H́nh ảnh một người Trung Quốc chụp lại khi một cụ già gồng gánh hàng hóa trên lưng để mang sang Việt Nam. Cũng chỉ v́ chế độ đ̣a đầy mà nhiều người Việt hiện nay đang sống rất khổ sở như vậy.
Người đàn ông Trung Quốc này nói với tôi: "Không biết chính phủ Việt Nam nghĩ ǵ khi nh́n thấy bức ảnh này?!"
Người đàn ông TQ làm nhớ đến nhà thơ Hồ Dzếnh, với những câu thơ rất đẹp ca ngợi phụ nữ VN. Xin chép lại để tặng bà cụ này.
Cô gái Việt Nam ơi!
nếu chữ "hy sinh" có ở đời
tôi muốn nạm vàng muôn cực khổ
cho ḷng cô gái Việt Nam tươi
Trích bài thơ Cảm Xúc của Hồ Dzếnh.
Saigon : Cái tên của ngày hôm qua
Tác Giả: Phúc Tiến – Người Đô Thị – 4 May 2015
(GNA: Bài viết “khen” Saigon của báo lề đảng?)
Không biết từ bao giờ, trong pḥng lưu niệm trên tầng chót của tháp Eiffel – Paris, đă có tên “Sài G̣n” trên bảng tên khoảng cách từ đây đến những thành phố lớn trên thế giới. Trong khi đó, tại đài thiên văn Greenwich, London – nằm ngay trên kinh tuyến gốc số 0, tên “Sài G̣n” được khắc trên bảng tọa độ các đô thị tiêu biểu cho các múi giờ. Tọa độ Sài G̣n là kinh tuyến Đông 106 độ – 43 phút.
Sau năm 1975, nhiều bản đồ thế giới xuất bản ở nước ngoài có ghi tên địa điểm Ho Chi Minh city với hàng chữ chú thích: “formerly Saigon“ (nguyên là Sài G̣n). Thế nhưng, trong mắt nhiều người Việt và nước ngoài, tên Sài G̣n không chỉ là địa danh, không chỉ là hoài niệm xa vắng mà cao hơn nữa từ lâu rồi, đó c̣n là một địa chỉ quốc tế, một icon – biểu tượng – đầy sức sống kỳ lạ của Việt Nam qua nhiều thế kỷ thương đau.
Mở cửa 200 năm trước
Tôi t́m thấy tên Sài G̣n được người Anh viết là “Sai-gong” trong quyển A voyage to Cochinchina in the years 1792-1793 của John Barrow, in năm 1806, cách đây 209 năm! Có lẽ đây là quyển sách xưa nhất bằng tiếng Anh viết về Việt Nam và cũng là quyển sách nước ngoài xưa nhất nhắc đến tên Sài G̣n. Tác giả quyển sách là một nhà nghiên cứu Anh đă từ Batavia (Jakarta-Indonesia) cập bến Sài G̣n vào thời kỳ Nguyễn Ánh đang xây dựng kinh thành Gia Định trở thành hậu cứ lớn để tiến công Tây Sơn. John Barrow ghi nhận “Sai-gong” là nơi nhà vua xứ Đàng Trong đóng đô, hơn nữa c̣n là thương cảng nhộn nhịp tàu bè đến mua bán, nhất là xuất khẩu gạo. Mặc dầu c̣n mới mẻ nhưng Sài G̣n đă thay thế được Hội An và Quy Nhơn – hai cảng thị trở nên tiêu điều v́ chiến tranh, để mở cửa Đàng Trong ra với bên ngoài. Rất đáng kể, Sài G̣n c̣n có xưởng đóng tàu theo kiểu Tây dương (châu Âu) và có quân cảng – hậu cứ của hải quân nhà Nguyễn. Khi tác giả có mặt tại “Sai-gong”, tại cảng đă có 7 thương thuyền của Bồ Đào Nha, một chiến hạm Pháp thuộc đội quân của Giám mục Bá Đa Lộc – người hỗ trợ Nguyễn Ánh trong cuộc chiến với Tây Sơn và nhiều thương thuyền khác. Chính chiến hạm Pháp đă đưa Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh đi cầu viện vua Napoleon đệ tam…
Và rồi, hơn 50 năm sau cuộc gặp gỡ Việt-Pháp đó, éo le thay, thực dân Pháp đă đến xâm lược Việt Nam vào năm 1858. Không hạ được Đà Nẵng để tiến chiếm kinh đô Huế, quân Pháp chuyển qua đánh Sài G̣n. Quân nhà Nguyễn gắng sức nhưng rồi thành Gia Định thất thủ ngày 17.2.1859. Cuộc chiếm đóng của người Pháp ở Sài G̣n và đất Nam kỳ sau đó không dễ dàng. Sau bốn năm b́nh định, đến ngày 15.6.1865, chính quyền Pháp mới chính thức ban hành sắc lệnh lập ra “Ville de Saigon ” – thành phố Sài G̣n. Từ đó, Sài G̣n chuyển qua một quỹ đạo văn minh mới.
