Trong những ngày vất vả lang thang t́m người ăn đất ở thị trấn Lập Thạch (Vĩnh Phúc), tôi đă gặp một cặp vợ chồng, là hai cụ già gần 80 tuổi, sống trong ngôi nhà toàn bằng đất và món ăn hàng ngày của hai cụ là… đất. Hai cụ ăn đất nhiều đến nỗi, đă đục ruỗng cả bờ ao. Cả huyện Lập Thạch, đă nhiều năm nay, không c̣n ai ăn đất nữa, chỉ có hai cụ, vẫn nghiện đất như nghiện... ma túy

Cụ Loa nướng đất
Mấy năm trước, truyền h́nh, báo chí đưa tin ầm ĩ về chuyện ăn đất ở thị trấn Lập Thạch, khiến cả thế giới ngạc nhiên. Tuy nhiên, lần này trở lại, tôi được ông Nguyễn Công Tuấn, Phó chủ tịch UBND thị trấn Lập Thạch cung cấp thông tin: “Ngày trước báo chí, truyền h́nh dựng cảnh một vài cụ già ăn đất rồi quay, rồi chụp, rồi gây dư luận ầm ĩ, chứ thực ra, các cụ đă ngừng ăn đất 20 đến 30 năm nay rồi. Chả c̣n ai ăn đất nữa đâu”. Mặc dù tin lời ông Tuấn, song tôi trộm nghĩ, 20 năm trước, nơi đây có rất nhiều bà, nhiều chị ăn đất, đất ăn được bày bán như mớ rau mớ cá ngoài chợ, th́ dù tục ăn đất có mai một, cũng chưa thể hết ngay được. Do đó, tôi quyết định đi t́m cho bằng được một cụ già ăn đất ở xứ này.
Những người trẻ th́ không biết ǵ về tục ăn đất, thậm chí, hỏi chuyện ăn đất, thanh niên c̣n tṛn mắt ngạc nhiên, cứ như chuyện đó chỉ có ở thế giới khác, chứ không phải ở quanh họ. Chỉ có người lớn tuổi vẫn biết có tục ăn đất ở Lập Thạch. Tuy nhiên, hỏi c̣n ai ăn đất không, họ đều lắc đầu không biết. Các cụ già nghiện đất phần th́ đă cai từ vài chục năm nay, phần th́ đă… về với đất cả rồi. Cụ Nguyễn Thị Lạc, người được lên báo chí, truyền h́nh nhiều, cũng đă mất 3 năm trước, cụ Huệ nổi tiếng nghiện đất đă mất tṛn 10 năm…
Người dân chỉ tôi 3 ngọn đồi mà các cụ già ở Lập Thạch đào đất ăn từ hàng trăm năm nay, gồm đồi Công An (sở dĩ có tên gọi như vậy v́ nó nằm sau Công an huyện Lập Thạch), đồi Ḅ Vàng và đồi Vạng. Chỉ có 3 quả đồi này cho đất dày nhất, “ngon nhất”, “ngậy nhất”. Nơi khác cũng có đất ăn được, nhưng lẫn tạp chất, nhiều sạn, khó ăn. Tuy nhiên, đồi Công An đă bị san phẳng, nhà cửa mọc lên kín mít. Đồi Ḅ Vàng, nơi mà mấy chục năm trước, mỗi nhà trong xóm sở hữu một giếng đất sâu như hầm vàng, giờ cũng không c̣n cái giếng nào nữa. Người ta đă lấp lại kẻo trâu ḅ, thậm chí người qua lại sụt xuống hố chết bất đắc kỳ tử.
Ṿng vèo măi, rồi tôi cũng t́m thấy đồi Vạng, ở xóm Thống Nhất, trồi lên giữa cánh đồng. Mảnh đất đá sỏi gan trâu khô cằn đến nỗi bạch đàn c̣n xơ xác. Ông Đỗ Văn B́nh, trưởng thôn Thống Nhất, nhà ở cánh đồi Vạng một đoạn bảo: “Ngày trước, cả thôn Thống Nhất đào hầm, đào giếng ở đồi Vạng lấy đất ăn, đem bán. Nhưng giờ không ai lấy nữa. Khu đồi giờ thuộc sở hữu của cụ Loa. Không biết hai cụ c̣n đào đất, c̣n ăn đất nữa không. Nhưng hôm trước nghe vợ tôi kể, gặp cụ Biện, vợ cụ Loa ở chợ, thấy mép dính đất. Chắc cụ này vẫn c̣n ăn”. Nói rồi, ông B́nh dẫn tôi t́m đến nhà cụ Loa.
