Log in

View Full Version : Your's Health


Pages : 1 2 3 [4] 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20

florida80
05-11-2019, 18:22
16 Công Dụng Của Kem Đánh Răng Bạn Gái Cần Biết

https://i.imgur.com/11LgslL.jpg





Ngoài việc vệ sinh khoang miệng, giúp răng chắc khỏe, kem đánh răng cũng là một sản phẩm cực kỳ đa năng. Dưới đây là 16 mẹo vặt với kem đánh răng mà các cô gái đảm đang cần biết.



1. Làm sáng đồ bạc

Với trang sức hay dao, nĩa làm từ chất liệu bạc lâu ngày xỉn màu, hăy lấy một lượng nhỏ kem đánh răng lên chiếc bàn chải cũ, sau đó chà xát nhẹ nhàng quanh khu vực bị xỉn. Chỉ sau vài giây, mọi thứ sẽ trở nên sáng loáng và bạn chỉ cần rửa lại với nước sạch.




2. Làm sáng đèn pha ôtô



Muốn làm sáng đèn pha ô tô, bạn chỉ cần chút kem đánh răng, một cái giẻ mềm và nước. Cách làm sạch ḱ diệu này đến từ khả năng mài ṃn và đánh bóng của kem đánh răng.




3. Làm sạch phím đàn



Chịu tác động nhiều từ tay người đánh, những phím đàn piano có thể bị ố vàng trông rất xấu và mất vệ sinh. Hăy bơm chút kem đánh răng vào giẻ mềm, nhẹ nhàng chà mặt phím đàn rồi lấy khăn ẩm lau sạch.




4. Làm trắng mũi giày thể thao



Bạn muốn làm sạch và đánh trắng phần cao su của đôi giày thể thao? Hăy sử dụng một chút kem đánh răng không gel và một cái bàn chải đánh răng cũ. Sau khi kỳ cọ phần cần làm sạch, dùng một miếng vải ẩm lau sạch những bọt kem c̣n sót lại.




5. Giúp kính bơi không bao giờ “hấp hơi”

Khi đi bơi, hơi nước hay làm mờ mắt kính, khiến kính bơi “có mà như không”. Thủ thuật đơn giản sau sẽ giúp giải quyết triệt để vấn đề: bôi một lớp kem đánh răng mỏng phía trong mắt kính, để khoảng 30s, sau đó rửa sạch với nước lạnh. Kính sẽ luôn “trong vắt”, giúp bạn nh́n thấu tới tận đáy bể bơi.



Ngoài ra, cách này c̣n dùng được cho tất cả các loại kính mát nữa đấy!




6. Làm sáng mặt gỗ



Thật khó chịu khi phát hiện những vết ố tṛn đă khô két lại trên mặt bàn, ghế gỗ mà bạn lau đi lau lại vẫn không hết. Hăy bơm chút xíu kém đánh răng lên giẻ mềm hoặc miếng xốp, sau đó chà nhẹ nhàng. Vết ố sẽ biến mất trong tích tắc!




7. Loại bỏ các vết ố, vệt màu khó chịu trên áo quần

Chiếc sơ mi trắng có nguy cơ đi thẳng ra thùng rác khi bạn trót để rớt nước tương, nước chè hay thậm chí là son môi lên áo! Hăy nhanh thay bôi chút kem đánh răng lên vết bẩn, đợi vài phút, rồi dùng bàn chải cũ lông mềm hoặc miếng xốp chà nhẹ (tránh mạnh tay hoặc sử dụng các vật dụng khô, cứng khiến mặt vải bị xơ sợi), sau đó đem đi giặt.



Lưu ư với những quần áo có màu, bạn nên chọn kem đánh răng không chứa chất tẩy trắng.




8. Cho ṿi nước sáng bóng



Bồn rửa mặt với ṿi sáng bóng luôn gợi lên cảm giác sạch sẽ và sang trọng cho pḥng tắm. Thi thoảng lại lau bằng khăn ẩm có chút kem đánh răng sẽ đảm bảo cho ṿi độ sạch và sáng như gương thế này.




9. Làm sạch mặt bàn ủi

Cũng như cách chúng ta vệ sinh đồ bạc hay ṿi nước inox trong pḥng tắm, mặt bàn là cũng có thể được làm sạch bằng kem đánh răng. Bạn có thể bơm kem trực tiếp rồi dùng khăn chà nhẹ theo ṿng tṛn, cuối cùng dùng khăn ẩm lau sạch.



Lưu ư: Chỉ vệ sinh khi mặt bàn là đă nguội hẳn hoặc trước khi cắm điện và không được xả nước trực tiếp để làm sạch.




10. Bảo vệ màn h́nh smartphone



Sau một thời gian sử dụng, bề mặt kính của chiếc điện thoại cảm ứng ố xỉn vệt vân tay và các chất bẩn đóng lại. Dùng kem đánh răng lau nhẹ để trả lại một màn h́nh sáng loáng, khiến chiếc smartphone trông chẳng khác ǵ lúc vừa “đập hộp” mà lại c̣n bền, khó xước hơn.




11. Cho bộ móng xinh sẵn sàng tô vẽ



Không chỉ là chất tẩy an toàn với các sản phẩm gia dụng, kem đánh răng cũng sẽ giúp bộ móng tay của bạn sạch bóng và mịn màng, phục vụ các thao tác tô điểm sau đó. Bôi kem lên các đầu ngón tay rồi dùng bàn chải chà nhẹ. Rửa sạch dưới ṿi và tất cả những vết ố bẩn hay màu sơn c̣n sót lại sẽ biến mất.




12. Khử mùi khó chịu trên tay



Ngoài năng lực tẩy sạch, kem đánh răng c̣n có thể giúp bạn “trừ khử” những mùi thực phẩm tanh nồng c̣n vương lại trên tay, như mùi cá, mùi hành tỏi. Thay v́ sử dụng xà bông, bơm ra tay chút kem đánh răng, lượng chỉ bằng hạt đậu, chà xát và rửa sạch. Mùi hôi, tanh biến mất, chỉ c̣n lại hương thơm the mát nhẹ nhàng.




13. Làm sạch những vết xước trên đồ da



Bạn chỉ cần xịt một chút kem đánh răng vào khu vực trầy xước, dùng một miếng vải mềm chà xát lại. Sau đó, làm sạch bằng một miếng vải mềm ẩm. Đồ da sẽ lại như mới.




14. Khử mùi b́nh sữa của bé



Nếu b́nh sữa của bé có mùi chua của sữa lên men, bạn có thể loại bỏ mùi dễ dàng với kem đánh răng. Dùng bàn chải và kem đánh răng chà xát nhẹ b́nh, sau đó rửa sạch b́nh với nước.




15. Lau sạch các vết màu sáp trên tường



Bức tường đẹp đẽ bỗng bị bọn trẻ vẽ đầy những nét màu sáp nguệch ngoạc. Chỉ cần xịt một chút kem đánh răng lên tường, lấy một miếng giẻ (tốt hơn nữa th́ lấy một bàn chải đánh răng) chà xát. Chất mài ṃn nhẹ trong kem đánh răng sẽ nhanh chóng tẩy hết những vết màu sáp. Sau đó, chỉ cần rửa lại tường bằng nước.




16. Làm sạch mụn



Thoa một chút kem đánh răng không gel, không chất làm trắng lên phần da có mụn và để khô qua đêm. Trong kem đánh răng có chất khử nước trong mụn và hấp thụ dầu. Phương thức khử mụn bằng kem đánh răng rất hữu hiệu với những mụn đă nhú đầu, nhưng có thể sẽ gây khó chịu cho làn da nhạy cảm.




Theo báo điện tử VTC News

florida80
05-11-2019, 18:24
Khi Năo Bộ “Làm Biếng” - BS Lương Lễ Hoàng


https://i.imgur.com/2ornCBz.png





Cần ǵ phải là trí thức khoa bảng cho cao siêu, thử hỏi ngày nay mấy ai không phải suy nghĩ trong cuộc tất bật v́ chạy ăn, chạy trường, chạy điểm, chạy đủ thứ? Đă vậy lắm khi phải phán đoán chính xác, phải quyết định cấp kỳ một vấn đề nào đó. Có thực mới vực được đạo. Khỏi dông dài cũng hiểu, tế bào năo dễ ǵ hoạt động với hiệu quả như mong muốn nếu thiếu dưỡng khí, thiếu dưỡng chất, thừa phế phẩm hay ngộp thở v́ độc chất.





Chuyên gia khoa thần kinh đă chứng minh khả năng tư duy tùy thuộc vào tỉ lệ giữa dưỡng chất và tạp chất trong hệ thần kinh. Từ nhận thức đó, các nhà nghiên cứu đă tiếp cận lư do khiến năo bộ chỉ thích “làm biếng” v́ suy... dinh dưỡng:




- Thiếu chất béo của rau quả, như trong trái bơ, nên dẫn truyền thần kinh chạy lạc đường. Hậu quả là gia chủ quá chậm chạp khi cần phán đoán.




- Thiếu kali v́ ít khi ăn chuối nên dễ lo lắng đến độ mất ngủ khi gặp chuyện trục trặc dù chỉ là chuyện nhỏ.




- Ít khi có ly sữa đậu nành trước khi ngủ để tạo hưng phấn tiến tŕnh tổng hợp serotonin - nội tiết tố cần thiết cho giấc ngủ yên b́nh. Hậu quả là gia chủ mang công việc vào giấc ngủ nhưng lại khó tập trung trong buổi sáng hôm sau.




- Ít khi có các món cải, nhất là cải broccoli trên bàn ăn, nên đêm nào cũng gặp ác mộng hay mơ toàn chuyện căi vă với cấp trên, với đồng nghiệp...




- Hiếm khi có món bông cải, xào hay hấp kiểu nào cũng được, nên năo bộ mất tính nhạy bén khi cần quyết định việc cấp kỳ.




- Thiếu B6, loại sinh tố chống trầm uất, nên dễ buồn vô cớ dù không gặp trở ngại trong cuộc sống. Trong trường hợp này, cà tím là món nên thuốc nhờ tác dụng thư giăn thần kinh để gia chủ từ từ suy nghĩ, thay v́ nghĩ ngợi lung tung mà chẳng đến đâu.




- Cữ ngọt v́ sợ bệnh tiểu đường, dù chưa bệnh, mà không ngờ tụt đường huyết trong những ngày căng thẳng là lư do bào ṃn sức chịu đựng của hệ thần kinh.




- Không có thói quen ăn vặt với đậu phộng húng ĺu, hột điều rang muối trước khi thuyết tŕnh, hội thảo, nên không thể tận dụng tác dụng trung ḥa stress của kẽm trong cảnh dầu sôi lửa bỏng.




- Thiếu magiê trong mễ cốc, cá thu nên người dễ đổ quạu khi thường phải sống trong cảnh “trên đe dưới búa”.




- Không ưa khoai lang và cà chua nên dễ bi quan khi bắt đầu công việc mới.




- Thức dậy với cảm giác sợ ngày mới v́ cơ thể thiếu sinh tố C do xài hết trong giấc ngủ... trăn trở. Với số đối tượng này, nhất là người phải thức khuya dậy sớm, nên mạnh miệng với ớt chuông v́ ngoài sinh tố C, ớt này chứa nhiều hoạt chất vừa gây phấn khởi vừa kéo dài hoạt động của năo bộ.




Trong truyện “Tây Du kư”, hầu như chưa thấy lần nào Tôn Ngộ Không phải phân vân khi vung thiết bảng. Người cần động năo chắc chắn không mong ǵ hơn là có khả năng vận dụng trí óc nhẹ nhàng như tiên làm phép. Chuyện ǵ muốn xong cũng cần điều kiện. Thiếu ăn, năo chắc chắn khó vận động tới nơi. Nhưng chớ quên rằng không chỉ ăn được để năo đủ chất bổ mà c̣n phải ngủ được mới mong thành tiên. Ăn đúng món bổ năo nhưng ngủ không ngon giấc th́ nếu may mắn thành tiên th́ cao lắm chỉ là tiên... mắc đọa!




Bác sĩ Lương Lễ Hoàng

florida80
05-11-2019, 18:26
Thừa Chất Sắt Dễ Gây Ung Thư


https://i.imgur.com/iDgtXKP.png





Thiếu sắt gây thiếu máu, v́ vậy, trẻ em và phụ nữ thường phải bổ sung chất sắt. Tuy nhiên, việc dư thừa chất sắt lại gây ra nhiều loại ung thư nguy hiểm.



Sắt là chất quan trọng trong cơ thể, có mặt trong mọi tế bào và rất cần thiết trong việc duy tŕ sự khoẻ mạnh của hệ miễn dịch, các cơ và điều chỉnh sự phát triển của các tế bào.


GS.TS Bùi Minh Đức, Viện Dinh dưỡng Quốc gia cho biết, sắt vô cùng quan trọng với cơ thể. Thiếu sắt gây thiếu máu, ốm đau và suy nhược, thậm chí tử vong. Tuy nhiên, sắt dư thừa lại vô cùng độc hại, là thủ phạm của nhiều bệnh tật, đặc biệt là ung thư.






Theo đó, trong khẩu phần ăn nếu lượng sắt quá nhiều có thể tạo khối u trong gan, phổi, mô, ruột kết tràng hoặc tự phát thành bệnh nhiễm sắc tố sắt nội mô với tăng nguy cơ ung thư tế bào gan, dạ dày, ruột kết tràng và có thể cả ung thư phổi, thực quản, bàng quang.






Lượng sắt quá nhiều trong khẩu phần ăn có thể là nguyên nhân phát triển xơ gan và ung thư gan. Cơ chế của nó là do, sắt có trong tế bào dưới dạng transferin có nhiệm vụ vận chuyển protein trong huyết tương, liên kết với chất tiếp nhận trên bề mặt tế bào và khi transferin đă băo ḥa sắt sẽ tác động tăng sinh tế bào.






Khi mức băo ḥa transferin đạt trên 60% sẽ dẫn đến nguy cơ gây ung thư.






BS Phạm Đ́nh Tuần, Pḥng khám Ung thư, Trung tâm Y tế Thái Hà cho hay, sắt có nhiều trong các loại ngũ cốc, đậu đỗ, rau cải xoong, rau bina, cải xoăn, hạt vừng, hướng dương, ḷng đỏ trứng, ṣ, trai, cá béo...






Đặc biệt là thịt màu đỏ chứa rất nhiều sắt, làm tăng cao nồng độ sắt tự do có hại, ngay cả khi các protein chưa đủ băo ḥa với sắt.






Một số nghiên cứu đă lấy chiết xuất dịch từ núm vú bằng một máy bơm vú ở phụ nữ tiền măn kinh, sau măn kinh để nghiên cứu và phát hiện rằng phụ nữ bị ung thư vú có mức ferritin (một protein vận chuyển sắt) trong dịch vú cao hơn 5 lần so với b́nh thường.






Các chuyên gia cảnh báo, sắt cũng giống như ch́, thủy ngân, nhôm và mangan, là chất luỹ tích, không thể bài tiết. Mỗi ngày, chúng ta chỉ có thể bài tiết khoảng 1,2mg bất kể hấp thụ nhiều hay ít.






V́ vậy, nếu sắt đă được hấp thụ hơn lượng cần thiết, rất khó để loại ra khỏi cơ thể. Phần lớn lượng dư thừa sẽ được tích trữ trong gan ở dạng phức hợp sắt protein là ferritin.






Khi ferritin băo hoà, một phức hợp sắt khác là hemosiderin được giải phóng và có thể dẫn đến hàng loạt ảnh hưởng bất lợi lên các tế bào gan. Thức ăn chứa quá nhiều sắt không được hấp thụ hết có thể giải phóng các gốc oxy trong ruột, gây ung thư ruột thừa. Đặc biệt, chế độ ăn nhiều sắt kết hợp với các thuốc, thực phẩm bổ sung sắt sẽ là nguy cơ khó lường.






Theo Bee

florida80
05-11-2019, 18:28
Đây Là Những Cây Trồng Trong Nhà Nguy Hiểm Cho Trẻ Con (HCĐ)


https://i.imgur.com/f0CaPjM.jpg

florida80
05-11-2019, 18:31
Kinh Nghiệm Thực Tế : Phát Hiện Kịp Thời "Heart Attack"


https://i.imgur.com/Xm4yVur.jpg





Tối thứ ba tuần trước, sau khi gửi ư kiến về Lá Diêu Bông vào D Đ, tôi đi ngủ rất ngon đến hơn 6 giờ sáng, dậy đi tắm và sửa soạn đi làm, cảm thấy thoải mái b́nh thường, không có triệu chứng ǵ khác lạ. Khoảng 7 giờ hơn, khi với tay tắt ngọn đèn trên đầu tủ (hơi cao), tôi bỗng thấy mặt nóng bừng, mồ hôi toát ra, hai cánh tay ră rời như vừa khiêng vác vật nặng quá sức. Khi đó, tôi hơi nghi là bị stroke (đứt hoặc nghẽn mạch máu dẫn vào óc), liền lấy máy đo huyết áp, thấy rất cao, khoảng 180/100. Tôi vội lấy 2 viên thuốc chống cao máu uống liền một lúc. (Tiếc rằng nhà không có sẵn aspirin). Ngay sau đó, tôi xuống cầu thang th́ bắt đầu thấy tức ngực, đau khoảng giữa lồng ngực, nửa như đau bao tử (xót bao tử khi đói), nửa như bị ai đấm vào chấn thủy. Nh́n vào gương, cười, nói, dơ tay lên xuống th́ không thấy có ǵ biến đổi hay khó khăn, không nhức đầu chóng mặt, hát thử vài câu vẫn thấy dở như thường, nghĩa là không có những triệu chứng của stroke. Tôi liền nghĩ ngay đến heart attack (cơn đau tim), chứ không phải stroke. Không chần chờ nữa, tôi gọi số cấp cứu 911 ngay. Lúc đó vào khoảng 7 giờ 20, chỉ chừng 10 phút sau khi tôi nhận thấy triệu chứng khó chịu đầu tiên.






Qua điện thoại, nhân viên cấp cứu bảo tôi ngồi hoặc nằm ở tư thế nào thấy thoải mái nhất, nhờ người nhà lấy tất cả những thứ thuốc tôi đang uống để sẵn, và để ngỏ cửa vào nhà. Khi đó tôi vẫn tỉnh táo, đọc tên từng loại thuốc và liều lượng đang uống cho họ, nhưng rất khó thở và hai cánh tay rất mỏi. Vẫn không thấy nhức đầu và không nói líu lưỡi (không phải stroke). Chừng 5 phút sau, xe cấp cứu tới. Người paramedic (chuyên viên cấp cứu) cho tôi nhai ngay chừng 5 hay 6 viên baby aspirin (loại 81 mg), nhai rồi nuốt trửng chứ không chiêu với nước để cho thuốc thấm theo nước miếng vào các mạch máu nhỏ dưới lưỡi, mục đích là làm cho máu loăng ra. Đồng thời họ xịt Nitroglycerin lỏng vào dưới lưỡi tôi ba lần, mỗi lần cách nhau chừng 5 phút, để cho các mạch máu giăn nở (không được dùng quá 3 lần, kẻo sự giăn nở mạch máu quá đáng, có thể gây stroke). Tôi thấy bớt tức ngực, thở dễ hơn, nhưng hai cánh tay vẫn ră rời. Trái lại, đầu óc tỉnh táo, không nhức đầu, và chân đi vẫn vững vàng (không stroke).






Chừng 5 phút sau, xe cứu thương tới. Tôi đă cảm thấy dễ thở hơn và có thể tự đi ra trèo lên băng-ca cấp cứu. Trên đường vào vào bệnh viện, tôi để ư thấy xe không hụ c̣i - có nghĩa là không có ǵ khẩn cấp lắm. Trên xe, người paramedic hỏi chuyện tôi liên tục, mục đích là coi tôi có tỉnh táo, có bị stroke khiến nói ngọng không. Có người vừa bị heart attack vừa bị stroke, rất nguy hiểm.






Khoảng 15 phút sau đến bệnh viện, họ đưa tôi vào khu cấp cứu, có bác sĩ chăm sóc ngay lập tức. Họ tiếp "nước biển" ḥa thuốc làm loăng máu và làm tan máu đông (blood clots), morphine làm bớt đau, chụp quang tuyến X lồng ngực để t́m dấu vết sưng phổi nếu có (pneumonia), đo tâm động đồ (EKG). Đồng thời họ cho thử máu để t́m chỉ số enzyme định bệnh tim. Khi tim bị thiếu máu, tim sẽ tiết ra loại enzyme này. Nếu chỉ số enzyme cao tức là bệnh nhân đă bị heart attack. Lần đầu, có lẽ v́ thử nghiệm quá sớm, nên chỉ số không cao. Họ chờ 2 tiếng sau thử lại, th́ mới rơ ràng là bị heart attack. V́ nhịp tim của tôi đập không quá nguy cấp, nên bác sĩ không mổ ngay. Trong thời gian đó, tuy vẫn nằm ở khu cấp cứu, nhưng tôi rất tỉnh táo, bớt đau ngực và tay, và c̣n có thể lấy smart phone ra trả lời ngắn gọn một hai emails.






Lạ một điều là tâm động đồ làm mấy lần đều không có dấu hiệu heart attack rơ ràng. Sau này bác sĩ giải thích rằng bắp thịt tim tôi chưa bị hư hại và c̣n hoạt động mạnh dù bị attacked, có lẽ nhờ vào việc tôi bơi lội thường xuyên (tôi thường bơi 40 đến 60 chiều dài hồ bơi trong một giờ, một hai lần mỗi tuần - nhưng từ sáu tháng nay bận nhiều việc quá nên chuồn, không bơi, không tập thể dục ǵ hết!).






Khoảng 3 giờ chiều th́ bác sĩ chuyên khoa tim quyết định làm phẫu thuật thông mạch máu tim (angioplasty). Theo kỹ thuật này, bác sĩ cắt một lỗ rất nhỏ ở mạch máu gần háng hay cổ tay - trường hợp của tôi bác sĩ cắt ở cổ tay - rồi luồn một camera cực nhỏ ở đầu một catheter (ống mềm rất mảnh) đưa vào đến động mạch tim. Camera sẽ chiếu lên màn ảnh computer lớn như TV cỡ 60" để cho thấy chỗ bị tắc nghẽn. Khi đó tôi vẫn tỉnh, chỉ hơi mơ mơ buồn ngủ do được chích thuốc an thần, không làm mê hoàn toàn, và không cảm thấy đau đớn ǵ hết. Khi t́m ra chổ mạch máu nghẽn, bác sĩ sẽ "bắn" cho cục máu đông (blood clot) tan ra, rồi đẩy một "bong bóng" (balloon) vào chỗ đó, xong bơm cho bong bóng căng lên, làm phồng khúc mạch máu nghẹt khiến cho máu thông dễ dàng, trước khi x́ hơi bong bóng, c̣n để lại một "giàn lưới" (stent) h́nh ống, nằm lót bên trong nhằm căng khúc mạch máu đó ra. Lưới sẽ nằm vĩnh viễn trong mạch máu tim, nên bệnh nhân sẽ phải uống thuốc làm loăng máu dài dài, nếu không, máu đông có thể kẹt vào đó làm heart attack nữa!






Cuộc giải phẫu, ban đầu dự tính chừng 45 phút, đúng hai giờ mới xong! Mà vẫn c̣n hai mạch máu nữa chưa được thông, nên vài tuần nữa tôi sẽ phải vào bệnh viện làm tiếp. Tuy nhiên, lần sau sẽ dễ dàng hơn nhiều, có thể làm xong trong ngày, trừ khi tôi để cho bị heart attack nữa. Sau khi mạch máu tim được thông, tôi cảm thấy dễ chịu ngay lập tức. Hai cánh tay hết mỏi ră rời, ngực hết tức, nhịp thở gần b́nh thường trở lại.






Bác sĩ đă mổ từ mạch máu ở cổ tay tôi, luồn vào tim, nên tôi mau hồi phục hơn là mổ từ dưới háng. Sau ba ngày, mở băng ra, cổ tay tôi chỉ c̣n vết đóng vảy cỡ như bị con kiến lửa cắn rồi ḿnh găi ra mà thôi! Tuy nhiên, dọc theo cánh tay có vết bầm phía bên trong, chắc là do đường ống luồn qua gây nên. Không đau đớn ǵ cả. Tim không có cảm giác ǵ mới lạ, vẫn yêu, thương, hờn, giận... như thường! Đặc biệt là sau khi được thông mạch máu tim, huyết áp của tôi xuống và nằm ở mức rất tốt, rất ổn định. Bác sĩ giải thích là do mạch máu được thông nên tim đỡ phải làm việc nhiều, không cần bơm máu mạnh như trước nữa, nên áp suất nén vào thành mạch máu cũng giảm đi. Thật là một công đôi việc!






Qua tai biến này, tôi rút ra được vài kinh nghiệm quư báu như sau, xin được chia sẻ cùng Diễn Đàn:






Thứ nhất, B̀NH TĨNH MÀ RUN! Đúng vậy, ai mà không run khi nghĩ đùng một cái ḿnh đang bị một trong hai chứng bệnh giết người nhiều nhất và nhanh chóng nhất: Heart attack đứng đầu, stroke thứ ba, chỉ sau ung thư. Nhưng phải thật b́nh tĩnh và tỉnh táo để không lăng phí từng giây phút và làm bệnh thêm trầm trọng.






Thứ hai, NGƯNG MỌI HOẠT ĐỘNG VÀ ĐỂ Ư NGAY KHI CÓ TRIỆU CHỨNG LẠ THỨ NHẤT (trường hợp tôi là toát mồ hôi dù buổi sáng khá lạnh). Nếu đang lái xe, cần phải t́m chỗ an toàn đậu lại ngay. Chú ư: Nếu có cell phone, luôn luôn mang bên ḿnh, không để trong cặp hay giỏ đàng sau cóp xe.






Thứ ba: GỌI CẤP CỨU NGAY KHI CÓ NHIỀU HƠN MỘT TRIỆU CHỨNG LẠ của stroke hay heart attack (thí dụ: cánh tay mỏi ră, tức ngực, ngay sau khi toát mồ hôi). Ở Mỹ: Không nên nhờ người nhà chở vô nhà thương, mà phải gọi 911. Lư do: bệnh viện có bổn phận phải cấp cứu ngay lập tức khi tiếp nhận một bệnh nhân do 911 đưa tới. Người paramedic đưa ḿnh tới phải chờ cho đến khi thấy ḿnh được chăm sóc bởi bác sĩ, rồi mới đi được. Nếu ḿnh tự tới xin cấp cứu, trừ khi bị thương máu me đầm đ́a như bị đụng xe, c̣n không sẽ phải làm nhiều thủ tục và chờ đợi trước khi được cấp cứu. Nếu bị


stroke hay heart attack mà mất chừng 15 phút là nguy lắm rồi.






Thứ tư: Cố gắng PHÂN BIỆT CÁC TRIỆU CHỨNG GIỮA STROKE VÀ HEART ATTACK. Khi chuyên viên cấp cứu đến nhà, cố gắng trả lời rơ ràng sao cho họ có thể hướng sự cấp cứu về một loại tai biến: Stroke hay Heart Attack. Lư do: những giây phút cấp cứu đầu tiên là cực kỳ quan trọng. Nếu không phải stroke v́ máu nghẽn, mà v́ đứt mạch máu, nhức đầu mạnh, mạch máu chính trên đầu bị bể, mà nhân viên cấp cứu cho thêm aspirin làm loăng máu, nitroglycerin làm giăn mạch... th́ tiêu luôn tại chỗ! Theo các bác sĩ, khi thiếu máu vào nuôi, tế bào óc sẽ chết mau hơn tế bào tim nhiều. Do đó, nếu nhân viên cấp cứu tin là bệnh nhân bị stroke do đứt, bể mạch máu th́ nhiều phần là họ sẽ lo chở bệnh nhân vào bệnh viện thật sớm (bây giờ ở Mỹ và các nước tiên tiến có thuốc chích có thể hồi phục stroke, nếu được chích trong ṿng một, hai giờ kể từ khi có triệu chứng đầu tiên, càng sớm càng tốt.) Nếu tin là heart attack th́ họ sẽ thử làm cho máu loăng và mạch nở tại chỗ, mất chừng 10 phút trước khi họ chở đi. Mười phút phù du đầu tiên đó quư giá bằng 10 năm hay có thể bằng cả quăng đời c̣n lại!






Thứ năm: Trong bệnh viện, cần TỈNH TÁO (khi c̣n có thể), NÓI CHUYỆN NH̀ỀU với y tá, bác sĩ (không hiểu th́ yêu cầu người thông dịch). Đặt câu hỏi mỗi khi nhân viên y tế làm bất cứ thủ thuật nào trên cơ thể ḿnh. Thí dụ: Chích thuốc này làm ǵ? Tại sao cần chụp X-ray ngực hai lần trong ṿng vài giờ khi t́nh trạng không có ǵ thay đổi? - Nhờ hỏi mà tôi tránh được 1 lần X-ray vô ích do lỗi của y tá, người ca trước đă làm, người ca sau lại định làm nữa!






Thứ sáu: Khi đă lên bàn phẫu thuật mà không bị đánh thuốc mê th́ hăy quên hết mọi sự, mà chỉ NGHĨ VỀ CHUYỆN VUI, như chuyện trên Diễn Đàn THTĐ, mặc kệ họ làm ǵ th́ làm! Chẳng có ǵ phải lo lắng nữa!






Vài hàng chia sẻ cùng thầy cô và anh chị em.






Kính chúc thầy cô và thân chúc ACE không ai đau ốm, mà có đau ốm (con người ai tránh được?) th́ cũng sẽ mau lành.






Kính mến,






Nguyễn Hưng (K7)





HCD: Cám ơn anh Cường xin gởi các bạn có th́ giờ th́ đọc lấy kinh nghiệm thực tế từ một người trải qua cơn đau tim.

florida80
05-12-2019, 13:34
THÔNG TIN Y HỌC VỀ CHOCOLATE

7/ CHOCOLAT LÀM GIẢM HUYẾT ÁP

https://i.imgur.com/YmVlgUD.gif


Ăn chocolat đen có thể có hiệu quả trong việc hạ huyết áp như các thuốc giảm áp thông thường. Một xem xét lại các công tŕnh nghiên cứu đă nhận thấy như vậy.

Mặt khác, trà có vẻ không có hiệu quả trong tác dụng này. Bài báo nói rằng một chế độ ăn uống giàu trái cây và rau xanh có lợi cho sức khỏe một phần là do thực vật chứa những chất hoá học được gọi là polyphenols giúp kiểm soát huyết áp.

Từ hơn 3000 bài báo, các nhà nghiên cứu đă chọn những công tŕnh nghiên cứu rộng rải nhất và sử dụng các kỹ thuật thống kê để phối hợp các dữ kiện.

4 trong 5 nghiên cứu về chocolate đă nhận thấy huyết áp bị giảm lúc ăn chocolat đen.

Bài báo này được công bố vào số tháng 4 của The Archives of Internal Medicine.
(INTERNATIONAL HERALD TRIBUNE 26/4/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 109 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 17/1/2009 )

5/ RƯỢU VANG, TRÀ VÀ CHOCOLAT ĐỐI VỚI NĂO BỘ ?

Các ông và các bà lớn tuổi, tiêu thụ rượu vang giàu flavonoide, trà và chocolat, có những hiệu năng tốt hơn lúc thực hiện những trắc nghiệm về khả năng nhận thức (tests cognitifs). Đó là điều đă được chứng minh bởi một nhóm nghiên cứu Anh-Na Uy. Nhóm nghiên cứu này đă khảo sát mối liên hệ giữa sự tiêu thụ 3 thức ăn thức uống chứa flavonoides (chocolat, rượu vang và trà) và những hiệu năng nhận thức (performances cognitives). 2.031 người tham dự (70-74 tuổi, 55% là phụ nữ) đă được tuyển mộ và đă chịu những trắc nghiệm về khả năng nhận thức.

Các kết quả cho thấy rằng, so sánh với những người không ăn chocolat, không uống rượu vang hay trà, những người tiêu thụ chúng có những điểm số tốt hơn một cách đáng kể lúc làm những trắc nghiệm nhận thức và có tỷ lệ hiệu năng nhận thức kém thấp hơn.

Những người tiêu thụ ba loại thức ăn nước uống này có những điểm số tốt hơn và nguy cơ có những hiệu năng kém lúc làm trắc nghiệm thấp nhất. Những mối liên kết giữa sự tiêu thụ các thức ăn nước uống này và khả năng nhận thức (cognition) tùy thuộc vào liều lượng (dose-dépendante), với một hiệu quả tối đa đối với những tiêu thụ khoảng 10g chocolat mỗi ngày và khoảng 75-100 ml rượu vang mỗi ngày, nhưng theo đường thẳng đối với trà. Phần lớn những chức năng nhận thức được trắc nghiệm bị ảnh hưởng bởi 3 thức ăn thức uống này. Hiệu quả rơ rệt hơn đối với rượu vang và hơi thấp hơn đối với chocolat.

Do đó, trong tuổi già, một chế độ thức ăn thức uống nhiều flavonoides được liên kết với những hiệu năng tốt hơn đối với vài năng lực nhận thức và điều này tùy thuộc vào liều lượng.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 13/1/2009)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 160 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 8/2/2010 )

3/ TÁC DỤNG BẢO VỆ CỦA CÁC FLAVONOIDE CỦA RƯỢU VANG, TRÀ, CACAO.

Viện hàn lâm dược học quốc gia hôm qua đă thảo luận về những đóng góp có lợi lên tim và năo bộ của những chất được chứa trong vài loại thức ăn.

PREVENTION. Rượu vang, trà, chocolat, là chủ yếu, và những thực phẩm khác chứa những chất flavonoides, có những tác dụng chống oxy hóa (antioxydant) và chống viêm, với một hiệu quả bảo vệ lên tim và năo bộ. Từ 15 năm nay, các nghiên cứu gia tăng về những chất được chứa trong thực phẩm này. Hôm qua, Viện dược học quốc gia đă dành một trong những buổi họp để bàn về những tác dụng lên sức khỏe của những chất flavonoides đầy hứa hẹn này. Tuy nhiên, trong khi nhiều xí nghiệp dược phẩm đề nghị các viên thuốc mà chất căn bản là flavonoides, th́ viện hàn lâm lại đánh giá rằng những dữ kiện hiện nay không cho phép khuyến khích các “ điều khẳng định sức khỏe ” (“ assertions santé ”) của các chất bổ trợ dinh dưỡng (adjuvants alimentaires).

Lịch sử của các flavonoides bắt đầu trong những năm 1990, với sự phát hiện của nghịch lư Pháp (paradoxe français) : các người Pháp, đặc biệt trong vùng Tây Nam, có một tỷ lệ tử vong do tim mạch thấp hơn so với những nơi khác, mặc dầu một sự tiêu thụ cao các chất mỡ bảo ḥa (một yếu tố nguy cơ tim mạch quan trọng). Ngoại lệ này được quy cho sự tiêu thụ rượu vang đỏ, đặc biệt cao ở Pháp. Các flavonoides (các hợp chất polyphénol) của rượu đă được nhận diện như là các chất trung gian của tác dụng có lợi này. Và nhiều công cuộc điều tra dịch tễ học đă cố gắng phân tích mối liên hệ giữa chế độ ăn uống giàu flavonoides và các bệnh tim mạch (đột qụy, nhồi máu) hay thoái hóa thần kinh (bệnh Alzheimer, Parkinson).

“ Toàn bộ các thông tin có được như thế cho thấy một khuynh hướng chung tán trợ cho việc liên kết giữa sự tiêu thụ rượu vang đỏ có mức độ (một hay hai ly mỗi ngày), (trên mức này, những tác dụng có hại của rượu làm đảo ngược khuynh hướng), của sự tiêu thụ trà xanh hay trà đen và cacao và tỷ lệ tử vong nguồn gốc tim mạch hay thoái hóa thần kinh, GS Jean-Claude Stoclet, ủy viên của Hội hàn lâm dược học (đại học Strasbourg) đă giải thích như vậy.

Vậy có vẻ hợp lư khi đưa ra giả thuyết, theo đó sự tiêu thụ đều đặn của vài loại trái cây giàu flavonoides hay những chế phẩm phát xuất từ đó, rượu vang đỏ, một vài nước nho vắt, trà xanh và đen (trong một chừng mực ít hơn), cacao, được liên kết với một sự giảm tỷ lệ tử vong… ”

SỰ ỨC CHẾ CỦA MỘT VÀI GENE .

Bằng cớ chính thức chỉ có thể được mang lại, sau những thử nghiệm lâm sàng so sánh một chế độ ăn uống giàu flavonoides với một chế độ ăn uống nghèo flavonoides. Chúng ta hăy ghi nhận rằng hầu hết các công tŕnh nghiên cứu không phát hiện mối liên hệ giữa một chế độ ăn uống giàu flavonoide và ung thư. Nhiều công tŕnh nghiên cứu thí nghiệm, trên cấy tế bào hay mô h́nh động vật, đă phát hiện một tác dụng của các flavonoides lên thành trong của các huyết quản, với một sự gia tăng của các yếu tố giăn mạch và chống tăng sinh (facteurs vasodilatateurs en antiprolifératifs). Những chất này cũng tác dụng bằng sự ức chế của vài loại gène, để dẫn đến một tác dụng kháng viêm.

Người ta t́m thấy ở đâu các flavonoides này ? Nhiều trăm flavonoides khác nhau đă được nhận diện. Mặc dầu có nhiều điều không chắc chắn, nhưng có vẻ như rằng các flavonoides có một tác dụng bảo vệ, thuộc về các lớp của các flavonols (rượu vang đỏ, trà, cacao) và của các chất anthocyanines (các trái cây đỏ, quả anh đào, cassis). “ Khi tính đến các dữ kiện mới đây về các hiệu quả và các cơ chế tác dụng của vài flavonoides, ta có thể dễ bị cám dỗ khi chủ trương ngay từ bây giờ một sự tăng cường flavonoides trong chế độ ăn uống, GS Stoplet đă đánh giá như vậy. Cần phải cưỡng lại sự cám dỗ này : ngoài những điều không chắc chắn về bản chất của các hợp chất hữu ích, về những lượng cần phải cho, không hoàn toàn loại bỏ sự hiện diện của những tác dụng phụ. ” Đối với GS François Chast, chủ tịch của Viện hàn lâm dược khoa, “ trên cơ sở của các dữ kiện hiện nay, một sự tăng cường các cố gắng nghiên cứu có vẻ được biện minh và khẩn cấp ”.
(LE FIGARO 28/1/2010)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 170 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 19/4/2010 )

3/ CHOCOLAT TỐT CHO TIM VÀ CÁC MẠCH MÁU.

Các nhà nghiên cứu người Đức đă cho thấy rằng những lượng nhỏ chocolat được tiêu thụ mỗi ngày làm hạ huyết áp và làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch.

Nhóm nghiên cứu người Đức đă theo dơi trong khoảng 10 năm những thói quen ăn uống của 19.357 người, tuổi từ 25 đến 65 tuổi. Các tác giả đă có thể chứng thực rằn, những người ăn nhiều chocolat nhất (trung b́nh 7,5 g mỗi ngày) có một huyết áp thấp hơn và một nguy cơ bị nhồi máu cơ tim hay một tai biến mạch máu năo giảm 39%, so với những người chỉ tiêu thụ rất ít (1,7g mỗi ngày). Về mặt nguy cơ tuyệt đối, điều đó có nghĩa là sự việc ăn một miếng vuông nhỏ chocolat khoảng 6g cho phép tránh, nơi 10.000 người, 85 nhồi máu cơ tim và tai biến mạch máu năo trong một khoảng thời gian 10 năm, BS Brian Buijssen, nhà dịch tễ dinh dưỡng, người điều khiển công tŕnh nghiên cứu này, đă giải thích như vậy.

Nhưng không nên v́ thế mà suy diễn ra rằng ta có thể đồng thời tự cho phép ḿnh gia tăng sự tiêu thụ toàn thể calorie và tiêu thụ ít hơn những thức ăn lành mạnh, nhà nghiên cứu cảnh cáo như vậy. “ Những lượng nhỏ chocolat giúp pḥng ngừa sự xuất hiện các bệnh tim mạch, nhưng chỉ khi những lượng này thay thế một nguồn thức ăn giàu calorie khác, để trọng lượng có thể vẫn luôn luôn ổn định. ”

Mặc dầu sự tiếp tục của các nghiên cứu là tỏ ra cần thiết, nhưng nhóm nghiên cứu người Đức đă có thể xác nhận rằng tác dụng có lợi của chocolat được liên kết với sự hiện diện của flavonol trong cacao. Những chất này hiện diện chủ yếu trong chocolat đen. “ Các flavonol cải thiện biodisponibilité của monoxyde d’azote trong các huyết quản. Những chất này làm giăn các mạch máu hơn và điều này góp phần mang lại một huyết áp thấp hơn. Monoxyde d’azote cũng cải thiện chức năng của các tiểu cầu, làm cho máu ít dính hơn ”, Brian Buijsse nói tiếp như vậy.

TRÀ CŨNG THẾ.

Một công tŕnh nghiên cứu mới đây của Ḥa Lan cũng quan tâm đến những tác dụng có lợi của các flavonol. Peter Hollman của đại học Wageningen đă phân tích mối liên hệ giữa sự sử dụng các loại flavonoides khác nhau và sự xuất hiện của các tai biến mạch máu năo. Trong một phân tích méta, ông đă xét đến hơn 100.000 người phát xuất từ 6 công tŕnh nghiên cứu đă được công bố. Các flavonoides đặc hiệu như các flavonol, dường như có một tác dụng lên nguy cơ tai biến mạch máu năo. “ Nếu người ta tiêu thụ một lượng flavonol tương ứng với lượng được t́m thấy trong 3 tách trà, người ta có thể làm giảm 20% nguy cơ

bị một tai biến mạch máu năo ”, nhà nghiên cứu Ḥa Lan đă b́nh luận như vậy.

Chúng ta hăy nhớ rằng các flavonols cũng hiện diện trong rau xanh và các trái cây.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 13/4/2010)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 174 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (17/5/2010)

9/ CHOCOLAT, NGUYÊN NHÂN HAY PHƯƠNG THUỐC ĐIỀU TRỊ CHỨNG TRẦM CẢM ?

Theo một công tŕnh nghiên cứu của Hoa Kỳ, những người tiêu thụ nhiều chocolat có nguy cơ nhiều hơn bị chứng trầm cảm. Vậy đúng là có một sự liên kết giữa chứng trầm cảm và chocolat, nhưng theo chiều hướng nào ?

Người ta nói nhiều về sự liên kết chocolat/ khí chất, nhưng ít công tŕnh nghiên cứu mô tả một cách chính xác bản chất của mối liên hệ này. Natalie Rose ( Đại học californie, San Diego) và các cộng sự viên đă tập hợp 1.018 người trưởng thành (694 đàn ông và 324 phụ nữ) không bị đái đường lẫn bệnh động mạch vành. Các nhà nghiên cứu tập trung vào 931 người không dùng thuốc chống trầm cảm và được biết là có tiêu thụ chocolat. Khí chất của họ được đánh giá theo thang CES-D (Centre for Epidemiologic Studies Depression Scale). Một t́nh trạng trầm cảm được định nghĩa bởi một điểm số (score) CED-D > hoặc = 16 và một hội chứng trầm cảm quan trọng bởi một điểm số > hoặc = 22.

Những kết quả cho thấy rằng những người bị trầm cảm (CES-D > hoặc =16) tiêu thụ nhiều hơn một cách đáng kể (8,4 suất mỗi tháng) so với những người không bị trầm cảm (5,4 suất/tháng). Những người hội đủ những tiêu chuẩn của một hội chứng trầm cảm quan trọng (CES-D > hoac =22) ăn chocolat c̣n nhiều hơn (1,8 suất mỗi tháng). Một suất (portion) tương ứng với 28 g chocolat.

Sự liên kết này liên hệ đến các phụ nữ và các đàn ông và nó không được giải thích bởi một sự gia tăng chung của các cung cấp mỡ, hydrate de carbone, caféine hay calorie. “ Điều này gợi ư rằng những kết quả của chúng tôi là đặc hiệu đối với chocolat ”, các nhà nghiên cứu đă nói thêm như vậy ; họ không phân biệt giữa chocolat đen và chocolat sữa. Cũng không có sự khác nhau giữa những người trầm cảm và không trầm cảm trong sự tiêu thụ những thức ăn khác giàu các chất kháng oxy hóa khác như cá, cà phê, trá cây và rau xanh.

“ Những điểm số trầm cảm (CES-D) tăng cao được liên kết với một sự tiêu thụ chocolat lớn hơn. Tuy nhiên chúng tôi sẽ phải xem có một sự liên hệ nhân quả hay không và nếu có, theo chiều hướng nào : chocolat làm giảm hay tăng cường những triệu chứng trầm cảm ? ”, các tác giả kết luận như vậy. Tuy nhiên họ đưa ra vài giả thuyết. Chứng trầm cảm có thể kích thích khẩu vị đối với chocolat, hoặc bằng sự tự cho thuốc lấy v́ những tính chất được cho là chống trầm cảm của chocolat, hoặc v́ một lư lẽ không liên kết với một lợi ích điều trị. Nhưng, các tác giả của công tŕnh nghiên cứu đă nhắc lại như vậy, ta không biết chocolat có làm dễ sự trầm cảm hay không. Những công tŕnh tương lai sẽ phải làm sáng tỏ về sự liên kết này, chắc chắn là rất phức tạp ...
(LE JOURNAL DU MEDECIN 4/5/2010)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 175 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 23/5/2010 )

8/ NHỮNG LỢI ÍCH CỦA CHOCOLAT ĐEN.

Nhiều công tŕnh nghiên cứu đă gợi ư sự hiện hữu của một tác dụng có lợi của chocolat đen.

Một trong những công tŕnh nghiên cứu này, được tiến hành ở Zutphen, ở Ḥa Lan, trên 470 bệnh nhân (từ 65 đến 84 tuổi) kéo dài 15 năm, đă cho thấy rằng huyết áp tối đa và tối thiểu đối với những người tiêu thụ 10 g chocolat đen mỗi ngày được hạ xuống lần lượt 3,7 và 2,1 mmHg, so với những người không tiêu thụ. Mới đây hơn, một thử nghiệm quy mô lớn, được tiến hành bởi hai nhà dịch tễ học thuộc Institut germanique de nutrition (Brian Buijsse et Heiner Boeing), cho thấy rằng ăn chocolat đều đặn với lượng thấp tương ứng với một sự giảm của tỷ lệ tử vong tim-mạch. Hơn 19.000 người sống trong vùng Potsdam ở Đức (không có tiền sử tuần hoàn) đă được theo dơi trong 8 năm. Kết luận : nguy cơ nhồi máu cơ tim và đột qụy giảm 39% nơi những người tiêu thụ 6 g chocolat mỗi ngày. Các flavonoides, các chất kháng oxy hóa mạnh được chứa trong cacao, mà nồng độ mạnh hơn trong chocolat đen, là nguồn gốc của những lợi ích này.

florida80
05-12-2019, 13:36
MỘT ÍT CHOCOLAT CHO TRÁI TIM.

Một công tŕnh nghiên cứu, được thực hiện nơi các phụ nữ Thụy Điển cho thấy rằng, những người ăn đều đặn những lượng nhỏ chocolat ít có nguy cơ bị suy tim hơn.

Những thử nghiệm lâm sàng đă cho thấy rằng sự tiêu thụ chocolat làm giảm huyết áp tâm thu và tâm trương và các ông tŕnh nghiên cứu quan sát (études observationnelles) đă nhận thấy một sự liên kết nghịch giữa chocolat và các bệnh tim mạch. Một nhóm nghiên cứu Hoa Kỳ-Thụy Điển đă khảo sát mối liên hệ giữa sự tiêu thụ chocolat có nồng độ cacao mạnh (chocolat đen) và tỷ lệ mắc bệnh bệnh suy tim.

Elizabeth Mostofsky và các đồng nghiệp đă tiến hành một công tŕnh nghiên cứu trên 31.823 phụ nữ, tuổi từ 48 đến 83, không bị bệnh đái đường cũng như các tiền sử về suy tim hay nhồi máu cơ tim, tham gia vào Swedish Mammography Cohort. Những phụ nữ này được hỏi về t́nh trạng sức khỏe và lối sống của họ và họ đă điền một bảng câu hỏi về chế độ ăn uống. Cuộc theo dơi được trải dài từ tháng giêng năm 1998 đến tháng 12 năm 2006.

Trong 9 năm, 419 phụ nữ đă được nhập viện v́ suy tim hay đă bị chết v́ bệnh này. So sánh với những phụ nữ không ăn đều đặn chocolat, những phụ nữ đă tiêu thụ 1-3 suất mỗi tháng có nguy cơ bị suy tim 26% ít hơn và những phụ nữ ăn 1 đến 2 suất mỗi tuần có nguy cơ 32% thấp hơn.

ĐÚNG LIỀU LƯỢNG.

Các tác giả kết luận rằng, trong tập hợp những phụ nữ này, một sự tiêu thụ có mức độ và đều đặn chocolat được liên kết với một tỷ lệ thấp hơn phải nhập viện v́ suy tim hay tử vong, nhưng tác dụng bảo vệ này không c̣n được quan sát thấy nữa khi người ta ăn chocolat mỗi ngày. “ Sự thiếu tác dụng bảo vệ này có lẽ phải được quy cho các calorie bổ sung mang lại bởi chocolat hơn là do các thức ăn có tính chất dinh dưỡng hơn ”, Murray Mittleman (Havard Medical School), một trong các tác giả đă xác nhận như vậy.

Dĩ nhiên cũng phải nhất trí về ư niệm chocolat đen. Ví dụ các nhà nghiên cứu Thụy Điển giải thích rằng ngay cả chocolat trắng cũng giàu cacao hơn cholocat đen bán ở Hoa Kỳ. Thế mà, người ta gán một tác dụng hạ huyết áp cho những nồng độ mạnh cacao và flavonoide.

“ Thông điệp cần ghi nhớ không phải là ăn “ bao nhiêu chocolat mà ta muốn ”, mà là sự tiêu thụ một ít chocolat đen có thể tốt cho sức khỏe, chừng nào ta không phát hiện những tác dụng có hại khác, như sự lên cân hay sự tiêu thụ quá mức calorie ”, Linda Van Horn thuộc Hiệp Hội Tim Hoa Kỳ đă thêm vào như vậy.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 27/8/2010)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 199 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (9/11/2010)

2/ TẠI SAO TA THÈM ĂN CHOCOLAT KHI BỊ MẤT TINH THẦN ?

Nhiều công tŕnh nghiên cứu đúng là đă chứng tỏ điều đó : chocolat có một tác dụng dương tính đáng kể lên khí chất. Đến độ ở Hoa Kỳ, 40% các phụ nữ và 15% các người đàn ông tuyên bố nghiện chocolat ; vài người cho rằng chocolat làm dịu những trạng thái lo âu. Vậy có phải là do tác dụng của các chất hướng tâm thần (psychotrope) được chứa trong cacao ? Những chất kích thích, như caféine và phényléthylamine, hay những chất gây sảng khoái, như các hợp chất cannabinoide, tất cả đều được biết là mang lại sự thoải mái và phụ thuộc. Nhưng mặc dầu chúng tác động lên các đường ṿng năo bộ (circuit cérébral) phụ trách khoái lạc và động cơ, nhung không có ǵ chứng tỏ rằng chúng hiện diện với lượng đầy đủ trong chocolat để có một tác dụng in vivo .

CÁC NEURONE CỦA KHOÁI LẠC.

Theo Serge Ahmed, nhà nghiên cứu thuộc Institut des neurosciences de Bordeaux và chuyên gia về nghiện đường, “ tác dụng thú vị của chocolat chủ yếu phát xuất từ những cảm giác ngọt (sensations sucrées) phát được sinh ra từ các gai vị giác (papilles gustatives) ”. Cũng phải tính đến sự thèm các chất béo, mà các nhà sinh thần kinh Paul Johnson và Paul Kenny, thuộc Scripps Research Institute (Hoa Kỳ), mới đây đă cho thấy rằng chúng có thể tạo nên những trạng thái phụ thuộc bằng cách tác động lên các neurone dopaminergique của khoái lạc.

Nhưng thế th́ tại sao chocolat trắng, ngọt hơn và nhiều mỡ hơn, hay chocolat đen, nhiều chất hướng tâm thần hơn (psychotrope), lại không được ham thích hơn chocolat sữa, lại được đánh giá hơn nhiều ? Có lẽ phải xét đến các chất lượng vị giác đặc biệt của loại chocolat này. Một tiêu chuẩn mà khoa học khó ḷng định lượng được. Tuy nhiên có một điều chắc chắn : tác dụng của chocolat lên khí chất tan biến ngay khi miếng chocolat tan đi trong miệng. Điều này làm dễ sự xuất hiện của chứng ăn vô độ chocolat (boulimie chocolatière)
(SCIENCE ET VIE 10/2010)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 191 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (13/9/2010)

5/ MỘT ÍT CHOCOLAT CHO TRÁI TIM.

Một công tŕnh nghiên cứu, được thực hiện nơi các phụ nữ Thụy Điển cho thấy rằng, những người ăn đều đặn những lượng nhỏ chocolat ít có nguy cơ bị suy tim hơn.

Những thử nghiệm lâm sàng đă cho thấy rằng sự tiêu thụ chocolat làm giảm huyết áp tâm thu và tâm trương và các ông tŕnh nghiên cứu quan sát (études observationnelles) đă nhận thấy một sự liên kết nghịch giữa chocolat và các bệnh tim mạch. Một nhóm nghiên cứu Hoa Kỳ-Thụy Điển đă khảo sát mối liên hệ giữa sự tiêu thụ chocolat có nồng độ cacao mạnh (chocolat đen) và tỷ lệ mắc bệnh bệnh suy tim.

Elizabeth Mostofsky và các đồng nghiệp đă tiến hành một công tŕnh nghiên cứu trên 31.823 phụ nữ, tuổi từ 48 đến 83, không bị bệnh đái đường cũng như các tiền sử về suy tim hay nhồi máu cơ tim, tham gia vào Swedish Mammography Cohort. Những phụ nữ này được hỏi về t́nh trạng sức khỏe và lối sống của họ và họ đă điền một bảng câu hỏi về chế độ ăn uống. Cuộc theo dơi được trải dài từ tháng giêng năm 1998 đến tháng 12 năm 2006.

Trong 9 năm, 419 phụ nữ đă được nhập viện v́ suy tim hay đă bị chết v́ bệnh này. So sánh với những phụ nữ không ăn đều đặn chocolat, những phụ nữ đă tiêu thụ 1-3 suất mỗi tháng có nguy cơ bị suy tim 26% ít hơn và những phụ nữ ăn 1 đến 2 suất mỗi tuần có nguy cơ 32% thấp hơn.

ĐÚNG LIỀU LƯỢNG.

Các tác giả kết luận rằng, trong tập hợp những phụ nữ này, một sự tiêu thụ có mức độ và đều đặn chocolat được liên kết với một tỷ lệ thấp hơn phải nhập viện v́ suy tim hay tử vong, nhưng tác dụng bảo vệ này không c̣n được quan sát thấy nữa khi người ta ăn chocolat mỗi ngày. “ Sự thiếu tác dụng bảo vệ này có lẽ phải được quy cho các calorie bổ sung mang lại bởi chocolat hơn là do các thức ăn có tính chất dinh dưỡng hơn ”, Murray Mittleman (Havard Medical School), một trong các tác giả đă xác nhận như vậy.

Dĩ nhiên cũng phải nhất trí về ư niệm chocolat đen. Ví dụ các nhà nghiên cứu Thụy Điển giải thích rằng ngay cả chocolat trắng cũng giàu cacao hơn cholocat đen bán ở Hoa Kỳ. Thế mà, người ta gán một tác dụng hạ huyết áp cho những nồng độ mạnh cacao và flavonoide.

“ Thông điệp cần ghi nhớ không phải là ăn “ bao nhiêu chocolat mà ta muốn ”, mà là sự tiêu thụ một ít chocolat đen có thể tốt cho sức khỏe, chừng nào ta không phát hiện những tác dụng có hại khác, như sự lên cân hay sự tiêu thụ quá mức calorie ”, Linda Van Horn thuộc Hiệp Hội Tim Hoa Kỳ đă thêm vào như vậy.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 27/8/2010)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 246 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (29/10/2011)

9/ CHOCOLAT : TÁC DỤNG BẢO VỆ LÊN HỆ TIM MẠCH ?

Tài liệu xuất bản mới đây trong “ British Medical Journal ” bởi kíp của GS Oscar Franco (đại học Cambridge, Anh) đă tập hợp những dữ kiện của 7 công tŕnh nghiên cứu xác nhận những giá trị của cacao. Các kết quả được thực hiện trên hơn 114.000 người thuộc hai giới tính, được xếp loại thành nhiều nhóm khác nhau và đă được theo dơi trong 8 đến 16 năm. Kết luận : những người tiêu thụ nhiều chocolat nhất (từ một miếng chocolat hay từ một nước uống chocolat), đă có được, so với những người tiêu thụ thấp nhất, những mối lợi chắc chắn : giảm 37% những bệnh tim mạch, giảm 29% tai biến mạch máu năo, 31% bệnh đái đường loại 2 (diabète gras). Trong nhóm này, tỷ lệ tử vong nói chung do những bệnh lư này đă giảm một nửa. Nhưng các tác giả báo động dung lượng calo cao của chocolat làm dễ sự lên cân.
(PARIS MATCH 13/10 – 19/10/2011)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 291 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (5/1/2013)

9/ CHOCOLAT TỐT CHO TIM

Tốt nhất là chọn chocolat đen với ít đường và mỡ


Quote:
Những điểm chủ yếu :

• Một quan sát được thực hiện trên 100.000 người tiêu thụ chứng tỏ rằng nguy cơ tim mạch được giảm 37% đối với những người ăn chocolat.

• Nhưng ta chưa biết nguyên nhân chính xác.

• Dầu sao tốt nhất là hạn chế, bởi v́ đường và mỡ hiện diện trong chocolat có thể hủy bỏ lợi ích này.


Đi mua chocolat mỗi ngày vừa đạp xe đạp cật lực đồng thời nghe những lời khuyên tiết thực của các… con ḿnh : đây là tóm lược độc đáo những lời khuyến nghị chủ yếu từ một loạt công tŕnh nghiên cứu về những phương cách cải thiện về mặt pḥng ngừa sức khỏe của ḿnh được tŕnh bày tại hội nghị tim châu Âu, quy tụ 40.000 chuyên gia. Từ lâu có sự tranh căi về tác dụng bảo vệ của việc tiêu thụ hàng ngày chocolat lên sức khỏe tim mạch : BS Oscar Franco, thuộc Đại học Cambridge, đă tập hợp những công tŕnh nghiên cứu khác nhau trên thế giới để đi đến kết luận rằng ăn chocolat có thể làm giảm 37% nguy cơ tim mạch nói chung và 29% nguy cơ tai biến mạch máu năo. Thế mà điều được xác lập là sự thay đổi thói quen ăn uống và lối sống (nhàn rổi không hoạt động quá mức, không tập thể thao, nghiện thuốc lá) là yếu tố chủ yếu để làm giảm ảnh hưởng quan trọng của dọa nhồi máu cơ tim, căn bệnh giết chết 24 triệu người mỗi năm vào năm 2030 nếu ta không thay đổi ǵ hết các lối sống của chúng ta. “ Chú ư, ở đây muốn nói một sự tiêu thụ có mức độ, từ hai miếng chocolat mỗi tuần đến hai miếng mỗi ngày. Với những dạng thương măi thường gặp nhất, chocolat nói chung chứa quá nhiều đường và mỡ. Trung b́nh chocolat chứa 500 calories mỗi 100 g. Do đó tiêu thụ không tiết độ làm lên cân và gia tăng nguy cơ bị bệnh đái đường và bệnh tim. Như thế điều này sẽ hủy bỏ những tác dụng có lợi của sự tiêu thụ chocolat, mà chúng tôi đă quan sát thấy trong những công tŕnh nghiên cứu được thực hiện trên hơn 100.000 người.” Vậy cần ưu tiên chocolat đen, với ít đường và mỡ.

NHỮNG ENDOMORPHINE THIÊN NHIÊN

“ Chúng ta vẫn hoài nghi về những nguyên nhân của tác dụng có lợi này. Nhiều công tŕnh nghiên cứu đă cho thấy một tác dụng có lợi lên giảm huyết áp và nguy cơ bị bệnh đái đường. Có nhiều giả thuyết, nhất là sự hiện diện của những tính chất chống oxy hóa và chống viêm của cacao và của những flavonoides mà nó chứa. Nhưng tất cả các cố gắng nhằm phân lập và tập hợp chúng trong một viên thuốc không chứa đường cũng như không có mỡ đă bị thất bại. Một giả thuyết khác cho rằng sự khoái lạc do ăn chocolat phóng thích các endomorphine tự nhiên trong năo bộ và nhiên hậu chất này có một tác dụng bảo vệ tim mạch. Nhưng điều đó chỉ là một giả thuyết. Dẫu sao, chúng ta chỉ có thể khuyến nghị một sự tiêu thụ chocolat có mức độ. ”

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 297 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (23/2/2013)

5/ CÓ NÊN ĂN CHOCOLAT ĐỂ ĐƯỢC THÔNG MINH HƠN ?

Docteur JEAN-MAIE BOURRE
Membre de l’Académie de médecine.

Một thầy thuốc Hoa Kỳ nổi tiếng, chuyên gia về bệnh cao huyết áp, nhà nghiên cứu của Đại học Columbia có uy tín ở Nữu Ước, đă lợi dụng tính thời sự do việc trao giải thưởng Nobel để công bố trong số tháng 10 của một tạp chí y khoa rất đứng đắn một công tŕnh nghiên cứu cho thấy rằng, trong mỗi nước, số lượng giải thưởng Nobel tùy thuộc vào sự tiêu thụ chocolat của nước đó …Sau khi đă đọc những tài liệu xuất bản xác lập rằng sự tiêu thụ flavanols (một lớp phụ của flavanoides hiện diện với lượng đáng kể trong cacao) được liên kết, ở người, với một sự giảm ít hơn hiệu năng trí óc (performance intellectuelle) liên quan đến tuổi tác và ở chuột cao tuổi, với một sự cải thiện đáng kể hiệu năng nhận thức (performance cognitive), như thế chỉ cần bước thêm một bước để suy diễn rằng một sự tiêu thụ quan trọng chocolat cũng khả dĩ làm gia tăng mức độ thông minh trung b́nh của một quần thể xác định và như thế, tỷ lệ những người có một trí thông minh cao, những người được giải Nobel, theo ông, là những bằng chứng khách quan tốt nhất.

Thật vậy, kết quả không phải chờ đợi và một sự tương quan đáng ngạc nhiên, nhưng rất tỷ lệ và đáng kể, được phát hiện giữa mật độ giải Nobel và sự tiêu thụ chocolat đối với mỗi người dân. Trong số 23 nước được khảo sát, ở một đầu xuất hiện những nước ít hiệu năng nhất, theo ban giám khảo của Stockholm và những nước ít tiêu thụ chocolat nhất : Nhật Bản, Brésil, Portugal, người học tṛ kém nhất là Trung Quốc (điều ǵ sẽ xảy ra khi Trung Quốc sẽ thức tỉnh đối với việc tiêu thụ chocolat ?). Trong hàng trung b́nh nhỏ, Pháp ở vị trí b́nh thường. Dĩ nhiên Thụy Sĩ là người học tṛ giỏi hơn hết. Nhưng Thụy Điển, được tặng thưởng hai lần nhiều giải Nobel hơn dự kiến, tạo sự ngạc nhiên, trừ phí trong tổ quốc của Alfred Nobel người ta có năo nhạy cảm hơn đối với những lợi ích của chocolat.

Một cách nghiêm túc hơn, vậy th́ tại sao chocolat hiệu quả lên sự vận hành chức năng năo bộ ? Đó có phải là bởi v́ chocolat chứa théobromine, caféine và những phân tử “ kích thích ” khác ? Có lẽ không. Bởi v́ nó chứa đựng các chất tương cận với cannabinoides ? Cũng không, trừ phi hấp thụ khoảng 100 kilo mỗi ngày trước khi bắt đầu hưởng những hiệu quả của chúng. Bởi v́ chocolat chứa các oligoélément, trong đó có magnésium, nổi tiếng hiệu quả chống lại spasmophilie ? Có lẽ. Điều mà ta chắc chắn, ngược lại, đó là, dựa trên những công tŕnh nghiên cứu khoa học, chocolat là một chất kích thích năo bộ nhờ dung lượng flavonoides mà nó chứa và những tanin khác, cùng những chất làm tăng “cote santé ” của các trái cây, rượu vang, nhất là chè xanh. Thật vậy, trong số tất cả các thức ăn mà ta tiêu thụ, chocolat là một trong những thức ăn giàu polyphénol nhất và 13% các polyphénol được mang lại bởi thức ăn phát xuất từ chocolat với những hàm lượng lên đến 500mg/100g đối với những chocolat sữa và 840 mg/100 g đối với chocolat đen. Chính chocolat làm hạn chế stress oxydant mà các mô của chúng ta phải thường xuyên chịu đựng, chính những flavonoides, do làm dễ tính lưu (fluidité) của tuần hoàn máu, không những bảo vệ chống lại các bệnh tim mạch, mà c̣n làm gia tăng lưu lượng máu trong chất xám năo bộ, như những thăm ḍ quang tuyến đă phát hiện một cách rơ ràng. Phải thêm vào đó là những “ mỡ tốt ” của beurre de cacao, trong đó có acide oléique với những lợi ích của dầu olive và của chế độ ăn uống Địa trung hải lên sự bảo vệ tim mạch ; thế mà những chất mỡ này cũng có 1/3 tính hiệu quả của các oméga 3 được chứa trong các cá mỡ...Và chính những nhà nghiên cứu Na Uy, nơi sản xuất oméga 3 đứng đầu thế giới, đă nói điều đó.

Mặc dầu không biết là chocolat có làm cho thông minh hơn hay không, nhưng dường như được xác nhận rằng chocolat có thể kéo dài tuổi thọ chỉ qua khoái lạc mà nó mang lại. Là chất chống stress, chất tăng trương lực (tonique), chất kích thích, chocolat góp phần cho khoảng 4% những cung cấp năng lượng của chúng ta, và, nếu không lạm dụng, bởi v́ đó là một thức ăn thật sự rất calorique và đó là một con chủ bài quan trọng mang lại sức khoẻ tốt. Chúng ta tiêu thụ 4 kg mỗi năm và mỗi đầu người ; hăy tiếp tục và không tiết độ quá mức.

florida80
05-12-2019, 13:37
CÁC LOẠI DƯỢC PHẨM TRỊ BỊNH MẤT NGỦ

Lynn Ly phỏng dịch theo thông tin Prescriber's Letter 2009
do BS Danny Nguyen cung cấp



Trước khi tầm cầu một toa thuốc bác sĩ, nhiều bệnh nhân tự chữa trị bằng dược phẩm thiên nhiên. Gần như 26% bệnh nhân bị bịnh mất ngủ đang cố gắng dùng cách trị liệu bằng dược phẩm thiên nhiên

Rất nhiều dược phẩm thiên nhiên ảnh hưởng đến hệ thân kinh trung ương tương tự như toa thuốc giảm đau / thuốc ngủ

Có lẽ bạn từng nghe về cây hoa valerian (dược phẩm Valerian). Nó là một trong những loại dược phẩm thiên nhiên phổ biến nhất được sử dụng cho bịnh mất ngủ. Và nó cũng là một loại mà được nghiên cứu nhiều nhất. Valerian dường như có tác dụng giống benzodiazepine. Các phần tử axit của valerian có thể làm tăng hoạt động GABA trong hệ thần kinh trung ương bằng cách ngăn chận một men (enzyme) mà trao đổi chất GABA.