Công nghiệp hóa sớm nhất
Người Pháp đă đem văn minh phương Tây đến Sài G̣n trộn với chất phương Đông sẵn có của nó để tạo ra một Sài G̣n mới mẻ và độc đáo. Rất thuận lợi, Sài G̣n đi vào công nghiệp hóa cùng thời những phát minh kỳ vĩ của loài người: xe lửa, máy bay, đèn điện, đường dây thép, điện ảnh… Sau 30 năm xây dựng, người Pháp đă cải biến Sài G̣n thành đô thị hiện đại đầu tiên ở Việt Nam sánh vai cùng nhiều đô thị châu Á đă phát triển trước đó như Singapore, Penang, Hồng Kông, Thượng Hải, Tokyo. Cho đến đầu thế kỷ 20, Sài G̣n đă có được hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại và hoàn chỉnh: bưu điện, nhà máy điện, nhà máy nước, công nghiệp đóng tàu, đường nhựa, đường xe lửa, bến cảng và sân bay… Chính nhờ kinh nghiệm xây dựng Sài G̣n và ngay cả phương tiện và nhân lực của Sài G̣n mà người Pháp đă xây dựng tiếp “Hanoi ville”, “Tourane ville” (Đà Nẵng) và một loạt thành phố khác vẫn tồn tại ở Việt Nam.
Thời cơ và số phận đă bắt Sài G̣n đi trước trong công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Những nhà máy, công ty, chợ đầu mối, thương xá, ngân hàng, hăng xe đ̣, xe lửa đầu tiên của Việt Nam đều ra đời từ Sài G̣n. Cũng từ đây, h́nh thành nên những nghề nghiệp mới: thợ thuyền, kỹ sư, doanh nhân và ngay cả những ngành nghề mới: nhật tŕnh (báo chí), tiểu thuyết, nhà in, nhà sách… Ngay cả về giáo dục, từ Sài G̣n đă “khai sinh” việc giảng dạy chữ quốc ngữ trong trường học và sử dụng chữ quốc ngữ trong công sở và báo chí. Cũng từ Sài G̣n, đă h́nh thành hệ thống tiểu học – trung học, trường dạy nghề, trường sư phạm, trường cấp tỉnh, trường cấp miền (chỉ riêng đại học, người Pháp mới lập ra trước nhất ở Hà Nội để tạo ra một đối trọng mạnh mẽ với nền giáo dục Nho học lâu đời).
Ḍng sông ra biển lớn
Sông Sài G̣n là ḍng sông lớn, dễ dàng ngược xuôi ra biển. Vựa lúa Nam bộ và hàng hóa cả nước theo sông Sài G̣n ra với thế giới. Những tuyến đường viễn dương lần lượt ra đời: Sài G̣n-Singapore-Marseille, Sài G̣n-Hongkong-Thượng Hải-Yokohama và xa hơn nữa đến San Francisco và New York. Chẳng mấy chốc, có thêm đường hàng không Sài G̣n-Paris nối châu Âu, Sài G̣n-Hongkong nối với Đông Bắc Á và Mỹ. Những tuyến đường biển đường không, báo chí và viễn thông xuất phát từ Sài G̣n đă mở rộng chân trời, mở rộng tầm nh́n không chỉ cho người Sài G̣n mà c̣n cho người Việt Nam, người Đông Dương ra với năm châu. Đầu thế kỷ 20, một thế hệ thanh niên mới được các sĩ phu yêu nước nhóm lửa đă mau chóng từ Sài G̣n “xuất dương”, t́m đến những đất nước tiên tiến cả Đông lẫn Tây để học hỏi, kiếm sống và khám phá những tư tưởng cách mạng.
Sài G̣n đă và đang có những giá trị quốc gia và quốc tế không thay thế được. Hăy yêu Sài G̣n hơn nữa, đừng để Sài G̣n bị lăng quên và sa chân vào những tai ương trên những con đường phát triển đô thị thiếu tầm nh́n.