Ngôi nhà của hai cụ có tuổi độ vài chục năm, nhưng kiểu cách của nó th́ chắc cỡ mấy ngàn năm rồi! Hai cụ vẫn sống trong ngôi nhà tường tŕnh đất, loại nhà phổ biến từ thời… Đông Sơn. Ông B́nh bảo, con cháu hai cụ đều khá giả, có điều kiện, nhưng hai cụ nhất định không ở cùng, cứ ở với nhau trong căn nhà đất xập xệ. Thậm chí, đă mấy lần lănh đạo thị trấn động viên cụ phá nhà đất, rồi các cơ quan hỗ trợ xây cho cụ một ngôi nhà nhỏ, chắc chắn, song cụ cũng không đồng ư. Hai cụ bảo, hai cụ đă già, sắp chết rồi, xây nhà làm ǵ cho phí, tiền đó đem xây cho người khác.
Khi tôi vào nhà, cụ Khổng Thị Biện đang lọ mọ trong bếp, khói mù mịt, nóng hầm hập. Hỏi cụ đang làm ǵ, cụ Biện ngẩng lên, tay quệt mắt nḥe nhoẹt nước v́ ám khói bảo: “Bà đang nướng ngói (các cụ gọi loại đất ăn được bằng cái tên lịch sự là ngói). Hôm qua ông bà ăn hết rồi, nay nướng thêm để ăn. Ông bà nghiện cái món này rồi, ai bỏ được chứ ông bà th́ không bỏ được, chết mới hết ăn”. Tôi hỏi cụ Loa, cụ Biện ra sân chỉ tay về phía cái ao trước nhà. Tôi thấy một già, một trẻ đang lơm bơm dưới nước. Cái ao dưới chân đồi sâu hoắm, nhưng nước cạn sền sệt, chưa đến đầu gối. Đứa cháu dùng xà beng đâm bồm bộp vào bờ ao, nạy ra từng “tảng đá” trắng như vôi. Thằng cháu cứ nạy được “cục đá” nào, cụ Loa lại ḷng kḥng bê lên sân phơi, dưới cái nắng bỏng giăy. Tôi hỏi: “Cụ đào đá làm ǵ vậy?”. Cụ Loa bảo: “Đá là đá thế nào. Ông đào đất đấy. Đất này ăn được. Không tin hả? Ông bà ăn ruỗng cái bờ ao này rồi!”.
Cụ Khổng Văn Loa khệ nệ đặt cục đất lên sân phơi nắng rồi nói như súng liên thanh: “Ngày trước ông bà đào giếng ở đồi Vạng lấy đất chế biến, vừa ăn, vừa bán, nhưng giờ không ai ăn nữa, cũng chẳng ai mua, nên lấp hết giếng rồi. Con cái cấm ông bà ăn ngói, nhưng ông bà thèm lắm, cứ ăn giấu ăn giếm thôi. Hồi năm ngoái, mấy đứa con thuê máy xúc về khơi ao, ông thấy vỉa đất trắng lộ ra, nh́n thèm quá, không nhịn được, ông bà lại đào lên ăn. Mới hơn năm nay, ông bà đă xơi hết một góc bờ ao rồi”.
Vợ chồng cụ Loa đang xơi đất
Để chứng minh đất này ăn được, ngon là đằng khác, cụ Khổng Văn Loa lấy một cục đất to như cục gạch, đă phơi nắng từ hai hôm nay. Cụ dùng con dao rựa sắc, nhằm thớ đất nạy ra thành từng miếng nhỏ. Nạy không ra th́ cụ chém, bổ theo thớ. Cả khối đất gồm những miếng nhỏ độ vài ngón tay, bằng bao thuốc lá dính chặt vào nhau. Nạy ra từng miếng rồi, cụ Loa kỳ công đẽo gọt hết phần sạn (đất đen, tạp chất bám dính), chỉ lấy phần lơi trắng xóa như cục phấn, như miếng ruột sắn, ruột khoai lang.
