Xót xa thật, xót v́ những giá trị văn hóa của một tṛ chơi dân gian trẻ thơ không được bảo lưu mà c̣n bị hư tục hóa. Bảo sao, giới trẻ hôm nay cứ ngơ ngác trước trống Bỏi ngày Trung Thu là vậy!

Loại trống Bỏi thứ hai (Loại này giờ Trung Quốc làm nhiều)
1. Năm tuổi, theo cha đi phụ hồ ở làng Báo Đáp (Hồng Quang, Nam Trực, Nam Định), gặp cảnh người lớn ngồi nặn đất, nặn duy nhất chỉ một cái ṿng tṛn bằng lát khoai lang (đường kính khoảng 4cm) có cạnh dày (khoảng 8mm), ḷng đường tṛn khoét thủng, tạo nên cạnh đường tṛn khoảng 1cm, tôi ngơ ngác hỏi cha: “Sao người lớn c̣n nghịch đất?”. Cha cười: “Người ta nặn trống Bỏi đó con”.
Trống Bỏi làng Báo Đáp xưa.
Mười tuổi, tự tay nặn chiếc trống Bỏi đầu tiên, quay tiếng kêu ộp... ộp v́ mặt trống đắp bằng giấy mỏng. Nghe trống kêu mà buồn - buồn nỗi tiếng kêu chẳng giống trống Bỏi làng Báo Đáp!.
Mười lăm tuổi, nặn trống Bỏi đă kêu ṛn, kêu ră, quay liền mạch như tiếng ve mùa hạ, quay chậm lại như tiếng chăo chuộc đêm mưa bờ rậm, làn khoai, ao muống.
Mười sáu tuổi, tặng vội vă em bé nhà bên chiếc trống Bỏi, em phơi mưa dầm trống mục. Trống bỏi tan, t́nh thơ chớm lụi.
Hai mươi tuổi, đọc “Nếp cũ”, quyển “Trẻ em chơi” của Toan Ánh, giật ḿnh phần viết “trẻ em chơi Trung thu”, Toan Ánh không nói về trống Bỏi.
Hai lăm tuổi, gặp lại người làng Báo Đáp giữa Bảo tàng Dân tộc học, dịp Trung Thu. Người làng Báo Đáp duy nhất c̣n làm trống Bỏi, người duy nhất khiến đám trẻ tới Bảo tảng quây chặt, đứa nào đứa nầy đ̣i mua cho kỳ được cái thứ quay quay kêu toong… toong không ngớt, không nghỉ.
Vậy là mất dần, mất dần trống Bỏi. Chẳng thế sao người Bảo tàng mời "người duy nhất" ở làng Báo Đáp? Ôi! đă về với bảo tàng nghĩa là đang t́m cánh bảo tồn, bảo lưu rồi đấy. Xót quá, trống Bỏi ơi!
2. Hai mươi sáu tuổi, tôi quyết đi t́m chữ “BỎI” trong “TRỐNG BỎI”. Tra từ điển, từ điển lặng câm. Hỏi người đời, người đời cũng không biết, c̣n những người biết lại hiếm cơ hồ mà gặp. Tôi đă đi, đi t́m trong mải miết.
Nhi nam xưa và nay vẫn thế, mải chơi thường bị kiến vàng, ong… đốt ở chỗ kín khiến “cu nhỏ” bị sưng mọng, ngứa. Các cụ xưa liệt chứng bệnh này vào chứng bệnh “TẦM BỎI”. Thường chữa mẹo bằng cách giả vờ “gắp bỏ nồi cơm” khi nồi cơm đang sôi. Hoặc dùng cách thứ hai là xin một sợi rơm, sau đó dùng sợi rơm đo chiều dài “cu nhỏ” rồi gấp sợi rơm lại thành 7 lần (tương đương với 7 vía nam). Cuối cùng mang dao ra chặt sợi rơm là khỏi bệnh.
Chữ “BỎI” trong chứng bệnh “TẦM BỎI” kể trên là một từ cổ chỉ “cu nhỏ” của trẻ con. Nói rộng ra là những thứ nhỏ, thuộc về trẻ con.
BỎI có nghĩa là BÉ NHỎ.
Ở xă Quảng Phú Cầu, huyện Ứng Ḥa, Hà Nội có một thôn tên là BẦU BỎI. Các cụ trong thôn kể lại rằng, xưa thôn có hai g̣ đất cao. Một g̣ lớn gọi là BẦU, một g̣ nhỏ gọi là BỎI và khẳng định, chữ BẦU = Lớn, chữ BỎI= Bé.
