Tác động từ xung đột Nga - Ukraine đă dịu bớt nhưng hệ quả từ cuộc chiến chống lạm phát để lại nhiều tổn thương cho các nền kinh tế.
Trong báo cáo mới nhất cập nhật triển vọng kinh tế thế giới hồi tháng 10, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) nhận định tăng trưởng toàn cầu đang đi xuống. Cơ quan này cho rằng các nền kinh tế tiên tiến đang ngấm tác động từ chính sách thắt chặt tiền tệ. IMF dự báo GDP toàn cầu năm nay chỉ tăng 3%, thấp hơn 3,5% năm ngoái và dưới trung b́nh giai đoạn 2000 - 2019 là 3,8%.
Diễn biến trái ngược tại các nền kinh tế lớn
Nửa đầu năm nay, giới chức Mỹ bế tắc đàm phán trần nợ công, làm dấy lên lo ngại nền kinh tế lớn nhất thế giới vỡ nợ. Tuy nhiên, nh́n tổng thể, Mỹ vẫn là điểm sáng của kinh tế thế giới.
Lạm phát tại đây đă được kiểm soát sau 10 lần nâng lăi liên tiếp của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed). Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tại Mỹ chỉ tăng 3,1% trong tháng 11, giảm mạnh so với mức đỉnh 40 năm là 9% giữa năm ngoái.
Mỹ cũng không rơi vào suy thoái như các dự báo trước đó. Ngược lại, GDP nước này c̣n bùng nổ trong quư III. Thị trường việc làm và tiêu dùng vẫn sôi động. Chỉ số DJIA trên thị trường chứng khoán Mỹ đầu tháng này cũng lập đỉnh lịch sử mới.
Giới quan sát cho rằng việc Fed không nâng lăi nhanh và mạnh như cách đây 40 năm đă phần nào giúp Mỹ tránh được suy thoái.

Một người vô gia cư nằm ngủ cạnh đồ đạc tại khu vực cho người đi bộ ở Dortmund (Đức) hôm 5/12. Ảnh: AFP
Tại châu Âu, lạm phát khu vực đồng euro cũng chỉ c̣n 2,4% trong tháng 11, hạ nhiệt đáng kể so với 11,5% cuối năm ngoái. Tuy nhiên, khu vực đồng euro, Đức và Anh lại đang cận kề suy thoái, khi quư trước tăng trưởng âm. Lăi suất cao đă khiến tiêu dùng và sản xuất tại các nền kinh tế này giảm sút.
Trong khi các nước phương Tây ráo riết gh́m lạm phát, ở châu Á, hai nền kinh tế hàng đầu khu vực là Nhật Bản và Trung Quốc lại t́m cách kéo giá lên. Lạm phát tại Nhật Bản giảm tốc 4 tháng liên tiếp và chỉ mới tăng tốc trở lại từ tháng 10. Trung Quốc thậm chí có thời điểm rơi vào giảm phát.
Bên cạnh đó, sau hai quư liên tiếp đi lên, GDP Nhật Bản quay đầu giảm trong quư III. C̣n tại Trung Quốc, dù GDP quư III tăng vượt dự báo, nền kinh tế này chưa bùng nổ sau khi gỡ bỏ Zero Covid như kỳ vọng. Trung Quốc hiện đối mặt với nhiều thách thức, từ tiêu dùng giảm, khủng hoảng bất động sản kéo dài đến tỷ lệ thất nghiệp trong giới trẻ cao.
Giá yen liên tục đi xuống
Diễn biến của yen Nhật năm nay gây chú ư, khi chịu tác động từ chính sách thắt chặt của các nước phương Tây. Yen là tiền tệ được giao dịch nhiều thứ ba trên toàn cầu và là công cụ trú ẩn được nhà đầu tư ưa chuộng.
Tuy nhiên, chính sách tiền tệ trái ngược giữa Nhật Bản và các nền kinh tế lớn khác đă khiến tiền tệ này kém hấp dẫn, bất chấp thế giới năm nay nhiều biến động. Trong khi Mỹ và châu Âu nâng lăi suất mạnh tay để đối phó lạm phát, Nhật Bản vẫn duy tŕ lăi suất âm để kích thích kinh tế. Điều này khiến nhà đầu tư bán yen để chuyển sang các kênh khác cho lợi nhuận cao hơn.
Năm nay, USD đă tăng hơn 10% so với yen. Tháng trước, yen từng xuống thấp nhất một năm so với đôla Mỹ và thấp nhất 18 năm so với nhân dân tệ.
Yen mất giá sẽ có lợi cho các hăng xuất khẩu Nhật Bản. Tuy nhiên, các hộ gia đ́nh và hăng bán lẻ lại chịu thiệt hại khi đồng yen yếu làm tăng chi phí nhập khẩu lương thực và nhiên liệu.
Ngành ngân hàng toàn cầu rơi vào hỗn loạn
Lăi suất cao c̣n là một trong những nguyên nhân khiến hàng loạt ngân hàng tại Mỹ sụp đổ đầu năm nay. Sự kiện mở đầu là vụ sụp đổ của Silvergate Bank - ngân hàng Mỹ chuyên cho vay giới tiền số - hôm 8/3. Cùng ngày, Silicon Valley Bank - ngân hàng lớn thứ 16 tại Mỹ - thông báo khoản lỗ trái phiếu lớn. Việc này châm ng̣i cho làn sóng rút tiền, khiến SVB bị giới chức đóng cửa chỉ sau hai ngày.
