Lợi dụng vai tṛ y tá ở khoa nhi, Beverley Allitt tiêm lượng lớn insulin hoặc tiêm không khí vào mạch 13 đứa trẻ, khiến 4 em tử vong.
Beverley Allitt sinh năm 1968 tại thị trấn Grantham, hạt Lincolnshire. Ngay khi c̣n nhỏ, Beverley đă thể hiện một số hành vi bất thường, như tự băng bó những vết thương không tồn tại, được chẩn đoán mắc hội chứng Munchausen (rối loạn giả bệnh).
Suốt thời thơ ấu, Beverley t́m kiếm sự chú ư từ người khác, đ̣i hỏi được các bác sĩ tại nhiều bệnh viện chăm sóc. Một lần, cô ta khăng khăng đ̣i cắt bỏ ruột thừa, dù hoàn toàn khỏe mạnh. Quá tŕnh phục hồi sau phẫu thuật liên tục bị cản trở v́ Beverley luôn động chạm vết mổ theo kiểu tự hại.
Khi không nhận được sự chú ư như mong muốn, hành vi tự hại của Beverley bắt đầu chuyển hướng sang người khác. Thật không may, đây lại là thời điểm cô ta quyết định trở thành y tá.
Bất chấp những hành vi điên rồ và thường xuyên bỏ khóa đào tạo y tá, nhiều lần trượt kỳ thi, Beverley vẫn được kư hợp đồng sáu tháng tại Bệnh viện Grantham và Kesteven ở Lincolnshire vào năm 1991. Việc tuyển dụng Beverly được cho là do cơ sở này thiếu nhân viên từ lâu.
Beverley được chỉ định làm việc tại Khoa nhi 4. Nơi này chỉ có hai y tá khác, một người làm ca ngày, một người làm ca đêm. V́ thế, tội ác của Beverley đă không bị phát hiện trong thời gian dài.

Beverley Allitt chăm sóc bé sơ sinh trong bộ đồng phục y tá. Ảnh: News Group/Sun
Chuỗi sự cố bất thường ở khoa nhi
Ngày 21/2/1991, cậu bé Liam Taylor bảy tháng tuổi được đưa vào Khoa nhi 4 v́ nhiễm trùng ngực. Beverley đảm bảo rằng cậu bé đang được chăm sóc tận t́nh, khuyên cha mẹ Liam về nhà. Tối đó, đứa trẻ phải cấp cứu do gặp vấn đề về hô hấp.
Tối hôm sau, Liam lại phải cấp cứu, t́nh trạng xấu đi nhanh chóng với những đốm đỏ phủ kín mặt, rồi bị ngừng tim. Cậu bé sống sót nhờ thiết bị hỗ trợ sự sống, nhưng bị tổn thương năo nghiêm trọng. Bố mẹ Liam nén đau, quyết định rút ống thở.
Hai tuần sau, bệnh nhân bại năo 11 tuổi Timothy Hardwick được chuyển đến Khoa nhi 4 sau khi lên cơn động kinh. Beverley chịu trách nhiệm chăm sóc cho cậu bé. Một lần nữa, bệnh nhân của cô ta gặp vấn đề về hô hấp. Timothy được phát hiện không có mạch đập, người tái xanh và không qua khỏi.
Kayley Desmond, 1 tuổi, được chuyển đến Khoa nhi 4 vào ngày 3/3/1991, bị nhiễm trùng ngực. Dù có vẻ đang hồi phục tốt, Kayley bị ngừng tim năm ngày sau đó, cũng dưới sự chăm sóc của Beverley. Cô bé được cấp cứu thành công và chuyển đến bệnh viện khác gần đó. Bác sĩ tại đây phát hiện một lỗ kim đâm dưới nách Kayley và có bong bóng khí lớn. Tuy nhiên, nó được nhận định là một mũi tiêm vô t́nh.
Paul Crampton, bệnh nhân năm tháng tuổi bị nhiễm trùng phế quản, là nạn nhân thứ tư. Cậu bé bị sốc insulin vào ngày 20/3/1991 và đă ở bờ vực hôn mê ba lần, lần nào cũng được cứu sống nhưng các bác sĩ không thể hiểu nổi mức insulin cao của Paul. Beverley đưa cậu bé đến một bệnh viện khác ở Nottingham. Khi đến nơi, mức insulin của Paul lại bất thường nghiêm trọng. Cậu bé may mắn sống sót.
Bradley Gibson, bệnh nhân 5 tuổi bị viêm phổi, cũng được cứu sống sau khi ngừng tim với mức insulin cao. Được Beverley chăm sóc vào đêm đó, Bradley đột nhiên lên cơn đau tim lần nữa. Cậu bé được chuyển đến một bệnh viện khác và hồi phục tốt.
Dù tất cả sự cố đều có điểm chung là sự hiện diện và chăm sóc của Beverley, dường như không ai để ư hoặc nghĩ đến khả năng phạm tội.
Katie và Becky Phillips, cặp song sinh 2 tháng tuổi, được giữ lại bệnh viện để theo dơi do sinh non. Beverley chăm sóc Becky khi cô bé bị viêm dạ dày ruột vào ngày 1/4/1991. Hai ngày sau, nữ y tá nói rằng Becky có thể bị hạ đường huyết, nhưng không có ǵ đáng ngại. Đứa trẻ sơ sinh được đưa về nhà với mẹ. Đêm đó, cô bé co giật, khóc và qua đời.