Một số nghiên cứu lâm sàng cho thấy rằng uống chất chiết xuất Valerian làm giảm khoảng thời gian lúc bắt đầu giấc ngủ ở nhiều bịnh nhân bị chứng mất ngủ. Nhưng valerian không có hiệu quả nhanh chóng như benzodiazepines. Có lẽ phải dùng đến nó 1 vài đêm đến 1 vài tuần mới có hiệu quả

Valerian dường như an toàn khi sử dụng ngắn hạn . Nó thường được dung nạp tốt (thường thích hợp với các bệnh nhân). Hầu hết các bịnh nhân không bị chứng buồn ngủ vào buổi sáng hoặc bị phản ứng như bị say rượu mà đôi khi xảy ra khi (họ) dùng benzodiazepines.

Valerian đang có đầy hứa hẹn, nhưng vẫn chưa có đủ bằng chứng vững chắc để giới thiệu nó cho đại đa số các bịnh nhân. Nếu người bịnh muốn thử nó th́ đừng lo ngại nhiều . Hăy hướng dẫn họ dùng Valerian 1 các thỏa đáng . Hăy tư vấn cho những bệnh nhân sử dụng theo công thức được thực hiện trong những nghiên cứu. Tiêu chuẩn chiết xuất là chứa khoảng 0.4% tới 0.6% thành phần acid valerian. Những bịnh nhân nên uống liều lượng 400-900 mg / 1 ngày trước khi đi ngủ 2 tiếng đồng hồ

Có vài trường hợp nhiễm độc gan ở những bệnh nhân từng sử dụng valerian. Cho đến giờ sự thể vẫn chưa rơ ràng là valerian là nguyên nhân, tuy nhiên, nếu bịnh nhân dùng valerian trong 1 khoảng thời gian dài hơn, hăy suy xét đề nghị kiểm tra chức năng của gan cho bịnh nhân

Có một số lo ngại về sự tương tác thuốc. Trong nghiên cứu 1 ống thuốc, valerian ức chế (kiềm chế) men cytochrome P450 3A4. Điều này có nghĩa là valerian có thể có tiềm năng làm tăng nồng độ thuốc được được chuyểN hóa bởi chất men này. Nhưng có lẽ quá sớm để biết chắc rằng nếu valerian có hiệu lực trong con người hay không ... và nếu có, th́ đáng kể là bao nhiêu . Cho đến giờ, cần để ư những biểu hiện về tiềm năng tương tác của nó.

Có nhiều hợp chất tạo "công thức giấc ngủ " (sleep fomulas) bày bán trên các quầy kệ cửa hàng. Đại đa số trong những hợp chất này có kết hợp valerian với 1 số thảo dược khác như hops, lavender, lemon balm, và skullcap. Đại đa số trong những hợp chất này có tính chất giảm đau, và hiện có một số nghiên cứu lâm sàng sơ bộ đối với những hợp chất này.

Nghiên cứu lâm sàng sơ bộ (Preliminary clinical research) cho thấy rằng việc sử dụng 1 thuốc kết hợp đặc trị (a specific combination product) chứa đựng chất chiết xuất hops 41.9 mg cộng với chất chiết xuất valerian 187 mg trong mỗi 1 viên thuốc, (dùng) 2 viên thuốc vào lúc lên giường ngủ, chỉ cải thiện ở múc độ khiêm tốn về giấc ngủ bao gồm các biện pháp đi ngủ trễ so với loại "giả dược" ( placebo )sau 28 ngày kể từ ngày điều trị .

Cũng có những nghiên cứu lâm sàn sơ bộ cho thấy rằng sản phẩm thuốc kết hợp đặc trị (a specific combination product), cung cấp 80mg chất chiết xuất từ lá cây lemon balm kết hợp 16 mg chất chiết xuất từ rễ cây valerian (Euvegal forte, Schwabe Pharmaceuticals) , 1 đến 2 viên 1 lần hay 2 lần 1 ngày, có thể giảm những triệu chứng ở trẻ dưới 12 tuổi có bịnh lư thao thức hoặc rối loạn giấc ngủ

Những sản phẩm kết hợp này có vẻ đầy hứa hẹn, nhưng không có bằng chứng đáng tin cậy là chúng có hiệu quả hơn so với chỉ 1 ḿnh chất valerian

Hoa cúc của Đức = German chamomile (Matricaria recutita) là 1 loại trà để ngủ rất phổ biến . Không có nghi ngờ ǵ về công dụng của hoa cúc (chamomile) đối với việc tạo ra sự êm dịu nhẹ nhàng nào đó . Chỉ cần hỏi bất cứ một ai đang tiêu thụ nó, dường như họ sẽ bảo cho bạn biết là nó làm cho họ cảm thấy trầm tĩnh và thư giăn.

Giống như cây valerian, có một số lo ngại về sự tương tác thuốc. Hoa cúc của Đức (German chamomile) có thể ngăn chặn men cytochrome P450 3A4 (cytochrome P450 3A4 enzyme)... và có tiềm năng làm tăng mức độ thuốc được trao đổi bởi men này. Nhưng c̣n quá sớm để biết chắc rằng hoa cúc của Đức có hiệu lực trên con người hay không . Hăy cẩn thận lưu ư về những dấu hiệu của sự tương tác trong bệnh nhân xử dụng (trà) Hoa cúc của Đức (German chamomile).

Passionflower (Passiflora incarnata) được bày bán trên các quầy kệ như một sự giúp đỡ giấc ngủ không cần đơn bác sĩ . Nhưng năm 1978 nó đă bị loại ra khỏi thị trường Hoa Kỳ do thiếu an toàn và thiếu dữ liệu về hiệu lực. Hiện giờ th́ nó được bày bán như là một chế độ ăn uống bổ sung và thường được sử dụng như một loại trà. Passionflower dường như xoa dịu, có lẽ do ảnh hưởng sự thu nhân tín hiệu benzodiazepine. Tuy nhiên, cho đến nay không có bằng chứng khoa học đáng tin cậy là nó trợ giúp trị liệu cho chứng bịnh mất ngủ.

Kava (Piper methysticum) th́ được biết nhiều đến như 1 phương pháp trị liệu cho chứng bịnh lo âu . Nhưng nó cũng thường được dùng cho trị liệu chứng bịnh mất ngủ . Nó có tính chất giảm đau và chứng tỏ có hiệu quả đối với chứng bịnh lo âu. Nhưng nó dương như không có hiệu quả đối với chứng mất ngủ

Hăy nói với các bịnh nhân là tránh dùng Kava. Không phải chỉ v́ không có chứng minh là nó trợ giúp điều trị chứng bịnh mất ngủ mà nó c̣n có thể không an toàn . Kava đă liên quan tới hơn 60 trường hợp về độc tính hại gan. Kava đă bị cấm bán ở 1 số đất nước, nhưng vẫn c̣n bán tại Hoa Kỳ

St. John's wort (Hypericum perforatum) là 1 dược thảo nổi tiếng chống bịnh trầm cảm . Nó dường như có hiệu quả đối với bệnh trầm cảm (dạng) nhẹ đến trung b́nh . Và có 1 số bằng chứng là nó cải thiện chứng bịnh mất ngủ ở các bịnh nhân bị trầm cảm . Nhưng không có bằng chứng là nó có hiệu quả với chứng bịnh mất ngủ ở bịnh nhân không có bị trầm cảm

Hăy lưu ư là St. John's wort có thể kích thích (kích động) đối với 1 số bịnh nhân. Trong thực tế, một trong các phản ứng phụ thường gặp của nó là chứng mất ngủ . Hăy bảo bịnh nhân không dùng nó lúc đi ngủ ngoại trừ họ biết (chắc) nó ảnh hưởng đến họ ra sao

Sự tương tác thuốc là 1 lo ngại lớn ở bất kỳ 1 ai khi dùng St. John's wort. Nó là 1 chất xúc tác hiệu lực của cytochrome (cytochrome = nhiễm sắc thể ???) Nó có thể làm giảm mức độ và hiệu quả của rất nhiều loại thuốc. Một số tác hại này bao gồm sự ức chế / ngăn chận sự phân giải protein HIV, sự ngăn chận sự hoán chuyển nghịch chiều giữa DNA và RNA của non-nucleoside, thuốc uống tránh thai, thuốc cyclosporin (cyclosporin là một loại thuốc được sử dụng để giúp giảm nguy cơ bị loại bỏ trong sự thay thế nội tạng hay tủy xương của cơ thể. Nó cũng được sử dụng trong thử nghiệm lâm sàng để làm cho các tế bào ung thư nhạy cảm với nhiều loại thuốc chống ung thư khác), một số statins, và nhiều thức khác.

Ngoài những dược phẩm thiên nhiên, nhiều bịnh nhân tự trị liệu chứng bịnh mất ngủ với các biện pháp cứu chữa giấc ngủ không cần đơn bác sĩ. Thường xuyên nhất là các antihistamines diphenhydramine (Benadryl, Sominex) hoặc doxylamine (Unisom). Họ có được kết quả xoa dịu, nhưng chưa có hiệu quả hơn benzodiazepines. Chúng cũng có thể gây ra những tác dụng nghiêm trọng là chống lại hoạt động của acetylcholine, chứng huyết áp thấp ở tư thế đứng, bí tiểu, và sự lẩm cẩm lẫn thẫn , những chứng bịnh đặc biệt chỉ có ở người lớn tuổI. Ngoài ra c̣n có mối quan tâm là các loại này có thể làm giảm chất lượng giấc ngủ. Ngoài ra c̣n có mối quan tâm rằng họ có thể làm giảm chất lượng giấc ngủ. Nói chung, OTC antihistamines không nên được khuyến khích cho công việc trị liệu hằng ngày về chứng bịnh mất ngủ .

melatonin là một trong những chất bổ sung tốt nhất được biết đến đối với giấc ngủ. Nó được thử bởi nhiều người với chứng bịnh mất ngủ, nhưng hiệu lực của nó đang gây tranh căi . Melatonin là một hooc-môn xuất hiện tự nhiên được sản xuất trong "pineal gland" (một tuyến ở trong năo). Nội sinh melatonin điều chỉnh những nhịp 24 giờ (circadian rhythm). Bóng tối dường như kích thích sự tiết ra melatonin và ánh sáng th́ ức chế ngăn chận nó. Mức độ Melatonin được cho là thấp hơn b́nh thường trong một số bệnh nhân bị mất ngủ.

Chứng cớ tốt nhất đối với melatonin gợi ư cho rằng nó cải thiện chứng mất ngủ ở người cao niên, đặc biệt là nếu mức độ melatonin thấp. Bệnh nhân nhỏ tuổi hơn cũng có thông báo chủ quan trong cải thiện chất lượng giấc ngủ khi sử dụng melatonin. Nhưng melatonin dương như không có vẻ để cải thiện mức độ mục tiêu của giấc ngủ, chẳng hạn như sự tiềm ẩn trong giấc ngủ, ở những bệnh nhân này.

Melatonin có thể được đánh giá là 1 thử nghiệm cho 1 số bịnh nhận được tuyển chọn .... đặc biệt là những người trưởng thành cao tuổi . Hăy đề nghị một liều 0,3-5 mg trong 1 ngày. Nếu những bệnh nhân muốn thử dùng nó, hăy đề nghị họ chỉ sử dụng nó ngắn hạn. Nếu không có hiệu quả trong vài tuần, th́ thuốc không có đang trợ giúp ǵ cả, và không có nhiều am hiểu tường tận về sự an toàn của việc sử dụng lâu dài.

Những tiền chất melatonin cũng đang được sử dụng cho chứng mất ngủ ... L-tryptophan and 5-HTP. Trong cơ thể, L-tryptophan được chuyển hóa sang 5-HTP, rồi được chuyển đổi thành serotonin ... và sau đó thành melatonin. Nhưng không có bằng chứng đáng tin cậy rằng những thuốc này tác dụng đối với chứng mất ngủ và những mối lo ngại liên quan đến sự an toàn .

Vào năm 1989, hơn 1500 trường hợp vê hội chứng đau cơ eosinophilia (EMS) và 37 người tử vong liên quan tới việc sử dụng L-tryptophan ở Mỹ. Khoảng 95% trường hợp EMS đă truy nguồn từ L-tryptophan được sản xuất bởi một nhà sản xuất duy nhất tại Nhật Bản . Vào năm 1990, L-tryptophan đă được thu hồi tại Mỹ và FDG khuyến cáo buộc phải hạn chế nhập khẩu tất cả sản phẩm L-tryptophan bày bán trên quầy kệ . Sau sự giới hạn về sản phẩm L-tryptophan, tỷ lệ mắc EMS giảm xuống đột ngột. Theo tổ chức "the Dietary Supplement Health and Education Act" (DHSEA) vào năm 1994, hiện giờ L-tryptophan có mặt trên thị trường và có nhăn hiệu như 1 loại bổ xung trong chế độ ăn uống .

Cũng có sự lo ngại về 5-HTP giống như L-tryptophan, là có thể gây gây ra hội chứng đau cơ eosinophilia (EMS). Có nhiều dự đoán cho rằng sản phẩm thương mại 5-HTP có thể chứa chất gây ô nhiễm từ "the peak X family", ("the peak X family" là) một nhóm các tạp chất có thể gây ra EMS. Tuy nhiên, sự hiện diện của "the peak X family" hay chất ô nhiễm khác chưa được xác nhận tại tất cả các trường hợp EMS.

Cho đến những câu hỏi về EMS và sự an toàn lâu dài của 5-HTP và chất bổ xung L-tryptophan được giải quyết, bệnh nhân nên tránh sử dụng các sản phẩm này.

Coenzyme Q-10 có vẻ như trợ giúp những người bị mất ngủ liên quan đến suy tim. Một số bệnh nhân suy tim có chứng bịnh mất ngủ liên quan đến khó thở về đêm . Sự sử dụng bổ xung coenzym Q-10 có thể làm giảm khó thở và các triệu chứng khác ... và do đó có thể giúp cải thiện giấc ngủ . Coenzyme Q-10 có thể được đánh giá là 1 thử nghiệm cho 1 số bịnh nhận có bịnh suy tim. Nhưng cần chắc chắn rằng các bệnh nhân không tự điều trị t́nh trạng nghiêm trọng này. Họ nên nói chuyện với với các bác sĩ / những nhân viên y tế của họ trước tiên .

Lynn Ly 04-09-2009


Quote:
Before seeking a prescription medication, many patients self-treat with natural medicines. As many as 26% of patients with insomnia are trying them.12315

Many natural medicines have effects on the central nervous system similar to the prescription sedative/hypnotics.

You have probably heard of valerian (Valeriana officinalis). It is one of the most popular natural medicines used for insomnia. And it's also one of the most studied. Valerian seems to have benzodiazepine-like effects. The valerenic acid constituent might increase GABA activity in the central nervous system by inhibiting an enzyme that metabolizes GABA.3486

Some clinical research shows that taking valerian extract reduces the time to sleep onset in many patients with insomnia.6248,6249,8 250,8296 But valerian doesn't work as fast as benzodiazepines. Several nights to a few weeks may be needed for it to work.6249,10209

Valerian seems to be safe when used short-term. It's usually well tolerated. Most patients don't experience morning sleepiness or the hangover effect that is sometimes experienced with benzodiazepines.2070

Valerian is promising, but there's still not enough solid evidence to recommend it for most patients. If a patient wants to try it, don't worry too much. Help them use it appropriately. Advise these patients to use the formulation used in the studies These are extracts standardized to contain 0.4% to 0.6% of the constituent valerenic acid. These should be taken in doses of 400-900 mg/day 2 hours before bedtime.

There are a few cases of hepatotoxicity in patients who have taken valerian.3484,8243 So far it's not clear if valerian is the cause; however, if patients take valerian for an extended period of time, consider recommending liver function tests.

There is some concern about drug interactions. In a test tube study, valerian inhibited the cytochrome P450 3A4 enzyme.6450 This means that valerian could potentially increase levels of drugs metabolized by this enzyme. But it's too soon to know for sure if valerian has this effect in humans...and if it does, how significant it is. For now, just keep a lookout for signs of potential interactions.

There are lots of combination product "sleep formulas" on store shelves. Many of these combine valerian with a variety of other herbs such as hops, lavender, lemon balm, and skullcap. Many of these have sedative properties and there is some preliminary clinical research for some of these combinations.

Preliminary clinical research shows that taking a specific combination product containing hops extract 41.9 mg plus valerian extract 187 mg per tablet, two tablets at bedtime, modestly improves subjective sleep measures including subjective sleep latency compared to placebo after 28 days of treatment.15018

There is also preliminary clinical research that shows that a specific combination product, providing lemon balm leaf extract 80 mg and valerian root extract 160 mg (Euvegal forte, Schwabe Pharmaceuticals) 1-2 tablets once or twice daily, might decrease symptoms in children under age 12 years who have pathological restlessness or dyssomnia.14416

These combinations look promising, but there is no reliable evidence that they are any more effective than valerian alone.

German chamomile (Matricaria recutita) is a very popular "bedtime tea." There's no doubt that chamomile can cause some mild sedation. Just ask anyone who's consumed it. They'll likely tell you that it makes them feel calm and relaxed. But that doesn't necessarily translate into effectiveness for insomnia. So far there's no reliable evidence that it's effective for insomnia.

Like valerian, there is some concern about drug interactions. German chamomile might inhibit the cytochrome P450 3A4 enzyme...and potentially increase levels of drug metabolized by this enzyme.6450 But it's too soon to know for sure if German chamomile has this effect in humans. Be alert for signs of interactions in patients who take German chamomile.

Passionflower (Passiflora incarnata) used to be marketed as an over-the-counter sleep aid. But in 1978 it was taken off the US market due to lack of safety and effectiveness data. It's now marketed as a dietary supplement and is usually used as a tea. Passionflower seems to cause sedation, possibly by affecting benzodiazepine receptors.4001 But so far there's no scientifically reliable evidence it helps for insomnia.

Kava (Piper methysticum) is best known as a treatment for anxiety. But it is also often used for insomnia. It does have sedative properties and has been shown to be effective for anxiety.2093,2094,20 95,7325,11372 But it does not seem to be effective for insomnia.15046

Tell patients to avoid kava. Not only is there no proof it helps for insomnia, it is also possibly unsafe. Kava has been linked to over 60 cases of hepatotoxicity.7024, 7068,7086,7096 Kava has been banned in several countries, but is still available in the US.

St. John's wort (Hypericum perforatum) is the famous herbal antidepressant. It is likely effective for mild to moderate depression. And there's some evidence it improves insomnia in depressed patients.376 But there's no evidence that it is effective for insomnia in patients who are not depressed.

Keep in mind that St. John's wort can be stimulating for some patients. In fact, one of its most common side effects is insomnia.3569 Tell patients not to take it at bedtime until they know how it affects them.

Drug interactions are also a HUGE concern in anyone who uses St. John's wort. It is a potent INDUCER of cytochrome P450 3A4. It can decrease levels and the effectiveness of lots of drugs. Some of these include the HIV protease inhibitors, non-nucleoside reverse transcriptase inhibitors, oral contraceptives, cyclosporin, some statins, and many others.

In addition to natural medicines, many patients self-treat insomnia with over-the-counter sleep remedies. Most often these are the antihistamines diphenhydramine (Benadryl, Sominex) or doxylamine (Unisom). They have sedative effects, but are less effective than benzodiazepines. They can also cause significant anticholinergic side effects...orthostati c hypotension, urinary retention, and confusion, which can be especially problematic for the elderly.12312,12313 There is also concern that they might decrease sleep quality. In general, OTC antihistamines should be discouraged for routine use for insomnia.

Melatonin is one of the best known supplements for sleep. It's tried by lots of people with insomnia, but its effectiveness is controversial. Melatonin is a naturally occurring hormone produced in the pineal gland. Endogenous melatonin regulates circadian rhythms. Darkness seems to stimulate melatonin secretion and light inhibits it.1773 Melatonin levels are thought to be lower than normal in some patients with insomnia.6498

The best evidence for melatonin suggests that it improves insomnia in the elderly, especially if melatonin levels are low.1072,1729,1738,1 754,7081 Younger patients also report subjective improvement in sleep quality when taking melatonin. But melatonin does not seem to improve objective measures of sleep, such as sleep latency, in these patients.1068,1070,1 083

Melatonin might be worth a try for select patients...particula rly older adults. Suggest a dose of 0.3-5 mg/day. If patients try it, suggest that they only use it short-term. If it doesn't work after a few weeks, it's probably not going to help, and there's not much known about the safety of long-term use.

Melatonin precursors are also being used for insomnia...L-tryptophan and 5-HTP. In the body, L-tryptophan is converted to 5-HTP, which is converted to serotonin...and then melatonin. But there is no reliable evidence that these work for insomnia and there are concerns about safety.

In 1989, more than 1500 cases of eosinophilia-myalgia syndrome (EMS) and 37 deaths were associated with L-tryptophan use in the US. About 95% of all EMS cases were traced to L-tryptophan produced by a single manufacturer in Japan. In 1990, L-tryptophan was recalled in the US and an FDA alert was put into force limiting the importation of all over-the-counter L-tryptophan products.7067,11477, 11478 After the limitation of L-tryptophan products, the incidence of EMS dropped abruptly.11474 Under the Dietary Supplement Health and Education Act (DHSEA) of 1994, L-tryptophan is currently available and marketed as a dietary supplement.

There is also concern that 5-HTP, like L-tryptophan, can cause eosinophilia and eosinophilia myalgia syndrome (EMS).902,919,7067 There is speculation that many commercial 5-HTP products may contain contaminants from the peak X family, a group of impurities that might cause EMS.919,10084 However, the presence of the peak X family or other contaminants has not been verified in all cases of EMS.

Until the questions about EMS and long-term safety of 5-HTP and L-tryptophan supplements are resolved, patients should avoid using these products.

Coenzyme Q-10 seems to help people with insomnia related to heart failure. Some heart failure patients have insomnia related to nocturnal dyspnea. Adjunctive use of coenzyme Q-10 can decrease the dyspnea and other symptoms…and therefore might help improve sleep.6409 Coenzyme Q-10 might be worth a try in patients with heart failure. But make sure patients don't self-treat this serious condition. They should talk it over with their healthcare provider first.

florida80
05-12-2019, 13:38
PHƯƠNG CÁCH NÀO LÀ TỐT NHẤT ĐỂ ĐIỀU TRỊ CHỨNG BỆNH MẤT NGỦ Ở NGƯỜI LỚN TUỔI ?
(WHAT'S THE BEST WAY TO TREAT INSOMNIA IN THE ELDERLY?)

Lynn Ly phỏng dịch từ Prescriber's Letter: August 2009; Vol: 16, No. 8


Hơn một nửa số người lớn hơn 65 tuổi bị khó ngủ ... nhưng nhiều phương pháp trị liệu thông thường không thích hợp.

Hăy kiểm tra các điều kiện (căn nguyên) bịnh lư bất thường (comorbid conditions) mà có thể gây trở ngại đến giấc ngủ thí dụ như điều trị cơn đau không thỏa đáng, COPD, trầm cảm, hội chứng chân bồn chồn như kiến ḅ / hội chứng tê chân (restless legs), v.v... Hăy điều chỉnh biện pháp trị liệu cho các căn nguyên (bịnh lư) này.

Hăy t́m ra các loại thuốc có thể gây mất ngủ như SSRIs, theophylline, decongestants, cimetidine, caffeine, steroid, v.v... Hăy thử thay thế giải pháp khác hoặc sử dụng những chất này vào lúc sớm hơn trong ngày.

Hăy khuyến khích vệ sinh giấc ngủ ... thời khóa biểu về giờ giấc ngủ thường xuyên, không nên có giấc ngủ ngắn nào trong ngày, và giữ pḥng ngủ thật tối, yên lặng, và thoải mái.

Gợi ư phương pháp chữa bệnh theo nhận thức tâm lư (cognitive behavioral therapy) để giảm bớt sự căng thẳng

Chỉ dùng phương pháp trị liệu bằng thuốc khi mà các biện pháp khác không thành công (bị thất bại)

Hăy giải thích cho bịnh nhân biết là các lợi ích về dùng thuốc để cho ngủ chỉ có kết quả vừa phải . Và bịnh nhân có thể bị suy giảm nhận thức (cognitive impairment), té ngă, hay mộng du (sleepwalking), v.v...

Trước tiên là hăy khai toa thuốc non-benzo hypnotic (zolpidem, v.v...)

Sử dụng 1 liều lượng thấp ... chỉ cần 5 mg zolpidem cho người cao niên để giảm sự khiếm khuyết (sự suy kém). Một số chương tŕnh bảo hiểm sẽ không phải trả cho những liều lượng thuốc cao hơn.

Cần quan tâm xem xét bịnh nhân có lạm dụng hay lệ thuộc ramelteon (Rozerem) không . Thuốc melatonin agonist giúp người già nằm ngủ nhanh hơn... nhưng hăy giải thích rằng nó không giúp họ ngủ lâu hơn

Hăy suy xét liều lượng trazodone thấp như là một cách thay thế cho non-benzos về phương pháp trị liệu dài hạn. Nó không gây ra sự lệ thuộc, nhưng nó có thể làm tăng nguy cơ bịnh nhân bị giảm áp huyết khi đứng thẳng (orthostasis).

Hăy suy xét mirtazapine (Remeron) nếu việc làm dịu để chống trầm cảm là cần thiết ... nhưng không có nhiều bằng chứng là sử dụng nó chỉ cho giấc ngủ

Cố gắng tránh sử dụng benzodiazepines (temazepam, v.v.. ). Những lợi ích có thể bào chữa cho sự tăng nguy cơ bị té ngă suy giảm nhận thức

Không được sử dụng quetiapine (Seroquel) để cho giấc ngủ . Nhóm thuốc antipsychotic này th́ làm êm dịu và giảm sự lo lắng ... nhưng có phản ứng phụ nghiêm trọng .

Cần khuyên bịnh nhân nên tránh uống rượu hoặc dùng antihistamines (Sominex, Unisom, v.v...) . Hăy giải thích rằng những antihistamines có thể gây ra sự uy giảm nhận thức và bí tiểu ... và rượu làm tăng sự bực tức và tỉnh giấc sớm.

Hăy khai toa thuốc melatonin nếu bệnh nhân muốn có phương thuốc chữa trị "tự nhiên". Sự tiết ra chất Melatonin giảm dần theo tuổi tác. Hăy giải thích rằng melatonin bổ sung có thể giúp đỡ mọi người rơi vào giấc ngủ nhanh hơn.

Để biết thêm về các lợi ích và rủi ro của melatonin, valerian, St. John's wort, và các loại khác, hăy t́m lấy bảng báo cáo đặc biệt của chúng tôi, Natural Medicines in the Clinical Management of Insomnia. (Tổ chức: "Thuốc Tự nhiên trong Quản lư Lâm sàng về Chứng mất ngủ" )

Lynn Ly (10-09-2009)


Quote:
WHAT'S THE BEST WAY TO TREAT INSOMNIA IN THE ELDERLY?

More than half of adults over 65 have trouble sleeping...but many of the usual treatments aren't appropriate.

Check for comorbid conditions that can interfere with sleep such as inadequately treated pain, COPD, depression, restless legs, etc. Optimize therapy for these conditions.

Look for drugs that can cause insomnia such as SSRIs, theophylline, decongestants, cimetidine, caffeine, steroids, etc. Try an alternative or give it earlier in the day.

Encourage sleep hygiene...regular sleep schedule, no naps, and keeping the bedroom dark, quiet, and comfortable.

Suggest cognitive behavioral therapy to reduce stress.

Save drug therapy for when other measures fail.

Explain that the benefits of sleep meds are usually modest. And they can cause cognitive impairment, falls, sleepwalking, etc.

Prescribe a non-benzo hypnotic (zolpidem, etc) first.

Use a low dose...just 5 mg of zolpidem for seniors to reduce impairment. Some insurance plans won't pay for higher doses.

Consider ramelteon (Rozerem) if abuse or dependence is a concern. This melatonin agonist helps seniors fall asleep faster... but explain that it doesn't help them sleep longer.

Consider low-dose trazodone as an alternative to non-benzos for long-term therapy. It doesn't cause dependence, but it can increase the risk of orthostasis.

Consider mirtazapine (Remeron) if a sedating antidepressant is needed... but there's not much evidence for using it just for sleep.

Try to avoid benzodiazepines (temazepam, etc). The benefits may not justify the increased risk of falls or cognitive impairment.

Don't use quetiapine (Seroquel) for sleep. This antipsychotic is sedating and reduces anxiety... but has serious adverse effects.

Recommend avoiding alcohol or antihistamines (Sominex, Unisom, etc). Explain that these antihistamines can cause cognitive impairment and urinary retention...and alcohol exacerbates early awakening.

Suggest melatonin if patients want a "natural" remedy. Melatonin secretion decreases with age. Explain that melatonin supplements might help people fall asleep faster.

For more on the benefits and risks of melatonin, valerian, St. John's wort, and others, get our Special Report, Natural Medicines in the Clinical Management of Insomnia.

Prescriber's Letter: August 2009; Vol: 16, No. 8


Thời Sự Y Học Số 163 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (01/3/2010)

6/ “ MỘT TOA THUỐC NGỦ TỐT KHÔNG ĐƯỢC QUÁ VÀI NGÀY ”.

Một toa thuốc tốt kê đơn các thuốc ngủ không được quá vài ngày, BS Didier Benhamou (thầy thuốc đa khoa của một nhà dưỡng lăo) đă giải thích như vậy. Các thuốc này phải được uống đúng giờ, để đối phó với những khó khăn tạm thời. Không phải được sử dụng một cách hệ thống, nhưng chỉ khi cần thiết. Bởi v́ nếu không, sẽ xuất hiện rất nhanh một nguy cơ quen thuốc (accoutoumance) và những tác dụng phụ có tiềm năng nghiêm trọng, nhất là nơi những người già. ”

Mặc dầu những lời khuyên này, các thuốc để ngủ, các hypnotique và các thuốc an thần, c̣n được cấp phát rất rộng răi ở Pháp. Sự tiêu thụ thuốc ngủ ở Pháp là 8 đến 10 lần cao hơn so với sự sử dụng của vài nước láng giềng Châu Âu. Những người già đặc biệt bị ảnh hưởng bởi những thái quá này. Haute Autorité de santé, trong những năm qua, đă công bố một loạt các hướng dẫn trong mục đích hạn chế việc sử dụng của các loại thuốc này mà không thành công. Trong các nhà dưỡng lăo, 30% - 60% những người hưu trí, theo những công tŕnh nghiên cứu, đă uống vào mỗi buổi tối loại thuốc này.

NHỮNG TÁC DỤNG PHỤ.

Điều trị mất ngủ bằng thuốc dựa trên hai lớp thuốc chính, các thuốc ngủ (hypnotiques hay somnifères) có thời gian tác dụng ngắn, loại zopiclone (Imovane) hay zolpidem (stilnoct) và các thuốc an thần (các benzodiazépines). Hai lớp này có những cơ chế tác dụng và những chỉ định khác nhau, nhưng có điểm chung là gây nên, đặc biệt lúc dùng lâu dài, những tác dụng phụ. “ Người ta đă chứng tỏ rằng các thuốc ngủ chỉ có hiệu quả trong một thời gian ngắn và có những tác dụng có hại, đặc biệt nơi các người già, ta có thể đọc như vậy trong một báo cáo mới đây của Haute Autorité de santé về chủ đề này. Vậy chỉ định của các thuốc ngủ hoàn toàn bị hạn chế trong các rối loạn giấc ngủ.” Những benzodiazépine (Valium, Tranxène...) mà tác dụng lên giấc ngủ chủ yếu là do một tác dụng an thần, về lâu về dài sẽ gây nên những triệu chứng chóng mặt, các rối loạn trí nhớ, các tai nạn lưu thông, các té ngă với nguy cơ găy xương. Các loại thuốc ngủ thuần túy (zopiclone, zolpidem), có thời gian tác dụng ngắn hơn, đóng vai tṛ chất gây cảm ứng (inducteur) của giấc ngủ, không làm rối loạn trí nhớ, nhưng cũng làm gia tăng nguy cơ gây té ngă, nhất là vào ban đêm. Hai loại thuốc này gây nên một sự quen thuốc (accoutoumance). Dĩ nhiên để chống những hậu quả này, đạo luật bắt buộc không được cấp toa thuốc với thời hạn trên 4 tuần trong những trường hợp mất ngủ, và 12 tuần trong các trường hợp rối loạn lo âu. Nhưng những khuyến nghị này phần lớn bị phớt lờ.

“ Nơi các người già, cấu trúc của giấc ngủ bị biến đổi, BS Benhamou nói thêm như vậy. Thêm vào đó thường là sự thiếu công việc, sự buồn chán, một t́nh trạng trầm cảm, sự cô đơn, tất cả làm gia tăng chứng mất ngủ. Phải t́m ra những hoạt động, phải chống lại sự cô đơn hiu quạnh, phải điều trị chứng trầm cảm. Nhưng rất thường giải pháp dễ dàng là kê toa các thuốc ngủ, loại thuốc trở thành một loại lễ nghi cần thiết vào mỗi buổi tối. ”
(LE FIGARO 22/2/2010)

florida80
05-12-2019, 13:38
1/ CÁC LOẠI THUỐC ĐƯỢC THEO DƠI : V̀ NHỮNG NGUY CƠ NÀO ?

PHARMACOVIGILANCE. Cơ quan quản lư dược phẩm của Pháp (Afssaps : Agence française de sécurité sanitaire des produits de santé) mới đây đă tŕnh bày một danh sách 77 loại thuốc và 12 lớp điều trị (classe thérapeutique) đặt dưới sự theo dơi. Điều này đă gảy nên một sự xao xuyến to lớn trong số những người tiêu thụ chúng và trong số những thầy thuốc kê toa những loại thuốc này. Việc thiếu những phân tích chính xác bởi giới hữu trách y tế, từng loại thuốc một, về các lợi ích, các nguy cơ, các thuốc thay thế, đă khiến các người Pháp ở trong t́nh trang chờ đợi.

“ Đă có nhiều điều ngộ nhận sau khi danh sách này được công bố, GS Bernard Bégaud (dược sĩ, Bordeaux) đă xác nhận như vậy. Dân chúng đă hiểu rằng đó là danh sách các loại thuốc nguy hiểm và do đó ngạc nhiên tại sao chúng lại được thương măi hóa. ”

Tất cả các loại thuốc đều được theo dơi, chứ không phải chỉ có những thuốc trong danh sách được công bố. Mỗi khi một thầy thuốc được báo động về một tác dụng phụ không được liệt kê, không được biết rơ, không b́nh thường hay trầm trọng, ông ta có bổn phận phải thông báo điều đó với giới hữu trách y tế. Ngoài ra, vài loại thuốc đặc biệt được theo dơi do sự khám phá các tác dụng phụ nghiêm trọng và bất ngờ. Một cuộc điều tra sẽ cho phép kiểm tra xem các tai biến được quan sát đúng là có thể quy cho thuốc, xác định tần số xảy ra và áp dụng những biện pháp nếu cần (hạn chế thậm chí rút ra khỏi thị trường). Ngoài ra từ năm 2006, tất cả các thuốc đổi mới phải là đối tượng của một “ kế hoạch quản lư các nguy cơ ” (plan de gestion de risques ), để biết rơ hơn những tác dụng phụ của chúng, vẫn c̣n không được biết nhiều vào lúc đưa ra thị trường.

Tuy nhiên cần phải biết rằng không hiện hữu thuốc hiệu quả nào mà không có những tác dụng phụ. Vụ Mediator minh họa sự khiếm khuyết của cảnh giác dược (pharmacovigilance) trong đất nước chúng ta v́ lẽ đă phải cần đến 33 năm mới khám phá những tai biến tim do loại thuốc này. “ Những vụ việc mới đây phải dạy cho các chuyên gia một bài học về tính khiêm tốn, GS François Chast, cựu chủ tịch của Viện hàn lâm dược khoa đă đánh giá như vậy. Họ phải học để biết xét lại phán đoán của ḿnh khi càng ngày càng có những dữ kiến mới. Ngày nay, chính những công tŕnh nghiên cứu dịch tễ dược quy mô lớn cho phép chúng ta tiến bước, bởi v́ những điều ta không có thể thấy được trên một nhóm nhỏ, thí dụ ở mức bệnh viện hay một hiệu thuốc, lại trở nên có thể thấy được với quy mô hàng triệu toa thuốc.” Mặc dầu vậy, những quyết định về các loại thuốc đôi khi khó thực hiện v́ lẽ phải cân bằng giữa những lợi ích của một dược phẩm với những nguy cơ của nó.

Như thế, theo GS Chast, phải phân biệt những loại thuốc làm thay đổi cuộc đời như Glivec (dược phẩm này mặc dầu nằm trong danh sách của Afssaps nhưng đă làm thay đổi tiên lượng của leucémie myéloide chronique) mặc dầu phải trả giá cho những tác dụng phụ, với những thứ thuốc có thể được rút ra khỏi thị trường ngày mai mà không tạo nên vấn đề ǵ đặc biệt, bởi v́ chúng dành cho những bệnh hiền tính hay bởi v́ có những giải pháp điều trị thay thế. Ư niệm dùng sai thuốc (mésusage) cũng sẽ phải phát triển trong tương lai. Đă có những cuộc bàn căi sôi bỏng trước khi Di-Antalvic bị rút ra khỏi thị trường (một trong những thuốc giảm đau được kê toa nhiều nhất). Mục tiêu của sự cấm chỉ này của Châu Âu là nhằm ngăn ngừa những toan tính tự tử được gây nên bởi loại thuốc này, thường thấy ở Thụy Điển và Anh. Nhưng một trong những thuốc được đề nghị như là một giải pháp thay thế cho Di-Antalgic, Tramadol, cũng lại bị nhúng chàm bởi một nguy cơ quá liều.

Danh sách được công bố bởi Afssaps cũng chứa những điều không khớp sít. Thí dụ Levothyrox xuất hiện trên danh sách, thuốc này cần thiết để điều trị bệnh giảm năng tuyến giáp. Thế mà, GS Bernard Bégaud đă xác nhận như vậy, levothyrox tự bản thân nó không gây vấn đề ǵ, nhưng vấn đề là do các générique v́ những lư do liều lượng.

12 DƯỢC PHẨM TRONG SỐ ĐƯỢC SỬ DỤNG NHIỀU NHẤT NẰM TRONG DANH SÁCH CỦA 77 DƯỢC PHẨM ĐƯỢC THEO DƠI TĂNG CƯỜNG.

NGHIỆN THUỐC NGỦ


Tên thuốc : Rohypnol
Hăng bào chế : Roche
Được bán từ 20 năm nay

Là các thuốc ngủ trong số được ưa chuộng nhất, Rohypnol và Stilnox (Sanofi-Aventis) đă được đưa ra thị trường cách nay hơn 20 năm. Rohypnol, thuộc họ các benzodiazépines như thí dụ Valium, chịu “ một điều tra cảnh giác nghiện (addictovigilance) về những trường hợp lạm dụng, phụ thuộc và sử dụng đổi hướng từ năm 2000. ”, Afssaps đă xác nhận như vậy. Rohypnol từ lâu đă là loại thuốc được chuyển hướng nhất bởi các người nghiện ma túy, điều này khiến phải biến đổi những điều kiện kê toa và phát thuốc vào năm 2000. Stilnox cũng chịu cùng sự theo dơi từ năm 2000. Hồ sơ của hai loại thuốc này phải được xem lại bởi giới hữu trách y tế trong những tháng đến. Đối với GS Michel Lejoyeux, giáo sư tâm thần học và addictologie (Paris VII), những thuốc an thần này có thể gây nên t́nh trạng say và phụ thuộc. “ Ngày nay, trong sự quản lư các rối loạn giấc ngủ, một điểm tạo nhất trí ; không có chỉ định cho thuốc ngủ lâu dài ”, thầy thuốc tâm thần này đă nhấn mạnh như vậy. Theo ông, các thầy thuốc, kể cả những thầy thuốc bệnh viện có khuynh hướng kê đơn quá dễ dàng các thuốc ngủ. Và một sự cai thuốc có thể tỏ ra phục tạp với sự theo dơi y khoa.

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 261 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (10/3/2012)

6/ THUỐC NGỦ LÀM GIA TĂNG NGUY CƠ TỬ VONG.

Điểm chủ yếu
• Một công tŕnh nghiên cứu dịch tễ học Hoa Kỳ cho thấy một mối liên hệ giữa việc tiêu thụ thuốc ngủ và nguy cơ tử vong gia tăng.

• Nguy cơ ung thư cũng bị liên hệ.


Vài thuốc ngủ thường được kê đơn được liên kết với một nguy cơ gây tử vong sớm hơn gấp 4 lần và điều này ngay cả ở những người chỉ tiêu thụ vài viên mỗi năm !

Thông tin này, được công bố bởi British Medical Journal, đăng lại một công tŕnh nghiên cứu Hoa Kỳ về chủ đề này, thổi lên một luồng gió lạnh. Việc tiêu thụ các thuốc ngủ và những thuốc an thần khác đang gia tăng liên tục bên kia bờ đại tây dương, cũng như ở Bỉ.

“ Các kết quả của công tŕnh nghiên cứu của chúng tôi là rơ ràng. Chúng cho thấy rằng các thuốc ngủ là nguy hiểm đối với sức khỏe và rằng chúng có thể gây tử vong do góp phần vào sự xảy ra thường hơn một ung thư hay nhất là những bệnh tim ”, BS Daniel Kripke, thuộc Centre du sommeil của Đại Học Scripps (Californie) đă chỉ rơ như vậy.

Công tŕnh nghiên cứu này là công tŕnh đầu tiên cho thấy rằng 8 trong số những loại thuốc thường được sử dụng nhất như témazépam (benzodiazépines), các thuốc không phải benzodiazépines như zolpidem hay zopiclone, các barbituriques và các antihistaminiques được dùng làm thuốc an thần có hậu quả tai hại này.

“ Tuy nhiên, hăy lưu ư, BS Samuel Leistedt, thầy thuốc chuyên khoa tâm thần thuộc bệnh viện Erasme (ULB) đă xác nhận như vậy. Công tŕnh nghiên cứu này là một công tŕnh nghiên cứu quan sát (étude observationnelle). Nó căn cứ trên những quan sát dịch tễ học. Ngoài ra các tác giả giải thích rất tốt và áp dụng tất cả những biện pháp thận trọng đối với vấn đề này. Họ đă liệt kê những bệnh nhân sử dụng hay không các thuốc ngủ và rút ra những kết luận, nhưng họ đă không trắc nghiệm khả năng gây chết người của những thuốc ngủ được nói đến. Họ chỉ xác nhận mối liên hệ giữa các bệnh nhân và những loại thuốc này. ”

Daniel Kripke và đồng nghiệp Robert Langer, thuộc Trung tâm y khoa pḥng ngừa Jackson Hole, Wyoming, đă nghiên cứu tiến triển về sức khỏe của 10.500 người được kê đơn thuốc ngủ trong một thời gian trung b́nh hai năm rưỡi, trong thời kỳ từ 2002 đến 2007. Họ đă đặt tương quan những dữ kiện này với tiến triển của cuộc sống của 23.500 người Mỹ khác nhưng đă không bao giờ dùng thuốc ngủ trong thời kỳ này.

Dĩ nhiên, trước khi đưa ra những con số, các nhà nghiên cứu đă cân nhắc những kết quả của các công tŕnh nghiên cứu của họ tùy theo một số các tham số có thể giải thích những nguy cơ gia tăng này ở những người tiêu thụ thuốc ngủ : tuổi tác, thể trọng, lối sống, các tiền căn y khoa, giới tính, chứng nghiện thuốc lá,…

NGUY CƠ TĂNG GẤP 5.

Theo công tŕnh nghiên cứu của họ, những bệnh nhân được kê đơn đến 18 liều thuốc ngủ mỗi năm có khả năng chết 3 lần nhiều hơn so với những người không dùng thuốc. Ở những người đă dùng 18 đến 132 liều, nguy cơ là 4 lần quan trọng hơn và lên 5 lần đối với những người tiêu thụ hơn 132 liều thuốc ngủ mỗi năm.

“ Thí dụ chúng ta đă thấy rằng có 265 trường hợp tử vong ở 4.336 người dùng zolpidem so với 295 trường hợp ở 23.671 người đă không dùng những thuốc an thần hay những thuốc ngủ ”, các tác giả đă xác nhận như vậy.

Những người dùng nhiều liều nhất cũng có nguy cơ hơn phát triển nhiều loại ung thư.

Đối với BS Groves Trish, tổng biên tập của BMJ, kết luận được rút ra từ những công tŕnh nghiên cứu này là “ mặc dầu các tác giả đă không có thể chứng tỏ rằng các thuốc ngủ gây nên một sự chết sớm, nhưng những phân tích của họ đă loại trừ một loạt những yếu tố khả dĩ khác. Vậy những kết quả này nêu lên những câu hỏi quan trọng về sự an toàn của các thuốc an thần và các thuốc ngủ. ”
(LE SOIR 28/2/2012)

florida80
05-12-2019, 13:44
https://i.imgur.com/HQCiqnR.gif



THÔNG TIN Y HỌC VỀ RƯỢU

Lynn Ly tổng hợp thông tin về Rượu
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh


THỜI SỰ Y HỌC SỐ 13 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 2/2/2007 )

1/ DỊCH ÉP CỦA QUẢ BƯỞI CŨNG HIỆU QUẢ NHƯ RƯỢU VANG

Các nhà khoa học của Đaị Học Louis Pasteur (Strasbourg) đă thực hiện các nghiên cứu thực nghiệm về các huyết quản được lấy từ heo. Họ đă đo lường sự sản xuất NO của huyết quản dưới sự hiện diện của nước ép quả bưởi. Các tác giả phát xuất từ nguyên tắc cho rằng một sự gia tăng sản xuất NO trong nội mạc huyết quản sẽ có tác dụng bảo vệ của một sự tiêu thụ có mức độ rượu vang để chống bệnh động mạch vành. Các nhà nghiên cứu đă nhận xét rằng các polyphénols hiện diện trong nước ép quả bưởi kích thích các tế bào nội mạc sản xuất NO, nhờ thế có tác dụng bảo vệ chống lại các bệnh tim mạch, ǵn giữ sự lành mạnh của các huyết quản và cho phép duy tŕ một huyết áp b́nh thường.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 9/2/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 17 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 9/3/2007 )

6/ HÚT THUỐC LÀM LIỆT DƯƠNG, UỐNG RƯỢU LÀM CƯỜNG DƯƠNG.

Vào lúc mà ở nhiều nước việc cấm hút thuốc ở những nơi công cộng càng ngày càng được áp dụng th́ việc nhắc lại rằng hút thuốc rất có hại cho chức năng cương là điều đáng lưu ư.Sau đây là kết quả của một công tŕnh nghiên cứu Úc Đại Lợi,đất nước có tỷ lệ hút thuốc la đặc biệt cao.Bên cạnh việc xác nhận tác dụng có hai của thuốc lá lên sự cương ,c̣n có một điều ngạc nhiên rất thú vị,đó là uống một ly rượu nhỏ sẽ bảo vệ tinh cường dương.

Cần nhắc lại rằng công tŕnh nghiên cứu Massachusetts male aging study được tiến hành trên nhóm đàn ông từ 40-70 tuổi sống ở Boston đă chứng tỏ một sự liên kết giữa nghiện thuốc lá và nguy cơ tăng gấp đôi bị rối loạn chức năng cương.

Một công tŕnh khác, lần này được tiến hành ở Việt Nam trên 4.462 cựu chiến binh tuổi từ 31 đến 49 tuổi đă phát hiện rằng những người hút thuốc bị chứng bất lực 1,5 lần nhiều hơn là những người không hút.

Úc Đại Lợi là một hiện trường rất tốt để nghiên cứu tác dụng có hại của thuốc lá v́ tỷ lệ hút thuốc lá ở đây đặc biệt cao. Mức trung b́nh đàn ông hút thuốc là 19% (so với 16% trong những vùng tương đương khác). Ở các thanh niên (trong lứa 20-29 tuổi) tỷ lệ đạt đến 24%. Để thực hiện công tŕnh nghiên cứu này, tất cả 19.307 người ở lứa tuổi trưởng thành từ 16 đến 59 tuổi đă được yêu cầu trả lời một bảng câu hỏi được thực hiện qua đường điện thoại. Hơn ¼ những người trả lời (27,2%) là những người nghiện thuốc trong số đó 20,9% hút dưới 20 điếu mỗi ngày và 6,3% hơn 20 điếu mỗi ngày. Hầu như cứ mỗi mười người đàn ông th́ có một người báo cáo bị rối loạn chức năng tính cương (9,1%). So sánh với những người không hút thuốc, nguy cơ bị rối loạn chức năng tính cương là 1,24 đối với những người hút dưới 20 điếu mỗi ngày và 1,39 đối với những người hút nhiều hơn. Công tŕnh nghiên cứu cũng đưa ra những yếu tố khác liên kết một cách đáng kể và độc lập với rối loạn chức năng tính cương: tuổi tác cao hơn, tŕnh độ học vấn thấp, dùng thuốc tác dụng lên tim.

Ngược lại, cũng trong cùng công tŕnh nghiên cứu này, có vẻ như việc uống rượu vang có mức độ liên kết với giảm nguy cơ bị rối loạn tính cương. Thế là sau cùng bí mật về ’french lovers’ đă được phát hiện! Cảm ơn các bạn Úc Đai Lợi

Ngược lại, cũng trong cùng công tŕnh nghiên cứu này, có vẻ như việc uống rượu vang có mức độ liên kết với giảm nguy cơ bị rối loạn cương. Thế là sau cùng bí mật về « french lovers » đă được phát hiện ! Cảm ơn các bạn Úc Dai Lợi.
(LE GENERALISTE 8/3/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 26 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 11/5/2007 )

5/ RƯỢU CHỐNG HỢP CHỨNG RANAUD.

Đặc điểm của hợp chứng Raynaud là những cơn đau ở các ngón tay do các huyết quản bị co thắt. Trong khi xét đến nhiều yếu tố có liên hệ trong bệnh này, nhất là thuốc lá, người ta nhận thấy rằng uống rượu có mức độ làm giảm 30% nguy cơ gây các cơn đau nơi phụ nữ và 60% nơi đàn ông. Những kết quả này được rút ra từ các dữ kiện thu thập được trong công tŕnh điều tra nổi tiếng Framingham được thực hiện trên 3500 người.
(SCIENCES ET AVENIR 5/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 29 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 04/06/2007 )

5/ VÚ PHỤ NỮ KHÔNG THÍCH RƯỢU

Đó là điều đă được chứng minh! Nguy cơ bị ung thư vú gia tăng 50 % khi các bà uống 50g alcool mỗi ngày, hoặc tương đương với 5 ly rượu vang hoặc 5 lon bia 25 cl. Đó là những kết luận của Trung Tâm Quốc Tế Nghiên Cứu về Ung Thư (CIRC= Centre international de recherche sur le cancer). Trung tâm này đă tổng hợp 50 công tŕnh nghiên cứu dịch tễ học. Ngoài ra, ngay cả việc uống với lượng nhỏ hơn và đều đặn 18g alcool mỗi ngày (dưới 2 ly rượu vang) cũng làm gia tăng nguy cơ bị ung thư vú 7%.
(SCIENCE ET VIE 6/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 42 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 15/9/2007 )
4/ RƯỢU VANG ĐỎ CHỐNG UNG THU TIỀN LIỆT TUYỂN?

Resvératrol, một polyphénol thiên nhiên, có những tính chất chống oxy hóa (anti-oxydant) và một hoạt tính chống ung thư. Chất này đặc biệt được t́m thấy trong nho đỏ, quả dâu tằm (mures) và đậu phụng. Một nhóm nghiên cứu của đại học Alabama (Hoa kỳ) đă muốn biết xem phân tử này có thể có một tác dụng hoá học bảo vệ (effet chimioprotecteur) chống ung thư tuyến tiền liệt qua sự điều ḥa các thụ thể sinh dục đối với stéroides và các đuờng tín hiệu thần kinh của các yếu tố tăng trưởng (facteurs de croissance).

Trong công tŕnh nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đă cho resvératrol (625 mg/kg) các chú chuột được biến đổi di truyền để mắc bệnh u xơ tiền liệt tuyết (adénome prostatique) và họ đă so sánh các chú chuột này với một nhóm kiểm chứng. Các chú chuột bị biến đổi về mặt di truyền và của nhóm kiểm chứng được thăm khám sau đó vào lứa tuổi 12 và 28 tuần. Các kết quả chứng tỏ rằng tỷ lệ mắc phải adénocarcinome có độ phân hóa thấp giảm 7,7 lần. Nguy cơ của dạng thương tổn ung thư nghiêm trọng nhất giảm 87%. Hiệu quả bảo vệ chống ung thư cực đại nhất có được sau khi cho bổ sung resvératrol trong 7 tháng. Sau cùng ở những chú chuột phát bệnh adénocarcinome, điều trị cho phép giảm hoặc làm ngưng sự tăng trưởng của khối u trong 48 % trường hợp.

Đối với các tác giả, Curt Harper và các cộng sự viên, sự giảm tăng sinh tế bào và nồng độ của yếu tố tăng trưởng, IGF-1, sự kém điều ḥa của các cơ quan tác động (effecteurs) phospho-ERKs1 và 2 và sự gia tăng của nồng độ chất hủy (suppresseur) khối u, ER-beta, là nguồn gốc của tác dụng cản của resvératrol lên trên sự phát triển của ung thư tiền liệt tuyến.

Cũng nhóm nghiên cứu này đă công bố các công tŕnh được thực hiện trên chuột, chứng tỏ tác dụng của polyphénol này lên ung thư của vú. Tuy nhiên c̣n cần đến những nghiên cứu khác để xác định vai tṛ của polyphénol này trên người và với liều lượng được sử dụng là bao nhiêu. Vài tác giả đặc biệt giải thích rằng tác dụng được xác nhận ở chuột tương ứng với nồng độ tương đương với việc tiêu thụ một chai rượu vang đỏ mỗi ngày! Thế mà, liều lượng được khuyên lại là 2 ly rượu vang đỏ mỗi ngày cho một người đàn ông và một ly cho một người đàn bà.

(LE JOURNAL DU MEDECIN 11/9/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 46 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 12/10/2007 )
3/ RƯỢU LÀM DỄ UNG THƯ VÚ

Một công tŕnh nghiên cứu vừa được tŕnh bày mới đây ở Barcelone đă chứng tỏ rằng, so sánh với những phụ nữ uống dưới một ly đồ uống có chất rượu (boisson alcoolisée) mỗi ngày, th́ các bà uống một đến hai ly mỗi ngày có nguy cơ bị ung thư vú gia tăng 10%. Nếu uống trên 3 ly mỗi ngày th́ nguy cơ gia tăng 30%, bất kể đó là loại rượu nào.

Dù loại ruợu uống thuộc loại nào đi nữa (rượu vang, bia hay rượu mùi), chính lượng tuyệt đối rượu được tiêu thụ xác định nguy cơ bị ung thư vú. Uống 3 lần hoặc hơn đồ uống có chất rượu mỗi ngày tương ứng với một nguy cơ gây nên do tiêu thụ một gói thuốc lá mỗi ngày.

Những nghiên cứu dịch tễ học đă phát hiện vai tṛ của rượu trong sự phát sinh ung thư vú. Tuy nhiên măi đến ngày nay, chúng ta chỉ có ít dữ kiện về tác dụng của bản chất của đồ uống được tiêu thụ.

Công tŕnh nghiên cứu đă chứng tỏ rằng bản chất của đồ uống có chất rượu không làm thay đổi nguy cơ phát triển ung thư vú.Trái lại các phụ nữ uống một hoặc hai ly rượu mỗi ngày sẽ làm gia tăng nguy cơ bị ung thư vú lên 10% so sánh với các phụ nữ uống dưới một ly mỗi ngày. Nguy cơ sẽ gia tăng 30% nơi những phụ nữ uống 3 ly rượu mỗi ngày.Việc gia tăng nguy cơ bị ung thư vú này có thể được so sánh với sự gia tăng nguy cơ gây nên bởi tiêu thụ một gói thuốc lá mỗi ngày hoặc hơn.Từ đó các tác giả kết luận rằng đó là một lư do nữa để khuyến khích các phụ nữ giảm hoặc ngừng tiêu thụ các đồ uống có chất ruợu.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 9/10/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 58 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 04/01/2008 )

7/ RƯỢU, YẾU TỐ NGUY CƠ CỦA GĂY DO LOĂNG XƯƠNG

BRUXELLES. Rượu là một trong những yếu tố nguy cơ có thể biến đổi được (facteurs de risque modifiables) của bệnh loăng xương (ostéoporose), cũng như chứng nghiện thuốc lá, thể trọng thấp, một chế độ ăn uống thiếu chất, luyện tập thể dục không đầy đủ, thiếu calcium hay vitamine D và té ngă thường xuyên.

Thật vậy, các công tŕnh nghiên cứu được thực hiện ở Châu Âu, ở Bắc Mỹ và ở Úc Đại Lợi chứng tỏ rằng uống trên 2 đơn vị alcool mỗi ngày (hoặc 20g/ngày) sẽ làm gia tăng nguy cơ găy do loăng xương (fractures ostéoporotiques) và găy xương háng nơi đàn ông và phụ nữ, có lẽ do độc tính trực tiếp của rượu lên các tạo cốt bào (ostéoblaste), là những tế bào cấu tạo các mô xương.

Tiêu thụ hơn 4 đơn vị rượu mỗi ngày sẽ làm tăng gấp đôi, lên cả hai phái tính, nguy cơ găy xương háng. Rượu dường như có một tác dụng độc hại trực tiếp lên xương, làm giảm mật độ khoáng của xương (densité minérale osseuse).

Trong số báo ra vừa rồi, Viện pḥng ngừa và giáo dục y tế quốc gia nhắc lại rằng các nguy cơ liên kết với rượu cũng có thể được quy cho những tác dụng khác của rượu, như là sự thoái hóa của t́nh trạng sức khỏe chung, đặc biệt là nơi những người già, và sự gia tăng nguy cơ té ngă.

Trên thế giới, ở những người trên 50 tuổi, một phụ nữ trên ba người và một người đàn ông trên năm người, sẽ bị mắc phải chứng loăng xương (ostéoporose).

Đặc điểm của chứng loăng xương là sự giảm mật độ xương (densité osseuse) và điều này là nguyên nhân của sự gia tăng tính dễ vỡ của xương (fragilité osseuse). Găy xương đốt sống (fracture vertébrale) và găy đầu trên xương đùi (cổ xương đùi) là những biến chứng chính của căn bệnh loăng xương thường xảy ra hơn nơi các phụ nữ trên 50 tuổi này; 50% các phụ nữ sẽ không t́m lại được khả năng độc lập của ḿnh sau khi bị găy xương đùi.
(LE METRO 2/1/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 67 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 7/3/2008 )

9/ RƯỢU DUY TR̀ NHỮNG Ư TƯỞNG ĐEN TỐI

Ngạn ngữ nói rằng rượu giúp tiêu sầu, nhưng trên thực tế, rượu chỉ làm kéo dài nỗi âu sầu mà thôi. Đó là điều được tiết lộ bởi một công tŕnh nghiên cứu được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu của đại học Tokyo. Nhóm nghiên cứu được điều khiển bởi giáo sư dược học Norio Matsuki, giải thích rằng éthanol được chứa trong rượu không làm quên lăng, như chúng ta thường tưởng, nhưng trái lại bảo tồn những kỹ niệm đă ăn sâu vào trong trí nhớ. Các nhà nghiên cứu đă đạt được khám phá này bằng trắc nghiệm các con chuột pḥng thí nghiệm. Các nhà nghiên cứu đă bắt những con chuột này chịu những phóng điện nhẹ trong nhiều ngày trước khi đặt chúng vào lại trong lồng. Các chú chuột sau đó trở nên khiếp sợ mỗi lần chuồng được mở ra và các nhà nghiên cứu khi đó đă tiêm rượu vào vài con chuột và dung dịch sinh lư vào những con chuột khác để nghiên cứu các phản ứng của hai nhóm.

XOÁ BỎ ÂM TÍNH BĂNG DƯƠNG TÍNH

Công tŕnh nghiên cứu đă chứng tỏ rằng sự sợ hải kéo dài lâu hơn, trung b́nh 2 tuần lễ, nơi chuột đă nhận một liều alcool so với những con chuột khác. “Nếu chúng ta áp dụng những kết quả này lên người, điều đó có nghĩa là những kỹ niệm xấu mà chúng ta muốn tống khứ sẽ kéo dài lâu hơn nếu chúng ta uống rượu, mặc dầu điều đó có thể mang lại một sự sảng khoái nào đó ngay lúc đó”, công tŕnh nghiên cứu nhấn mạnh như vậy. “Để quên cái ǵ đó có tính chất âm tính, nên xóa bỏ nó bằng cái ǵ đó dương tính càng sớm càng tốt và không bên đụng vào rượu” M.Matsuki đă khuyên như vậy.

Các kết luận của công tŕnh nghiên cứu đă được công bố trong tạp chí hàn lâm Hoa Kỳ Neuropsychopharmacol ogy.
(LE SOIR 1/3-2/3/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 71 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 4/4/2008 )

5/ RƯỢU VÀ CHỨNG TINH HOÀN ẨN

Chứng tinh hoàn ẩn (cryptorchidie) tương ứng với sự ngừng di chuyển của tinh hoàn ở một điểm nào đó trong lộ tŕnh b́nh thường giữa vùng thắt lưng (nơi tinh hoàn được tạo thành) và bao tinh hoàn (scrotum), nơi tinh hoàn hiện diện vào lúc sinh.Theo các dữ kiện thu được ở Phần Lan và Đan Mạch, nguy cơ bị chứng tinh hoàn ẩn nơi trẻ em càng lớn khi việc uống rượu càng quan trọng nơi bà mẹ trong thời kỳ có thai. Sự gia tăng nguy cơ này độc lập với các yếu tố nguy cơ khác như tuổi của bà mẹ, số lần đẻ, trọng lượng lúc sinh, hay là chứng nghiện thuốc lá.
SCIENCES ET AVENIR 4/2008

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 73 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 18/4/2008 )

4/ UỐNG RƯỢU VANG ĐỂ TRÁNH CHỨNG SA SÚT TRÍ TUỆ

Các phụ nữ uống đều đặn rượu vang ít bị nguy cơ trở thành sa sút trí tuệ hơn so với các phụ nữ không bao giờ uống. Trái lại các rượu mạnh làm gia tăng nguy cơ này. Đó là kết quả của một công tŕnh nghiên cứu Thụy Điển. Lauren Lissner (Đại học Goteborg) và nhóm nghiên cứu đă thu thập các dữ kiện liên quan đến 1.462 phụ nữ tuổi từ 36 đến 60 trong những năm 1968-1969. Các phụ nữ này đă được theo dơi cho đến năm 2002. Ngay từ đầu của thời kỳ theo dơi và 3 lần trong lúc thực hiện công tŕnh nghiên cứu, các phụ nữ này đă được hỏi về việc uống rượu của họ. 164 phụ nữ tham dự đă được chẩn đoán sa sút trí tuệ trong thời kỳ nghiên cứu. Các tác giả đă có thể chứng nhận rằng nguy cơ bị sa sút trí tuệ là 40% thấp hơn nơi các phụ nữ đă uống rượu vang ; nguy cơ này ngay cả 70% thấp hơn nơi các phụ nữ chỉ uống rượu vang và không uống những đồ rượu khác. Tác dụng bảo vệ lại c̣n rơ rệt hơn nơi những người hút thuốc. Trái lại, các rượu mạnh làm gia tăng nguy cơ bị sa sút trí tuệ 50% .V́ lẽ chỉ có rượu vang, chứ không phải các đồ uống có chất rượu khác, dường như bảo vệ chống lại chứng sa sút trí tuệ, nên các tác giả kết luận rằng hiệu quả bảo vệ không được quy cho rượu mà cho các thành phần khác của rượu vang.
LE JOURNAL DU MEDECIN 11/4/2008

8/ UNG THƯ VÚ: CHO BÚ CÓ LỢI, UỐNG RƯỢU CÓ HẠI

Ung thư vú là ung thư thông thường nhất của phụ nữ.Trên thế giới mỗi năm có 1 triệu trường hợp mới, trong đó ở Pháp có 42.000 trường hợp.

Ung thư vú cũng đang gia tăng khắp nơi trên thế giới, ngay cả trong những nước châu Á và châu Phi, là nơi cho đến nay ít bị ảnh hưởng hơn. Cần ghi nhận rằng ở Pháp, lần đầu tiên, tỷ lệ mắc phải ung thư này nơi các phụ nữ trên 50 tuổi đang hạ xuống. Sự phân bố không đồng đều về mặt địa dư (một ung thư cho 12 phụ nữ ở châu Âu, và một cho 80 ở Nhật bản) khiến rất làm nghi ngờ một vai tṛ bảo vệ khả dĩ của chè xanh và/hoặc đậu nành. Dầu sao, báo cáo vừa qua của WCRF đă nhấn mạnh 2 thông điệp quan trọng : thông điệp đầu tiên, đó là lợi ích của sự cho con bú kéo dài, và điều này dầu cho lúc phát triển ung thư là lúc nào, trước hoặc sau thời kỳ măn kinh.Thông điệp thứ hai xác nhận ảnh hưởng có hại của rượu, đă được nghi ngờ từ nhiều năm nay. Một tháng sau báo cáo của WCRF, một báo cáo khác của Pháp, từ Viện ung thư quốc gia, đă định số cho mối nguy cơ này. Nguy cơ mắc phải ung thư vú gia tăng 10% nếu mức độ tiêu thụ trung b́nh rượu mỗi ngày tăng 10g hoặc 1 ly.
LE MONDE 3/4/2008

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 74 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 18/4/2008 )

3/ UỐNG RƯỢU LÀM GIA TĂNG NGUY CƠ BỊ UNG THƯ VÚ

Việc uống rượu (alcool) làm gia tăng nguy cơ mắc phải ung thư vú. Công tŕnh nghiên cứu lớn nhất về chủ đề này, trên hơn 184.000 phụ nữ, được thực hiện bởi Viện ung thư quốc gia Hoa kỳ, đă phát hiện rằng việc uống một hay hai ly rượu mỗi ngày cũng đủ làm tăng 30% nguy cơ mắc phải ung thư vú. Nếu uống 3 ly hay nhiều hơn sẽ làm gia tăng nguy cơ 50%. Và điều đó độc lập với loại rượu được tiêu thụ. Công tŕnh nghiên cứu này đă được tŕnh bày tuần qua trong một buổi hợp của Hiệp hội nghiên cứu Hoa kỳ ở San Diego. Theo các tác giả của công tŕnh nghiên cứu, các kết quả này được giải thích bởi một sự biến đổi của chuyển hóa của các hormones oestrogènes, gây nên bởi rượu.
LE FIGARO 15/4/2008

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 75 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 25/4/2008 )

3/ RƯỢU VÀ THUỐC LÁ LÀM DỄ NGUY CƠ BỊ BỆNH ALZHEIMER

Nhân dịp một hội nghị ở Hoa Kỳ, các nhà nghiên cứu đă chứng tỏ lần đầu tiên rằng những người hút thuốc lá nặng và những người uống rượu thâm niên bị mắc bệnh Alzheimer sớm hơn

Bệnh Alzheimer cũng là hậu quả của lối sống của chúng ta. Bệnh này gây bệnh cho 15% những người trên 80 tuổi. Mặc dầu nguyên nhân của bệnh Alzheimer đă không được xác định một cách rơ ràng, nhưng sự việc uống rượu và hút thuốc lá sẽ làm gia tăng nguy cơ mắc phải bệnh này.Trong một hội nghị thần kinh học được tổ chức ở Hoa Kỳ, các nhà khoa học đă chứng tỏ rằng các người uống rượu nhiều có một nguy cơ bị bệnh Alzheimer sớm hơn những người không hoặc ít uống. Cũng vậy, sự việc hút hơn một bao thuốc lá mỗi ngày cũng làm gia tốc nguy cơ. Những công tŕnh khác được tŕnh bày trong hội nghị này phát hiện một nguy cơ gia tăng bị bệnh Alzheimer đối với những người đă có một tăng cholestérol-huyết lúc ở tuổi trung niên. Những điều tra khác mới đây cũng đă chỉ rơ vai tṛ của cao huyết áp, của bệnh đái đường và của chứng béo ph́ (đặc biệt là khi được liên kết với một cái bụng phệ) như là những yếu tố làm dễ cho sự phát triển của chứng sa sút trí tuệ này. Những dữ kiện này khiến nghĩ rằng bằng sự pḥng ngừa chống lại thuốc lá, rượu, bệnh đái đường, chứng béo ph́ và cao huyết áp, chúng ta có thể nếu không ngăn cản được bệnh này, th́ ít ra cũng làm chậm sự xuất hiện của nó.