Sự sụp đổ của SVB một phần do chính sách nâng lăi mạnh tay của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) trong năm qua. Khi lăi suất c̣n quanh 0%, các ngân hàng tích cực mua vào trái phiếu chính phủ kỳ hạn dài, rủi ro thấp. Tuy nhiên, khi Fed nâng lăi để đối phó lạm phát, giá trị số trái phiếu này giảm theo, khiến các ngân hàng phải gánh khoản lỗ khổng lồ trên giấy tờ.
Lăi suất cao cũng khiến các hăng công nghệ - tệp khách hàng chủ yếu của SVB - gặp khó, do nó làm giảm giá cổ phiếu và khiến họ khó huy động vốn. Việc này khiến nhiều hăng công nghệ phải rút tiền gửi khỏi SVB để duy tŕ hoạt động.
Sau SVB, lần lượt các ngân hàng khác của Mỹ là Signature Bank, First Republic, Heartland Tri-State Bank cũng bị đóng cửa. Ngoài vấn đề riêng về hoạt động kinh doanh, hiệu ứng rút tiền từ các vụ sụp đổ ngân hàng trước được cho là đă gây nên sự hỗn loạn này.
Không chỉ Mỹ, ngành ngân hàng toàn cầu năm nay c̣n chứng kiến sự sụp đổ của ngân hàng lớn thứ hai Thụy Sĩ Credit Suisse. Nhà băng này đă không thể trụ vững trước hàng loạt scandal vài năm qua, từ thua lỗ đầu tư, cắt giảm nhân sự, thay đổi lănh đạo đến vướng vào kiện tụng. Cuối tháng 3, giới chức Thụy Sĩ làm trung gian trong thương vụ UBS mua Credit Suisse, nhằm ngăn khủng hoảng tài chính lan rộng trên toàn cầu.
Làn sóng nâng lăi suất dừng lại
Khi các nền kinh tế có dấu hiệu chịu tổn thương từ chính sách thắt chặt, các ngân hàng trung ương buộc phải dừng quá tŕnh nâng lăi.
Sau 10 lần tăng liên tiếp, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) hồi tháng 6 thông báo giữ nguyên lăi suất. Việc này được duy tŕ đến hiện tại, nhằm đánh giá thêm ảnh hưởng từ các động thái trước lên nền kinh tế. Nhà đầu tư hiện dự báo Fed giảm lăi mạnh tay từ năm sau. Việc này khiến các quan chức Fed nhiều lần tuyên bố không loại trừ khả năng nâng lăi nếu cần thiết, nhằm hạ nhiệt kỳ vọng của thị trường.
Sau động thái của Fed, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và Ngân hàng Trung ương Anh (BoE) cũng nối gót khi ghi nhận hoạt động sản xuất đi xuống do nhu cầu giảm sút v́ lăi suất cao. Canada, Na Uy, Thụy Sĩ, New Zealand gần đây đều đă dừng nâng lăi suất. Dù vậy, các nước này đều cảnh báo có thể vẫn giữ chính sách thắt chặt thêm một thời gian nữa.
Giá vàng thế giới lập đỉnh lịch sử mới
.
Sau khi chịu sức ép suốt năm 2022 do lăi suất cao trên toàn cầu, giá vàng năm nay đă tăng gần 250 USD, tương đương 13%. Đầu tháng này, giá có thời điểm lập đỉnh lịch sử mới tại 2.135 USD.
Sức tăng tập trung chủ yếu vào hai tháng cuối năm, do xung đột tại Trung Đông và dự báo lăi suất giảm. Giá được dự báo tiếp tục tăng trong năm sau, khi các nền kinh tế yếu đi, lăi suất giảm xuống và các ngân hàng trung ương tích cực mua vàng.
Giới chuyên gia kỳ vọng giá năm tới vẫn duy tŕ trên 2.000 USD. Theo ANZ, giá có thể lên 2.200 USD một ounce cuối năm 2024, đồng nghĩa sẽ lập thêm đỉnh lịch sử mới.
Nguy cơ khủng hoảng lương thực trên toàn cầu
Lạm phát toàn cầu hạ nhiệt, nhưng giá lương thực lại là ngoại lệ. Thị trường năm 2023 c̣n chịu thêm hàng loạt cú sốc, đẩy thế giới đến bờ vực khủng hoảng lương thực.
Ngày 20/7, Ấn Độ thông báo cấm xuất khẩu các loại gạo không phải là Basmati (một loại gạo phổ biến tại Nam Á) để b́nh ổn giá trong nước. Quốc gia Nam Á hiện là nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới.
Lệnh cấm của Ấn Độ c̣n kéo theo động thái tương tự từ Các tiểu vương quốc Arab thống nhất (UAE) và Nga. Thái Lan - nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới th́ khuyến khích người dân giảm trồng lúa để chuyển sang trồng các loại thực vật khác cần ít nước hơn, do tác động từ El Nino. Nga trước đó cũng rút khỏi Sáng kiến Ngũ cốc Biển Đen.
Các động thái này kéo giá gạo châu Á năm nay lên cao nhất kể từ năm 2008. Tháng 11, chỉ số theo dơi giá gạo toàn cầu của Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc (FAO) tăng 21% so với cùng kỳ năm ngoái.
Thống kê của Chương tŕnh Lương thực Thế giới (WFP) cho thấy hơn 333 triệu người đă rơi vào t́nh trạng mất an ninh lương thực năm nay. T́nh h́nh này có thể càng trầm trọng trong năm tới, khi lệnh cấm xuất khẩu gạo của Ấn Độ được dự báo kéo dài sang năm 2024. Nga hiện cũng không mặn mà với việc gia hạn Sáng kiến Ngũ cốc Biển Đen. Tác động của El Nino th́ được dự báo trầm trọng hơn trong năm 2024.
VietBF@sưu tập