Hùng Cường cũng là nam nghệ sĩ được cho là có nhiều vợ và bồ nhất ở Sài G̣n. Vậy mà khi chết đi, ông nằm trong ngôi mộ nhỏ ven con đường làng ở Bến Tre.
Cho tới ngày nay ở Sài G̣n, ngoài Hùng Cường, chưa có nghệ sĩ nào nổi bật trên hầu hết các lĩnh vực nghệ thuật, như : Tân nhạc, cải lương, kịch nói, phim ảnh… Ông c̣n là vơ sĩ quyền Anh từng thượng đài thi đấu…
Hùng Cường cũng là nam nghệ sĩ được cho là có nhiều vợ và bồ nhất ở Sài G̣n. Vậy mà khi chết đi, ông nằm trong ngôi mộ nhỏ ven con đường làng ở Bến Tre.
Làm sôi động sân khấu cải lương
Cho tới ngày nay, chưa có ai làm được chuyện “kinh thiên động địa” trên sân khấu cải lương như Hùng Cường. Đó là vào năm 1959, một nghệ sĩ chưa từng được biết trong giới cải lương, chưa từng đảm nhận bất cứ vai phụ nào, bỗng bất ngờ xuất hiện trong vai chính và thành công vang dội.
Đó là điều không thể hiểu nổi, bởi một người theo nghề cải lương phải mất ít nhất 2-3 năm làm “giàn bao” mới lên được vai phụ, rồi cũng mất chừng ấy thời gian mới lên được vai chính nếu thực sự có tài và khổ luyện. Người làm chuyện “động trời” ấy là ca sĩ tân nhạc Hùng Cường.
Trước đó, dù là ca sĩ tân nhạc nổi tiếng, nhưng Hùng Cường rất yêu thích cải lương, nên bỏ công sức nghiên cứu, học hỏi. Với một nền móng nhạc lư vững vàng, cộng với chất giọng đă được trui rèn và sự kiên tŕ, cố gắng khổ luyện, ông đă mạnh dạn bước lên sân khấu cải lương và khẳng định ngay tên tuổi của ḿnh.
Đoàn cải lương Ngọc Kiều như đánh cược với chén cơm manh áo của mấy chục con người khi chấp nhận cho ca sĩ tân nhạc Hùng Cường chưa hề hát cải lương đóng vai chính Roméo trong vở mới dựng “Mộng đẹp đêm trăng”. Một giàn diễn viên gạo cội thời đó của đoàn Ngọc Kiều như Ngọc Đáng, Ngọc Giàu, Hoàng Kinh, Thanh Sang, Kim Nguyên, Thanh Kỳ… đă chấp nhận làm “giàn bao” cho Hùng Cường.
Kể từ đó, trên bầu trời cải lương miền Nam xuất hiện một ngôi sao rực sáng, Hùng Cường đă giúp cho tiếng tăm và doanh thu của đoàn Ngọc Kiều cải thiện đáng kể. Với vóc dáng “sáng” sân khấu, chất giọng tenor khỏe, lối diễn xuất vừa tự nhiên vừa tự tin và rất hợp lư, cùng những bài bản cải lương đă được luyện tập kỹ càng, Hùng Cường đă thành công vang dội ngay từ vai diễn đầu.
Tức th́, chủ đoàn Ngọc Kiều kư tiếp hợp đồng với Hùng Cường để hát vai chính trong kịch bản mới “Tuyết phủ chiều đông” sẽ khai trương tại rạp Viễn Trường (Mỹ Tho, Tiền Giang) sau một tháng tập dượt. Hùng Cường đă mướn riêng một nhạc sĩ cổ nhạc đến nhà ông luyện tập ngày đêm. Ngoài ra ông rất nhạy bén, biết được sở đoản, sở trường của ḿnh, nên đă phối hợp với soạn giả cải lương lồng vào kịch bản khá nhiều đoạn tân nhạc, khai thác đúng tài năng của ông.
“Tuyết phủ chiều đông” của soạn giả Bạch Yến Lan và giọng hát mới toanh Hùng Cường đă tạo nên một sự kiện chấn động “thánh địa cải lương” Mỹ Tho. Rạp Viễn Trường đầy kín từ chỗ ngồi đến chỗ đứng, bên ngoài c̣n dư khán giả gần nửa rạp.
Tiếp theo, đoàn Ngọc Kiều dựng tiếp vở cải lương “Màu tím đèn hoa giấy”, khai trương từng bừng tại rạp hát Nguyễn Văn Hảo năm 1960, rồi tiếp tục lưu diễn nhiều tỉnh, thị xă lớn ở miền Tây. Hùng Cường đóng vai Kha Phong – một kiếm sĩ Phù Tang điêu luyện, bên cạnh tài danh Ngọc Đáng. ”Ngôi sao” cải lương Hùng Cường rực sáng từ dạo đó.
