liệm và làm ma chay cho người chiến sĩ Không Quân VNCH quá can trường, bất khuất, đă anh dũng đền nợ nước vào giờ thứ 25 của cuộc chiến tranh Việt Nam. Một người chiến sĩ hăy c̣n quá trẻ, đă dũng liệt Vị Quốc Vong Thân, hiên ngang bước vào sử xanh.

Từ đó, vong hồn Đặng Hoàng thường hay về nhà Thế Đoàn, thỉnh thoảng hai đứa thường gặp gỡ nhau trong giấc ngủ, tâm sự trong những giấc chiêm bao thân thiết, gặp vong hồn bạn thân Đặng Hoàng hoài thét rồi cũng quen, chẳng c̣n ǵ phải sợ hăi nữa. Tuy âm dương cách trở, nhưng bóng dáng hai người vẫn không cách ĺa nhau trong những giấc chiêm bao.

Hàng năm cứ đến ngày 1 tháng Năm, gia đ́nh Thế Đoàn vẫn cúng giỗ cho người bạn thân của anh. Sau khi chết, Hoàng thực sự là anh em một nhà với Thế Đoàn. Con cháu của Thế Đoàn xem bác Hoàng như là chú bác ruột trong gia đ́nh với cái bàn thờ trang nghiêm giữa căn nhà nghèo nàn. Các con cháu của ông NGUYỄN THẾ ĐOÀN, bây giờ đă lớn tuổi rồi, cũng đều cúng giỗ cho bác ĐẶNG HOÀNG của chúng nó.

Sau hơn 40 năm, câu chuyện hy sinh anh dũng trong âm thầm lặng lẽ của người lính Không Quân VNCH, Anh Hùng Đặng Hoàng, Phi Đoàn 427 Thần Long, C-7A Caribou mới được kể lại chi tiết để mọi người cùng biết đến và vinh danh một người con ưu tú và can trường của Miền Nam Việt Nam, thà hy sinh chứ cương quyết không khuất phục trước bọn giặc thù xâm lược từ bắc việt.
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Old 2 Weeks Ago   #8
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 32,866
Thanks: 29,021
Thanked 19,408 Times in 8,857 Posts
Mentioned: 162 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 791 Post(s)
Rep Power: 80
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Default

Trong “Bên Thắng Cuộc,” tác giả Huy Đức ghi lại lời thân phụ ông, di cư vào Nam từ năm 1954: “Chưa có thời nào mà bắt người thua trận bị tù hàng chục vạn như thời cộng sản. Các tay này không biết ḷng dân là thế nào sao?

Thêm vào đó, cái ngỡ ngàng khó chịu nhất là dân Miền Nam, thấy ḿnh không phải là người “được giải phóng,” mà là “người thua trận,” bị khinh miệt, bị làm t́nh làm tội, đối xử không ra con người.

Sau đây là nguyên văn lời thân phụ Trần Đĩnh, nói về sự tùy tiện đối xử của một “anh bộ đội” đối với một người dân b́nh thường, trong vùng mới được “giải phóng:”
-“Bố đi bộ về đến đầu phố th́ bị một tay bộ đội cầm súng gác giữ lại hỏi đi đâu mà nhanh thế. Bố nói tôi già nên muốn mau về nhà nằm.
- Không được, đứng nghiêm năm phút!

Bố lại ngỡ như thuở bé đi học đứng nghiêm là quay mặt vào tường nên quay vào tường th́ anh ấy lại vặn sao quay mặt đi? Trốn giáo dục à? Lại quay lại nh́n thiên hạ qua lại nh́n ḿnh. Đứng đă ngán lại phải nghe loa ca ngợi chiến thắng, phân tích chiến thắng…”

Người lính của phe thắng trận có thể hành xử như thế với một người dân vô danh hay sao, c̣n đâu là chuyện thu phục nhân tâm? Suốt hơn 40 năm nay, rơ ràng bọn cộng phỉ miền bắc nhờ làm tay sai cho ngoại bang Tàu-Nga đă chiếm được đất đai, xóm làng, thành phố Miền Nam Việt Nam, nhưng bọn chúng đă không hề chiếm được ḷng người Miền Nam và SẼ KHÔNG BAO GIỜ chiếm được ḷng người dân Miền Nam Việt Nam.

Ngay trong những ngày đầu trong trại tập trung mà bọn cộng phỉ bắc việt lừa gạt dư luận thế giới với cái tên mỹ miều là trại “học tập cải tạo,” những người thất trận nhưng có văn hóa đă cảm thấy bị đối xử thô bạo bởi một lũ mọi rợ, thất học, vô nhân tính.

Từ sĩ quan cho đến một vị tướng lănh Miền Nam khi gặp bọn cai tù (tên gọi là cán bộ vệ binh hay quản giáo,) đều phải đứng nghiêm, chào kính, nếu cần nói, phải dùng tiếng “thưa cán bộ!”

Khi ra trại tù đi làm lao động khổ sai, hay lúc trở về, đoàn tù Miền Nam, khi qua cổng, có tên vệ binh con nít mặt búng ra sữa, đang ngồi trên cḥi gác, đều phải dở nón mũ ra, có khi cao hứng, những tên lính gác mất dạy miền bắc này c̣n bắt tù bỏ cả kính ra, dù là kính cận thị.

Ngày mới đi tŕnh diện để tập trung lên xe đi vào trại tù, v́ ác cảm với giới trí thức, một người bạn tôi đă bị một tên phỉ quân bắc việt lột cặp kính cận thị của anh, vứt xuống đất và đạp nát. Uất hận tận cùng, nhưng trong thế “chim lồng cá chậu,” người sĩ quan miền Nam đành nuốt hận vào ḷng.

Theo cuốn hồi kư của một tác giả cựu sĩ quan Miền Nam, tại trại Đá Bàn, Khánh Ḥa, trong trại có một tên vệ binh mọi rợ oắt con vô giáo dục có sở thích bệnh hoạn là vặt râu một ông già tù binh. Người tù khốn khổ này chỉ biết khóc!

Không biết ai đă dạy dỗ những tên “lính cụ Hồ” có thái độ mất dạy như vậy và v́ sao cấp trên của bọn chúng lại nhắm mắt làm ngơ trước những thái độ mất nhân tính như thế? Phải chăng chính cấp trên của bọn “lính cụ Hồ” cũng chỉ là một lũ tiểu nhân thất học, thất nhân, và thất đức.

Chuyện trả thù cũng rất dễ hiểu, như nhà văn miền Bắc, Tạ Duy Anh, đă viết: “Niềm căm thù kẻ hạnh phúc hơn ḿnh bốc lên ngùn ngụt trong ngực ḿnh... Giết người lúc ấy sao thấy sướng thế!” (Đi T́m Nhân Vật, tiểu thuyết, NXB Văn Hóa Dân Tộc, 2002.)

Th́ ra ḿnh giết nó, hành hạ nó, v́ nó hạnh phúc, giàu có, sung sướng hơn ḿnh. Điều này có thể rất dễ hiểu khi bọn cộng phỉ miền bắc “đánh” tư sản Miền Nam, bỏ tù người miền Nam, ăn cướp hết nhà cửa, tài sản, đổi tiền của người Miền Nam không tiếc tay. Tất cả những việc này của bọn chúng đều nằm trong một kế hoạch trả thù hèn hạ có quy mô và có hệ thống.

Sự thật đă ghi lại như một toàn Biệt Cách Dù 81 QLVNCH đă buông súng ngày 30/4/1975 nhưng vẫn bị bọn phỉ quân bắc việt tiểu nhân hèn hạ bắn chết và chôn họ trong một cái giếng sâu hiện nay chưa t́m ra dấu vết. Tại Hậu Nghĩa, nhiều sĩ quan chỉ huy của QLVNCH đă bị bọn tiểu nhân cộng phỉ xử bắn, nhân viên Cảnh Sát Quốc Gia bị bọn chúng nấu nước sôi dội lên đầu.

Trong “Hồi Kư Dang Dở,” Ông Dương Hiếu Nghĩa cho biết: “Ngay tại tỉnh Vĩnh Long, các ông cai tổng Nguyễn Văn Dần, Nguyễn Văn Xôm, Nguyễn Văn Thêm đều bị bọn cộng phỉ kết án là “có tội với nhân dân” mà không thông qua một ṭa án nào, và bị bọn chúng hành quyết man rợ ngay sau khi bị bắt, bằng vũ khí thô sơ như búa, mă tấu…

Không nói lời gian dối, chúng tôi xin ghi lại đây danh sách của những viên chức t́nh báo cao cấp của VNCH, sau tháng 4-1975 bị đưa ra Bắc và đă bị bọn phỉ quyền Hà Nội đê tiện hèn hạ bức tử.