Theo cụ Loa, có hai cách chế biến đất khá đơn giản. Cách thứ nhất, cho đất vào rổ, đặt lên bếp kiềng rồi châm lửa vào rơm… ẩm. Sau khi rơm cháy một cách khó nhọc, th́ lấy tro lấp lên lửa để tạo khói. Khói mù mịt bốc lên, quyện lấy những cục đất trong rổ độ 30 phút đến một tiếng đồng hồ, khi cục đất trắng xóa chuyển sang màu ám khói vàng nhạt, th́ ăn được. Chỉ cần hun khói một lần, có thể gói đất vào giấy báo, túi nilon ăn quanh năm suốt tháng. Thứ đất kỳ lạ này có tác dụng giữ mùi ám khói rất tốt và đặc biệt chính cái mùi ám khói đó đă tạo nên sự quyến rũ của đất. Vợ chồng cụ Loa và cụ Biện thường chỉ chế biến đất ăn bằng cách đơn giản như vậy. C̣n cách chế biến thứ 2, phức tạp hơn chút, nhưng đă thành nghệ thuật “ẩm thực đất” từ xưa ở vùng Lập Thạch. Sau khi tạo nguyên liệu đất, người ta đi bẻ cành tế và hái lá sim trên đồi, rồi vặt lá ổi trong vườn. Cành tế th́ khô, nhưng lá sim và lá ổi đều phải tươi nguyên, c̣n rỏ nhựa. Lá ổi và lá sim được rải xuống đáy rổ hoặc rá, đất xếp lên, rồi lại phủ tiếp lớp lá ổi và lá sim. Củi tế đốt không bắt lửa, nhưng cho nhiều khói. Khói quẩn lên rổ, quyện vào lá sim, lá ổi, bốc ra thứ mùi đặc trưng, rồi bị đất hút vào. Hun khói như vậy chừng một giờ th́ đất ngả màu vàng và thơm nức, nh́n chỉ muốn cắn.
Vợ chồng cụ Loa thi thoảng cũng làm món đất kiểu cầu kỳ như thế, nhưng chỉ làm cho người đặt mua. Nhưng người mua đất về ăn hầu như không c̣n nữa, người mua chủ yếu là người ṭ ṃ, mua về làm kỷ niệm, số ít nhà khoa học đặt cụ làm món đất để nghiên cứu. Hai cụ già đào bới xới tung cả bờ ao, rồi phơi đất kín sân, cạo đất cành cạnh, rồi đốt lửa lấy khói hun đất suốt mấy ngày trời mới làm được chừng một yến đất ăn, bán được một hai trăm ngàn. Nhưng theo hai cụ, càng ngày càng ít người mua đất. Cả năm may ra có vài người đến hỏi.
Cụ Khổng Văn Loa năm nay 78 tuổi, vợ là cụ Khổng Thị Biện, 79 tuổi. Hai cụ quê gốc ở Cao Phong, bên kia sông Lô, thuộc Phú Thọ. Hai cụ biết đến món đất này từ nhỏ, v́ bố mẹ, ông bà thường đi bộ hơn 20 cây số sang măi vùng Lập Thạch mua về ăn. Bố cụ đi cày, thường dắt lưng chiếc điếu cày, ấm trà xanh và gói đất. Cày cuốc mệt, nhấp chén trà, rít điếu thuốc lào, rồi nhai miếng đất là tỉnh cả người, làm việc không biết mệt. Theo cụ Loa, tục ăn đất có từ bao giờ, cha ông cụ cũng không rơ, nhưng từ năm 1945 th́ ăn nhiều hơn, khắp nơi ăn. Có thể do trận đói, người dân ăn đất cho quên đói, rồi bị nghiện luôn. C̣n cụ Biện th́ bảo, khi người đàn bà có bầu, trong người nóng nực, khó chịu, ăn miếng đất, vừa bùi ngậy lại mát ruột, cơ thể sảng khoái hẳn ra. Đẻ xong rồi, vẫn nhớ mùi vị của đất, nên cứ ăn măi, rồi nghiện đến già. Có lẽ, thứ đất chứa nhiều canxi này có tác dụng tốt với cơ thể bà chửa, nên chủ yếu đàn bà ăn đất, ít có đàn ông nghiện món này.
