Với tỷ lệ đóng góp 60% vào ngân sách quốc gia; chiếm hơn 40% số khu công nghiệp và hơn 30% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của cả nước,… vùng kinh tế trọng điểm phía nam là đầu tàu phát triển kinh tế của cả nước. Tuy nhiên, nếu có cơ chế đặc thù, có một “nhạc trưởng” điều phối liên kết đồng bộ, thống nhất, phân công giữa các địa phương, phát huy tốt lợi thế so sánh, gắn chặt với tổng thể quy hoạch và lợi ích vùng, chắc chắn vùng kinh tế trọng điểm phía nam sẽ phát triển mạnh mẽ hơn nữa, thực sự là một đầu tàu thúc đẩy phát triển kinh tế - xă hội đất nước.
Lợi thế địa kinh tế
Với lợi thế địa kinh tế, từ lâu vùng Đông Nam Bộ đă trở thành vùng kinh tế phát triển của phía nam. “Nhà Bè nước chảy chia hai/Ai về Gia Định, Đồng Nai th́ về”; “Gạo Cần Đước, nước Đồng Nai/Ai về xin nhớ cho ai theo cùng”; những địa danh Ô Cấp (Vũng Tàu), Bến Nghé, Sài G̣n, Gia Định, Chợ Lớn, Trấn Biên,… bao đời đă là điểm đến của khách muôn phương, tụ hội đến buôn bán làm ăn. Riêng Sài G̣n, cả trăm năm nay đă được ví là ḥn ngọc viễn đông. Cái thế đất gắn liền với cảng sông, cảng biển đă làm cho Sài G̣n - TP Hồ Chí Minh và các tỉnh Đông Nam Bộ thành điểm hội tụ để phát triển của vùng. Khi đất nước đổi mới, hội nhập và mở rộng giao thương quốc tế, lợi thế ấy lại càng được nâng lên, trở thành động lực cho vùng cất cánh. Cùng với TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, đă sớm bứt phá trở thành trung tâm kinh tế công nghiệp, dịch vụ của cả nước.
Do sự lan tỏa và đ̣i hỏi phát triển kinh tế của vùng, từ tam giác kinh tế (TP Hồ Chí Minh - Đồng Nai - Bà Rịa - Vũng Tàu) đă h́nh thành vùng kinh tế trọng điểm phía nam của đất nước, gồm tám tỉnh, thành phố: Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, B́nh Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây Ninh, B́nh Phước, Long An và Tiền Giang. Chỉ riêng về liên kết cơ học, cũng dễ dàng nhận thấy vùng này đă là đầu tàu, động lực phát triển kinh tế của khu vực phía nam và cả nước, đi đầu trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước bởi tốc độ tăng trưởng kinh tế của vùng đạt b́nh quân 10%/năm, gấp hai lần b́nh quân chung của cả nước. Tổng thu ngân sách nhà nước tại khu vực này đạt khoảng 450 ngh́n tỷ đồng, chiếm 60% tổng thu ngân sách cả nước. Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 60 tỷ USD, chiếm hơn 50% của cả nước. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng b́nh quân 7,5%/năm. Tính đến nay, toàn vùng có 128 khu công nghiệp được thành lập, chiếm 43,7% tổng số các khu công nghiệp của cả nước, với khoảng 45 ngh́n ha. Trong đó diện tích cho thuê gần 30 ngh́n ha. Các khu công nghiệp đă thu hút 3.294 dự án với tổng vốn đăng kư 42 tỷ USD, vốn đầu tư đă thực hiện đạt 19 tỷ USD và 2.245 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đăng kư 210 ngh́n tỷ đồng, đă thực hiện 83 ngh́n tỷ đồng.
Trong nhiều năm qua, Trung ương rất quan tâm đến thành phố Hồ Chí Minh, vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía nam bởi vị thế và vai tṛ là đầu tàu kinh tế của đất nước. Năm 2005, Bộ Chính trị khóa IX ra Nghị quyết 53-NQ/TW về đẩy mạnh phát triển kinh tế - xă hội và bảo đảm quốc pḥng, an ninh vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía nam đến năm 2020. Đến năm 2012, Bộ Chính trị đă tổng kết Nghị quyết 53-NQ/TW, đồng thời ban hành Kết luận 27-KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết 53-NQ/TW. Chính phủ, các bộ ngành, địa phương liên quan đă cụ thể hóa thành chương tŕnh, kế hoạch thực hiện. Trong năm 2012, Bộ Chính trị khóa XI cũng ra Nghị quyết 16-NQ/TW về phương hướng, nhiệm vụ phát triển TP Hồ Chí Minh đến năm 2020.