Sau khi được đưa đến trại tù Hoả Ḷ làm việc, các viên chức t́nh báo cao cấp của VNCH được bọn chúng “bồi dưỡng” một tô phở, nhưng ngay sau khi về đến trại, các vị đă ói máu ra mà chết trên tay anh em bạn tù:
- Chuẩn Tướng Bùi Văn Nhu, Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia (nguyên Tư Lệnh Phó) người thay thế Thiếu Tướng Nguyễn Khắc B́nh.
- Đốc Sự Nguyễn Phát Lộc, Đặc Uỷ Trưởng Phủ Đặc Uỷ Trung Ương T́nh Báo (thay TT. Nguyễn Khắc B́nh)
-Ông Nguyễn Kim Thúy, Giám Đốc Nha Nghiên Cứu Phủ Đặc Uỷ Trung Ương T́nh Báo.
- Đại Tá Dương Quang Tiếp, Phụ Tá An Ninh T́nh Báo Phái Đoàn Liên Hợp Quân Sự 2 Bên.
- Đại Tá Nguyễn Văn Học, Đặc Trách T́nh Báo và Phản T́nh Báo Nha An Ninh Quân Đội VNCH.

Riêng trường hợp Đại Tá Lê Khắc Duyệt, Sĩ Quan T́nh Báo Cao Cấp phục vụ tại Tổng Nha Cảnh Sát, được bà con bên kia mách nước là phải lo lót để khỏi ra Bắc, may ra c̣n có xác mà đem về chôn. Hai năm sau, ông qua đời tại tại Sài G̣n, cũng bị ngón đ̣n “trả thù” như các chiến hữu của ông bị đưa ra Bắc!

Tại các Bộ Chỉ Huy CSQG tỉnh, các Trưởng F. (tức Phụ Tá Cảnh Sát Đặc Biệt, đặc trách T́nh Báo), phần lớn là cấp Uư, đều bị tập trung 17 năm, nếu không có sự can thiệp của Hoa Kỳ qua chương tŕnh định cư cho những người bị tù “cải tạo,” sẽ chết ṃn trong các trại tù lao động khổ sai khắc nghiệt ngoài miền Bắc!

Đó là chuyện trả thù người sống, với người chết, bọn tiểu nhân phỉ quyền Hà Nội cũng chẳng buông tha.

Ngay khi bọn cộng phỉ bắc việt vào ăn cướp Sài G̣n, ngày 3 tháng 5 năm 1975, Nghĩa Trang Quân Đội Hạnh Thông Tây, G̣ Vấp đă bị bọn chúng dùng xe ủi đất san bằng hết ngay chiều ngày hôm đó.

Tại Vĩnh Long, riêng ngôi mộ của Trung Úy Nhảy Dù Nguyễn Văn Ngọc, dù đă chết từ hơn một năm trước, vẫn bị bọn tiểu nhân phỉ quyền Hà Nội đào lên trả thù hèn hạ, đưa cả quan tài của Trung Úy Ngọc ra giữa chợ Ngă Tư Long Hồ để cho phá nát bằng cốt ḿn (Hồi Kư Dang Dở.)

Sau khi xâm lăng và cưỡng chiếm bất hợp pháp Miền Nam Việt Nam, phỉ quyền Hà Nội tiểu nhân hèn hạ đă phá hủy bức tượng “Tiếc Thương” mang đi, xem nghĩa trang này như một nhà tù, bị canh gác, rào kẽm gai, và không ai được thăm viếng, di dời phần mộ ra khỏi đây. Trong gần 30 năm, nghĩa trang Quân Đội Biên Ḥa thành một nơi hoang phế, quạnh hiu.

Chúng ta dược biết rằng, năm 2015, Ukraine đă tháo dỡ gần 140 tượng đài của Liên Xô và chính phủ Ba Lan có kế hoạch hạ bỏ khoảng 500 tượng đài Liên Xô, kẻ thù ngày trước, nhưng họ đă không hề đụng đến những tượng đài ở các nghĩa trang, nơi an nghỉ cuối cùng của những người lính Sô Viết.

Vẫn theo nhà báo Huy Đức, thời tên Đỗ Mười vào Nam đánh tư sản mại bản (ăn cướp), trong một cuộc họp mật, đích thị tên Đỗ Mười tâm thần ngáo đá đă hung hăng ḥ hét: “... Chúng ta phải róc thịt chúng ra!”

Theo tài liệu, kế hoạch trả thù X.1 do tên đồ tể khát máu là Đỗ Mười đề xuất theo kiểu Khmer Đỏ, th́ sĩ quan “nguỵ” từ Trung Úy trở lên, công chức Miền Nam từ cấp Chánh Sự Vụ phải bị tử h́nh.

Người ta đă có lần so sánh tháng Tư lịch sử của nước Mỹ (4-1865) và tháng Tư định mệnh của Việt Nam (4-1975.) Binh sĩ miền Bắc kính cẩn chào khi tướng Robert E. Lee cỡi ngựa đến nơi kư hiệp ước đầu hàng. Không có tiếng reo ḥ, nổ súng vui mừng của người thắng trận. Binh sĩ miền Nam không bị coi là quân đội phản quốc. Sĩ quan miền Nam không ai bị đi tù. Bên thắng trận không đụng tới hoặc làm phiền hà đến họ. Kỵ binh thất trận được quyền mang ngựa và lừa về nhà để giúp gia đ́nh cày cấy làm ăn.

Nhưng đó là Hiệp Ước của Những Người Quân Tử (Gentleman's Agreement) của hơn 100 năm trước, nó không hề có trên đời này với những kẻ tiểu nhân phỉ quyền Hà Nội hôm nay.
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Old 2 Weeks Ago   #9
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 32,866
Thanks: 29,021
Thanked 19,408 Times in 8,857 Posts
Mentioned: 162 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 791 Post(s)
Rep Power: 80
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Default

Đoàn người chúng tôi vượt biển bằng chiếc ghe với chiều dài khoảng 10 thước, ngang 2 thước, kéo bằng chiếc máy đầu tám ngựa khỏi Băi Giá, Đại Ngăi, Hậu Giang, Sóc Trăng chở 78 con người đủ lứa tuổi, riêng trẻ em khoảng 20 cả trai lẫn gái, hầu hết thuộc về làng ven biển, mà tôi chỉ biết một số người.

Chúng tôi rời quê hương tháng 2 năm 1990, thời tiết êm dịu, mọi việc kể như trót lọt, nhưng đồ ăn nước uống rất thiếu thốn, v́ thế sau bảy ngày chịu đựng một em bé sáu tuổi khóc măi và chết trong tư thế đang khóc, mọi người lấy ván có sẵn trong ghe làm tạm chiếc ḥm với hy vọng ngày mai mang lên bờ chôn cất,

Tối đó có rất nhiều người nằm mơ nhiều chi tiết liên quan đến cái chết của cháu bé, riêng tôi thấy rất nhiều trẻ em kêu khóc, níu kéo ghe ch́m xuống, thế là mọi người đều đồng ư cúng vái với một ít ḿ gói vụn và thả ḥm xuống biển, mấy đêm sau đó mọi người không c̣n những giấc mơ kinh hoàng nữa.

Vài giờ sau chiếc ghe máy bị hỏng không ai sửa chữa được, thế là thuyền lênh đênh trên biển thêm bảy ngày đêm, đói th́ ăn cả kem đánh răng, khát th́ uống nước biển hoặc nước tiểu, cứ tối đến th́ thỉnh thoảng đốt lửa kêu cứu bằng quần áo tẩm dầu.

Một đêm, khoảng 2 giờ 30 sáng, trong lúc người ta đốt lửa làm hiệu th́ nhận ra một chiếc tàu chạy đến và dừng lại trao cho chúng tôi chuối, nước, rồi tự động cột dây kéo đi. Người trên chiếc tàu đó không biết là người nước nào. Chúng tôi rất mừng v́ được cứu. Khoảng mười phút sau đó, tàu dừng lại song song với ghe và ra dấu chỉ vào tai, vào ngón tay, cổ tay chúng tôi, mấy tiếng giọng lơ lớ “US đô la”.

V́ quá vui mừng nên chủ ghe Năm Be vội lấy mũ nỉ gom góp nữ trang của những người trên ghe, họ đứng nh́n và thấy nữ trang được bỏ đầy vào chiếc mũ th́ nhẩy qua ôm chiếc mũ sang tàu họ. Một người có vẻ là chủ tàu ra dấu như không đủ vào đâu nên ra dấu bảo đưa thêm hoặc chính họ sang để lục soát. Rồi họ tự động cột giây từ bánh lái đến mũi ghe và cột vào tàu họ.

Tôi và một số thanh niên khác cảm thấy lo sợ và nghi ngờ hành động này th́ tức thời họ ra dấu chỉ đám đàn ông đu dây xuống nước dọc thành ghe. Tôi và mọi người cùng biết đây là bọn hải tặc đang t́m cách hăm hại những người trên ghe, đang do dự không tuân lệnh nhưng chủ ghe Năm Be lại giải thích v́ của cải chúng tôi nộp chó họ quá ít ỏi không đủ cho chuyến đánh cá của họ. Và v́ họ ít người nên ngại chúng tôi đông người đó thôi.