Cụ Loa bảo, không biết có phải duyên nợ với đất không, mà cách đây 50 năm, vợ chồng cụ đi khai hoang, lại định cư trên đúng kho đất ăn được, đó là đồi Vạng. Ngày đó, dân khắp Lập Thạch kéo về đồi Vạng, đ̣i Ḅ Vàng, đồi Công An để đào giếng khai thác đất ăn. Cụ Loa dẫn tôi lên đồi Vạng, cũng như những quả đồi khác, toàn đá sỏi gan trâu, chỉ có bạch đàn sống được. Trên khắp quả đồi rộng vài ha này, đâu đâu cũng thấy di tích của giếng đất. Mỗi miệng giếng có đường kính trên dưới một mét, sâu xuống ḷng đất th́ vô kể. Khi đào xuống đến độ sâu nhất định, hết vỉa đất, thiếu dưỡng khí, hoặc gặp nước, th́ người ta lại đào các ngách theo đường ngang. Các ngách chạy lung tung trong ḷng đồi, xuyên thủng nhau, tạo thành một hệ thống hang động chằng chịt dưới ḷng đất. Ngày đó, dựng nhà trên đồi Vạng, đúng mỏ đất, nên hai cụ sống khá giả bằng nghề chế biến đất ăn. Hàng ngày, cụ Loa xuống ḷng đất t́m đất trắng như công nhân ngành than khai mỏ, rồi hai vợ chồng x́ xụp nướng đất cả đêm, để sớm mai cụ Biện có mẹt đất to tướng bày bán ở chợ. Cái mẹt đất ấy đă nuôi mấy người con trưởng thành. Tuy nhiên, giờ trên đồi Vạng không c̣n giếng đất nào nữa, chỉ c̣n lại di tích nông choèn. Con cháu hai cụ đă lấp hết giếng đất, v́ sợ cụ trèo xuống, nhỡ sẩy chân ngă th́ khổ, rồi trẻ con nghịch ngợm, trâu ḅ sa chân rơi xuống th́ chỉ có chết.
Đang lang thang giữa trưa nắng trên đồi Vạng để nhớ lại những ngày nhà nhà đào đất, người người ăn đất, th́ cụ Biện gọi lớn. Tôi và cụ Loa t́m về ngôi nhà tŕnh đất ngay sườn đồi. Rổ đất trắng tinh sau khi hun khói đă chuyển sang màu hơi ngà. Hai cụ ngồi trên giường, cứ mỗi người một miếng, nhai sần sật, sồn sột. Bột từ miếng đất tan ra, dính trắng môi mép hai cụ. Vừa nhai, cụ Biện vừa bảo, bùi như hạt mít, béo ngậy như miếng gan lợn nướng, càng ăn càng ngon, càng ăn càng nghiện, nghiện đến rụng răng, đến khi về với đất mới thôi. Nh́n hai cụ già ngồi nhai đất, giữa ngôi nhà tường tŕnh đất, tôi có cảm giác như tổ tiên, ông bà ḿnh từ thuở hồng hoang hiện về từ măi thời các vua Hùng dựng nước, khi mà đất được coi trọng lắm, đến đám cưới đám hỏi cũng phải “lấy gói đất làm đầu”. Một cảm xúc như ở đâu xa lắm tràn đến, và tôi đă nhặt một miếng đất, hồn nhiên sồn sột nhai cùng hai cụ.
Ở Việt Nam, đặc biệt là trên Tây Bắc cũng có nhiều vùng người dân lấy đất đem về nướng ăn và coi đó như là một thứ “lương thực”. Thậm chí họ c̣n ngâm nước cho nhăo ra thành bùn, trộn thêm ḿ chính, muối, ớt… nướng vàng lên và ăn kèm… cơm. Năm 2006, trong chuyến đi lên xă X́n Thầu, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên. Chúng tôi đă thấy một số “mỏ đất thực phẩm” ven đường ṃn. Đó là loại đất trắng bạc như đất sét, nhưng có thớ nghiêng. Nhà báo Nguyễn Như Phong đă ăn thử và thấy… nhàn nhạt, có mùi ngai ngái và hơi tanh. Khi trợn mắt nuốt được một miếng to bằng ngón tay th́ ông lắc đầu: “Khó sực quá”.
( theo petrotimes )