Những bất cập
Việc liên kết vùng và phân công trong vùng chưa có tác động nhiều từ vai tṛ quản lư nhà nước, dẫn đến có biểu hiện cục bộ lợi ích địa phương, thiếu sự điều phối trong cạnh tranh, trong kêu gọi đầu tư, gây lăng phí nguồn lực. Việc quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng cảng biển trong khu vực như cảng Thị Vải-Cái Mép với hệ thống cảng Hiệp Phước, cảng B́nh Dương, Đồng Nai rất tốn kém, c̣n nhiều bất cập vận hành thiếu đồng bộ, kém hiệu quả. Cảng Thị Vải-Cái Mép chỉ hoạt động khoảng 20% công suất, việc vận tải biển phụ thuộc lớn vào các hăng tàu nước ngoài. Trong những năm qua, kết cấu hạ tầng giao thông được đầu tư rất nhiều nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Giao thông nội tỉnh, các tuyến nối vào đường quốc gia, khu công nghiệp, đô thị vệ tinh, cảng và giữa các địa phương c̣n yếu kém, chưa đồng bộ. Tuyến đường từ G̣ Công (Tiền Giang) Cần Đước, Cần Giuộc (Long An) vào TP Hồ Chí Minh qua quốc lộ 50 vẫn c̣n nhỏ hẹp; tuyến tỉnh lộ 10 kết nối khu vực Tân Tạo, Phạm Văn Hai (thành phố Hồ Chí Minh) với Đức Ḥa (Long An) vẫn c̣n đoạn thắt cổ chai; tuyến đường sông từ B́nh Dương ra cảng biển vẫn hạn chế do độ cao thông thuyền của cầu B́nh Lợi thấp,... T́nh trạng ô nhiễm môi trường, nhất là ô nhiễm nguồn nước và xử lư chất thải rắn là vấn đề bức xúc trong vùng, như ô nhiễm kênh Ba Ḅ, Vedan xả thải ra sông Đồng Nai, ô nhiễm lưu vực sông Sài G̣n-Đồng Nai, sông Vàm Cỏ,… đă và đang tốn rất nhiều giấy mực của báo chí và quan tâm của dư luận. Hay việc, một thời, các tỉnh có đường biên giới đua nhau phát triển kinh tế cửa khẩu nhưng hiệu quả thấp, gây lăng phí nguồn lực. Điều này cho thấy, tính bền vững trong phát triển vẫn là điểm yếu trong chiến lược phát triển vùng.
Một số địa phương cho rằng, việc quy hoạch vùng lâu nay thiếu toàn diện và công tác quản lư quy hoạch không chặt chẽ. Nguyên tắc, tŕnh tự lập quy hoạch chưa bảo đảm tính đồng bộ hệ thống, chưa gắn kết quy hoạch chiến lược quốc gia, quy hoạch phát triển ngành và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xă hội 5 năm, 10 năm cấp tỉnh, quy hoạch phát triển sản phẩm chủ lực của từng địa phương, quy hoạch đô thị thiếu bền vững để ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu,… nhất là công tác kiểm tra, giám sát thực hiện quy hoạch chưa được quy định cụ thể.
Công nghiệp tăng trưởng cao so b́nh quân chung cả nước nhưng vẫn thiếu bền vững. Việc đổi mới công nghệ chậm, tỷ lệ nội địa hóa một số ngành thấp. Ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp phụ trợ chưa được chú trọng đúng mức, phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế vùng. Tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp chưa cao: TP Hồ Chí Minh đạt 80%, các tỉnh Đồng Nai 71%, Tiền Giang 65,3%, B́nh Dương 63%, B́nh Phước 63%, Tây Ninh 55%, Long An 45%, Bà Rịa - Vũng Tàu 32%. Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Tại TP Hồ Chí Minh tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề mới đạt 66%, Đồng Nai 60%, B́nh Dương 66%, Bà Rịa -Vũng Tàu 64%, Tây Ninh 53%, Tiền Giang 41%, Long An 36%, B́nh Phước 30%. Việc đào tạo nghề và liên kết đào tạo nghề trong vùng c̣n hạn chế.