Thấy chúng tôi vẫn đứng yên, Năm Be vung tay nói; “Đ.M! có thằng nào chịu nổi cú đấm của tao không mà bày đặt chống cự?”, thế là chúng tôi hậm hực đu xuống, bọn họ chỉ tay ra dấu cho Năm Be đu xuống luôn. Cả đám đàn ông thanh niên đu dây trong biển dọc thành ghe mà nh́n họ.

Trời lờ mờ sáng và với đốm lửa cấp cứu mà chúng tôi đă đốt lên, nhận ra bọn họ khoảng năm tên, tay xách búa chặt cây bước sang lục soát những phụ nữ, trẻ em trên ghe, sau dó tên lái táu lái ghe chạy làm lệch ghe.

Đàn ông thanh niên dưới nước ôm chặt dây sát vào ghe, cố ngoi đầu lên thở c̣n thân ḿnh và đôi chân trôi trong nước theo tốc độ của ghe bị kéo. Chúng tôi c̣n đang kinh hoảng th́ những chiếc búa vun vút chém vào đầu, vào ḿnh đám đàn ông thanh niên đang đu dây.

Cảnh tượng thật kinh hoảng, những tiếng la ó từ trên ghe của phụ nữ, trẻ con, những tiếng hét đau đớn, thảm thiết vang lên chỉ một lần để rồi tắt lịm của những nhát búa trúng đích vào đầu, tiếng la thất thanh của những ai bị bọn hải tặc man rợ chém trúng tay, cổ, vai hoặc lưng.

Tôi kinh hăi buông tay lúc nào không hay và lặn ngầm qua bên kia của ghe. Tên lái tầu rọi đèn pha đảo qua đảo lại để nh́n cho rơ ràng mà chém, chợt nhận ra tôi, một tên trong bọn lấy mỏ neo liệng theo nhưng may không trúng, thế là tôi lặn tiếp một hơi.

Rời xa ghe một khoảng, tôi nh́n lên ghe, đèn sáng choang từ dưới mặt nước nh́n rất rơ, tôi thấy rơ bọn ác thú man rợ tách một đứa bé ra khỏi tay một bà nào đó rồi liệng đứa bé tội nghiệp xuống biển. Tôi tiếp tục bơi xa và nh́n thấy tàu của bọn ác thú hải tặc đă húc cho chiếc ghe của những người tỵ nạn khốn khổ ch́m hẳn.

Tôi quá kinh hăi không biết chuyện ǵ đă xảy ra sau đó nữa ! Măi sau này khi qua đến trại Sikew và qua những lời kể lại của một bé gái 13 tuổi, tôi mới biết là những trẻ em quá nhỏ th́ bị bọn ác thú hải tặc Thái Lan quăng xuống biển, c̣n bé gái đang lớn và tất cả phụ nữ th́ bọn chúng bắt lên tàu bọn chúng và ngày đêm thay nhau hăm hiếp những nạn nhân nữ đáng thương.

Tôi vẫn tiếp tục bơi mà chẳng biết đi về đâu, măi gần sáng gặp được tài công Thời (c̣n gọi là Chệt Lác) lưng bị chém một nhát búa, và ông Hùng bị một nhát búa ngang mang tai máu me c̣n rỉ ra.

Cả hai đang ôm một thùng nhựa đựng dầu 20 lít làm phao, tôi mệt quá ghé tay vịn vào nhưng cả hai năn nỉ tôi rời xa đi v́ thùng dầu quá bé không đủ sức nổi cho ba người. Tôi thông cảm với họ và chợt nhớ ra vết thương của hai người máu đang rỉ ra và như vậy rất dễ làm mồi cho bọn cá mập hung ác.

Thế là tôi bơi đi và chợt nảy ra sáng kiến cởi chiếc quần dài thắt ống, lộn ngược làm phao, tôi dựa cổ vào đáy quần và cứ thế một vài giờ lập lại cách làm như vậy cho đến khoảng gần giữa ngọ ngày hôm sau. Nh́n xa xa thấy một vật mầu đen đen nhấp nhô, thế là tôi cố gắng lội đến và rất may vớ được thùng dầu từ chiêc ghe của chúng tôi.

Tôi vội ôm ngay vào ngực và thấy sung sướng lạ thường như vừa trút được một khối nặng nề mệt mỏi ra khỏi con người vậy. Nh́n quanh thấy kẻ ôm thùng, người bơi, người ôm ván, không biết ai là ai nhưng nhẩm đếm những điểm di động có vào khoảng 30 người. Tôi rất mừng v́ c̣n được nhiều người sống sót, hoạt cảnh xẩy ra như thể chúng tôi đang chia từng nhóm bơi lội vậy.

Có khá nhiều tàu đánh cá khoảng hơn mười chiếc không biết của nước nào đi ngang, nhưng họ tỉnh bơ nh́n chúng tôi như đang tắm biển vậy, có thể nói từng chiếc tàu đó nghe thấy tiếng kêu cứu năo nề tuyệt vọng của chúng tôi trên mặt biển đều khoác tay từ chối.

(Khi đến trại chúng tôi được biết nếu họ cứu th́ sẽ phiền đến họ v́ phải khai báo, chụp h́nh chung với nhau theo luật Cao Ủy Tị Nạn để điều tra, và nhất là họ sợ bọn hải tặc nhận ra sẽ trả thù)

Chúng tôi cứ lênh đênh ngày đêm trên biển đến ngày thứ ba đă thấy lờ đờ vài ba xác chết và nhiều người bất động c̣n ôm thùng, ván, có một cái xác ngay sát gần bên tôi. Đến trưa, chợt một tàu đánh cá chạy lại gần lại một cặp vợ chồng.

Họ vớt vội người đàn bà, đó là chị Lên đang lả người bám vào ván, anh Vũ vội bám vào thành tàu để họ vớt lên th́ bọn họ gỡ tay đẩy xô ra, nh́n xuống trông thấy tôi chị Liên vội la lên; “Hoàng ơi, giúp anh Vũ với !”.

Tôi chẳng giúp được ǵ, tôi cũng như anh ấy lều bều trên mặt nước, anh Vũ chỉ biết nh́n theo vợ, thẫn thờ như một cái xác không hồn.

Chiều đến sóng bắt đầu lớn, cha con ông Ba Vạn và cháu Hồng ôm thùng dầu bị dập vùi trong cơn biển động trông quá kiệt sức, đột ngột ông Ba Vạn thốt lên “Hồng ơi! Tao bỏ mày!”, thế là ông buông tay mất tăm.

Lúc này, chẳng mấy ai c̣n ai để ư đến ai nữa, tôi cũng như mọi người đều mê sảng, hoa mắt, có người thốt lên thấy cồn cát trước mặt, có kẻ thấy hàng dừa xanh mướt, kẻ th́ thấy núi xanh thăm thẳm, người thấy cồn đất, c̣n tôi th́ thấy bờ dừa và người đàn bà ngoắc tay như bảo tôi bơi vào, tôi bơi theo hướng tôi thấy, mạnh ai nấy lội theo hướng riêng.

Tôi bơi rất lâu mà chẳng thấy đến gần, rồi người đàn bà hiện ra bảo tôi bỏ thùng mà bơi cho nhanh, tôi buông ra và ra sức bơi bằng tay, được vài phút cũng vẫn chẳng thấy bờ dừa đâu.

Chợt ôi như bừng tỉnh và cầu nguyện th́ thấy cát biển, cây dưới nước, tôi đứng xuống rồi người tôi ch́m hẳn và mê sảng, thấy như người nào cho ăn, tự nhiên tỉnh táo, mở mắt nh́n lại thấy ḿnh đang ch́m dần nên tôi hoảng hồn lội lên, một hồi mới nổi khỏi mặt nước.

Nh́n chung quanh toàn biển là biển, th́ ra tôi đang mê man hoang tưởng, và kỳ lạ là không cảm đói khát chi, đêm hôm đó trải qua một đêm quả là kinh hăi.

Đến sáng tôi gặp được ba người lớn và ba trẻ em c̣n lại trên biển gồm người cha có đứa con sáu tuổi bị tách rời mẹ quăng xuống biển và vợ th́ chúng bắt hăm hiếp, đứa bé chín tuổi con của anh ta, cô bé 13 tuổi có mẹ bị chúng bắt sang tàu hăm hiếp và hai người em nhỏ bị tách ra liệng xuống biển, cháu Hồng con ông Ba Vạn bị sóng dập kiệt sức buông tay, Từ Minh Tường, Thời (Chệt Lác).

Qua 5 ngày 4 đêm trên biển chúng tôi gặp một tầu sắt và một tầu đánh cá, họ dừng lại, chúng tôi cũng chẳng màng đến v́ hàng trăm chiếc cũng đă qua đi như vậy. Thế nhưng họ đang vớt chúng tôi, tuy có muộn màng v́ quá nhiều người kiệt lực trên biển, nhưng vẫn c̣n sống sót bảy người lớn nhỏ, tôi nh́n đồng hồ tay là 6 giờ 58 chiều.

