Trung b́nh, con người dành khoảng một phần ba cuộc đời để ngủ hoặc cố gắng ngủ, theo một số ước tính. Giấc ngủ là trạng thái nghỉ ngơi cần thiết diễn ra theo chu kỳ đều đặn, trong đó năo bộ và cơ thể được phục hồi và sửa chữa. Ngủ đủ giấc được xem là yếu tố then chốt để duy tŕ sức khỏe toàn diện.
Khi ch́m vào giấc ngủ, nhiệt độ cơ thể giảm xuống, nhịp tim và nhịp thở chậm lại, cùng với đó là sự suy giảm khoảng 10% trong hoạt động trao đổi chất tổng thể. Bề ngoài, một cơ thể đang ngủ trông có vẻ không hoạt động và năo bộ kém phản ứng với các kích thích bên ngoài. Tuy nhiên, thực tế cho thấy năo bộ vẫn rất bận rộn. Trong lúc ngủ, năo tiến hành sửa chữa và bảo tŕ, đồng thời tạo ra các kết nối thần kinh quan trọng, giúp tối ưu hóa hiệu suất năo bộ khi tỉnh táo. Nhiều nghiên cứu cho rằng giấc mơ đóng vai tṛ trong việc sắp xếp trí nhớ, xử lư và lưu trữ thông tin.
Không chỉ năo bộ, cơ thể cũng tận dụng giấc ngủ để sửa chữa và tái tạo tế bào bị hư hỏng hoặc cạn kiệt. Các chức năng sống c̣n như sản xuất hormone, phát triển mô, sửa chữa cơ bắp đều chủ yếu diễn ra trong thời gian ngủ. Đặc biệt, hệ thống đào thải độc tố và chất thải từ năo hoạt động mạnh mẽ nhất trong lúc ngủ.
Chu kỳ và các giai đoạn của giấc ngủ
Một chu kỳ ngủ b́nh thường bao gồm hai loại chính: giấc ngủ REM (chuyển động mắt nhanh) và giấc ngủ không REM. Trong mỗi chu kỳ kéo dài từ 90 đến 120 phút, người ngủ trải qua ba giai đoạn giấc ngủ không REM, từ nông đến sâu, trước khi bước vào giấc ngủ REM. Trung b́nh mỗi đêm, một người trải qua từ bốn đến sáu chu kỳ như vậy, trong đó các giai đoạn không REM ngắn dần và thời gian ngủ REM kéo dài hơn.
Hoạt động điện của năo khi ngủ tạo ra các sóng năo khác nhau tùy theo từng giai đoạn. Ban đầu là các sóng nhanh, sau đó chuyển sang sóng chậm khi giấc ngủ sâu hơn. Giai đoạn N1 (ngủ nông) kéo dài từ một đến bảy phút, dễ bị đánh thức. Tiếp theo là N2 (khoảng 10 đến 25 phút) và N3 (ngủ sâu, kéo dài 20 đến 40 phút). Giai đoạn REM – trong đó mắt chuyển động nhanh dưới mí mắt nhưng cơ thể tạm thời bị tê liệt – chiếm khoảng 25% tổng thời gian ngủ, kéo dài khoảng 10 phút trong chu kỳ đầu nhưng có thể lên tới một giờ trong chu kỳ cuối. Đây cũng là thời điểm phần lớn giấc mơ diễn ra.
Nhu cầu ngủ thay đổi tùy theo độ tuổi và cơ địa mỗi người. Trẻ sơ sinh trong vài tháng đầu đời ngủ theo từng đợt kéo dài từ 30 phút đến ba giờ, với khoảng hai giờ thức giấc giữa các đợt ngủ. Trẻ từ 4 đến 12 tháng tuổi cần ngủ từ 12 đến 16 giờ mỗi ngày, kể cả giấc ngủ ngắn. Khi được bốn đến sáu tháng, trẻ có thể bắt đầu ngủ xuyên đêm từ năm đến sáu giờ không bị gián đoạn.