Nh́n chung, giữa các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm phía nam vẫn có chênh lệch về tŕnh độ và quy mô phát triển kinh tế. TP Hồ Chí Minh thu ngân sách hơn 250 ngh́n tỷ đồng, Bà Rịa - Vũng Tàu hơn 115 ngh́n tỷ đồng, Đồng Nai hơn 36 ngh́n tỷ đồng, B́nh Dương hơn 30 ngh́n tỷ đồng, bốn tỉnh c̣n lại là B́nh Phước, Tiền Giang, Tây Ninh và Long An nằm “ṿng ngoài” của vùng kinh tế trọng điểm phía nam, chỉ đạt b́nh quân từ 3.500 đến 5.000 tỷ đồng, khoảng cách chênh lệch rất xa so với bốn tỉnh, thành phố vùng “lơi” tứ giác kinh tế Đông Nam Bộ. Mức thu nhập b́nh quân của người dân trong vùng cũng chênh lệch rất lớn. Đến nay, vẫn chưa có giải pháp để giảm sự chênh lệch về kinh tế giữa các địa phương, đây cũng là một trở ngại trong liên kết hợp tác toàn diện của vùng. TP Hồ Chí Minh là địa phương có tiềm lực kinh tế mạnh nhất của vùng và cả nước, riêng thành phố đóng góp gần 1/3 GDP của cả nước. Trên tinh thần v́ cả nước, cùng cả nước, TP Hồ Chí Minh đă kư kết hợp tác với các tỉnh trong vùng nhưng đây cũng chỉ là hợp tác song phương, tác động cộng hưởng phát triển vùng chưa lớn bởi ngoài liên kết riêng rẽ với TP Hồ Chí Minh, sự liên kết chéo, toàn diện, đồng bộ giữa các tỉnh, thành trong khu vực vẫn mờ nhạt.
Cần một “nhạc trưởng” và cơ chế đặc thù
Nhiều địa phương cho rằng, do chưa có một “nhạc trưởng” điều phối chỉ đạo chung, cho nên hạn chế sự phát triển của vùng. Điều này dẫn đến sự liên kết giữa các loại quy hoạch trên địa bàn; liên kết vùng đạt hiệu quả chưa cao, phân công, phân cấp không rơ ràng, chưa phát huy đầy đủ tiềm năng, lợi thế so sánh của vùng, của từng địa phương, dẫn đến lăng phí nguồn lực. Trước yêu cầu phát triển của vùng, trong năm 2014 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đă ban hành hai quyết định quan trọng là Quyết định 252/QĐ-TTg ngày 13-2-2014 về quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xă hội vùng kinh tế trọng điểm phía nam đến năm 2020, tầm nh́n đến 2030; Quyết định số 275/QĐ-TTg ngày 18-2-2014, về ban hành kế hoạch triển khai Kết luận 27 của Bộ Chính trị với 12 nhiệm vụ, phân công các cơ quan địa phương triển khai thực hiện; giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư làm cơ quan thường trực thực hiện kế hoạch. Trên cơ sở này, các tỉnh, thành phố trong vùng tiến hành điều chỉnh lại quy hoạch cho phù hợp với quy hoạch vùng. Tuy nhiên, việc triển khai này vẫn chậm, chưa rơ cơ chế để điều hành và vận hành sự liên kết. Bài học kinh nghiệm từ một số vùng kinh tế khác, tuy đă h́nh thành ban chỉ đạo nhưng vướng cơ chế, cho nên rất khó trong chỉ đạo điều hành. Khi ban chỉ đạo chỉ có thể chỉ đạo bằng định hướng mà thiếu thẩm quyền ra quyết sách, điều phối, phân công th́ các địa phương cũng không mặn mà, sự liên kết vẫn lửng lơ. Ngoài ra, trong vùng c̣n có trường hợp khá đặc biệt, tỉnh Tiền Giang và Long An được xác định nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía nam, vừa nằm trong vùng đồng bằng sông Cửu Long. Cùng lúc hai tỉnh này thực hiện hai nghị quyết của Bộ Chính trị (Nghị quyết 21-NQ/TW về phát triển kinh tế - xă hội, bảo đảm quốc pḥng-an ninh vùng đồng bằng sông Cửu Long và Nghị quyết 53-NQ/TW về phát triển kinh tế - xă hội, bảo đảm quốc pḥng-an ninh vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía nam). Đây là lợi thế rất lớn nhưng trên thực tế, kinh tế hai địa phương này vẫn chưa có bước phát triển đột phá để thành động lực mạnh thúc đẩy hai vùng Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ.
Từ nhu cầu cần phát triển nhanh hơn nữa của vùng kinh tế trọng điểm phía nam, từ kinh nghiệm thực tiễn hoạt động của các vùng kinh tế và các ban chỉ đạo vùng của các khu vực trong nước, các địa phương vùng kinh tế trọng điểm phía nam rất mong Trung ương xem xét cho vùng hoặc một số địa phương có thế mạnh, có sự liên kết trong vùng, được áp dụng một số cơ chế đặc thù để tận dụng tối đa tiềm lực, tiềm năng, lợi thế, kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực hiện có, tạo bước đột phá trong phát triển, thật sự làm đầu tàu, động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xă hội của vùng và cả nước.
NGUYỄN ĐỨC CUNG