Trong một thời gian lâu, các nguyên nhân của căn bệnh thoái hóa năo bộ trầm trọng này có vẻ vừa bí ẩn vừa mang hơi hướng di truyền. Trong những năm qua, càng ngày càng có nhiều các công tŕnh nghiên cứu ăn khớp nhau chỉ rơ rằng căn bệnh bi thảm này cũng liên hệ với lối sống của chúng ta. Và có vẻ như là các yếu tố ảnh hưởng lên tim, nhất là những yếu tố trách nhiệm về các thương tổn động mạch vành, cũng ảnh hưởng lên chức năng của năo bộ khi tuổi tác gia tăng. Mặc dầu nguồn gốc của bệnh Alzheimer không được biết một cách chính xác, nhưng có vài yếu tố làm dễ cho sự phát sinh căn bệnh này. Thứ tư vừa qua, một công cuộc điều tra đă được tŕnh bày tại hội nghị hàng năm của Viện hàn lâm thần kinh học Hoa Kỳ ở Chicago. Công tŕnh nghiên cứu này đă chứng tỏ rằng bệnh Alzheimer gây bệnh sớm hơn nơi những người nghiện thuốc lá nặng và những người uống rượu thâm căn. Cũng tại hội nghị này, một công tŕnh nghiên cứu khác cho rằng những người có nồng độ cholestérol cao trong tuổi tứ tuần, cũng có một nguy cơ gia tăng bị Alzheimer sau này. Một công tŕnh nghiên cứu thứ ba được công bố ngày 26 tháng 3 xác nhận rằng có một cái bụng phệ ở tuổi trung tuần cũng được liên kết với một nguy cơ bị bệnh Alzheimer cao hơn.

Các nhà nghiên cứu của Mount Sinai Hospital de Miami Beach (Hoa Kỳ) đă khảo sát 938 người trên 60 tuổi vừa được chẩn đoán có khả năng bị Alzheimer. Sau đó họ hỏi gia đ́nh của các bệnh nhân để đánh giá sự tiêu thụ thuốc lá và rượu suốt trong cuộc sống. Như thế họ đă có thể quan sát thấy rằng những người uống rượu đều đặn (ít nhất 3 ly mỗi ngày) bị bệnh Alzheimer trung b́nh 4,8 năm sớm hơn những người không uống hoặc uống ít. Cũng vậy, những người nghiện thuốc lá nặng (hơn một gói mỗi ngày) bị bệnh Alzheimer 2,3 năm sớm hơn những người không hút thuốc. Đối với những người mang một trong những gène tố bẩm (apolipoprotéine 4), bệnh bắt đầu 3 năm trước những người khác. Đối với những người đồng thời uống rượu nhiều, nghiện thuốc lá nặng, mang gène tố bẩm, họ phát bệnh 8,5 năm sớm hơn những người không có 3 yếu tố này. 17 người thuộc trường hợp đầu đă bị bệnh Alzheimer lúc 68,5 tuổi, so với 77 tuổi đối với trường hợp thứ hai. Đối với các tác giả, việc làm chậm lại khởi đầu của bệnh càng lâu càng tốt, là điều rất quan trọng. “Người ta đă chứng tỏ rằng nếu có khả năng làm chậm khởi đầu của bệnh 5 năm, ta sẽ chia đôi số bệnh nhân bị bệnh”, giáo sư Ranjan Duara, tác giả chính của công tŕnh nghiên cứu đă giải thích như vậy.

CŨNG NHƯ ĐỐI VỚI BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG

Công tŕnh điều tra thứ hai được tŕnh bày nhân hội nghị này đă khảo sát 9.752 đàn ông và phụ nữ được thăm khám sức khỏe giữa năm 1964 và 1973, ở lứa tuổi 40-45 và sau đó đă được theo dơi cho đến năm 1994. Giữa năm 1994 và 2007, 504 người trong nhóm này bị bệnh Alzheimer và 162 người bị bệnh sa sút trí tuệ do nguyên nhân huyết quản (démence vasculaire). Các kết quả cho thấy rằng những người ở lứa tuổi trung niên, với nồng độ cholestérol trong máu cao nhất, lúc về già có thêm 50% nguy cơ bị bệnh Alzheimer so với những người có nồng độ thấp nhất. Cùng loại nghiên cứu được công bố trong tạp chí Neurology, số ngày 9 tháng 4 vừa qua đă dẫn đến cùng kết luận về bệnh đái đường. Công tŕnh này được tiến hành ở Thụy Điển theo cùng một nguyên tắc, đă phát hiện sự kiện là ở người đứng tuổi, sự việc có một glucose huyết quá cao làm gia tăng 50% khả năng phát triển về sau này bệnh Alzheimer.

Sau hết, ngày 26 tháng 3 vừa qua, vẫn trong tạp chí Neurology, các nhà khoa học Hoa Kỳ giải thích rằng họ đă đo ṿng kích thước của tầm vóc (tour de taille) của hơn 6000 người Mỹ trong những năm 1970. Khoảng 30 năm sau các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng những người béo ph́ và có một bụng phệ, có nguy cơ bị bệnh Alzheimer 3,6 lần nhiều hơn so với những người mảnh khảnh ; những người với gia tăng thể trọng (surpoid) và có một bụng phệ, có nguy có bị bệnh Alzheimer 2,3 lần nhiều hơn. Béo ph́ (obésité) nhưng không có bụng phệ gia tăng nguy cơ một cách ít quan trọng hơn. Những công tŕnh nghiên cứu trước đây đă phát hiện một nguy cơ gia tăng nơi những người bị cao huyết áp và lợi ích của việc điều trị chống cao áp. Nhưng cơ chế giải thích tại sao các yếu tố này làm dễ bệnh Alzheimer không được rơ ràng lắm. “Trong bệnh Alzheimer, có sự kết hợp của các thương tổn ở vi tuần hoàn của năo bộ và các tích chứa của các mảng dạng tinh bột (plaques amyloides), giáo sư Françoise Forette đă giải thích như vậy. Bằng cách tác động lên các yếu tố nguy cơ huyết quản, nghĩa là bằng cách ngừng hút thuốc lá, điều trị bệnh cao huyết áp, cholestérol, bệnh đái đường, bằng cách tập thể dục, chúng ta sẽ làm chậm lại sự xuất hiện của bệnh Alzheimer”.
(LE FIGARO 18/4/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 82 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 20/6/2008 )

9/ RAU XANH, TRÀ, RƯỢU VANG VÀ CACAO CÓ LỢI CHO NHỮNG NGƯỜI HÚT THUỐC

Các flavonoides là những chất chống gây ung thư (anticancérigènes). Nguy cơ phát triển ung thư phổi được giảm 32 đến 51% đối với 4 flavonoides được xác định.

Thở, đó là tự oxy hóa ! Thật vậy việc sử dụng oxy, sinh tử, cũng sản sinh những dạng oxy được gọi là phản ứng (réactif), có thể tấn công những cấu trúc sinh học. Những hiện tượng oxy hóa này được xem như là một yếu tố lăo hóa và là một yếu tố làm dễ nhiều loại bệnh khác nhau, nhất là ung thư. Vậy phổi đứng hàng đầu trong việc chịu các hiện tượng này.

Việc tiếp xúc này lại càng rơ nét hơn đối với những người hút thuốc, và người ta đánh giá rằng sự tiếp xúc với oxy phản ứng góp phần rất lớn trong việc làm gia tăng nguy cơ ung thư phổi. Vấn đề t́m biết xem việc hấp thụ các hợp chất có khả năng làm giảm thiểu các hiện tượng oxy hóa và các tổn hại do các hiện tượng này gây ra, đă làm ngứa ngáy các nhà nghiên cứu từ nhiều năm qua. Các hợp chất này ám chỉ các chất chống oxy hóa (antioxydants). Một vài chất chống oxy hóa là các vitamine hay những oligo-éléments, nhưng nơi dự trữ các chất chống oxy hóa lớn nhất là các flavonoide, một họ gồm hơn 4.000 phân tử.

Trong pḥng thí nghiệm, các flavonoides đă chứng tỏ, ngoài khả năng chống oxy hóa đôi khi rất mạnh, những tính chất chống đột biến (antimutagénique) và chống ung thư. Được cổ vũ, các nhà khoa học đă thăm ḍ những mối liên hệ giữa sự hiện diện của những hợp chất này trong thực phẩm và sức khỏe của dân chúng. Các thức ăn như rau xanh, trái cây, trà, rượu vang và ngay cả cacao đều giàu các flavonoides. Nhiều công tŕnh nghiên cứu đă báo cáo sự hiện hữu của một mối liên hệ nghịch giữa việc tiêu thụ các flavonoides khác nhau và nguy cơ của vài bệnh tật, đặc biệt là trong lănh vực tim mạch.Và chính đó là điều vừa được chứng nhận bởi một nhóm các nhà dịch tễ học bao gồm những nhà nghiên cứu Hoa Kỳ và Trung Quốc, đối đầu với ung thư phổi. Các nhà nghiên cứu mà các công tŕnh được công bố trong Cancer, đă nghiên cứu sự tiêu thụ flavonoides nơi 558 người đă phát triển một ung thư phổi, và nơi 837 người làm nhóm kiểm tra.

Công tŕnh nghiên cứu tiết lộ rằng nơi những người hút thuốc, nguy cơ phát triển ung thư phổi được thu giảm từ 32% đến 51% đối với 4 flavonoides được xác định rơ. Mặt khác, các rau xanh, trà và rượu vang, các nguồn thực phẩm quan trọng của flavonoides, cũng tỷ lệ nghịch với nguy cơ phát triển một ung thư phổi. Tuy nhiên không có một tác dụng đáng kể nào nơi những người không hút thuốc. Các dữ kiện của nghiên cứu gợi ư rằng các flavonoides có thể có một lợi ích đặc biệt nơi các người nghiện thuốc lá mặc dầu sẽ là ảo tưởng khi hy vọng rằng có thể huỷ bỏ tất cả các tác dụng của thuốc lá bằng các chất chống oxy hóa (antioxydants).
(LE SOIR 11/6/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 87 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 1/8/2008 )

3/ SỰ TIÊU THỤ RƯỢU CÓ MỨC ĐỘ VÀ SỰ NGĂN NGỪA BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG

Việc tiêu thụ rượu rơ ràng là tốt đối với nhiều điều trong lănh vực sức khỏe, dĩ nhiên là với điều kiện việc uống rượu phải có chừng mực. Chúng ta đă biết những lợi ích của rượu, nhất là trên b́nh diện tim mạch. Và những lợi ích này dường như không chỉ giới hạn cho rượu vang đỏ (vin rouge) và resvératrol mà nó chứa. Bây giờ đây, theo một công tŕnh nghiên cứu của Polsky và các cộng sự viên của Hoa Kỳ, th́ ra việc tiêu thụ rượu đều đặn và có mức độ được liên kết với sự giảm nguy cơ chuyển qua bệnh đái đường thật sự, nơi những người trưởng thành ở trong t́nh trạng tiền đái đường (prédiabète) và thặng dư thế trọng hay bị chứng béo ph́.
LA SEMAINE MEDICALE (26/6/2008)

7/ MỘT THÀNH PHẦN TỰ NHIÊN CỦA RƯỢU VANG CÓ THỂ CÓ LỢI CHO TIM

Resvératrol, phân tử hiện diện trong rượu vang đỏ (vin rouge), có những tác dụng bảo vệ chức năng tim. Đó là kết luận của một công tŕnh được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ của đại học Madison và của công ty LifeGen Technologies. Được công bố ngày 3/6 trong tạp chí on line PloS One, các kết quả của họ, thu được trên chuột, cho thấy rằng sự tiêu thụ với lượng nhỏ resvératrol cho phép pḥng ngừa sự lăo hóa tim, giống hệt với sự pḥng ngừa được quan sát sau khi thực hiện một chế độ ăn uống hạn chế nhiều calorie.
LE MONDE (5/6/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 97 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 16/10/2008 )

6/ RƯỢU VANG ĐỎ CHỐNG LẠI UNG THƯ PHỔI

Sự tiêu thụ có mức độ rượu vang đỏ (vin rouge) làm giảm nguy cơ bị ung thư phổi nơi các người đàn ông. Đó là điều được tiết lộ bởi một công tŕnh nghiên cứu được công bố trong “Cancer Epidemiology, Biomarkers and Prevention”, một tờ báo của Hiệp hội nghiên cứu chống ung thư của Hoa Kỳ. Tính chất bảo vệ này là do khả năng chống oxy hóa của resveratrol, một phân tử hiện diện dồi dào trong rượu vang đỏ. Công tŕnh nghiên cứu, được thực hiện giữa năm 2000 và 2003 trên hơn 80.000 người đàn ông, đă cho thấy rằng nguy cơ bị ung thư phổi giảm 60% nơi những người nghiện thuốc uống 1 đến 2 ly rượu vang đỏ mỗi ngày.
(LE SOIR 8/10/2008)

9/ UỐNG ÍT RƯỢU CHỐNG BỆNH SUY TIM

Một công tŕnh nghiên cứu của Hoa Kỳ đă cho thấy rằng một sự tiêu thụ rượu mức độ thấp đến trung b́nh dường như làm giảm nguy cơ bị suy tim nơi những người cao huyết áp.

Điều chứng thực này là của Luc Djousse và J.Michael Gaziano (Havard Medical School, Boston, Hoa Kỳ) từ các kết quả của Physician’s Health Study . Điều này có liên quan những bệnh nhân với tiền sử nhồi máu cơ tim hay đái đường cũng như những bệnh nhân không có những bệnh lư này.

Trong quá khứ, việc uống rượu đă được đặt trong mối liên quan với một sự gia tăng huyết áp và khi sự gia tăng này quan trọng, sẽ dẫn sự giăn tim. Trái lại, điều chưa được rơ ràng đó là hiệu quả, nơi những người cao huyết áp, của một sự tiêu thụ rượu ở mức độ thấp đến trung b́nh. Chính điều này đă thúc đẩy các nhà nghiên cứu phân tích các dữ kiện liên quan đến 5.153 người đàn ông cao huyết áp được tuyển mộ trong công tŕnh Physicians’ Health Study.

Những người tham dự, không có những tiền sử tai biến mạch máu năo, nhồi máu cơ tim hay ung thư vào lúc thực hiện công tŕnh nghiên cứu, đă được theo dơi trong 18 năm. Tuổi trung b́nh vào lúc bắt đầu nghiên cứu là 58 tuổi. So sánh với nhóm uống ít hơn một ly rượu mỗi tuần, những người uống nhiều có nguy cơ 11% thấp hơn (một đến 4 ly mỗi tuần) đến 62% thấp hơn (8 ly hoặc nhiều hơn mỗi tuần) phát triển một suy tim.

Cơ chế chính xác qua đó rượu có một tác dụng bảo vệ nơi những người cao huyết áp vẫn luôn luôn không được làm sáng tỏ. Có thể đó là do tác dụng lợi tiểu của nó, hoặc là do sự tăng cao nồng độ adiponectine mà nó gây ra trong huyết tương? Thật vậy, trong những mô h́nh động vật, người ta thấy rằng adiponectine bảo vệ chống lại các bệnh tim.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 7/10/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 103 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 27/11/2008 )

7/ SÀNH ĂN NHƯNG VẪN G̀N GIỮ TRÁI TIM M̀NH KHÔNG BỊ BỆNH

Trong hội nghị của Hiệp hội Tim học châu Âu, được tổ chức ở Munich ngày 30/8-3/9/2008, các thuyết tŕnh viên đă muốn chứng tỏ rằng chúng ta có thể hoàn toàn ăn uống thoải mái nhưng vẫn ǵn giữ trái tim ḿnh không bị bệnh .

RƯỢU VANG

Một sự tiêu thụ hợp lư rượu, và đặc biệt hơn là rượu vang, làm giảm nguy cơ tim mạch và nguy cơ toàn thể nơi những người lành mạnh và những người có tiền sử bệnh tim. Khả năng bảo vệ tối đa có được với 1 đến 2 ly mỗi ngày. Mọi sự tiêu thụ trên mức này làm lệch hệ số lợi-nguy cơ về phía nguy cơ.

CÀ PHÊ HAY TRÀ

Trái với một thành kiến thâm căn, cà phê về lâu về dài không làm gia tăng nguy cơ tim mạch, kể cả những người bị bệnh tim, mặc dầu trước mắt cà phê có thể gây nên một sự gia tăng huyết áp.

Về trà, hai công tŕnh phân tích méta đă chứng tỏ rằng sự tiêu thụ trà càng cao th́ tỷ lệ mắc phải những bệnh tim do xơ mỡ động mạch và những đột qụy càng thấp. Điều lạ lùng là những tác dụng bảo vệ này dường như không liên quan với những người dân của Vương Quốc Anh, mặc dầu họ là những dân nghiện trà thâm căn. Các chất chống oxy hóa thuộc loại flavonoides và catéchines, được chứa trong trà (đặc biệt là trà xanh) có vẻ là nguồn gốc của tác dụng bảo vệ tim mạch này.

CHOCOLAT ĐEN

Rất nhiều công tŕnh nghiên cứu đă chứng minh những biến đổi có lợi của chocolat đen (hạ huyết áp, cải thiện sự giăn các động mạch, cải thiện chức năng của các tiểu cầu trong máu).

Phải xác định rơ là chocolat đen mới là quan trọng bởi v́ chocolat trắng (vả lại không phải là chocolat) không có một tác dụng tim mạch có lợi nào và cũng bởi v́ chocolat càng đen, th́ nồng độ cacao càng cao và chính thành phần này mới mang những đặc tính của chocolat.

MỘT ĐƠN THUỐC SẼ ĐƯỢC VIẾT NHƯ THỂ NÀY VÀO MỘT NGÀY NÀO ĐÓ :

• Chocolat vào buổi sáng .

•Cà phê vào cuối buổi ăn trưa.

•Một ly rượu vang vào hai bữa ăn chính.

•Trà xanh (đặc biệt giàu chất chống oxy hóa) dùng trong ngày.

•Một miếng vuông chocolat đen buổi chiều lúc đi ngủ.


(COEUR ET ARTERES 11/2008)

8/ RƯỢU VANG : MỘT NGUỒN BỔ SUNG POLYPHÉNOLS

Ở Pháp, người dân có một cơ may mà những người Mỹ thèm muốn. Mặc dầu có một chế độ ăn uống giàu nước chấm (sauce), phó mát, đồ thịt lợn thổ địa, gratins, nhưng người Pháp vẫn giữ một tỷ lệ bị nhồi máu cơ tim tương đối thấp. Vùng của nước Pháp, nơi tỷ lệ mắc bệnh nhồi máu cơ tim thấp nhất, thật lạ lùng chính là nơi mà món ragout là chúa tể, đó là miền Tây Nam nước Pháp. Cái “nghịch lư Pháp” (french paradox) này từ lâu đă được xem như đặc biệt liên kết với sự tiêu thụ rượu vang đỏ, thông thường ở Pháp hơn là ở bên kia Đại tây dương, ở đây bia và whisky được ưa thích hơn.
Sự kiện một sản phẩm tổng hợp có tác dụng giống polyphénol, được chứa trong vỏ của trái nho, có thể làm giảm nguy cơ bị béo ph́ và bị bệnh đái đường, có cho phép kết luận rằng chính sự tiêu thụ nho giải thích “cái nghịch lư Pháp” hay không? “Thật vậy chất polyphénol (resveratrol) được chứa chủ yếu trong nho đen. Thế mà chất này sau đó lại được thấy nhất trong rượu vang đỏ. Nhưng có lẽ phải uống hàng trăm lít rượu trong ngày để có được một liều lượng có hiệu quả chống lại chứng béo ph́ và bệnh đái đường”. Thế mà uống trên ba ly rượu vang mỗi ngày đối với đàn ông và hai đối với phụ nữ, các biến chứng do rượu sẽ bắt đầu xuất hiện. Cái “nghịch lư Pháp” có lẽ có thể được giải thích một phần bởi rượu vang, nhưng cũng có những yếu tố khác can dự vào.
(LE FIGARO 6/11/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 105 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 11/12/2008 )

5/ MỘT CHẤT CHỐNG BÉO PH̀ ĐẦY HỨA HẸN XUẤT PHÁT TỪ RƯỢU VANG

Pháp đă khám phá một chất tổng hợp có tác dụng giống với vài thành phần của rượu vang và cho phép chuột giữ một trong lượng không thay đổi mặc dầu co một chế độ ăn uống tăng calo (un régime hypercalorique).

Những nhà nghiên cứu người Pháp đă nhận diện một chất được mệnh danh hiện nay là SRT 1720, cho phép các chú chuột tiếp tục một chế độ ăn uống giàu mỡ, nhưng không béo ph́, không trở nên bị bệnh đái đường, đồng thời cải thiện hiệu năng cơ. Các kết quả của những công tŕnh này, được công bố hôm qua trong tạp chí Hoa Kỳ Cell Metabolism, hết sức làm lưu ư công nghiệp dược phẩm, bởi v́ có ít nhất ba hăng dược phẩm đang phát triển một thứ thuốc phát xuất từ những nghiên cứu này.

Tất cả bắt đầu cách nay vài năm, khi các thầy thuốc người Pháp khám phá ra rằng một trong những polyphénols được chứa trong vỏ của trái chanh đen, resvératrol, bảo vệ chuột chống lại bệnh đái đường và chứng béo ph́. Các nhà nghiên cứu khi đó cho thấy rằng phân tử resvératrol tác dụng lên cả hai bệnh lư này bằng cách làm hoạt hóa một protéine của cơ thể được gọi là Sirt 1. Sirtris, một hăng Hoa Kỳ có cơ sở ở Boston, quyết định đầu tư vào khái niệm này và hiện nay đang trắc nghiệm một thứ thuốc có chất cơ bản là resvératrol để chống lại bệnh đái đường mỡ (diabète gras), cũng được gọi là bệnh đái đường loại 2. Các nhà nghiên cứu người Pháp của Viện di truyền và sinh học phân tử và tế bào, nguồn gốc của những khám phá đầu tiên này, sau đó bắt đầu t́m kiếm những phân tử tổng hợp cho phép hoạt hóa chất protéine Sirt 1, chất có ảnh hưởng một cách quan trọng lên thể trọng và nguy cơ bị bệnh đái đường. Sau cùng, họ nhận diện một hợp chất tổng hợp tương tự với resvératrol trên b́nh diện hóa học, SRT 1720 và quyết định trắc nghiệm chất này trên hàng chục con chuột được cho những chế độ ăn uống khác nhau.

MỘT HIỆU QUẢ KÉO DÀI.

Những kết quả của công tŕnh nghiên cứu được công bố trong Cell Metabolism thật đặc biệt đáng quan tâm. Những chú chuột được điều trị với SRT 1720 và chịu một chế độ ăn uống rất giàu mỡ đă không lên một gam trọng lượng nào và không phát triển khối lượng mỡ (masse grasse), trái với những con chuột được nuôi cùng cách thức nhưng không được điều trị với loại thuốc này. Ngoài ra không có chú chuột nào được điều trị với SRT 1720 bị bệnh đái đường cả, trong khi những con chuột khác có một sự đề kháng với insuline sau chế độ ăn uống quá nhiều mỡ. Rơ ràng là thuốc SRT 1720 bảo vệ chống lại chứng béo ph́ và bệnh đái đường loại 2. Thời gian tác dụng lên chuyển hóa kéo dài : tác dụng xuất hiện ngay tuần lễ thứ tư và tiếp tục trong suốt thời gian quan sát các chú chuột hoặc 15 tuần

“Những con chuột được điều trị bởi thuốc SRT 1720 đă giữ một trọng lượng không thay đổi mặc dầu chế độ ăn uống nhiều mỡ, trong khi những chú chuột khác đă tăng 2/3 trọng lượng của chúng. Thuốc này kích thích sự sử dụng mỡ, một cách tương tự như điều mà chúng ta quan sát trong trường hợp hạn chế calo, mặc dầu thức ăn giàu mỡ mang lại sự thặng dư năng lượn” , BS Jérome Feige (Viên di truyền và sinh học phân tử Illkirch) đă giải thích như vậy.

Nhiều hăng dược phẩm đă khởi đầu những thứ nghiệm để trắc nghiệm SRT 1720 chống lại chứng béo ph́, bệnh đái đường. Một vài hăng cho là hợp lư đánh giá tác động của nó lên những bệnh khác liên quan với tuổi tác, và nhất là trong bệnh Alzheimer. Công việc vẫn gay go. Đến măi ngày nay, các thuốc chống béo ph́ đă không có cơ may, v́ lẽ chúng hầu như bị rút ra khỏi thị trường sau vài năm, do những tác dụng phụ của chúng.
(LE FIGARO 6/11/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 106 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 19/12/2008 )

3/ MỘT LY, C̉N ĐƯỢC… HƠN HAI LY TH̀ …

Một trong những nguyên nhân khả dĩ của tỷ lệ tử vong tim mạch vào dip cuối năm là bệnh rung nhĩ (fibrillation auriculaire), liên kết với sự uống rượu gia tăng. Tác dụng có hại của một sự tiêu thụ rượu lâu dài lên nguy cơ phát sinh rung nhĩ nơi đàn ông đă được công nhận với một sự nhất trí rộng răi, nhưng các dữ kiện hiện có về phụ nữ đến nay vẫn tỏ ra mâu thuẫn.

Tư liệu y học đề cập dưới những góc độ khác nhau tác động của việc uống rượu lên nguy cơ tim mạch. Uống rượu có chừng mực làm giảm nguy cơ mạch vành, tai biến mạch máu năo và suy tim sung huyết. Trái lại, uống cấp tính những lượng lớn rượu (binge drinking) được thấy liên kết với một nguy cơ gia tăng bị nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu năo và rung nhĩ. Đó là những dữ kiện đă được xác nhận. Tuy nhiên có một sự nghi ngờ về ảnh hưởng của việc uống rượu đều đặn lên nguy cơ phát triển bệnh rung nhĩ, và nhất là ở các phụ nữ : những công tŕnh nghiên cứu khác nhau đă chỉ chứng tỏ một mối liên kết có ư nghĩa nơi đàn ông. Có thể có hai cách giải thích cho điều được quan sát này. Hoặc là các phụ nữ ít nhạy cảm đối với rượu, hoặc số phụ nữ tham gia vào các công tŕnh nghiên cứu quá thấp nên không thể xác lập được một mối liên hệ.

BẮT ĐẦU TỪ HAI LY.

Một công tŕnh nghiên cứu mới đây mang lại một thông tin bổ sung. Trên 34.000 phụ nữ hơn 45 tuổi và mạnh khỏe vào lúc bắt đầu nghiên cứu, đă được theo dơi trong một thời gian trung b́nh 12 năm. Họ đă báo cáo mức độ uống rượu của họ trong một bảng câu hỏi : không uống ly nào, dưới một ly mỗi ngày, dưới hai ly mỗi ngày, hay hơn hai ly mỗi ngày. Những kết quả cho thấy rằng chỉ những phụ nữ đă uống hơn hai ly mỗi ngày mới có một nguy cơ gia tăng quan trọng bị rung nhĩ lâu dài. Những kết quả này có khuynh hướng cho thấy rằng trên thực tế phụ nữ nhạy cảm với rượu hơn là đàn ông. Thật vậy, một điều tra trước đây đă thiết lập ngưỡng 5 ly mỗi ngày nơi đàn ông.

CẤP TÍNH VÀ MĂN TÍNH.

Chúng ta hăy trở lại với những người ăn Noel và Năm Mới. Công tŕnh nghiên cứu nói trên không liên hệ với việc uống những lượng rượu cao nơi những người hầu như không hề uống rượu trong năm.Về vấn đề này, chẳng phải hoài nghi bao nhiêu : những người này có nguy cơ bị rung nhĩ gia tăng, dầu cho số lượng rượu uống trong năm là bao nhiêu. Vậy một nồng độ rượu cao đúng là có hại về lâu về dài đối với điện sinh lư của tim
(LE GENERALISTE 18/12/2008)

4/ RƯỢU VÀ CÁC HUYẾT QUẢN

Nếu một hoặc hai ly rượu vang mỗi ngày có thể có lợi cho tim và các huyết quản, th́ trái lại sự hấp thụ những lượng lớn rượu trong một khoảng thời gian giới hạn làm gia tăng nguy cơ bị xơ mỡ động mạch (athérosclérose). Một thí nghiệm được thực hiện in vitro bởi John P.Cullen và các cộng sự viên (Đại Học Rochester, Hoa Kỳ) đă làm sáng tỏ một cơ chế khả dĩ. Những liều lượng cao acétaldéhyde, chất chuyển hóa chính của rượu, có thể kích thích sự dính kết của các bạch cầu mono (monocytes) với hậu quả là làm gia tốc quá tŕnh xơ mỡ động mạch.

Vậy rượu dường như gây nên những tác dụng đối nhau, tùy theo cách uống : uống có mức độ (1-2 ly mỗi ngày) có một tác dụng bảo vệ tim. Nhưng hoàn toàn trái lại nếu ta “ tiết kiệm ” những nồng độ có ích hàng ngày trong năm, để uống chúng chỉ trong một lần vào dịp đêm Giáng Sinh.
(LE GENERALISTE 18/12/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 109 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 17/1/2009 )

5/ RƯỢU VANG, TRÀ VÀ CHOCOLAT ĐỐI VỚI NĂO BỘ ?

Các ông và các bà lớn tuổi, tiêu thụ rượu vang giàu flavonoide, trà và chocolat, có những hiệu năng tốt hơn lúc thực hiện những trắc nghiệm về khả năng nhận thức (tests cognitifs). Đó là điều đă được chứng minh bởi một nhóm nghiên cứu Anh-Na Uy. Nhóm nghiên cứu này đă khảo sát mối liên hệ giữa sự tiêu thụ 3 thức ăn thức uống chứa flavonoides (chocolat, rượu vang và trà) và những hiệu năng nhận thức (performances cognitives). 2.031 người tham dự (70-74 tuổi, 55% là phụ nữ) đă được tuyển mộ và đă chịu những trắc nghiệm về khả năng nhận thức.

Các kết quả cho thấy rằng, so sánh với những người không ăn chocolat, không uống rượu vang hay trà, những người tiêu thụ chúng có những điểm số tốt hơn một cách đáng kể lúc làm những trắc nghiệm nhận thức và có tỷ lệ hiệu năng nhận thức kém thấp hơn.

Những người tiêu thụ ba loại thức ăn nước uống này có những điểm số tốt hơn và nguy cơ có những hiệu năng kém lúc làm trắc nghiệm thấp nhất. Những mối liên kết giữa sự tiêu thụ các thức ăn nước uống này và khả năng nhận thức (cognition) tùy thuộc vào liều lượng (dose-dépendante), với một hiệu quả tối đa đối với những tiêu thụ khoảng 10g chocolat mỗi ngày và khoảng 75-100 ml rượu vang mỗi ngày, nhưng theo đường thẳng đối với trà. Phần lớn những chức năng nhận thức được trắc nghiệm bị ảnh hưởng bởi 3 thức ăn thức uống này. Hiệu quả rơ rệt hơn đối với rượu vang và hơi thấp hơn đối với chocolat.

Do đó, trong tuổi già, một chế độ thức ăn thức uống nhiều flavonoides được liên kết với những hiệu năng tốt hơn đối với vài năng lực nhận thức và điều này tùy thuộc vào liều lượng.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 13/1/2009)[/color]

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 138 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 9/8/2009 )

5/ RƯỢU TỐT VÀ XẤU CHỐNG BỆNH ALZHEIMER

PREVENTION. Theo một công tŕnh nghiên cứu được công bố mới đây, uống một hoặc hai ly rượu vang mỗi ngày làm giảm bớt nguy cơ bị bệnh Alzheimer nơi những người già.

Về rượu, dường như không bao giờ có ǵ là quyết định và lư tưởng cả. Trong khi cuốn sách mỏng của viện quốc gia ung thư (Inca) cách nay vài tháng chỉ rơ rằng việc uống chỉ một ly rượu mỗi ngày làm gia tăng một ít nguy cơ mắc phải ung thư, th́ một công tŕnh nghiên cứu mới đây, được tŕnh bày vào đầu tuần này, nhấn mạnh rằng cũng sự uống rượu có mức độ này làm giảm xác suất trở thành nạn nhân của bệnh Alzheimer.Tài liệu xuất bản sau cùng này, được tŕnh bày nhân hội nghị các chuyên gia ở Vienne, Áo, dành cho căn bệnh thoái hóa thần kinh Alzheimer, dựa trên một cuộc điều tra, được tiến hành nơi 3.079 người tuổi từ 75 và hon. Những người này đă được quan sát trong 6 năm và đă được yêu cầu ghi chú một cách chính xác việc uống rượu của họ. Rồi họ được chia thành 4 loại : không hề uống rượu, từ 1 đến 7 ly rượu mỗi tuần, 8 đến 14 ly mỗi tuần và hơn 14 ly được uống trong cùng thời gian, theo Kaycee Sink, một trong các tác giả của công tŕnh nghiên cứu được thực hiện bởi đại học Hoa Kỳ Wake Forest de Winston-Salem (Bắc Caolina). Sau khi xem xét các bệnh nhân mỗi 6 tháng, th́ ra trong số những người chỉ uống giới hạn mỗi ngày một hay hai ly rượu, nhất là rượu vang, th́ nguy cơ bị bệnh Alzheimer được giảm 37%.

Ngược lại, trong số những người vốn đă có những rối loạn nhẹ về trí nhớ và đă uống hơn 14 ly mỗi tuần, nguy cơ bị bệnh Alzheimer tăng cao đến 2 lần nhiều hơn so với những người kiêng uống bất cứ loại rượu nào.

MỘT LỰA CHỌN “ CORNELIEN ”

Trong một báo cáo, được xuất bản năm 2007, đối chiếu một số lớn các công tŕnh được thực hiện trên toàn thế giới, Inca kết luận rằng “ việc uống rượu đều đặn không được khuyến nghị. Sự gia tăng nguy cơ là đáng kể ngay cả đối với một sự tiêu thụ rượu có mức độ với một nguy cơ càng cao khi sự tiêu thụ càng lớn ”. Ư niệm này hiển nhiên gây nên sự la ó phản đối nơi những nhà làm rượu và những nhà trồng nho, nhưng cũng nơi vài thầy thuốc, xác nhận rằng tiêu thụ rượu mức độ thấp là có lợi, đặc biệt là chống lại các bệnh tim mạch. G.S Dominique Marininchi, tổng giám đốc Inca, đă t́m cách làm giảm bớt cuộc luận chiến : “ Chúng tôi đă muốn cho một thông tin. Và nói rằng, về rượu, ngưỡng tiêu thụ không nguy cơ, nghĩa là ngưỡng mà người ta không quan sát thấy tác dụng có hại về mặt ung thư, là rất thấp. Lời phát biểu của chúng tôi không phải là cấm đoán, nhưng là để thông tin.” Thực ra, tất cả vấn đề là muốn biết chúng ta có muốn một cuộc sống với một nguy cơ zero hay không : bởi v́ uống rượu có mức độ cũng có những lợi ích khác (cảm thấy thoải mái và làm dễ đời sống xă hội).

Ở Vienne, người ta nhắc lại rằng với sự gia tăng tuổi thọ, khoảng 16 triệu người sẽ bị bệnh Alzheimer ở Châu Âu vào năm 2050, so với 7 triệu được thống kê năm 2.000. Bị một ung thư hay mất trí nhớ : một lựa chọn cornélien.
(LE FIGARO 6/8/2009)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 150 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 30/11/2009 )
4/HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH : MỘT ÍT RƯỢU CÓ TÁC DỤNG BẢO VỆ.

Các lối sống của 40.000 phụ nữ, mà trong số đó 2000 người được nhập viện v́ huyết khối tĩnh mạch (thrombose veineuse), đă được phân tích bởi một công tŕnh nghiên cứu Hoa Kỳ. Các tác giả t́m mối tương quan giữa chế độ ăn uống và sự xuất hiện của bệnh huyết khối tĩnh mạch. Ngược lại với mọi chờ đợi, nguy cơ đă được thu giảm 26% nơi các phụ nữ tuyên bố là đă uống rượu mức độ nhẹ mỗi ngày, so với các phụ nữ kiêng cữ.
(PARIS-MATCH 15/10-21/10/2009)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 157 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 18/1/2010 )
6/ RƯỢU : SỰ TÁI PHÁT CỦA UNG THƯ VÚ.

Nhiều công tŕnh nghiên cứu đă cho thấy rằng rượu làm dễ sự xuất hiện của ung thư vú. Nhưng tác dụng thật sự của nó lên các phụ nữ đă được điều trị vẫn không được rơ ràng. Một nhóm nghiên cứu California (của Kaiser Permanente, Auckland) đă tŕnh bày, nhân hội nghị mới đây ở San Antonio, những kết quả của một công tŕnh nghiên cứu : hơn 3 hay 4 ly nước uống có chất cồn mỗi tuần làm gia tăng 30% nguy cơ tái phát khối u ! Các nhà nghiên cứu đă thực hiện một theo dơi đều đặn các bệnh nhân theo thời gian, ngay khi họ được đưa vào công tŕnh nghiên cứu (1997) trong 8 năm. Tổng cộng, 1900 phụ nữ được chia thành hai nhóm, một nhóm tập hợp những phụ nữ uống rượu, nhóm kia gồm các phụ nữ không uống hay chỉ uống đôi khi. Sau 8 năm, 349 phụ nữ đă có một tái phát ung thư vú. Những tái phát này đă xảy ra thường hơn nơi các phụ nữ măn kinh uống rượu đều đều. Rượu vang (vin) là thức nước uống được tiêu thụ thường hơn hết (bởi 90% các phụ nữ). Theo Marilyn Kwan, rượu gây nên một sự gia tăng nồng độ œstrogène, thế mà phần lớn các ung thư vú đều phụ thuộc hormone này (oestrogénodépendant ).
(PARIS MATCH 23/12-30/12/2009)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 160 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 8/2/2010 )
3/ TÁC DỤNG BẢO VỆ CỦA CÁC FLAVONOIDE CỦA RƯỢU VANG, TRÀ, CACAO.

Viện hàn lâm dược học quốc gia hôm qua đă thảo luận về những đóng góp có lợi lên tim và năo bộ của những chất được chứa trong vài loại thức ăn.

PREVENTION. Rượu vang, trà, chocolat, là chủ yếu, và những thực phẩm khác chứa những chất flavonoides, có những tác dụng chống oxy hóa (antioxydant) và chống viêm, với một hiệu quả bảo vệ lên tim và năo bộ. Từ 15 năm nay, các nghiên cứu gia tăng về những chất được chứa trong thực phẩm này. Hôm qua, Viện dược học quốc gia đă dành một trong những buổi họp để bàn về những tác dụng lên sức khỏe của những chất flavonoides đầy hứa hẹn này. Tuy nhiên, trong khi nhiều xí nghiệp dược phẩm đề nghị các viên thuốc mà chất căn bản là flavonoides, th́ viện hàn lâm lại đánh giá rằng những dữ kiện hiện nay không cho phép khuyến khích các “ điều khẳng định sức khỏe ” (“ assertions santé ”) của các chất bổ trợ dinh dưỡng (adjuvants alimentaires).

Lịch sử của các flavonoides bắt đầu trong những năm 1990, với sự phát hiện của nghịch lư Pháp (paradoxe français) : các người Pháp, đặc biệt trong vùng Tây Nam, có một tỷ lệ tử vong do tim mạch thấp hơn so với những nơi khác, mặc dầu một sự tiêu thụ cao các chất mỡ bảo ḥa (một yếu tố nguy cơ tim mạch quan trọng). Ngoại lệ này được quy cho sự tiêu thụ rượu vang đỏ, đặc biệt cao ở Pháp. Các flavonoides (các hợp chất polyphénol) của rượu đă được nhận diện như là các chất trung gian của tác dụng có lợi này. Và nhiều công cuộc điều tra dịch tễ học đă cố gắng phân tích mối liên hệ giữa chế độ ăn uống giàu flavonoides và các bệnh tim mạch (đột qụy, nhồi máu) hay thoái hóa thần kinh (bệnh Alzheimer, Parkinson).

“ Toàn bộ các thông tin có được như thế cho thấy một khuynh hướng chung tán trợ cho việc liên kết giữa sự tiêu thụ rượu vang đỏ có mức độ (một hay hai ly mỗi ngày), (trên mức này, những tác dụng có hại của rượu làm đảo ngược khuynh hướng), của sự tiêu thụ trà xanh hay trà đen và cacao và tỷ lệ tử vong nguồn gốc tim mạch hay thoái hóa thần kinh, GS Jean-Claude Stoclet, ủy viên của Hội hàn lâm dược học (đại học Strasbourg) đă giải thích như vậy.

Vậy có vẻ hợp lư khi đưa ra giả thuyết, theo đó sự tiêu thụ đều đặn của vài loại trái cây giàu flavonoides hay những chế phẩm phát xuất từ đó, rượu vang đỏ, một vài nước nho vắt, trà xanh và đen (trong một chừng mực ít hơn), cacao, được liên kết với một sự giảm tỷ lệ tử vong… ”

SỰ ỨC CHẾ CỦA MỘT VÀI GENE .

Bằng cớ chính thức chỉ có thể được mang lại, sau những thử nghiệm lâm sàng so sánh một chế độ ăn uống giàu flavonoides với một chế độ ăn uống nghèo flavonoides. Chúng ta hăy ghi nhận rằng hầu hết các công tŕnh nghiên cứu không phát hiện mối liên hệ giữa một chế độ ăn uống giàu flavonoide và ung thư. Nhiều công tŕnh nghiên cứu thí nghiệm, trên cấy tế bào hay mô h́nh động vật, đă phát hiện một tác dụng của các flavonoides lên thành trong của các huyết quản, với một sự gia tăng của các yếu tố giăn mạch và chống tăng sinh (facteurs vasodilatateurs en antiprolifératifs). Những chất này cũng tác dụng bằng sự ức chế của vài loại gène, để dẫn đến một tác dụng kháng viêm.

Người ta t́m thấy ở đâu các flavonoides này ? Nhiều trăm flavonoides khác nhau đă được nhận diện. Mặc dầu có nhiều điều không chắc chắn, nhưng có vẻ như rằng các flavonoides có một tác dụng bảo vệ, thuộc về các lớp của các flavonols (rượu vang đỏ, trà, cacao) và của các chất anthocyanines (các trái cây đỏ, quả anh đào, cassis). “ Khi tính đến các dữ kiện mới đây về các hiệu quả và các cơ chế tác dụng của vài flavonoides, ta có thể dễ bị cám dỗ khi chủ trương ngay từ bây giờ một sự tăng cường flavonoides trong chế độ ăn uống, GS Stoplet đă đánh giá như vậy. Cần phải cưỡng lại sự cám dỗ này : ngoài những điều không chắc chắn về bản chất của các hợp chất hữu ích, về những lượng cần phải cho, không hoàn toàn loại bỏ sự hiện diện của những tác dụng phụ. ” Đối với GS François Chast, chủ tịch của Viện hàn lâm dược khoa, “ trên cơ sở của các dữ kiện hiện nay, một sự tăng cường các cố gắng nghiên cứu có vẻ được biện minh và khẩn cấp ”.
(LE FIGARO 28/1/2010)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 167 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 29/3/2010 )
1/ RƯỢU VANG CÓ ĐƯỢC CHỨNG MINH LÀ TỐT CHO SỨC KHỎE HAY KHÔNG ?

Ngày nay chúng ta thường chấp nhận rằng một sự tiêu thụ có mức độ nhưng đều đặn rượu vang đỏ (vin rouge) (một hay hai ly mỗi ngày) bảo vệ chống lại các bệnh tim mạch. Đó là “ nghịch lư Pháp ” (paradoxe français) nổi tiếng từ 40 năm nay. Các cổ nhân đă nói rằng “ ruợu ngon làm vui trái tim của con người ”(Le bon vin réjouit le cœur de l’homme).

Gần chúng ta hơn, Louis Pasteur đă không do dự khi xác nhận rằng“ rượu vang là nước uống lành mạnh nhất và vệ sinh nhất mà ta có được. Tuy vậy những tác dụng có hại của rượu đúng là được xác lập. Rượu vang phải chăng là ngoại lệ trong số các nước uống được pha chế cồn (boissons alcoolisées) hay phải chăng chính cách uống “ theo kiểu Pháp ”, có chừng mực nhưng đều đặn mà ta phải quy kết ?

Nhiều công cuộc điều tra dịch tễ học với những kết quả nói chung giống nhau ủng hộ cho giả thuyết về một tác dụng bảo vệ của rượu vang đỏ, (mà những nước uống có chất cồn khác không có được), được thể hiện chủ yếu bởi một sự giảm huyết áp và các nguy cơ bị tai biến mạch máu năo và tim.

Nhưng những thử nghiệm lâm sàng dài hạn, cho phép rút ra những kết luận về các hiệu quả của một sự tiêu thụ có mức độ rượu vang, trên thực tế không thể thực hiện được. Thật vậy, xét v́ tiến triển rất chậm của các bệnh tim mạch, để cho những kết quả về mặt thống kê có giá trị, trong nhiều năm buộc cần phải có một chế độ kiểm soát nghiêm ngặt nơi một số rất lớn những người t́nh nguyện, được chia thành những người chứng và những người được điều trị,

NHỮNG THÍ NGHIỆM KHÔNG HOÀN TOÀN.

Ngoài cồn (alcool), rượu vang chứa các chất polyphénols, trong số đó có những hợp chất tạo nên sắc màu rượu vang đỏ, dường như có khả năng bảo vệ cơ thể chống lại những tác dụng có hại của “ stress oxy hóa ”, một hiện tượng oxy hóa (oxydation) các hợp chất trong tế bào, gia tăng với tuổi tác và can thiệp trong các bệnh măn tính có liên quan với sự lăo hóa.

Polyphénols của rượu vang, hay sự liên kết của chúng với những nồng độ nhỏ cồn, có thể tham dự vào những tác dụng bảo vệ của rượu vang lên hệ tim mạch. Tuy nhiên những kết luận này được rút ra từ những thí nghiệm trên các tế bào hay động vật, hay những thử nghiệm lâm sàng ngắn hạn. Nhiều nghi vấn khoa học tồn tại về sự hấp thụ bằng đường tiêu hóa và số phận của các chất polyphénols này trong cơ thể .

Mặt khác, các polyphénols này được t́m thấy trong các loại thức ăn khác : chúng hiện diện với những lượng quan trọng trong vài nước vắt nho đỏ (raisin rouge), nhưng cũng có mặt trong các trái cây đỏ, trong vài loại rau xanh, trong trà và cacao, với cùng những tác dụng bảo vệ.

Nhưng người ta cũng chứng thực rằng tỷ lệ tử vong tim mạch thấp nhất được quan sát chủ yếu trong miền nam nước Pháp và trong những nước khác của vùng Địa trung hải ; thế mà, ở đó rượu vang cạnh tranh với những thành phần khác của món ăn cổ truyền của những vùng này, các trái cây và các rau xanh, không quên dầu olive.

Xét v́ nhiều điều không chắc chắn về những tác dụng có thể có lợi của rượu vang (vin), ngược với những tác dụng có hại được xác lập của cồn (alcool), do đó khuyến nghị tiêu thụ đều đặn rượu vang, ngay cả với lượng vừa phải, v́ một lư do không phải là sự lạc thú thưởng thức một cách khôn ngoan, là điều không thận trọng.
(LE FIGARO 8/3/2010)

florida80
05-12-2019, 13:45
UNG THƯ : CHỈ MỘT LY RƯỢU CŨNG ĐỦ LÀM TĂNG NGUY CƠ.

Alimentation. Được biến đổi trong cơ thể thành chất sinh ung thư, cồn (alcool) làm gia tăng 168% khả năng bị ung thư miệng, hầu và thanh quản.

Đây là một tin xấu đối với những kẻ thích uống rượu, dầu chỉ một tí ít thôi, và nghĩ rằng như vậy là “phải chăng”. Thật vậy, những công tŕnh nghiên cứu mới đây cho thấy rằng không có sự tiêu thụ rượu nào mà không có nguy cơ bị ung thư. Như là, sự việc chỉ uống một ly rượu vang mỗi ngày cũng đủ để làm gia tăng nguy cơ này từ 9% lên đến 168% tùy theo định vị của ung thư. Hôm qua, các giáo sư Dominique Maraninchi, giám đốc của viện ung thư quốc gia, và Didier Houssin, tổng giám đốc y tế, đă tŕnh bày một cuốn sách mỏng dành cho các thầy thuốc và đưa ra những lời khuyến nghị ăn uống để pḥng ngừa ung thư Những lời khuyến nghị này, được căn cứ trên một báo cáo quốc tế năm 2007, đă phân tích hơn 7000 điều tra khoa học, nhấn mạnh vào mối liên quan giữa rượu và ung thư. Khoảng 10,8% các ung thư nơi đàn ông và 4,5% nơi phụ nữ là do rượu.

Trong những năm 1990, nước uống này đă được xem như là có lợi cho sức khỏe nếu uống với liều lượng nhỏ. Nhưng thời thế đă thay đổi. Những nguy cơ liên kết với những liều lượng nhỏ sóng điện từ, dioxine, hoạt động phóng xạ là đối tượng của những bàn căi và âu lo mạnh mẽ trong xă hội. Nguy cơ mắc phải ung thư liên kết với sự tiêu thụ một hay hai ly rượu vang mỗi ngày có vẻ rơ ràng và không hề là đối tượng của một tranh căi nào. Ngay cả những lợi ích của rượu vang lên tim cũng bắt đầu bị xét lại.

Các nước uống cồn (boissons alcoolisées) được liên kết với một sự gia tăng của các ung thư của miệng, của hầu, của thanh quản, của thực quản, của đại trực tràng, của vú và của gan. Nguy cơ gia tăng với lượng tiêu thụ. Một ly rượu được tiêu thụ mỗi ngày làm gia tăng 168% nguy cơ bị ung thư miệng, hầu và thanh quản, làm gia tăng 28% nguy cơ ung thư thực quản, 10% nguy cơ ung thư vú và 9% nguy cơ ung thư đại tràng.

WHISKY, RƯỢU VANG HAY BIA

Sự gia tăng nguy cơ là đáng kể bắt đầu từ một ly mỗi ngày, Paul Martel, nữ giám đốc nghiên cứu của Inra đă giải thích như vậy hôm qua. Hậu quả tùy thuộc vào lượng cồn tiêu thụ và không tùy thuộc vào loại nước uống cồn. Một ly cồn (alcool) tương ứng với 3 centilitres whisky, với 10 centilitres rượu vang hay champagne, với 25 centilitres bia...

Làm sao cồn làm gia tăng nguy cơ bị ung thư? Một báo cáo năm 2007 của Viện ung thư quốc gia đă tŕnh bày vấn đề này. Như là, rượu hay éthanol được biến hóa trong cơ thể thành acétaldéhyde, một phân tử được công nhận là chất sinh ung thư nơi người, chủ yếu bởi một enzyme, ADH (alcool déshydrogénase), hiện diện trong gan, nơi miệng... Acétaldéhyde cuối cùng được thải bởi một enzyme khác. Tuy nhiên nồng độ của phân tử sinh ung thư là acétaldéhyde này có thể tồn tại rất lâu trong cơ thể nơi những người uống rượu nhiều hay nơi những người được chương tŕnh hóa về mặt di truyền để làm thoái hóa rất chậm acétaldéhyde. Rượu cũng tác dụng trực tiếp, tại chỗ (lên miệng, hầu, thanh quản, thực quản) như một chất dung môi (solvant), làm gia tăng tính thẩm thấu của các niêm mạc đối với những chất gây ung thư như thuốc lá. Điều này giải thích tác dụng hiệp đồng của hai yếu tố này. Năm 2007, Trung tâm quốc tế chống ung thư đă xếp loại cồn (alcool) trong loại các tác nhân gây ung thư đối với người..
(LE FIGARO 18/2/2009)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 119 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 31/3/2009 )

1/ CUỘC LUẬN CHIẾN VỀ MỐI LIÊN HỆ GIỮA UNG THƯ VÀ SỰ TIÊU THỤ RƯỢU

Các chuyên gia khẳng định: việc uống rượu đều đặn là việc không nên làm.

Cuốn sách mỏng của Viện ung thư quốc gia và của Tổng giám đốc y tế, trong tháng qua đă giải thích rằng ngay việc uống một ly rượu mỗi ngày cũng làm gia tăng một ít nguy cơ bị ung thư, đă gây nên sự la ó ầm ĩ. Những nhà làm rượu, những người trồng nho, và ngay cả một vài thầy thuốc đă lâm chiến chống lại tài liệu này và xác nhận rằng sự tiêu thụ rượu với mức độ thấp là có lợi, đặc biệt là chống lại bệnh tim mạch. Ngay cả một cuốn sách mỏng nhằm nói chống lại cũng đang được sửa soạn để phát hành. “ Chủ đề này đă bị hiểu sai, giáo sư Dominique Maraninchi, tổng giám đốc viện quốc gia ung thư, đă giải thích như vậy. Chúng tôi đă muốn đưa ra một thông tin. Chúng tôi nói rằng, về rượu, ngưỡng tiêu thụ không gây nguy cơ, nghĩa là ngưỡng trong đó người ta không nhận thấy tác dụng có hại về mặt ung thư, là rất thấp. Những lời phát biểu của chúng tôi không phải là để cấm đoán bất cứ điều ǵ, nhưng chỉ là những thông tin.” Đối với giáo sư Michel Reynaud, “ tất cả vấn đề là xem liệu chúng ta có muốn có một cuộc sống với một nguy cơ số không hay là không. Nếu những lợi ích của một lượng nhỏ rượu vang trên các bệnh tim mạch vẫn không chắc chắn, trong khi những nguy cơ bị ung thư được xác lập khá rơ, th́ việc tiêu thụ rượu vẫn có những lợi ích khác. Uống rượu đặc biệt cho phép con người ta cảm thấy thoải mái. Uống rượu làm dễ sự giao tiếp trong đời sống xă hội của ḿnh. Ngược lại, điều chắc chắn là, những liều lượng nhỏ rượu, được tiêu thụ một cách đều đặn, là nguy hiểm hơn những liều nhỏ thuốc trừ sâu hay c̣n nguy hiểm hơn cả các antennes-relais ”. Nguy cơ của những liều lượng nhỏ rượu cũng được liên kết với một tố bẩm cá nhân, với sự liên kết với những độc chất khác như thuốc lá..

Sự phân tích các mối liên kết giữa ung thư và rượu được căn cứ trên những điều tra dịch tễ quy mô lớn, so sánh trên những nhóm người với số lượng to lớn, tỷ lệ mắc phải ung thư với những thói quen tiêu thụ rượu. Những nghiên cứu thí nghiệm cho phép kiểm tra tính đúng đắn của những kết luận này, bằng cách xem xét tác dụng của rượu lên các canh cấy tế bào, lên các mô h́nh động vật.

MỘT SỰ VỮNG VÀNG KHÔNG THỂ TRANH CĂI

Năm 2007, Viện ung thư quốc gia đă phát hành một báo cáo hoàn chỉnh về vấn đề này, xem xét mức độ nguy cơ tùy theo lượng rượu được uống vào. Các kết quả không phải là kết quả của một điều tra, nhưng là tổng số của nhiều công tŕnh nghiên cứu khoa học trên thế giới. Điều này mang lại một sự vững chắc không thể tranh căi được. Mặc dầu vài con số khiến những giải thích dị biệt bởi v́ dịch tễ học thường để tồn tại những vùng không rơ ràng. Bản báo cáo này, được biên soạn bởi một nhóm chuyên gia, dầu sao đảm bảo một cách rơ ràng rằng “ việc tiêu thụ rượu đều đặn là không nên. Sự gia tăng nguy cơ là đáng kể ngay cả đối với một sự tiêu thụ mức độ trung b́nh, với một nguy cơ càng cao nếu sự tiêu thụ càng cao. ” Ngay cả đối với những lợi ích tim mạch, mối liên hệ cũng không rơ ràng lắm. Trong những năm 1980, rượu vang với mức tiêu thụ thấp đă được xem là một yếu tố bảo vệ. Ngày nay, những điều chắc chắn này đă hơi bị tan biến đi. Vài chuyên gia, nhưng không phải là tất cả, cho rằng những kết quả này là thiên lệch. Từ nay uống rượu với mức độ thấp chỉ có lợi ích là cho cảm giác khoái trá và cảm giác dễ chịu. Trong thời buổi của chúng ta hiện nay, điều đó không phải là không đáng kể.
(LE FIGARO 25/3/2009)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 123 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 24/4/2009 )

4/ UỐNG RƯỢU BỊ TRANH CĂI NƠI PHỤ NỮ.

Một công tŕnh nghiên cứu trên hơn 1 triệu phụ nữ ở Vương Quốc Anh gợi ư rằng việc tiêu thụ rượu, ngay cả với những lượng nhỏ, làm gia tăng nguy cơ phát triển vài loại ung thư. Naomi Allen và những cộng sự viên (Đại học Oxford) đă phân tích các dữ kiện có liên quan đến 1.280.296 phụ nữ tuổi trung niên, đă tham dự vào công tŕnh nghiên cứu Million Women Study. Nh́n toàn thể, những người tham dự uống khoảng một ly mỗi ngày. Một tỷ lệ thấp hơn trong số những người tham dự đă uống 3 ly hoặc nhiều hơn mỗi ngày, 24% đă không bao giờ uống rượu. Trong một thời kỳ theo dơi trên 7 năm, 68.775 phụ nữ đă phát triển một ung thư. Trong số những phụ nữ uống đều đặn dưới 3 suất rượu mỗi ngày, người ta quan sát thấy một sự gia tăng 1,5% nguy cơ bị ung thư, đặc biệt là ung thư miệng, họng, thực quản, hầu, trực tràng, gan và vú. Việc tiêu thụ rượu mỗi ngày càng gia tăng, th́ nguy cơ bị ung thư càng lớn. Những nguy cơ giống nhau dầu loại rượu được uống là loại nào. Trái lại, uống rượu ít hay có mức độ, được liên kết với sự giảm rơ rệt nguy cơ phát triển ung thư tuyến giáp và lymphome non-Hodgkinien.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 21/4/2009)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 169 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 12/4/2010 )
3/ NGHIỆN RƯỢU : NHỮNG HƯỚNG MỚI.

Mặc dầu những thuốc mới đang được thử nghiệm, nhưng ta không thể không biết tầm quan trọng của hỗ trợ tâm lư (soutien psychologique).

DROGUE. Đối với 2 triệu người Pháp tiêu thụ quá nhiều rượu và đă bị phụ thuộc (dépendant), vấn đề không những là cai rượu (sevrage) mà c̣n là ngăn ngừa các tái phát. Các con số chứng tỏ điều đó : sau khi cai rượu, một năm sau, khoảng 1/3 đă không đụng trở lại một giọt rượu nào. 1/3 khác trải qua những giai đoạn kiêng khem và những thời kỳ tái phát. Sau cùng, 1/3 c̣n lại đă không bao giờ thành công cai được rượu. Đối với GS Patrice Couzigou (thay thuốc chuyên khoa gan-dạ dày-ruột, CHU de Bordeaux), điều đó không có ǵ là ngạc nhiên : “ Vấn đề không phải là có một cuộc sống không rượu (une vie sans alcool) mà là t́m ra một cân bằng mới trong cuộc sống, không có chất cồn. Thế mà chỉ với việc kê đơn thuốc mà thôi điều đó không có thể và sẽ không bao giờ có thể thực hiện được. Phải thay thế sự phụ thuộc rượu (dépendance à l’alcool), có hại, bằng những phụ thuộc khác dương tính hơn (thể thao, giải trí, âm nhạc...) tùy theo những quan tâm chính của mỗi người. Điều đó đ̣i hỏi một “ prise en soins ” sur mesure và đ̣i hỏi thời gian.” Về thuốc men, nó chỉ có thể mang lại một sự hỗ trợ bổ sung. Hiện nay nhiều thử nghiệm điều trị đang được tiến hành ở Pháp và Hoa Kỳ, với một thứ thuốc đầy hứa hẹn, baclofène (Loresal), được cho là làm giảm sự thèm rượu, nhưng không phải v́ thế là một giải pháp nhiệm màu.

Một trong những vấn đề được đặt ra bởi sự lạm dụng rượu (abus d’alcool), đó là sự lạm dụng này bị che khuất quá thường và quá lâu. Khi người ta lo lắng th́ thường đă quá muộn. Người ta thường có thói quen gợi ra một nguy cơ đối với sức khỏe khi uống trung b́nh trên 3 ly chuẩn mỗi ngày (như các ly rượu được phục vụ ở các bar) đối với những người đàn ông hay 2 ly mỗi ngày đối với các phụ nữ (hoặc 21 ly mỗi tuần đối với những người đàn ông và 14 ly đối với các phụ nữ) nhưng chúng ta không b́nh đẳng trước sự phụ thuộc (dépendance), vài người mẫn cảm hơn nhiều so với những người khác. “ Ngoài ra, việc không thể kiêng uống trong vài trường hợp, ví dụ mỗi lần ra đi vui chơi giữa các bạn bè, th́ có lẽ đă là một dấu hiệu phụ thuộc tâm thần (dépendance psychique), mặc dầu khoảng 2 triệu người Pháp có liên hệ nghĩ là minh không bị như vậy, lấy cớ là họ có thể nhiều ngày không uống khi họ không ra khỏi nhà ”, BS Kiritzé-Topor, thầy thuốc chuyên khoa về rượu đă nhấn mạnh như thế.

Sau cùng, không cần phải là “ nô lệ ” của rượu mới khỏi trả giá cho các hậu quả : khoảng hai trường hợp tử vong sớm th́ có một được liên kết với rượu, xảy ra noi những người tiêu thụ rượu nhưng không phụ thuộc. Như thế, để làm tốt, cần phải xét lại công tác phát hiện những người có nguy cơ.

“ Hiện nay, trên 5 triệu người Pháp lạm dụng rượu, rất ít được theo dơi bởi một thầy thuốc v́ vấn đề này ”, BS Kiritzé-Topor đă xác nhận như vậy. Việc cai (sevrage) của những người phụ thuộc rượu (alcoolo-dépendant) tự nó không đặt vấn đề. Sự cai rượu này dựa trên một phác đồ (protocole) đă chứng tỏ có hiệu quả : 1,5 đến 2 lít nước uống mỗi ngày (không cồn, không đường và không caféine). Các benzodiazépine trong 48 giờ với liều mạnh, rồi giảm dần, không vượt quá 10 ngày. Vitamine B1 và acide folique. Và trong 3 đến 10 ngày, vụ việc được giải quết : ít mệt hơn, ít các thay đổi tính khí đột ngột hơn, nhưng ăn ngon hơn … ít nhất, cho đến các ly rượu sắp đến. Bởi v́ các tái phát là rất (quá) thường xảy ra và đó mới đúng là vấn đề.

Để cố giải quyết điều này, khoảng 100.000 bệnh nhân nhận một trong hai điều trị hiện nay giúp duy tŕ sự cai rượu : naltrexone (Nalorex) và acamprosate (Campral), nhằm làm cho sự duy tŕ kiêng khem được dễ dàng hơn. Những loại thuốc này nhằm ức chế sự ham muốn liên kết với việc uống rượu. Tỷ lệ thấp các bệnh nhân được điều trị bởi những thuốc này nói lên sự ưa thích hơn của các chuyên gia đối với tâm lư liệu pháp (psychothérapie), đặc biệt là những liệu pháp hành vi và nhận thức (thérapie comportementale et cognitive).

Và không phải sự nghiên cứu hiện nay về baclofène (không được phép đưa ra thị trường trong chỉ định này) làm thay đổi cục diện. Chất giăn cơ (myorelaxant) này, b́nh thường được chỉ định để điều trị các co thắt (contracture spastique), lại làm bệnh nhân ít nhiều hờ hững với rượu khi thuốc được cho với liều rất cao (2 đến 4 lần liều lượng b́nh thường). Một công tŕnh nghiên cứu của Ư, được công bố trên The Lancet năm 2007, đă cho thấy rằng có nhiều người kiêng rượu trong số những bệnh nhân được điều trị với baclofène hơn so với những người được cho placebo. Nhưng trong thời gian bao lâu ? Với những tác dụng phụ trước mắt và lâu dài nào ? Những công tŕnh nghiên cứu đang được tiến hành sẽ mang lại câu trả lời.
(LE FIGARO 22/3/2010)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 178 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 15/6/2010 )

8/ TẠI SAO RƯỢU LÀ MỘT NGUYÊN NHÂN QUAN TRỌNG CỦA CÁC UNG THƯ ?

GS Roger Normann
Biologiste et Spécialiste en Santé Publique

Trong khi tất cả chúng ta đều ư thức về vai tṛ của chứng nghiện thuốc lá (tabagisme) là nguồn gốc của các ung thư, th́ sự liên kết giữa việc tiêu thụ rượu quá mức và các ung thư thường ít được biết đến.Tuy vậy, ở Châu Âu, khoảng 150.000 trường hợp ung thư có thể được quy trực tiếp cho rượu. Ở Pháp, gần 10% các trường hợp tử vong do ung thư được liên kết với sự lạm dụng rượu nơi đàn ông và 3% nơi phụ nữ. Như thế ruợu là nguyên nhân thứ hai có thể tránh được của ung thư sau thuốc lá. Sự liên kết giữa việc tiêu thụ các đồ uống có chất cồn (boissons alcooliques) và các ung thư đặc biệt rơ ràng đối với các ung thư của phần trên của những đường hô hấp-tiêu hóa trên (cancers des voies aéro-digestives supérieures), các ung thư đại-trực tràng, cũng như những ung thư gan và vú, nhưng, mặc dầu các cơ chế gây bệnh khác nhau đối với mỗi loại ung thư, nhưng người ta biết rằng, dầu đó là loại ung thư ǵ chăng nữa, không phải loại rượu là nguyên nhân gây bệnh, mà luôn luôn là lượng cồn được tiêu thụ.

KHUẨN CHÍ RUỘT : KẺ ĐỒNG LƠA CỦA RƯỢU.