Rồi lại đọc “KẺ CƯỚP BẾN BỎI” của Tô Hoài. Truyện lấy bối cảnh từ cuộc khởi nghĩa của Cao Bá Quát năm 1854, đă bị vua Tự Đức triều đ́nh Nguyễn d́m trong bể máu. Trong truyện có nhân vật Cơi. Sau khi chủ tướng họ Cao bị hành xử, Cơi đă tập hợp những người c̣n lại, tính kế trả thù và hành nghề ăn cướp, đội lốt những người bán dầu trên BẾN BỎI. Cơi chỉ chủ trương cướp của nhà giàu chia cho nhà nghèo. Rồi một lần Cơi bị bắt, bị chặt đứt hai gần bàn chân và được cứu đưa về chùa Xiền ở lại làm săi đến cuối đời.
BẾN BỎI tịch liêu trầm u, BẾN BỎI = Bé nhỏ, BẾN BỎI = tượng trưng cho một lớp người bé nhỏ gồng ḿnh thay đổi thời thế mà không thể…
Đến đây, th́ chắc tất cả đă hiểu, chữ “BỎI” mang những tầng nghĩa ǵ rồi.
3. Bây giờ hai mươi bảy tuổi. Chiều qua lên phố Hàng Mă, bỗng mừng ơi là mừng khi thấy nhiều trống Bỏi, dù không phải trống Bỏi làng Báo Đáp. Nhưng rồi lại buồn ơi là sầu khi gặp toàn bà già bán trống Bỏi, nép ḿnh bên ḷng đường, ngơ ngác giữa ḍng người, quay mỏi bàn tay giữa ḍng người… hờ hững.
Về nhà, tặng vài đứa em vừa đi qua tuổi teen, chúng cười ḍn tan khi nghe tiếng kêu ḍn tan của trống. Chúng hỏi tôi: “Sao lại gọi là trống Bỏi?; “Hóa ra có trống Bỏi thật à?”; “Em cứ tưởng… cứ tưởng?”.
Tôi biết, cái chúng “tưởng” là một cụm từ ngày nay rất phổ biến: “Chơi trống Bỏi”. Cái chúng tưởng là thói chơi “hồi xuân” mang tiếng hư của môt số trung niên, trung lăo đang bị xă hội lên án. Chúng nh́n trống, quay trống rồi nghĩ đi, nghĩ măi… chẳng ra. Chúng lại hỏi tôi: “Sao người ta gọi là “chơi trống Bỏi”?
Tôi miễn cưỡng giải thích. Có hai thứ trống Bỏi, một là trống nặn bằng đất, chỉ một mặt trống bọc giấy, tức cái trống chúng đang cầm. Hai là trống được làm bằng gỗ (bây giờ có cả nhựa), bọc kín hai mặt bằng da trâu (bây giờ bọc bằng nhiều loại), gắn chặt vào một cán cầm, thành trống buộc hai sợi dây, mỗi đầu sợi dây có buộc một hạt nhỏ. Cầm trống này quay, sợi dây vung ra đập vào hai mặt trống, tiếng kêu boong… boong.
Không biết có phải v́ tiếc cái dùi không c̣n dùng được nữa mà người ta đem cắm vào thân trống, biến nó thành tay cầm. H́nh thức cái trống Bỏi loại thứ hai này trông như một cái trống bẹt được cắm dùi. Lúc dựng thẳng lên quay, trống như một cô gái có hai bím tóc lắc đầu liên tục, kêu boong boong… boong boong… boong boong…mau mau, nhẹ nhẹ, đều đều, nghe rất vui tai.
Và phải chăng v́ thế trống Bỏi bị hư tục hóa, để người đời liên tưởng tới thói hư của đám trung niên, trung lăo kia?
Đám trẻ hôm nay, hờ hững đi qua trống Bỏi.
“Trẻ không chơi, già sinh đổ đốn”, cái thứ “đổ đốn” như kiểu đi “chơi trống Bỏi”? Xót xa thật, xót v́ những giá trị văn hóa của một tṛ chơi dân gian trẻ thơ không được bảo lưu mà c̣n bị hư tục hóa. Bảo sao, giới trẻ hôm nay cứ ngơ ngác trước trống Bỏi ngày Trung Thu là vậy!
( theo vtc )