Trong khi đó, bé Katie vẫn được Beverley chăm sóc. Một lần nữa, các vấn đề về hô hấp lại xảy ra. Dù cấp cứu thành công, phổi của cô bé bị xẹp. Khi được chuyển đến bệnh viện ở Nottingham, bác sĩ phát hiện năm xương sườn của Katie bị găy và bị tổn thương năo nghiêm trọng.
Tuy nhiên, mẹ Katie vô cùng biết ơn Beverley v́ tưởng cô ta đă cứu mạng con gái ḿnh, thậm chí đề nghị nữ y tá trở thành mẹ đỡ đầu của Katie. Beverley chấp thuận, dù gây ra chứng liệt một phần, bại năo, tổn thương thị lực và thính lực cho Katie.
'Thiên sứ tử thần' lộ diện
Sau các sự cố liên tiếp xảy ra trên những bệnh nhân vốn khỏe mạnh khác, Beverley bắt đầu bị nghi ngờ. Khi Claire Peck, 15 tháng tuổi, qua đời v́ cơn đau tim vào ngày 22/4/1991, một bác sĩ lo ngại về tỷ lệ tử vong cao kỳ lạ trong hai tháng qua nên yêu cầu mở cuộc điều tra chính thức.
18 ngày sau, các xét nghiệm phát hiện nồng độ kali bất thường trong máu của Claire. Vụ việc được tŕnh báo cảnh sát. Thi thể cô bé được khai quật để khám nghiệm tử thi. Lidocain - chất thường dùng để hỗ trợ bệnh nhân trưởng thành trong trường hợp ngừng tim - được t́m thấy trong cơ thể Claire.
Cảnh sát điều tra các sự cố kỳ lạ khác và phát hiện điểm chung rơ ràng: nồng độ insulin cao. Họ phát hiện Beverley từng báo cáo ch́a khóa tủ lạnh lưu trữ insulin đă bị mất. Những hồ sơ y tá ghi lại ngày tháng của chuỗi sự cố đáng ngờ cũng biến mất.
Beverley bị xác định là nghi phạm chính. Tháng 11/1991, cảnh sát bắt cô ta v́ tin rằng đă có đủ bằng chứng vững chắc để buộc tội giết người.

Beverley Allitt rời ṭa án năm 1991. Ảnh: Rex
Beverley tỏ ra khá thoải mái trong quá tŕnh thẩm vấn. Cô ta khẳng định chỉ cố giúp đỡ những đứa trẻ. Khi khám xét nhà Beverley, cảnh sát phát hiện một số hồ sơ y tá bị mất trước đó.
T́m hiểu về quá khứ của Beverley, nhà chức trách nhận ra nguồn cơn tội ác của cô ta có thể là hội chứng Munchausen - rối loạn giả bệnh lên người khác để thu hút sự chú ư.
Beverley từ chối thừa nhận tội ác, sau nhiều lần thăm khám và đánh giá của các nhà tâm lư học trong khi bị giam giữ. Cô ta bị buộc tội với bốn tội danh giết người, 11 tội danh mưu sát và 11 tội danh gây thương tích nghiêm trọng. Hành vi tội ác diễn ra trong 59 ngày, kéo dài từ mùa đông đến mùa xuân năm 1991.
Kẻ nguy hiểm cần cách ly khỏi xă hội
Trong khi chờ xét xử, Beverley sụt hơn 30 kg v́ mắc chứng chán ăn. Những căn bệnh tâm lư khiến phiên ṭa bị tŕ hoăn cho đến ngày 15/2/1993.
Trước ṭa, công tố viên chứng minh rằng Beverley hiện diện trong mỗi sự cố bất thường. Tất cả bằng chứng về mức insulin và kali cao, nhiều mũi tiêm và vết tiêm khác nhau được tŕnh lên ṭa án. Beverley bị cáo buộc đă làm nghẹt thở hoặc tác động đến thiết bị y tế khiến một số nạn nhân gặp vấn đề hô hấp.
Giáo sư Roy Meadow, chuyên gia nhi khoa, làm chứng rằng hội chứng Munchausen cực kỳ rơ ràng ở Beverley. Ông tin rằng cô ta không thể được chữa khỏi v́ bệnh đă phát triển và tồn tại quá lâu, v́ thế cần phải bị cách ly khỏi xă hội để bảo vệ những người khác.
Ngày 23/5/1993, Beverley bị kết tội giết bốn trẻ em, cố giết ba trẻ khác và gây thương tích nghiêm trọng cho sáu trẻ khác. Ṭa Đại h́nh Nottingham tuyên 13 án tù chung thân - mức án chung thân nhiều nhất từng được tuyên cho một phụ nữ.
Gọi Beverley là "mối nguy hiểm nghiêm trọng" với người khác, thẩm phán cho rằng đó là h́nh phạt công bằng cho những hành vi tàn ác khủng khiếp mà cô ta đă gây ra.
Beverley thụ án tại bệnh viện có an ninh cao, thay v́ một nhà tù thông thường. Tại đây, cô ta nuốt một chiếc cốc thủy tinh và đổ nước sôi vào tay. Trong thời gian giam giữ, Beverley đă thừa nhận ba vụ giết người và sáu vụ tấn công.
Truyền thông gọi Beverley là "Thiên sứ tử thần" - một trong những sát nhân hàng loạt khét tiếng nhất nước Anh. Bộ Nội vụ Anh phân loại Beverley là một trong số ít tội phạm không bao giờ được ân xá, do mức độ nghiêm trọng của tội ác.
VietBF@sưu tập