Các vi khuẩn và các men hiện diện trong xoang miệng và phần tận cùng của ruột có những enzymes có tác dụng xúc tác sự biến đổi rượu thành acétaldéhyde. Không phải chính rượu mà là sự tích tụ acétaldéhyde mới là độc. Nồng độ acétaldéhyde trong nước miếng có thể 10 đến 100 lần cao hơn trong máu, làm dễ sự xuất hiện của ung thư. Nồng độ này càng mạnh khi người ta đồng thời vừa hút thuốc và uống rượu, tạo nên một tác dụng cộng lực của rượu và thuốc lá trong các ung thư của các đường hô hấp-tiêu hóa trên (voies aéro-digestives supérieures) (miệng, thanh quản, hầu, thực quản). Thiếu vệ sinh răng• miệng cũng làm dễ sự hiện diện trong miệng của quần thể vi khuẩn gây nên sự tích tụ tại chỗ của acétaldéhyde từ alcool. Sự oxy hóa của alcool bởi khuẩn chí ruột với sự tích tụ tại chỗ acétaldéhyde cũng giải thích sự gia tăng quan trọng của nguy cơ ung thư đại-trực tràng nơi những người tiêu thụ đều đặn các đồ uống có chất cồn.

NHỮNG GỐC TỰ DO, VŨ KHÍ BÍ MẬT CỦA RƯỢU.

Sau khi được hấp thụ ở ruột, alcool được oxy hóa ở gan và được loại bỏ. Đó là xa lộ mà các đồ uống cồn đi qua với hiệu quả năng lượng mà ta đă biết... cho đến lúc, bị bảo ḥa, xa lộ gởi trả lại rượu thặng dư về phía các đường nối (bretelles), ở đó hoành hành cac gốc tự do, những loại phản ứng khả dĩ gây nên những chỗ găy và những thương tổn của các hệ sửa chữa của ADN, cũng như những rối loạn của sự điều ḥa của các gène bảo vệ, với sự tăng sinh vô tổ chức của các tế bào. Như thế, stress oxy hóa, liên kết với sự tăng sản xuất các gốc tự do trong lúc chuyển hóa rượu theo đường này, là một nguyên nhân quan trọng của ung thư gan. Theo cùng hiện tượng, rượu làm tăng tác dụng sinh ung thư của các độc chất có thể được chứa trong thức ăn hay các loại thuốc. Sự lạm dụng rượu cũng tác động lên cân bằng hormone với một vai tṛ làm dễ ung thư vú.

TIÊU THỤ CÓ MỨC ĐỘ : MỘT KHẨU HIỆU NGUY HIỂM...

Nguy cơ ung thư gia tăng theo lượng rượu được tiêu thụ. Nhưng điều này chỉ có tính cách chỉ dẫn, v́ lẽ mỗi người có một khả năng phản ứng và tính nhạy cảm khác nhau đối với rượu. Những chiến dịch pḥng ngừa giải thích những cái mốc “ tiêu thụ có ít nguy cơ hơn ” không nhấn mạnh đầy đủ nguy cơ mắc phải ung thư, phần lớn không được biết đến đối với những đồ uống cồn. Những chiến dịch hẳn phải khiến các người tiêu thụ giảm bớt sự tiêu thụ của họ, nhưng điều quan trọng là ghi chú rằng một nguy cơ tiềm tàng làm gia tăng một ung thư hiện hữu ngay cả đối với những tiêu thụ dưới những điểm mốc này. Cần khuyến nghị, trên cơ sở một đơn vị rượu =10g, đối với một người đàn ông, đừng vượt quá 21 đơn vị cồn mỗi tuần và 14 đối với một phụ nữ.
(LE FIGARO 17/5/2010)

9/ MỘT GENE LÀM BUỒN NGỦ VÀ BẢO VỆ KHỎI BỊ NHIỄM ĐỘC RƯỢU.

ADDICTION. Tại sao vài người rơi vào giấc ngủ chỉ sau một ly rượu van trong khi những người khác có thể liên hồi ly này qua ly khác cho đến cuối đêm mà chẳng thấy buồn ngủ chút nào ? Sự khác nhau có thể là do một gène. Một gène, theo các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ, bảo vệ các cá thể , mà người ta thường nói là “ không chịu được ” rượu, khỏi bị phụ thuộc vào sản phẩm này.

Để đạt được kết luận độc đáo này, nhóm nghiên cứu của Denis McCarthy (đại học Missouri) đă theo dơi hành vi của 91 thanh niên Mỹ gốc Phi Châu trong những giờ sau khi uống một lượng rượu vừa phải. Người ta nhận thấy rằng những người có khuynh hướng buồn ngủ nhất sau khi đă uống thường mang một gène được gọi là ADH1B3 hơn. Thế mà, các nhà nghiên cứu khác đă xác lập rằng loại gène này của ADH (alcool déshydrogénase, một trong những men có trách nhiệm trong sự chuyển hóa của rượu) được liên kết với với một sự phụ thuộc rượu thấp. Gène này có một đặc điểm khác : nó hầu như chỉ được t́m thấy nơi những nhóm dân có nguồn gốc châu Phi. Theo Denis MacCarthy, công bố những kết quả trong tạp chí Clinical &Experimental Research, tác dụng an thần của rượu được quan sát nơi những người mang gène ADH1B3 có thể là một trong những giải thích về sự phụ thuộc ruợu (alcoolodépendance) của họ,“ những người ít muốn uống lượng lớn nếu điều đó làm họ mệt hơn là nếu đều đó kích thích hay làm mất ức chế họ, ông ta đă nêu lên như vậy. Thật vậy các nhà nghiên cứu chưa hẳn đă chọc thủng được tất cả các bí mật của các hành vi của chúng ta đối với rượu. Nhiều gène chịu trách nhiệm sự nhạy cảm đối với chứng nghiện này đă được nhận diện, chúng tương tác một cách phục hợp đối với môi trường. Nhiều yếu tố cá nhân và xă hội cũng được nhận biết : thất nghiệp, t́nh trạng công ăn việc làm mong manh, sự cô lập, chồng/vợ nghiện rượu hay các bệnh tâm thần như bệnh trầm cảm, bệnh tâm thần phân liệt hay các rối loạn nhân cách...

Ở quy mô gia đ́nh, nguy cơ phát triển một sự phụ thuộc rượu được nhân lên ba lần nơi các trẻ có người thân nghiện rượu, nhưng chỉ có một tỷ lệ nhỏ trong số các trẻ này cuối cùng trở thành phụ thuộc rượu (15% các con trai và 5% con gái ). Ngoài các gène, hành vi của các bố mẹ chúng và sự giáo dục của họ, các đứa trẻ bị ảnh hưởng nhiều bởi ...cinéma. Việc xem các phim cấm trẻ vị thành niên, trong đó 90% có những biểu diễn về rượu, có một vai tṛ không phải là không đáng kể, một cuộc điều tra nơi 3600 học sinh trung học Hoa kỳ mới được công bố gần đây đă kết luận như vậy. Trong hai năm theo dơi, chỉ 3% các thiếu niên đă không xem những phim như thế đă bắt đầu uống, trong khi tỷ lệ này là 19% trong số những thiếu niên đă đôi khi được xem những phim như vậy, và 25% nơi những thiếu niên đă được xem một cách không hạn chế những phim như vậy.
(LE FIGARO 10/5/2010)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 183 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 19/7/2010 )

7/ BỆNH LOĂNG XƯƠNG : SỰ PH̉NG NGỪA LÀ CÔNG VIỆC CỦA SUỐT CẢ CUỘC ĐỜI.

Không phải bởi v́ bệnh loăng xương thường bắt đầu sau 60 tuổi nên phải đợi dến năm 50 tuổi mới bắt đầu phản ứng. Bởi v́ chúng ta vốn sinh ra không được b́nh đẳng và rằng khung xương của chúng ta cũng không thoát khỏi quy tắc đó, nên phải hành động để bù các xương mỏng manh (os fragiles), bằng cách tuân theo một cách rất nhanh chóng những thói quen tốt. “ Cái vốn xương (capital osseux) của chúng ta, ta có được phần lớn là do sự kế thừa của chúng ta (khoảng 70%). Cách dinh dưỡng của chúng ta, hoạt động vật lư của chúng ta,... can thiệp đến 30%. Tuy nhiên điều đó có thể đủ để làm nghiên cán cân của khối lượng xương của chúng ta về phía tốt và như thế ngăn ngừa hay hạn chế sự xuất hiện của một bệnh loăng xương ”, GS Thomas đă đánh giá như vậy.

Trong thời thiếu niên, kẻ thù tệ hại nhất của xương là chứng chán ăn (anorexie). Rối loạn hành vi ăn uống (trouble du comportement alimentaire) này có thể gây nên một bệnh loăng xương thật sự ngay lúc c̣n rất trẻ, với những hậu quả sẽ kéo dài suốt cả cuộc đời. Lại c̣n tệ hại hơn khi chứng chán ăn này xảy ra nơi một cô thiếu nữ bởi v́ trong trường hợp này, sự sản xuất oestrogène có tính chất bảo vệ bị ngưng lại, như thế cô ta bị măn kinh. Và sự tiết các hormone khác cũng bị rối loạn, bắt đầu là leptine, một kích thích tố có nhiệm vụ điều ḥa sự ăn ngon miệng và có một tác động lên mô xương.

CHẾ ĐỘ ĂN UỐNG, THUỐC LÁ, RƯỢU...

Ngoài chứng chán ăn, vài chế độ ăn uống, ở một mức độ nhỏ hơn, có thể đóng một vài tṛ có hại. Đó đặc biệt là trường hợp của những chế độ ăn uống quá nhiều muối và đạm (thí dụ quá nhiều thịt) làm dễ sự thất thoát calcium trong nước tiểu. Về thuốc lá và rượu được tiêu thụ quá mức, chúng có một tác dụng độc hại trực tiếp lên xương. Vả lại cũng như lên hầu hết các cơ quan khác..

Một chế độ ăn uống cân bằng, đủ dồi dào calcium (không nhất thiết là calcium phát xuất từ các sản phẩm sữa) là thiết yếu. Thế mà calcium, ta t́m thấy trong nhiều thức ăn : các nước uống, nhưng cũng có trong sardine (khoảng 330 mg đối với 100g), các brocolis (105mg/100g),các rau lá (légumew feuilles) (80mg/100g)…Dĩ nhiên phải ăn uống một cách cân bằng suốt cả cuộc đời, nhưng có lẽ c̣n hơn thế nữa vào tuổi dậy th́. Và v́ vitamine D là cần thiết cho sự hấp thụ và sự gắn của calcium lên xương, nên việc đi ra ngoài vào mùa đông hay dùng các bổ sung vitamine D trong trường hợp thiếu hụt là điều hợp lư. Đó là điều hầu như không thể thoái thác được khi lớn tuổi, bởi v́ khả năng hấp thụ của calcium ở ruột bị giảm. “ V́ lư do này, các thầy thuốc thường đề nghị calcium và vitamine D cho những bệnh nhân có một mật độ xương hơi thấp và điều này, trước khi kê đơn những loại thuốc của bệnh loăng xương ”, GS Thomas đă xác nhận như vậy.
(LE FIGARO 31/5/2010)

10/ RƯỢU VÀ CÁC THIẾU NIÊN : CÁC TẾ BÀO THẦN KINH BỊ LÂM NGUY.

Ở các thiếu niên, khuynh hướng các “ cuộc chè chén tốc hành ” (biture express) (hyperalcoolisation) , ngoài những nguy cơ xảy ra các tai nạn, là rất có hại cho năo bộ của chúng. Một công tŕnh nghiên cứu Hoa Kỳ vừa cho thấy rằng trên mức nồng độ cồn trong máu 1,7g, việc lập đi lập lại những ngộ độc này gây nên những tổn hại nghiêm trọng cho các tế bào thần kinh của thùy hải mă (hippocampe) (nơi của trí nhớ và học tập).
(PARIS MATCH 1/7-7/7/2010)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 186 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 09/8/2010 )

8/ SỰ SAY RƯỢU CÓ HẠI NGHIÊM TRỌNG CHO TUỔI TRẺ.

Một công tŕnh nghiên cứu trên các động vật linh trưởng (primate) xác nhận ảnh hưởng của rượu lên sự phát triển của thùy hải mă (hippocampe), vùng năo bộ cần thiết cho học tập và ghi nhớ.

Nơi các thiếu niên, một ly đă là quá nhiều, c̣n nhiều ly, th́ xin chào các tổn hại trên năo bộ ! Ít nhất cũng nơi khỉ macaque. Một công tŕnh nghiên cứu, được tiến hành trên động vật linh trưởng này, lần đầu tiên mang lại bằng cớ về ảnh hưởng của rượu lên sự phát triển của hồi hải mă (hippocampe), một vùng của năo bộ chủ yếu trong việc ghi nhớ và học tập. Các nhà nghiên cứu thuộc Viện nghiên cứu Scripps (Californie) đă tạo khả năng cho hai nhóm khỉ macaque thiếu niên, được uống tha hồ, một lần mỗi ngày : những con khỉ thuộc nhóm thứ nhất uống nước đường, c̣n những con khỉ thuộc nhóm thứ hai uống nước tương tự nhưng có pha rượu. Và như thế trong 1 tháng. Kết luận : nhóm tiếp cận với rượu đă uống không có mức độ, thường đi đến một t́nh trạng say thực sự. Hai tháng sau khi cai rượu, bilan đối với thùy hải mă của chúng đă không thể đảo ngược : số các tế bào mới cũng như sự tăng sinh của chúng đă bị sụt giảm một nửa so với những động vật kiêng rượu.

Những kết quả này, than ôi, theo cùng chiều hướng với một công tŕnh nghiên cứu, được công bố bởi American Journal of Psychiatry vào tháng năm năm 2000, lần này được tiến hành trên người. Công trinh nghiên cứu này đă phát hiện, nơi các thiếu niên, một sự nhạy cảm mạnh hơn của thùy hải mă đối với rượu : thể tích của thùy hải mă càng bị thu giảm khi việc uống rượu đă bắt đầu càng sớm và càng kéo dài. Bây giờ chúng tôi biết rằng, năo bộ đang được tạo thành của các thiếu niên là rất nhạy cảm với độc tính của rượu, BS Georges Picherot, trưởng khoa nhi đồng của CHU de Nantes đă lấy làm lo ngại như vậy.Thế mà, việc tiêu thụ rượu mạnh lập đi lập lại, càng ngày càng có liên hệ đến các trẻ em dưới 15 tuổi.” Thật vậy, mặc dầu sự tiêu thụ rượu nh́n toàn bộ đang giảm đều đặn từ 50 năm qua, nhưng những hành vi đáng lo ngại như chứng nghiện rượu do nhu cầu giao tiếp xă hội (alcoolisme mondain) của những người trưởng thành và “ những cuộc chè chén tốc hành ” (beuveries express) nơi các vị thành niên. Chúng được liên kết với sự tiêu thụ rượu mạnh càng ngày càng thường xảy. Việc bán rượu whisky đă nhảy vọt 20% trong 5 năm vừa qua. Nơi các thiếu niên, nh́n toàn bộ sự tiêu thụ rượu vẫn ổn định và thấp hơn so với những nơi khác ở châu Âu, Georges Picherot đă nói thêm vào như vậy. Nhung chúng ta không thoát khỏi sự xuất hiện những trường hợp say cấp tính nơi những trẻ em càng ngày càng nhỏ tuổi. ”
(SCIENCES ET AVENIR 8/2010)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 189 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 30/8/2010 )

8/ NHỮNG TÁC DỤNG CHỒNG BÉO PH̀ CỦA MỘT CHẤT DẪN XUẤT TỪ RƯỢU VANG.

Resvératrol cũng rất được nghiên cứu trong sự lăo hóa và các bệnh tim mạch.

OBESITE. Trong thiên nhiên, hiện diện nơi các loại rượu vang, nhưng cũng trong hơn 70 loài thực vật, trong đó có nho, lạc (arachide) hay cacao, resvératrol không ngừng làm say mê và làm ngạc nhiên các nhà nghiên cứu. Trong ṿng 20 năm, resvératrol (thuộc họ lớn các polyphénols) đă là đối tượng của hơn 3.300 ấn bản khoa học. Trước hết, do tính chất chống oxy hóa của nó, bảo vệ chống lại các bệnh tim mạch và các ung thư. Resvératrol, được mang lại do sự hấp thụ đều đặn rượu vang, là một trong những giải thích sinh học cho cái nghịch lư Pháp (paradoxe français), cái mâu thuẫn rơ ràng giữa một tỷ lệ tử vong tim mạch thấp và một chế độ ăn uống giàu mỡ và đường. Những công tŕnh khác cũng phát hiện những lợi ích lên tuổi thọ, các bệnh thoái hóa thần kinh (affections neuro-dégéneratives), bệnh đái đường, chứng béo ph́. Mặc dầu chung đối với các polyphénols, nhưng những tác dụng này mạnh mẽ đối với resvératrol.

Công tŕnh nghiên cứu mới nhất, được công bố tuần này bởi một nhóm nghiên cứu người Pháp trong tạp chí BMC Physiology, mang lại những dữ kiện chưa từng có trước đây nơi những động vật linh trưởng (primate), khi chứng tỏ rằng resvératrol, khi được cho bổ sung, làm giảm một cách đáng kể sự lên cân vào mùa đông, do một sự gia tăng các tiêu hao năng lượng và một tác dụng cắt đói (effet coupe-faim). Cho măi đến nay, phần lớn các công tŕnh nghiên cứu được thực hiện trên những động vật gặm nhấm được làm béo ph́ bằng biến đổi di truyền (manipulations génétiques) hay bằng một chế độ tăng calo (régime hypercalorique). Nhóm nghiên cứu của Fabienne Aujard (CNRS, Museum national d’histoire naturelle, Brunoy) đă chọn nghiên cứu các microcèbe, những động vật linh trưởng nhỏ bé, nặng khoảng 100 g, có sinh lư học rất đặc biệt.

Những động vật họ vượn cáo (lémuriens) này có một nhịp theo mùa rơ rệt, chúng gia tăng gần như gấp đôi trọng lượng của chúng vào mùa đông nhờ một sự tích trữ mỡ dần dần. Ngoài ra, chúng là những sinh vật dị nhiệt (hétérotherme), nghĩa là nhiệt độ nội tại của chúng có thể giảm rất mạnh, điều này cũng là một nguồn tiết kiệm năng lượng. Với tuổi thọ từ 8 đến 10 năm, những động vật này là một mô h́nh càng ngày càng được sử dụng bởi các nhà nghiên cứu để nghiên cứu sự lăo hóa, đặc biệt là năo bộ.

NHỮNG KẾT QUẢ CÓ SỨC THUYẾT PHỤC.

Trong ṿng 4 tuần, vào cái mùa khi mà chúng thường có khuynh hướng tích trữ mỡ cho mùa đông, 6 microcèbe đă chịu một chế độ ăn uống giàu resvératrol : 200mg/kg/ngày, một liều lượng lớn hơn liều mà một con người tiêu thụ một cách b́nh thường. Trọng lượng, nhiệt độ thân thể, các cung cấp và tiêu hao năng lượng đă được theo dơi cẩn thận.

Các kết quả rất có sức thuyết phục. “ Sự lên cân, thường là một gam mỗi ngày vào thời kỳ này, đă được chia cho năm ”, Fabienne Aujard đă kể lại như vậy. Một cán cân hơi dương tính, được giải thích bởi một sự gia tăng rơ rệt các tiêu hao năng lượng (gia tăng 29% của chuyển hóa lúc nghỉ ngơi) và một sự giảm các cung cấp năng lượng (13%, từ tuần lễ thứ ba). Các nhà nghiên cứu cũng nêu lên những biến thiên nhỏ nhất về nhiệt độ cơ thể của các microcèbe, mà không giảm hoạt động vật lư của chúng, trong khi b́nh thường chúng ở trong trạng thái đờ đẫn. “ Chúng tôi đă chờ đợi sự gia tăng các tiêu hao năng lượng, đă được mô tả nơi các con chuột. Điều đă làm cho chúng tôi ngạc nhiên, đó là tác dụng lên sự no nê (satiété), thuộc loại cắt đói (coupe-faim), hiện tượng này trước đây không được biết đến ”, Fabienne Aujard đă nhấn mạnh như vậy.

Công tŕnh của các nhà nghiên cứu của Brunoy chưa hẳn đă hoàn tất. Với cùng các con linh trưởng này, họ khảo sát các tác dụng lâu dài của resvératrol lên các bệnh lư liên quan đến tuổi tác và tuổi thọ của các động vật này.

TÁC DỤNG CẮT ĐÓI.

“ Những kết quả này rất là lư thú, đặc biệt là tác dụng cắt đói (effet coupe-faim), nhưng cần phải biết xem hiệu quả này có hiện hữu với những liều lượng sinh lư hơn của resvératrol hay không, GS Norbert Latruffe (unité Inserm 866“ lipides nutrition et cancers ”, Dijon), nghiên cứu các cơ chế tác dụng của resvératrol, đặc biệt trong lănh vực viêm và sự sinh ung thư (cancérogenèse), đă nhận xét như vậy. GS Johan Auwerx, thuộc Trường bách khoa liên bang của Lausane, cũng chào đón các công tŕnh trên một mô h́nh các động vật linh trưởng này. “ Đó là một bước nữa tiến về phía con người. Cách nay vài năm, nhà nghiên cứu này đă xác lập rằng các tính chất chống đái đường và chống béo ph́ của resvératrol được liên kết với sự hoạt hóa của một enzyme (sir1) thuộc họ các sirtuines. Thật vậy, resvératrol tác dụng bằng cách kích thích các ty lạp thể (trung tâm năng lượng của tế bào), do đó cơ thể bắt đầu đốt cháy các dự trữ của ḿnh.

Sau khám phá này, GS Auwerx đă nhận diện một phân tử tổng hợp, SRT 1720, một loại super-resvératrol, mà những kết quả đă là ngoạn mục nơi các con chuột. Từ nay, các chất hoạt hóa của sirtuines đang được thử nghiệm nơi người trong nhiều bệnh lư, trong đó có bệnh đái đường và các tim-mạch. Thay v́ các thuốc điều trị, từ nay GS Auwerx t́m cách dự kiến một chất bổ sung dinh dưỡng có chất căn bản là resvératrol. Nhưng c̣n lâu mới có để sử dụng . “Thànhphần cuối cùng chưa được xác định. Và với điều lệ mới của Châu Âu về các alicament, việc phát triển hứa hẹn sẽ dài lâu như đối với việc phát triển một loại thuốc ”, nhà nghiên cứu thở dài phát biểu như vậy.
(LE FIGARO 24/6/2010)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 191 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 13/9/2010 )

9/ UỐNG MỘT ÍT RƯỢU LÀ TỐT ĐỂ LÀM GIẢM NGUY CƠ BỊ VIÊM ĐA KHỚP.

Uống rượu với lượng vừa phải được liên kết với một sự giảm đáng kể của nguy cơ phát triển một loạt các bệnh thấp khớp (maladies rhumatismales).

Uống rượu với lượng vừa phải được xác nhận là làm giảm nguy cơ phát triển một viêm đa khớp dạng thấp (polyarthrite rhumatoide), chứng hư khớp (arthrose), bệnh viêm khớp phản ứng (arthrite réactionnelle), viêm khớp vẩy nến (arthrite psoriasique) và đặc biệt là bệnh viêm cứng khớp đốt sống (spondylarthrite ankylosante), theo một công tŕnh nghiên cứu Ḥa Lan, được thực hiện trên 997 bệnh nhân bị những bệnh thấp khớp viêm (rhumatisme inflammatoire) khác nhau và 6.874 người chứng. Tác dụng đặc biệt có tính cách bảo vệ nơi những bệnh nhân bị viêm đa khớp dạng thấp với sự hiện diện của các kháng thể chống protéines citrullinées (ACPA : anticorps anti-protéines citrullinées).

Các nhà nghiên cứu đă chứng thực rằng mức độ viêm toàn thể càng gia tăng khi lượng rượu được tiêu thụ càng giảm, nhưng người ta không quan sát thấy một cách thật sự mối liên hệ giữa liều lượng-đáp ứng (relation dose-réponse). Đối với các tác giả của công tŕnh nghiên cứu, ta có thể đề xuất hai cách giải thích rất khác nhau trước điều chứng thực này : hoặc là các bệnh nhân vốn bị bệnh nặng hơn nên tiêu thụ ít rượu hơn trong khung cảnh sự biến đổi lối sống của họ do chính căn bệnh, hoặc sự hiện diện của rượu trong cơ thể có một tác dụng bảo vệ chống lại sự viêm toàn thể.

Thật vậy người ta đă làm một chứng thực như thế đối với viêm đa khớp dạng thấp, nhưng công tŕnh nghiên cứu cho thấy rằng tác dụng bảo vệ này của rượu cũng đóng một vai tṛ trong một loạt những bệnh viêm khớp khác, BS Anekoos Leonoor Huidekoper (đại học Leiden, Hoà lan) đă nhấn mạnh sự cần thiết một công tŕnh nghiên cứu đi xa hơn trong lănh vực các đường viêm (voie de l’inflammation) để hiểu một cách chính xác rượu có thể đóng vai tṛ bảo vệ của nó ở mức nào.

GS Paul Emery (Đại Học Leeds), chủ tịch của EULAR, thêm vào loại chứng chứng thực này lời cảnh cáo bắt buộc, khi nhấn mạnh rằng, điều quan trọng là tiêu thụ rượu với lượng vừa phải, v́ lẽ một số vấn đề không những y khoa mà cả xă hội liên kết với việc uống rượu quá mức. Do đó, những lời khuyến nghị sử dụng rượu phải được đặt lại trong bối cảnh rộng lớn hơn này.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 3/9/2010)

10/ RƯỢU VÀ RỐI LOẠN NHỊP TIM.

Sự tiêu thụ nhanh một lượng tương đối cao rượu có thể gây nên một loạn nhịp nhanh (tachyarythmie). Mặc dầu một sự cố như thế nói chung có một tiên lượng thuận lợi, nhưng bệnh nhân cần nên xem đó là một tín hiệu báo động.

Người ta biết từ lâu rằng sự lạm dụng măn tính rượu có thể là nguồn gốc của một bệnh cơ tim (cardiomyopathie) gây giăn sau một số năm nào đó, một bệnh cơ tim tự bản thân gây nên các loạn nhịp nhĩ hay thất (arythmie auriculaire ou ventriculaire). Cách nay khoảng hai mươi năm, các nhà nghiên cứu cũng đă khám phá rằng một sự hấp thụ ồ ạt rượu có thể gây nên những rối loạn nhịp nơi những người không hề bị bệnh tim trước đó.

17 LY MỖI NGÀY !

Vào năm 1978, thầy thuốc chuyên về tim Hoa Kỳ Philip Ettinger đă mô tả 32 đợt rối loạn nhịp nơi 24 bệnh nhân uống đều đặn những lượng lớn rượu. Mặt khác, đó trường hợp ngay trước đợt loạn nhịp của họ. Công tŕnh nghiên cứu này làm xuất hiện thuật ngữ holiday heart syndrome. Trên nguyên tắc, những người Mỹ hiểu chữ holiday là những ngày hội hè cuối năm. Tuy nhiên, thuật ngữ binge drinking, tương ứng với sự uống vào một lượng lớn rượu trong một thời gian ngắn, là một hiện tượng phát triển rộng răi và trước hết liên quan đến những kỳ nghỉ hè, và nhất là những người trẻ tuổi. Năm nay, Viện khoa học y tế công cộng flamand (Bỉ) đă xác lập rằng cứ 8 thanh niên từ 15 đến 24 tuổi th́ có một nhiễm độc alcool ít nhất một lần mỗi tuần. C̣n Viện chống cồn Ḥa Lan (Nederlands Instituut voor Alcoholbeleid) xác nhận rằng những thanh niên, trải qua những kỳ nghỉ học xa cha mẹ, uống trung b́nh 17 ly rượu mỗi ngày, so với 7 ly đối với các con gái. Nhiều cơ chế khác nhau giải thích tác dụng gây rối loạn của rượu lên nhịp tim. Ta có thể chia những cơ chế này thành những tác dụng trực tiếp và gián tiếp. Rượu làm giảm lượng sodium xuyên qua tế bào và khiến pH nội bào bị hạ xuống. Về các cơ chế gián tiếp, đó là sự phóng thích gia tăng adrénaline và noradrénaline, và một sự gia tăng các nồng độ trong máu của axít béo tự do cũng như sự sản xuất acétaldéhyde, chất chuyển hóa chính của éthanol.

TUỲ THEO TRƯỜNG HỢP.

Phải nghĩ đến holiday heart syndrome đứng trước một loạn nhịp nhanh nơi một người không có tiền sử về tim. Rối loạn thường gặp nhất là rung nhĩ (fibrillation auriculaire), thường biến mất một cách ngẫu nhiên trong 24 giờ. Cần ghi nhận rằng vài người bị rung nhĩ với một sự tiêu thụ rượu hoàn toàn có mức độ, đối với một người uống trung b́nh. Nói chung, bệnh nhân ghi nhận hồi hộp khiến phải đi khám bệnh. Trong trường hợp đáp ứng tâm thất nhanh (réponse ventriculaire rapide), ta có thể thấy xuất hiện một ngất xỉu, khó thở lúc gắng sức hay cơn đau thắt ngực. Hỏi bệnh sẽ t́m kiếm, chừng nào có thể được, những tiền sử về những đợt hôn mê rượu (coma éthylique) và một sự lạm dụng caféine.

Ngoại trừ tính không đều của nhịp tim và một t́nh trạng say rượu, thăm khám vật lư thường không có ǵ đặc biệt. Tuy nhiên nên kiểm tra kali-huyết, trong khi điện tâm đồ cho phép loại trừ những vấn đề khả dĩ khác, như một thiếu máu cục bộ (ischémie) hay một nghẽn mạch phổi (embolie pulmonaire). Có thể cần t́m kiếm những chẩn đoán bổ sung khác. Thật vậy phải ghi nhớ rằng bệnh nhân có thể bị một rung nhĩ ngay cả khi không uống rượu. Sau cùng, chúng ta hăy ghi nhận rằng những đợt binge drinking đều đặn có thể dẫn đến bệnh cơ tim (cardiomyopathie) hay những vấn đề thuộc về gan.

MỘT SỰ PHỤC HỒI NHANH CHÓNG VÀ VÀI BIỆN PHÁP CẦN LÀM.

Một monitoring điện tâm đồ có thể đủ. Người ta có thể cho một chất betabloquant để làm chậm lại một đáp ứng tâm thất quá nhanh. Sau khi rối loạn nhịp biến mất, các bệnh nhân trẻ không bị bệnh tim mạch không c̣n cần phải điều trị ǵ thêm nữa. Tuy nhiên, nên tránh mọi gắng sức quan trọng trong vài ngày sau đợt thiếu máu cục bộ liên kết với rượu, bởi v́ rối loạn nhịp có thể tái phát dưới ảnh hưởng của sự phóng thích catécholamine. Cũng vậy, caféine sẽ cần tránh trong thời kỳ này, và từ nay rượu sẽ bị chống chỉ định nơi những người này.
(LE GENERALISTE 2/9/2010)


THỜI SỰ Y HỌC SỐ 193 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 27/9/2010 )

5/ TA CÀNG UỐNG, THỂ TÍCH NĂO CÀNG NHỎ.

Ethanol, cái phân tử nhỏ tan trong nước và một phần trộn lẫn trong mỡ này, len lỏi vào trong tất cả các tế bào. Sau khi được hấp thụ, trong vài phút, éthanol được phân bố đến tất cả các cơ quan, trong đó có năo bộ, gây nên những tác dụng khác nhau tùy theo lượng được uống vào. Như thế, nếu nhịp tim và huyết áp gia tăng sau ly đầu tiên, th́ chúng lại sụt giảm với những liều lượng mạnh hơn. Cũng vậy, nếu người uống lúc đầu cảm thấy một sự sảng khoái (désihibition), th́ sau đó anh ta cảm thấy những rối loạn vận động và nhận thức. Tác dụng an thần được khuếch đại, có thể dẫn đến hôn mê rượu (coma éthylique), thậm chí tử vong. Ngày nay, người ta biết rằng rượu có một tác dụng kép lên các neurone. Các tế bào thần kinh này được điều ḥa bởi các chất dẫn truyền thần kinh kích thích (excitateur) (glutamate) hay ức chế (inhibiteur) (GABA). Rượu ức chế nhiều hơn các thụ thể GABA và làm giảm hoạt tính của các thụ thế đối với glutamate. Kết quả : một sự ức chế năo bộ và hành vi. Chụp h́nh ảnh xác nhận tác dụng có hại này. Một công tŕnh nghiên cứu của Pḥng thí nghiệm chụp h́nh ảnh thần kinh (Laboratoire de neuro-imagerie) của Bethesda (Mariland, Hoa Kỳ), được thực hiện trên 20 người t́nh nguyện vào năm 2006, chứng minh rằng sự hấp thụ những liều lượng vừa phải rượu làm giảm chuyển hóa glucose trong năo bộ, đặc biệt là trong vùng vỏ năo truớc trán (cortex préfrontal) (nơi của những chức năng nhận thức cao cấp). Đáng lo ngại hơn, Wellesley College (Massachusetts, Hoa Kỳ), vào năm 2008, phát hiện, trên 1839 người, một mối liên hệ thẳng giữa việc tiêu thụ rượu và thể tích toàn bộ của năo : người ta càng uống nhiều rượu th́ thể tích năo càng giảm sút. Vào năm 2007, những nhà nghiên cứu của CEA và của Inserm đă chứng thực, trên 31 người phụ thuộc rượu (alcoolodépendant) một sự giảm chất xám trong nhiều vùng năo bộ và cho đến 20% ít hơn trong những vùng trán, cũng như một thương tổn của chất trắng (các sợi thần kinh). Tuổi lúc tiếp xúc lần đầu với rượu có tính chất quyết định. “ Chúng tôi đă cho thấy rằng một con chuột uống rượu trong thời kỳ niên thiếu có một khuynh hướng gia tăng bị nhiễm độc ở tuổi trưởng thành ”, Mickael Maassila, giám đốc nghiên cứu của Inserm (Amiens) đă giải thích như vậy.

Một tai họa : “ Năo bộ ở thời kỳ niên thiếu đang trong quá tŕnh thành thục, với sự tỉa cành phân nhánh các nối kết thần kinh và sự xuất hiện những neurone mới. Rượu cản lại hai cơ chế này và khiến các neurone bị chết 2,5 lần nhiều hơn nơi người trưởng thành ”, ông nói thêm như vậy. Vào năm 2000, American Journal of Psychiatry tiết lộ rằng, hồi hải mă (hippocampe) (vùng năo bộ có can dự trong trí nhớ và học tập) càng bị thu giảm thể tích khi sự uống rượu xảy ra càng sớm. Vào năm này, Viện Scripps (Californie) xác nhận : nơi các động vật linh trưởng nhỏ tuổi uống rượu, số những tế bào hải mă và sự tăng sinh của chúng sụt giảm một nửa so với những động vật không uống. Các công tŕnh nghiên cứu nơi chuột cho thấy rằng vỏ năo vùng trán (cortex frontal) cũng rất bị ảnh hưởng. Nhóm nghiên cứu của Mickael Naassila vừa phát động một công tŕnh nghiên cứu, cộng tác với Anh, để kiểm tra tác dụng này. Các sinh viên năm thứ nhất sẽ chịu những trắc nghiệm thần kinh-tâm lư và chụp h́nh ảnh năo bộ hôm nay và trong 3 năm nữa, để quan sát xem nhưng đồ đệ của binge drinking (được định nghĩa ít nhất 5 ly rượu uống nhanh) có bị mất các năng lực của họ hay không.
(SCIENCE ET AVENIR 9/2010)

6/ NHỮNG ĐIỀU TRỊ CÁ THỂ HÓA CHỐNG CHỨNG NGHIỆN RƯỢU.

Tính hiệu quả của các thứ thuốc nhằm làm dễ sự cai rượu thay đổi tùy theo profil di truyền và lâm sàng của bệnh nhân.

ADDICTION. Những loại thuốc mới, nhưng chủ yếu những điều trị nhắm đích hơn, tùy theo profil di truyền hay lâm sàng của các bệnh nhân. Cũng như những lănh vực khác của y khoa, và nhất là ung thư, sự nghiên cứu điều trị trong alcoologie đă di vào một kỷ nguyên mới, theo các chuyên gia hội họp từ 13 đến 16 tháng 9 ở Paris, ở hội nghị quốc tế của Isbra (International Society for Biomedical Research on Alcoholism)

Sư phụ thuộc rượu (dépendance à l’alcool) là chứng nghiện (addiction) phổ biến nhất trên thế giới, và là chứng nghiện gây tàn phá nhất về mặt sức khỏe vật lư và tâm thần. Ở Pháp, sự tiêu phụ rượu đang giảm xuống, nhưng vẫn quan trọng. Số những người uống quá mức được đánh giá là 5 triệu, số những người phụ thuộc rượu (alcoolodépendants) là 2 triệu.

“ Chúng tôi biết xác định càng ngày càng rơ hơn các loại lâm sàng của phụ thuộc rượu, và liên kết chúng với những đặc điểm di truyền, để thích ứng các điều trị ”, GS Michel Raynaud, thầy thuốc chuyên khoa tâm thần (Paris) và là người tổ chức hội nghị, đă loan báo như vậy. Hiện nay, chỉ có vài loại thuốc được phép lưu hành trên thị trường. Acamprosate (Aotal) và naltrexone (Revia), kềm chế sự thèm uống, là một hỗ trợ để điều trị sự cai uống. Disulfirame (Espéral) tác dụng bằng cách gây nên những rối loạn khó chịu (phừng mặt, nôn mửa...) trong trường hợp uống đồng thời với rượu. Những kết quả của chúng là không phủ nhận được nhưng nh́n toàn bộ vẫn c̣n khiêm tốn. “ Trung b́nh, sau một năm, naltrexone và acamprosate giúp cho 30% những người nghiện rượu, điều này muốn nói 70% trường hợp thất bại. Nhưng từ nay chúng ta biết rằng tỷ lệ những người đáp ứng là cao hơn nhiều trong vài nhóm, GS Karl Mann (nhà chuyên khoa về nghiện ở Đức) đă giải thích như vậy. Tỷ lệ đáp ứng đối với naltrexone lên đến 50% nơi những bệnh nhân mang một gène đặc biệt. Một đặc điểm di truyền khác ảnh hưởng lên đáp ứng đối với acamprosate.

Hiện nay, phương pháp di truyền-dược lư (pharmaco-génétique) này chỉ ở trong giai đoạn nghiên cứu, GS Michel Lejoyeux, thầy thuốc tâm thần (Paris) và chủ tịch của Hiệp hội về rượu học (alcoologie) Pháp đă nhấn mạnh như vậy. Tương tự đối với những thăm khám h́nh ảnh, và đặc biệt là IRM, một phương pháp cũng đầy hứa hẹn để tiên đoán tính hiệu quả của một thứ thuốc hay một nguy cơ tái phát.

Nhưng sự đáp ứng với điều trị cũng có thể đánh giá đơn giản hơn, theo những tiêu chuẩn lâm sàng. GS Mann đă hiệu chính một bảng câu hỏi gồm khoảng 15 đề mục cho những bệnh nhân bị tái phát. Những bệnh nhân uống rượu trở lại trong một bối cảnh hội hè đáp ứng với naltrexone tốt hơn những người uống lại trong một khung cảnh trầm uất, nhà chuyên gia người Đức đă giải thích như vậy.

Đồng thời, những loại thuốc mới đang được nghiên cứu. Trong số những thuốc mới nhất, nalmefene, đối tượng một thử nghiệm lâm sàng ở Pháp. “ Loại thuốc này tác dụng lên các thụ thể opioide như naltrexone. Nhưng ở đây mục tiêu lại khác, đó không phải là sự cai nghiện mà là trở lại một sự tiêu thụ được kiểm soát (une consommation contrôlée) ”, GS Lejoyeux đă xác nhận như vậy. Những kết quả quyết định được dự kiến năm 2011. Đối với bệnh nhân cũng như đối với các nhà nghiên cứu rượu học, khái niệm “ sự tiêu thụ được kiểm soát này mới xuất hiện gần đây. Cho măi đến ngày hôm nay, sự cai rượu (abstinence) là mục tiêu duy nhất. “ Sự tiêu thụ được kiểm soát là một hướng nghiên cứu rất lư thú, nhưng vẫn phải thận trọng đối với thực hành hàng ngày ”, GS Lejoyeux c̣n xác nhận như vậy.

Những loại thuốc cũ hơn, nhưng được kê đơn trong những căn bệnh khác, như baclofène (myorelaxant) hay topiramate (thuốc chống động kinh) cũng đang được đánh giá. Nhưng dầu hiệu quả của chúng như thế nào đi nữa, thuốc men không phải là tất cả. Điều trị thuốc, đó là 30% của điều trị, những thầy thuốc chuyên khoa tâm thần đánh giá như vậy. Sự đi kèm xă hội (accompagnement social) và tâm lư liệu pháp vẫn là yếu tố thiết yếu.
(LE FIGARO 15/9/2010)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 195 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 11/10/2010 )

9/ BỆNH ALZHEIMER : UỐNG MỘT ÍT … ĐỂ KHỎI MẤT TRÍ

Ư tưởng thật nghịch lư. Nhưng những công tŕnh nghiên cứu mới đây đă gợi ư một cách nghiêm chỉnh rằng, một sự tiêu thụ có mức độ rượu, và rượu vang, có thể có một vai tṛ ngăn ngừa chống sự xuất hiện của bệnh Alzheimer. Công tŕnh nghiên cứu này, được thực hiện bởi đại học Wale Forest (Caroline du Nord, Hoa Kỳ) trên 3.000 người 75 tuổi hoặc hơn, cho thấy rằng một hay hai ly mỗi ngày sẽ làm giảm 40% nguy cơ phát triển một rối loạn nhận thức (trouble cognitif). Về các cơ chế, th́ đó c̣n là một bí mật lớn. Trong khi đó cùng nguy cơ được nhân lên hai nơi những người tiêu thụ nặng, hơn 14 ly mỗi tuần.

Một kết quả cần phải uyển chuyển, đối với BS Luc Letenneur, nhà dịch tễ học thuộc Viện y tế công cộng, dịch tễ và phát triển (Bordeaux). “ Những công tŕnh nghiên cứu khác được gọi là quan sát th́ lại không ḥa hợp. Và các ư kiến th́ mâu thuẫn, không những về liều lượng bảo vệ mà c̣n loại rượu được tiêu thụ.” Điều này có nghĩa là ta không biết phải uống bao nhiêu và uống cái ǵ. Thế th́ trên thực tiễn, phải rút ra những lời khuyến nghị nào ? “ Các lăo niên không có chống chỉ định y khoa và không có sự tiêu thụ gây vấn đề, có thể tiếp tục uống một cách chừng mực, nhà khoa học đă tŕnh bày như vậy. Bởi v́ điều đó có thể góp phần cho một chế độ ăn uống tốt lành, một khả năng giao thiệp tốt hơn, nói vắn tắt, góp phần làm cho “ già mà mạnh khỏe ” (bien vieillir). Ngược lại, không nên bắt uống người nào đó đă chưa bao giờ uống cả. “ Cồn hay rượu vang không và sẽ không bao giờ là một thứ thuốc pḥng ngừa cả.”
(SCIENCES ET AVENIR 9/2010)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 196 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 18/10/2010 )
9/ BỆNH BÉO PH̀ : UỐNG MỘT ÍT...ĐỂ GẦY MỘT ÍT.

Ta tha hồ nói điều đó trong tất cả các régime : cồn (alcool), bao gồm rượu vang (vin), làm béo ph́, v́ lẽ các calo mà nó chứa. Thật vậy, mỗi gam chứa 7 kcal, so với 4 đối với glucide và protéine, 9 đối với các lipide. Điều này có nghĩa là 1 ly rượu vang 100 ml, hoặc 10 g cồn, tương ứng với 70 kcal, một ly rượu khai vị (apéritif) 25 ml tương ứng với 60 kcal và một lon bia 250 ml tương đương với 100 kcal. Nhưng, tại sao những người tiêu thụ quá mức lại không bị béo ph́ ? Một công tŕnh nghiên cứu mới đây đă chứng minh rằng ṿng thân (tour de taille) của những người nghiện rượu không quan trọng hơn ṿng thân của những người kiêng khem. Những người nghiện rượu có một chỉ số khối lượng thân thể (IMC : indice de masse corporelle) ngay cả dưới mức trung b́nh. Trả lời : các calo phát xuất từ rượu đều “ trống rỗng ”. Bởi v́ rượu được chuyển hóa trong một hệ thống đặc biệt, được gọi là hệ thống oxy hóa éthanol của ty lạp thể (Meos : système mitochondrial d’oxydation de l’éthanol), hệ thống này tiêu thụ rượu dưới dạng nhiệt lượng hơn là tích trữ nó.

Vậy chính không phải chứng béo ph́ đe dọa những người nghiện rượu, mà đúng hơn là sự suy dinh dưỡng, như xảy ra nơi 15 đến 30% những người phụ thuộc rượu (alcool-dépendant) ! Những t́nh trạng thiếu sắt, folate và vitamine được quan sát trong nhóm những người này, v́ những lư do kinh tế xă hội, thường kém dinh dưỡng. Tuy nhiên, tùy theo tính chất của rượu được uống, những calo thật sự cũng có thể được hấp thụ vào. Đó đặc biệt là trường hợp của các rượu khai vị như porto hay muscat, có nhiều đường, hay bia, chứa mạch nha (malt). Những cung cấp năng lượng thật sự như thế được tích trữ. Nhưng cũng đừng quên tất các những calo phát xuất...từ đậu phụng (cacahuètes) của rượu khai vị ! Bởi v́ rượu kích thích ăn ngon. Ngược lại, một công tŕnh nghiên cứu khác mới đây đă cho thấy rằng, nơi những phụ nữ trên 39 tuổi, những người uống từ 15 đến 30 g mỗi ngày (một ly rưởi đến 3 ly mỗi ngày), nguy cơ tăng thể trọng hạ 30% so với những người kiêng khem. Nhưng chú ư điều đó chỉ được quan sát trong 10 năm và biến mất sau 50 tuổi !
(SCIENCES ET AVENIR 9/2010)

florida80
05-12-2019, 13:46
CÁC BỆNH TIM MẠCH : UỐNG MỘT ÍT ĐỂ BẢO VỆ TRÁI TIM M̀NH.

Đó là một lư lẽ chính ủng hộ rượu vang : rượu vang có một hiệu quả bảo vệ tim (effet cardioprotecteur), duy tŕ ư tưởng của nghịch lư Pháp (french paradox) nổi tiếng, xuất hiện trong những năm 1990. Rất nhiều công tŕnh nghiên cứu đă đều đồng quy theo chiều hướng này, chứng tỏ tác dụng dương tính cùa các polyphénol lên cholestérol xấu. Một trong những công tŕnh nghiên cứu mới nhất, công tŕnh của một nhóm nghiên cứu Pháp của Inserm, đă nhận diện một cơ chế phân tử có liên quan đến tác dụng giăn mạch của delphinidine (anthocyane), một polyphénol hiện diện trong rượu vang đỏ. Các nhà nghiên cứu đă cho thấy, nơi chuột, rằng chất này hoạt hóa một thụ thể được biết là có tác dụng kích thích sự sản xuất oxyde d’azote, một gốc tự do (radical libre) có tác dụng giăn mạch. Để được như thế, không cần phải tiêu thụ rượu vang để có được những kết quả bảo vệ này ! Những thức ăn thức uống khác như cà phê, chè xanh hay chocolat, đều giàu polyphénol. Ngoài ra, như Pierre Ducimetière, nhà dịch tễ học của Inserm, mới đây đă viết, “ nghịch lư Pháp không c̣n tồn tạinữa ”. Thật vậy, những công tŕnh nghiên cứu khác đă chứng minh rằng trên b́nh diện bệnh động mạch vành, nước Pháp chiếm một vị trí trung gian theo một gradien bắc-nam, nhưng chắc chắn không phải là ngoại lệ. Ngoài ra, “ không ǵ chứng tỏ rằng rượu vang là yếu tố duy nhất giải thích, BS Jean Dallongeville, thuộc Viện Pasteur de Lille đă xác nhận như vậy. Những người uống có mức độ của những công tŕnh nghiên cứu này nói chung là những người không hút thuốc, ăn uống lành mạnh và tập thể thao.”
(SCIENCE ET AVENIR 9/2010)


THỜI SỰ Y HỌC SỐ 198 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 01/11/2010 )

10/ RƯỢU VÀ THAI NGHÉN : 9 THÁNG KIÊNG KHEM.

“ Số không rượu (zéro alcool) trong thời kỳ thai nghén. ” “ Đó là điều logo, được dán trên những chai rượu từ năm 2007, muốn nói. Gan của thai nhi c̣n non trên b́nh diện enzyme. Kết quả : rượu không được thoái hóa ở gan và chưa được 60 phút sau khi người mẹ uống một ly rượu, có thể nói, thai nhi cũng cụng ly. Người ta chấp nhận rằng bệnh cảnh được gọi là hội chứng làm thấm rượu thai nhi (SAF : syndrome d’alcoolisation fœtal) tương ứng với một sự uống rượu đều đặn trên hai ly mỗi ngày hay những lần uống rượu cấp tính với hơn 4 ly. Hội chứng này có liên quan đến 7000 trẻ em mỗi năm ở Pháp, nguyên nhân đầu tiên không phải do di truyền của phế tật tâm thần (handicap mental) của trẻ em. Chậm tăng trưởng, các thương tổn của hệ thần kinh trung ương, những khó khăn trong học tập..., bệnh cảnh lâm sàng là phức tạp. Ngoài ra, một công tŕnh nghiên cứu của Viện theo dơi y tế (InVs : Institut de veille sanitaire) và của Inserm, được thực hiện năm 2008, đánh giá rằng những thể bán phần nhiều hơn 3 lần những thể hoàn toàn. Tất cả những bất thường này đều có thể tránh được. Lại nữa, không có ngưỡng của nguy cơ (seuil de risque), v́ vậy người ta khuyên 9 tháng kiêng khem. “ Mặc dầu chỉ một ly uống riêng rẻ dĩ nhiên không gây nên cho tất cả mọi người những thương tổn của những tác dụng độc hại (bởi v́ điều đó tùy thuộc vào mức độ nhạy cảm di truyền của các bà mẹ), nhưng những lượng nhỏ chất cồn có thể gây nên những thương tổn thần kinh nơi thai nhi ”, BS Ingrid Chazeron, thầy thuốc chuyên khoa tâm thần của bệnh viện Clermont-Ferrand đă giải thích như vậy. Ở Pháp, cứ hai phụ nữ th́ có một thú nhận là có uống rượu. So với 12% ở Hoa Kỳ và 60% ở Nga. Một con số phát xuất từ công tŕnh nghiên cứu quốc gia duy nhất, được tiến hành ở Auvergne năm 2004 nơi 1000 phụ nữ có thai. “ Việc thiếu được thông tin nơi những phụ nữ này đă làm chúng tôi ngạc nhiên, thầy thuốc chuyên khoa tâm thần, người điều hành công tŕnh nghiên cứu, đă nói tiếp như thế. Ngoài ra, khẩu hiệu “ zéro alcool ” không phải là một thông điệp tốt, bà đă xác nhận như vậy. Tốt hơn là đả thông họ về các cách tiêu thụ và những nguy cơ gặp phải. Như ở Canada, là nơi thông điệp được hướng về những điểm mốc tiêu thụ.” Dầu sao, nếu c̣n cần phải có một luận cứ bổ sung, th́ hai công tŕnh nghiên cứu mới đây vừa để lộ những yếu tố buộc tội mới : một nguy cơ nhân lên hai lần phát triển một thể leucémie aigue myéloblastique, do một tương tác giữa các yếu tố di truyền và sự tiếp xúc tiền sinh, và một khả năng sinh đẻ (fertilité) bị hạ thấp đối với những người con trai của những bà mẹ nghiện rượu.
(SCIENCES ET AVENIR 10/2010)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 199 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 09/11/2010 )

1/RƯỢU CÓ THỂ CÓ HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA CÁC TINH TRÙNG.

Các cháu trai mà bà mẹ đă uống rượu trong thời kỳ thai nghén, có nguy cơ khả năng sinh sản thấp hơn.

REPRODUCTION. ở Châu Âu và Hoa Kỳ, trong những thập niên qua việc giảm số các tinh trùng, được chứng thực nơi những người đàn ông, có thể là do, ít nhất một phần, sự tiếp xúc với rượu trong tử cung.

Trong một công tŕnh nghiên cứu, được công bố mới đây trong tạp chí Human Reproduction, Cecillia Ramlau-Hansen và các đồng nghiệp của bệnh viện đại học Aarhus (Đan Mạch) cho thấy rằng, những người đàn ông, mà mẹ đă uống nhiều hơn một ly mỗi ngày trong thời kỳ thai nghén, có sự sản xuất các tinh trùng bị giảm 1/3, và rằng những hậu quả đă có thể được nhận thấy bắt đầu chỉ 2 ly mỗi tuần, hoặc 24 g alcool. Đây là lần đầu tiên một mối liên hệ như vậy được phát hiện. “ Mặc dầu hiện nay đó chỉ là một sự tương quan, nhưng hướng mới này là đáng quan tâm ”, GS Louis Bujan, thuộc đại học Paul-Sabatier và của CHU de Toulouse đă đánh giá như vậy. Chúng ta hăy nhắc lại rằng, việc tiêu thụ rượu bởi các phụ nữ có thai đă là nguyên nhân đầu tiên không phải do di truyền của sự chậm phát triển trí tuệ nơi đứa trẻ sinh ra đời.

Chính vào năm 1992, lần đầu tiên, hai nhà nghiên cứu Đan Mạch khác đă báo cáo với giới hữu trách y tế của đất nước họ về sự giảm không đổi, từ nhiều thế hệ, của sự sản xuất các tinh trùng của đồng bào họ. Bởi v́ cùng lúc đó người ta chứng thực một sự tăng cao của các bất thường của sự phát triển của bộ máy sinh dục nam và của các ung thư tinh hoàn, nên các mối nghi ngờ đều hướng về những yếu tố môi trường, nhất là sự tiếp xúc với vài hợp chất hoá học, các chất làm rối loạn nội tiết (perturbateur endocrinien).

Rất nhanh chóng Đan Mạch đă ở hàng đầu trong những nghiên cứu được thực hiện trong lănh vực này. Và điều này v́ nhiều lư do. Vào thời kỳ đó, đất nước đă phải đương đầu với một t́nh trạng giảm khả năng sinh sản rơ rệt của các cặp vợ chồng. Thật vậy, Đan Mạch giữ kỷ lục Châu âu về sinh đẻ bằng thụ thai nhân tạo (FIV : fécondation in vitro), và hiện nay vẫn nhu vậy với một tỷ lệ gần 5%, hoặc gấp ba lần so với nước Pháp. Sau đó, việc tạo điều kiện cho các nhà khoa học Đan Mạch được tham khảo các hồ sơ y khoa của tất cả các bệnh nhân được nhập viện từ năm 1977, đă cho phép họ thực hiện những nghiên cứu thống kê trên nhiều thế hệ. Các điều tra, được tiến hành nơi các phụ nữ mang thai bởi nhóm nghiên cứu của Miels Stakkebaek ở Rigshospitalet de Copenhague, trước hết đă cho thấy tác dụng có hại của chứng nghiện thuốc lá của người mẹ lên khả năng sinh đẻ của các người con gái, với một thời hạn để thụ thai tăng gấp đôi nếu các phụ nữ đă được tiếp xúc trong tử cung với thuốc lá cũng là những người hút thuốc. Vào năm 2007, Cecilia Ramlau-Hansen và các đồng nghiệp báo cáo một sự giảm gần 20% độ tập trung của tinh trùng của những người đàn ông, vốn đă bị tiếp xúc với thuốc lá của người mẹ khi c̣n trong tử cung. Sau cùng, một công tŕnh nghiên cứu mới của Đan Mạch, được thực hiện một cách đặc biệt lên những phôi thai người, với tuổi dưới một tam cá nguyệt, xuất phát từ IVG, đă phát hiện một sự suy giảm khối lượng dự trữ của những tế bào sinh sản trong những cơ quan sinh dục của cả hai giới tính, do đă bị tiếp xúc trong tử cung với thuốc lá.

Những tác dụng được xác nhận này của thuốc lá, và bây giờ được nghi ngờ đối với rượu, càng đáng lo ngại khi số các phụ nữ tiếp tục hút hay uống trong thời kỳ thai nghén. Ở Pháp, một công tŕnh nghiên cứu của Stéphanie Toutain, thuộc Đại Học Paris-Descartes, mới đây gợi ư rằng nhiều phụ nữ c̣n đánh giá thấp những nguy hiểm của một sự tiêu thụ rượu và tương đối hóa các nguy cơ tùy theo loại nước uống hay tùy theo lúc thai nghén. Theo công tŕnh nghiên cứu, lời ghi “ Zéro alcool trong thời kỳ thai nghén ” trên các chai rượu từ năm 2007 có lẽ không đủ. Cecilia Ramlau-Hansen nghĩ rằng cần phải đi xa hơn bởi v́ “ mặc dầu c̣n quá sớm để xác nhận một mối liên hệ trực tiếp nhân quả, nhưng công tŕnh nghiên cứu của chúng tôi tăng cường ư tưởng cho rằng, các phụ nữ có thai phải tuyệt đối tránh rượu, và ngay cả đối với mọi phụ nữ đă có ư định như vậy, bởi v́ khi những phụ nữ này khám phá ra rằng ḿnh có thai th́ họ có thể đă mang một bào thai đă nhiều tuần lễ rồi ”.
(LE FIGARO 28/10/2010)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 201 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 22/11/2010 )

8/UNG THƯ ĐẠI TRÀNG : LỐI SỐNG, CH̀A KHÓA CỦA PH̉NG NGỪA.

Nếu như chúng ta ăn uống lành mạnh, không hút thuốc, uống rượu có mức độ và tập nhiều thể dục hơn, khi đó ta có thể ngăn ngừa ¼ trong 1,2 triệu ung thư đại tràng được chẩn đoán mỗi năm.

Helene Kirkegaard và các cộng sự viên (Đan Mạch) đă phân tích các dữ kiện liên quan đến 55.487 người đàn ông và đàn bà tuổi từ 50 đến 64, không có các tiền sử về ung thư. Họ đă theo dơi nhóm người này trong khoảng 10 năm. Những người tham dự đă điền một bảng câu hỏi thăm ḍ lối sống và thói quen ăn uống của họ.

Trên cơ sở những dữ kiện được thu thập, mỗi người tham dự được cấp một chỉ số lối sống (index de style de vie) (được cho điểm từ 0 đến 5). Người ta gán cho mỗi người tham dự một điểm theo tiêu chuẩn mà người này thỏa măn : không hút thuốc, bước nửa giờ mỗi ngày, không uống hơn 7 ly rượu mỗi tuần nếu đó là một phụ nữ (14 nếu đó là người đàn ông), có một tour de taille dưới 88 cm đối với các phụ nữ (102 cm đối với những người đàn ông) và ăn uống lành mạnh. Trong thời gian theo dơi, 678 trường hợp ung thư đại trực tràng đă được chẩn đoán. Theo các tác giả, giả sử tất cả những người tham gia đều đạt được chỉ số lối sống 5 điểm, th́ điều đó có thể làm giảm 23% số các trường hợp ung thư. Vậy thông điệp sau cùng là khuyến khích dân chúng theo đuổi một lối sống lành mạnh.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 16/11/2010)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 207 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 03/01/2011 )

9/ UỐNG MỘT ÍT ĐỂ CÓ ÍT VẤN ĐỀ TIM MẠCH HƠN.

Nhiều công tŕnh nghiên cứu nhấn mạnh những lợi ích của việc uống rượu đều đặn và có mức độ trên b́nh diện tim mạch. Với sự nhấn mạnh vào ư niệm có mức độ.

Những lợi ích của rượu được tiêu thụ với những lượng hợp lư (phải luôn luôn nhấn mạnh vào khía cạnh về lượng này) vẫn tiếp tục được phát hiện trên b́nh diện tim mạch, ngay cả vài người tiếp tục nhấn mạnh vào sự kiện cho rằng, ngay cả với những lượng giới hạn, rượu vẫn độc đối với năo bộ.

MỘT LỢI ÍCH NƠI NHỮNG BỆNH NHÂN ĐƯỢC MỔ BẮT CẦU.

Nơi những bệnh nhân nam giới đă bị một phẫu thuật bắt cầu động mạch vành (pontage coronarien) (và do đó, theo định nghĩa, có nguy cơ tim mạch gia tăng), sự tiêu thụ rượu với những lượng từ nhẹ đến trung b́nh (khoảng 2 đến 3 ly mỗi ngày) được liên kết với một sự giảm ¼ những can thiệp tim sau này, các nhồi máu cơ tim, các tai biến mạch máu năo và những tử vong, so sánh với điều xảy ra nơi những người không uống một chút nào.

Các tác giả cũng nhấn mạnh một điều chứng thực khác của cũng công tŕnh nghiên cứu này: những bệnh nhân được mổ bắt cầu với một loạn năng thất trái (dysfonction ventriculaire gauche) và uống rượu với lượng từ vừa phải đến quan trọng (hơn 6 ly mỗi ngày) ngược lại có một nguy cơ tử vong do nguyên nhân tim mạch. tăng gấp đôi. Đó là điều được chứng tỏ bởi một công tŕnh nghiên cứu của Ư, được tiến hành ở Đại học La Sapienza (Rome). Do đó các tác giả khuyên đừng uống rượu trong trường hợp loạn năng thất trái và suy tim. AHA (American Heart Association) nhắc lại lời khuyến nghị đừng uống rượu v́ mục đích pḥng ngừa, chính là do các nguy cơ liên kết với việc uống nhưng lượng quá quan trọng.

NƠI CÁC PHỤ NỮ ĐANG GIÀ ĐI.

Sự tiêu thụ đều đặn và có mức độ (lại ở đây ta đừng quên tầm quan trọng của sự tiết độ), hoặc 2 đến 4 ly mỗi ngày, sinh ra một lợi ích giới hạn nhưng đáng kể về mặt t́nh trạng sức khỏe toàn bộ nơi những phụ nữ đang lăo hóa. Đó là kết luận của một phân tích các dữ kiện của công tŕnh nghiên cứu nổi tiếng Nurses’ Health Study, được tiến hành trên khoảng 14.000 người trong số những phụ nữ đă đạt đến hay vượt quá tuổi 70. Người ta nhận thấy rằng sự tiêu thụ có mức độ và đều đặn rượu làm gia tăng 11% đến 26% những cơ may sống sót. Mặt khác những cơ may này lớn hơn nơi những phụ nữ tiêu thụ những lượng rượu chừng mực một cách đều đặn so với những phụ nữ uống không thường xuyên hay những phụ nữ uống say túy lúy (binge drinking, saoulerie aigue).

ÍT TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO HƠN NƠI CÁC PHỤ NỮ.

Chính cũng từ những dữ kiện của công tŕnh nghiên cứu Nurses’Health Study (toàn bộ được thực hiện trên 84.000 phụ nữ), được theo dơi trong hơn 20 năm, mà các nhà nghiên cứu của đại học Havard đă có thể xác định rằng việc uống những lượng rượu dưới 15 g mỗi ngày dẫn đến một sự giảm 20% nguy cơ bị tai biến mạch máu năo so với những phụ nữ không bao giờ uống rượu. Trái lại, nơi những phụ nữ được điều trị bởi hormone, những phụ nữ uống hơn 2 ly mỗi ngày có nguy cơ bị tai biến mạch máu năo cao hơn những phụ nữ không uống chút nào.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 17/12/2010)


THỜI SỰ Y HỌC SỐ 221 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 12/04/2011 )

6/ RƯỢU LIỀU MẠNH : NGUY CƠ TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO

Kết quả của công tŕnh phân tích, được công bố bởi một nhóm các nhà nghiên cứu Canada, 84 thử nghiệm về ruợu, được đánh giá là đáng tin cậy, đưa đến hai kết luận. Đối với những người uống một liều từ 2,5 và 15 gam mỗi ngày(1 hay 2 ly) tỷ lệ tử vong tim mạch cũng như năo được giảm từ 14% đến 25 % so với những người không uống. Trên 2 ly, nguy cơ đối với những động mạch vành không thay đổi, nhưng làm gia tăng nguy cơ bị đột qụy, gia tăng 60% nơi những người uống mỗi ngày hơn 60% (5 ly hay hơn).

florida80
05-12-2019, 13:48
THÔNG TIN Y HỌC VỀ TRÀ (Tea)
Lynn Ly tổng hợp thông tin về Trà (Tea)
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh

https://i.imgur.com/VdIipqK.gif
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 10 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 23/1/2007 )

2/ PAS DE LAIT DANS LE THE

Sửa hủy bỏ những tác dụng có lợi của trà lên chức năng huyết quản. Nhiều nghiên cứu lâm sàng và thực nghiệm chững tỏ rằng trà có đặc tính antioxydant, chống viêm và giăn mach.Thêm sửa vào trà có biến đổi những đặc tính này không ? Một nhóm nghiên cứu người Đức, Mario Lorenz và các cộng sự viên đă phân tích trên 16 phụ nữ khoẻ mạnh. Cac phụ nữ t́nh nguyên này phai uong 3 lần, mỗi lần 500ml : hoac trà đen mới pha chế, hoặc trà đen với 10% sửa không có kem, hoặc nước sôi (nhóm kiểm chứng).

Chức năng ṇi mạc (endothélium) của động mạch cánh tay được do bằng siêu âm,trước và 2 giờ sau khi uống. Các kết quả chứng tỏ rằng, so với nước, trà đen cái thiện đáng kể chức năng nội mac huyết quản, trong khi đó thêm sửa vào trà sẽ hủy bỏ hoàn toàn tác dụng này. Trong sô các protéines khác nhau của sửa, caséine tham gia vào tác dụng cản này, có lẻ bằng cách tạo nên những phức hợp với các catéchines của trá.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 16/1/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 16 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 4/3/2007 )

4/ SỮA HUỶ BỎ HIỆU QUẢ CỦA TRÀ

Một làn sữa mỏng sẽ làm tiêu tan tác dụng bảo vệ của trà den lên các mạch máu ( tác dụng bảo vệ này là do các tính chất chống oxi hoá,chống viêm và giăn mạch của trà den).Theo nhóm nghiên cứu ở Berlin, so sánh các tác dụng của trà thiên nhiên với trà pha sữa lên độ dẻo của mạch máu,thi 3 caséines cùa sửa là nguyên nhân của tác dụng hủy bỏ này.Các protéines này liên kết với catéchines là những phân tử có tác dụng có lợi của trà.Sự biến đổi hoá học này làm giảm nồng độ catéchines và huỷ bỏ đặc tính bảo vệ của chúng
( SCIENCE ET VIE 3/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 23 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 29/4/2007 )

1/ TRÀ XANH BẢO VỆ CHỐNG BỆNH SIDA ?

Các nhà khoa học đă nhân diện một cấu chất trong trà xanh có khả năng đua tranh với siêu vi khuẩn HIV bằng cách ngăn cản tác dụng của siêu vi khuẩn này lên hệ miễn dịch.Chất cấu thành của trà xanh nêu trên là épigallocatéchine gallate (EGCG).EGCG đến tọa vị trước các thụ thể (récepteurs) CD4 của các T4 và như vậy ngăn cản virus HIV liên kết với hệ miễn dịch.Theo M.Willamson,sự việc uống trà xanh có thể làm giảm nguy cơ bị nhiễm trùng bởi HIV và giới hạn sự khuếch tán của siêu vi khuẩn.Tuy nhiên các nhà nghiên cứu cho biết rằng nước trà xanh không phải là một điều trị chống bệnh Sida và dầu sao đó cũng không phải là một phương cách chắc chắn đề pḥng ngừa nhiễm trùng HIV.