Đóng phim, đóng kịch, viết nhạc, làm thơ…
Hùng Cường tên thật là Trần Kim Cường, sinh năm 1936 tại tỉnh Bến Tre, sau theo gia đ́nh về sinh sống ở Sài G̣n. Ngay từ khi c̣n là học sinh Trường Trung học Trần Hưng Đạo, ông đă có thể tự sáng tác và biểu diễn những bài hát học sinh trong các lần hội diễn của trường. Sau khi học xong “tú tài”, ông chính thức theo nghiệp ca hát tại các vũ trường Kim Sơn, Baccara…
Ngay từ những năm 1954-1955, Hùng Cường đă nổi tiếng với các nhạc phẩm “tiền chiến” như : Ông lái đ̣, Vọng ngày xanh, Sơn nữ ca, Đường xưa lối cũ… Tất cả đều được thu đĩa và đạt số bán kỷ lục ở Sài G̣n bấy giờ.
Sau khi bước sang cải lương và thành công vang dội, Hùng Cường vẫn tiếp tục gắn bó với sân khấu ca nhạc và lại làm người hâm mộ quay cuồng theo ông với một thể loại nhạc mới lạ lần đầu tiên xuất hiện ở Sài G̣n – nhạc giật, như cách gọi lúc đó là nhạc “kích động”, một dạng pop-rock đă được Việt Nam hóa. Nhạc “kích động” với giọng ca Hùng Cường chỉ thực sự đạt đỉnh cao khi phối hợp cùng Mai Lệ Huyền – một ca sĩ nữ cũng “quậy” không kém.
Những ca khúc tươi vui và “kích động” như : Hai trái tim vàng, V́ chưa ngỏ ư, Túp lều lư tưởng… đă từng làm sôi động giới trẻ miền Nam cuối thập niên 1960 – đầu 1970.
Sau ca nhạc, cải lương, Hùng Cường tiếp tục “lấn sân” sang điện ảnh. Hàng loạt các phim do Hùng Cường thủ vai chính được người xem chú ư thời bấy giờ như : “Chân trời tím”, “Mănh lực đồng tiền”, “C̣n ǵ cho nhau”, “Nắng chiều”, “Ly rượu mừng”, “Vết thù trên lưng ngựa hoang”… Lúc mới bước sang điện ảnh, Hùng Cường bị châm chích rất ác ư, chê bai là “cải lương”.
Thế nhưng, sau khi thành công với phim đầu tiên “Chân trời tím”, nhiều hăng phim đă mời Hùng Cường cộng tác và phim nào có tên ông cũng ăn khách. Hăng phim Kim Thân đă trả thù lao khá cao để mời Hùng Cường và Mai Lệ Huyền đóng cặp trong phim “Mănh lực đồng tiền”.
Theo chân Hùng Cường, nhiều đào kép cải lương khác ở Sài G̣n cũng tham gia đóng phim, mà nổi hơn cả là Thanh Nga và Mộng Tuyền. Lúc đầu, các nữ tài tử điện ảnh rất ngại đóng cặp với kép hát cải lương, trong đó có Hùng Cường. Theo báo chí thời ấy, công ty phim truyện Liên Ảnh trước khi mời Kim Vui đă có ngỏ ư mời Thẩm Thúy Hằng đóng cặp với Hùng Cường, nhưng Thẩm Thúy Hằng từ chối, có lẽ do “định kiến” ấy.
Nhưng sau đó “người đẹp B́nh Dương” Thẩm Thúy Hằng mới tiếc rẻ, khi thấy Kim Vui nổi bật bên Hùng Cường trong phim “Chân trời tím” và phim vừa thành công về tài chính vừa đoạt Giải văn học nghệ thuật Sài G̣n năm 1971, lại vinh dự là lần đầu tiên một cuốn phim Việt Nam phụ đề Pháp ngữ được gửi đi tŕnh chiếu tại Đại hội điện ảnh tổ chức ở Dianard, Anh Quốc.
Vào những năm 1960, khi cải lương đang chiếm lĩnh Sài G̣n, một nhóm “kịch sĩ” đứng đầu là Vân Hùng, La Thoại Tân, Hùng Cường hợp cùng kỳ nữ Kim Cương, Thẩm Thúy Hằng và ca sĩ Túy Hồng tạo nên một “đặc chủng” nghệ thuật mới mang tên “Kịch nghệ Sài G̣n”. Kịch Sài G̣n ra đời muộn, không ồn ào, không thu hút ngay được nhiều khán giả tới rạp, nhưng dần dần cũng tạo được chỗ đứng.