Trẻ em đang trong giai đoạn phát triển cần ngủ nhiều hơn người lớn. Trẻ từ 1 đến 2 tuổi cần ngủ từ 11 đến 14 giờ mỗi ngày, trong khi trẻ từ 3 đến 5 tuổi cần 10 đến 13 giờ, và trẻ từ 6 đến 12 tuổi cần 9 đến 12 giờ. Thanh thiếu niên – đang trải qua những thay đổi lớn về thể chất và năo bộ – cần ngủ ít nhất 9 đến 9,5 giờ mỗi ngày. Tuổi dậy th́ cũng làm thay đổi nhịp sinh học, khiến thanh thiếu niên khó ngủ trước 11 giờ đêm và khó dậy sớm.
Người trưởng thành trung b́nh cần ngủ từ bảy đến chín giờ mỗi đêm. Khi lớn tuổi, nhịp sinh học thay đổi khiến người trên 60 tuổi thường ngủ sớm và dậy sớm hơn, nhưng giấc ngủ lại trở nên nông hơn.
Mất ngủ: Khi giấc ngủ không c̣n là giấc mơ đẹp
Mất ngủ là t́nh trạng phổ biến khi người bệnh không thể ngủ, khó ngủ lại sau khi thức giấc hoặc thức quá sớm. Mất ngủ cấp tính kéo dài không quá vài ngày, trong khi mất ngủ măn tính là t́nh trạng diễn ra ít nhất ba đêm mỗi tuần, trong ṿng ba tháng hoặc lâu hơn. Khoảng 10% dân số toàn cầu từng trải qua mất ngủ măn tính, đặc biệt phổ biến ở những người trên 60 tuổi.
Nguyên nhân gây mất ngủ rất đa dạng: từ căng thẳng, đau đớn, lo âu đến thói quen tiêu thụ caffeine, rượu, thuốc lá hoặc thiếu vận động. Thay đổi giờ giấc sinh hoạt, ngủ trưa nhiều, dùng thuốc ảnh hưởng đến nhịp tim hoặc làm giảm melatonin – hormone điều chỉnh chu kỳ giấc ngủ – cũng có thể là thủ phạm. Di truyền, bệnh lư nền và rối loạn tâm thần cũng là những yếu tố liên quan.
Giữ cho pḥng ngủ yên tĩnh, tối và tránh các thói quen xấu có thể giúp cải thiện chứng mất ngủ cấp tính. Với trường hợp măn tính, cần tham khảo ư kiến chuyên gia để điều trị nguyên nhân nền.
Tác hại nghiêm trọng khi thiếu ngủ
Thiếu ngủ gây ra hàng loạt hệ lụy, khiến người bệnh mệt mỏi, cáu gắt, khó tập trung và phối hợp. Phản xạ chậm, trí nhớ rối loạn là những dấu hiệu rơ rệt. Quan trọng hơn, thiếu ngủ làm tăng nguy cơ tai nạn và chấn thương.
Một nghiên cứu về t́nh trạng thiếu ngủ ở bác sĩ nội trú cho thấy mức độ nhận thức của họ tương đương với người có nồng độ cồn trong máu (BAC) là 0,05%. Ở Mỹ, mức BAC từ 0,05 đến 0,07% đă được coi là “khả năng suy giảm”. Ngoài ra, hiện tượng “ngủ gật vi mô” (microsleeps) – những giấc ngủ ngắn chớp nhoáng – có thể xảy ra bất ngờ, đặc biệt nguy hiểm khi đang điều khiển phương tiện.
Về lâu dài, thiếu ngủ kéo dài dẫn đến “nợ ngủ”, gây ảnh hưởng đến hoạt động của năo và nhiều hệ thống cơ thể như tim mạch, nội tiết, miễn dịch và thần kinh. Thiếu ngủ làm tăng nguy cơ đột quỵ, tiểu đường loại 2, cao huyết áp và bệnh tim. Nó cũng ảnh hưởng đến hormone kiểm soát cảm giác đói, khiến người thiếu ngủ dễ tăng cân. Ngoài ra, thiếu ngủ c̣n làm tăng nguy cơ lo âu và trầm cảm – trong khi chính những rối loạn này cũng có thể làm trầm trọng thêm vấn đề giấc ngủ, tạo thành một ṿng luẩn quẩn khó dứt.
VietBF@ sưu tập
|
|