Đúng hơn nếu trà xanh kết hợp với các thuốc điều trị thường dùng có thể góp phần tạo cho các bệnh nhân có huyết thanh dương tính một cuộc sống có chất lượng hơn. Các nhà nghiên cứu nhấn mạnh rằng nghiên cứu của họ đang c̣n ở trong một giai đoạn rất sớm sủa: c̣n cần phải thực hiện các nghiên cứu trên động vật trước khi có thể rút ra những kết luận về một hiệu quả bảo vệ khả dĩ của trà xanh.Các nhà nghiên cứu cũng nhắc lại rằng các nghiên cứu chỉ quan tâm đến khả năng in vitro của một thành phần hóa học của trà xanh trong việc phong tỏa sự nối kết giữa HIV với những CD4 của người. Nhưng đă nhiều lần được chứng tỏ rằng các chất có khá năng in vitro ngăn cản một nhiễm trùng do HIV lại không có thể như vậy trong t́nh huống thực tế.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 17/4/2007)

color=purple]THỜI SỰ Y HỌC SỐ 50 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 10/11/2007 ) [/color]

6/ CAFE, TRÀ : TỐT CHO CÁC PHỤ NỮ TRÊN 65 TUỔI

Tiêu thụ ít nhất 3 tách café hoặc 6 tách trà mỗi ngày sẽ có tác dụng có lợi lên các chức năng nhận thức (fonction cognitive) của các phụ nữ 65 tuổi hoặc hơn. Đó là kết quả của một công tŕnh nghiên cứu được tiến hành trong 4 năm bởi nhóm nghiên cứu Karen Richie của Viện quốc gia y tế và nghiên cứu y học (INSERM) trên gần 7000 người.

Caféine đặc biệt có một vai tṛ dương tính chống lại các rối loạn liên kết với bệnh Alzheimer ( trí nhớ, luận lư, ngôn ngữ ). Các nhà nghiên cứu sẽ tiếp tục theo đuổi công tŕnh nghiên cứu này của họ thêm 2 năm nữa, đánh giá rằng việc tiêu thụ caféine có lẽ không đóng vai tṛ lên sự xuất hiện của bệnh Alzheimer mà chỉ có ảnh hưởng lên tiến triển của bệnh mà thôi.
(READER’S DIGEST 11/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 81 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 13/6/2008 )

2/ CÀ PHÊ, TRÀ VÀ NGUY CƠ BỊ UNG THƯ VÚ

Ganmaa và các cộng sự viên ( Hoa Kỳ) đă thu góp các dữ kiện liên quan đến 86.000 phụ nữ đă tham gia vào công tŕnh nghiên cứu Nurses’ Health Study về sự tiêu thụ cà phê, trà và caféine. Các người tham gia ở trong lứa tuổi 30 đến 55 vào lúc khởi đầu công tŕnh nghiên cứu. Suốt trong 22 năm theo dơi, 5.272 phụ nữ trong số những người tham gia, đă phát triển một ung thư vú. Sau khi điều chỉnh về các yếu tố khác nhau khả dĩ ảnh hưởng lên các kết quả (tuổi tác, chứng nghiện thuốc lá, thể dục, các tiền sử gia đ́nh ung thư vú, t́nh trạng măn kinh, các tiền sử về điều trị bằng hormone, số con có đuợc), các nhà nghiên cứu đă không nhận thấy rằng nguy cơ bị ung thư vú nơi các phụ nữ uống ít nhất 4 tách cà phê hay trà mỗi ngày là cao hơn so với các phụ nữ chỉ uống mỗi tách mỗi ngày.
(LE JOURNAL DU MEDECIN (6/6/2008 )

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 82 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 20/6/2008 )

9/ RAU XANH, TRÀ, RƯỢU VANG VÀ CACAO CÓ LỢI CHO NHỮNG NGƯỜI HÚT THUỐC

Các flavonoides là những chất chống gây ung thư (anticancérigènes). Nguy cơ phát triển ung thư phổi được giảm 32 đến 51% đối với 4 flavonoides được xác định.

Thở, đó là tự oxy hóa ! Thật vậy việc sử dụng oxy, sinh tử, cũng sản sinh những dạng oxy được gọi là phản ứng (réactif), có thể tấn công những cấu trúc sinh học. Những hiện tượng oxy hóa này được xem như là một yếu tố lăo hóa và là một yếu tố làm dễ nhiều loại bệnh khác nhau, nhất là ung thư. Vậy phổi đứng hàng đầu trong việc chịu các hiện tượng này.

Việc tiếp xúc này lại càng rơ nét hơn đối với những người hút thuốc, và người ta đánh giá rằng sự tiếp xúc với oxy phản ứng góp phần rất lớn trong việc làm gia tăng nguy cơ ung thư phổi. Vấn đề t́m biết xem việc hấp thụ các hợp chất có khả năng làm giảm thiểu các hiện tượng oxy hóa và các tổn hại do các hiện tượng này gây ra, đă làm ngứa ngáy các nhà nghiên cứu từ nhiều năm qua. Các hợp chất này ám chỉ các chất chống oxy hóa (antioxydants). Một vài chất chống oxy hóa là các vitamine hay những oligo-éléments, nhưng nơi dự trữ các chất chống oxy hóa lớn nhất là các flavonoide, một họ gồm hơn 4.000 phân tử.

Trong pḥng thí nghiệm, các flavonoides đă chứng tỏ, ngoài khả năng chống oxy hóa đôi khi rất mạnh, những tính chất chống đột biến (antimutagénique) và chống ung thư. Được cổ vũ, các nhà khoa học đă thăm ḍ những mối liên hệ giữa sự hiện diện của những hợp chất này trong thực phẩm và sức khỏe của dân chúng. Các thức ăn như rau xanh, trái cây, trà, rượu vang và ngay cả cacao đều giàu các flavonoides. Nhiều công tŕnh nghiên cứu đă báo cáo sự hiện hữu của một mối liên hệ nghịch giữa việc tiêu thụ các flavonoides khác nhau và nguy cơ của vài bệnh tật, đặc biệt là trong lănh vực tim mạch.Và chính đó là điều vừa được chứng nhận bởi một nhóm các nhà dịch tễ học bao gồm những nhà nghiên cứu Hoa Kỳ và Trung Quốc, đối đầu với ung thư phổi. Các nhà nghiên cứu mà các công tŕnh được công bố trong Cancer, đă nghiên cứu sự tiêu thụ flavonoides nơi 558 người đă phát triển một ung thư phổi, và nơi 837 người làm nhóm kiểm tra.

Công tŕnh nghiên cứu tiết lộ rằng nơi những người hút thuốc, nguy cơ phát triển ung thư phổi được thu giảm từ 32% đến 51% đối với 4 flavonoides được xác định rơ. Mặt khác, các rau xanh, trà và rượu vang, các nguồn thực phẩm quan trọng của flavonoides, cũng tỷ lệ nghịch với nguy cơ phát triển một ung thư phổi. Tuy nhiên không có một tác dụng đáng kể nào nơi những người không hút thuốc. Các dữ kiện của nghiên cứu gợi ư rằng các flavonoides có thể có một lợi ích đặc biệt nơi các người nghiện thuốc lá mặc dầu sẽ là ảo tưởng khi hy vọng rằng có thể huỷ bỏ tất cả các tác dụng của thuốc lá bằng các chất chống oxy hóa (antioxydants).
: (LE SOIR 11/6/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 84 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 09/07/2008 )

10/ CAFEINE CHỐNG UNG THƯ DA

Sự tiêu thụ caféine trong một đến hai tuần làm gia tăng hiện tượng chết được chương tŕnh hóa (apoptose hay mort programmée) của các tế bào biểu b́ bị biến đổi do tiếp xúc với các tia tử ngoại B và làm giảm nguy cơ biến đổi thành ung thư của chúng. Những dữ kiện này có được nơi loài gậm nhấm với các liều lượng caféine tương đương 3 đến 5 tách cà phê mỗi ngày. Các dữ kiện này xác minh những quan sát dịch tễ học cho thấy rằng những người uống cà phê hay trà bị ung thư da ít hơn so với phần dân chúng c̣n lại.
(SCIENCES ET AVENIR 7/2008).

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 90 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 22/08/2008 )

5/ TRÀ ĐEN LÀM CHẬM SỰ SUY THOÁI CỦA NĂNG LỰC NHẬN THỨC

Công tŕnh nghiên cứu trong pḥng thí nghiệm dường như cho thấy rằng trà có một tác dụng bảo vệ lên chức năng thần kinh nhận thức (fonction neurocognitive). Tuy nhiên các kết quả này chưa được chứng tỏ nơi người. Một nhóm nghiên cứu của Singapour đă cố gắng chứng tỏ điều đó. Tze-Pin Ng và các cộng sự viên đă đo lường mức độ tiêu thụ trà của một nhóm người Hoa (2.501 người) 55 tuổi trở lên, vào lúc bắt đầu công tŕnh nghiên cứu và 1 đến 2 năm sau. Họ cũng bắt các người tham gia chịu một trắc nghiệm Mini mental state, hay Test de Folstein.

Các kết quả cho thấy rằng việc tiêu thụ toàn bộ trà được liên kết một cách đáng kể với tỷ lệ thấp hơn bị rối loạn nhận thức (trouble cognitif). Những tác dụng này rơ ràng hơn đối với trà đen (thé noir) (được lên men) hay oolong (được lên men một nửa), là những thứ trà chủ yếu được uống bởi những người này. Trái lại, các nhà nghiên cứu không t́m thấy mối liên hệ giữa cà phê và t́nh trạng nhận thức.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 12/8/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 105 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 11/12/2008 )

4/ TRÀ TRÁNH XÓI M̉N RĂNG

Uống ǵ đây? Soda, nước trái cây vắt hay trà? Theo một công tŕnh nghiên cứu Hoa kỳ, nếu mục tiêu là để tránh xói ṃn ở ngà răng, th́ tốt hơn nên uống trà đen hay xanh. Đây là điều được giải thích bởi Mohamed A.Bassiouny và các cộng sự viên trong General Dentistry, tờ báo của Viện Hàn lâm Nha Khoa Tổng Quát của Hoa Kỳ. Đó là một đặc tính được thêm vào những đặc tính khác để được chứng minh của trà, như những tính chất chống oxy-hóa, hay khả năng làm hạ tỷ lệ mắc bệnh ung thư, các bệnh tim mạch và bệnh đái đường.

Như thế các tác giả đă so sánh tác dụng xói ṃn, trước mắt và lâu dài, của trà đen và xanh, của soda và nước trái cây vắt lên các chiếc răng. Họ đă nhận thấy rằng trà có một tác dụng tương tự với nước, nghĩa là không ăn ṃn, trái với các chất uống có khí (boissons gazeuses) và các nước trái cây vắt chứa quá nhiều đường được thêm vào và quá dồi dào acide citrique. Tuy nhiên họ khuyên những người uống trà tránh thêm sữa, chanh hay đường bởi v́ chúng làm giảm tác dụng của các flavonoides. Cũng tương tự đối với các trà đá (iced tea) chứa acide citrique và những lượng lớn chất đường.

Nếu không th́ trà uống nóng hay uống lạnh đều không quan trọng, miễn rằng trà được pha chế trong gia đ́nh, không thêm các chất phụ trợ. Tuy nhiên, đối với những kẻ không thể không uống nước uống acide, các tác giả khuyên uống với một ống rơm, nhai chewgum không đường để làm gia tăng sự sản xuất nước miếng hay để súc miệng với nước nhằm trung ḥa các acide và chờ một giờ trước khi đánh răng.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 9/12/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 109 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH ( 17/1/2009 )

5/ RƯỢU VANG, TRÀ VÀ CHOCOLAT ĐỐI VỚI NĂO BỘ ?

Các ông và các bà lớn tuổi, tiêu thụ rượu vang giàu flavonoide, trà và chocolat, có những hiệu năng tốt hơn lúc thực hiện những trắc nghiệm về khả năng nhận thức (tests cognitifs). Đó là điều đă được chứng minh bởi một nhóm nghiên cứu Anh-Na Uy. Nhóm nghiên cứu này đă khảo sát mối liên hệ giữa sự tiêu thụ 3 thức ăn thức uống chứa flavonoides (chocolat, rượu vang và trà) và những hiệu năng nhận thức (performances cognitives). 2.031 người tham dự (70-74 tuổi, 55% là phụ nữ) đă được tuyển mộ và đă chịu những trắc nghiệm về khả năng nhận thức.

Các kết quả cho thấy rằng, so sánh với những người không ăn chocolat, không uống rượu vang hay trà, những người tiêu thụ chúng có những điểm số tốt hơn một cách đáng kể lúc làm những trắc nghiệm nhận thức và có tỷ lệ hiệu năng nhận thức kém thấp hơn.

Những người tiêu thụ ba loại thức ăn nước uống này có những điểm số tốt hơn và nguy cơ có những hiệu năng kém lúc làm trắc nghiệm thấp nhất. Những mối liên kết giữa sự tiêu thụ các thức ăn nước uống này và khả năng nhận thức (cognition) tùy thuộc vào liều lượng (dose-dépendante), với một hiệu quả tối đa đối với những tiêu thụ khoảng 10g chocolat mỗi ngày và khoảng 75-100 ml rượu vang mỗi ngày, nhưng theo đường thẳng đối với trà. Phần lớn những chức năng nhận thức được trắc nghiệm bị ảnh hưởng bởi 3 thức ăn thức uống này. Hiệu quả rơ rệt hơn đối với rượu vang và hơi thấp hơn đối với chocolat.

Do đó, trong tuổi già, một chế độ thức ăn thức uống nhiều flavonoides được liên kết với những hiệu năng tốt hơn đối với vài năng lực nhận thức và điều này tùy thuộc vào liều lượng.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 13/1/2009)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 112 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH ( 6/2/2009 )

6/ TRÀ VÀ CÀ PHÊ CHỐNG LẠI CHỨNG SA SÚT TRÍ TUỆ DO TUỔI TÁC

Caféine kích thích hệ thần kinh trung ương ngắn hạn, nhưng tác dụng về lâu về dài của nó là tác dụng nào ? Những nhà nghiên cứu Phần lan, cộng tác với một nhóm nghiên cứu của Viện Karolinska ở Stockholm, đă nghiên cứu sự liên kết giữa việc tiêu thụ cà phê và/hoặc trà ở tuổi 50 với chứng sa sút trí tuệ/bệnh Alzheimer về sau này trong cuộc đời.

Công tŕnh nghiên cứu Cardiovascular Risk Factors, Aging and Dementia đă đưa vào nghiên cứu những người sống sót của Projet North Karelia và của công tŕnh Finmonica năm 1972, 1977, 1982 hay 1987 (thăm khám lúc ở tuổi 50). Sau một theo dơi trung b́nh 21 năm, 1.409 người (71%) tuổi từ 65 đến 79 tuổi, chịu một thăm khám y khoa hoàn chỉnh năm 1998. 61 trường hợp sa sút trí tuệ (48 với Alzheimer) đă được nhận diện.

Vào lúc thăm khám ở tuổi 50, sự tiêu thụ cà phê và trà đă được ghi nhận và những người uống cà phê được xếp thành 3 loại : những người uống ít (0-2 tách/ngày), trung b́nh (3-5 tách/ngày) và uống nhiều (hơn 5 tách/ ngày). So sánh với những người không uống hoặc uống ít cà phê, những người uống vào lúc 50 tuổi có một nguy cơ mắc chứng sa sút trí tuệ và bệnh Alzheimer thấp hơn về sau này trong cuộc đời. Nguy cơ thấp nhất (giảm 65%) được nhận thấy nơi những người uống 3-5 tách cà phê mỗi ngày. Uống trà tương đối hiếm và không liên kết với chứng sa sút trí tuệ/Alzheimer. Đối với các tác giả, Marjo Eskelinen và các cộng sự, uống cà phê ở tuổi trung niên được liên kết với một sự giảm nguy cơ mắc phải sa sút trí tuệ /Alzheimer vào lúc lớn tuổi sau này. Khám phá này có thể mở ra những khả năng pḥng ngừa, đặc biệt là dinh dưỡng, các chứng sa sút trí tuệ.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 23/1/2009)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 158 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 25/1 /2010 )

4/ CHỐNG BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG LOẠI 2 : TRÀ HAY CÀ PHÊ ?

Một nhóm nghiên cứu Úc Đại Lợi đă phân tích 18 công tŕnh nghiên cứu có chất lượng (trên 458.000 bệnh nhân) để đánh giá, từ năm 1966 đến 2000, những tương quan giữa việc tiêu thụ trà, cà phê và sự xuất hiện bệnh đái đường loại 2. Những loại nước uống này có một tác dụng bảo vệ quan trọng : 3 hay 4 tách cà phê hay trà mỗi ngày làm giảm nguy cơ bị bệnh đái đường lần lượt 20% và 30% so sánh với những người không uống hoặc cà phê hoặc trà. Lợi ích này là do sự hiện diện của các chất chống oxy hóa (oxydant) và của magnésium
(PARIS MATCH 14/1-20/1 /2010)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 160 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 8/2/2010 )

3/ TÁC DỤNG BẢO VỆ CỦA CÁC FLAVONOIDE CỦA RƯỢU VANG, TRÀ, CACAO.

Viện hàn lâm dược học quốc gia hôm qua đă thảo luận về những đóng góp có lợi lên tim và năo bộ của những chất được chứa trong vài loại thức ăn.

PREVENTION. Rượu vang, trà, chocolat, là chủ yếu, và những thực phẩm khác chứa những chất flavonoides, có những tác dụng chống oxy hóa (antioxydant) và chống viêm, với một hiệu quả bảo vệ lên tim và năo bộ. Từ 15 năm nay, các nghiên cứu gia tăng về những chất được chứa trong thực phẩm này. Hôm qua, Viện dược học quốc gia đă dành một trong những buổi họp để bàn về những tác dụng lên sức khỏe của những chất flavonoides đầy hứa hẹn này. Tuy nhiên, trong khi nhiều xí nghiệp dược phẩm đề nghị các viên thuốc mà chất căn bản là flavonoides, th́ viện hàn lâm lại đánh giá rằng những dữ kiện hiện nay không cho phép khuyến khích các “ điều khẳng định sức khỏe ” (“ assertions santé ”) của các chất bổ trợ dinh dưỡng (adjuvants alimentaires).

Lịch sử của các flavonoides bắt đầu trong những năm 1990, với sự phát hiện của nghịch lư Pháp (paradoxe français) : các người Pháp, đặc biệt trong vùng Tây Nam, có một tỷ lệ tử vong do tim mạch thấp hơn so với những nơi khác, mặc dầu một sự tiêu thụ cao các chất mỡ bảo ḥa (một yếu tố nguy cơ tim mạch quan trọng). Ngoại lệ này được quy cho sự tiêu thụ rượu vang đỏ, đặc biệt cao ở Pháp. Các flavonoides (các hợp chất polyphénol) của rượu đă được nhận diện như là các chất trung gian của tác dụng có lợi này. Và nhiều công cuộc điều tra dịch tễ học đă cố gắng phân tích mối liên hệ giữa chế độ ăn uống giàu flavonoides và các bệnh tim mạch (đột qụy, nhồi máu) hay thoái hóa thần kinh (bệnh Alzheimer, Parkinson).

“ Toàn bộ các thông tin có được như thế cho thấy một khuynh hướng chung tán trợ cho việc liên kết giữa sự tiêu thụ rượu vang đỏ có mức độ (một hay hai ly mỗi ngày), (trên mức này, những tác dụng có hại của rượu làm đảo ngược khuynh hướng), của sự tiêu thụ trà xanh hay trà đen và cacao và tỷ lệ tử vong nguồn gốc tim mạch hay thoái hóa thần kinh, GS Jean-Claude Stoclet, ủy viên của Hội hàn lâm dược học (đại học Strasbourg) đă giải thích như vậy.

Vậy có vẻ hợp lư khi đưa ra giả thuyết, theo đó sự tiêu thụ đều đặn của vài loại trái cây giàu flavonoides hay những chế phẩm phát xuất từ đó, rượu vang đỏ, một vài nước nho vắt, trà xanh và đen (trong một chừng mực ít hơn), cacao, được liên kết với một sự giảm tỷ lệ tử vong… ”

SỰ ỨC CHẾ CỦA MỘT VÀI GENE .

Bằng cớ chính thức chỉ có thể được mang lại, sau những thử nghiệm lâm sàng so sánh một chế độ ăn uống giàu flavonoides với một chế độ ăn uống nghèo flavonoides. Chúng ta hăy ghi nhận rằng hầu hết các công tŕnh nghiên cứu không phát hiện mối liên hệ giữa một chế độ ăn uống giàu flavonoide và ung thư. Nhiều công tŕnh nghiên cứu thí nghiệm, trên cấy tế bào hay mô h́nh động vật, đă phát hiện một tác dụng của các flavonoides lên thành trong của các huyết quản, với một sự gia tăng của các yếu tố giăn mạch và chống tăng sinh (facteurs vasodilatateurs en antiprolifératifs). Những chất này cũng tác dụng bằng sự ức chế của vài loại gène, để dẫn đến một tác dụng kháng viêm.

Người ta t́m thấy ở đâu các flavonoides này ? Nhiều trăm flavonoides khác nhau đă được nhận diện. Mặc dầu có nhiều điều không chắc chắn, nhưng có vẻ như rằng các flavonoides có một tác dụng bảo vệ, thuộc về các lớp của các flavonols (rượu vang đỏ, trà, cacao) và của các chất anthocyanines (các trái cây đỏ, quả anh đào, cassis). “ Khi tính đến các dữ kiện mới đây về các hiệu quả và các cơ chế tác dụng của vài flavonoides, ta có thể dễ bị cám dỗ khi chủ trương ngay từ bây giờ một sự tăng cường flavonoides trong chế độ ăn uống, GS Stoplet đă đánh giá như vậy. Cần phải cưỡng lại sự cám dỗ này : ngoài những điều không chắc chắn về bản chất của các hợp chất hữu ích, về những lượng cần phải cho, không hoàn toàn loại bỏ sự hiện diện của những tác dụng phụ. ” Đối với GS François Chast, chủ tịch của Viện hàn lâm dược khoa, “ trên cơ sở của các dữ kiện hiện nay, một sự tăng cường các cố gắng nghiên cứu có vẻ được biện minh và khẩn cấp ”.
(LE FIGARO 28/1/2010)

10/ TRÀ XANH HIỆU QUẢ TRONG SỰ NGĂN NGỪA UNG THƯ PHỔI.

Nguyên nhân đầu tiên của tử vong ở Đài Loan là ung thư phổi.

Rất nhạy cảm với tai ương này, nhóm nghiên cứu của BS I-Hson Lin (Chung Shan Medical University) đă tiến hành một cuộc điều tra về những thói quen sinh sống của 170 bệnh nhân bị ung thư phổi và của 340 người chứng lành mạnh. Những kết luận của công tŕnh nghiên cứu mới đây đă được tŕnh bày tại hội nghị về những cơ chế phần tử, nguồn gốc của ung thư phổi, ở Colorado (Californie). Các kết quả gây ngạc nhiên : nơi những người hút thuốc không uống trà xanh, nguy cơ được nhân lên 12,7 lần so với những người hút thuốc nhưng uống trà xanh (ngay cả chỉ uống một tách mỗi ngày). Các nhà nghiên cứu đă chứng tỏ sự hiện diện của những profil di truyền được liên kết với một sự gia tăng nguy cơ mắc phải ung thư này. Nơi những người có mức độ nhạy cảm di truyền (susceptibilité génétique) thuận lợi, trà xanh làm gia tăng tác dụng bảo vệ. Các chất có lợi, được chứa trong trà xanh, có một tác dụng lên tính ổn định của các tế bào và các gène của chúng. Đó là các polyphénol, các chất chống oxy hóa (antioxydant) được biết rơ, thí dụ như épigallocatéchine, có tác dụng 200 lần mạnh hơn vitamine E

florida80
05-12-2019, 13:51
THÔNG TIN Y HỌC VỀ CAFE (Coffee)
Lynn Ly tổng hợp thông tin về Café (Coffee)
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh

https://i.imgur.com/Z1IqnU3.gif

2/ CÀ PHÊ LÀ BẠN CỦA NHỮNG TRÁI TIM NGƯỜI GIÀ ?

Một nghiên cứu dịch tễ học cho thấy rằng các đồ uống có cà phê có tác dụng bảo vệ khỏi bị nguy cơ tử vong do bệnh tim nơi những người lớn tuổi.

Caféine có thể cải thiện hạ huyết áp sau khi ăn trong trường hợp nguy cơ gia tăng bị tai biến động mạch vành và tử vong nơi người lớn tuổi.James Greeberg và các cộng sự viên,một nhóm nhà nghiên cứu của Đại học Nữu Ước,đă muốn kiểm tra giả thuyết theo đó đồ uống có cà phê làm giảm nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch trong tuổi già.Để thực hiện điều này,các nhà nghiên cứu đă căn cứ trên một nghiên cứu (National Health and Nutrition Examination Survey Epidemiologic Follow up Study) với 6594 người tham gia,lứa tuổi từ 32 đến 86 tuổi không có tiền sử bệnh tim mạch.

Các kết quả cho thấy rằng những người tham gia trên 65 tuổi và tiêu thụ nhiều đồ uống có cà phê,có nguy cơ tim mạch thấp hơn và tỷ lệ tử vong do tim nhỏ hơn so với những người uống it cà phê.Và hiệu quả bảo vệ này tùy thuộc vào lượng cà phê uống vào. Thật vậy nguy cơ tử vong do tim là 1, 0,77, 0,68, và 0,47 tùy theo lượng cà phê tiêu thụ: dưới ½ tách mỗi ngày,từ ½ đến 2 tách mỗi ngày,từ 2 đến 4 tách mỗi ngày và trên 4 tách mỗi ngày.Một hiệu quả bảo vệ tương tự cũng đă được nhận thấy khi sự tiêu thụ caféine được tính bằng mg/ngày Tuy nhiên,tác dụng có lợi này chỉ được nhận thấy đối với những người tham gia không bị chứng huyết cao nghiêm trọng và không một hiệu quả bảo vệ đáng kế nào được xac định ở những người dưới 65 tuổi hoặc đối với tỷ lệ tử vong do tai biến mạch máu năo của những người trên 65 tuổi.

Từ những kết quả trên,các tác giả kết luận rằng các đồ uống có cà phê có tác dụng bảo vệ đối với nguy cơ tử vong gây nên bởi bệnh tim nơi những người già.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 13/2/2007)

8/ CAFEINE VÀ TRỌNG LƯỢNG LÚC SINH.

Giảm sự tiêu thụ cà phê trong thời kỳ thai nghén từ 3 tách cà phê mỗi ngày xuống c̣n một tách không có tác dụng lên trọng lương lúc sinh của trẻ sơ sinh.Các nhà nghiên cứu Đan Mạch đă báo cáo như vậy.

Một vài công tŕnh nghiên cứu đă gợi ư rằng giảm sự tiêu thụ cà phê có thể làm gia tăng trọng lượng trung b́nh lúc sinh ,nhung phân tích một nghiên cứu mới đây trên hơn 1.200 phụ nữ khỏe mạnh đă không cho thấy anh hưởng lên thể trọng lúc sinh hay thời gian thai nghén

Các nhà nghiên cứu đă tuyển mộ 1.207 phụ nữ có thai 5 tháng hay hơn.Các phụ nữ này cho biết uống it nhất 3 tách cà phê có caféine mỗi ngày.Một nửa trong số các phụ nữ này được cho uống cà phê có caféine trong khi đó một nửa kia được chỉ thị cho uống cà phê không có caféine suốt trong thời gian thai nghén.Kết quả cho thấy rằng trọng lượng trung b́nh của trẻ sơ sinh nhóm các bà mẹ uống cà phe không có caféine cao hơn nhóm các bà mẹ uống cà phê với caféine một cách không đáng kể về mặt thống kê(14 gr).

Các nhà nghiên cứu công nhận rằng sự tiêu thụ caféine không phải là vô hại nhưng mặt khác sự giảm uống cà phê không có ảnh hưởng đáng kể nào lên trọng lượng của trẻ sơ sinh
(INTERNATIONAL HERALD TRIBUNE 15/2/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 31 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 15//6/2007 )

6/ CAFE LÀM GIẢM NGUY CƠ BỊ UNG THƯ GAN

Có một số dữ kiện gợi ư rằng việc uống café có thể bảo vệ gan chống lại mọi tấn công có nguồn gốc khác nhau và làm giảm nguy cơ bị carcinome hépatocellulaire (CHC). Một phân tích mới đây gợi ư rằng việc uống café có thể làm giảm nguy cơ bị ung thư gan. Các BS Susanna và Alicja thuộc Viện Karolinska , Stockholm đă thực hiện sự phân tích này.Tổng cộng có 9 công tŕnh nghiên cứu với 2.260 trường hợp và 239.146 kiểm chứng đă hội đủ các chỉ tiêu đề ra. Nh́n toàn bộ, một gia tăng tiêu thụ 2 tách café mỗi ngày liên kết với sự giảm nguy cơ bị ung thư gan 43%.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 12/6/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 38 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 9/8/2007 )

9/ CAFEINE BẢO VỆ TRÍ NHỚ CỦA PHỤ NỮ

Sự tiêu thụ ít nhất 3 tách cà phê (hoặc 6 tách trà) mỗi ngày bảo vệ các phụ nữ trên 65 tuổi khỏi bị sa sút trí nhớ, so với các phụ nữ uống một tách hoặc ít hơn. Đó là kết luận của các công tŕnh của đơn vị Inserm 888 «Các Bệnh lư của hệ thần kinh: nghiên cứu dịch tễ và lâm sàng ». Gần 4.197 phụ nữ và 2.820 đàn ông tuổi 65 hoặc hơn, đă được theo dơi trong ṿng 4 năm. Đối với đàn ông th́ không có một hiệu quả nào có thể định mức được.
(LE FIGARO 7/8/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 39 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 25/8/2007 )

1/ CAFEINE BẢO VỆ TRÍ NHỚ CỦA CÁC PHỤ NỮ

Một nhóm nghiên cứu người Pháp thuộc Inserm đă nhận thấy ở những người nghiện café (trên 3 tách mỗi ngày) có trí nhớ ngôn từ (mémoire verbale) ít bị sa sút hơn và trí nhớ thị giác và không gian (mémoire visuo-spatiale) cũng vậy nhưng với mức độ ít hơn. Karen Richie, cộng tác với Alex de Mendona của pḥng thí nghiệm khoa học thần kinh thuộc Đaị Học Lisbonne, đă nghiên cứu mối liên hệ giữa việc tiêu thụ caféine và các hiệu năng về nhận thức (performances cognitives) (trí nhớ, ngôn ngữ, logique) nơi những người già trên 65 tuổi hoặc hơn. Như thế các nhà nghiên cứu đă theo dơi 4.197 phụ nữ và 2.820 đàn ông suốt trong 4 năm : các nhà khảo sát đă đánh giá các hiệu năng về nhận thức của những người này, sự xuất hiện chứng sa sút trí tuệ (démence) và việc tiêu thụ caféine vào lúc bắt đầu công tŕnh nghiên cứu, sau 2 và 4 năm. Công tŕnh nghiên cứu này, được đặt tên là 3C, đă được tiến hành ở Montpellier, Dijon và Bordeaux.

Có những suy đoán vững chắc về caféine từ khi các công tŕnh nghiên cứu trên động vật đă gợi ư rằng caféine, bằng cách tác động lên các thụ thể adénosine, làm giảm thiểu những tổn hại trên năo bộ. Karen Ritchie đă xác định rơ như vậy trong một thông báo của Inserm.

Thật vậy, những kết quả nghiên cứu chứng tỏ rằng caféine có một hiệu quả bảo vệ, nhưng chỉ xảy ra ở phụ nữ mà thôi. So sánh với các phụ nữ chỉ uống một tách hoặc ít hơn mỗi ngày, người ta nhận thấy ở các bà nghiện nặng café (hơn 3 tách mỗi ngày) ít có sự sa sút trí nhớ về ngôn từ (mémoire verbale) hơn, cũng như trí nhớ thị giác và không gian (mémoire visuo-spatiale). Hiệu quả bảo vệ của café càng ngày càng gia tăng với tuổi. Ngược lại, việc tiêu thụ caféine đă không làm giảm nguy cơ mắc phải chứng sa sút trí tuệ (démence) trong 4 năm theo dơi của công tŕnh nghiên cứu.

Các kết quả của chúng tôi chứng tỏ rằng các phụ nữ càng xa dần thời kỳ măn kinh th́ lợi ích của caféine càng quan trọng. Chúng tôi cần theo đuổi công tŕnh nghiên cứu này thêm hai năm nữa để xem xét tốt hơn mối liên hệ giữa caféine và bệnh Alzheimer. Có thể việc tiêu thụ caféine không có vai tṛ trong sự xuất hiện của bệnh Alzheimer nhưng có ảnh hưởng trong tiến triển của bệnh này. Cần phải t́m hiểu tại sao caféine chỉ bảo vệ cho phụ nữ mà thôi: có thể là đàn ông và phụ nữ chuyển hoá caféine một cách khác nhau hoặc cũng có thể do tác dụng hổ tương của các hormone. Phải làm sáng tỏ cơ chế sinh học để đánh giá xem một điều trị với caféine có thể hữu ích hay không.”
“(LE JOURNAL DU MEDECIN 17/8/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 40 ( 2/9/2007 )

2/ NHIỀU CAFE HƠN, ÍT NGUY CƠ HƠN

Ít nguy cơ ǵ? Ung thư gan! Đó là kết luận gây xao xuyến đạt được bởi một nhóm nghiên cứu của Viện nghiên cứu dược liệu học Milan dưới sự lănh đạo của Francesca Bravi. Thế mà kết luận này không phải là không có tầm quan trọng bởi v́ ung thư gan là một trong những ung thư gây chết người nhất sau ung thư phổi và dạ dày. Tổ Chức Y Tế Thế Giới đă quy cho ung thư này là nguyên nhân của 660.000 trường hợp tử vong trên quy mô hành tinh.

Bravi và nhóm nghiên cứu đă thực hiện một phân tích các tài liệu khoa học liên quan đến mối quan hệ giữa việc tiêu thụ café và nguy cơ carcinome hépatocellulaire (dạng ung thư chiếm tỷ lệ 90% trên toàn bộ các trường hợp ung thư gan). Các tác giả chỉ đưa vào trong công tŕnh phân tích những nghiên cứu đề cập đến những dữ kiện về lượng liên hệ đến việc tiêu thụ café và tỷ lệ mắc bệnh carcinome hépatocellulaire. Theo tiêu chuẩn này, tổng cộng có một chục công tŕnh nghiên cứu với tổng số khoảng 2.260 bệnh nhân. 6 nghiên cứu được thực hiện ở Nam Âu và Nhật bản (1.551 trường hợp) trong khi đó 4 nghiên cứu khác là những nghiên cứu nhóm (études de cohorte) của Nhật bản.

NGUY CƠ ĐƯỢC THU GIẢM

Các tác giả xác nhận rằng nh́n toàn bộ th́ những người uống café có nguy cơ bị carcinome hépatocellulaire giảm 41% so với những người không bao giờ uống café. Sự giảm nguy cơ này cũng rơ rệt nơi những người Nhật mặc dầu họ ít thích café hơn so với dân vùng Nam Âu. Ngoài ra sự giảm nguy cơ ít rơ rệt hơn nơi những người uống café có chừng mực (30%) so với những người tiêu thụ nhiều (55%)

Các nhà nghiên đă quan sát thấy rằng uống thêm một tách café mỗi ngày cho phép làm giảm từ 23% đến 25% nguy cơ mắc phải carcinome hépatocellulaire. Bravi và nhóm nghiên cứu cũng đă gợi ư rằng café làm giảm nguy cơ mắc phải những bệnh lư khác của gan. Đến lượt sự suy giảm này làm giảm tỷ lẽ carcinome hépatocellulaire.

CÂU HỎI BỎ NGỎ

Các tác giả cũng đă xác định rằng việc xem xét các thành phần hóa học của café đă phát hiện những tác dụng có lợi lên gan của vài cấu tử này. Café dường như liên kết với một mối nguy cơ bị xơ gan ít hơn. Ngược lại, các nghiên cứu trên động vật và in vitro đă xác lập rằng những thành phần khác của café cản trở quá tŕnh khử độc các chất gây ung thư và do đó có một tác dụng không thuận lợi lên gan. Như vậy việc khẳng định café tốt cho gan hơi bị thu giảm. Ngoài ra mối liên hệ giữa việc tiêu thụ café và sự thu giảm nguy cơ mắc phải carcinome hépatocellulaire không cho phép kết luận rằng vế thứ hai là kết quả của vế thứ nhất. Cũng có thể rằng những người bị ung thư gan uống café ít hơn, dẫu cho hai yếu tố này thường không liên kết với nhau. Nếu mối liên hệ giữa việc uống café và sự phát sinh ung thư gan là không thể phủ nhận được th́ vấn đề c̣n lại là phải xác định đâu là nguyên nhân và đâu là hậu quả..
(LE GENERALISTE 30/8/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 44 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 30/9/2007 )

3/ CAFE PH̉NG NGỪA BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG LOẠI 2

Một phân tích méta xác nhận rằng việc tiêu thụ đều đặn café làm giảm nguy cơ mắc phải bệnh đái đường loại 2. Nhiều công tŕnh nghiên cứu ngang (études transversales) đă chứng tỏ một hiệu quả bảo vệ của café trên nguy cơ phát triển bệnh đái đường loại 2. GS André Scheen, trưởng khoa đái đường thuộc CHU Sart (Liège) đă thực hiện một tổng hợp các công tŕnh nghiên cứu dọc (études longitudinales) về vấn đề này.

Tại sao phải quan tâm vấn đề này đến thế? Là bởi v́ sự khẩn cấp được đặt ra do trận dịch đái đường loại 2 đă được loan báo sẽ xảy ra trong những năm sắp đến và bởi v́ café là một loại nước uống phổ biến khắp nơi trên thế giới, v́ vậy café sẽ là một công cụ pḥng ngừa thực tiễn.

Theo kết quả của những công tŕnh nghiên cứu viễn cảnh (prospective study) th́ hiệu quả bảo vệ của café lên sự phát triển của bệnh đái đường loại 2 được xác nhận. “ Tầm quan trọng của tác dụng bảo vệ được quan sát không phải là không đáng kể (giảm nguy cơ từ 30 đến 60 %) và mức độ hiệu quả có thể so sánh với các điều trị bằng dược liệu. Phần lớn các công tŕnh này được thực hiện trên quảng đại quần chúng và sẽ là lư thú khi biết được các tác dụng đặc hiệu hơn của café lên những người có nguy cơ cao ”. Các tác giả đă xác định như vậy. Ngoài ra, một tác dụng tuỳ thuộc liều lượng (dose-dépendant) được quan sát và hiệu quả này rơ rệt hơn với café décaféiné hơn là với café chính quy ” (regular).

Vấn đề cơ chế và chất chịu trách nhiệm cho tác dụng lợi ích này chưa được làm sáng tỏ. Tuy nhiên các tác giả cho rằng giả thuyết về acide chlorogénique, mặc dầu chưa được chứng minh nhưng khá hấp dẫn. Song tất cả những nhận xét này khiến ta phải thận trọng : “ Tuy nhiên c̣n hơi sớm để đưa ra những lời khuyên quả quyết về vấn đề này ”. Các tác giả đă kết luận như thế.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 25/9/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 50 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 10/11/2007 )

6/ CAFE : TỐT CHO CÁC PHỤ NỮ TRÊN 65 TUỔI

Tiêu thụ ít nhất 3 tách café hoặc 6 tách trà mỗi ngày sẽ có tác dụng có lợi lên các chức năng nhận thức (fonction cognitive) của các phụ nữ 65 tuổi hoặc hơn. Đó là kết quả của một công tŕnh nghiên cứu được tiến hành trong 4 năm bởi nhóm nghiên cứu Karen Richie của Viện quốc gia y tế và nghiên cứu y học (INSERM) trên gần 7000 người.

Caféine đặc biệt có một vai tṛ dương tính chống lại các rối loạn liên kết với bệnh Alzheimer ( trí nhớ, luận lư, ngôn ngữ ). Các nhà nghiên cứu sẽ tiếp tục theo đuổi công tŕnh nghiên cứu này của họ thêm 2 năm nữa, đánh giá rằng việc tiêu thụ caféine có lẽ không đóng vai tṛ lên sự xuất hiện của bệnh Alzheimer mà chỉ có ảnh hưởng lên tiến triển của bệnh mà thôi.
(READER’S DIGEST 11/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 61 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH (27/1/2008)

7/ CAFFEINE CÓ LIÊN HỆ TRONG VIỆC LÀM SẨY THAI


Uống quá nhiều cà phê trong thời kỳ thai nghén có thể làm gia tăng nguy cơ sẩy thai, một công tŕnh nghiên cứu mới đă phát biểu như vậy, và các tác giả gợi ư rằng các phụ nữ có thai có thể cần giảm bớt lượng cà phê uống vào hoặc phải từ bỏ toàn bộ.

Nhiều Bác sĩ chuyên khoa Sản đă khuyên các phụ nữ hạn chế caffeine, mặc dầu vấn đề này đă gây nhiều tranh căi, với các công tŕnh nghiên cứu mâu thuẫn nhau, các dữ kiện không rơ ràng và những lời khuyến nghị khác nhau trong nhiều năm qua.

Công tŕnh nghiên cứu mới, được công bố hôm thứ hai trên tờ Journal of Obstetrics and Gynecology, nhận thấy rằng các phụ nữ có thai uống 200 mg caffeine hoặc hơn mỗi ngày (lượng được chứa trong 10 ounces cà phê hoặc 25 ounces trà), có thể làm tăng gấp đôi nguy cơ sẩy thai của họ. 10 ounces tương đương với khoảng 300 ml.

Các phụ nữ có thai nên từ bỏ caffeine trong ít nhất 3-4 tháng đầu của thời kỳ thai nghén, BS De-Kun Li, tác giả lănh đạo công tŕnh, một nhà dịch tễ học về sinh sản thuộc Kaiser Permanente Division of Research, ở Oakland, California, đă phát biểu như vậy. “Nếu v́ bất cứ lư do nào đó, họ thật sự không thể từ bỏ được, th́ nên cắt giảm chỉ c̣n một tách hoặc chuyển sang decaf (cà phê không có caffeine)”, BS Li nói như vậy. “Ngừng uống caffeine thật sự không có một tác dụng âm tính nào”

Các nhóm chuyên môn nghề nghiệp như American College of Obstetricians and Gynecologists và American Society for Reproductive Medicine đă không có lập trường chính thức về caffeine, các đại diện đă nói như vậy.

Hôm thứ sáu, Website của March of Dimes đă nói rằng hầu hết các chuyên gia đồng ư rằng lượng caffeine được chứa trong 8-16 ounces cà phê uống mỗi ngày là an toàn. Website ghi nhận rằng vài công tŕnh nghiên cứu đă liên kết việc tiêu thụ caffeine với liều lượng cao hơn với sự sẩy thai và với trọng lượng lúc sinh thấp, nhưng web site phát biểu: “Tuy nhiên không có bằng cớ vững chắc cho rằng caffeine gây nên những vấn đề này. Cho đến khi được biết rơ nhiều hơn, các phụ nữ tốt hơn nên giới hạn lượng caffeine uống vào trong thời kỳ thai nghén”. Bây giờ đây, sau khi đă duyệt lại công tŕnh nghiên cứu mới, March of Dimes dự kiến thay đổi thông điệp của ḿnh, khuyên các phụ nữ đang có thai hoặc đang cố thụ thai, giới hạn việc tiêu thụ caffeine hàng ngày c̣n 200 mg hoặc ít hơn, Janis Biermann đă nói như vậy.

Công tŕnh nghiên cứu của Li bao gồm 1.063 phụ nữ có thai được phỏng vấn một lần về lượng caffeine được tiêu thụ. Vào lúc phỏng vấn, thời gian thai nghén trung b́nh là 71 ngày. Nhưng 102 người đă sẩy thai (không đáng ngạc nhiên v́ hầu hết các trường hợp sẩy thai xảy ra rất sớm trong thời kỳ thai nghén). Sau đó thêm 70 phụ nữ nữa bị sẩy thai. Như vậy tỷ lệ sẩy thai toàn thể là 16%.

Trong số 264 phụ nữ nói là họ đă không dùng caffeine, 12,5% bị sẩy thai. Nhưng tỷ lệ sẩy thai là 24,5 % nơi 164 phụ nữ đă tiêu thụ 200mg caffeine hoặc hơn mỗi ngày. Nguy cơ sẩy thai gia tăng được liên kết với chính caffeine chứ không phải với các yếu tố nguy cơ đă được biết như tuổi của người mẹ hoặc thói quen hút thuốc, các nhà nghiên cứu đă nói như vậy.

Li nói rằng công tŕnh nghiên cứu đă trả lời một câu hỏi quan trọng mà nghiên cứu trước đây vẫn để bỏ ngơ. Các phụ nữ bị chứng nôn mửa vào buổi sáng (morning sickness) ít bị sẩy thai hơn là những phụ nữ không có chứng khó ở này, có lẽ bởi v́ những thay đổi về hormone là nguyên nhân của chứng nôn mửa này, đă góp phần cho sự phát triển của một thai nghén lành mạnh. Nhưng các nhà nghiên cứu đă nói rằng chứng nôn mửa vào buổi sáng có thể dẫn đến những kết quả làm sai lạc trong công tŕnh nghiên cứu caffeine.

Những nhà nghiên cứu này lư luận rằng bởi v́ cảm thấy khó ở, vài phụ nữ có thể đă uống ít caffeine. Khuynh hướng này có thể làm cho có cảm tưởng rằng sự việc các phụ nữ có vẻ ít bị sẩy thai hơn là bởi v́ họ đă tránh tiêu thụ caffeine.

Li nói rằng ông ta và các đồng nghiệp đă cẩn thận phân tích các dữ kiện và đă xác định rằng nguy cơ làm sẩy thai do caffeine là thật sự và không thể được giải thích bởi các tỷ lệ khác nhau trong chứng nôn mửa buổi sáng.

BS Carolyn Westhoff, một giáo sư sản phụ khoa và dịch tể học, thuộc Columbia University Medical Center, Nữu Ước, đă tỏ ra dè dặt về công tŕnh nghiên cứu. Bà ghi nhận rằng nghiên cứu hoặc giải thích sự sẩy thai là việc khó làm. Bà nói rằng hầu hết các trường hợp sẩy thai đều là do bất thường về nhiễm sắc thể, và không có bằng chứng cho rằng caffeine có thể gây nên những vấn đề đó.
(INTERNATIONAL HERALD TRIBUNE 21/1/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 69 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 22/3/2008 )

2/ BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG LOẠI 2 : COI CHỪNG CAFEINE !

Caféine làm gia tăng đường trong máu. Đó là một thông điệp mà BS James Lane thuộc đại học Duke ( Durham, Caroline du Nord, Hoa Kỳ) đă gởi đến cho các bệnh nhân đái đường loại 2 ( đái đường không phụ thuộc vào insuline, hay đái đường béo). Các bệnh nhân thuộc loại đái đường này đông nhất (85% các trường hợp). Bằng một loạt các xét nghiệm khá phức tạp (đường huyết, insuline…) được thực hiện nơi 14 người bị bệnh đái đường béo ( 11 đàn ông, 3 phụ nữ), công tŕnh nghiên cứu của ông đă chứng tỏ rằng sự hấp thụ caféine làm gia tăng nồng độ glucose trong máu, 9% sau bữa ăn sáng, 15% sau bữa ăn trưa và 26% sau bữa ăn chiều. Nguyên nhân chính xác vẫn không được biết tới.
(PARIS MATCH 13/3-19/3/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 75 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH (2/5/2008)

10/ MỘT ÍT CÀ PHÊ CHỐNG LẠI BỆNH AZHEIMER

Những nồng độ cao cholestérol và những rối loạn của hàng rào huyết-năo (barrière hémato-encéphalique) có liên quan trong bệnh sinh của bệnh Alzheimer. Bằng cách dùng các con thỏ được nuôi dưỡng theo một chế độ ăn uống giàu cholestérol (2%), K.Chen và các cộng sự viên đă kiểm chứng giả thuyết về một tác dụng bảo vệ của việc uống cà phê kinh niên (3mg mỗi ngày được đưa vào trong nước uống trong 12 tuần). Các nhà nghiên cứu đă nhận thấy rằng lượng tương đương với một ly cà phê mỗi ngày bảo vệ barrière hémato-céphalique chống lại những tổn hại gây nên bởi một chế độ ăn uống giàu chất mỡ. Thật vậy caféine dường như phong bế một vài trong những tác dụng làm rối loạn của cholestérol làm dễ vỡ barrière hémato-encéphalique. Các kết quả này xác nhận những dữ kiện trước đây chứng tỏ rằng caféine ngăn ngừa chứng mất trí nhớ trong tuổi già và trong bệnh Alzheimer. Đối với các tác giả caféine là một chất công hiệu và dễ có và khả năng làm ổn định barrière hémato-encéphalique làm cho caféine có một vài tṛ quan trọng trong điều trị các rối loạn thần kinh.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 29/4/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 76 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH (10/5/2008)

10/ CÀ PHÊ KHÔNG CÓ TÁC DỤNG LÊN NHỊP TIM.

Nhiều bệnh nhân cho rằng cảm thấy hồi hộp khi uống quá nhiều cà phê. Tác dụng của caféine lên tỷ lệ rối loạn nhịp tim đă được thăm ḍ qua một công tŕnh nghiên cứu viễn cảnh của Đan mạch, được thực hiện bởi Frost và các cộng sự viên trên 48.000 người. Sau khi uống những lượng quan trọng caféine (997 mg caféine mỗi ngày), không có một tác dụng nào đă được quan sát cả. Một công tŕnh nghiên cứu viễn cảnh khác của Hoa Kỳ, được thực hiện bởi Klatsky và các cộng sự viên, đă theo dơi trong 8 năm 129.000 người và đă không thể xác lập được mối liên hệ giữa sự tiêu thụ cà phê và việc xảy ra tử vong do các rối loạn nhịp tim. Cũng vậy không có một tương quan nào thuộc loại này được phát hiện qua các nghiên cứu trong đó caféine được tiêu thụ với các liều lượng lên đến 450 mg mỗi ngày. Cũng có vẻ như là cà phê không ảnh hưởng loại hoặc tần số các rối loạn nhịp tim. Trái lại, việc hạn chế tiêu thụ cà phê không chứng tỏ tác dụng lên tim đập nhanh thất (tachycardie ventriculaire).
Nguồn : LE MAGAZINE DES GLEMS 4/2008

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 77 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH (17/5/2008)

6/ CÀ PHÊ KHÔNG ẢNH HƯỞNG LÊN TRÁI TIM BỊ BỆNH

Trong các nước công nghiệp hóa, các bệnh tim mạch là một trong những nguyên nhân chính của tử vong. Các công tŕnh nghiên cứu khác nhau đă được tiến hành để t́m mối liên hệ giữa việc tiêu thụ cà phê và sự phát triển của các bệnh tim mạch. Sự liên hệ của cà phê trong việc xuất hiện các bệnh lư này đă không có thể được chứng minh, ngay cả bởi các công tŕnh nghiên cứu quy mô lớn. Ngoài ra, tiên lượng sau nhồi máu cơ tim đă không bị ảnh hưởng bởi việc tiêu thụ cà phê.Về mặt lâu dài, các nghiên cứu viễn cảnh cũng đă không chứng tỏ được sự liên hệ giữa caféine và các bệnh tim mạch. C̣n về vai tṛ bảo vệ của cà phê th́ như thế nào? Năm 2006, một công tŕnh nghiên cứu của Women’s Health Study, được tiến hành trên hơn 41.000 phụ nữ tiêu thụ cà phê, đă kết luận rằng nguy cơ tử vong nơi những người tiêu thụ cà phê là thấp hơn so với những người không tiêu thụ. Hiệu quả có lợi này có thể là do một tác dụng chống oxy hóa của một vài thành phần trong cà phê, làm kềm hăm quá tŕnh viêm và như thế làm giảm các nguy cơ tim mạch. Một công tŕnh nghiên cứu Thụy Điển được thực hiện trên 7.500 đàn ông đă t́m thấy lại những nguy cơ được biết rơ của suy tim : tuổi tác, bệnh sử gia đ́nh nhồi máu cơ tim, bệnh đái đường, các cơn đau ngực, chứng nghiện thuốc lá, lạm dụng rượu, chỉ số khối lượng cơ thể (BMI : body mass index) cao và cao huyết áp. Cà phê được nhận thấy liên kết đồng thời với một nguy cơ thấp bị bệnh đái đường và một nguy cơ thấp tử vong do nguyên nhân tim mạch nơi một người bị bệnh đái đường. Ngoài ra, một công tŕnh được thực hiện năm 2006 đă cho thấy rằng việc cho caféine nơi những bệnh nhân bị suy tim làm gia tăng sự chịu đựng của họ đối với sự gắng sức.
LE MAGAZINE DES GLEMS (4/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 78 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH (25/5/2008)

5/ CÀ PHÊ KHỔNG LÀM TĂNG CAO HUYẾT ÁP

Về mặt nhất thời, cà phê gây nên một cao huyết áp nhẹ. Tác dụng này thấy rơ ngay sau khi uống cà phê và có thể so sánh với tác dụng của nhiều t́nh huống thông thường của đời sống hàng ngày. Trái lại, các nghiên cứu đă chứng tỏ rằng về lâu về dài, cà phê không ảnh hưởng (hoặc ít) lên huyết áp. Các kết quả của một phân tích méta 16 công tŕnh nghiên cứu so sánh tác dụng của cà phê và tác dụng của caféine, đă chứng tỏ rằng caféine gây nên cao huyết áp động mạch quan trọng hơn cà phê. Từ các công tŕnh nghiên cứu này người ta suy ra rằng tác dụng của caféine rất có thể được bù trừ bởi những thành phần khác của cà phê như potassium, magnésium hay các polyphénols. Những công tŕnh nghiên cứu khác c̣n đưa đến kết luận rằng cà phê không có tác dụng hoặc có tác dụng rất thu hẹp lên huyết áp. Vậy, một sự tiêu thụ b́nh thường cà phê không gây nên vấn đề về huyết áp: không cần thiết phải áp đặt những hạn chế lên bệnh nhân cao huyết áp tiêu thụ cà phê một cách b́nh thường. Mặc dầu vậy vẫn khôn ngoan khuyên những người thái quá nên uống cà phê có chừng mực.
Nguồn : LE MAGZINE DES GLEMS (4/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 81 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 13/6/2008 )

2/ CÀ PHÊ, TRÀ VÀ NGUY CƠ BỊ UNG THƯ VÚ

Ganmaa và các cộng sự viên ( Hoa Kỳ) đă thu góp các dữ kiện liên quan đến 86.000 phụ nữ đă tham gia vào công tŕnh nghiên cứu Nurses’ Health Study về sự tiêu thụ cà phê, trà và caféine. Các người tham gia ở trong lứa tuổi 30 đến 55 vào lúc khởi đầu công tŕnh nghiên cứu. Suốt trong 22 năm theo dơi, 5.272 phụ nữ trong số những người tham gia, đă phát triển một ung thư vú. Sau khi điều chỉnh về các yếu tố khác nhau khả dĩ ảnh hưởng lên các kết quả (tuổi tác, chứng nghiện thuốc lá, thể dục, các tiền sử gia đ́nh ung thư vú, t́nh trạng măn kinh, các tiền sử về điều trị bằng hormone, số con có đuợc), các nhà nghiên cứu đă không nhận thấy rằng nguy cơ bị ung thư vú nơi các phụ nữ uống ít nhất 4 tách cà phê hay trà mỗi ngày là cao hơn so với các phụ nữ chỉ uống mỗi tách mỗi ngày.
(LE JOURNAL DU MEDECIN (6/6/2008 )

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 84 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 09/07/2008 )

10/ CAFEINE CHỐNG UNG THƯ DA

Sự tiêu thụ caféine trong một đến hai tuần làm gia tăng hiện tượng chết được chương tŕnh hóa (apoptose hay mort programmée) của các tế bào biểu b́ bị biến đổi do tiếp xúc với các tia tử ngoại B và làm giảm nguy cơ biến đổi thành ung thư của chúng. Những dữ kiện này có được nơi loài gậm nhấm với các liều lượng caféine tương đương 3 đến 5 tách cà phê mỗi ngày. Các dữ kiện này xác minh những quan sát dịch tễ học cho thấy rằng những người uống cà phê hay trà bị ung thư da ít hơn so với phần dân chúng c̣n lại.
(SCIENCES ET AVENIR 7/2008).

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 85 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 18/7/2008 )

7/ CAFEINE LÀM DỊU BỚT BỆNH XƠ CỨNG RẢI RÁC

Các nồng độ cao cà phê bảo vệ chuột chống lại bệnh thần kinh thường xảy ra nhất của các người trưởng thành trẻ tuổi. Là chất có hoạt tính dược lư được tiêu thụ nhiều nhất, caféine hiện diện trong nhiều thức ăn như cà phê, trà, soda hay chocolat. Các công tŕnh nghiên cứu về tác dụng của caféine lên sức khỏe không ngừng gia tăng, phát hiện lần lượt những tính chất có lợi và có hại của caféine. Công tŕnh nghiên cứu mới nhất gợi ư rằng caféine với liều lượng cao, bảo vệ chống lại bệnh xơ cứng rải rác (sclérose en plaques).

Được công bố on line trong Annales de l’académie américaine des sciences, công tŕnh nghiên cứu này đă được thực hiện trên loài chuột.

Các nhà nghiên cứu của Oklahoma Medical Research Foundation, cộng tác với Đại Học Cornell ( Nữu Ước) và Đại Học Turku ( Phần Lan), đă khám phá ra rằng 6 đến 8 tách cà phê mỗi ngày bảo vệ các động vật gặm nhấm này chống lại bệnh viêm năo tủy tự miễn dịch thực nghiệm (encéphalomyélite auto-immune expérimentale). Đây là bệnh xơ cứng rải rác trên động vật dùng làm thí nghiệm. Nhờ đâu caféine có được tính chất này? Caféine ngăn cản adénosine phát khởi một loạt các phản ứng dẫn đến bệnh viêm năo tủy tự miễn dịch thực nghiệm. Adénosine là một trong 4 phần tử cấu tạo ADN. Rất thông thường nơi cơ thể con người, adénosine đặc biệt đóng một vài tṛ chủ yếu trong quá tŕnh sinh hóa của giấc ngủ, của sự thức tỉnh và sự chuyển năng lượng. Trong công tŕnh nghiên cứu này, caféine có tác dụng phong bế sự liên kết giữa adénosine và một trong các thụ thể (récepteur) của nó. Kết quả : vài tế bào lympho T (các bạch cầu đóng một vài tṛ chủ chốt trong đáp ứng miễn dịch) không thể đến được hệ thần kinh trung ương và do đó làm phát khởi những phản ứng dẫn đến một bệnh tương đương với xơ cứng rải rác ở loài chuột.

“ĐÁNG NGẠC NHIÊN VÀ ĐẦY PHẤN KHỞI”

“Đó là một khám phá gây hứng khởi và hoàn toàn đáng ngạc nhiên ”, Linda Thompson, thầy thuốc chuyên khoa ung thư, một trong các tác giả của công tŕnh này đă đánh giá như vậy. Nhưng mặc dầu các kết quả này tỏ ra đầy hứa hẹn, tuy vậy một con chuột không phải là một con người! Những nghiên cứu quan trọng c̣n cần phải được thực hiện để xem caféine có cùng tác dụng lên cơ thể con người hay không. Phải bắt đầu bằng một nghiên cứu nh́n về quá khứ : vạch lại các thói quen của những người tiêu thụ cà phê và tác dụng của caféine trên các triệu chứng của những người bị bệnh xơ cứng rải rác. “Nếu một công tŕnh nghiên cứu như thế phát hiện mộ
( LE SOIR 2/7/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 86 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH (24/7/2008)

8/ CÀ PHÊ VÀ CHOLESTEROL

Cà phê bị gán cho một vai tṛ trong việc làm gia tăng nồng độ của cholestérol. Cần phải uyển chuyển hơn điều khẳng định này và xác định rơ rằng điều đó tùy thuộc vào cách pha chế. Hai diterpène hiện diện trong dầu cà phê (huile de café), cafestol và kahweol, có thể là nguyên nhân của sự gia tăng này. Nhiều công tŕnh nghiên cứu đă cho thấy rằng sự tiêu thụ cafestol hàng ngày làm gia tăng nồng độ cholestérol trong máu, nhưng sự gia tăng này ít hơn trong trường hợp tiêu thụ lâu dài. Do đó những công tŕnh nghiên cứu ngắn hạn có thể dẫn đến việc đánh giá quá cao về tác động của cà phê lên nồng độ của cholestérol. Về kahweol, vai tṛ của nó trong hiện tượng này không được rơ ràng lắm. Sự liên kết của cafestol với kahweol có tác động lên nồng độ cholestérol hơn là kahweol đơn độc .

Một cà phê, trong đó bột cà phê được cho tiếp xúc lâu dài với nước sôi và không được lọc (như trong trường hợp cà phê Thổ hay Hy lạp), chứa những diterpènes này với nồng độ cao, trái với cà phê được lọc hay một “espresso”. Vậy v́ lư do thận trọng, đối với những bệnh nhân bị cao huyết áp và tăng cholestérol-huyết, tốt hơn là nên tránh những cách pha chế đầu và theo cách pha chế sau.
(LE MAGAZINE DES GLEMS 4/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 87 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH (1/8/2008)

4/ TÁC DỤNG CỦA CÀ PHÊ LÊN HỆ TIÊU HÓA

Cà phê luôn luôn mang lại hạnh phúc cho những người ham thích thứ nước uống này. Trong quá khứ người ta loại trừ cà phê ra khỏi chế độ ăn uống của bệnh nhân bị bệnh loét dạ dày. Nhưng chúng ta có thể tự hỏi là thật sự có một sự liên hệ giữa việc tiêu thụ cà phê và sự làm dịu bớt hay làm nặng thêm những rối loạn dạ dày hay không.

Trong quá khứ, người ta rất thường đưa cà phê vào trong những hạn chế của chế độ ăn uống liên quan với những bệnh của hệ tiêu hóa. Sau đó người ta đă nhận thức rằng tất cả điều đó không có ǵ là đúng cả, dầu cho đó là những rối loạn đường ruột, những rối loạn dạ dày và ngay cả những vấn đề hồi lưu (reflux) và khó tiêu (dyspepsie).

TIÊU CHẢY VÀ ĐẠI TRÀNG DỄ BI KÍCH THÍCH : MỘT SỰ MIỄN TỐ

Các kết quả của một công tŕnh nghiên cứu được thực hiện bởi Brown và các cộng sự viên trên 99 người, về mối liên hệ giữa việc uống nhiều loại đồ uống khác nhau, nhất là cà phê và số lần đại tiện, đă phát hiện nơi 1/3 những người này, một sự cải thiện chuyển động tiêu hóa của ruột. Nơi những người đáp ứng, một hiệu quả có lợi của cà phê lên tính vận động của ruột già đă có thể được chứng tỏ bằng những đo lường động lực. Rao và các cộng sự viên đă quan sát thấy rằng cà phê không có caféine, cũng như cà phê b́nh thường, kích thích sự vận động của ruột già nhưng hiệu quả của cà phê b́nh thường là rơ ràng hơn hiệu quả của cà phê không có caféine. Công tŕnh nghiên cứu này cũng đă chứng tỏ rằng hiệu quả dương tính của cà phê là 60% quan trọng hơn, so với việc chỉ uống nước mà thôi. Nhiều công tŕnh nghiên cứu khoa học đă thường báo cáo rằng cà phê có một tác dụng kích thích lên hoạt động của ruột già nơi một vài bệnh nhân.Trong số các công tŕnh nghiên cứu này, một sự xem xét lại vấn đề do Dapoigny và các cộng sự viên thực hiện, đă gợi ư rằng cà phê, b́nh thường hay không có caféine, có thể liên kết với những trường hợp ỉa chảy. Do kích thích hoạt động vận động của ruột già và trực tràng. Nhưng trong nhiều công tŕnh nghiên cứu, không một tác dụng nào của cà phê đă có thể được phát hiện lên các biểu hiện của chứng đại tràng co thắt (colon spastique) hay lên trên sự xuất hiện của một bệnh viêm ruột già loét (colite ulcéreuse).

THỦ PHẠM, ĐÓ LÀ HELICOBACTER PYLORI

Các quan niệm liên quan đến sinh lư bệnh lư của các bệnh thực quản và dạ dày đă tiến triển nhiều trong những thập niên vừa qua. Ngày nay, chúng ta biết rằng một nhiễm trùng bởi Helicobacter pylori là nguyên nhân của phần lớn các loét dạ dày và rằng một sự tiếp xúc quá độ với độ chua của dạ dày chịu trách nhiệm loét thực quản và tá tràng. Cà phê có một vai tṛ nào đó trong các rối loạn này hay không ? Một công tŕnh nghiên cứu được thực hiện bởi Gikas và các cộng sự viên kết luận rằng cà phê dường như không có một tác dụng nào lên Helicobacter pylori. Cũng không có một tương quan nào được xác lập giữa việc tiêu thụ cà phê và sự phát triển một loét dạ dày, một công tŕnh nghiên cứu khác của Đan Mạch đă kết luận như thế. Những nghiên cứu khác đă gợi ư rằng nguy cơ là do những yếu tố khác với chính bản thân cà phê, đặc biệt là sự hiện diện của đường trong cà phê và sự gia tăng thể trọng. Các nhà nghiên cứu đă phát hiện rằng cà phê làm gia tăng tính thẩm thấu của niêm mạc dạ dày và dường như cà phê làm gia tốc sự tống xuất của dạ dày (vidange gastrique), nhưng tác dụng này thay đổi tùy theo người. Về những thương tổn tá tràng, cà phê cũng như các đồ uống có caféine dường như không có vai tṛ trong các bệnh lư này.

ĐAU VÀ VỊ CHUA

Vài người sau khi uống một tách cà phê đă ghi nhận bị ựa chua. Trên lư thuyết, cũng như các đồ uống chua, cà phê với pH thay đổi từ 5 đến 6, dường như đúng là gây nên tác dụng này. Do đó, nhiều công tŕnh nghiên cứu đă được thực hiện để cố gắng phát hiện sự hiện diện của một mối liên kết như vậy. Có lẽ có một mối liên kết nhưng nhiều lư lẽ có khuynh hướng xác nhận rằng caféine không chịu trách nhiệm về hiện tượng này mà chính do những chất khác chứa trong cà phê. Mặt khác một công tŕnh nghiên cứu của Ḥa Lan đă kết luận rằng cà phê không có tác dụng quan trọng lên sự trào ngược (reflux) nơi những người vốn đă bị mắc phải chứng bệnh này và không có tác dụng chút nào lên những người lành mạnh, và rằng tác dụng của cà phê ít quan trọng hơn tác dụng của một bữa ăn lên hiện tượng này. Một công tŕnh nghiên cứu khác, được thực hiện ở Na Uy, đă không chứng tỏ mối liên hệ giữa nguy cơ hồi lưu dạ dày-thực quản (reflux gastro-oesophagien) và việc tiêu thụ cà phê.