Nh́n họ nước da ngăm đen, quấn xà rông tôi không đoàn được họ là người nước nào, họ đang loay hoay nấu cháo cho chúng tôi ăn, uống từng chút như họ đă có kinh nghiệm cho những người vượt biển đói khát này rồi.

Họ chở chúng tôi và tiếp tục đi đánh cá, hơn một giờ sau đánh bắt được một con cá mập họ đem bỏ xuống hầm tàu, nó quậy ầm ầm, họ chỉ tay xuống hầm rồi chỉ chúng tôi như muốn nói sẽ bị cá ăn thịt nếu tụi tôi c̣n lêu bêu trên nước.

Tầu chở chúng tôi vào bờ khoảng 5 giờ sáng, họ ra dấu sẽ có cảnh sát tới giúp nhưng đừng nói số tàu của họ cứu, rồi họ vội quay tầu ra khơi (Sau này tôi mới biết vùng biển đó thuộc Mă Lai Á cạnh Thái Lan)

Khoảng nửa giờ sau, có cảnh sát đến, chúng tôi vẫn chưa rơ là người nước nào, một cảnh sát biết tiếng Việt chỉ vào một chiếc xe pick up truck và bảo chúng tôi “Lên xe đi”.

Trên đướng đi họ hỏi chúng tôi có biết cô gái nào tên N. 13 tuổi không? Một anh nhận là cháu vợ, thế là họ trở về trạm cảnh sát và anh đă gặp được cô cháu gái thân xác ốm yếu, và nhất là đôi chân bước đi hai hàng trông đau đớn lắm. Gặp lại chúng tôi, cháu khóc nức nở kèm theo nỗi kinh hoàng ghê gớm trên khuôn mặt, chúng tôi cùng im lặng trong nỗi đau đớn chung.

Một chập sau đó cháu kể lại đă bị nhốt trên tầu 3 ngày đêm và bọn hải tặc liệng hết quần áo em mà đè ra thay nhau hăm hiếp, cháu khóc la hét đau đớn mà bọn chúng th́ cứ hết đứa nọ đến đứa kia cho đến khi cháu không c̣n biết ǵ th́ chúng xách liệng xuống biển cháu mới bừng tỉnh dậy.

Cũng may mắn là chỉ vài phút sau đó được tàu cảnh sát vớt. Anh ta hỏi thăm về vợ ḿnh (là d́ của cháu N), cháu cho biết là vẫn c̣n sống nhưng d́ la hét suốt ngày đêm v́ bọn họ hăm hiếp d́ nhiều quá! thế là trong số 78 người ra đi, chỉ c̣n lại 8 người sống sót.

Sáng hôm sau một số người trong Cao Ủy Tị Nạn đến chích ngừa, chăm sóc cho bé N...C̣n 7 người chúng tôi th́ h́nh dáng gần như nhau, ai cũng lở loét khắp ḿnh và mặt mũi, da sưng từng mảng, được thoa và uống thuốc trị liệu.

Tám người chúng tôi ở đó ba tháng rồi được làm hồ sơ đi trại Sikhew, 30 ngày sau được thanh lọc và tất cả chúng tôi được chấp thuận đi diện nhân đạo. Ở lại trại thêm 6 tháng nữa, riêng tôi định cư tại Hoa Kỳ theo diện đoàn tụ anh chị em ngày 20 tháng 10 năm 1992.

Mong rằng những câu chuyện đau thương này sẽ tạo khối đoàn kết mạnh hơn trong cộng đồng người Việt hải ngoại khắp thế giới.
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Old 2 Weeks Ago   #10
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 32,866
Thanks: 29,021
Thanked 19,408 Times in 8,857 Posts
Mentioned: 162 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 791 Post(s)
Rep Power: 80
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Default

Tháng Tư, tháng lịch sử của dân tộc Việt Nam lại quay về với hàng ngàn, hàng vạn kư ức, cảm nghĩ, chuyện kể, h́nh ảnh, bài viết qua hàng vạn trang sách báo không chỉ ở Việt Nam, trên mạng Web mà khắp nơi trên thế giới.

Khi nhận định về chiến tranh Việt Nam giới báo chí,văn học trên thế giới đă công nhận chưa có cuộc chiến nào trên thế giới làm tốn nhiều giấy mực hơn cuộc chiến tranh ở Việt Nam.

Những quyển sách, bút kư có tính lịch sử hay phóng sự được độc giả t́m đọc và đánh giá cao thường mang tính trung thực, tầm nh́n khái quát và tính nhân bản

Sách viết về chiến tranh Việt Nam có các đặc tính vừa nêu trên và được cả thế giới biết nhiều có lẽ là sách của hai tác giả đều là phóng viên, một người Pháp, ông Pierre Darcourt với quyển Vietnam, qu’as-tu fait de tes fils?

(Pierre Darcourt,đă được dịch giả Dương Hiếu Nghĩa dịch ra với tựa đề Việt Nam - quê mẹ oan khiên (nhà xuất bản Tiếng Quê Hương – 2007)

Và phóng viên người Đức- Peter Scholl-Latour với quyển Der Tod im Reisfeld (Deutsche Verlags-Anstalt-1979) (tạm dịch: Cái chết trên cánh đồng lúa).

Nh́n lại riêng cho Việt Nam, những tác phẩm viết về cuộc Chiến Tranh Việt Nam được thế giới biết và nhắc nhở gần như quá hiếm hoi .

Có thể nói sách được nhiều người ngoại quốc đọc nhiều về Chiến Tranh Việt Nam chỉ có thể kể vẻn vẹn là quyển “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, một quyển sách không dầy đúng với tầm vóc lịch sử của cuộc Chiến Tranh Việt Nam.

Tại sao chỉ có quyển sách viết về Nỗi buồn của cuộc chiến được nhắc đến, trong khi nhiều quyển sách của những tướng Bắc Việt trực tiếp tham gia đánh trận viết kể về cuộc chiến hầu như không ai nhắc đến ?

Có lẽ chúng chỉ có những câu chuyện dối trá, bịa đặt, chỉ được sử dụng như những tài liệu lịch sử cho phía cộng sản để tra cứu chứ không hề là những tác phẩm nhân văn, những tác phẩm nêu được t́nh cảm con người trong cuộc chiến và sau cuộc chiến.

Chiến tranh không thể vui vẻ v́ chỉ là những cảnh chém giết, người chết, máu đổ, lệ rơi, ly tan, đổ nát. Nhưng tại sao khi cuộc chiến kết thúc vẫn không mang lại niềm vui tiếng cười trọn vẹn cho cả dân tộc ?

Có phải từ nỗi buồn của hàng triệu người dân Miền Nam sau năm 1975 phải chịu cảnh bị phỉ quyền Hà Nội hèn hạ trả thù, bắt bớ, tù đày, hành hạ, ngược đăi, chịu thảm họa vượt biên .

Nỗi buồn cho một chế độ có chính nghĩa dân chủ tự do bị bóp chết tức tưởi , bị thay thế bằng chế độ độc tài, độc đảng.

Có phải từ nỗi buồn khi cảnh xă hội thanh b́nh tươi đẹp mơ ước dần dần hiện ra trong thực tế là một xă hội hổn loạn, đầy rẫy những chuyện bức xúc.

Cảnh đất nước phát triển đi thụt lùi. Sau hằng mấy chục năm với biết bao tiền của tài nguyên, công sức đă đổ ra, kết quả là Việt Nam XHCN – dưới sự lănh đạo bất tài ngu dốt của bọn phỉ quyền Hà Nội - ngày nay c̣n thua kém ngay cả Cambodia, mong được sánh vai cùng Thái Lan, không bằng một góc của Singapore, trong khi trước 1975, chế độ VNCH tại Miền Nam Việt Nam đă phát triển hơn hẳn các quốc gia vừa nêu tên.

Trong nhiều gia đ́nh Việt Nam, trên khắp miền đất nước, từ hoàn cảnh lịch sử, có rất nhiều gia đ́nh có cha, con, chú, bác, anh em, họ hàng thân quyến đứng ở hai thế đối lập nhau.

Niềm vui thắng cuộc trọn vẹn không khi chính người thắng cuộc phải nh́n cảnh cha chú, bác, anh, em bà con bị đưa đi học tập cải tạo và chết trong cảnh ngục tù ?

Niềm vui thắng cuộc có c̣n không trước cảnh họ hàng, bà con, bạn bè của ḿnh và ngay chính gia đ́nh ḿnh từ từ dắt díu đi lưu lạc nơi xứ người, tha phương cầu thực.

Niềm vui có không trong gia đ́nh có những người đứa con gái để cải thiện kinh tế cho gia đ́nh phải lấy chồng Trung Quốc, Hàn Quốc và bị đọa đày như nô lệ.

Niềm vui có không ở những gia đ́nh bị phỉ quyền Hà Nội đày đọa về vùng đồng hoang vu, trơ trọi không có khả năng sinh sống nơi Kinh Tế Mới.