Ngoài kỳ nữ Kim Cương vốn là con nhà ṇi về kịch nói, số c̣n lại đều từ điện ảnh, ca nhạc sang. Có thể nói, chính những cái tên như Thẩm Thúy Hằng, Hùng Cường đă lôi kéo một lượng khán giả không nhỏ, giúp sân khấu kịch Sài G̣n có chỗ đứng và phát triển dần.
“Cải lương chi bảo” Bạch Tuyết bên mộ phần danh ca Hùng Cường. Trước 1975, Hùng Cường thường ca diễn cặp đôi với Bạch Tuyết trên sân khấu cải lương.
Vơ sĩ ngoài đời và trên sàn diễn
Trong giới tài tử điện ảnh ở Sài G̣n trước năm 1975, có hai người được cho là giỏi vơ nhất, đó là Lư Huỳnh và Hùng Cường. Lư Huỳnh vừa đóng phim vừa mở vơ đường Thái cực đạo, nên được phong là “vơ sư”.
Hùng Cường mê đánh quyền Anh từ thời học sinh, sau này ông vẫn tiếp tục tập quyền Anh như là môn vơ thể dục giúp rèn luyện sức khỏe. Lúc ấy, phong trào tập luyện quyền Anh ở Sài G̣n rất yếu, số người giỏi chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay, trong đó có Hùng Cường.
Năm 1970, khi hàng trăm ngàn bà con Việt kiều bỏ nhà cửa, đất đai, tài sản ở Campuchia về Việt Nam lánh nạn và sinh sống, mở ḷ dạy quyền Anh th́ phong trào mới phát triển trở lại. Sau đó, người ta tổ chức thi đấu môn quyền Anh, Hùng Cường cũng đăng kư “thượng đài”, nhưng vào phút cuối đă bỏ cuộc v́ bận theo đoàn hát đi lưu diễn xa. Chuyện này được Hùng Cường thể hiện lại trong nội dung một vở cải lương sau đó.
Hùng Cường c̣n thọ giáo môn vơ B́nh Định của một thầy dạy vơ nổi tiếng ở Quy Nhơn trong một lần đi diễn ở đây. Khi về Sài G̣n, Hùng Cường rước hẳn thầy dạy vơ vào Sài G̣n dạy cho ḿnh cả năm trời. Với năng khiếu bẩm sinh, Hùng Cường đă nhanh chóng thăng đến hạng đai đen.
Nhờ tập luyện nhiều môn vơ Đông Tây kim cổ mà Hùng Cường rất giỏi vơ và có sức khỏe hơn người. Khi đóng phim hay diễn trên sân khấu, ông thường ra đ̣n giống như thật, nếu người bạn diễn cũng giỏi vơ, họ sẽ cống hiến cho người xem những màn biểu diễn vơ thuật đẹp mắt. Nhờ giỏi vơ mà khi đóng phim ở những trường đoạn đánh nhau hoặc cảnh đóng nguy hiểm, Hùng Cường thường tự đóng chứ không nhờ người đóng thế, đó cũng là một lợi thế của Hùng Cường so với những nghệ sĩ đóng phim khác.
Nét mộc mạc của Hùng Cường khi mới gia nhập làng giải trí.
Từ khi cuộc Chiến tranh Việt Nam bùng nổ (1964), lượng ca khúc về đề tài chiến tranh và người lính mau chóng chiếm ưu thế trên thị trường băng đĩa. Hùng Cường là một trong những giọng ca hàng đầu của ḍng nhạc lính.

Do sự đa dạng của quân – binh chủng Việt Nam Cộng ḥa, màu áo lính trở nên đặc trưng cho từng đơn vị. Thời điểm chiến tranh lan rộng, giới nghệ sĩ thường chọn cho ḿnh một sắc áo để ca diễn ; với nét hào hoa, lịch lăm thường thấy, Hùng Cường có vẻ rất hợp với bộ quân phục Nhảy Dù (biệt danh của binh chủng này là Thiên thần mũ đỏ dù hoa).

Khi hát cặp với Bạch Tuyết, Hùng Cường thường chọn cổ nhạc để phù hợp với sở trường của hai người.

Hùng Cường, Phượng Liên tham gia chương tŕnh văn nghệ “Tiếng nói động viên” của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa, 1969.

Hùng Cường, Phượng Liên trong vở cải lương “Đời là một chữ T”, đoàn Dạ Lư Hương – 1969.