Mới đây thôi, một công tŕnh nghiên cứu của Thụy Điển đă cho thấy rằng sau khi điều chỉnh những yếu tố nguy cơ chính gây nên trào ngược dạ dày-thực quản (chỉ số khối lượng cơ thể, chứng nghiện thuốc lá và sự nhàn rổi không hoạt động) th́ sự liên hệ giữa việc tiêu thụ cà phê và những vấn đề hồi lưu biến mất. Công tŕnh nghiên cứu này cũng đă cho thấy rằng những người tiêu thụ nhiều cà phê (hơn 7 tách mỗi ngày) có ít nguy cơ phát triển hồi lưu dạ dày-thực quản hơn những người khác, ngay cả sau khi đă điều chỉnh những yếu tố nguy cơ. Và sau cùng, cà phê thường được quy cho là nguyên nhân của những vấn đề khó tiêu (dyspepsie) nhưng các công tŕnh nghiên cứu đă không thể phát hiện mối liên hệ nhân quả giữa việc tiêu thụ cà phê và sự xuất hiện nhưng rối loạn khó tiêu này.
LE MAGAZINE DES GLEMS (4/2008)

florida80
05-12-2019, 13:55
THÔNG TIN Y HỌC VỀ SỬ DỤNG MUỐI ĂN
Lynn Ly tổng hợp thông tin về Sử Dụng Muối Ăn
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh


https://i.imgur.com/YwQ39O0.gif

MUỐI VÀ NGUY CƠ TIM MẠCH

Nếu giảm ăn muối làm giảm nguy cơ bị cao huyết áp và cao huyết áp có thể dẫn đến bệnh tim, thế th́ ăn ít muối có cải thiện sức khỏe tim của chúng ta hay không?

Một công tŕnh nghiên cứu được công bố online trong The British Medical Journal, theo dơi 2 nhóm người trong hơn 1 thập niên sau khi những người này được yêu cầu giảm ăn muối trong 48 tháng. Có hơn 3000 người tham dự, từ 30 đến 50 tuổi, và tất cả đều nằm trong t́nh trạng có nguy cơ đặc biệt gây cao huyết áp.

Hai nhà nghiên cứu,được lănh đạo bởi Nancy Cook thuộc Brigham and Women’s Hospital, đă nhận thấy rằng những người đă giảm nhiều lượng muối ăn vào th́ có nguy cơ bị bệnh tim mạch giảm 20%. Nguy cơ tử vong của họ cũng được giảm đến 1/5.

Những nghiên cứu trước đây đă nhận thấy rằng ăn ít muối trong khẩu phần liên kết với huyết áp thấp hơn, nhưng các nhà nghiên cứu đă nới rằng để xác định điều này có ư nghĩa như thế nào đối với bệnh tim là điều khó hơn.
(INTERNATIONAL HERALD TRIBUNE 3/5/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 72 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 11/4/2008 )

6/ MUỐI : KỂ THÙ LỚN CỦA UNG THƯ DẠ DÀY

Ung thư dạ dày : 870.000 trường hợp mới mỗi năm trên thế giới. 7000 trường hợp mới ở Pháp. Ở Pháp, tỷ lệ tử vong của ung thư dạ dày đă được chia 4 từ năm 1950, và tỷ lệ mắc bệnh này cũng thụt lùi rơ rệt. Nhiều thủ phạm đă được nhận diện, như việc tiêu thụ nhiều muối, ăn các thức ăn được hun khói hay ngâm nước muối. Việc giảm rơ rệt tỷ lệ mắc phải ung thư dạ dày, một phần, thường được gán cho sự xuất hiện của tủ lạnh, đă làm cho việc hun khói (fumage) và ướp muối (salage) để bảo quản thức ăn trở thành vô ích. Ở Nhật Bản, nơi cá sống và rau ngâm muối rất được tiêu thụ, nên tỷ lệ ung thư dạ dày vẫn cao. Dẫu sao, mối liên hệ giữa ung thư dạ dày với việc tiêu thụ quá nhiều muối là không c̣n nghi ngờ ǵ nữa. Người ta đă có thể ước tính rằng nguy cơ bị ung thư dạ dày được nhân lên 1,5 đến 6,2 lần đối với những người tiêu thụ quá nhiều muối. Mặc dầu nước muối đă không c̣n được dùng nữa, nhưng đôi khi vẫn khó có thể thoát khỏi NaCl, được chứa trong nhiều thức ăn ( các món ăn được nấu...) Và các thịt rất mặn như thịt lợn nhân gấp đôi nguy cơ bị ung thư dạ dày. Ở Pháp, mặc dầu mức độ trung b́nh tiêu thụ muối đă giảm 5% trong 6 năm, nhưng sự tiêu thụ vẫn c̣n cao : gần 8g mỗi ngày, trong khi lượng muối được khuyến nghị là 5g.

Về mặt pḥng ngừa, người ta biết rằng các trái cây ( tất cả nhưng đặc biệt là cam quưt) và các loại rau (tất cả nhưng tốt hơn là tỏi tây, hành) đều có một tác dụng bảo vệ. Trong những năm qua, vai tṛ của một vi khuẩn, Helicobacter pylori, cũng đă được nhận diện. “ Không có vi khuẩn, không có ung thư ”, Groupe d’études françaises des Helicobacter (GEFH) đă xác nhận như thế, bởi v́ ung thư chỉ phát triển với sự hiện diện của vi khuẩn này. Một trị liệu bằng kháng sinh đơn giản và nhanh chóng trong ṿng 7 ngày cho phép làm biến mất vi khuẩn Helicobacter. GEFH chủ trương thực hiện các sinh thiết một cách có hệ thống trong khi thực hiện nội soi dạ dày và không chỉ, như những khuyến nghị chính thức chủ trương, nơi những người được gọi là có nguy cơ bởi v́ có một tiền sử gia đ́nh.
(SCIENCES ET AVENIR 4/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 170 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 19/4/2010 )

6/ CHẾ ĐỘ ĂN UỐNG : QUÁ NHIỀU MUỐI.

Vào năm 2008, Pierre Meneton, nhà nhiên cứu của Inserm, đánh giá rằng sự tiêu thụ muối ở Pháp (đạt 10 đến 12 g mỗi người và mỗi ngày) là 3 hay 4 lần cao hơn nhu cầu, và chịu trách nhiệm mỗi năm ít nhất 75.000 tai biến tim mạch. Theo ông, sự thặng dư chủ yếu được liên kết với muối được chứa trong các sản phẩm chế biến kỹ nghệ. New England Journal of Medicine vừa công bố những công tŕnh của các nhà dịch tễ học thuộc 3 đại học lớn của Hoa Kỳ (San Francisco, Stanford và Columbia), đưa đến cùng kết luận. Các nhà nghiên cứu đă lấy lại một mô h́nh các tính toán thống kê, cho phép những dự đoán đáng tin cậy trong lănh vực tim mạch. Nơi các người Mỹ, tiêu thụ cùng lượng muối như các người Pháp, một sự giảm bớt 3 g mỗi ngày cho phép mỗi năm làm giảm số các trường hợp mới các bệnh động mạch vành 60.000, các tai biến mạch máu năo 120.000, các nhồi máu cơ tim từ 99.000 đến 54.000. Với mỗi gam muối bớt đi mỗi ngày, lợi ích được chia ba.
(PARIS MATCH 1/4-7/4/2010)

florida80
05-12-2019, 13:56
GIẢM DÙNG MUỐI GIÚP NHIỀU CHO TIM


https://i.imgur.com/pq5esre.gif



Một cuộc nghiên cứu mới đây tại Hoa Kỳ dùng mô h́nh máy tính để tiên đoán việc giảm bớt 3 gram muối mỗi ngày có thể ảnh hưởng đến tim như thế nào. Kết quả là bệnh tim giảm được 13%.

Giảm bớt muối cũng dẫn đến giảm 8% các chứng tai biến mạch máu năo và giảm bớt 4% con số tử vong. Cuộc nghiên cứu cũng tiên đoán là các trường hợp bị bệnh tim sẽ giảm bớt 11%, và tiết kiệm được 240 tỉ đô la tiền chăm sóc sức khỏe.

Tạp chí The New England Journal of Medicine công bố một phúc tŕnh về cuộc nghiên cứu này. Biên tập viên chính của bản phúc tŕnh là bà Kirsten Bibbins-Domingo thuộc trường đại học California tại San Francisco. Bà Domingo nói không ai nhận ra được sự khác biệt về khẩu vị nếu ăn ít hơn 3 gram muối mỗi ngày.

Mỗi gram muối chứa 400 miligram chất sodium. Chính phủ liên bang Mỹ cho biết là một người Mỹ trung b́nh tiêu thụ mỗi ngày 10 gram muối.

Tuy nhiên Hiệp hội Tim Hoa Kỳ khuyến cáo là một người khỏe mạnh không nên tiêu thụ nhiều hơn 3 gram muối. Hiệp hội này cho biết thêm là muối trong khẩu phần của người Mỹ đă gia tăng 50% kể từ những năm 1970 trong khi huyết áp cao cũng tăng. Tiêu thụ ít muối có nghĩa là giảm được huyết áp.

Thị trưởng New York Michael Bloomberg đang dẫn đầu chương tŕnh giảm muối, được phổ biến trên cả nước Mỹ. Nguyên tắc cơ bản của chương tŕnh này là làm áp lực lên những công ty thực phẩm và những nhà hàng.

Tuy nhiên nhiều người cho rằng chương tŕnh này một sự can thiệp của chính quyền vào đời tư của người dân.

Nhưng Thị trưởng Bloomberg đă thành công trong những lănh vực khác, như yêu cầu các cửa hàng bán thức ăn nhanh trong thành phố của ông phải công khai hóa những thông tin về calori trên các món ăn.


Quote:
Lynn Ly chú Thích (05 March 2010)

Đọc thông tin này ... th́ thấy rơ ràng là các công tŕnh nghiên cứu khoa học nào cũng cần có tiền trợ cấp ... Một khi 1 công tŕnh nghiên cứu khoa học tuyên bố 1 thông tin ǵ có ảnh hưởng đến thu nhập của 1 tài phiệt kinh tế nào đó ... th́ sẽ có liền những công tŕnh nghiên cứu khác được h́nh thành ... để khẳng định lại hoặc phản bác lại ... Đây cũng là 1 điểm tốt ... v́ có nhiều ư kiến khác nhau , nhiều hướng nh́n khác nhau ... và cách thức áp dụng khoa học cho ra kết quả minh chứng khác biệt . Tuy nhiên điều bất di bất dịch là từng cá thể con người phải biết thu gom và áp dụng thông tin dựa vào sự phản hồi của cơ thể cá nhân đó , sự phản hồi của cơ thể là câu trả lời đứng đắn nhất để dựa vào đó quyết định nên làm ra sao, nên tiếp tục hay ngưng lại ... Cho nên số lượng sử dụng muối thế nào là nhiều thế nào là ít, thế nào là tốt / xấu th́ tùy thuộc vào đ̣i hỏi cơ thể của từng cá nhân . Lời phát biểu của bác sĩ David McCarron mà chị Lynn tô đỏ ... ông nói rất hợp ư (chị) Lynn !!!




TIẾP TỤC TRANH CĂI VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA MUỐI ĐỐI VỚI SỨC KHỎE


Theo VoaNews - Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ , Caty Weaver - Washington DC
Thứ Tư, 03 tháng 3 2010

Một số công tŕnh nghiên cứu cho rằng bớt ăn muối có lợi cho sức khỏe . Bác sĩ Michael Alderman nói rằng giảm bớt lượng muối tiêu thụ có thể có hiệu quả tốt, nhưng cũng có thể có hại và chưa có đủ bằng chứng về những lợi hại của nó .

Các nhà khoa học không chắc liệu giảm bớt muối có làm giảm bớt bệnh tim mạch không. Trong một bài trước đây, chúng tôi có tường tŕnh về một cuộc nghiên cứu cho thấy chỉ cần bớt ăn một chút muối mỗi ngày, chúng ta cũng giúp ích rất nhiều cho trái tim. Kết quả nghiên cứu được đăng trên tập san y học New England Journal of Medicine. Các nhà khoa học sử dụng một mô h́nh máy tính để cho thấy chỉ cần bớt ăn 3 gram muối mỗi ngày cũng ảnh hưởng đến các ca mắc bệnh tim tại Hoa Kỳ. Các nhà khoa học nói rằng kết quả sẽ giảm được 13% ca nhồi máu cơ tim, 8% ca tai biến mạch máu năo, 4% số người chết, 11% các ca tim mạch mới. Quy ra tiền, sẽ tiết kiệm được 240 tỉ đôla chăm sóc sức khỏe. Quy ra con số, sẽ ngăn được 100.000 ca nhồi máu cơ tim và 92.000 ca tử vong mỗi năm. Các nhà nghiên cứu này thuộc các trường đại học San Francisco, Stanford, và Columbia. Họ đang chuẩn bị thực hiện một chiến dịch trên toàn nước Mỹ nhằm thuyết phục mọi người sử dụng bớt muối. Ba nước Anh, Nhật và Phần Lan cũng đă mở chiến dịch như vậy.

Tuy nhiên, một số nhà khoa học nói rằng một chiến dịch như vậy là một cuộc thí nghiệm quan trọng, ảnh hưởng đến hàng triệu người, do đó cần phải cẩn thận. Bác sĩ Michael Alderman chuyên viên về cao máu đang dạy tại trường y khoa Albert Einstein ở New York. Ông đồng ư ăn bớt muối sẽ giúp ích cho những người bị cao máu, nhưng ông nói cuộc nghiên cứu chưa cho thấy rơ ràng giảm bớt muối sẽ làm giảm bớt các ca nhồi máu cơ tim hoặc tai biến mạch máu năo. Ông c̣n cho rằng muối có những ảnh hưởng sinh học khác. Giảm bớt lượng muối tiêu thụ có thể có hiệu quả tốt, nhưng nó cũng có thể có hại và chưa có đủ bằng chứng thuyết phục về tất cả những lợi hại của nó.

Một người khác là bác sĩ David McCarron, chuyên khoa về bệnh thận và dinh dưỡng. Ông và nhóm của ông đă khảo sát cách ăn uống của rất nhiều người tại 33 quốc gia và nhận thấy hầu hết những người trên khắp thế giới ăn cùng số lượng muối y như nhau. Hầu hết trong số này lại c̣n ăn nhiều muối hơn là số lượng mà các giới chức y tế của Mỹ khuyến cáo. Bác sĩ McCarron nói sự tương đồng trên khắp thế giới gợi ư cho thấy bộ óc của con người có thể sẽ quyết định số lượng muối nên ăn.

Cả hai bác sĩ McCarron và Alderman đều cộng tác với Viện Muối, một tổ chức của các nhà sản xuất muối Hoa Kỳ. Bác sĩ Alderman làm tư vấn cho viện này nhưng ông nói không lănh lương của viện. C̣n bác sĩ McCarron có nhận thù lao cho những đóng góp các ư kiến khoa học cho viện.

florida80
05-12-2019, 14:01
THÔNG TIN Y HỌC VỀ HUYẾT KHỐI
(BLOOD CLOT / THROMBUS)


https://i.imgur.com/JcOqjdm.gif



THỜI SỰ Y HỌC SỐ 19 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (20/3/2007)

3/ COI CHỪNG CHỨNG HUYẾT KHỐI

Các nhân viên văn pḥng ngồi hàng giờ bất động trong văn pḥng có khuynh hướng bị huyết khối (thrombose : sự tạo thành cục máu đông trong huyết quản) hơn là các hành khách của những chuyến bay đường dài.Đó là kết quả của một nghiên cứu Tân Tây Lan,được tiến hành bởi giáo sư Richard Biesley thuộc Viện Nghiên Cứu Y Học Wellington.Công tŕnh nghiên cứu cho thấy rằng 1/3 các trường hợp bệnh nhân nhập viên vi huyết khối là những nhân viên văn pḥng ngồi hàng giờ trước các computer của họ. 34% trong số 62 người đối tượng của công tŕnh nghiên cứu nằm trong t́nh trạng này trong khi đó 21% các bệnh nhân mới đây đă dùng những chuyến bay đường dài,tờ báo New Zealand Herald xác định như thế.Một vài nhân viên là nạn nhân của chứng huyết khối đă ngồi đến 14 giờ trong một ngày trước các computer của họ.
(METRO 15/3/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 27 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (20/5/2007)

8/ TÁC DỤNG BẢO VỆ CỦA ASPIRINE.

Dùng aspirine với liều lượng nhỏ cải thiện rất rơ rệt khả năng sống sót sau một nhồi máu cơ tim và một tai biến mạch máu năo. Thật vậy, được cho trong giai đoạn cấp tính của một nhồi máu cơ tim, th́ cứ mỗi 1000 bệnh nhân được điều trị trong tháng đầu tiên của trị liệu, aspirine sẽ ngăn ngừa 38 trường hợp tai biến mạch máu và 23 trường hợp tử vong có nguồn gốc huyết quản. Đối với các tai biến mạch máu năo, th́ cứ mỗi 1000 bệnh nhân được điều trị, aspirine được cho ở giai đoạn cấp tính sẽ ngăn ngừa 9 tai biến mạch máu nghiêm trọng. Do đó, aspirine phải được cho nơi mỗi bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim và tai biến mạch máu năo là điều rất hợp lư.

Nhưng chỉ định của aspirine không chỉ có thế mà thôi, bởi v́ aspirine cũng có tác dụng pḥng ngừa thứ cấp các huyết khối (thrombose). Được sử dụng cho 1000 bệnh nhân có tiền sử nhồi máu cơ tim hoặc tai biến mạch máu năo, aspirine trung b́nh ngăn ngừa từ 15 đến 18 trường hợp huyết khối tái phát mỗi năm. Đối với những bệnh nhân có nguy cơ cao như cơn đau thắt ngực, tiền sử angioplastie, thấm tách máu (hémodialyse), đái đường, hẹp động mạch cổ (sténose carotidienne), aspirine cũng có lợi ích tương tự (ngăn ngừa hơn 10 tai biến cho mỗi 1000 bệnh nhân được điều trị trong 1 năm).

Sau cùng, aspirine cũng có thể được sử dụng trước khi huyết khối động mạch xảy ra, trên những bệnh nhân không có tiền sử huyết khối (pḥng ngừa nguyên phát).

6 công tŕnh nghiên cứu rộng răi đă đánh giá các lợi ích và các nguy cơ khi điều trị pḥng ngừa bằng aspirine. Tất cả các nghiên cứu này đă chứng tỏ rơ ràng rằng những lợi ích của việc dùng aspirine và sự giảm nguy cơ bị huyết khối càng quan trọng khi bệnh nhân càng kiêm nhiệm nhiều yếu tố nguy cơ. Tuy nhiên, quyết định điều trị nguyên phát bằng aspirine phải dựa trên sự tính toán hơn thua giữa các lợi ích của điều trị và các biến chứng có thể xảy ra do phép điều trị này.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 4/5/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 29 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (4/6/2007)

2/ LOCKED-IN SYNDROME THƯỜNG ĐƯỢC CHẨN ĐOÁN QUÁ CHẬM

Hợp chứng cài chốt (syndrome de verrouillage) đă được nổi tiếng qua cuốn «Le Scaphandre et le Papillon», được viết bởi Jean-Dominique Bauby.

Hợp chứng cài chốt là một trạng thái thần kinh rất hiếm xảy ra (ở Pháp có dưới 500 bệnh nhân), được mô tả năm 1966 bởi Giáo Sư fred Plum (Cornell University College of Medicine) và GS Jerome Posner (New York Presbyterian Hospital). Hợp chứng chỉ những bệnh nhân hoàn toàn bị liệt tứ chi, bại liệt mặt hai bên và không thể nói được. Ác mộng y học này đă được Alexandre Dumas nhắc đến năm 1844 trong Bá tước Kích Tôn Sơn với thuật ngữ » một tử thi với đôi mắt sống động » hoặc bởi Emile Zola năm 1868. Những bệnh nhân bị hợp chứng này tỉnh táo, hoàn toàn ư thức về thân thể của ḿnh và môi trường bao quanh.

Bệnh nhân vẫn có ư thức và các trí năng vẫn b́nh thường. Các cử động duy nhất có thể thực hiện là mở và khép mí mắt và những chuyển động thẳng đứng của các nhăn cầu. Không thể nh́n về phía phải hoặc phía trái. Làm sao có thể hiểu được rằng năo bộ vẫn bảo tồn tất cả các chức năng về trí tuệ và nhận thức, rằng vỏ năo vận động hoàn toàn có khả năng gởi mệnh lệnh làm co lại một nhóm cơ nào đó, rằng vỏ năo cảm giác có thể hoàn toàn cảm thấy nóng, lạnh, đau đớn và các cử động và tuy vậy bệnh nhân lại hoàn toàn «bị nhốt sống trong các bức tường» (emmuré).

Chính thân năo (nằm phía sau và phía dưới năo bộ) là cổ eo thắt (goulot d’étranglement) giữa máy tính trung ương năo bộ và tủy sống (từ đây phát xuất rễ, tùng thần kinh và các dây thần kinh ngoại biên).Thế mà chỉ cần một phần của thân năo, ph́nh hoàn trạng (protubérance), bị thương tổn là có thể gây nên Locked-in Syndrome (LIS). Hầu hết các trường hợp (86%) nguyên nhân của thương tổn phát xuất từ huyết quản, hoặc do huyết khối tắc nghẽn động mạch nền (artère basilaire) (động mạch nuôi dưỡng thân năo và tiểu năo), hoặc do xuất huyết thân năo. Đôi khi (6%) một chấn thương gây nên đụng dập ph́nh hoàn trạng. Thương tổn tuy bé xíu nhưng có hậu quả bi thảm này xảy ra trên các đường thần kinh dài (voies longues) (các «xa lộ thần kinh») chạy xuyên qua thân năo. Chính những bó thần kinh này bị làm đứt đoạn.
(LE FIGARO 23/5/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 36 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (27/7/2007)

2/ NGUY CƠ HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH SÂU SAU MỘT CHUYẾN ĐI KÉO DÀI

Tổ Chức Y Tế Thế Giới vừa công bố những kết quả của một dự án nghiên cứu về các chuyến đi kéo dài và sự phát sinh các huyết khối (thromboses). Theo những điều đă được chứng thực, nguy cơ mắc phải huyết khối nghẽn tĩnh mạch (thrombo-embolie veineuse) được nhân gấp hai lần, sau một hành tŕnh kéo dài 4 giờ hoặc nhiều hơn. Tuy nhiên dù cho nguy cơ này gia tăng nhưng nguy cơ tuyệt đối của huyết khối nghẽn tĩnh mạch lại vẫn tương đối thấp.

OMS vừa công bố các kết quả ở giai đoạn 1 của dự án nghiên cứu về các mối hiểm nguy của các hành tŕnh kéo dài trên thế giới. Hai biểu hiện thường xảy ra nhất là huyết khối tĩnh mạch sâu (thrombose veineuse profonde) và nghẽn mạch phối (embolie pulmonaire).

Công tŕnh nghiên cứu chứng tỏ rằng, các hành khách của các máy bay, tàu hỏa, xe bus hoặc xe hơi chịu nguy cơ bị chứng huyết khối nghẽn tĩnh mạch cao hơn khi họ phải ngồi không động đậy trong hơn 4 giờ. Tuy rằng nguy cơ này gia tăng, nhưng nguy cơ tuyệt đối của huyết khối nghẽn tĩnh mạch vẫn tương đối thấp, khoảng 1/6000.

Một nghiên cứu đặc biệt chú ư về các hành tŕnh bằng đường hàng không đă khám phá rằng các hành khách đi nhiều chuyến bay trong thời gian ngắn cũng chịu một nguy cơ gia tăng. Thật vậy, nguy cơ bị huyết khối nghẽn tĩnh mạch, không biến mất hoàn toàn, vào lúc cuối một chuyến bay và sự gia tăng nguy cơ vẫn tồn tại trong khoảng 4 tuần sau đó.

Bảng báo cáo xác nhận rằng một số yếu tố khác làm tăng nguy cơ mắc phải huyết khối tĩnh mạch sâu: chứng béo ph́, tầm vóc trên 1,9 m hoặc dưới 1,6m, dùng thuốc ngừa thai và các rối loạn huyết học di truyền, dẫn đến khuynh hướng làm dễ sự tạo thành huyết khối.

Nghiên cứu không đề cập đến những biện pháp pḥng ngừa có hiệu quả. Tuy nhiên các chuyên gia công nhận rằng, chúng ta có thể cải thiện tuần hoàn máu bằng cách kích động các cơ bắp chân bằng những cử động thẳng đứng của chân ở khớp mắt cá. Các hành khách cũng phải tránh mang những quần áo quá chật trong khi đi du lịch bởi v́ chúng gây nên sự ứ máu tĩnh mạch (stase veineuse).

Giai đoạn 1 của dự án nghiên cứu kết luận về sự cần thiết đối với giới hữu trách vận tải, các hăng hàng không và các giới hữu trách y tế, cho hành khách những thông tin đầy đủ về nguy cơ của bệnh huyết khối nghẽn mạch. Nhưng c̣n sẽ cần đến những công tŕnh nghiên cứu khác, để xác định những biện pháp pḥng ngừa hiệu quả. Những vấn đề này sẽ được đề cập đến trong giai đoạn 2.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 6/7/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 41 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (9/9/2007)

4/ HÚT CỤC MÁU ĐÔNG TĨNH MẠCH TRƯỚC NGHẼN MẠCH PHỔI

Huyết khối tĩnh mạch sâu (thrombose veineuse profonde) có biến chứng chính là nghẽn mạch phổi (embolie pulmonaire): sự di chuyển của cục máu đông xuyên qua các tĩnh mạch chủ vào tim phải đến tận phổi, gây nghẽn đột ngột một nhánh của động mạch phổi hoặc của chính động mạch phổi. Nghẽn mạch phổi là một bệnh nghiêm trọng có thể dẫn đến tử vong. Để tránh biến chứng này, các kết quả thu được nơi khoảng 30 bệnh nhân với các huyết khối tĩnh mạch sâu của tĩnh mạch bẹn hoặc nách chứng tỏ rằng việc cắt bỏ cục nghẽn mạch bằng đường qua da (thrombectomie percutanée) có hiệu quả bổ sung cho điều trị bằng thuốc chống đông.

Kỹ thuật khai thông mạch máu (désobstruction vasculaire) này chủ yếu tái lập luồng máu nhờ hút cục máu đông tĩnh mạch bằng một ống thông sau khi đă làm tan cục huyết đông bằng cách đè nát. Thủ thuật này có thể kết hợp với tiêm tại chỗ thuốc chống đông. Thời gian thủ thuật từ một giờ đến hai giờ rưỡi. Sau 6 tháng, 90% các tĩnh mạch được mổ trở nên thông thương với sự hồi phục các chức năng van trong 88% trường hợp.
SCIENCES ET AVENIR (9/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 42 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (15/9/2007)

1/ HỢP CHỨNG HẠNG KINH TẾ (SYNDROME DE LA CLASSE ECONOMIQUE)

Công tŕnh nghiên cứu Wright đă chứng tỏ rằng những chuyến đi bằng đường hàng không được liên kết với một nguy cơ phát triển huyết khối-nghẽn tĩnh mạch (thrombo-embolie veineuse) nhân lên gấp 2 hoặc gặp 3 lần trong tám tuần sau một chuyến bay kéo dài hơn 4 giờ. Giáo sư Harry Buller của Amsterdam đă lợi dụng hội nghị ở Genève để cất cao tiếng kêu báo động. Ông là một trong những người đồng tác giả của công tŕnh nghiên cứu WRIGHT (WHO Research Into Global Hazards of Travel), do OMS giao phó.

«Trường hợp cô bé gái người Anh chết ít lâu sau một chuyến bay đường dài (un vol long-courrier) từ Úc Đại Lợi vào năm 2000 dần dần đă bị rơi vào quên lăng ». Giáo sư Buller đă phát biểu như vậy ở hội nghị. «Thật là bất hạnh, bởi v́ cái chết của cô ta đă làm sáng tỏ một vấn đề ít được ai chú ư đến quá lâu: đó là nguy cơ mắc phải huyết khối tĩnh mạch lúc đi máy bay ».

NHỮNG YẾU TỐ CÁ NHÂN VÀ MÔI TRƯỜNG

Một yếu tố góp phần vào sự bất động g̣ bó trong các ghế ngồi chật hẹp ở hạng kinh tế của máy bay có thể là môi trường của cabine với áp xuất thấp (hypobare) và t́nh trạng giảm oxy (hypoxique). Mặt khác, các nguy cơ phát triển chứng huyết khối tĩnh mạch quan trọng hơn đối với những người có những bất thường máu với khuynh hướng dễ gây huyết khối (prothrombotique), những người dùng thuốc ngủ hoặc uống rượu trong lúc bay hoặc những người cao lớn hoặc rất bé nhỏ hoặc tăng thể trọng và những phụ nữ đang uống thuốc hormone ngừa thai. Một chuyến bay kéo dài 12 giờ sẽ nhân nguy cơ lên 60 lần so với một chuyến bay dưới 4 giờ. Ghế ngồi gần cửa sổ có nguy cơ gấp đôi so với chỗ ngồi phía hành lang. Và, ở những người có nhiều trong số những nguy cơ này phối hợp lại, có thể có nguy cơ tổng cọng nhân lên 100 lần. Trung b́nh, cứ 4.500 hành khách th́ có một người sẽ phát triển huyết khối tĩnh mạch sau một chuyến bay kéo dài trên 4 giờ và 5-10% các huyết khối này sẽ gây tử vong. Với 2 tỷ người dùng máy bay mỗi năm, mối nguy cơ này cần phải được xem trọng.

PH̉NG NGỪA

Các đôi tất dài đàn hồi (bas élastique) ít có hiệu quả trong tư thế bất động và ngay cả có thể nguy hiểm nếu quá bó chặt. Trong trường hợp này aspirine không thật sự hữu ích và có thể có nguy cơ gây chảy máu. Tiêm chích héparine rất có hiệu quả nhưng với nguy cơ xuất huyết. Xuất huyết ở độ cao 10.000m dễ trở thành tai họa. Các máy đè ép gián đoạn (appareil de compression intermittente) bắt chước tác dụng của cơ ngay cả lúc hành khách đang ngủ, sẽ có nhiều hứa hẹn trong việc pḥng ngừa. Giai đoạn kế tiếp của nghiên cứu là xác định những phương pháp tốt để pḥng ngừa chứng huyết khối tĩnh mạch nơi 2 tỉ người hành khách dùng đường hàng không mỗi năm. Công tŕnh nghiên cứu WRIGHT sẽ nghiên cứu trên những hành khách có nguy cơ ở mức độ cao và trung gian. Một công tŕnh sẽ kéo dài 4 năm với tốn phí 4 triệu Euro.
(LE GENERALISTE 6/9/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 43 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (24/9/2007)

5/ DIESEL VÀ NHỒI MÁU CƠ TIM

Việc tiếp xúc với sự ô nhiễm do giao thông đường xá càng ngày càng bị quy cho là nguyên nhân của nguy cơ tim mạch, nhưng người ta không biết được các cơ chế được vận dụng. Một nhóm nghiên cứu người Anh và Thụy Điển đă thực hiện một nghiên cứu bằng cách cho bệnh nhân đau tim tiếp xúc với hơi bốc của diesel để xác định vai tṛ của ô nhiễm không khí lên chức năng của cơ tim, huyết quản và tan sợi huyết (fibrinolytique).

Nicholas Mills (Anh) và các cộng sự viên đă tiến hành một công tŕnh nghiên cứu. Họ cho 20 người đă bị nhồi máu cơ tim (infarctus du myocarde) tiếp xúc trong thời gian một giờ, hoặc với khí thải (gaz d’échappement) diesel (300 microgramme/m3) hoặc với khí được thanh lọc, trong lúc nghỉ ngơi và trong lúc thể dục có mức độ. Các chức năng tan sợi huyết và vận mạch đă được đo lường 6 giờ sau khi bệnh nhân được cho tiếp xúc

Các kết quả chứng tỏ rằng sự gia tăng nhịp tim đáp ứng với thể dục giống nhau trong hai loại tiếp xúc (khí ô nhiễm và khí được thanh lọc). Nếu trên điện tâm đồ sự hạ xuống của đoạn ST gây nên bởi thể dục đều hiện diện nơi tất cả các bệnh nhân, th́ sự thiếu màu cục bộ cơ tim gia tăng trong trường hợp tiếp xúc với diesel. Trái lại, sự tiếp xúc này không làm trầm trọng sự loạn chức năng vận mạch (dysfonction vasomotrice) đă có trước đây nhưng làm giảm sự phóng thích activateur tissulaire du plasminogène.

Theo các tác giả, sự tiếp xúc ngắn ngủi với khí thải diesel gây nên sự thiếu máu cơ tim và cản khả năng tan sợi huyết nội tại (capacité fibrinolytique endogène) nơi những bệnh nhân bị bệnh tim. Các cơ chế gây thiếu máu và huyết khối được phát hiện có thể giải thích một phần quan sát dịch tễ học, theo đó việc tiếp xúc với các phần tử do sự đốt cháy (particules de combustion) được liên kết với các hậu quả tim mạch khác nhau trong đó có nhồi máu cơ tim.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 21/9/2007)

9/ NHẠC LÀM BỚT TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO

Sự kích thích thính giác làm gia tăng tốc độ trung b́nh của lưu lượng máu trong động mạch năo trung (artère cérébrale moyenne). Một nhóm nghiên cứu của bệnh viện đại học Zagreb (Croatie) đă theo dơi những biến đổi này nơi những bệnh nhân là nạn nhân của tai biến mạch máu năo do thiếu máu cấp tính (accident vasculaire cérébral ischémique aigu).

Công tŕnh nghiên cứu bao gồm 113 người (trong đó 52 bệnh nhân không được điều trị bằng cho thuốc tan huyết khối), được nhập viện trong 24 giờ sau tai biến mạch máu năo do thiếu máu cục bộ, và 61 người dùng làm chứng có sức khỏe tốt. Tốc độ trung b́nh của lưu lượng máu của động mạch năo trung được ghi bởi Doppler transcranien. Nơi những người bị tai biến mạch máu năo, chỉ có động mạch phía bị thương tổn là được thăm khám, trong khi đó nơi những người chứng, cả hai động mach đều được ghi. Sau đó, các tốc độ trung b́nh của lưu lượng máu đă được theo dơi trong khi bệnh nhân được cho nghe nhạc thư giăn trong 2 phút.

Khởi đầu, các bệnh nhân bị tai biến mạch máu năo có tốc độ trung b́nh của lưu lượng máu trong động mạch năo trung thấp hơn so với những người chứng. Trong 2 nhóm, người ta ghi nhận tốc độ trung b́nh tăng cao, đáp ứng lúc nghe nhạc. Thời gian cần thiết để có được sự gia tăng này trong nhóm tai biến mạch máu năo cao hơn nhiều so với nhóm kiểm chứng.

Kết luận : Mặc dầu các bệnh nhân (là nạn nhân của một tắc nghẽn của động mạch năo trung) có lưu lượng màu bị giảm trong động mạch bị thương tổn, nhạc vẫn là một kích thích thính giác có hiệu quả.Tuy nhiên, thời gian đáp ứng với âm nhạc của những bệnh nhân này dài hơn so với những bệnh nhân lành mạnh. (GENERALISTE 20/9/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 47 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (18/10/2007)

6/ TOÀ ÁN HOA KỲ TRỪNG PHẠT NHỮNG TRƯỜNG HỢP ĐIỀU TRỊ MĂN KINH BẰNG HORMONE THAY THẾ

Lần đầu tiên hăng dược phẩm Wyeth ở Hoa kỳ đă bị xử phạt phải trả gần 134 triệu dollars cho 3 phụ nữ bị ung thư vú sau một điều trị bằng hormone thay thế.

Năm 2002, công tŕnh nghiên cứu Women Health Initiative (WHI) trên 16.000 phụ nữ đă làm phần nào mất uy tín phép điều trị chứng măn kinh bằng hormone, do việc làm sáng tỏ một nguy cơ gia tăng bị ung thư vú, rối loạn tim mạch và huyết khối tĩnh mạch nơi những phụ nữ được điều trị. Những phân tích tinh tế hơn đă phần nào làm tiến triển điều xác nhận này, nhất là về nguy cơ tim mạch nơi các phụ nữ trẻ nhất.Tuy nhiên sau công tŕnh nghiên cứu này, hàng ngàn phụ nữ bị ung thư vú ở Hoa Kỳ đă đưa đơn kiện hăng dược phẩm Wyeth đă thương măi hóa thuốc hormone chính yếu trong điều trị măn kinh (Prempro và Prémarin).

Lần đầu tiên, ngày 15 tháng 10 vừa qua, một ban bồi thẩm của Nevada đă tuyên phạt nhóm dược phẩm Hoa Kỳ Wyeth phải trả 134 triệu dollars cho 3 phụ nữ đă phát triển một ung thư vú mà họ cho là bị gây nên do các điều trị bằng hormone chống lại các triệu chứng của măn kinh.

Theo các bồi thẩm, nhóm dược phẩm Wyeth đă tỏ ra vừa cẩu thả vừa lừa đảo trong việc sản xuất, marketing và bán thuốc hormone. Mỗi người khiếu nại phải được bồi thường từ 43 đến 47 triệu dollars.Wyeth đă quyết định phá án, tái xác nhận trong một thông cáo rằng những điều trị đang bị kiện tụng, nhưng đă được chấp nhận bởi các nhà hữu trách y tế Hoa Kỳ, là “ đáng tin cậy và hiệu quả khi được sử dụng theo đúng chỉ định.”

VÀI TRƯỜNG HỢP KHIẾU NẠI Ở PHÁP

Tính đến hôm nay, 6 vụ kiện đă được đưa đơn chống lại hăng dược phẩm Wyeth với cùng lư do : trong 3 trường hợp các người kiện đă bị bác đơn, trong hai trường hợp khác thủ tục tố tụng bị hủy bỏ, sau cùng, trong một trường hợp c̣n lại, bệnh nhân được bồi thường 1,5 triệu dollar nhưng hăng dược phẩm đă kháng án. Gần 9000 vụ kiện tương tự đă được đưa đơn trước các toà án Hoa Kỳ chống lại những điều trị bằng hormone thay thế của hăng Wyeth. Hăng này hiện có vị thế nổi bậc nhất trên thị trường thuốc chống măn kinh ở Hoa Kỳ.

Ở Pháp vài đơn kiện đang được thẩm cứu, nhằm chống lại các thầy thuốc chứ không phải các hăng dược phẩm. Công trinh nghiên cứu WHI đă khiến cho các nhà hữu trách y tế các nước phương Tây khuyên các thầy thuốc giới hạn lại thời gian cho toa các thuốc hormone điều trị măn kinh. Mặt khác nhiều phụ nữ đă ngưng sử dụng các thuốc hormone này.

Theo các dữ kiện của CDC, số ung thư vú đă giảm vào năm 2005 ở Hoa Kỳ, đặc biệt là do giảm sử dụng hormone thay thế điều trị măn kinh. Nhưng vài người cũng đưa ra ư kiến là việc giảm bớt chụp h́nh vú để phát hiện ung thư (mammographie de dépistage) có thể là cách giải thích của sự thoái lui này. Cơn sốt tư pháp về điều trị măn kinh bằng hormone vẫn không thuyên giảm ở Hoa Kỳ, là nước mà tỷ lệ phụ nữ măn kinh được điều trị đă đạt đến cao điểm vào đầu những năm 2000. Hàng chục triệu phụ nữ đă theo một điều trị như thế khi phép điều trị này đă bắt đầu phát triển ở Hoa Kỳ trong những năm 1960. (
LE JOURNAL DU MEDECIN (17/10/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 55 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (14/12/2007)

4/ HUYẾT KHỐI TẮC MẠCH VÀ NGUY CƠ BỊ NHỒI MÁU CƠ TIM VÀ TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO

Một vài công tŕnh nghiên cứu xác lập mối liên hệ giữa huyết khối tĩnh mạch (thromboembolie) và xơ vữa động mạch (athérosclérose) với nguy cơ bị nhồi máu cơ tim hay tai biến mạch máu năo.

Với mong muốn làm sáng tỏ mối liên hệ khả dĩ này, Hendrik Toft Sorensen và nhóm nghiên cứu của ông đă tiến hành một công tŕnh nghiên cứu dựa trên các thông tin thu nhận được từ các ngân hàng dữ kiện y khoa ở Đan Mạch. Sau khi đă loại trừ những người bị bệnh tim mạch được xác nhận, các tác giả đă nghiên cứu nguy cơ bị nhồi máu cơ tim hay tai biến mạch máu năo nơi 25.799 bệnh nhân bị huyết khối tĩnh mạch sâu (thrombose veineuse profonde), 16.925 bệnh nhân với nghẽn mạch phổi (emboilie pulmonaire) và 163.566 được người được dùng làm kiểm chứng.

Các bệnh nhân có tiền sử huyết khối tĩnh mạch sâu, trong suốt năm đầu sau biến cố huyết khối, có 1,60 lần có khả năng hơn phát triển một nhồi máu cơ tim và có nguy cơ bị tai biến mạch máu năo 2,19 lần cao hơn. Các con số này lần lượt là 2,60 và 2,93 nơi những bệnh nhân với tiền sử nghẽn mạch phổi. Theo các tác giả ,với các quan sát này dựa trên 20 năm theo dơi, th́ nguy cơ tăng cao này vẫn c̣n tồn tại lâu dài.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 4/12/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 64 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (15/2/2008)

10/ HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH SÂU: PHÉP DỰ PH̉NG KHÔNG ĐƯỢC ĐẤY ĐỦ Ở BỆNH VIỆN

Phần lớn các bệnh nhân được nhập viện có nguy cơ quan trọng bị huyết khối tĩnh mạch sâu (thrombose veineuse profonde), nhưng nhiều người trong số các bệnh nhân này không nhận được một dự pḥng đầy đủ. Đó là điều được gợi ư bởi công tŕnh nghiên cứu Endorse, một công tŕnh nghiên cứu nhiều trung tâm. Các tác giả đă phân tích các dữ kiện của 30.827 bệnh nhân được nhập viện trong một khoa ngoại và của 37.356 bệnh nhân nằm viện trong các khoa khác. Các bệnh nhân này xuất phát từ hơn 300 bệnh viện được phân bố trong 32 nước t́nh nguyện, được chọn lọc từ 6 lục địa.Tuy nhiên các bệnh viện phải thỏa măn một vài điều kiện để có thể tham dự vào công tŕnh nghiên cứu. Trên cơ sở những lời khuyến nghị được đưa ra bởi American College of Chest Physicians (2004), các tác giả đă cố gắng t́m biết các bệnh nhân có bị một nguy cơ mắc phải huyết khối tĩnh mạch sâu và họ có được nhận một điều trị dự pḥng thích ứng hay không. Các kết quả cho thấy rằng 51,8% các bệnh nhân nhập viện có một nguy cơ gia tăng bị huyết khối tĩnh mạch sâu (41,5% trong những khoa không phải ngoại khoa, và 64,4% trong các khoa ngoại). Trong số bệnh nhân có nguy cơ được nhập viện trong một khoa không phải ngoại khoa, 39,5% các bệnh nhân nhận một pḥng ngừa tuân theo những lời khuyến nghị. Trong các khoa ngoại, các con số khả quan hơn, v́ lẽ 58,5% các bệnh nhân được nhận điều trị dự pḥng, Alexander Cohen và nhóm nghiên cứu đă giải thích như vậy. Walter Ageno và Francesco Dentali (Y) nhấn mạnh rằng vẫn cần thực hiện một công tŕnh quan trọng để tối ưu hóa sự dự pḥng các trường hợp huyết khối tĩnh mạch sâu ở bệnh viện.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 12/2/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 68 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (14/3/2008)

1/ MĂN KINH: UNG THƯ VÚ VẪN TỒN TẠI SAU KHI DỪNG ĐIỀU TRỊ HORMONE THAY THẾ

Theo một điều tra của Hoa Kỳ, sau khi dừng điều trị bằng hormone thay thế (traitement hormonal substitutif), nguy cơ tim mạch tan biến đi, trong khi nguy cơ ung thư vú vẫn c̣n tồn tại.

Rơ ràng là những vấn đề được đặt ra do việc điều trị chứng măn kinh bằng hormone thay thế đă không hết gây tranh căi : một công tŕnh nghiên cứu mới được công bố hôm qua trong Journal of the American Medical Association (JAMA) tiết lộ rằng nguy cơ bị ung thư vú do điều trị chứng măn kinh bằng hormone thay thế vẫn tồn tại sau khi đă ngừng điều trị.

Vào tháng 7 năm 2002, các thầy thuốc Hoa Kỳ đă công bố các kết quả của một thử nghiệm điều trị có quy mô lớn, được gọi là WHI (Women’s Health Initiative) nhằm đánh giá những lợi ích và các nguy cơ của điều trị bằng hormone thay thế và đă phát hiện một nguy cơ gia tăng bị bệnh tim mạch, huyết khối tắc tĩnh mạch (thromboembolie veineuse), ung thư vú nơi các phụ nữ sử dụng hormone sau thời kỳ măn kinh.

Các kết luận này đă làm giảm đáng kể việc điều trị bằng hormone thay thế khắp nơi trên thế giới và dẫn đến sự giới hạn kê toa nơi các phụ nữ thật sự cần điều trị này (các cơn bừng mặt không chịu đựng được, nguy cơ mắc phải chứng loăng xương tăng cao). Măi đến vào lúc đó và từ những năm 1980, trong các nước công nghiệp hoá, các phụ nữ vào tuổi măn kinh đều được đề nghị điều trị bằng hormone thay thế. Các nhà nghiên cứu của công tŕnh WIH đă tiếp tục theo dơi các phụ nữ của công tŕnh nghiên cứu này để xem sau khi ngưng điều trị bằng hormone thay thế th́ nguy cơ tim mạch hay nguy cơ ung thư vú có trở nên tương đương với nguy cơ của một phụ nữ ở cùng lứa tuổi nhưng không sử dụng hormone thay thế hay không.

Công tŕnh nghiên cứu WHI được khởi động năm 1995 nhằm vào 15.730 phụ nữ măn kinh từ 50 đến 79 tuổi (tuổi trung b́nh 63), được chia thành hai nhóm, một nửa nhóm nhận một điều trị hormone (oestrogènes équins, progestatifs de synthèse), nửa nhóm kia nhận một placebo. Tất cả các phụ nữ t́nh nguyện này đă được theo dơi một cách tích cực sau khi ngừng hormone vào tháng 7 năm 2002, và như thế cho đến tháng 3 năm 2005, với một thăm khám sức khỏe và chụp tuyến vú (mammographie) hàng năm.

Các kết quả theo dơi này đă phát hiện nhiều thông tin quan trọng. Một mặt, các phụ nữ đă được điều trị bằng hormone thay thế và rồi sau đó ngừng không sử dụng nữa, đă không có các nguy cơ bị nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu năo hay huyết khối tắc tĩnh mạch sâu (thromboembolie veineuse), hơn các phụ nữ khác. Các nguy cơ này biến mất nhanh chóng sau khi ngừng điều trị hormones.

LIỀU LƯỢNG CÀNG NHỎ CÀNG TỐT

Ngược lại, nguy cơ bị ung thư vú sau khi ngừng điều trị, vẫn ở cùng mức độ với lúc dùng thuốc hormone, ít nhất vẫn tồn tại trong hai hoặc ba năm sau khi ngừng điều trị. Như thế có 27% trường hợp ung thư vú được thêm vào đối với các phụ nữ đă được điều trị bằng hormone so với các phụ nữ khác. Những điều tra khác về chủ đề này, mặc dầu với quy mô nhỏ hơn, cho thấy một kết quả đảo ngược, đó là sự trở lại b́nh thường đối với ung thư vú sau khi ngừng điều trị bằng hormone thay thế. Mặt khác, trong suốt những năm theo dơi này, đă có tất cả 63 trường hợp ung thư đủ loại được thêm vào nơi các phụ nữ được điều trị bằng hormone so với các phụ nữ khác. Đối với các tác giả của công tŕnh này, một kết luận đầu tiên cần phải được rút ra : phải khẩn thiết tiếp tục theo dơi bằng chụp tuyến vú đều đặn nơi các phụ nữ đă được điều trị trong nhiều năm với hormone thay thế, ngay cả sau khi đă ngừng điều trị.

Một phân tích mới đây đă phát hiện lần đầu tiên một sự giảm số các trường hợp mới ung thư vú ở Pháp trong năm 2005. Sự thoái bộ các trường hợp ung thư vú cũng đă được quan sát ở Hoa Kỳ, ở Canada và ở Đức. Có lẽ với thời gian, nguy cơ mắc phải ung thư vú đối với các phụ nữ trước đây đă được điều trị hormone, sẽ trở lại ngang bằng với nguy cơ của các phụ nữ đă không được điều trị.

Nguy cơ ung thư vú phải chăng tùy thuộc loại hormone đă được sử dụng ? Một vài thầy thuốc người Pháp nêu rơ rằng oestradiol được dùng bằng đường qua da (voie parcutanée), liên kết với progestérone thiên nhiên, không làm gia tăng nguy cơ bị ung thư vú. Mặc dầu thông điệp này rất gây sự chú ư của các phụ nữ, nhưng giả định này chưa hề là đối tượng của một chứng minh khoa học nào.

Hiện nay, giới hữu trách y tế ở Pháp, nhưng cũng ở nước ngoài, khuyến nghị rằng điều trị bằng hormone thay thế nên được cho với liều lượng càng nhỏ càng tốt trong một thời gian càng ngắn càng hay, với thời gian điều trị đừng quá 5 năm.
(LE FIGARO 6/3/2008)

2/ UNG THƯ VÚ VÀ THỂ DỤC

Một công tŕnh nghiên cứu của Ba Lan đă so sánh 2.176 phụ nữ bị ung thư vú với 2.326 những phụ nữ khác, dùng làm chứng và không bị ung thư này. Người ta đă ghi nhận một mối tương quan rất rơ rệt giữa hoạt động vậy lư và việc giảm nguy cơ xảy ra ung thư vú. Hiệu quả có lợi xuất hiện nhất là nếu tập thể dục đều đặn, được thực hiện trong những giờ rảnh và tương đối cật lực, và không bị ảnh hưởng bởi những yếu tố nguy cơ được biết khác như măn kinh, tuổi tác hay chứng béo ph́. Tỷ lệ giảm nguy cơ khoảng 30 đến 40%.
(PARIS MATCH 6/3-12/3/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 71 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (4/4/2008)

1/ LÀM GIẢM TÀN TẬT DO MỘT CƠN ĐỘT QỤY

Sự nhanh chóng xử lư điều trị tai biến mạch máu năo ở mỗi giai đoạn có thể làm giảm tỷ lệ tử vong và nguy cơ bị tàn tật. CHU Dijon vừa chứng minh điều đó.

Trong ṿng 2 năm, Trung tâm bệnh viện đại học này đă có khả năng làm giảm tỷ lệ tử vong và số những người bị tàn tật sau một tai biến mạch máu năo, bằng cách xử lư từng giai đoạn, từ khâu bác sĩ gia đ́nh đến khâu nhân viên khiêng cáng, nhằm cải thiện sự nhanh chóng trong điều trị. Kinh nghiệm này là một đối tượng của một bài báo khoa học, được công bố trong tạp chí Hoa Kỳ Stroke.

Mỗi năm, ở Pháp có 150.000 người bị tai biến mạch máu năo, với các yếu tố làm dễ như tuổi tác, bệnh cao huyết áp, chứng nghiện thuốc lá, tăng cholestérol huyết và bệnh đái đường. Tai biến mạch máu năo là nguyên nhân đứng đầu gây tàn tật mắc phải. Trong 80% các trường hợp, tai biến mạch máu năo là do một động mạch của năo bộ bị bít tắc bởi một huyết khối (thrombose) (một cục máu đông). Vào cuối những năm 1990, một thuốc làm tan sợi huyết (médicament fibrinolytique) đă được hiệu chính.Thuốc này, lúc cho bằng đường tĩnh mạch, có thể góp phần làm tan cục máu đông.

CUỘC CHẠY ĐUA VỚI THỜI GIAN

Những thử nghiệm lâm sàng đă phát hiện tính hiệu quả không thể tranh căi được trong sự giảm tỷ lệ tử vong và mức độ tàn tật, với điều kiện là thuốc làm tan sợi huyết được cho dưới 3 giờ sau khi xuất hiện các triệu chứng đầu tiên. Bệnh nhân phải dưới 80 tuổi, không ở trong t́nh trạng hôn mê và dĩ nhiên sự thiếu máu cục bộ năo (ischémie cérébrale) phải được xác nhận bằng chụp X quang. Số bệnh nhân được hưởng một phép điều trị tiên tiến như thế vẫn c̣n ít ở Pháp, v́ lẽ thời hạn thuốc có thể được cho là quá ngắn.

Tháng giêng 2006, giáo sư Maurice Giroud, trưởng khoa bệnh lư mạch máu-thần kinh, đi từ điều chứng thực rằng số những trường hợp dùng liệu pháp làm tan sợi huyết (fibrinolyse) để điều trị tai biến mạch máu năo là quá thấp, do sự chậm trễ trong xử trí điều trị, nên đă tổ chức một khóa đào tạo trong 3 tháng nhằm vào các đối tượng là các người chủ chốt có liên quan, như các bác sĩ gia đ́nh, các nhân viên điều phối của Samu, các nhân viên khiêng cáng, các y tá làm việc ở pḥng cấp cứu, các nhân viên pḥng xét nghiệm, các thầy thuốc quang tuyến…Mục tiêu là, ngay sau khi nhận cú điện thoại của một người bị một tai biến mạch máu năo đột ngột, các khâu vận chuyển, chẩn đoán và điều trị phải được thiết lập không được làm mất một giây phút nào.

“Thí dụ chúng tôi phải hiểu các danh từ được sử dụng bởi các bệnh nhân hay các người thân của họ để mô tả bệnh tai biến mạch máu năo (ông ta không có thể nói nữa, ông ta bại liệt, ông ta kêu van đau đầu) để cho nhân viên y tá pḥng cấp cứu đôi khi tiếp nhận trực tiếp bệnh nhân mà không phải qua khâu vận chuyển y tế, hoặc có khả năng nghi ngờ một tai biến mạch máu năo và hành động nhanh chóng, giáo sư Maurice Giroud đă giải thích như vậy. Chúng tôi đă gặp gỡ các nhân viên khiêng cáng, một trong những mắc xích có thể làm chậm trễ trong việc mang các bệnh nhân đến những đơn vị điều trị mạch máu• thần kinh (unités de soins neuro-vasculaires), để giải thích cho họ tầm quan trọng của một thái độ xử trí điều trị nhanh chóng”.

Cuối năm 2007, sự đánh giá một hành động xử trí như thế đă được thực hiện và cho thấy rằng các thời hạn can thiệp cho một bệnh nhân bị tai biến mạch máu năo đă giảm đi đáng kể. Tỷ lệ chụp scanner được thực hiện trong 3 giờ đầu sau những triệu chứng đầu tiên đă gia tăng từ 46% lên 83%, thời hạn từ khi bệnh nhân đến pḥng cấp cứu đến khi được chụp X quang đă giảm từ 87 phút xuống c̣n 37 phút, thời hạn từ khi bệnh nhân đến cho đến lúc có được kết quả xét nghiệm đă giảm từ 70 phút xuống c̣n 32 phút. Số bệnh nhân được nhận liệu pháp tan sợi huyết (fibrinolyse) tăng lên gấp 3. Tỷ lệ tử vong ở bệnh viện đă giảm từ 12% năm 2006 xuống c̣n 9% năm 2007 và nhất là tỷ lệ bệnh nhân bị tàn tật sau một tai biến mạch máu năo đă giảm từ 60% năm 2006 xuống c̣n 40% năm 2007. “Hai yếu tố quan trọng trong trường hợp tai biến mạch máu năo là sự can thiệp nhanh chóng và sự nhập viện trong một đơn vị mạch máu-thần kinh cho phép làm giảm tỷ lệ tử vong và nguy cơ bị tàn tật”, giáo sư Giroud đă nói thêm như thế.

Vào tháng 3 năm 2007, một bản thông tri buộc tất cả các trung tâm bệnh viện, thành lập một đơn vị điều trị mạch máu-thần kinh (unité de soins neurovasculaires). Từ nay, tất cả các Trung tâm bệnh viện đại học (CHU) đều có những đơn vị này, nhưng c̣n cần phải thực hiện nhiều điều để cho tất cả các bệnh viện toàn khoa cũng sẽ có những đơn vị điều trị như thế bởi v́ các bệnh viện toàn khoa là nơi tiếp nhận bộ phận quan trọng nhất các bệnh nhân bị tai biến mạch máu năo. Thí dụ của Dijon chứng tỏ rằng chỉ cần một ít thiện chí, chúng ta có thể thắng được cuộc chạy đua với thời gian đôi khi được diễn ra trong trường hợp tai biến mạch máu năo.
LE FIGARO 26/3/2008

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 77 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (17/5/2008)

2/ BỆNH NHỒI MÁU CƠ TIM : CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ ÍT TỐT HƠN Ở CÁC PHỤ NỮ

Nhồi máu cơ tim (infarctus du myocarde) ở phụ nữ được thể hiện bởi các triệu chứng khác với đàn ông. Ở phụ nữ, căn bệnh này được chẩn đoán và điều trị ít tốt hơn. Bệnh nhồi máu cơ tim từ lâu đă được xem là một bệnh của đàn ông, một tai họa của nam giới. C̣n các phụ nữ th́ được cho là được bảo vệ nhờ các hormone nữ. Thực tế mà các thầy thuốc đang nghiên cứu lại rơ ràng khác hẳn. Một công tŕnh nghiên cứu trên 25.000 người đă bị nhồi máu cơ tim trong 14 nước, được công bố tuần này trên site Internet của tạp chí Heart, tiết lộ rằng các triệu chứng của nhồi máu cơ tim ở phụ nữ và đàn ông không tương tự nhau.

V́ các thầy thuốc đă học chẩn đoán bệnh nhồi máu cơ tim qua các cơn đau điển h́nh xảy ra ở nam giới, do đó họ dễ không nhận biết hơn triệu chứng đau của chứng bệnh tim này khi xảy ra ở phụ nữ. Trước tuổi 65, bệnh nhồi máu cơ tim xảy ra ở đàn ông 4 lần nhiều hơn so với phụ nữ. Sau tuổi 65, t́nh h́nh đảo ngược lại cho đến khi số trường hợp trở nên quan trọng hơn nơi các phụ nữ, điều này là do tuổi thọ gia tăng ở các phụ nữ. Một công tŕnh nghiên cứu khác cùng chủ đề, được thực hiện ở Pháp với 75.000 trường hợp nhồi máu cơ tim, đă phát hiện năm qua rằng ở phụ nữ việc điều trị ít tích cực hơn và tỷ lệ tử vong cao hơn.

Nhồi máu cơ tim điển h́nh được đặc trưng bởi một cơn đau ngực sau xương ức khá đột ngột, thường xảy ra lúc gắng sức, tính chất như bị đè ép bởi một mỏ cặp (étau), lan tỏa về phía tay trái và hàm dưới, kèm theo cảm giác khó chịu, toát mồ hôi, lo âu. Các triệu chứng này có thể dữ dội ít hoặc nhiều hoặc trái lại không điển h́nh. Nhưng các triệu chứng này luôn luôn thể hiện huyết khối (thrombose) của một động mạch vành phân bố mạch cơ tim. Mục đích của điều trị cấp cứu là lấy đi vật chướng ngại nơi động mạch bị bít tắc, hoặc bằng liệu pháp tan huyết khối (thrombolyse) (tiêm cấp cứu bằng đường tĩnh mạch một loại thuốc có khả năng làm tan cục máu đông) hoặc bằng cách làm giăn cấp cứu động mạch với sự thiết đặt một stent (một thiết bị y khoa nhỏ h́nh ḷ xo) để giữ cho ḷng của động mạch được mở ra. Điều trị nhằm giới hạn sự thoái hóa của một phần cơ tim và các di chứng.

Công tŕnh nghiên cứu được công bố trên site của tạp chí Heart, đă khảo sát trên hơn 25.000 trường hợp nhồi máu cơ tim (19.117 đàn ông và 7.638 phụ nữ) lấy từ 14 nước từ năm 1999 đến 2006. Đối với mỗi trường hợp, người ta kiểm kê các triệu chứng, các kết quả của các thăm khám phụ, đặc biệt là tất cả bệnh nhân đều được chụp mạch (angiographie) cho phép thấy được các động mạch bị bít tắc và các điều trị đă được thực hiện.

MỘT TỶ LỆ TÁI PHÁT CAO HƠN

Công tŕnh nghiên cứu so sánh này đă phát hiện nhiều thông tin quan trọng. Một mặt, các triệu chứng xảy ra nơi các phụ nữ khi họ đến bệnh viện là khác với các triệu chứng của đàn ông ; ở phụ nữ, cơn đau ngực hoàn toàn điển h́nh thường ít thấy hơn, nhưng ngược lại các triệu chứng như nôn và đau trong hàm dưới thường xảy ra hơn. Ngoài ra, về mặt điều trị, ở nữ giới, ngay với sự bít tắc động mạch vành ở mức độ như nhau, lại thường ít được làm angioplastie hơn lúc đến bệnh viện. Hơn nữa, các phụ nữ so với nam giới thường ít được kê toa hơn các thuốc bêtabloquant, các statines hoặc những inhibiteurs de l’enzyme de conversion, các thuốc nhằm tránh tái phát. Sau hết, tỷ lệ tử vong, tái phát hay tai biến mạch máu năo sáu tháng sau nhồi máu cơ tim, hơi cao hơn đối với các phụ nữ.

Công tŕnh nghiên cứu quốc tế này xác nhận một phân tích rộng răi được thực hiện ở Pháp năm vừa qua và được công bố vào tháng hai 2007 trong tạp chí Circulation. Công tŕnh này nhằm vào 70.000 nhập viện v́ nhồi máu cơ tim ở Pháp. Sự so sánh giữa đàn ông và phụ nữ ở Pháp đă cho thấy rằng tỷ lệ tử vong là cao hơn đối với phụ nữ và tỷ lệ phụ nữ được làm angioplastie là 10% thấp hơn so với nam giới. Và điều này, ngay cả ở cùng lứa tuổi như nhau. “Bệnh khác nhau nơi phụ nữ và đàn ông, với các cơn đau ít điển h́nh hơn, thường liên kết với khó thở, G.S Gabriel Steg, đồng tác giả của công tŕnh nghiên cứu (bệnh viện Bichat, Paris), đă giải thích như vậy. Tất cả các công tŕnh này chứng tỏ rằng ở cùng lứa tuổi, các phụ nữ kém được điều trị hơn khi họ bị một nhồi máu cơ tim và rằng từ nay chúng ta phải cảnh giác hơn”. Nguồn : LE FIGARO (10/5/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 80 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (7/6/2008)

3/ SỰ Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ LIÊN KẾT VỚI HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH

Tiếp xúc với sự ô nhiễm không khí làm gia tăng nguy cơ bị huyết khối tĩnh mạch sâu (deep vein thrombosis), các cục máu đông thường xảy ra ở các tĩnh mạch cẳng chân. Và sự ô nhiễm không khí càng tệ hại th́ nguy cơ càng cao.

Các nhà nghiên cứu đă khảo sát 871 bệnh nhân bị huyết khối tĩnh mạch sâu ở vùng Lombardy, Ư, so sánh họ với 1.200 người lành mạnh. Họ đă trắc nghiệm các mức độ ô nhiễm bởi các hạt nhỏ (particules fines) trong những vùng nơi bệnh nhân sinh sống, dùng các thiết bị theo dơi nơi 53 điểm trong thời gian 1 năm. Công tŕnh nghiên cứu được công bố ngày 12 tháng năm trong the Archive of Internal Medicine. Các nhà nghiên cứu đă nhận thấy rằng đối với một gia tăng 10 microgram các hạt nhỏ trên mỗi mét khối, nguy cơ bị huyết khối tĩnh mạch sâu được gia tăng 70%. “Sống nơi những vùng bị ô nhiễm cao, đó là một nguy cơ”, Andrea Baccarelli, tác giả lănh đạo và phó giáo sư ở Đại Học Milan đă phát biểu như vậy.
INTERNATIONAL HERALD TRIBUNE (29/5/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 83 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (27/6/2008 )

8/ ĐÀN ÔNG VÀ PHỤ NỮ KHÔNG B̀NH ĐẲNG TRƯỚC CÁC TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO

Trong các nước công nghiệp hoá, mỗi năm, 0,2 % dân chúng sẽ có một tai biến mạch máu năo lần đầu tiên, và chỉ 6% sẽ hồi phục lại hoàn toàn.Trong khi đàn ông và phụ nữ không b́nh đẳng với nhau trước nguy cơ bị tai biến mạch máu năo, th́ những khác nhau về giống tính cũng được thể hiện trong quá tŕnh hồi phục. Các phụ nữ không sống sót tai biến mạch máu năo tốt như đàn ông, c̣n đàn ông th́ trả giá đắt cho các lối sống ít lành mạnh của ḿnh (hút thuốc lá, rượu...) và việc thiếu thông tin về các nguy cơ mà họ gặp phải. Đó là điều được giải thích bởi các nhà nghiên cứu Tây Ban Nha ở hội nghị mới đây của Hiệp hội thần kinh học châu Âu, được tổ chức ở Nice.

Thật vậy, Giáo sư Patricia Martinez-Sanchez và các đồng nghiệp đă xác định rơ rằng không chỉ có các yếu tố nguy cơ đă được biết đến, như cao huyết áp, bệnh đái đường, chứng nghiện thuốc lá, rung nhĩ hay các nồng độ bất b́nh thường của lipide trong máu, không giống nhau giữa hai giới tính, mà chính cả giới tính cũng có một ảnh hưởng đáng kể lên nguy cơ bị tai biến mạch máu năo và những khả năng hồi phục.

Một công tŕnh nghiên cứu được thực hiện trên 325 bệnh nhân đă bị một tai biến thiếu máu cục bộ năo (accident ischémique) đă cho thấy rằng điều trị bằng thuốc làm tan huyết khối (traitement thrombolytique) giúp phụ nữ ít hơn nhiều so với đàn ông : 3 tháng sau, chỉ 30% đàn ông c̣n bị các biến đổi nghiêm trọng so với, 40% nơi phụ nữ.

Trong một công tŕnh nghiên cứu khác, được thực hiện trên 1673 bệnh nhân bị một tai biến thiếu máu cục bộ năo cấp tính, các nhà nghiên cứu đă ngạc nhiên thấy rằng một vài trong những yếu tố nguy cơ có thể tránh được đă thường được phát hiện sau đó và điều này ở đàn ông nhiều hơn so với phụ nữ : chỉ 4,5% các phụ nữ đă hay biết sau khi bị tai biến mạch máu năo rằng họ bị cao huyết áp, so với gấp đôi ở đàn ông (9%), và 1,5% các phụ nữ vào lúc đó đă khám phá ra rằng họ bị một bệnh đái đường, so với 4,4% ở đàn ông.
LE JOURNAL DU MEDECIN (24/6/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 86 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (24/7/2008)

2/ CAO HUYẾT ÁP : YẾU TỐ NGUY CƠ QUAN TRỌNG ĐỐI VỚI MỌI LOẠI TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO

Cao huyết áp có làm gia tăng một cách đồng nhất nguy cơ tai biến mạch máu năo hay trái lại chỉ ưu tiên đối với vài loại ? Một công tŕnh nghiên cứu của Nhật Bản đă cho câu trả lời.