Hay sau bao năm nhọc nhằn tạo dựng trong phút chốc sự nghiệp, của cải bị cướp đoạt mất trắng qua quyền lực, vũ lực với tên gọi „giải phóng mặt bằng „ cải tạo công thương nghiệp “?

Tháng Tư luôn là tháng buồn thảm đối với rất nhiều người dân Việt Nam.

Dù trời có mưa hay nắng, dù nơi xứ người cảnh vật đang chuyển đổi sang mùa Xuân với bao hoa lá xinh đẹp đang đua nở vẫn không xóa tan được nỗi buồn quá lớn trong tâm tư những người Việt có lương tâm và yêu lẽ phải khi nghĩ về đất nước, quê hương.

Người ta có thể không có cảm giác chia sẻ với nỗi khổ đau của những nạn nhân vượt biển, những người bị đày đọa trong các trại tù lao động khổ sai, nhà giam, những người bị cướp đoạt tài sản khi người ta đứng ở vị trí của người cướp đoạt tài sản, hay đồng lơa.

Người ta sẽ thấy tự hào với tư cách thắng cuộc của ḿnh và hân hoan chào mừng.

Nhưng người ta khó thể viết nên những quyển sách được nhân loại, thế giới chú ư đọc khi sách có nội dung ca ngợi chiến thắng mà qua đó hàng triệu người đồng bào ruột thịt của họ phải chết và đưa đến kết quả cả dân tộc bị dẫn đi vào con đường sống dưới chế độ độc đảng, độc tài, gian xảo, dối trá, mị dân bằng đủ thứ bánh vẽ rẻ tiền.

Người ta khó thể viết sách có lư lẽ để ca ngợi chiến thắng của một thứ “chủ nghĩa xă hội” quái thai sắt máu, bệnh hoạn, không tưởng đi tiêu diệt một nền Cộng Ḥa có Tự Do, Dân Chủ .

Những người lính bộ đội tham gia chiến tranh năm nào ngày nay không khỏi ngậm ngùi khi thấy „lá cờ kẻ thắng cuộc“ (thực chất là cờ của Phúc Kiến, Trung Quốc) cắm bơ vơ trên túp lều của những người dân bị cướp đất ở Tiên Lăng, Xuân Quan, Thủ Thiêm, và nhiều nơi trên đất nước.

Khi thấy ở những khu đô thị trên khắp Việt nam những bảng chữ hiệu Việt từ từ được thay bằng bảng hiệu chữ Tàu.

Trên Tivi, phim ảnh những thước phim lịch sử Việt Nam quá ngắn ngủi so với hàng trăm thước phim bộ nhiều tập với đầy đủ chi tiết lịch sử của Trung Quốc.

Ư nghĩa thắng cuộc có c̣n không qua các diễn biến nêu trên?

Đúng như nhận xét sắc sảo của kư giả Peter Scholl Latour đă ghi trong đoạn viết về Việt Nam vào năm 1976 .

Chỉ một năm sau ngày “giải phóng“ dưới sự kiểm soát nghiêm ngặt của phỉ quyền Hà Nội đương thời, ông đă ghi nhận những tin tức, câu chuyện về những trại tù lao động khổ sai tàn ác, những trại cưỡng bức phục hồi nhân phẩm ở Sài G̣n.

Về chuyến tham quan hang Pác Pó bị cấm, v́ nơi này và vùng biên giới Việt Bắc ngay trong thời điểm 1976 đă là những vùng ngoài tầm bảo đảm an ninh của Việt Nam.

Mối liên quan với người Mèo của tướng Chu Văn Tấn, vị tướng đă bị hạ bệ ngay trong thời điểm đó, đi cùng với mối lo ngại đang lớn dần, không tránh khỏi về “kẻ thù phương bắc“ của phỉ quyền cộng sản VN.

Niềm vui về một chiến thắng lịch sử với sự hy sinh của hàng triệu người Việt Nam dần dần đổi qua vị trí khác và biến thành“ Nỗi buồn thắng cuộc“.

Trong đoạn kết thúc chuyến đi ghi phóng sự một năm sau chiến tranh tại Việt Nam, sau khi chứng kiến đủ cảnh khổ của dân chúng từ Nam chí Bắc, cảnh dân miền Nam bị lâm vào hoàn cảnh khốn cùng, đói nghèo, cảnh ở biên giới phía bắc đă phải đối đầu với người “anh em phương Bắc” của ḿnh.

Kư giả người Đức đă ghi lại cảnh từng đoàn người lặng lẽ vào thăm lăng Hồ chí Minh, với câu cảm nghĩ mà hiện nay đă là cảm nghĩ của nhiều người từng có mặt trong “đoàn quân thắng cuộc„:
“Hỡi người đă mất, chiến thắng của nhà ngươi đang nằm ở đâu“ ?
Câu này theo ông là câu nên được khắc lên nền đá hoa cương của lăng Hồ Chí Minh.

Cũng là câu giải thích tại sao có “Nỗi buồn thắng cuộc “ cho cả dân tộc .

Trong ngày 30.04 năm nay, chúng ta hăy đọc lại đọan văn phía dưới, và dành vài phút mặc niệm tưởng nhớ không chỉ đến những người bỏ ḿnh trong cuộc chiến mà cả cho những nạn nhân sau cuộc chiến, những người phải bỏ xứ đi vượt biên, hay chết trong những trại ngục tù khắc nghiệt và tàn ác của bọn cộng sản bắc việt:

´Nhớ lúc tàu vượt biên đụng cái rầm vào băi đá của bờ biển Mă Lai, vợ chồng con cái mặt mày tái xanh, nín thinh ôm nhau chờ chết. Ai dè đáy thuyền mắc vô cọc đá nhọn, bị sóng đánh dạt qua dạt lại, nhưng tàu không bị bể, không bị sóng cuốn trôi, nhưng bị nước vô.

T́nh h́nh rối loạn, mạnh ai nấy chạy, nấy la, nấy khóc. Bọn thanh niên chen lấn nhau nhảy xuống biển vù vù, chỉ c̣n đàn bà, đàn ông ốm yếu và con nít thất thần nh́n nhau không biết làm sao để ra khỏi tàu. Ba đứa con như ba con gà con ốm nhách dơ xương ướt nhẹp, nắm chặt mớ tóc rối bời của mẹ khóc nức không thành tiếng.

Ông chồng ngồi bên cạnh, líu quíu đứng lên, nhưng đổ nhào, hoảng hồn đưa đôi mắt lo âu sâu hoắm ḍ hỏi chung quanh. Tui thử đứng lên, hai chân cũng bất khiển dụng, té quẹo bên hông. Mấy người xung quanh hồ nghi và cũng quờ quạng đứng không muốn nổi, thôi… đi bốn chân cho an toàn, ra khỏi tàu rồi tính.

Có tiếng la: “Bà con ơi, tàu cặp bến rồi, thấy đất liền rồi.” Mọi người đang ḅ lổn ngổn trên sàn tàu, ngừng lại một giây, sau đó ḅ nhanh hơn về phiá mũi thuyền, nơi phát ra tiếng nói.

Trời ơi, nụ cười! Nụ cười hồi sinh tươi c̣n hơn bông hồng nở. Có bà già v́ cười quá mà đôi môi bị khô v́ gió và nước biển đă nứt ra chảy máu ṛng ṛng. Có tiếng ông chồng tui réo: -Má con bây ḅ lẹ lên, ba xuống tới đất rồi nè!“
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Old 2 Weeks Ago   #11
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Nov 2006
Posts: 32,866
Thanks: 29,021
Thanked 19,408 Times in 8,857 Posts
Mentioned: 162 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 791 Post(s)
Rep Power: 80
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Default

Con người với bộ óc siêu đẳng mà Tạo Hóa đă dựng lên trong một cơ thể hoàn hảo, nhưng nếu h́nh dáng bên ngoài không được trang điểm để trở nên xinh đẹp, bộ óc thiếu giáo dục nhằm phát triển, th́ đến thời đại bây giờ loài người vẫn có thể c̣n ở trong t́nh trạng sơ khai.

Do vậy, văn hóa của nhân loại đóng một vai tṛ quan trọng qua nhiều biến đổi và bồi đắp để thăng tiến từ thời đại nầy qua thời đại khác. Nhờ đó, con người chẳng những đă tiến bộ về mọi mặt mà c̣n hấp thụ được khả năng sáng tạo, từ vấn đề sinh tồn, tự vệ cho đến phát triển…để phục vụ bản thân, gia đ́nh và xă hội.

Chỉ c̣n một vấn đề là kéo dài sự sống thiên nhiên cũng như cải tử hoàn sanh các loài sinh vật, th́ con người vẫn c̣n bó tay trước quyền năng của Tạo Hóa. Tóm lại, có thể xác định rằng, nhờ vai tṛ giáo dục qua văn hóa, con người trở thành một động vật siêu đẳng và tột bực thông minh, để từ đó, con người trở thành chủ nhân của muôn loài.