Cho đến trước 1945, Sài G̣n đă rơ nét là một trung tâm giao thương và hàng hải nhộn nhịp, một trung tâm công nghiệp lớn, nhất là sơ chế nông sản, có vị trí quan trọng. Nói như ngôn ngữ bây giờ, Sài G̣n là một mắt xích không thể thiếu trong chuỗi cung ứng từ Á sang Âu và từ Đông Bắc Á xuống Đông Nam Á. Sài G̣n c̣n là một thành phố mang phong vị Á-Âu, với gần 500 ngàn dân đến từ tứ xứ và nhiều châu lục. Sài G̣n là “thủ đô kinh tế” của Đông Dương, nơi có dinh Toàn quyền, có các ṭa lănh sự và thương vụ của các cường quốc Anh, Mỹ, Nhật và nhiều nước khác. Khi chiến tranh Thái B́nh Dương xảy ra năm 1941, người Nhật đă đặt đại bản doanh tại Sài G̣n để điều hành cuộc chiến Đông Nam Á. Sài G̣n đă hứng bom không quân Mỹ nhưng may mắn không bị nhiều tàn phá. Những diễn biến chiến tranh khốc liệt hơn 30 năm sau đó càng làm thế giới biết đến tên Sài G̣n không chỉ liên quan vận mệnh kinh tế mà c̣n là vận mệnh chính trị của cả Đông Dương và khu vực.
Yêu kiều giữa chiến tranh
Năm 1948, chính quyền Quốc gia Việt Nam do Bảo Đại và Pháp dựng lên, đặt thủ đô ở Sài G̣n. Lần đầu tiên trong lịch sử, Sài G̣n trở thành trung tâm đầu năo về cả hành chính và quân sự cả nước cho một bên trong cuộc chiến. Kế đến năm 1955, Sài G̣n lại tiếp tục làm thủ đô cho miền đất từ vĩ tuyến 17 trở vào của chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa. Trong nửa đầu thập niên 1950, phố xá Sài G̣n bắt đầu có biến đổi một ít so với thời kỳ trước 1945. Nhiều công sở trung ương, công sở ngoại giao, nhiều phố phường thương mại mọc lên. Sài G̣n bắt đầu có cấp quận. Người các tỉnh đổ về tỵ nạn chiến tranh và kiếm sống gia tăng làm thành phố từ 500 ngàn dân tăng lên gấp đôi, gấp ba. Nhiều khu ổ chuột, định cư tạm bợ ra đời: Bàn Cờ, Vườn Chuối, quận 4… Những con kênh lớn như kênh Tàu Hũ bị nhà dân lấn chiếm hai bên bờ. Thành phố phát triển trong chiến tranh, không giữ được quy hoạch cũ, mau chóng xộc xệch.
Từ 1955 đến 1965, Sài G̣n có mười năm yên b́nh để phục hồi lại vẻ yêu kiều trước chiến tranh. Song sau đó, mười năm kế tiếp từ lúc có những xáo trộn chính trị dồn dập, quân Mỹ đổ vào, cường độ chiến tranh gia tăng khốc liệt th́ Sài G̣n bước qua một giai đoạn phát triển gấp gáp. Sài G̣n trở nên một thành phố có đủ sự lăng mạn, cái đẹp vốn có từ thời thuộc địa Pháp đến những dấu ấn mới tự do theo kiểu Mỹ. Cùng lúc đó, Sài G̣n lại phải mang vào những tác động thô bạo và tàn bạo của chiến tranh. Song cũng chính vào thời kỳ phát triển với nhiều mâu thuẫn như thế, Sài G̣n vẫn được thế giới biết đến như một thành phố có sức sống đa dạng, mạnh mẽ, năng động. Tất cả các hoạt động và thành tựu kinh tế, văn hóa, giáo dục, giao lưu quốc tế của Sài G̣n, nhất là con người Sài G̣n, phong cách Sài G̣n có được từ 1865-1975, đă trở thành một tài sản quư giá không thể thiếu, một dấu ấn không thể bác bỏ khi lịch sử sang trang.
Sài G̣n với vốn liếng lịch sử hơn 100 năm đi ra biển lớn, hơn 100 năm đấu tranh và xây dựng đă trở thành một cái tên tự hào chung cho cả nước. Sài G̣n c̣n là một cái tên quốc tế đă thành danh, một thương hiệu được tin cậy trong và ngoài nước. Những thế hệ Việt Nam đương đại và sau này có hiểu biết được bề dày độc đáo của Sài G̣n mới có thể yêu Sài G̣n sâu hơn nữa. Và không thể không đồng thuận với những thế hệ trước về việc giữ ǵn và tôn vinh những giá trị đẹp của Sài G̣n, từ những hàng cây cho đến những kiến trúc và cảnh quan độc đáo, từ những con người cá tính và đóng góp phong phú, từ những ư tưởng và cách nghĩ, cách làm phóng khoáng. Sài G̣n đă và đang có những giá trị quốc gia và quốc tế không thay thế được. Hăy yêu Sài G̣n hơn nữa, đừng để Sài G̣n bị lăng quên và sa chân vào những tai ương trên những con đường phát triển đô thị thiếu tầm nh́n. Đừng để Sài G̣n trở thành một đô thị vắng tên trên bản đồ thế giới!