Lần này đó là một công tŕnh nghiên cứu quan sát, đă theo dơi, suốt trong 32 năm, diễn biến của 1.624 người già 40 tuổi hoặc hơn, không có tiền sử cá nhân và gia đ́nh về tai biến mạch máu năo. Các kết quả cho thấy rằng, đối với tai biến mạch máu năo, tỷ lệ mắc bệnh gia tăng một cách đáng kể (nguy cơ xuất hiện được nhân lên 3,7 lần) ngay ở giai đoạn 1 của xếp loại cao huyết áp của các hiệp hội tim và cao huyết áp châu Âu (140-159/95-99 mmHg), so với một huyết áp b́nh thường (< 120/80 mmHg). Huyết áp càng gia tăng, th́ nguy cơ mắc bệnh càng được nhân lên. Dữ kiện khác quan trọng của công tŕnh nghiên cứu này : sự gia tăng dần dần của huyết áp kèm theo một sự gia tăng cũng dần dần của tỷ lệ mắc phải các tai biến mạch máu năo, loại tai biến thiếu máu cục bộ tạm thời (accident ischémique transitoire : AIT), tai biến mạch máu năo (AVC) và xuất huyết năo. Trái lại, sự gia tăng nguy cơ tai biến mạch máu năo có nguồn gốc huyết khối nghẽn mạch (thromboembolique) và các xuất huyết dưới màng nhện (hémorragie sous-arachnoidienne) chỉ trở nên đáng kể bắt đầu từ giai đoạn 3 của xếp loại cao huyết áp (nghĩa là > 180/110 mmHg).
(LE GENERALISTE 10/7/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 88 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (9/8/2008)

10/ KHÔNG KHÍ BỊ Ô NHIỄM CÓ KHẢ NĂNG GÂY VIÊM TĨNH MẠCH

Một sự tiếp xúc lâu dài với không khí bị ô nhiễm làm gia tăng những nguy cơ phát triển một huyết khối tĩnh mạch sâu (thrombose veineuse profonde), nghĩa là viêm tĩnh mạch (phlébite) (sự tạo thành một cục máu đông trong các tĩnh mạch của chi dưới có thể gây nên nghẽn mạch phổi). Nhóm nghiên cứu của Havard School of Public Health (Boson) đă căn cứ trên 870 các trường hợp được chẩn đoán từ năm 1995 đến 2005 ở Lombardie, Ư, cũng như trên một nhóm chứng 1.200 người. Mỗi người tham gia được gán vào một vùng mà mức độ ô nhiễm trung b́nh đă được tính toán và theo dơi trong suốt quá tŕnh nghiên cứu. Như thế, phân tích thống kê đă có thể chứng tỏ rằng đối với một gia tăng 10 microgramme/m2 các phần tử PM10 (dưới 10 phần triệu mét) trong không khí trong năm trước khi chẩn đoán, nguy cơ bị huyết khối (thrombose) gia tăng trung b́nh 70%.
SCIENCE ET VIE (7/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 100 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (7/11/2008)

6/ NHỮNG THUỐC KHÁNG ĐÔNG CÓ HIỆU QUẢ HƠN

Các cục máu đông tĩnh mạch là mục tiêu của những thuốc kháng đông thế hệ mới. Cuộc cách mạng đang diễn tiến. Huyết khối tĩnh mạch (thrombose veineuse) không được chú ư đến bởi v́ đó là một bệnh “có tiếng động thấp” (une maladie à bas bruit).

Các triệu chứng của nó không dễ giải thích và những nguyên nhân cũng không rơ ràng như huyết khối động mạch (thrombose artérielle), được biết đến nhiều hơn bởi v́ những yếu tố nguy cơ của nó là rơ ràng (cao huyết áp, đái đường, cholestérol, thuốc lá).

Huyết khối tĩnh mạch thường được liên kết với những chuyến bay dài hay với sự nhập viện. “Những nguy cơ huyết khối tĩnh mạch sâu (thrombose veineuse profonde) rộng hơn. Có những bệnh nhân được phẫu thuật, nhất là những bệnh nhân chịu một cuộc giải phẫu chỉnh h́nh như đặt khớp giả đầu gối hay háng, nhưng cũng ở những bệnh nhân được nhập viện v́ một viêm phổi, một ung thư hay một suy tim ”, giáo sư Cedric Herman, trưởng khoa huyết học của UCL (Bruxelles) đă giải thích như vậy. “Nhưng những phụ nữ ngừa thai bằng hormone thay thế (contraception oestroprogestative), các phụ nữ có thai và những bệnh nhân có những bất thường về đông máu cũng có nguy cơ” .

Loại huyết khối này khởi phát bởi v́ những thương tổn mạch máu của các thành tĩnh mạch mong manh hay những biến đổi của thành phần máu làm gia tăng tính đông máu của nó và đưa đến một cục máu đông. Cục máu đông này, khi tách rời ra và đi ngược lên phổi, có thể gây nên nghẽn mạch phổi (embolie pulmoniare), có khả năng gây chết người.

“Một nửa các bệnh nhân được đặt khớp háng giả phát triển một huyết khối tĩnh mạch (thrombose veineuse), thường nhất là không có triệu chứng, nhưng cũng có thể diễn biến thành tệ hại nhất, Cédric Hermans đă giải thích như vậy. Một nửa triệu người châu Âu mỗi năm chết v́ biến chứng của huyết khối tĩnh mạch. Tỷ lệ tử vong của bệnh này là 10 lần cao hơn những tai nạn đường xá và ở bệnh viện cứ 10 tử vong th́ một có liên quan với huyết khối tĩnh mạch. Những biện pháp thông thường để ngăn ngừa là mang bas de contention hay sử dụng các thuốc, phổ biến nhất là héparine. Nhưng héparine có những nhược điểm: một tính hiệu quả không được đầy đủ, những nguy cơ bị dị ứng, sự bất dung nạp thuốc, cần phải tiêm dưới da mỗi ngày, khả năng bị những biến chứng xuất huyết.

Chính v́ vậy mà nghiên cứu đă t́m kiếm một loại thuốc khác. “Đó là tấn công vào chính cơ chế của sự đông máu và nhất là của tác dụng của thrombine bảo đảm sự biến hóa các sợi fibrine. Những chất cản của yếu tố Xa trong quá tŕnh đông máu dường như đặc biệt đầy hứa hẹn. Khoảng 6 loại thuốc hiện đang được trắc nghiệm lâm sàng , nhưng đứng đầu phải là rivaroxaban, vừa được chấp thuận bởi ủy ban châu Âu các dược phẩm để dùng cho người. Thuốc này h́nh như hiệu quả hơn và không cho những tác dụng phụ.
(LE SOIR 6/9-7/9/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 106 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (19/12/2008)

6/ TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO : SỰ KHÔNG HAY BIẾT CÓ THẾ NGUY HẠI.

Neurologie. Một điều trị cấp cứu làm giảm nguy cơ tàn phế trong trường hợp tai biến mạch máu năo. Một điều tra cho thấy rằng sự không hay biết các triệu chứng làm chậm trễ sự điều trị. Tai biến mạch máu năo mỗi năm xảy ra nơi 150.000 người ở Pháp. Đó là nguyên nhân chính gây tàn phế nơi người trưởng thành. Một loại thuốc được tiêm vào trong 3 giờ đầu sau các triệu chứng đầu tiên, làm giảm 40% nguy cơ bị các di chứng sau một tai biến mạch máu năo. Thế mà, một điều tra của Mỹ được công bố tuấn vừa qua trong tạp chí Emergency Medicine Journal tiết lộ rằng hơn một nửa các bệnh nhân bị đột qụy đă không hay biết các triệu chứng, đă không hiểu điều ǵ đă xảy ra đối với họ. Và người ta thích chờ đợi cho điều đó qua đi hơn là gọi cấp cứu.

Chính phủ Anh sẽ phát động một chiến dịch thông tin đại chúng nhằm dạy cho dân chúng nhận diện các dấu hiệu đầu tiên của một tai biến mạch máu năo. Ở Pháp, các chuyên gia cũng lo sợ về sự chậm trễ trong việc điều trị. Họ cũng đánh giá rằng những chiến dịch như thế là cần thiết. Trong 80% các trường hợp, tai biến mạch máu năo là hậu quả của sự bít tắc của một động mạch của năo bộ bởi một huyết khối (thrombose, một cục máu đông), trong 20% các trường hợp là hậu quả của sự xuất huyết của một động mạch.

Công cuộc điều tra của Hoa Kỳ dựa trên sự hỏi bệnh 400 người được nhập viện ở Mayo Clinic, Rochester v́ một tai biến mạch máu năo. Chỉ 42% các bệnh nhân, ngay từ những triệu chứng đầu tiên, đă hiểu rằng họ đang bị một cơn đột qụy và đă gọi cấp cứu khá nhanh. Những bệnh nhân khác, nghĩ rằng đó là những rối loạn tạm thời, đă chờ đợi, hy vọng rằng triệu chứng sẽ tự qua đi. Tuy vậy, 50% biết rằng một cơn đột qụy phải được điều trị cấp cứu, mặc dầu chỉ 20% trong số những bệnh nhân này biết có một loại thuốc có khả năng làm tan các cục máu đông trong năo bộ. “Ở Pháp, không có những công tŕnh nghiên cứu thuộc loại này, nhưng có rất nhiều vấn đề trong sự nhận biết bởi chính các bệnh nhân về các tai biến mạch máu năo”, G.S Amarenco (trung tâm nhận và điều trị các cơn đột qụy, bệnh viện Bichat, Paris) đă phàn nàn như vậy.

Vậy sự dốt nát tạo nên một sự mất cơ may. Chính v́ vậy phải biết rằng cơn đột qụy đôi khi xảy ra một cách đột ngột hay có thể tiến triển trong vài giờ. Cường độ của những rối loạn ban đầu biến thiên, cũng như biểu hiện triệu chứng của chúng, tùy theo vùng năo bộ bị liên hệ.

“ PHẢI HÀNH ĐỘNG TRONG V̉NG DƯỚI 3 GIỜ ”

Những triệu chứng thường gặp nhất là yếu cơ hay liệt một phần của cơ thể. Trong trường hợp bán thân bất toại (hémiplégie), mặt, cánh tay và cẳng chân cùng bên bị bại liệt cùng lúc. Có thể đó là một sự mất cảm giác: sự tê cóng hay không có cảm giác, một sự khó khăn về ngôn ngữ, khó phát âm hay á khẩu (aphasie) (nín câm, khó t́m ra chữ). Các bệnh nhân cũng có thể có những rối loạn thị giác, mù đột ngột một mắt, một nửa của thị trường. Hay những rối loạn cân bằng hay tri thức, có thể dẫn đến hôn mê. Triệu chứng đầu tiên có thể là đau đầu, đột ngột, không b́nh thường, rất dữ dội. Những triệu chứng ngay cả tạm thời đều cần được điều trị cấp cứu.

Sự thông tin là cơ bản. Nhưng sự thông tin này phải được điều hợp với một một điều trị cấp cứu ngoài bệnh viện và một tổ chức ngay trong ḷng bệnh viện rất nhanh chóng. “ Trong trường hợp tai biến mạch máu năo, phải hành động trong ṿng dưới 3 giờ. Ở Pháp phần lớn các bệnh nhân đều ở xa giới hạn này. Phải tiến hành một chiến dịch thông tin rộng lớn để dạy cho các bệnh nhân nhận biết các triệu chứng của họ. Đồng thời phải đưa y tế cộng đồng vào trong trường học để giảng dạy cho các trẻ em biết nhận biết các bệnh tật, nhồi máu, đột qụy , v...v, G.S Amarengo đă giải thích như vậy.
(LE FIGARO 11/12/2008)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 107 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (2/1/2009)

4/ TIÊN ĐOÁN SỚM MỨC ĐỘ TRẦM TRỌNG CỦA NHỮNG THƯƠNG TỔN TRONG TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO.

Imagerie. Tiên đoán mức độ nghiêm trọng của một tai biến mạch máu năo trong ṿng vài phút : đó là điều có thể thực hiện được nhờ một logiciel kết hợp với kỹ thuật chụp h́nh ảnh bằng IRM (résonance magnétique), được hiệu chính bởi các nhà khoa học của CNRS. Được đặt tên là Neurinfarct, logiciel phát hiện, từ những phim chụp cổ điển, điều mà các thầy thuốc chuyên khoa thần kinh không thể thấy bằng mắt trần và đặt tên cho vùng này của năo bộ là vùng “ tranh tối tranh sáng thiếu máu cục bộ ” (zone de “ pénombre ischémique ”). Đó là vùng bị thiếu máu, nơi nhồi máu năo sẽ được tạo thành và lan rộng nhanh chóng trong vài giờ sau đó. Thế mà, trái với điều xảy ra ở nhồi máu cơ tim, vùng này vẫn có khả năng sống. Do đó, việc cứu được vùng tranh tối tranh sáng này là điều có thể thực hiện được, nếu bắt đầu cho càng sớm càng tốt thuốc làm tan huyết khối (thrombolytique), điều trị cấp cứu của tai biến mạch máu năo.

Ngày nay, để đánh giá một cách tinh tế mức độ lan rộng của các tổn hại, phải thực hiện IRM kết hợp tiêm thuốc cản quang, một giai đoạn kéo dài, không phải luôn luôn có thể thực hiện được ở pḥng cấp cứu. Với Neurinfarct sẽ miễn được giai đoạn này. Phương pháp này đă được trắc nghiệm thành công nơi khoảng 100 bệnh nhân trong bối cảnh nghiên cứu lâm sàng. Phương pháp Neurinfarct cũng có thể được sử dụng để đánh giá những điều trị mới của tai biến mạch máu năo.
(SCIENCES ET AVENIR 1/2009)

florida80
05-12-2019, 14:02
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 114 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (20/2/2009)

2/ NGHẼN MẠCH PHỔI ĐƯỢC PHÁT HIỆN TỐT HƠN Ở CÁC THIẾU NIÊN

Măi đến nay việc xác nhận chẩn đoán huyết khối tĩnh mạch sâu (thrombose veineuse profonde) hay nghẽn mạch phổi (embolie pulmonaire) ở trẻ em và thiếu niên là điều khó khăn. Nhờ sự sử dụng các scanner multidétecteur thuộc thế hệ mới nhất, người ta có thể đánh giá rằng nguy cơ này nằm trong khoảng 15% và 20% sau vài can thiệp ngoại khoa chỉnh h́nh hay khi có những rối loạn đông máu.
(SCIENCES ET AVENIR 2/2009)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 119 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (31/3/2009)

7/ VỚI NGÀY CÀNG NHIỀU NHỮNG CHUYẾN BAY ĐƯỜNG DÀI, TỶ LỆ MẮC CÁC BỆNH LƯ NGÀY CÀNG BAY CAO

Hiện nay, số hành khách hàng không đạt gần 2 tỉ mỗi năm. Các nguy cơ huyết khối nghẽn tĩnh mạch (thromboembolie veineuse) trong các chuyến bay đường dài, sự tiếp xúc với các bức xạ vũ trụ, những tác dụng do lệch giờ giấc và những thiếu sót về chất lượng khí trong các cabine, kết hợp lại để làm gia tăng những vấn đề sức khỏe liên kết với những chuyến không hành. Từ nay, vấn đề năng lực vật lư để thực hiện một chuyến không hành được đặt ra một cách gay gắt, đứng trước số lượng rất quan trọng các cá nhân, các khách du lịch hay những hành khách đi công tác ; Các hành khách ngày càng ư thức những vấn đề liên quan với các chuyến bay. Các thăm ḍ cho thấy rằng 95% các cá nhân vốn có những vấn đề sức khỏe, thích được nhận nhiều lời khuyên về y tế trước khi bay.

ĐỘ CAO TỪ 1524 ĐẾN 2438 m

Đâu là những vấn đề sức khỏe liên kết với những chuyến bay thương măi? Danielle Silverman và Mark Gendreau (Hoa Kỳ) đă điểm lại các tư liệu y học trong The Lancet.
• Áp suất bên trong cabine : sự điều áp (pressurisation) tương ứng với một độ cao 1524 đến 2438m, điều này khả dĩ gây nên những triệu chứng của bệnh ở độ cao (mal de l’altitude) ngay sau 3 giờ bay. Một điều áp ở cao độ 2.438 m làm giảm Pa02 từ 95 mmHg xuống c̣n 60, với một sự giảm 3-4% độ bảo ḥa của oxyhémoglobine; các hành khách bị bệnh phổi tắc nghẽn măn tính (BPCO) có thể bị một suy hô hấp nhẹ trong một chuyến bay.

Sau một phẫu thuật quan trọng, nên khuyên bệnh nhân phải đợi 2 tuần trước khi bay v́ lẽ khi áp suất bị giảm, sẽ có sự nỡ của chất khí (expansion des gaz) bên trong cơ thể.


• Chúng ta không nghĩ đầy đủ đến sự kiện là một t́nh trạng thiếu oxy hơi giảm áp (une hypoxie légèrement hypobare) làm gia tăng độ keo (viscosité) của máu và rằng sự mất nước cũng làm gia trọng độ keo này. Sự pḥng ngừa huyết khối (thromboprophylaxie) dựa trên những lời khuyên bỏ rượu, bỏ caféine, tránh sự bất động, với chỉ định dùng HBPM (héparine trọng lượng phân tử thấp) đối với những hành khách có nguy cơ ở mức độ vừa phải và đă không sử dụng thuốc kháng đông một cách thường quy. Việc sử dụng bas de contention thường hữu ích.


NHỮNG BỨC XẠ MẶT TRỜI
• sự tiếp xúc với các tia vũ trụ, nghĩa là những tia xuất phát từ hệ mặt trời, được liên kết với các hạt nhỏ (particules) của sưởi ấm mặt trời. Nhiều ung thư đă được liên kết với các tia vũ trụ (vú, da, u hắc tố) và những lời khuyến nghị đă được đưa ra nhằm giới hạn việc tiếp xúc của các nhân viên phi hành.

Những nghiên cứu về vấn đề này măi đến nay không cho phép xác định mối nguy cơ. Tuy nhiên, Cơ quan quản trị hàng không Hoa Kỳ khuyến nghị rằng các phụ nữ có thai (nhân viên phi hành hay hành khách) nên t́m kiếm trên Internet những thông tin phát xuất từ hệ báo động về những bức xạ mặt trời trước khi bay để không vượt quá giới hạn 1mSv (millisievert).


• Sự chênh lệch giờ giấc (décalage horaire hay jet lag), được liên kết với sự bất đồng bộ của các đồng hồ sinh học. Những loại thuốc khác nhau đă được đề nghị, nhưng mélatonine vẫn là điều trị chuẩn. Một phân tích méta 10 công tŕnh nghiên cứu (Cochrane) đă kết luận rằng uống 0,5 đến 5mg vào lúc ngủ trước khi đến, có hiệu quả làm giảm những cảm giác gây ra do sự thay đổi múi giờ.


• Các bệnh nhiễm trùng : việc g̣ bó trong những khoảng không gian giới hạn, trong những khoảng thời gian kéo dài, làm dễ sự phát tán của những tác nhân nhiễm khuẩn. Từ năm 1946, những trận dịch đă được liên kết với các hành khách hàng không như bệnh đầu mùa, bệnh lao, bệnh cúm, bệnh sởi, SRAS, các viêm ruột do siêu vi trùng.


Bây giờ các công ty hàng không sử dụng những máy lọc có hiệu quả cao để đổi mới hơn 50% không khí của cabine. Nguy cơ bị truyền bệnh trên máy bay được giới hạn vào những người ngồi gần một bệnh nhân, khoảng cách dưới hai hàng ghế. Người ta thiếu các dữ kiện về quy mô của các sự cố y khoa xảy ra trong các máy bay. Nhưng hầu hết đều không đáng kể và liên hệ đến những người trên 70 tuổi.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 3/3/2009)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 265 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (7/4/2012)

5/ BƯỚC ĐỀU PHẢI CHĂNG CÓ THỂ CẢI THIỆN HY VỌNG SỐNG ?

Pesseur André Vacheron
Président honoraire de l’Académie nationale de médecine

Quote:

15 phút hoạt động vật lư mức độ nhẹ mỗi ngày làm gia tăng hy vọng sống 3 năm, theo một công tŕnh nghiên cứu của Đài Loan được công bố năm 2011.
150 phút bước mỗi tuần được khuyến nghị đề pḥng ngừa những nguy cơ tim mạch.


T́nh trạng bất hoạt vật lư, thường đi đôi với một chế độ ăn uống quá nhiều calorie, làm dễ sự tăng thể trọng, chứng béo ph́, cao huyết áp, những bất quân b́nh lipide và bệnh đái đường.

Sự nhàn rỗi không hoạt động (sédentarité : từ chữa latin “ sedere ” nghĩa là ngồi) là một trong những tai ương của thế giới ngày nay. Thời gian trôi qua trước một màn ảnh ordinateur hay máy truyền h́nh đă trở thành một chỉ dấu cổ điển của t́nh trạng không hoạt động này. Đối với Tổ chức y tế thế giới, những người thực hiện dưới 30 phút mỗi ngày hoạt động vật lư ở mức trung b́nh có thể được xem như bất hoạt về mặt vật lư. T́nh trạng bất hoạt vật lư (inactivité physique) gia tăng với tuổi tác, bị làm trầm trọng bởi những yếu tố xă hội học và tâm lư học. Con người hiện đại không biết bước, chỉ biết xê dịch bằng xe hơi, các cầu thang cơ học và các thang máy.

T́nh trạng không hoạt động vật lư, thường đi đôi với một chế độ ăn uống quá giàu calories, làm dễ sự gia tăng thể trọng (surpoids), chứng béo ph́, cao huyết áp, những t́nh trạng bất quân b́nh lipide và bệnh đái đường. Đó là một yếu tố độc lập của tỷ lệ bệnh tật và tỷ lệ tử vong tim mạch. Ở những người bị bệnh đái đường, hoạt động vật lư cải thiện sự bắt giữ glucose bởi các tế bào cơ, gia tăng tính nhạy cảm đối với insuline và làm dễ sự kiểm soát đường huyết. Đó là một yếu tố quan trọng của điều trị. Ngày nay ta biết rằng những hiện tượng viêm làm dễ sự phát triển chứng xơ mỡ động mạch (athérosclérose).

SỰ TĂNG CAO CỦA CHOLESTEROL TỐT.

Một hoạt động vật lư đều đặn làm giảm những chỉ dấu (marqueur) của hiện tượng viêm. Nó cũng làm giảm sự ngưng kết của các tiểu cầu (agrégation des plaquettes) máu và nguy cơ bị huyết khối (thrombose). Hoạt động vật lư làm gia tăng “ cholestérol tốt ” HDL, có tác dụng bảo vệ thành mạch máu. Nó tạo điều kiện để làm giảm t́nh trạng tăng thể trọng, bệnh béo ph́ và sự nhàn rổi không hoạt động, cũng là những yếu tố nguy cơ làm xuất hiện các ung thư.

Câu trả lời xác định cho câu hỏi ban đầu một lần nữa vừa được xác nhận bởi những kết quả của một công tŕnh nghiên cứu của Đài Loan được công bố trong Lancet ngày 1 tháng 10 năm 2011.

Các tác giả (Chi Pang Wen và các cộng sự viên) đă theo dơi hàng năm từ năm 1996 đến 2008 (trung b́nh 8 năm) một tập hợp 416.175 người (199.265 đàn ông và 216.910 phụ nữ) tuổi tối thiểu 20. Bảng câu hỏi ban đầu liên quan đến lối sống và hoạt động vật lư của những người được tuyển mộ. Hoạt động được đánh giá theo cường độ liên quan với những tương đương chuyển hóa : nhẹ như bước thông thường, vừa phải như chạy jogging, trung b́nh như bước nhanh, mạnh như chạy bộ, và theo lượng, số phút mỗi tuần.

Trong 8 năm, so sánh với những người không hoạt động, tỷ lệ tử vong toàn thể của những người có một hoạt động vật lư nhẹ (đi bộ b́nh thường) đă giảm 14%, tỷ lệ tử vong tim mạch giảm 19%, tỷ lệ tử vong động mạch vành 25%, tỷ lệ tử vong do tai biến mạch máu năo giảm 12%, tỷ lệ tử vong do bệnh đái đường 1%, tỷ lệ tử vong do ung thư 10%.

Sự giảm tử vong toàn bộ tỷ lệ với thời gian hoạt động vật lư hàng ngày và cường độ của nó : 15 phút hoạt động vật lư nhẹ mỗi ngày làm gia tăng hy vọng sống 3 năm, lợi ích gia tăng với thời gian và cường độ của hoạt động mỗi ngày.

Công tŕnh nghiên cứu của Đài Loan đă có tính đến nhiều yếu tố có khả năng gây nhầm lẫn, những chỉ dấu của một t́nh trạng sức khỏe cơ bản tốt và những kết quả của nó đă không khác nhau tùy theo tuổi tác, giới tính, trọng lượng, sự hiện diện của một cao huyết áp hay bệnh đái đường.

Nhiều công tŕnh nghiên cứu đă chứng minh lợi ích, trong pḥng ngừa tim mạch, của việc bước ít nhất 30 phút mỗi ngày hay 150 phút mỗi tuần. Công tŕnh nghiên cứu của Wen và các cộng sự viên chứng tỏ rằng hoạt động vật lư hàng ngày, ngay cả nhẹ, cũng có lợi ích. Thế mà hoạt động như thế không khó thực hiện cũng chẳng tốn kém ǵ...
(LE FIGARO 2/4/2012)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 281 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (24/9/2012)

3/ NHỮNG BỆNH TIM MẠCH Ở PHỤ NỮ : MỘT BÁO ĐỘNG ĐỎ.

GS Claire Mounier-Vehier, phó chủ tịch của Liên đoàn tim học Pháp, Trưởng khoa y học mạch máu và cao huyết áp thuộc bệnh viện tim của CHRU de Lille, giải thích làm sao kềm hăm tiến triển gia tăng của những bệnh lư này.

Hỏi : Ở phụ nữ, tỷ lệ tử vong do các bệnh tim mạch là ǵ ?
GS Claire Mounier Vehier : Theo registre của Hiệp hội tim học châu Âu, ngày nay, sau thời kỳ măn kinh, cứ 3 phụ nữ có một chết v́ một trong những bệnh tim mạch này, giết chết c̣n hơn cả ung thư vú ! Và, từ ít lâu nay, ta chứng thực rằng những bệnh lư này cũng ảnh hưởng lên những phụ nữ trẻ hơn, mặc dầu họ c̣n dưới tác dụng bảo vệ của oestrogène.

Hỏi : Sau thời kỳ măn kinh, những hormone này có một tác dụng bảo vệ bằng cách nào ?
GS Claire Mounier Vehier : Phải phân biệt những oestrogène tự nhiên với những oestrogène tổng hợp. Những oestrogène tự nhiên có một tác dụng giăn mạch, giữ cho các động mạch và các tĩnh mạch được mềm dẻo. Chúng cũng có một tác dụng chống huyết khối (action antithrombotique) và làm dễ sự tổng hợp cholestérol loại tốt. 5 năm sau thời kỳ măn kinh, với sự đánh mất oestrogène, các phụ nữ bị đối đầu với những nguy cơ khác nhau.

Hỏi : Tại sao tai ương này nói chung bị đánh giá thấp ở các phụ nữ ?
GS Claire Mounier Vehier :Theo những kết quả của rất nhiều công tŕnh nghiên cứu được tiến hành chủ yếu ở đàn ông, ta hằng nghĩ rằng những người đàn ông bị nguy cơ hơn nhiều do các yếu tố làm dễ như thuốc lá, sự căng thẳng nghề nghiệp, một sự tiêu thụ rượu quá mức, một t́nh trạng tăng thể trọng, một sự thặng dư cholestérol. Nếu ta chứng thực một tỷ lệ lưu hành gia tăng những bệnh tim mạch này ở các phụ nữ, đó là bởi v́ họ đă theo cùng những lối sống.

Hỏi : Trong đời sống một phụ nữ phải chăng có vài giai đoạn trong đó họ phải đặc biệt tự theo dơi hay không ?
GS Claire Mounier Vehier : Có 3 nguyên tắc. 1. Sự sử dụng thuốc ngừa thai chứa œstrogène tổng hợp, chỉ có thể được quyết định nếu không có tiền sử huyết khối (thrombose) và sau khi thực hiện một bilan lipid, đường và đo huyết áp. 2. Thai nghén, trong đó cùng những biện pháp tỏ ra cần thiết. 3. Thời kỳ chu măn (périménaupose) (trong 5 năm sau khi tắc kinh), trong giai đoạn này sự phát hiện một bệnh động mạch vành bằng épreuve d’effort (thí dụ trên thảm lăn) hay bằng siêu âm tim phải được thực hiện. Những bilan lipidique là thiết yếu. Nếu tất cả những kết quả đều tốt, một check-up mới sẽ được dự kiến 5 năm sau.

Hỏi : Những phụ nữ nào đặc biệt có nguy cơ ?
GS Claire Mounier Vehier : Theo Hiệp hội tim Hoa Kỳ (AHA), đó là những phụ nữ hút thuốc (bắt đầu từ 4 điếu mỗi ngày), những phụ nữ có một thời kỳ măn kinh sớm (trước 40 tuổi), những phụ nữ chịu nhiều căng thắng (grandes stressées), những người bị cao huyết áp, bị bệnh béo ph́, những bệnh nhân đái đường và những nạn nhân của một tai biến mạch máu. Tất cả phải tránh điều trị bằng hormone có chất cơ bản là œstrogène tổng hợp.

Hỏi : Những bệnh tim mạch nào là nguy hiểm nhất ?
GS Claire Mounier Vehier : 1. Những bệnh lư động mạch chủ, trong đó viêm động mạch các chi dưới, ngày càng thường gặp. 2. Nhồi máu cơ tim. 3. Tai biến mạch máu năo.

Hỏi : Ở Pháp, những biện pháp nào được thực hiện để pḥng ngừa những bệnh này ?
GS Claire Mounier Vehier : So với những người đàn ông, các phụ nữ không được phát hiện và điều trị đến nơi đến chốn. Điều này giải thích ở các phụ nữ sự tiến triển của những trường hợp tử vong do những bệnh này. Sự tŕ chậm trong điều trị là một vấn đề khẩn cấp.

Hỏi : Bà sẽ đề nghị ǵ nhân hội nghị sắp đến của Liên đoàn tim học Pháp ?
GS Claire Mounier Vehier : Thiết lập một sự hợp tác chặt chẽ giữa các thầy thuốc điều trị, các thầy thuốc chuyên khoa tim, các thầy thuốc chuyên về mạch máu (angiologue) và các thầy thuốc phụ khoa để họ xác lập đối với mỗi bệnh nhân những protocole thăm khám phát hiện. Mục đích là phát hiện càng sớm càng tốt sự xuất hiện của một vấn đề tim mạch. Một công tŕnh nghiên cứu dài hạn, hiện được thực hiện bởi GS Nicolas Dauchin (bệnh viện châu Âu Georges-Pompidou) chủ yếu để nhận diện tốt hơn những dấu hiệu báo động của những bệnh lư này ở phụ nữ.
(PARIS MATCH 13/9 – 19/9/2012)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 285 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (10/11/2012)

7/ NHỮNG VẬN ĐỘNG VIÊN THỂ THAO KHÔNG CHUYÊN : NHỮNG NGUY CƠ TAI BIẾN TIM.

GS GS Franois Carré, médecin du sport et cardiologue thuộc hôpital Pontchaillou de Rennes, cảnh giác chống lại những hiểm nguy khả dĩ của một thực hành thể thao cường độ mạnh ở những người không được huấn luyện.

Hỏi : Khi nào ông cho rằng một thực hành thể thao (pratique sportive) trở nên quá mạnh ?
GS François Carré : Có hai giai đoạn trong quá gắng sức. Trong giai đoạn đầu tiên, những vận động viên thể thao này khó thở vừa phải. Họ c̣n có thể huưt sáo, hát lầm rầm nhưng buộc phải dừng lại từng lúc để cơ thể của họ thích ứng với những nhu cầu oxygène nhiều hơn. Giai đoạn thứ hai, ở những người chơi thể thao không chuyên (sportifs amateurs) này, có những nguy cơ. Thở rất hổn hển, bây giờ các vận động viên này buộc cơ thể ḿnh phóng thích quá nhiều adrénaline (một kích thích tố, khi được tiết quá mức, có hại cho tim), hormone này có thể gây nên một loạn nhịp tim, và, trong những trường hợp nghiêm trọng nhất, chết đột ngột.

Hỏi : Những nguyên nhân thường nhất của tai biến tim là ǵ ?
GS François Carré : Tuổi tác là một yếu tố quan trọng. Sau 35 tuổi, thường nhất đó là vỡ một mảng xơ mỡ (plaque d’athérome) trong khi gắng sức. Mảng vỡ bít một động mạch (huyết khối : thrombose) mang máu đến tim, và tim, do thiếu oxy, khi đó sẽ bị loạn nhịp, có thể có biến chứng rung thất (fibrillation ventriculaire) gây nên chết đột ngột. Nguy cơ này gia tăng ở những bệnh nhân bị một bệnh tim hay đă từng bị một nhồi máu. Trong giai đoạn hai quá mạnh này, thể thao không có tác dụng có lợi.

Hỏi : Ở những phụ nữ không được tập luyện, phải chăng những nguy cơ giống với những nguy cơ ở đàn ông?
GS François Carré : Ta ghi nhận ít trường hợp chết đột ngột hơn nhiều ở những phụ nữ này (cứ 6 và 8 trường hợp chết đột ngột xảy ra ở đàn ông th́ chỉ có một ở phụ nữ). Điều này ta không biết rơ tại sao. Phải chăng có lẽ bởi v́ những phụ nữ ít đua tranh hơn ?

Hỏi : Có những điều kiện môi trường không thuận lợi làm gia tăng những nguy cơ ?
GS François Carré : Có 3 trường hợp chính. 1. Trời quá nóng : trên 30 độ C. Điều này sẽ làm gia tăng quá mức nhiệt độ của cơ thể. Cơ thể sẽ khó làm quân b́nh giữa quá tŕnh làm lạnh (refroidissement) và sự cung cấp máu cần thiết đến các cơ đang hoạt động. 2. Trời quá lạnh : dưới 5 độ C. Các huyết quản khó mở ra để tránh quá tŕnh làm lạnh của cơ thể, điều này làm trở ngại tuần hoàn máu, có thể dẫn đến một sự thiếu oxy ở tim. 3. Khám phá mới đây : sự ở nhiễm trong những thành phố lớn. Trong trường hợp gắng sức mạnh, khi sự ô nhiễm đạt đến cao điểm có thể làm dễ sử xuất hiện loạn nhịp ở những người có sức khỏe kém.

Hỏi : Những triệu chứng nào nhất thiết buộc vận động viên phải dừng lại trong khi hoạt động thể thao ?
GS François Carré : Một cơn đau ở ngực, hồi hộp, những cảm giác chóng mặt, t́nh trạng khó ở, buộc phải ngừng tức khắc và, về sau, phải thăm khám thầy thuốc của ḿnh bởi v́ có thể có một vấn đề tim gây nên. Quá nhiều người đàn ông tin chắc rằng tim của họ được miễn dịch do một sự luyện tập đều đặn, và khi một triệu chúng xuất hiện, họ nghĩ rằng nguyên nhân là ở nơi khác : trung b́nh 50% những tai biến tim xảy ra ở những vận động viên thể thao phớt lờ những triệu chứng báo động.

Hỏi : Những lời khuyên của ông để thực hành một môn thể thao theo đúng quy tắc ?
GS François Carré : Trước hết, thể thao mang lại nhiều lợi ích : nó làm hạ huyết áp, nồng độ cholestérol xấu, cải thiện khả năng giăn của các huyết quản, làm giảm nguy cơ huyết khối (thrombose), làm chậm tần số tim. Nhưng trong trường hợp thực hành xấu, thể thao cường độ mạnh có thể gây nên những tai biến tim.

Về chạy bộ, phải bắt đầu từ từ (trong khoảng 10 phút) và chậm lại từ từ, uống nhiều nước trong khi gắng sức sau 40 hay 45 phút. Đối với những người nghiện thuốc lá, đừng bao giờ hút trong hai giờ trước và sau khi thực hành thể thao. Trong cuộc sống hàng ngày, một bài tập dai sức (exercice d’endurance), như bước nhanh trong 30 phút (ngay cả bị phân đoạn, như 3 lần mỗi lần 10 phút), đặc biệt tốt cho tim.
(PARIS MATCH 25/10 – 31/10/2012)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 286 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (19/11/2012)

8/ MỘT ĐIỀU TRỊ MỚI ĐỐI VỚI HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH SÂU

Việc điều trị huyết khối tĩnh mạch sâu (TVP : thrombose veineuse profonde) trong nhiều trường hợp trở nên dễ dàng hơn.

TĨNH MẠCH. Từ cuối hè, một thuốc kháng đông mới được sử dụng để điều trị bệnh huyết khối tĩnh mạch sâu (TVP), ngày xưa được gọi là viêm tĩnh mạch (phlébite). Bệnh này được đặc trưng bởi một cục máu đông được tạo bởi chất sợi huyết (caillot de fibrine) trong một tĩnh mạch ở sâu, thường nhất là ở cẳng chân. Đó là một bệnh thường xảy ra, gây bệnh cho khoảng 1 người trên 1000 trước 60 tuổi, những nguy cơ được nhân lên gấp 10 sau 75 tuổi.

Huyết khối tĩnh mạch sâu, trong 60% các trường hợp, được phát hiện bởi một triệu chứng đau đột ngột và dài lâu. Phù, giới hạn các cử động và tăng cao nhiệt độ của da cũng có thể xuất hiện. Những triệu chứng này hiện diện trong một cẳng chân duy nhất, tính chất một bên (unilatéralité) là tiêu chuẩn chẩn đoán phân biệt chính. Vài yếu tố nguy cơ có thể định hướng chẩn đoán như những can thiệp ngoại khoa, những chấn thương trên các chi dưới, các ung thư, các điều trị hormone, thai nghén và hậu sản, liệt giường hơn 3 ngày, voyages ở tư thế ngồi hơn 5 giờ và vài yếu tố di truyền gia đ́nh.

“ Công cụ chẩn đoán là định lượng các D-dimères, nếu âm tính, cho phép 95% loại bỏ chẩn đoán bệnh huyết khối nghẽn mạch (MVTE : maladie veineuse thromboembolique) ”, GS Pascal Priollet, trưởng khoa y khoa mạch máu (médecine vasculaire) thuộc groupe hospitalier Paris Saint-Joseph đă nhấn mạnh như vậy. Siêu âm Doppler sau đó là thăm khám quy chiếu. Một h́nh ảnh đen và trắng của hệ tĩnh mạch, thêm vào đó sự đo lường bằng siêu âm ḍng máu chảy trong các tĩnh mạch, cho phép thấy được các cục máu đông làm tắc luồng máu. Ngay khi nghi ngờ một huyết khối tĩnh mạch sâu, thầy thuốc bắt đầu một điều trị kháng đông để pḥng ngừa biến chứng chính khi cục máu đông di tản đến các lá phổi, nghẽn tắc động mạch phổi (embolie pulmonaire), gây chết người trong 5 đến 30% các trường hợp.

HỘI CHỨNG SAU HUYẾT KHỐI (SYNDROME POST-THROMBOTIQUE)

Điều trị gồm có tiêm một thuốc kháng đông trong những ngày đầu, liên kết với một antivitamine K, thường nhất sẽ được duy tŕ trong 3 tháng. Điều trị này cần một sự theo dơi nghiêm túc vài yếu tố đông máu để duy tŕ ở một trị số có thể chấp nhận được nguy cơ chảy máu bằng định lượng máu INR (International Normalized Ratio), một trong những indicateur rất thường thấy của sự đông máu. Từ cuối hè, các thầy thuốc có
một thuốc kháng đông mới dùng bằng đường miệng, Rivaroxaban (Xarelto), được cho đơn độc ngay lúc đầu và thành hai giai đoạn, trước hết với liều lượng mạnh trong 3 tuần, rồi với liều giảm bớt.

Ưu điểm chính : thuốc kháng đông mới không cần phải theo dơi máu.“ Đó là một bước tiến không thể tranh căi, nhưng sự dễ dàng sử dụng không được làm quên những nguy cơ liên kết với việc sử dụng của một thuốc kháng đông ”, BS Marc Samara, trưởng khoa gây mê hồi sức ở bệnh viện Cochin Hôtel-Dieu, Paris, đă nhắc lại như vậy. Thuốc không được cho khi chức năng thận bị giảm, điều này thường là trường hợp ở những người già, tuy vậy lại sử dụng nhiều nhất một điều trị như thế.

Ngoài ra, nếu có một chất đối kháng (antidote) đối với các antivitamine K trong trường hợp quá liều, th́ một công cụ như thế sẽ không có để sử dụng trước một hay hai năm đối với những thuốc chống đông mới. Sự phấn khởi của các chuyên gia do đó không ngăn cản họ chủ trương thận trọng và một sự kiên nhẫn nào đó để học làm chủ điều trị mới này.

Dầu thuốc kháng đông được cho là loại thuốc nào, thời gian điều trị nói chung là 3 tháng. Trong vài trường hợp, nhất là khi một yếu tố nguy cơ thường trực được nhận diện hoặc khi đó là một tái phát, thời gian này có thể được kéo dài. Ngoại khoa chỉ được chỉ định đối với dưới 5% những bệnh nhân có một nguy cơ rất cao nghẽn tắc động mạch phổi (embolie pulmonaire) hay không thể nhận một điều trị kháng đông. Cần giữ nhiều tháng contention élastique được cho vào lúc bắt đầu điều trị để pḥng ngừa tái phát và các biến chứng.

Biến chứng thứ hai có thể xảy ra sau một huyết khối tĩnh mạch sâu, đặc biệt là khi viêm tĩnh mạch xảy ra ở đầu gối hay cao hơn, là hội chứng sau huyết khối (syndrome post-thrombotique), xảy ra ở 30% những người đă bị một huyết khối tĩnh mạch sâu. Hội chứng này gây đau, tắc tĩnh mạch kéo dài, phá hủy các van tĩnh mạch, phù, giảm vi tuần hoàn và làm dễ sự xuất hiện một huyết khối tĩnh mạch sâu mới cũng như, đối với những trường hợp nặng, gây loét (ulcération)

Vậy sau một huyết khối tĩnh mạch sâu, điều quan trọng là phải duy tŕ một sự theo dơi đều đặn trong 3 đến 6 tháng và, nhất là đừng quên biến cố này để có thể nhận biết một cách dễ dàng hơn những triệu chứng sẽ được gán cho nó.
(LE FIGARO 5/11/2012)

9/ HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH SÂU : NGUY CƠ GIA TĂNG TRONG TRƯỜNG HỢP UNG THƯ.

Nhiều chiến lược pḥng ngừa nguy cơ bệnh huyết khối nghẽn mạch (MTVE) từ nay được thực hiện ở những bệnh nhân bị ung thư. Thật vậy, nguy cơ này nhân 4 khi có một ung thư, với một tỷ lệ mắc bệnh gia tăng bởi v́ bệnh nhân sống càng ngày càng lâu với ung thư.

Bệnh huyết khối nghẽn mạch (MTVE : maladie veineuse thrombo-embolique) là nguyên nhân thứ hai gây tử vong của những bệnh nhân bị ung thư. 20% bệnh huyết khối nghẽn mạch được liên kết với các ung thư. Chính ung thư có thể chịu trách nhiệm sự hiện diện của một cục máu đông hoặc bởi v́ nó gây nên những biến đổi trong những yếu tố đông máu hoặc bởi v́ khối u đè ép các tĩnh mạch gần đó. Điều trị ung thư cũng có thể là nguyên nhân : hóa học liệu pháp (chmiothérapie), hormonothérapie và vài điều trị chống ngưng kết có thể làm dễ bệnh huyết khối nghẽn mạch. Những système implantable để làm dễ hóa học liệu pháp làm gia tăng nguy cơ này cũng như những can thiệp ngoại khoa và đặc biệt là những can thiệp liên kết với ung thư. Sau cùng những bệnh nhân bị ung thư có thể buộc bị bất động trong những thời gian dài, điều này làm gia tăng nguy cơ huyết khối.

Những khuyến nghị hiện nay chỉ rơ rằng phải thiết đặt một điều trị pḥng ngừa những bệnh huyết khối nghẽn mạch khi một bệnh nhân ung thư chịu một nguy cơ phụ như một điều trị ngoại khoa, vài hóa học liệu pháp hay một sự liệt giường kéo dài. Những chambre implantable làm gia tăng chủ yếu nguy cơ huyết khối tĩnh mạch sâu của các chi dưới, với một nguy cơ nghẽn tắc động mạch phổi ít hơn. Sự thiết đặt một điều trị kháng đông trong trường hợp này chỉ được thực hiện nếu một huyết khối tĩnh mạch sâu phát triển.

CÁC THUỐC KHÁNG ĐÔNG.

Ở những bệnh nhân ung thư, các héparine có trọng lượng phân tử thấp (HBPM) chích là điều trị quy chiếu bởi v́ các antivitamine K dường như ít hiệu quả hơn đối với những huyết khối tĩnh mạch sâu liên kết với ung thư. Điều trị được duy tŕ trong tối thiểu 3 tháng để pḥng ngừa huyết khối và tốt hơn là 6 tháng nếu đó là một huyết khối đă xuất hiện. Chỉ khi người thầy thuốc dự kiến kéo dài điều trị ban đầu này th́ mới có thể chuyển qua các thuốc chống đông máu bằng đường miệng. Nếu không một trong những điều trị này có thể được áp dụng, th́ việc mổ để đặt một cái lọc (filtre) nhằm ngăn chặn sự đi lên của một cục máu đông đến phổi, có thể được chỉ định.

Ngoài ra những công tŕnh nghiên cứu dịch tễ học nhằm khảo sát mối liên hệ này giữa bệnh huyết khối nghẽn mạch và ung thư đă có thể chứng minh rằng, trong vài trường hợp, khi một huyết khối tĩnh mạch sâu hay một nghẽn tắc động mạch phổi không có nguyên nhân có thể nhận diện được (ngoại khoa, chấn thương, điều trị kích thích tố, thai nghén, liệt giường, du lịch), một ung thư sẽ được t́m thấy trong 6 đến 12 tháng sau chẩn đoán bệnh huyết khối nghẽn mạch. Những ung thư thường được gặp nhất trong những trường hợp đặc biệt này là những ung thư huyết học, những ung thư phổi và của ống tiêu hóa. Các chuyên gia hiện nay tự hỏi về lợi ích, đối với vài profile bệnh nhân huyết khối nghẽn mạch, t́m kiếm một ung thư khả dĩ xảy ra.
(LE FIGARO 5/11/2012)

10/ HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH SÂU : CẲNG CHÂN NẶNG HAY GIĂN TĨNH MẠCH CÓ PHẢI LÀ NHỮNG DẤU HIỆU BÁO ĐỘNG ?

“ Có hai cẳng chân nặng không phải là một triệu chứng báo hiệu huyết khối tĩnh mạch sâu, cũng như giăn tĩnh mạch (varices), GS Hervé Decousus, trưởng khoa nội và điều trị của CHU de Sainte-Etienne và phụ trách trung tâm thăm ḍ lâm sàng Inserm, đă nhắc lại như vậy. Mổ những tĩnh mạch, trên đó ta quan sát thấy một hồi lưu (reflux) nhẹ, sẽ không làm giảm những cẳng chân nặng. Cũng vậy, giăn tĩnh mạch và viêm tĩnh mạch không được lẩn lộn, ngay cả khi có những mối liên hệ với nhau.”

Varices là những tĩnh mạch bị giăn có thể thấy hay sờ được ở tư thế đứng, trong đó máu có thể đi ngược chiều, nhưng không gây hậu quả tai hại. Các varices có thể được điều trị nếu chúng gây nên quá nhiều khó chịu (đau, các rối loạn ở da, khó chịu về mặt thẩm mỹ) hay nếu kích thước quan trọng của chúng gia tăng nguy cơ chảy máu khi ta đụng chúng, mặc dầu những triệu chứng không tùy thuộc vào kích thước của các varices.

ECHODOPPLER SYSTEMATIQUE

Trong 20% các trường hợp, các varices xuất hiện sau một huyết khối tĩnh mạch sâu (TVP). Khi đó tĩnh mạch có thể rất bị tổn hại, do sự hiện diện của cục máu đông và tiến triển dễ dàng hơn thành loét (ulcère variqueux). Một echo-Doppler có thể phát hiện những di chứng của một huyết khối tĩnh mạch sâu và đưa đến một sự theo dơi sát hơn một varice phát xuất từ đó.

Huyết khối tĩnh mạch sâu cũng có thể gây nên phù và cảm giác cẳng chân nặng (jambe lourde) nhưng chỉ ở một phía. “ Một phụ nữ có thai kêu đau đột ngột ở lưng, nhất là về phía trái, với cẳng chân đỏ hồng và/hoặc phù có thể đó là một huyết khối tĩnh mạch sâu, GS Pascal Priollet, trưởng khoa y khoa mạch máu thuộc groupe hospitalier Paris Saint-Joseph đă chỉ rơ như vậy. Trái lại, nếu các cẳng chân nặng và phù cả hai bên, đó là do thai nghén, các triệu chứng này sẽ biến mất sau khi sinh.” Sự thiết đặt một contention élastique có thể cải thiện sự thoải mái. Ngược lại thể ngoại biên của huyết khối tĩnh mạch sâu rất thường liên kết với sự hiện diện của các varices bởi v́ sự tuần hoàn ít được thực hiện trong mạng tĩnh mạch ngoại biên hơn, do đó làm dễ sự tạo thành của các cục máu đông. Đôi khi được gọi là paraphlébite, thể ngoại biên của huyết khối tĩnh mạch sâu ít đáng lo ngại hơn so với thể sâu bởi v́ các biến chứng trong trường hợp này không trầm trọng như thế.

Mặt khác, các tĩnh mạch bị ảnh hưởng thường nhất có thể thấy được, điều này làm cho thể nông dễ chẩn đoán hơn. Tuy nhiên một công tŕnh nghiên cứu của Pháp mới đây trên 1500 bệnh nhân đă cho phép quan sát rằng, trong 25% các trường hợp huyết khối tĩnh mạch nông (TVS : thrombose veineuse superficielle), một huyết khối tĩnh mạch sâu cũng hiện diện. Mặt khác, 10% những bệnh nhân, ở họ khả năng một huyết khối tĩnh mạch sâu hay một nghẽn tắc động mạch phổi đă được loại bỏ, và như thế đă không nhận điều trị, có một tiến triển bất thuận lợi về một huyết khối tĩnh mạch sâu hay nghẽn tắc động mạch phổi. Sau cùng, 5% những bệnh nhân bị huyết khối tĩnh mạch nông có một nghẽn tắc động mạch phổi triệu chứng (embolie symptomatique). Một écho-Doppler từ nay được thực hiện một cách hệ thống để phát hiện những trường hợp huyết khối tĩnh mạch sâu liên kết và những tranh luận đang được tiến hành về lợi ích của một điều trị kháng đông liều thấp để pḥng ngừa những tiến triển thành nhưng dạng nghiêm trọng hơn.
(LE FIGARO 5/11/2012)

florida80
05-12-2019, 14:03
NHỮNG CƠ BẢN VỀ THỂ DỤC :
NẾU BẠN CÓ SỰ RỐI LOẠN CHẢY MÁU HOẶC ĐÔNG MÁU
( EXERCISE BASICS: If you have a Bleeding or Clotting Disorder )
Lynn Ly Phỏng Dịch theo thông tin Đại Học Y OHIO-Hoa Kỳ


TẬP THỂ DỤC CÓ TỐT CHO TÔI KHÔNG?

Có!Tập thể dục tốt cho bạn. Vai tṛ của tập thể dục là tăng cường hoạt động thể chất/vận động vật lư, sức khỏe và tinh thần và giao tế xă hội. Bác sĩ phẫu thuật tại Hoa Kỳ cho khuyến cáo phổ biến là những hoạt động thể chât/vận động vật lư "không cần phải vất vả." Những người ở tuổi trưởng thành nên cố gắng thực hiện trong ṿng 30 phút hoạt động hàng ngày hoặc nhiều hơn so với việc đi bộ trung b́nh 10000 bước mỗi ngày . Các loại tập thể dục có thể được tích lũy trong 5 đến 10 phút khởi đầu hoặc những vận động có thể làm liên tục. Điều quan trọng nhất là mọi người đang nhúc động .

TẠI SAO HOẠT ĐỘNG THỂ CHẤT/ VẬN ĐỘNG VẬT LƯ QUAN TRỌNG?

Mục đích của hoạt động thể chất VẬN ĐỘNG VẬT LƯ là:
• Bảo tồn hoặc khôi phục lại ROM (phạm vi cử động) và tính linh hoạt xung quanh các xương khớp

• Tăng điều kiện lưu thông khí trong cơ thể

• Tăng sức mạnh cơ bắp và sức chịu đựng(endurance)

• Tăng trang thái tâm lư lành mạnh

• Giảm những hung hiểm rủi ro sức khỏe ma` liên quan với một lối sống ít vận động


Cả hai sự xuất huyết tại cơ bắp và tại xương khớp đều khiến tế bào mô bị sa thải hoang phí ( atrophy = teo cơ). Điều này có thể dẫn đến nhừng xuất huyết mới, đau nhức, và cứng khớp và có thể gây tổn thuơng xương khớp.

Tập thể dục cũng được sử dụng như một công cụ pḥng chống bệnh tật. Những động tác co duỗi trợ giúp cải thiện tính linh hoạt, trợ giúp giảm thiểu nguy cơ chấn thương. Việc tạo điều kiện lưu thông khí trong cơ thể trợ giúp phổi và các cơ bắp cải thiện chức năng của chúng. Việc đào tạo ra năng lực cho phép cơ bắp thích ứng với yêu cầu mới đặt ra. V́ vậy, ít cóchấn thương xẩy ra cho cơ thể và điều này làm cho việc bảo vệ tốt hơn trong quá tŕnh nhiễm trùng và nhiễm bệnh.

Thông thường, việc kiên tŕ thực hiện là rất quan trọng để duy tŕ những lợi ích từ sự hoạt động. Hoạt động thể chất/vận động vật lư sẽ trợ giúp các chất dinh dưỡng được đưa đến các sụn của xương khớp. Điều này giúp ǵn giữ cho cơ bắp và các khớp xương mạnh, giảm thiểu sự mất xương, giúp có được dung dịch cần thiết cho xương sụn và giúp giảm bớt sự cứng đờ và cảm giác đau nhức tại các khớp xương. Hoạt động thể chất/vận động vật lư cũng có thể giúp cải thiện tuần hoàn, giảm thiếu suy tĩnh mạch (máu không thể trở về tim một cách dễ dàng), và gia tăng dung tích lá phổi mà kèm theo là chứng thuyên tắc phổi( PE = pulmonary embolism) . Tập thể dục có thể mang lại lợi ích bất cứ ai bị rối loạng đông máu hoặc rối loạn chảy máu.

TÔI NÊN THỰC THIỆN LOẠI THỂ DỤC NÀO?

Trước khi bắt đầu một chương tŕnh luyện tập thể dục, hăy tham khoải với bác sĩ của bạn. The dục nhẹ nhàng đến dùng mức độ vừa phải/ trung b́nh là tốt nhất để bắt đầu. Để đo lường sự nỗ lực của bạn, hăy sử dụng cách thử nghiệm "khả năng nói" như sau:
• Nếu bạn có thể hát trong khi tập thể dục, bạn đang tập luyện ở mức độ nhẹ nhàng.

• Nếu bạn có thể nói chuyện, bạn đang tập luyện ở mức vừa phải.

• Nếu bạn có khó khăn trong việc tiếp tục đàm thoại, bạn đang tập luyện ở cường độ mạnh.


Chỉ tiêu nhịp tim (THR=target heart rate) là một cách khác để theo dơi cường độ mà là phù hợp với lứa tuổi và điều kiện thế chất của bạn . Các chuyên gia y tế , bác sĩ của bạn có thể giúp bạn t́m hiểu làm thế nào để sờ mạch tim và cần biết những ǵ về chỉ tiêu nhịp tim của bạn nên có.

Đi bộ, tản bộ, bơi lội, đạp xe đạp (có đội mũ an toàn), khiêu vũ, chơi tṛ ném và chụp đĩa (Frisbee), chơi golf, và tập Thái Cực Quyên là những ví dụ tốt về sự lựa chọn an toàn cho hoạt động thể chất/vận động vật lư. Các động tác làm nóng cơ thể ( vận động nhẹ nhàng khoảng 5-10 phút), các động tác co duỗi (không co thắt quá, và căng giăn nhẹ nhẹ)trước khi thế dục, và những động tác làm giảm thân nhiệt ngay sau khi thể dục cũng rất quan trọng như kiếu vận động mà bạn đă lựa chọn. Khi cơ bắp được làm ấm lên th́ sẽ có ít nguy cơ bị chấn thương.

Đặc biệt nguy hiểm là không vận động nếu bạn có rối loạn đông máu. Bạn cần phải chắc chắn rằng bạn di chuyển/ vận động nếu bạn đă ngồi hoặc không hoạt động trong khoảng thời gian lâu hơn 2 giờ tại một thời điểm. Bởi v́ các cơ bắp của bạn hoạt động như một máy bơm. Khi cơ bắp co giăn, chúng trợ giúp máu di chuyển trong cơ thể của bạn.

Dưới đây là một số ư tưởng để ǵn giữ bạn di động/chuyến động. Đây là những việc đơn giản bạn có thể làm trong khi ngồi tại nơi làm việc hoặc trong xe, hoặc trên máy máy khi đi du lịch:
• Hăy đứng dậy và đi bộ trong vài phút

• Nhấp nhún lên xuống mắt cá chân của bạn

• Co lại và duỗi giăn cơ bắp chân của bạn

• Tháng ba tại chỗ

• Nắm bóp bàn tay của bạn



PHẢI LÀM G̀ SAU KHI BỊ THƯƠNG?

Những dấu hiệu tổn thương bao gồm sưng, đỏ, nóng ấm, và sự vận động suy giảm tại một khớp xương cùng như đau nhức khi chạm vào. Những dấu hiệu sớm của một chấn thương, trước khi bị sưng, th́ bao gồm ngứa ran, nóng ấm hoặc bất kỳ biến đổi được ghi nhận trong khu vực bị căng thẳng hoặc bị chấn thương.

Đây là các bước thực hiện ngay sau khi xảy ra một thương tích. Sử dụng cách nhớ với chữ R.I.C.E(rice=gạo)

R.I.C.E
• Thả lỏng cho vùng bị ảnh hưởng được nghỉ ngơi (Rest the affected part)

• Làm đông lạnh khu vực đó bằng cách trườm nước đá trong ṿng 15 phút mỗi giờ.(Ice the area by applying ice for 15 minutes every hour)

• Bó nén khu vực đó bằng cách sử dụng miếng băng quấn có tính đàn hồi (Compress the area by using an ace wrap)

• Nâng cao vùng bị ảnh hưởng( Elevate the affected area..


Một vành đai để đeo hoặc bó thanh nẹp có thể được sử dụng nếu sự hỗ trợ là cần thiết. Bạn có thể cần được tham khám bởi bác sĩ của bạn.

Nếu các bước này không thay đổi các triệu chứng của bạn hoặc nếu bạn nhận thấy bạn đang khó thở, thở dốc, thở hổn hển (SOB = short of breath) hoặc đau tức ngực, bạn có thể trảichứng thuyên tắc phổi(PE = pulmonary embolism).

Những vấn đề cần sự chăm sóc y khoa ngay lập tức:
• Khu vực khớp xương bị chảy máu: các triệu chứng bao gồm ngứa ran, nóng ấm, đau nhức và sưng.

• Thuyên tắc phổi (PE): Các triệu chứng bao gồm khó thở/thổ dôc/thở hổn hển và đau ngực


Hăy tham khảo bác sĩ của bạn nếu bạn có bất kỳ thắc mắc ǵ.

florida80
05-12-2019, 14:07
Phương pháp truyền thống trị muỗi


https://i.imgur.com/IniBnoU.jpg

https://i.imgur.com/xWIUivK.jpg

Hạt của cây dầu mè

VOA
Một số người Châu Phi và Ấn độ theo truyền thống thường đốt dầu làm từ hạt của cây dầu mè, tên khoa học là Jatropha curcas, để đốt đèn chống muỗi. Các nhà khoa học thuộc Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ giờ đây đă biết v́ sao phương pháp này lại có hiệu quả đến thế.

UserPostedImage
Cây dầu mè (Jatropha curcas)
​​
Dược sĩ Charles Cantrell đă phân tích các đặc tính của khói dầu mè, và xác định được một số hợp chất tích cực có khả năng chống muỗi, kể cả lần đầu tiên theo lời ông, một loại chất béo trung tính, là triglyceride.

Dược sĩ Cantrell cũng đang t́m những hợp chất tương tự trong cây bánh ḿ, c̣n được gọi là cây xa-kê, hy vọng có thể phối hợp hai nguồn này để tạo ra một loại thuốc diệt muỗi hữu hiệu hơn.

Mặc dầu là loại cây phát xuất từ Châu Mỹ, cây dầu mè Jatropha curvas giờ đây mọc trên khắp vùng nhiệt đới và được trồng tại nhiều nơi để làm cây thuốc và đă nhanh chóng chiếm được một vị thế vững chắc.

Cây này có thể độc hại, nhưng chất dầu chiết ra từ hạt và cây có thể được sử dụng trong một loạt thuốc cổ truyền để trị các chứng bệnh như ung thư, phỏng, đau răng, và ợ nóng.



Ở VN th́ hay đối vỏ bưởi , vỏ cam, vỏ quưt phơi khô, rồi quạt nhẹ nhẹ để hun khói gầm giường , gầm tủ mỗi khi về chiều ... để pḥng chống muỗi ...

florida80
05-12-2019, 14:11
Bệnh viêm màng năo tại Hoa Kỳ đă tăng lên 47 ca


https://i.imgur.com/s4GDY9x.jpg










Bức ảnh được cung cấp bởi Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh Hoa Kỳ CDC cho thấy một nhánh nấm Aspergillus được cho là thủ phạm của đợt bùng phát viêm màng năo.


Bức ảnh được cung cấp bởi Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh Hoa Kỳ CDC cho thấy một nhánh nấm Aspergillus được cho là thủ phạm của đợt bùng phát viêm màng năo.


VOA - 05.10.2012
Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh Hoa Kỳ CDC nói rằng số ca được xác nhận viêm màng năo nấm hiếm hoi do chích steroid đă tăng từ 34 lên 47. Số các ca tử vong được xác nhận vẫn giữ nguyên 5 người.

Số liệu mới này đă làm cộng đồng y khoa Hoa Kỳ lo ngại, các nhân viên điều tra vội vă thông báo cho hằng trăm và có thể hằng ngàn người trên cả nước rằng các vụ chích steroid vào tủy sống để chữa đau lưng có thể đă bị nhiễm độc bởi một loại nấm.

Các điều tra viên nói rằng những bệnh nhân tại 7 tiểu bang chích loại thuốc này (methyl-prednisolone acetate) trong khoảng thời gian giữa tháng 7 và tháng 9 có nguy cơ mắc bệnh nhất.

Các nhà điều tra y khoa thu hẹp cuộc khảo cứu của họ về nguồn nhiễm độc cho một công ty dược phẩm ở tiểu bang Massachussets. Tuần này, họ đă t́m thấy loại nấm khả nghi trong ít nhất một lọ gắn kín dung dịch steroid tại cơ sở sản xuất của công ty.
Hơn 17.000 lọ thuốc này đă bị thu hồi ngay lập tức.

Viêm màng năo là hiện tượng sưng màng của năo bộ tủy sống. Bác sĩ John Jernigan, một chuyên gia dịch tễ học tại CDC, nói những triệu chứng sơ khởi của bệnh viêm màng năo nấm nơi các bệnh nhân có thể khác nhau.

Các pḥng bào chế thuốc thường hay phối hợp các dược phẩm thành những liều và những h́nh thức có thể không có sẵn trên thị trường.

Bác sĩ William Schaffner tại Trung tâm Y khoa Vanderbilt nói vụ bột phát bệnh viêm màng năo này cho thấy các pḥng bào chế thuốc cần có những quy luật tốt hơn.

Ông cũng cảnh báo rằng có thể có những ca bệnh thêm nữa về viêm màng năo nấm bởi v́ giai đoạn ủ bệnh của nó.

Các giới chức y tế nói cho tới nay, đa số các trường hợp tử vong và mắc bệnh này xảy ra tại tiểu bang Tennessee.

florida80
05-12-2019, 14:13
Bệnh động kinh là gánh nặng cho các nước đang phát triển





Các nước đang phát triển đang chứng kiến tỷ lệ tăng cao về các chứng bệnh không lây nhiễm như tiểu đường, ung thư và bệnh tim mạch. Nhưng các nhà khảo cứu nói các nước đó vốn đă có một con số không cân xứng về các ca bị chứng động kinh so với các nước giàu hơn.

Các nhà khảo cứu nói mặc dầu động kinh là “một trong các chứng rối loạn tốn kém nhất để điều trị,” các nước đang phát triển mang một “gánh nặng.” Họ nói rằng con số người bị chứng động kinh sống ở các nước có thu nhập thấp hay trung b́nh cao gấp đôi.

Các kết quả được đưa ra trong tạp chí y khoa The Lancet.

Giáo sư phân tâm học của trường Đại học Oxford, ông Charles Newton, là tác giả chính của cuộc khảo cứu. Ông dành phần lớn thời gian ở Kenya và Tanzania cho các chương tŕnh Wellcome Trust. Ông giải thích:

“Động kinh là t́nh trạng trong đó một sự phát sinh quá độ về thần kinh hay điện trong năo bộ khiến cho một người có các cử động bất thường hay bị hôn mê hoặc trong một số trường hợp có các cảm giác bất thường.”

Động kinh là một từ bao trùm cho t́nh trạng gây ra bởi nhiều nguyên do và có thể xảy ra ở bất cứ tuổi nào. Ông cho biết:

“Nó có thể do di truyền. Nó có thể có các lư do về gien. Nó có thể gây ra v́ bị nhiễm trùng, bị chấn động lúc sinh nở, bị thương tích ở đầu hay cả do những thứ như đột quỵ hay khối u trong năo.”

Ông Newton cho hay ở châu Phi chấn thương lúc sinh nở thường là do thiếu chăm sóc sản khoa. Và nhiễm trùng năo có thể là do những chứng bệnh trong đó có viêm màng năo và sốt rét. Chứng bệnh này cũng có thể có nhiều h́nh thức:

“Ta có thể thấy những người nh́n sững vào khoảng không rất thường xuyên trong ngày. Những người có các cảm giác lạ kỳ như ảo giác, hay những nười lăn đùng bất tỉnh nhân sự, cứng đơ rồi bắt đầu co giật, lăn lóc dưới đất, nhiều khi đi tiểu ướt cả người.”

Những người bị chứng động kinh c̣n có thể có tỷ lệ tử vong cao hơn nhiều. Chẳng hạn như một người bị co giật có thể bầt tỉnh và dễ bị té, bị phỏng hay bị các tai nạn lao động hơn.

Động kinh là một vấn đề sức khỏe đă có từ lâu đời. Dự án Trị liệu Động kinh nói rằng nhà vật lư học Hy Lạp Hippocrates đă viết cuốn sách đầu tiên về chứng bệnh này vào năm 400 truớc công nguyên. Ông định phá vỡ các huyền thoại, mô tả nó như một chứng rối loạn năo bộ.

Bất kể quan điểm ban đầu đó, những người bị động kinh đă phải đối đầu với sự kỳ thị và thành kiến. Chứng bệnh này, nhiều lúc đă bị mô tả là hậu quả của phù phép, không phải chỉ hồi xưa, mà cả ngày nay nữa.

Ông Newton nói thành kiến và sự kỳ thị khiến cho những người bị chứng động kinh bớt đi cơ may được giáo dục, đi làm hay thậm chí kết hôn. Gia đ́nh họ thường tránh né. Ông Newton nói không nhất thiết phải như thế:

“Động kinh có thể kiểm soát được với các loại thuốc men tương đối ít tốn kém. Chỉ cần từ 5 đến 10 đôla mỗi năm là có thể kiểm soát được những cơn động kinh hoặc giảm thiểu số lần động kinh nơi khoảng 70% những người mắc bệnh.”