Nh́n một cách tổng quát đời sống con người, dù ở đâu hay dưới thời đại nào, văn hóa nhân bản cũng là nền tảng giúp cho loài người phát triển và đi lên theo chiều hướng tốt về mọi phương diện.

Đồng thời văn hóa đă dạy con người biết sử dụng khối óc và bàn tay kể từ khi đủ trí khôn cho đến lúc nhắm mắt để đem lại một cuộc sống thật đẹp, thật hoàn hảo về vật chất cũng như tinh thần.

Vậy, một khi bàn đến vấn đề văn hóa nhân bản, người ta cần phải đề cập về nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó giáo dục là điều kiện chính yếu và cần thiết để đào tạo cũng như huấn luyện con người trở thành một sinh vật thật hoàn mỹ.

Có thể lấy một ví dụ, cá nhân nào nếu bị người đời cho rằng ‘vô văn hóa’ th́ có thể hiểu rằng người đó thiếu giáo dục căn bản. Vậy môi trường gia đ́nh, học đường và xă hội đều là những nơi thiết yếu để huấn luyện, trau dồi và bổ túc lẫn nhau nhằm hoàn chỉnh con người từ trí tuệ, khả năng, chính trị, đạo đức đến lối xử thế với đời. Nhờ đó con người có thể hiểu biết, sống chung, nâng đỡ và hợp tác để duy tŕ an ninh trật tự xă hội.

Một trẻ nhỏ nếu từ lúc lọt ḷng mẹ đă sống cô đơn trong rừng hoặc một ḿnh trên hoang đảo, đời sống hoàn toàn cách biệt với loài người th́ suy nghĩ cũng như hành động cũng tương tự loài thú hoang. Chỉ có bản năng sinh tồn mà rừng rú hoang dă đă dạy cho nó những điều cần thiết để chống đỡtai ương, bảo vệ bản thân và mưu t́m sự sống.

Tuy cơ thể phát triển nhưng trí óc đứa trẻ bị hóa đá, những suy nghĩ và phản ứng nếu có, đều hạn chế trong hoạt động b́nh thường như phục vụ hệ thống tiêu hóa và chống đỡ nguy cơ liên quan đến tính mạng. Vậy, việc giáo dục cần được xem là tối quan trọng trong đời sống con người và phải được thể hiện bởi ba môi trường.

Gia đ́nh chính là môi trường quan trọng và hữu hiệu đối với việc giáo dục căn bản của người : Từ ngày chập chững học đi, ông bà cha mẹ đă dạy cho con cháu những bài học lễ phép đầu tiên. Trong gia đ́nh, biết kêu cha mẹ ông bà, biết cúi đầu dạ người lớn, khi ra đường thưa bẩm những người lớn tuổi.

Rồi những ngày tiếp đến đứa trẻ được gia đ́nh huấn luyện từ lối phục sức, cách ăn, câu nói để chuẩn bị bước xă hội mở đầu bằng ngưỡng cửa mẫu giáo. Thật ra, công việc giáo dục của gia đ́nh ông bà cha mẹ không đừng ở lại khi con cháu cắp sách đến trường, mà suốt cả một đời, dù sau đó trưởng thành cưới vợ gả chồng hoặc ra riêng…

Vai tṛ gia đ́nh không thể chối bỏ trong cuộc sống con người, v́ đây chính là tổ ấm t́nh thương, nơi đó, dù trong hoàn cảnh nào, con người cũng t́m thấy tấm ḷng bao la của cha mẹ, đùm bọc thiết tha của anh em máu mủ.

Gia đ́nh c̣n là nơi đào tạo, là đơn vị căn bản sản xuất thành phần tốt và hữu ích cho xă hội. Cũng chính tại đây đạo đức, t́nh người, lối xử thế, trách nhiệm với gia đ́nh, xă hội cũng như tổ quốc được ông bà cha mẹ gieo vào đầu con cháu kể từ lúc chập chững tập đi và bập bẹ học nói. (Sài G̣n trong tôi/ Đinh Lâm Thanh)

Đến lúc con cháu khôn lớn, vai tṛ gia đ́nh trở nên môi trường hướng dẫn khuyến khích con cháu theo con đường hướng thiện hoặc sẽ biến thành rào cản để ngăn chận những sai lầm mà con cháu vấp phải.

Đó là thiên chức của ông bà cha mẹ đă thể hiện dưới các chế độ tự do với một nền văn hóa nhân bản. Nhưng, kể từ ngày bọn cộng phỉ bắc việt xâm lăng, ăn cướp Miền Nam và ‘thống nhất’ đất nước xong, phỉ quyền Hà Nội chủ trương thuyết ‘tam vô’, trong đó có âm mưu thâm độc, đê hèn xóa bỏ vai tṛ giáo dục của gia đ́nh để ‘nhà nước quản lư’ thế hệ trẻ bằng những h́nh thức phản giáo dục được phát xuất từ những thành phần mọi rợ vô học từ rừng rú, hang hốc chui ra.

Kết quả cuộc cách mạng văn hóa của bọn cộng phỈ bắc việt đă đem lại cho xă hội Việt Nam những sự thật mà cả thế giới tự do đều sửng sốt: Đạo đức gia đ́nh biến mất, trật tự xă hội đảo lộn, bản chất con người thay đổi từ hiền lành, nhân hậu, khoan dung và trở thành hung dữ, vô cảm, ích kỷ, gian xảo từng miếng ăn đối với người thân trong gia đ́nh ḍng họ, bạn bè.

Một xă hội vô đạo lư, thiếu nhân tâm, không t́nh người, ở nơi đó, nấc thang đánh giá con người là vật chất giả tạo, tiền bạc phi pháp và quyền lực bất chánh.

‘Trung-Hiếu-Lễ-Nghĩa’ và ‘Công-Dung-Ngôn-Hạnh’ là những bài học căn bản đầu tiên mà ông bà cha mẹ ngày đêm ân cần dạy dỗ khuyên bảo con cháu ngày trước. Nhưng nay dưới chế độ cộng sản, tiếc thay, không bao giờ nghe nói đến các chữ nầy…để rồi một số lớn thanh niên nam nữ sinh và lớn lên sau năm 1975 được xếp vào loại thiếu giáo dục gia đ́nh, họ trở nên những phần tử ngỗ nghịch trong nhà và cặn bă xă hội ngoài đời:

Trong nhà chống lại cha mẹ anh em, ra đường cướp của giết người. Đó là thiếu đạo đức căn bản của con người mà gia đ́nh chính là môi trường huấn luyện tối cần thiết cho giới trẻ.

Học đường là nơi đào tạo con người trở nên hữu ích cho xă hội: Học đường, nơi đào tạo con người trở thành hữu dụng, phát triển trí óc để phục vụ bản thân, gia đ́nh cũng như xă hội. Một người sống ở thành phố, nhất là các xứ tự do, ít ra cũng mất năm sáu năm để bước qua ngưỡng cửa tiểu học, bảy năm trung học và khoảng chừng 6, 7 năm đại học…tính ra thời gian đến trường đă chiếm một phần ba đời người.

Đây là mốc thời gian dài và quan trọng để học làm người và chính môi trường học đường đă ảnh hưởng rất quan trọng trong đời sống con người. Nếu môi trường tốt, bạn học tốt, giáo viên, giáo sư tốt có đạo đức th́ học đường sẽ cung cấp một số công dân tốt cho xă hội. Thực tế người ta có thể đánh giá một người khi biết họ xuất thân tốt nghiệp ở trường nào.

Điều nầy đă được chứng minh, khi một sinh viên vừa nhận vào học tại những trường nổi tiếng thế giới th́ đă có những cơ quan đề nghị kư hợp đồng và yểm trợ tài chánh hàng tháng. Việc làm của họ không ngoài mục đích đầu tư chất xám đối với thành phần trẻ thông minh xuất chúng sau nầy.

Học đường là nơi không những đào tạo con người về học vấn mà c̣n một môi trường rộng lớn huấn luyện và phát triển văn hóa rất quan trọng. Cô thầy, giáo sư với thiên chức của người dạy học, họ phải đủ khả năng, đạo đức và tinh thần trách nhiệm trong viện đào tạo thế hệ trẻ. (Sài G̣n trong tôi/ Đinh Lâm Thanh)

Gần hai mươi năm trên ghế nhà trường con người đă chịu ảnh hưởng rất nhiều môi trường học đường. Nếu trở thành người tốt th́ thật hữu ích cho xă hội, nhưng nếu không may mắn, gặp ai đó đó lợi dụng học đường làm bàn đạp cho mưu đồ bất chánh th́ họ trở nên lưu manh và gian ác gấp trăm ngàn lần một người dân b́nh thường ít học khác.

Vậy với điều kiện nào để học đường trở nên một môi trường đào tạo tốt ? Trước tiên, chính sách giáo dục của nhà nước, phải nhắm vào việc đào tạo thành phần trẻ để họ trở thành những công dân tốt, đồng thời tạo điều kiện cho cơ quan trường sở, thầy cô đầy đủ khả năng và phương tiện để chú tâm vào việc giáo dục.

