Người đàn ông bị suy thận mạn cho biết phải sống chung với nhiều căn bệnh như: đái tháo đường type 2, tăng huyết áp, rối loạn chuyển hóa lipid máu.
Suốt 16 năm qua, ông H.N.T (72 tuổi, trú tại Nghệ An) phải sống chung với nhiều căn bệnh như: đái tháo đường type 2, tăng huyết áp, rối loạn chuyển hóa lipid máu. Ông đang điều trị thuốc theo đơn bảo hiểm y tế tại một bệnh viện lớn ở Nghệ An, nhưng ít làm các cận lâm sàng để theo dơi biến chứng của bệnh đái tháo đường và tăng huyết áp.
Khoảng 1 tuần gần đây, ông T. xuất hiện triệu chứng phù mu bàn chân và mặt trước cẳng chân hai bên, kèm theo t́nh trạng tiểu ít hơn b́nh thường. Ông đi khám định kỳ th́ được cảnh báo xét nghiệm creatinine máu tăng (136 µmol/L). Lo lắng ḿnh bị suy thận, ông T. đến PKĐK Medlatec Nghệ An để thăm khám.
Điều tra bệnh sử, được biết bệnh nhân có các biểu hiện như: phù chân, tiểu ít và có tiền sử mắc đái tháo đường type 2, tăng huyết áp, rối loạn chuyển hóa lipid máu trong nhiều năm. Khám các cơ quan, bộ phận khác chưa phát hiện bất thường.
Bệnh nhân được chỉ định làm một số thăm ḍ cận lâm sàng để theo dơi và chẩn đoán bệnh. Kết quả xét nghiệm cho thấy, chỉ số protein và microalbumin trong nước tiểu tăng cao. So sánh với các kết quả trước đó của bệnh nhân, chỉ số này ở mức cao, phản ánh chức năng lọc của thận bị suy giảm.
Mức lọc cầu thận (eGFR) - một chỉ số quan trọng để đánh giá chức năng thận trong 4 tháng gần đây nhất, giảm dần từ 51.8 ml/phút xuống c̣n 44.5 ml/phút. Thông thường, eGFR dưới 60 ml/phút/1,73m2 và kéo dài tối thiểu 3 tháng, chứng tỏ thận của bệnh nhân đă bị tổn thương mạn tính.
Ngoài ra, xét nghiệm nước tiểu cho thấy, bệnh nhân có albumin niệu vi lượng (54.3mg/L), cùng với lượng creatinin niệu là 14917.25 µmol/L, chỉ số uACR là 32.21 - một dấu hiệu cho thấy thận đang bị “ṛ rỉ” albumin.
Từ tất cả các dấu hiệu trên, bác sĩ đưa ra chẩn đoán, bệnh nhân mắc bệnh thận mạn (giai đoạn 3a), đi kèm với đó là các bệnh: đái tháo đường type 2, tăng huyết áp và rối loạn chuyển hóa lipid máu. Bệnh nhân được kê đơn thuốc điều trị ngoại trú và tư vấn chế độ ăn uống, tập luyện.
5 giai đoạn tiến triển và mức độ nghiêm trọng của bệnh thận mạn
Bác sĩ Vơ Thị Lê cho biết, bệnh thận mạn (BTM) được hiểu là những bất thường về cấu trúc hoặc chức năng của thận, kéo dài tối thiểu 3 tháng, gây ảnh hưởng tới sức khỏe người bệnh.
Bệnh được chia thành 5 giai đoạn:
Giai đoạn 1 (eGFR ≥ 90 ml/phút/1,73m²): thận c̣n tốt nhưng đă có tổn thương âm thầm, gần như không có triệu chứng rơ ràng.
Giai đoạn 2 (eGFR 60-89 ml/phút): tổn thương bắt đầu rơ ràng hơn nhưng có thể vẫn chưa có triệu chứng; đă xuất hiện “ṛ rỉ” albumin trong nước tiểu (uACR tăng).
Giai đoạn 3: chia làm suy thận độ 3a (eGFR 45 - 59 mL/phút) và suy thận độ 3b (eGFR 30 - 44 mL/phút). Người bệnh xuất hiện triệu chứng: mệt mỏi, tiểu ít, phù chân tay, cao huyết áp khó kiểm soát, rối loạn cân bằng muối - nước, tăng nguy cơ suy tim…
Giai đoạn 4 (eGFR 15-29 mL/phút): suy thận nặng. Triệu chứng rơ rệt hơn: phù nặng, ngứa, chán ăn, buồn nôn, mất ngủ, suy nhược… Nếu không điều trị kịp thời, người bệnh sẽ đối mặt với nhiều biến chứng nguy hiểm như: suy tim, tăng huyết áp, phù năo, phù phổi và đái tháo đường… Bệnh nhân cần chuẩn bị chạy thận nhân tạo hoặc ghép thận.
Giai đoạn 5 (eGFR < 15 mL/phút): BTM giai đoạn cuối. Thận gần như không c̣n khả năng lọc máu. Người bệnh mệt mỏi cực độ, thở nông, lú lẫn, thậm chí hôn mê. Ở giai đoạn này, bệnh nhân phải chạy thận nhân tạo suốt đời hoặc ghép thận mới duy tŕ được sự sống.
Ai cần tầm soát bệnh thận mạn?
Theo bác sĩ Vơ Thị Lê, trong Hướng dẫn thực hành lâm sàng về bệnh thận (KDIGO 2024) nhấn mạnh vai tṛ quan trọng của uACR và eGFR trong tầm soát và chẩn đoán sớm bệnh thận mạn. Hai xét nghiệm này nên được sử dụng đồng thời để tầm soát và phân tầng nguy cơ. Các đối tượng nguy cơ cao mắc BTM cần được làm xét nghiệm định kỳ và điều trị sớm tránh bệnh thận tiến triển đến giai đoạn cuối, dẫn đến các biến cố tim mạch và tử vong.
"Không phải mọi bệnh nhân bị bệnh thận mạn đều diễn tiến đến giai đoạn cuối. Do bệnh thận mạn là yếu tố nguy cơ cao nhất của bệnh lư tim mạch (không kể bệnh nhân có hoặc không các yếu tố nguy cơ tim mạch kinh điển) và các biến chứng khác (thiếu máu, suy dinh dưỡng, bệnh xương và chất khoáng), bệnh nhân bị bệnh thận mạn có thể tử vong do biến cố tim mạch trước khi đến giai đoạn cuối", bác sĩ Lê chia sẻ.
Những bệnh nhân có nguy cơ cao sau đây cần tầm soát sớm bệnh thận mạn bằng eGFR và uACR:
- Bệnh nhân mắc đái tháo đường;
- Bệnh nhân tăng huyết áp;
- Bệnh nhân mắc bệnh về tim mạch;
- Tiền sử bản thân có bệnh thận khác hoặc gia đ́nh có bệnh thận mạn.
VietBF@ sưu tập
|
|