Thứ đến, chính phủ phải có chương tŕnh giúp gia đ́nh người dân đủ khả năng cho con cháu đến trường. Tại các nước văn minh Âu-Mỹ, việc học hành của lớp trẻ hoàn toàn miễn phí.

Ngoài ra, chính phủ c̣n giúp cung cấp học bổng cho những gia đ́nh với mức lợi tức trung b́nh đồng thời trợ giúp một phần sách vở áo quần cho con em thuộc gia đ́nh có lợi tức thấp hầu giải quyến vấn đề học hành cho con cái họ.

Trở lại vấn đề giáo dục dưới chế độ cộng sản, từ những ngày đầu, vùng nào bị nhuộm đỏ, cha mẹ đều bị tập trung vào nhà máy, ông bà ra đồng cày cuốc. Con cháu giao cho thành phần giáo viên từ nhà trẻ, mẫu giáo lên đến trung đại học dạy dỗ.

Điều cần phải nói ra, một số giáo viên dưới chế độ cộng sản muốn sống th́ phải tự biến ḿnh thành những con vẹt, hót một chiều theo các chương tŕnh giáo dục ‘đỉnh cao trí loài người’, là giáo điều khuôn vàng thước ngọc do những tên mọi rợ vô học từ rừng rú chui ra, đă không văn hóa, lại thiếu đạo đức mang về từ lũ quan thầy cộng sản Nga-Tàu …th́ tương lai của dân tộc sẽ đi về đâu ?

Số c̣n lại, dù vẫn c̣n một chút ít thiên chức nhà giáo nhưng đời sống kinh tế một giáo viên của thiên đường xă hội chủ nghĩa; cơm ăn không đủ no, áo quần chỉ một bộ, cuốn tập cây viết cục phấn phải xử dụng đúng chỉ tiêu, th́ chỉ c̣n cách đến trường ca bài con vẹt cho xong giờ. (Sài G̣n trong tôi/ Đinh Lâm Thanh)

Xong lớp học, cô thầy phải chạy đôn cháy đáo làm nghề tay trái kiếm tiền sống qua ngày. Giáo viên, giáo sư chẳng c̣n giờ đâu soạn, giảng và chấm bài cho học sinh, nếu dụ được học sinh nào đem về nhà dạy kèm th́ phải cho điểm thật cao trong mỗi lần kiểm bài định kỳ hoặc thi lên lớp !

Đó chưa nói đến thành phần giáo sư ‘nhảy vọt’ do ‘đỉnh cao trí tuệ’ đào tạo mà khả năng sư phạm đôi lúc chỉ bằng hoặc thấp hơn tŕnh độ học tṛ. Như vậy việc giáo dục dưới chế độ cộng sản chỉ là một h́nh thức phô trương của một tập đoàn thiếu văn hóa và thiếu nhân cách.

Gần đây thế giới c̣n khám phá được những chuyện động trời của nền giáo dục do nhà nước Việt Nam ‘quản lư’ : Trường học trở thành ổ bán dâm mà hiệu trưởng chính là ma cô chủ động bán dâm nữ sinh của trường cho các quan thầy đầu tỉnh. Trong lúc đó, các chương tŕnh giáo dục mà học sinh tốt nghiệp cấp 2 (tú tài) trong nước không làm nổi một bài luận văn ngoài những câu sáo ngữ ca tụng chế độ như một con vẹt !

Người Việt hải ngoại đă bật ngửa ra đọc được các đề tài luận văn thi tú tài của bộ giáo dục trong nước, đề tài thi vừa ngu, vừa dốt, vừa bôi bác nền văn học cổ truyền. Trong lúc đó, thí sinh vừa ngây thơ vừa kém cỏi làm bài thi một chiều theo cái loa tuyên truyền dối trá của cộng sản !

Thật vậy, ngay từ lúc vừa bước chân vào vườn trẻ và mẫu giáo, trẻ con phải học bài đầu tiên là nói láo trắng trợn do bộ giáo dục soạn ra chung quanh huyền thoại của đảng, ‘cha già dân tộc’, chiến thắng thần thánh của quân đội nhân dân và thành quả tốt đẹp của xă hội chủ nghĩa.

Tiếp đến là bài căm thù chế độ tư bản tự do và Việt Nam Cộng Ḥa. Phỉ quyền Hà Nội hèn hạ, lố bịch và trâng tráo ngụy tạo và bịa đặt ra những h́nh ảnh xấu xa cũng như tội ác chiến tranh của thành phần Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Ḥa ngày trước với mục đích gây căm phẩn để cấy vào đầu óc non dại trẻ thơ những h́nh ảnh sặc mùi máu, căm thù, chém giết giữa đồng loại là người Việt da vàng máu đỏ với nhau.

Lớn lên một chút nữa, chương tŕnh nhồi sọ cái lư thuyết giẻ rách rẻ tiền của phỉ quyền Hà Nội và huấn luyện cho tuổi trẻ một nền văn hóa đỏ, tức là văn hóa cộng sản để chuẩn bị chương tŕnh phục vụ cho chúng sau nầy. Chưa có một chế độ thối nát nào trên quả đất nầy mà bài thi lên lớp, lấy bằng cấp cũng như lúc ra trường mà điểm chính trị chiếm một hệ số quan trọng !

Văn hóa, trí tuệ và khả năng tuổi trẻ không bằng một góc những bài thuộc ḷng ngây ngô dốt nát mà đảng cộng sản đem ra để ‘ngu muội hóa’ người dân. Như vậy khi vào đời, kết quả vốn liếng của những năm miệt mài trên ghế nhà trường được lớp trẻ xử dụng như một cái loa để tuyên truyền cho chế độ.

Kết quả của học đường dưới chế độ cộng sản đối với thành phần con ông cháu cha th́ chúng chỉ cần học lấy vài ba chữ để tiếp tục nắm quyền lănh đạo. Đại đa số thành phần thứ dân c̣n lại, mục tiêu của đảng nhằm biến thành những con thiêu thân để phục vụ theo lệnh của đảng. (Sài G̣n trong tôi/ Đinh Lâm Thanh)

Xă hội đóng vai tṛ quan trọng trong việc giáo dục bổ túc cho suốt đời sống của con người : Đây là chuổi thời gian thật dài, thật rộng lớn và bao quát mà thầy dạy th́ gồm đủ hạng người. Bài học ngoài đời, dù tốt hay xấu, con người không cần gấp rút thuộc ḷng, không có bài làm kiểm soát…nhưng những h́nh ảnh cũng như hoạt động thường nhật chung quanh sẽ xâm nhập ngấm ngầm vào tim óc, và một lúc nào đó sẽ bộc phát ra.

Có thể hiểu một cách đơn giản, kẻ ở nhà chùa có thể trở thành người tốt. Ngược lại, một ai rơi vào động bán trôn nuôi miệng, nếu con gái sẽ thành đĩ điếm và con trai th́ sớm muộn ǵ cũng trở nên ma cô rước mối dẫn đường.

Từ đó có thể suy ra, con cháu của những gia đ́nh có căn bản đạo đức th́ thường được giáo dục chu đáo và sẽ trở thành người tốt của xă hội. Người xưa thường nói ‘Ở bầu th́ tṛn, ở ống th́ dài’, vậy, trong một xă hội tự do văn minh đạo đức, tội phạm thường ít xảy ra v́ con người có văn hóa, biết tôn trọng, thương yêu đùm bọc lẫn nhau, đồng thời biết bổn phận đối với bản thân gia đ́nh cũng như xă hội.

Thật vậy, những hoạt cảnh xă hội là môi trường giáo dục không cần trường lớp, bài vở nhưng thật hiệu nghiệm bởi những h́nh ảnh xấu xa ăn sâu vào trí óc con người và sẽ thay đổi suy nghĩ, tâm trạng và thái độ của các thành phần trong xă hội, nhất là những người thiếu căn bản giáo dục gia đ́nh cũng như của trường học.

T́nh trạng đạo đức suy đồi và băng hoại của xă hội Việt Nam dưới chế độ cộng sản ngày nay chính là đề tài viết không bao giờ chấm dứt. Trước hết phải ghi nhận rằng Việt Nam hiện giờ là một xă hội quái đản do lũ mọi rợ nón cối dép râu ‘đỉnh cao trí tuệ loài người’ và cái ‘nôi văn hóa của nhân loại’ tạo ra. Quái đản v́ xă hội chỉ biết tạo ra những phương tiện tiêu thụ nhằm thỏa măn nhu cầu tầm thường của con người, từ h́nh thức ăn uống đến nhục dục chăn gối.

Trong nhà, ngoài đường công sở…ở đâu cũng nghe nói đến ‘ăn’, ‘ôm’ và ‘chơi bời’ và tiền bạc. Như vậy, cả một dân tộc, nhất là thành phần trẻ dưới chế độ cộng sản chỉ biết nhắm mắt lao ḿnh vào lạc thú th́ tương lai đất nước sẽ đi về đâu ? Thủ phạm chính của âm mưu đầu độc dân tộc chính là bè lũ đảng cướp cộng phỉ bắc việt.

Hăy đọc kỹ những gịng sau đây của bộ chính trị trung ương đảng cộng sản VN về âm mưu đầu độc thế hệ trẻ: (Trích) Chúng ta đă tạo ra một thế hệ trẻ thờ ơ vô cảm với tất cả các loại tư tưởng và ư thức hệ, chai sạn với lư tưởng và hoài băo mà thanh niên thường có, trở nên thực dụng và ích kỷ hơn bao giờ hết (hết trích).

Và (trích) thế hệ trẻ hôm nay ngoài các đức tính thực dụng và tinh thần chụp giật, cũng như niềm tự hào khao khát tiền bạc, công danh, ám ảnh bởi chủ nghĩa hưởng thụ, th́ chỉ c̣n le lói trong máu huyết của mỗi người Việt (hết trích).

Đảng cộng phỉ bắc việt kết luận (trích) Chúng ta đă thành công trong việc làm cho sinh viên trở nên lănh cảm về các loại ư thức hệ, thờ ơ với những tư tưởng tự do khai phóng từ Tây Phương. Chúng ta chỉ c̣n đối phó với tinh thần dân tộc của sinh viên đang có nguy cơ thức dậy, mục đích là để nó ngủ yên, nếu không, phải lèo lái nó theo hướng có lợi cho chúng ta (hết trích). (Sài G̣n trong tôi/ Đinh Lâm Thanh)

Trên đây xin trích dẫn vài gịng trong hồ sơ của trung ương bộ chính trị đảng cộng sản để chứng minh rằng đảng đă dùng tất cả phương tiện nhằm vô hiệu hóa sự hiếu học, ḷng nhiệt t́nh và tinh thần yêu nước của giới trẻ.

Như vậy, chính đảng cộng sản đă tạo ra một xă hội mà ở đó, sức mạnh đồng tiền và hưởng thụ thể xác được xem như mục đích để khuyến dụ và huấn luyện nhằm biến con người thành những khối thịt vô tri vô giác và vô cảm, để sau đó, những khối thịt biết đi nầy sẽ tự động hủy diệt theo đà tiến triển văn minh thế giới.

Trường đời không thầy, không sách nhưng những bài học thực tế được lập lại nhiều lần rồi xâm nhập vào trí óc con người rất nhẹ nhàng và hiệu nghiệm. Chúng ta không ngạc nhiên khi vài câu chưởi thề vô giáo dục thường xử dụng ngoài đường, sau đó lại được phát ra một cách tự nhiên từ miệng của những người có căn bản giáo dục và ngay với những người lănh đạo tôn giáo.

Sống dưới một xă hội như vậy, trước sau ǵ những h́nh ảnh và hành động đánh giá thiếu văn minh nầy, dù khó tính đến đâu, nhưng với thời gian, những người học thức, có đạo đức cũng từ từ bị xâm nhập một cách dễ dàng.

Hơn nữa h́nh ảnh đâm chém ghê rợn, hiếp dâm, giết người cướp của xảy ra thường xuyên giữa ban ngày dưới chế độ cộng sản, ngày nay cũng không c̣n là h́nh ảnh khó chịu, chướng mắt, lạ lùng và vô nhân đạo đối với người dân. Việt Nam đă quá quen thuộc với lối sống nầy hàng chục năm qua.

Từ đó, t́nh người, đạo lư, nhân cách đối xử với nhau trong xă hội đă nhường chỗ cho dối trá, tàn bạo của những người vô văn hóa nhân bản và thiếu giáo dục gia đ́nh đang cai trị đất nước.

Ngày nay du khách ghé qua Hà Nội không bao giờ t́m được những h́nh ảnh đẹp, quyến rũ của một thành phố ngàn năm văn hóa ngày trước. Trước mắt họ toàn cảnh lật lọng, tráo trở, lừa đảo, chụp giựt ngay giữa đường phố, trong tai họ toàn những lời chưởi thề tục tĩu phát ra từ miệng trẻ con cho đến người già cũng như từ giới b́nh dân đến thành phần có học.

Đây chỉ là một h́nh ảnh nhỏ, ghi nhận tại trung tâm thủ đô cộng sản mà chúng thường huênh hoang lố bịch gọi là “cái nôi của nhân loại” và “đỉnh cao trí tuệ loài người”. Vậy đi ra thủ đô vài trăm thước th́ hoạt cảnh đời sống văn hóa người dân c̣n tồi tệ đến thế nào nữa? Đó là kết quả một cuộc ‘giải phóng’ vĩ đại và cai trị ‘anh minh’ của những người vô học chỉ biết dùng kẽm gai nhà tù súng đạn để đàn áp người dân.

Kết luận, muốn được giáo dục một cách toàn hảo, con người cần phải trải qua ba môi trường từ gia đ́nh, học đường đến xă hội. Tuy rằng mỗi môi trường thích hợp cho một thời điểm khác biệt, nhưng vẫn luôn luôn bổ túc cho nhau.

Đời sống con người như một chiếc máy thu h́nh, luôn luôn tiếp nhận bất cứ một yếu tố xấu tốt nào từ lúc chào đời cho đến khi nhắm mắt. Nếu một h́nh ảnh xấu được tiếp nhận, dù ở môi trường hay tuổi tác nào cũng sẽ ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống, và một ngày nào đó, nếu không được trang bị một hành trang nhân bản đạo đức th́ h́nh ảnh nầy sẽ biến thành hành động.

Tại các quốc gia văn minh tiến bộ và có một nền văn hóa nhân bản th́ vấn đề giáo dục con người đều đạt được thành quả tối đa, trong đó, gia đ́nh là căn bản của đạo lư, học đường là nơi đào tạo khả năng trí tuệ và xă hội là môi trường để hoàn chỉnh con người.

Trở về với hoàn cảnh hiện tại trong nước, tại sao xă hội Việt nam trở thành băng hoại, sa đọa, xảo trá tràn lan, t́nh người biến mất, đạo lư không c̣n ….đó chẳng qua là thành quả một nền giáo dục của thành phần hoàn toàn không có văn hoá lại đi làm văn hóa !

Vậy muốn đánh giá văn minh văn hóa của Việt Nam dưới chế độ cộng sản hiện giờ, dĩ nhiên không thể căn cứ vào đời sống xa hoa chụp giựt và phương tiện sinh hoạt, du hí của một bầy mọi rợ từ rừng rú chui ra tập thói ăn chơi sa đọa để rút ngắn giai đoạn ‘từ vượn lên người’.

Chỉ cần nh́n qua một vài khía cạnh thô sơ để đánh giá kiến thức căn bản của người dân: Họ có được nhà nước dạy dỗ để biết tôn trọng đời sống vật chất cũng như tinh thần của kẻ khác ? Có biết tự giác tôn trọng của công và tài sản quốc gia ? Có biết tuân hành an ninh trật tự chung cũng như ǵn giữ vệ sinh nơi công cộng ? Hay là từ trên xuống dưới chỉ biết giành giật, chôm chĩa, lừa đảo, trộm cắp, đổ rác nước thải ra đường, và đứng đâu th́ tiểu tiện tại đó…

Đây chỉ những hoạt cảnh b́nh thường và xảy ra hằng ngày mà chính gia đ́nh bọn cán bộ đảng viên cộng sản là thủ phạm, tạo gương xấu cho người dân th́ nhà nước nên im miệng, đừng rêu rao ‘thiên đường xă hội chủ nghĩa Việt Nam’ là ‘đỉnh cao trí tuệ loài người’ và ‘cái nôi của nhân loại’ ! Nghe thật xấu hổ và nhục nhă lắm !
Đinh Lâm Thanh
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Reply

User Tag List


Phim Bộ Videos PC6

 
iPad Tablet Menu

HOME

Breaking News

VN News

VietOversea

World News

Business News

Other News

History

Car News

Computer News

Game News

USA News

Mobile News

Music News

Movies News

Sport News

DEM

GOP

Phim Bộ

Phim Lẻ

Ca Nhạc

Thơ Ca

Help Me

Sport Live

Stranger Stories

Comedy Stories

Cooking Chat

Nice Pictures

Fashion

School

Travelling

Funny Videos

NEWS 24h

HOT 3 Days

NEWS 3 Days

HOT 7 Days

NEWS 7 Days

HOT 30 Days

NEWS 30 Days

Member News

Tin Sôi Nổi Nhất 24h Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 3 Ngày Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 7 Ngày Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 14 Ngày Qua

Tin Sôi Nổi Nhất 30 Ngày Qua
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.


All times are GMT. The time now is 15:12.
VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2006 - 2025
User Alert System provided by Advanced User Tagging (Pro) - vBulletin Mods & Addons Copyright © 2025 DragonByte Technologies Ltd.
Log Out Unregistered

Page generated in 0.63861 seconds with 12 queries