Thuốc thông thường nhất dùng để điều trị động kinh ở châu Phi là Phenobarbital. Tuy nhiên, thuốc này có những phản ứng phụ, như hiếu động thái quá và nổi mần da nơi trẻ em và gây buồn ngủ nơi người lớn. Ông Newton nói các loại thuốc mơi hơn đă được phát triển trong những năm vừa qua:

“Vấn đề là tất cả các loại thuốc này rất đắt tiền và những người sống trong các khu vực nghèo khó không thể có được. Do đó tôi nghĩ rằng điều chúng ta cần chú ư đối với các khu vực nghèo khó là t́m cách có được các loại thuốc đă có sẵn và tương đối rẻ tiền, và chúng ta biết rơ các phản ứng phụ là ǵ.”

Nhưng ông Newton và các đồng sự nói rằng ngoài việc làm sao thuốc đến được với người bệnh nhiều hơn, cần phải có nhiều biện pháp hơn để giáo dục và ngăn ngừa chứng động kinh. Ông nói:

“Việc đầu tiên là cảnh báo các cộng đồng để thừa nhận rằng những người bị chứng động kinh thường không biết là ḿnh bị bệnh – và nếu họ biết là họ bị bệnh th́ lại không biết rằng bệnh có thể được kiểm soát bằng điều trị y tế.”

Ông Newton cho rằng nếu chăm sóc thai phụ được cải thiện, nếu có thể tránh được các vụ nhiễm trùng năo qua vệ sinh tốt hơn và các nỗ lực khác, nếu áp dụng việc bảo vệ tốt hơn để tránh chấn thượng đầu, th́ có thể ngăn chặn tới 50% các ca động kinh tại nhiều nơi ở châu Phi.

Ông kêu gọi Liên Hiệp Quốc bao gồm động kinh trong danh sách các chứng bệnh không lây nhiễm cần phải chú ư nhiều hơn.

https://i.imgur.com/ANWHAAI.jpg
Động kinh do sự phát sinh quá độ điện trong năo bộ khiến cho một người có các cử động bất thường hay bị hôn mê hoặc trong một số trường hợp có các cảm giác bất thường

florida80
05-12-2019, 14:15
Mời các anh chị em tham khảo để biết rơ thêm về Chứng Co Giật (seizure) và cơn Động Kinh Co giật (Epileptic seizure = epilepsy = seizure disorder=Crises D'epilepsie) từ tài liệu cấp cứu và hồi sức tích cực của BS Nguyễn Văn Thịnh người có thâm niên nhiều năm trong ngành cấp cứu và đang làm việc tại Bỉ - Châu Âu . Bài viết cho thông tin và phác đồ trị liệu rất hay !!!

Cấp Cứu Nội Thần Kinh :
•Co Giật (Seizures)

•Cơn Động Kinh (Crises D'epilepsie)

•Trạng Thái Động Kinh (Status Epilepticus)


Theo Lynn biết th́ Y Khoa (Tây Y và Đông Y) đều có xác định và phân loại các kiểu động kinh dựa theo 1 số đặc điểm biểu hiện của căn bệnh động kinh khi xuất hiện trên người , và dựa vào sự khởi phát căn bệnh ở độ tuổi nào ... để từ đó BS Đông Y cũng như Tây Y có thể nhận dạng của từng trường hợp về hội chứng động kinh . Tuy nhiên, hầu như đại đa số ai cũng biết là phía Đông Y không có những công tŕnh nghiên cứu trên địa bàn rộng lớn như Tây Y, cho nên Đông Y không phân chia các loại động kinh chi tiết như tây Y . Dù vậy, trị liệu theo hướng Đông Y là phương pháp châm cứu để cấp cứu nội thần kinh xưa giờ cũng rất hiệu quả về tất cả các kiểu động kinh .

Theo Y văn hiện giờ th́ động kinh chia làm 2 loại chính : Co giật toàn phần (cơn động kinh liên quan đến cả 2 bên năo bộ cùng 1 lúc), co giật không toàn phần / Co giật một phần / Co giật cục bộ (cơn động kinh chỉ liên quan đến 1 bên năo bộ) . Phân định rơ ràng chi tiết hơn để trợ giúp BS nhận dạng chứng co giật trong việc chỉ định liều lượng và cho thuốc cứu chữa th́ cơ bản là liệt kê các loại động kinh như sau:

Co giật toàn phần (Primary generalized seizures)
•Absence seizures

•Atypical absence seizures

•Myoclonic seizures

•Atonic seizures

•Tonic seizures

•Clonic seizures

•Tonic-clonic seizures


Co giật không toàn phần / co giật một phần / Co giật cục bộ (Partial Seizures)
•Simple partial seizures

•Complex partial seizures

•Secondarily generalized seizures

Kevin1
05-13-2019, 05:51
Thank You to florida80

florida80
05-13-2019, 19:12
Quy tắc “3 chậm 3 nhanh” của những người sống thọ
https://i.imgur.com/ZGnRolq.jpg


Mọi người đều mong ḿnh có một sức khỏe tốt và tuổi thọ cao. Chúng ta thường hay ngưỡng mộ những người già sống thọ, dù tuổi đời đă đến 100 mà tinh thần vẫn minh mẫn, c̣n ḿnh th́ chỉ mới 40-50 mà đă cảm thấy sức khỏe không c̣n được như trước và thường bị ốm vặt này kia.



Thật ra th́ một người có khỏe mạnh và sống thọ hay không, 60% phụ thuộc vào chính bản thân ḿnh. Nếu quan sát kỹ cuộc sống và thói quen nghỉ ngơi làm việc của những người già sống thọ, đa phần họ đều làm được quy tắc “3 chậm 3 nhanh” dưới đây.



3 điều chậm

1. Ăn chậm

Có thể con người hiện đại ngày nay có nhịp sống quá nhanh, nhưng điều này cũng không nên trở thành lư do cho việc ăn quá nhanh. Chúng ta đều biết rằng những người sống ở vùng Địa Trung Hải sống rất trường thọ, ngoài chế độ ăn uống, họ c̣n có thói quen “ăn chậm nhai kỹ”.



(Ảnh: Shutterstock)

Khi ăn chậm, khoang miệng sẽ có đủ thời gian để tiết nước bọt hỗ trợ tiêu hóa và hấp thu, điều này là rất quan trọng đối với những người lớn tuổi mà răng đă yếu. V́ vậy nếu muốn sống thọ th́ cần phải “ăn chậm nhai kỹ”.



2. Tính t́nh chậm răi

Con người hiện đại ngày nay tính t́nh nóng vội, dễ nổi nóng, nhưng giận giữ hay phát tiết bực bội rất không tốt cho tim và gan, hơn nữa c̣n khiến chức năng miễn dịch của cơ thể gặp bất thường.

V́ vậy, nếu muốn sống thọ, nhất định phải học cách kiểm soát cảm xúc tiêu cực, ví dụ như có thể thông qua việc hít thở sâu, luyện tập thể thao, tu dưỡng đạo đức để điều ḥa cảm xúc. Khi tính t́nh dần chậm lại có nghĩa là bạn sẽ ngày càng sống thọ hơn.



(Ảnh: Shutterstock)


3. Nhịp tim chậm

Có những cuộc nghiên cứu phát hiện, tuổi thọ dài hay ngắn có mối tương quan rất rơ rệt với nhịp tim nhanh hay chậm, cũng có nghĩa là những ai có nhịp tim chậm, tuổi thọ thường sẽ dài hơn. Tim cần phải hoàn thành nhiệm vụ vận chuyển máu, những người có nhịp tim chậm, mức tải của tim sẽ nhỏ hơn, sức khỏe cũng sẽ tốt hơn.

Đương nhiên cũng không phải là nhịp tim càng chậm càng tốt, cần phải kiểm soát trong khoảng 60-100 nhịp mỗi phút, càng thấp càng tốt. Nếu muốn nhịp tim chậm lại, cần kiên tŕ luyện khí công, thái cực quyền, chạy bộ, yoga v.v…



(Ảnh: Internet)



3 điều nhanh

1. Đi bộ nhanh

Khi đi bộ nhanh, mức Lipoprotein mật độ cao (cholesterol tốt) trong cơ thể sẽ tăng lên, có tác dụng bảo vệ tim mạch.



(Ảnh: Shutterstock)


2. Ngủ nhanh

Những người dễ đi vào giấc ngủ có nghĩa là cơ thể của họ dễ đi vào trạng thái ngủ sâu, đây là tiêu chí quan trọng để sống thọ. Nếu muốn đi vào giấc ngủ nhanh, có thể ngâm chân trước khi ngủ để cơ thể mệt mỏi được thư giăn. Bên cạnh đó cũng có thể vận động nhẹ như ngồi thiền, xoay vai, ấn huyệt bàn chân v.v… để hỗ trợ giấc ngủ.



(Ảnh: Shutterstock)


3. Đi vệ sinh nhanh

Để sống thọ, đầu tiên phải đảm bảo cơ thể được điều ḥa, đương nhiên cũng bao gồm vấn đề đi vệ sinh. Khi bị táo bón, chất thải tích tụ bên trong cơ thể sẽ khiến cơ thể không kịp thời đào thải ra bên ngoài, gây ảnh hưởng vô cùng xấu đối với cơ thể. Rèn thói quen đi vệ sinh tốt là vô cùng quan trọng, vừa phải đi vệ sinh đúng giờ, mát xa bụng, vừa nên ăn các loại thực phẩm giàu chất xơ và uống nhiều nước.





Thanh Xuân
trithucvn

florida80
05-13-2019, 19:14
Chuột rút ở chân, hay choáng váng cẩn thận với t́nh trạng cục máu đông nguy hiểm
https://i.imgur.com/QsMoJLO.jpg

Cục máu đông sẽ gây nguy hiểm đến sức khỏe của bạn nếu nó nằm không đúng chỗ, nằm ở những vùng tĩnh mạch sâu gần cơ sẽ gây đau đớn, hoặc cản trở lưu thông máu trong cơ thể, thậm chí gây tắc nghẽn hệ tuần hoàn.




Đông máu là hiện tượng máu đặc lại và giúp bạn ngưng chảy máu khi bị chấn thương, nhưng một số cục máu đông có thể gây hại và thậm chí gây tử vong.

Nếu bạn chỉ đi một quăng đường dài trên máy bay hoặc trong ô tô, có tiền sử về các vấn đề đông máu, hoặc nhận thấy rằng bạn đang có những biểu hiện cảu triệu chứng máu đông th́ hăy đi khám ngay.

Theo trang Reader’s Digest, dưới đây là những dấu hiệu ban đầu cảnh báo hiện tượng cục máu đông bạn cần lưu ư:

Chuột rút ở chân

Những người từng được chẩn đoán đông máu cho biết trước đó họ hay bị chuột rút ở chân. Nguyên nhân có thể do một cục máu đông nằm trong tĩnh mạch sâu.

Theo báo cáo của Kristine Arthur, bác sĩ nội khoa tại Trung tâm y tế Orange Coast Memorial ở Fountain Valley, California, nếu bạn gặp trường hợp chuột rút ở chân thường xuyên mà không đi khám có thể dẫn đến t́nh trạng t́nh trạng tắc nghẽn phổi do cục máu này di chuyển đến phổi.

Ngứa ngáy kéo dài

Nếu bạn thấy ngứa ran dai dẳng ở một chi th́ có thể đây là một trong những triệu chứng cục máu đông.

Bên cạnh đó, nếu bạn có những dấu hiệu của hệnh huyết áp cao th́ hăy để ư đến dấu hiệu ngứa v́ hiện tượng máu đông (huyết khối) là nguyên nhân chính dẫn đến cao huyết áp.

Da nhợt nhạt hoặc đổi màu

Cục máu đông sẽ làm gián đoạn lưu lượng máu b́nh thường, thường dẫn đến t́nh trạng da dẻ nhợt nhạt hoặc đổi màu, triệu chứng này khá phổ biến và bạn có thể quan sát thấy rơ.

Nếu một khu vực da ở chân có màu nhạt hơn hoặc màu khác so với cả chân th́ rất có thể đây là một triệu chứng cục máu đông và cần được đi kiểm tra càng sớm càng tốt.

Nguy cơ bị cục máu đông vẫn xảy ra ngay cả khi bạn tập thể dục thường xuyên do vậy đừng nên chủ quan.

Nhiệt độ da thay đổi thất thường

Một triệu chứng cục máu đông phổ biến khác là sự thay đổi nhiệt độ nơi có cục máu đông.

Giống như sự đổi màu trên da, thay đổi nhiệt độ trên da là sự gián đoạn lưu lượng máu.

Đau lưng

Đau lưng là triệu chứng ít gặp của hiện tượng cục máu đông, nhưng nó có thể là một dấu hiệu cho thấy cục máu đông xuất hiện ở vùng chậu hoặc ở tĩnh mạch chủ dưới (tĩnh mạch bụng chính).

Những loại cục máu đông này có thể dẫn đến nguy hiểm nếu không được điều trị, v́ chúng sẽ cắt máu đến tứ chi.

Đổ quá nhiều mồ hôi

Đổ mồ hôi quá nhiều có thể là một trong những triệu chứng cục máu đông mà bạn không nên bỏ qua, cục máu đông lúc này có thể nằm ở phổi hoặc tim.

Đây là những loại cục máu đông rất nghiêm trọng cần được điều trị ngay lập tức.

Đột nhiên choáng váng

Đột nhiên bạn cảm thấy chóng mặt là một trong những triệu chứng của bệnh này.

Khi một phần của cục máu đông xuất hiện trong các mạch máu của năo, sẽ cản trở việc vận chuyển máu lên năo dẫn đến choáng váng.

Bạn sẽ dễ gặp phải t́nh trạng này khi thức dậy vào buổi sáng, v́ vậy hăy chú ư để phát hiện kịp thời.

Theo Tạp chí Sống khỏe


Reply With Quote Reply With Quote .

--------------------------------------------------------------------------------

florida80
05-13-2019, 19:15
Măng cụt ngừa tiểu đường, tăng cường sinh lực cho quư ông



TPO - Với đặc tính giải nhiệt nên măng cụt cực thích hợp để ăn vào mùa nắng nóng. Đặc biệt măng cụt c̣n được biết đến như một 'thần dược' chống tiểu đường, hạ huyết áp, tăng cường sinh lực cho quư ông và chữa nhiều bệnh nguy hiểm khác...








Ảnh minh hoạ: Internet




Theo nghiên cứu của y học hiện đại, vỏ quả măng cụt chứa 7-13% tanin, nhựa và chất đắng mangostin có tinh thể h́nh phiến nhỏ màu vàng tươi không tan trong nước, cây cũng chứa tanin. Quả măng cụt rất giàu protein và các loại lipit, có tác dụng bồi bổ rất tốt cho cơ thể. Người suy nhược, thiếu dinh dưỡng, người vừa khỏi bệnh đều có thể dung loại quả này để có tác dụng điều dưỡng.

Hàm lượng cao chất xanthone cao trong măng cụt có tác dụng pḥng chống ung thư cực tốt. Chất xanthone trong măng cụt c̣n có khả năng tiêu diệt sự sinh sôi quá độ của vi khuẩn và giữ cân bằng môi trường axit trong dạ dày, nhờ đó giảm thiểu nguy cơ phát triển các bệnh dạ dày . Hàm lượng vitamin E, C phong phú giúp nâng cao sức đề kháng, làm chậm lăo hóa…



Tăng cường sinh lực

Khả năng chống mệt mỏi của măng cụt là một trong những điểm lợi t́m thấy từ trái cây này. Có thể tiên đoán và tin được rằng măng cụt đem lại sự tăng cường sinh lực một cách an toàn. Những người dùng măng cụt đă từng khen ngợi về sự tăng cường sinh lực thấy rơ và trạng thái khỏe khoắn trong người.


Ngăn ngừa bệnh tim mạch

Bệnh tim và chứng động mạch có vách dày và cứng xảy ra khi tính đàn hồi của các mạch máu quanh quả tim không c̣n nữa. Măng cụt giúp củng cố hệ thống tuần hoàn qua hiệu năng chống vi thể và chống lăo hóa. Khi những mạch máu trở nên khỏe mạnh, nguy cơ của bệnh tim cũng giảm theo.




Khả năng chống mệt mỏi của măng cụt là một trong những điểm lợi t́m thấy từ trái cây này. Có thể tiên đoán và tin được rằng măng cụt đem lại sự tăng cường sinh lực một cách an toàn. Ảnh minh hoạ: Internet


Giảm huyết áp

Áp huyết cao là một trong những nguyên do đưa đến chứng động mạch có vách dày và cứng. Những mảnh vụn nhỏ nguy hiểm thường được cấu tạo và làm hẹp đường lưu thông máu trong các động mạch khiến gia tăng nguy cơ bị nhồi máu cơ tim hoặc đột quỵ. Măng cụt đă tỏ ra hữu hiệu, nhất là đối với những người có một trọng lượng trung b́nh, trong việc giảm áp huyết và ngăn ngừa sự tấn công áp huyết của mạch máu đường phổi.


Cải thiện t́nh trạng dạ dày

Một trong những hậu quả của sự lăo hóa là sự giảm sút tự nhiên của các chất acid trong dạ dày. Điều này làm cho việc gia tăng vi khuẩn trong dạ dày và gây ra tiêu chảy, đau quặn, ợ hơi, và không thể hấp thu dinh dưỡng. Kháng thể Xanthones trong Măng cụt đă chứng tỏ khả năng tiêu diệt sự sinh sôi quá độ của vi khuẩn để cải tiến và tái lập sự quân b́nh trong dạ dày.



Giảm mùi hôi miệng

Lấy vỏ măng cụt đem đun sôi, lấy nước này súc miệng hàng ngày sẽ giúp giảm mùi hôi miệng, kháng khuẩn kháng viêm cực tốt.




Với khả năng làm thấp và điều ḥa lượng đường trong máu, cải thiện sinh lực, chống viêm, và làm giảm nhu cầu thuốc men v́ lượng đường trong máu xuống bất b́nh thường, Măng cụt có thể là điều cần thiết cho bệnh nhân tiểu đường.



Giảm cân hiệu quả

Pha chế trà từ vỏ măng cụt bằng cách thái nhỏ vỏ, mang phơi khô. Mỗi lần dùng cho một nắm nhỏ vào đun sôi với nước trong 5 phút.


Chữa đau bụng đi tiêu chảy, chữa lỵ

Cho chừng 10 vỏ quả măng cụt vào một nồi đất hay nồi đồng (tránh nồi sắt hay nồi tôn) thêm nước vào cho ngập rồi đun sôi kỹ trong ṿng 15 phút. Ngày uống 3 – 4 lần chén to nước này.

Hoặc có thể dùng theo đơn: Vỏ quả măng cụt khô 60g, hạt mùi 5g, hạt th́a là 5g, nước 1.200ml. Đun sôi, sắc kỹ cho cạn c̣n chừng một nửa (600ml). Mỗi lần uống 120ml. Uống mỗi ngày 2 lần.


Chữa lỵ

Dùng vỏ quả măng cụt 6g, rau sam, rau má, cỏ nhọ nồi, cỏ sữa (mỗi thứ 8g), trà xanh (loại ngon) 6g, cam thảo, vỏ quưt (mỗi thứ 4g), gừng 3 lát. Đem tất cả nấu lấy nước để uống trong ngày.





Lấy vỏ măng cụt đem đun sôi, lấy nước này súc miệng hàng ngày sẽ giúp giảm mùi hôi miệng, kháng khuẩn kháng viêm cực tốt. Ảnh minh hoạ:
Internet


Chống và ngăn ngừa bệnh tiểu đường (Tuyp II)

Với khả năng làm thấp và điều ḥa lượng đường trong máu, cải thiện sinh lực, chống viêm, và làm giảm nhu cầu thuốc men v́ lượng đường trong máu xuống bất b́nh thường, Măng cụt có thể là điều cần thiết cho bệnh nhân tiểu đường.



Giảm Cholesterol

Khi mà loại cholesterol xấu (LDL) bị oxy hóa trong ḍng máu và các động mạch, những mảng sợi sẽ được tạo ra. Các cuộc nghiên cứu cho thấy rằng các kháng thể Xanthones trong măng cụt có tác dụng là giảm sự lăo hóa của loại cholesterol xấu (LDL), và ngăn ngừa sự tạo thành của những mảng sợi nguy hiểm.



Lưu ư: Măng cụt c̣n chứa thành phần đường khá cao v́ vậy người béo ph́ nên hạn chế ăn quả này. Măng cụt cũng có thành phần kali tương đối cao, cho nên người mắc bệnh thận và tim mạch cũng phải thận trọng khi ăn.

https://i.imgur.com/TM2h1vl.jpg


THÁI HÀ (TỔNG HỢP)
TPO

florida80
05-13-2019, 19:17
3 yếu tố quan trọng giúp kéo dài tuổi thọ

https://i.imgur.com/Iseuj1d.jpg

Sống lâu và khỏe mạnh là điều mà mọi người đều mong muốn. Trường Đại học California của Mỹ đă công bố một cuộc nghiên cứu trên 1.700 người lớn tuổi trong ṿng 15 năm. Nghiên cứu này cho thấy, sự ảnh hưởng của thói quen sống đối với sức khỏe có thể vượt qua cả nhân tố di truyền, trở thành nhân tố chính quyết định tuổi thọ.



Các nhà nghiên cứu đă tổng kết ra rằng tuổi thọ có một số nhân tố thiết yếu, trong đó có 3 nhân tố quan trọng sau:


1. Giữ ǵn cơ thể hơi có mỡ

Khoa học đă chứng minh rằng cơ thể của người lớn tuổi có tỷ lệ mỡ nhất định sẽ càng có lợi cho sức khỏe. Nghiên cứu của Đại học California phát hiện tỉ lệ qua đời sớm ở những người hơi quá cân, (nhưng chưa đạt đến mức béo ph́) khi c̣n trẻ sẽ giảm 3%. Nhà thần kinh học Claudia Kavas thuộc trường Đại học California cho hay: “Tuy khi c̣n trẻ hơi gầy th́ có lợi cho sức khỏe, nhưng khi về già mà quá gầy th́ lại rất không tốt.”

Vào năm 2016, những nhà nghiên cứu thuộc trường Đại học Oxford của Anh đă khảo sát trên gần 1 triệu người thuộc khu vực châu Âu và Bắc Mỹ cho thấy, những người có chỉ số BMI nằm trong khoảng 23-24 là có tuổi thọ cao nhất, mức b́nh thường là 18.5~24.9.



(Ảnh: Shutterstock)

Nếu người trung niên và lớn tuổi quá gầy, lượng mỡ trong cơ thể không đủ sẽ làm giảm quá tŕnh trao đổi chất và khả năng miễn dịch, khiến khả năng chịu đói và chịu mệt kém, thậm chí c̣n dẫn đến một loạt các bệnh về loăng xương.

Mỡ trong cơ thể nữ giới giúp duy tŕ mức estrogen, điều ḥa nội tiết. Phụ nữ quá gầy sẽ có mức estrogen thấp, dễ xuất hiện các vấn đề về rối loạn kinh nguyệt, tắc kinh, vô sinh v.v…



2. Kiên tŕ 2 giờ đồng hồ sở thích mỗi ngày

Nghiên cứu trên phát hiện rằng mỗi ngày kiên tŕ 2 giờ đồng hồ sở thích sẽ làm giảm 21% tỷ lệ tử vong sớm. Cuộc nghiên cứu với hơn 6000 người trong ṿng 14 năm của trường Đại học Columbia (Mỹ) nhận thấy, nhóm người sống có mục tiêu cụ thể, có sở thích sẽ có tỷ lệ tử vong sớm thấp hơn 15% so với những người sống chán nản, vô vị.



(Ảnh: Shutterstock)

Khi làm điều ḿnh thích, chúng ta có thể kích thích hạch hạnh nhân của năo bộ tiết ra chất dopamine, mang đến cho chúng ta cảm giác vui vẻ, hạnh phúc, h́nh thành động lực tích cực về tâm lư. Kiên tŕ với các sở thích lâu ngày có thể giúp năo hoạt động tốt, giảm nguy cơ mắc chứng Alzheimer ở người già, khiến tâm trạng vui vẻ, giúp người lớn tuổi giữ được thái độ lạc quan, cũng như làm tăng cảm giác tồn tại, giúp họ thể hiện được ưu điểm của bản thân ở nhiều lĩnh vực.



3. Kiên tŕ vận động vừa sức



Người lớn tuổi nên vận động vừa sức, lựa chọn những môn thể thao phù hợp. (Ảnh: Shutterstock)


Tích cực vận động có lợi ích trong việc nâng cao chất lượng sống, những yếu tố như trí lực, thể lực và giao tiếp xă hội. Cần nhớ là người lớn tuổi nên vận động vừa sức, cố gắng tránh những môn thể thao mạo hiểm, cần chú ư 3 điều sau đây:

Lựa chọn môn thể thao phù hợp, ví dụ như người bị loăng xương nên luyện tập thể lực, người bị bệnh về hô hấp nên lựa chọn các bài tập sức bền.

Cần xem xét tổng hợp các yếu tố môi trường, địa điểm, thiết bị, thời tiết, tránh làm tổn thương khớp, giảm thiểu rủi ro vận động đến mức thấp nhất.

Kiên tŕ bền bỉ, nên lượng sức ḿnh. Trong lúc vận động cần đặc biệt chú ư bảo vệ các khớp.




Minh Ngọc
trithucvn

florida80
05-13-2019, 19:19
Ăn tỏi có thể giúp chống bệnh
Alzheimer’s và Parkinson’s

https://i.imgur.com/jflodBH.jpg




Chất allyl sulfide trong tỏi có thể giúp ngăn ngừa cách bệnh như Alzheimer's và Parkinson's.
(H́nh minh họa: David Silverman/Getty Images)


LOUISVILLE, Kentucky (NV) – Các bệnh liên quan đến trí nhớ của người cao tuổi như Alzheimer’s hay Parkinson’s lúc nào cũng làm nhiều người sợ hăi. Chính v́ vậy, các nhà nghiên cứu đang t́m cách để giảm nguy cơ bị các bệnh này và một trong những cách đó là ăn tỏi.

Theo Newsweek, Hoa Kỳ có khoảng 5.8 triệu người bị Alzheimer’s và có thể lên đến 14 triệu người từ đây đến năm 2050. Các khoa học gia, bác sĩ vẫn chưa t́m được điều ǵ gây ra các bệnh trí nhớ này và vẫn chưa t́m được cách chữa trị.

Các nhà nghiên cứu muốn t́m cách ngăn ngừa các căn bệnh này và t́m hiểu hệ thống tiêu hóa có liên quan đến các vấn đề liên quan đến trí nhớ hay không. Ngoài ra, họ c̣n muốn t́m hiểu chất allyl sulfide trong tỏi có thể ngăn ngừa sự suy thoái trí nhớ không v́ đây là một chất giải độc và có nhiều lợi ích sức khỏe.

Tiến Sĩ Neetu Tyagi của đại học University of Louisville, một tác giả nghiên cứu, cho biết hệ thống tiêu hóa của người cao tuổi bị yếu đi, cũng như trí nhớ và dễ bị các bệnh như Alzheimer’s hay Parkinson’s. V́ vậy, ông và các nhà nghiên cứu khác chích allyl sulfide vào những con chuột 24 tháng tuổi để t́m hiểu.

Các nhà nghiên cứu cho rằng thí nghiệm chuột 24 tháng tuổi, gần giống như đang thử nghiệm với con người từ 56 đến 69 tuổi. Sau khi chích allyl sulfide vào những con chuột này, họ so sánh trí nhớ của những con chuột 4 tháng tuổi và 24 tháng tuổi không được chích chất giải độc trong tỏi.

Những con chuột được chích allyl sulfide vào có trí nhớ ngắn hạn và dài hạn tốt hơn, c̣n có hệ tiêu hóa khỏe mạnh hơn những con chuột không có chất này trong người.

V́ vậy, Tiến Sĩ Jyotirmaya Behera, đồng tác giả của nghiên cứu, cho rằng ăn tỏi tốt cho tiêu hóa và có thể chống suy thoái trí nhớ của người cao tuổi.

Một số nhà nghiên cứu khác cho rằng đây là một phát hiện hay v́ có nhiều bằng chứng cho thấy sự liên kết giữa hệ thống tiêu hóa và trí nhớ. Tuy vậy, họ cho rằng nghiên cứu này chưa chứng minh được hoàn toàn ăn tỏi tốt cho trí nhớ v́ chưa được thử nghiệm lên con người.(TL)

April 8, 2019
Người Việt online

florida80
05-13-2019, 19:21
Cơn đau tim và nước



Cơn đau tim và nước



Bạn có biết bao nhiêu người nói rằng họ không muốn uống bất cứ thứ ǵ trước khi đi ngủ bởi v́ nó làm cho họ sẽ phải thức dậy trong đêm.






Đau tim và nước

- Tôi không bao giờ biết hết điều này! Thú vị .......

Vài điều khác tôi không biết ... Tôi hỏi bác sĩ của tôi tại sao mọi người cần phải đi tiểu nhiều vào ban đêm. Bác sĩ tim mạch của tôi trả lời: - Trọng lực giữ nước ở phần dưới của cơ thể khi bạn đứng thẳng (chân sưng lên). Khi bạn nằm xuống và phần cơ thể dưới (chân và v.v...) cố gắng đạt mức cân bằng với thận rồi th́ thận thải nước ra v́ nó dễ dàng hơn. Điều này sau đó liên quan với vấn đề cuối cùng!

Tôi biết bạn cần lượng nước tối thiểu để giúp tẩy sạch các độc tố ra khỏi cơ thể của bạn nhưng điều này hoàn toàn mới đối với tôi. Thời gian chính xác để uống nước ... Rất quan trọng.


Từ một chuyên gia tim mạch!

Uống nước tại một thời điểm nhất định tối đa hóa hiệu quả của nó trên cơ thể:

2 ly nước sau khi thức dậy - giúp kích hoạt các cơ quan nội tạng

1 ly nước 30 phút trước bữa ăn - giúp tiêu hóa

1 ly nước trước khi tắm - giúp giảm huyết áp

1 ly nước trước khi đi ngủ - tránh đột quỵ hoặc nhồi máu cơ tim


Tôi cũng có thể thêm vào điều này ... Bác sĩ của tôi nói với tôi rằng uống nước vào giờ đi ngủ cũng sẽ giúp ngăn ngừa chuột rút ở chân vào ban đêm. Cơ bắp chân của bạn đang t́m cách hấp thụ nước khi bị chuột rút và đánh thức bạn.

Bác sĩ Virend Somers, chuyên gia tim mạch của Bệnh viện Mayo, tác giả đứng đầu của báo cáo trong ngày 29 tháng 7 năm 2008, một ấn bản của Tạp chí American College of Cardiology, nói về aspirin:

Hầu hết các cơn đau tim xảy ra trong ngày, thường vào khoảng giữa 06g00 và trưa. Có một cơn vào ban đêm, khi trái tim đứng yên có nghĩa là một cái ǵ đó bất thường xảy ra. Somers và các đồng nghiệp của ông đă làm việc trong một thập kỷ cho thấy rằng ngưng thở khi ngủ là phải t́m nguyên do.

1 Nếu bạn uống một viên aspirin hoặc aspirin trẻ em mỗi ngày một lần th́ uống vào ban đêm.

Lư do: Aspirin có 24 giờ "chu kỳ nửa phân ră"; do đó, nếu hầu hết các cơn đau tim xảy ra trong những giờ rất sớm của buổi sáng, Aspirin sẽ mạnh nhất trong cơ thể của bạn.


2. Chú ư, Aspirin được cất một thời gian rất dài trong tủ thuốc của bạn, trong nhiều năm (khi nó đă cũ, nó có mùi giống như giấm).



Xin vui ḷng đọc tiếp ...

Một cái ǵ đó mà chúng ta có thể làm để tự giúp ḿnh - để biết rất hay. Bayer đang bào chế aspirin tinh thể để tan nhanh hơn trên lưỡi. Nó tan nhanh hơn nhiều so với thuốc viên.

Tại sao giữ Aspirin cạnh bạn? Đó là về cơn đau tim.

Có những triệu chứng khác của một cơn đau tim, bên cạnh nỗi đau trên cánh tay trái. Người ta cũng phải nhận thức được một cơn đau dữ dội trên cằm cũng như buồn nôn và tiết ra rất nhiều mồ hôi; Tuy nhiên, những triệu chứng này cũng có thể xảy ra ít thường xuyên hơn.

Lưu ư: Có thể KHÔNG có đau ngực trong một cơn đau tim.

Đa số người (khoảng 60%) có một cơn đau tim trong khi ngủ, họ đă không thức dậy. Tuy nhiên, nếu nó xảy ra, cơn đau ngực có thể đánh thức bạn từ một giấc ngủ sâu.

Nếu điều đó xảy ra, ngay lập tức bỏ hai viên aspirin vào miệng và nuốt với một chút nước.

Sau đó, - Gọi 911 - điện thoại cho một người hàng xóm hoặc một thân nhân sống rất gần - Nói "Tôi đau tim!" – và nói rằng bạn đă uống 2 viên aspirin.

Ngồi trên một chiếc ghế dựa hoặc ghế bành gần cửa trước và chờ họ đến và ... KHÔNG NẰM XUỐNG!

Hăy chuyển tiếp thông điệp này. Có thể cứu sống mạng người!

"Cuộc sống là món quà tặng một lần"



Dr Azhar Sheikh (Phạm Thị Cơi Sưu tầm, dịch)
vanhien.vn


Reply With Quote Reply With Quote .

--------------------------------------------------------------------------------







https://i.imgur.com/Dnfi6bQ.jpg

florida80
05-13-2019, 19:24
Dầu ăn tái sử dụng khiến ung thư nhanh di căn

https://i.imgur.com/6XcI4vA.png

Nghiên cứu của Mỹ chỉ ra dầu ăn đă qua sử dụng làm tăng số lượng và độ nguy hiểm của các khối u di căn.

Nghiên cứu từ Đại học Illinois (Mỹ) đánh giá tác động của dầu ăn đă qua sử dụng trên những con chuột có tế bào ung thư vú 4TI, một dạng ung thư vú ác tính, di căn tự phát đến các bộ phận cơ thể khác như phổi và các mạch bạch huyết.


Ban đầu, chuột thí nghiệm được ăn chế độ ăn ít chất béo trong bảy ngày. Sau đó, một nhóm chuột chuyển sang dầu đă qua sử dụng nhiều lần và một nhóm khác được cho ăn dầu đậu nành tươi trong 16 tuần.

Đến ngày thứ 20, so với chuột ăn dầu mới, chuột ăn dầu đă qua sử dụng có số lượng khối u di căn cao gấp bồn lần. Các khối này cũng nguy hiểm và tập trung ở phổi nhiều hơn.




Ảnh: slashgear.

Các tác giả nghiên cứu lập luận dầu ăn được đun nóng nhiều lần sẽ bị phân hủy chất béo trung tính, dẫn đến quá tŕnh oxy hóa axit béo tự do và giải phóng chất gây ung thư độc hại gọi là acrolein. Trước đây, một số công tŕnh đă chỉ ra mối liên hệ giữa acrolein trong dầu ăn tái sử dụng nhiều lần với các vấn đề sức khỏe như bệnh tim và xơ vữa động mạch.

Hiện nay, con người dù không trực tiếp sử dụng dầu ăn đă qua chiên, nấu nhưng thụ động đưa vào cơ thể loại dầu này qua các món chiên tại cửa hàng đồ ăn nhanh. Những nơi này thường dùng dầu ăn nhiều lần để giảm thiểu chi phí.

Phương Dung (Theo Slash Gear)

florida80
05-13-2019, 19:26
Cười nhiều giúp cải thiện trí nhớ
https://i.imgur.com/UZ6EDD9.jpg

(SKGĐ) Các hooc – môn gây căng thẳng có tác động tiêu cực đến bộ nhớ. Tuy nhiên, một nghiên cứu mới cho thấy, cười có thể giúp giải tỏa căng thẳng và cải thiện trí nhớ, nhât là ở những người cao tuổi.






Một nghiên cứu đă phát hiện ra rằng cười là cách tốt nhất
để cải thiện trí nhớ ở những người cao tuổi.

Các nhà khoa học tại Đại học Loma Linda, California đă tiến hành nghiên cứu khoảng 20 người lớn khỏe mạnh, họ được xem một đoạn video hài trong ṿng 20 phút. Cũng với khoảng thời gian đó nhưng một nhóm khác được yêu cầu ngồi và không cần xem ǵ cả.

Sau đó, cả hai nhóm được kiểm tra bộ nhớ, mẫu nước bọt và kiểm tra các hoóc môn căng thẳng cortisol.

Kết quả cho thấy những người đă xem đoạn video hài thực hiện các bài kiểm tra trí nhớ ngắn hạn tốt hơn so với những người không được xem video hài.

Các nhà khoa học tiết lộ rằng mức độ cortisol trong nước bọt của những người đă cười thấp hơn nhiều so với những người không cười.

Tác giả nghiên cứu - Gurinder Bains - cho biết:

“Khả năng ghi nhớ trở nên khó khăn hơn khi chúng ta già. Cười với bạn bè hoặc xem một clip hài khoảng 20 phút sẽ giúp chúng ta giải tỏa căng thẳng. Những người ít căng thẳng hơn có xu hướng có bộ nhớ tốt hơn.”

Điều này là do tiếng cười làm tăng mức độ endorphin trong cơ thể và năo tiết ra dopamine khiến chúng ta có cảm giác hạnh phúc và hưng phấn.


23/04/2014

Vân Anh

Theo Dailymail

florida80
05-13-2019, 19:27
Ăn tỏi có thể tác động "kinh ngạc" đến nội tạng:
Tim gan thận dạ dày khỏe, ngừa khối u









Bạn có thể ăn tỏi mỗi ngày và ăn đúng cách hơn nếu biết những tác dụng tuyệt vời của tỏi được liệt kê dưới đây. Tỏi không chỉ là gia vị, mà thực sự là một vị thuốc quư giá.


Tỏi không chỉ là một gia vị không thể thiếu trong căn bếp của mỗi gia đ́nh, mà tỏi c̣n là một vị thuốc quư, một loại thuốc kháng sinh tự nhiên rất tốt cho sức khỏe của chúng ta.

Mặc dù một số nhóm người được khuyến cáo là không nên ăn nhiều tỏi như người bị âm hư hỏa vượng (nóng trong), người có các vết lở loét ở vùng mắt, miệng, lưỡi, người bị đau viêm dạ dày, loét tá tràng, người bị bệnh gan, bệnh về mắt, người đang dùng thuốc…

Đa số trong chúng ta đều có thể ăn tỏi b́nh thường, thậm chí một số người khác lại khuyến khích nên thường xuyên ăn như người mắc lao, ung thư, tăng huyết áp, xơ cứng động mạch.

Ăn tỏi có thể tác động kinh ngạc đến nội tạng






Những điều có thể bạn chưa biết

Tỏi là giống cây đă được con người phát hiện từ lâu, được dùng rộng răi trong đời sống. Thông thường cây sẽ được thu hoạch vào tháng sáu, phơi khô và dùng dần quanh năm. Vỏ lụa của tỏi thường có màu trắng, tím hoặc nơi vàng.

Tỏi có vị cay, mùi hăng, có thể nấu cùng thức ăn hoặc ăn sống như gia vị, cũng có thể được sử dụng làm thuốc. Trong các ghi chép cổ xưa để lại, tỏi được trồng vào thời Tây Hán (TQ), nó đă được đưa vào Trung Quốc từ các vùng ở phương Tây, sau đó được người dân trồng trọt phổ biến.

Tỏi có tính ấm và hương thơm, khi ăn vào cơ thể sẽ đi vào lá lách, dạ dày, phổi. Tỏi giúp làm ấm và loại bỏ ẩm dư thừa, giải độc, diệt trùng, loại bỏ vi khuẩn.

Những người bị đau bụng do lạnh, kiết lỵ, tiêu chảy, đờm phổi, ho gà, cảm lạnh, sưng độc, ṛ ruột, trĩ, rắn cắn, bệnh giun móc, bệnh ngứa âm đạo, sốt rét, phù thũng đều có thể ăn tỏi để giảm nhẹ t́nh trạng bệnh.







Những tác dụng đặc biệt của tỏi bạn nên tận dụng để chăm sóc sức khỏe

1. Khử trùng mạnh

Các hợp chất chứa lưu huỳnh trong tỏi có tác dụng kháng khuẩn và chống viêm mạnh mẽ, đồng thời có tác dụng ức chế và tiêu diệt các loại cầu trùng, trực khuẩn, nấm và vi rút. Tỏi được xem là thực vật chứa những chất kháng khuẩn mạnh nhất có trong thế giới thực vật tự nhiên.


2. Pḥng ngừa và điều trị ung thư và các khối u

Các yếu tố có nhiều trong tỏi như strontium và selenium có thể ức chế sự phát triển của tế bào khối u và tế bào ung thư.

Thí nghiệm cho thấy dân số có tỷ lệ mắc ung thư thấp nhất là người có lượng selen cao nhất trong máu. Tổ chức Ung thư Quốc gia Mỹ cho rằng trong số các loài thực vật có tiềm năng chống ung thư tốt nhất thế giới, tỏi là loại đứng hàng đầu.


3. Giải độc và làm sạch đường ruột

Tỏi có thể ức chế và tiêu diệt virus vi khuẩn như Helicobacter pylori một cách hiệu quả, tác nhân gây ra các bệnh về đường tiêu hóa, đồng thời loại bỏ các chất độc hại từ dạ dày, kích thích niêm mạc đường tiêu hóa, thúc đẩy sự thèm ăn và đẩy nhanh quá tŕnh tiêu hóa.


4. Hạ đường huyết

Chúng ta đều biết rằng, tỏi có thể thúc đẩy bài tiết insulin, tăng sự hấp thụ glucose của các tế bào mô, tăng khả năng dung nạp glucose của cơ thể người, giảm nhanh lượng đường trong máu trong cơ thể và tiêu diệt các vi khuẩn khác nhau do nhiễm trùng, từ đó ngăn ngừa và điều trị bệnh tiểu đường hiệu quả.


5. Pḥng ngừa và điều trị các bệnh tim mạch và mạch máu năo

Các chuyên gia dinh dưỡng đánh giá cao tác dụng của tỏi trong điều trị và ngăn ngừa bệnh tật.

Tỏi có thể ngăn ngừa sự lắng đọng chất béo trong tim và năo, gây ra sự trao đổi chất béo bên trong mô, làm tăng đáng kể hoạt động tiêu sợi huyết, giảm cholesterol, ức chế kết tập tiểu cầu, giảm nồng độ trong huyết tương, tăng giăn mạch máu, thúc đẩy sự giăn mạch, điều ḥa huyết áp.

Không những vậy, tỏi c̣n có khả năng làm tăng tính thấm của mạch máu, do đó ức chế sự h́nh thành cục máu đông và ngăn ngừa xơ cứng động mạch.

Ăn đều đặn từ 2 đến 3 tép tỏi mỗi ngày là cách tốt nhất và dễ nhất để giảm huyết áp. Tỏi giúp duy tŕ lượng enzyme thích hợp trong cơ thể và tránh huyết áp cao.


6. Bảo vệ chức năng gan

Các nguyên tố vi lượng (bao gồm thành phần selen nổi trội) trong tỏi có thể bảo vệ gan bằng cách tham gia vào quá tŕnh chuyển hóa hiếu khí của máu, loại bỏ độc tố và giảm gánh nặng giải độc cho gan.


7. Tăng cường chức năng thận, giúp tinh lực dồi dào

Tỏi có thể bổ sung hiệu quả các chất cần thiết cho thận, cải thiện các triệu chứng suy yếu do thiếu khí thận và thúc đẩy sản xuất tinh trùng, do đó, nếu ăn tỏi thường xuyên có thể giúp cho số lượng tinh trùng được tăng lên rất nhiều.


8. Pḥng chống cảm lạnh

Tỏi có chứa một loại chất quan trọng thuộc nhóm axit sulfuric gọi là propylene sulfide. Chất này có tác dụng tiêu diệt rất hiệu quả những nhóm mầm bệnh và kư sinh trùng tồn tại và sinh trưởng trong cơ thể. Ngoài ra, tỏi c̣n có thể ngăn ngừa cảm lạnh và giảm các triệu chứng cảm lạnh, ho, đau họng và nghẹt mũi.







Giá trị dinh dưỡng của tỏi

Tỏi chứa khoảng 0,2% tinh dầu dễ bay hơi. Thành phần chính của loại tinh dầu này là allicin, có tác dụng diệt khuẩn. Allicin có trong tỏi bị thủy phân do tác dụng của enzyme tỏi hoạt động. Nó cũng chứa một loạt các hợp chất bao gồm các nhóm allyl, propyl và methyl.







Cách ăn tỏi hiệu quả

Trước hết, cách đầu tiên và quan trọng là tỏi nên được ăn sống. Bởi v́ tỏi mất tác dụng kỳ diệu khi bị làm nóng với nhiệt độ cao. Sau khi tỏi được nghiền nát, tốt nhất là để nó trong 10 đến 15 phút ở không khí b́nh thường để tỏi phát huy tác dụng tối ưu nhất.

Khi tỏi được giải phóng trong không khí tự nhiên hoàn toàn, nó sẽ hoạt động tốt nhất. Điểm cần lưu ư là tỏi không nên ăn khi bụng đói v́ nó rất khó chịu và có thể làm ăn ṃn dạ dày, gây cảm giác cồn cào. Có thể gây khó chịu cho dạ dày.

Ngoài ra, bạn không nên ăn quá nhiều cùng lúc v́ nó sẽ ảnh hưởng đến sự hấp thụ vitamin B, sẽ có tác dụng kích thích lên mắt. Gây viêm mí mắt và viêm kết mạc. Do đó, tốt nhất nên ăn tỏi mỗi ngày một lần hoặc cách ngày một lần, mỗi lần ăn khoảng 3 nhánh là đủ.

Nếu bạn sợ hơi thở có mùi sau khi ăn tỏi, bạn có thể uống một tách cà phê, sữa hoặc trà xanh sau mỗi lần ăn xong.

https://i.imgur.com/RqeAUj8.jpg

Vân Hồng
*Theo Health/Xiangha
theo Trí Thức Trẻ

florida80
05-13-2019, 19:29
Trị viêm phế quản mạn tính bằng mật ong


https://i.imgur.com/Ea3ae2p.jpg




Để phối hợp với tân dược trong giai đoạn điều trị, pḥng bệnh và chống tái phát bệnh viêm phế quản mạn tính, một trong những phương cách độc đáo của Đông y.



Để phối hợp với tân dược trong giai đoạn điều trị, phòng bệnh và chống tái phát bệnh viêm phế quản mạn tính , một trong những phương cách độc đáo của Đông y đó là sử dụng mật ong phối hợp với một vài dược liệu đơn giản, dễ kiếm, dễ tìm và rẻ tiền. Dưới đây xin được giới thiệu một số ví dụ điển hình để độc giả tham khảo và vận dụng khi cần thiết.


Bài 1: Bách bộ khô 120g, mật ong 150g. Bách bộ tán thành bột trộn với mật ong rồi đem hấp cách thủy trong 1 giờ, sau đó đem sấy khô, đựng trong lọ kín dùng dần.

Công dụng: Tư bổ nhuận phế, thanh táo chỉ ho, dưỡng tâm an thần, dùng rất tốt cho người bị viêm phế quản mạn tính có ho khan, phiền táo, đại tiện bí kết, thần kinh suy nhược. Uống mỗi ngày 3 lần, mỗi lần 10g với nước ấm.


Bài 2: Hạt củ cải trắng 250g, quả lê 250g, ngó sen 250g, quất hồng 120g, đào nhân 120g, mật ong 500g. Các vị thuốc đem sắc kỹ lấy nước, cô đặc thành dạng cao rồi cho mật ong vào đảo đều, bảo quản trong lọ sành dùng dần.

Công dụng: Nhuận phế hóa đàm, bổ thận nạp khí, chỉ khái bình suyễn. Uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 10 - 20g.





Bài 3: Trứng gà 1 quả, mật ong 35g. Đun sôi mật ong bằng lửa nhỏ, cho thêm một chút nước rồi đập trứng vào nấu chín.

Công dụng: Nhuận phế chỉ khái. Ăn mỗi ngày 1 lần.


Bài 4: Hạnh nhân 100g, tử uyển 100g, ma hoàng 30g, tô tử 60g, mật ong 250g, đường đỏ 300g. Ngâm 4 vị thuốc trong nước lạnh 1 giờ rồi đem sắc 2 lần, mỗi lần 30 phút, lọc lấy nước cô thành cao, trộn với mật ong, đường đỏ chưng cách thủy trong 2 giờ, đựng trong lọ kín dùng dần.

Công dụng: Ôn hàn hóa đàm, thuận khí thư hung, lợi tâm phế, thông nhị tiện. Uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 10g với nước ấm.


Bài 5: Nước ép ngó sen, gừng tươi, lê tươi, củ cải, mía tươi, đem trộn với mật ong rồi hấp cách thủy, uống tùy thích.

Công dụng: Sinh tân dưỡng dịch, thanh nhiệt hóa đàm, dùng tốt cho người bị viêm phế quản mạn tính thể đàm nhiệt.


Bài 6: Vừng đen 250g, gừng tươi 120g, đường phèn 120g, mật ong 120g. Vừng đen sao chín sấy khô, tán bột rồi trộn với nước cốt gừng, mật ong và đường phèn đập vụn đem hấp chín, đựng trong lọ kín dùng dần.

Công dụng: Nhuận phế vị, bổ can thận, chỉ khái bình suyễn. Uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 20g.




Thạc sĩ Hoàng Khánh Toàn
theo Sức khỏe đời sống

florida80
05-13-2019, 19:32
Những mẹo độc đáo, hiệu quả để ch́m vào giấc ngủ


https://i.imgur.com/vkqyFlj.jpg

Sử dụng chăn thay ḷ sưởi, cởi bỏ chiếc cổ dề từ thú cưng... sẽ là một trong số những phương pháp đơn giản mà ít người để ư,nhưng lại vô cùng hiệu quả giúp bạn ch́m vào giấc ngủ.




Để nhiệt độ trong pḥng 16 đến 21 là tốt nhất cho giấc ngủ.


Dưới đây là một số phương pháp giúp dễ ngủ mà các chuyên gia khuyên bạn.



Làm lạnh

Tiến sĩ Alex Dimitriu, bác sĩ tâm thần và bác sĩ giấc ngủ có trụ sở tại California, Mỹ cho biết, nhiệt độ trong pḥng từ 16 tới 21 độ là tốt nhất cho giấc ngủ. Khi nhiệt độ cơ thể giảm xuống, nó báo hiệu rằng đă đến lúc phải chậm lại. Sử dụng chăn thay v́ ḷ sưởi khi ngủ.



Sử dụng thuốc an thần đúng lúc

Theo lời khuyên của Dimitriu, thuốc Melatonin có thể trợ giúp hữu ích cho giấc ngủ, nhưng phụ thuộc vào cách bạn sử dụng nó. Nếu bạn khó ngủ, hăy thử dùng nó khoảng ba giờ trước khi đi ngủ. Chỉ cần 1 hoặc 2 miligam là đủ. 5 miligram sẽ khiến bạn gặp những vấn đề bất ổn, và không ai muốn sử dụng tới liều cao như thế.



Tránh ánh sáng xanh dương

Theo lời chuyên gia chăm sóc giấc ngủ Soda Kuczkowski, chủ sở hữu trung tâm chăm sóc sức khỏe Start With Sleep ở Buffalo, New York, ánh sáng xanh, phát ra từ điện thoại, máy tính hoặc các thiết bị khác kích thích sự tỉnh táo. Bạn nên tránh sử dụng các thiết bị đó, cũng như ngừng xem TV ít nhất 30 phút trước khi đi ngủ. Nếu bắt buộc phải chạm trán với ánh sáng xanh vào ban đêm, bạn nên đeo kính ngủ.



Để ư tới thú cảnh

Nếu bạn nuôi thú cưng, khi đêm đến, hăy cởi cổ dề và cất các món đồ chơi của chúng đi. Âm thanh của leng keng trên cổ dề hoặc những tiếng động phát ra từ đồ chơi của thú cảnh có thể đủ để làm phiền giấc ngủ yên b́nh của bạn, người sáng lập của Hiệp hội chuyên gia tư vấn giấc ngủ chuyên nghiệp, Mar De Carlo nói.



Tĩnh tâm

Dimitriu cho biết:"Những người mắc chứng mất ngủ hay nghĩ về giấc ngủ nhiều hơn 10 lần một ngày so với người không mất ngủ. Tôi nói với bệnh nhân của tôi nó giống như tṛ chơi “bẫy ngón tay của Trung Quốc”, khi bạn càng căng thẳng trên giường, bạn càng khó ngủ. Thiền định trong ngày là một cách tốt để thực hành tĩnh tâm. Hăy bắt đầu thử thiền bằng cách tải xuống một ứng dụng tập thiền miễn phí, chẳng hạn như ứng dụng Headspace.




Theo H. K (Tiền Phong)

florida80
05-13-2019, 19:34
Thực phẩm nên ăn để tăng cường miễn dịch

https://i.imgur.com/xPOXr26.jpg





Hệ miễn dịch khỏe mạnh giúp bạn chống lại bệnh tật. Hăy bổ sung những thực phẩm dưới đây vào chế độ ăn để tăng cường khả năng miễn dịch.



Các loại hạt

Các loại hạt như hạnh nhân, hạt óc chó, hạt điều giàu dưỡng chất giúp tăng cường miễn dịch. Chúng c̣n là nguồn cung cấp selen, kẽm, vitamin C và vitamin E.


Sữa chua

Lợi khuẩn probiotic có trong sữa chua hỗ trợ hệ tiêu hóa chống lại mầm bệnh. Ngoài ra, sữa chua c̣n bổ sung vitamin D tốt cho sức khỏe.


Rau xanh

Các loại rau lá xanh như bắp cải, súp lơ, rau chân vịt giàu vitamin E, C, A và folate. Vitamin E là chất chống ôxy hóa giúp tăng cường khả năng miễn dịch ở người lớn tuổi, vitamin C giúp tăng cường sản sinh bạch cầu.


Súp

Các loại súp, đặc biệt là súp gà là món ăn lành mạnh. Súp gà giúp tăng khả năng miễn dịch và làm loăng đờm, bạn có thể thêm gừng và tỏi khi chế biến để tăng cường tác dụng.






Trà xanh

Trà xanh giàu chất chống ôxy hóa là thức uống tốt cho sức khỏe và giúp tăng khả năng miễn dịch.


Hoa quả theo mùa

Các loại hoa quả như chuối, mận, anh đào, đào, lựu…rất giàu dưỡng chất, các vitamin và khoáng chất cần thiết cho hệ miễn dịch.


Gừng

Gừng có thuộc tính kháng khuẩn và chống virus. Bổ sung gừng vào chế độ ăn giúp chống cảm lạnh, cúm và hỗ trợ trị các vấn đề tiêu hóa.




BS P.Liên (Theo Univadis/ Boldsky)
theo Sức khỏe đời sống

florida80
05-13-2019, 19:35
Nấm ăn là một vị thuốc quư, thực phẩm giàu dinh dưỡng

https://i.imgur.com/hRA4SpI.jpg

Từ hàng ngàn năm nay, nấm là một món ăn quen thuộc của con người. Nấm không chỉ là một thực phẩm mà chúng c̣n được coi là một vị thuốc.






Ảnh minh họa



Nấm là một món ăn giàu protein, có thể thay thế cho những loại thịt trong các món ăn hàng ngày. Tuy nhiên cũng nên dè chừng với những loại nấm không thể ăn được, những loại nấm chứa độc tố cực mạnh.

Người ta vẫn coi nấm ăn được là một loại rau, nhưng thực tế th́ họ nấm không được xếp vào thực vật. Nấm mọc ngoài tự nhiên rất nhiều, có loại mọc trên mặt đất, có loại mọc dưới mặt đất. Do nhu cầu của con người về nấm ngày càng tăng cao nên có một số loại nấm được con người gieo trồng, sản xuất hàng loạt.

Một số loại nấm phổ biến được sử dụng ở nước ta gồm có: nấm mỡ, nấm mèo, nấm hương, nấm tuyết, nấm đùi gà, nấm rơm, …. Nấm được chế biến thành các món xào, nấu canh, ăn sống hoặc sấy khô, thậm chí là đóng hộp.


Nấm giàu dinh dưỡng và chứa ít calo

Nấm chỉ cung cấp một lượng calo vô cùng nhỏ, nhưng lại là nguồn cung cấp protein cực kỳ phong phú và rất nhiều loại muối khoáng khác nhau như kali, selen, vitamin nhóm B. Không chỉ vậy, nấm c̣n chứa ít chất béo.


100 gram nấm mỡ có chứa:

Calo: 22
Carbonhydrate: 3 gram
Chất xơ: 1 gram
Protein: 3 gram
Chất béo: 0.3 gram
Kali: 9% nhu cầu
Selen: 13% nhu cầu
Riboflavin: 24% nhu cầu
Niacin: 18% nhu cầu


Tuy nhiên, những loại nấm như Shiitake có thể đáp ứng được 45% nhu cầu đồng nạp vào từ chế độ ăn hàng ngày. Nấm có thể cung cấp những hàm lượng chất dinh dưỡng khác nhau phụ thuộc vào điều kiện bảo quản, cách chế biến, xử lư nấm.


Nấm giúp tăng cường hệ miễn dịch

Trong y học cổ truyền, nấm được coi là một vị thuốc quư giúp tăng cường sức khỏe. Ví dụ, nấm Shiitake được sử dụng để chữa trị chứng cảm lạnh do nấm có khả năng chống lại virus và khả năng kháng lại sự nhiễm khuẩn mạnh.
Cùng với đó, nấm c̣n chứa các polysaccharide chẳng hạn như beta gluten, có thể cải thiện hệ miễn dịch. Những loại nấm chứa nhiều chất trên có thể kể đến như shiitake, nấm ṣ.


Chiết xuất nấm hỗ trợ chống lại ung thư

Ở nhiều quốc gia châu Á như Việt Nam, những chất như beta-glucan chứa trong nấm được sử dụng để điều trị ung thư. Các nhà nghiên cứu tin rằng những chiết xuất từ nấm có hiệu quả trong việc ngăn chặn sự phát triển khối u. Mặc dù có thể nói rằng beta-glucan không có tác dụng tiêu diệt tế bào ung thư nhưng lại có tác dụng ngăn chăn các tế bào ung thư di căn và làm tăng tỷ lệ sống ở những bệnh nhân hóa trị. Trong một nghiên cứu các nhà khoa học thấy rằng những bệnh nhân ung thư đang hóa trị sử dụng chiết xuất nấm sống dài hơn được 25 ngày so với những bệnh nhân không được sử dụng chiết xuất nấm. Do vậy, có thể coi nấm là một phương thuốc thần kỳ. Nhưng cũng phải nói tới điểm là chiết xuất nấm không giúp làm giảm tác dụng phụ của hóa trị chẳng hạn như nôn hoặc buồn nôn.


Nấm có thể giúp trái tim khỏe mạnh

Nấm có chứa rất nhiều các chất dinh dưỡng khác nhau, giúp cholesterol. Ăn nấm thường xuyên có thể tăng lượng cholesterol tốt, giảm nồng độ triglyceride trong máu.

Nấm cũng có tác dụng giảm đường máu, chống lại quá tŕnh oxi hóa do nấm có chứa polysaccharide và phenol, đều là những chất chống oxi hóa mạnh. Ví dụ nấm ṣ có chứa một lượng lớn các chất chống oxi hóa.Nấm cũng giúp giảm lượng muối trong các món ăn chế biến từ thịt do đó làm giảm được lượng muối nạp vào hàng ngày.


Nấm cung cấp vitamin D

Không phải loại nấm nào cung có chứa vitamin D. Nấm mọc ngoài tự nhiên có chứa lượng vitamin D lớn hơn nấm nuôi trồng trong nhà, tuy nhiên c̣n phụ thuộc vĩ độ và kinh độ của từng vùng địa lư.


Nấm gây độc

Những loại nấm mọc hoang dă tự nhiên, không phải loại nào cũng ăn được. Có rất nhiều loại có chứa những chất độc rất mạnh, Dấu hiệu khi ngộ độc nấm có thể là nôn, buồn nôn, đau bụng, ảo giác, mệt mỏi toàn thân. Trong một số trường hợp ngộ độc nặng có thể dẫn đến tử vong.

Nấm là một thực phẩm quư báu, rất tốt cho sức khỏe bởi chứa nhiều chất xơ, vitamin và muối khoáng. Nấm cũng có tác dụng chữa trị bệnh, tăng cường miễn dịch và có thể giúp chống lại ung thư. Tuy nhiên, nhiều nấm tự nhiên có chứa chất độc v́ vậy bạn phải có kiến thưc nhất định về các loại nấm. Để đảm bảo an toàn, chỉ nên sử dụng những loại nấm thông dụng và cố gắng thêm nấm vào trong những món ăn hàng ngày giúp tăng hương vị món ăn và nâng cao sức khỏe.


BS Đào Ngọc - Viện Y học ứng dụng

florida80
05-13-2019, 19:37
Thực phẩm giúp lấy lại cân bằng cho gan nhiễm mỡ



Nói một cách đơn giản, bệnh gan nhiễm mỡ có nghĩa là tích tụ chất béo trong tế bào gan.


Thường vẫn có chất béo tồn tại trong gan, nhưng khi lượng chất béo chiếm trên 5 đến 10 % của trọng lượng gan, có thể được coi là gan nhiễm mỡ.

Sự tích tụ chất béo trong gan làm cho gan dễ bị tổn thương hơn, có thể dẫn đến viêm và suy gan. Hiện nay, không có điều trị đặc hiệu đối với bệnh gan nhiễm mỡ. Tuy nhiên, có thể làm đảo ngược t́nh trạng gan nhiễm mỡ với những thay đổi trong chế độ ăn uống, sinh hoạt.



Thực phẩm làm giảm gan nhiễm mỡ

Củ nghệ: Củ nghệ không chỉ là gia vị yêu thích trong các món ăn, nghệ cũng nổi tiếng v́ những lợi ích sức khỏe tuyệt vời. Nghệ không những ngăn ngừa bệnh gan nhiễm mỡ mà c̣n kích thích cơ thể tiêu hóa chất béo, làm giảm tối thiểu được lượng chất béo tích tụ trong gan.

Để điều trị có hiệu quả bệnh gan nhiễm mỡ trong gan, khuyến cáo: trộn nửa muỗng cà phê bột nghệ với một ly nước nóng, để nguội và dùng ba lần một ngày. Nếu bạn thích, có thể trộn nửa th́a bột nghệ vào một ly sữa ấm và thưởng thức.


Chanh: Chanh là một loại trái cây có múi có chứa vitamin C. Vitamin C là một chất chống ôxy hóa tự nhiên giúp gan sản xuất glutathione, đóng vai tṛ quan trọng trong việc giải độc tố cho cơ thể.

Các nghiên cứu gần đây cũng cho thấy rằng, chanh có chứa một hợp chất gọi là naringenin làm giảm chứng viêm gan có liên quan đến gan nhiễm mỡ. Uống nước chanh tươi và lặp lại hai hoặc ba lần một ngày trong một tháng.

Bạn cũng có thể cắt thành lát chanh mỏng, thả chúng vào một chai nước và uống suốt cả ngày. Ngoài ra, có thể thêm vài lát dưa chuột vào nước chanh để dùng.





Chanh có chứa một hợp chất gọi là naringenin làm giảm chứng viêm gan có liên quan đến gan nhiễm mỡ.


Nước táo: Giấm táo là một trong những phương pháp điều trị tốt nhất cho gan nhiễm mỡ. Nước chiết xuất từ táo cũng thúc đẩy việc giảm cân và làm giảm lượng chất béo tích tụ bên trong gan. Trộn một muỗng canh giấm táo, một th́a mật ong và một ly sữa ấm. Uống hỗn hợp này trước bữa ăn. Thực hiện việc này trong nhiều tháng một cách đều đặn.


Trà xanh: Trà xanh chứa đầy chất chống ôxy hóa và chất dinh dưỡng quan trọng đối với cơ thể. Thường xuyên tiêu thụ trà xanh giúp hỗ trợ chức năng năo, giảm nguy cơ ung thư, giết chết vi khuẩn và đốt cháy chất béo trong cơ thể.

Trà xanh là một trong những biện pháp đề pḥng tốt nhất cho gan nhiễm mỡ, đặc biệt đối với người có bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu.


Bồ công anh: Bồ công anh được sử dụng để điều trị bệnh gan nhiễm mỡ v́ có tác dụng chuyển hóa các chất béo chứa trong gan.

Bồ công anh là một chất bổ gan mạnh giúp kích hoạt chức năng gan tốt và giúp điều trị bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu có liên quan đến chứng béo ph́. Bạn có thể dùng lá bồ công anh tươi kết hợp trong món salad.

Trộn một th́a bột bồ công anh và nước nóng, để trong vài phút sau đó uống. Bạn có thể thêm một ít mật ong để cải thiện hương vị. Uống một ly, hai đến ba lần một ngày trong vài tuần. Chú ý, không nên sử dụng loại thảo mộc này cho những người bệnh đái tháo đường do có thể dẫn đến các phản ứng phụ không mong muốn.


Đu đủ: Đu đủ và hạt của nó có những lợi ích tuyệt vời trong việc chữa lành xơ gan. Đu đủ giúp đốt cháy chất béo trong gan và do đó rất tốt để chữa gan nhiễm mỡ.


Một số thực phẩm khác: Cam thảo được sử dụng để điều trị bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu. Cam thảo có thể được dùng như một chất bổ sung hoặc pha với nước ấm. Nước ép bưởi có các chất chống ôxy hóa mạnh giúp tăng chức năng hoạt động của gan.



Thay đổi lối sống

Kiểm tra trọng lượng: Theo dơi cân nặng và t́nh trạng tăng cân là điều cần thiết trong việc kiểm soát chứng gan nhiễm mỡ. Điều này giúp điều chỉnh lượng chất béo tích tụ trong gan. Thực hiện các bước để giảm cân nếu bạn béo ph́ hoặc thừa cân.

Thay đổi chế độ ăn uống hoặc thói quen ăn uống: Những ǵ đưa vào dạ dày của bạn đóng một vai tṛ quan trọng trong việc bảo đảm sức khỏe cho gan.

Đó là lư do tại sao bắt buộc bạn phải ăn một chế độ ăn uống lành mạnh chủ yếu từ thực vật bao gồm trái cây, ngũ cốc nguyên hạt, rau và dầu thực vật, sẽ hỗ trợ cho gan hoạt động tốt và giúp gan làm việc không quá mức: Cụ thể, ăn ngũ cốc và các hạt như yến mạch và cám.

Ăn trái cây giàu chất xơ như táo và quả việt quất. Ăn rau cải như rau bina, cải xoăn, cải bắp, bông cải xanh và bắp cải. Tránh đồ ăn vặt và thức ăn béo. Ăn một chế độ ăn uống giàu axit béo omega-3, chẳng hạn như cá, óc chó và hạt lanh.

Tập thể dục thường xuyên: Tập thể dục hàng ngày trong khoảng 30 phút. Nếu bạn mới tập thể dục, hăy bắt đầu với bài tập nhẹ. Tập thể dục giúp tăng cường trao đổi chất và đốt cháy chất béo dư thừa. Tập thể dục đều đặn giúp bạn giảm cân và giữ trọng lượng trong mức kiểm soát.

Kiểm soát nồng độ cholesterol máu: Tùy thuộc vào kết quả, bắt đầu thực hiện các khuyến cáo để giảm, duy tŕ hoặc đạt tiêu chuẩn b́nh thường của cholesterol máu, làm giảm nguy cơ cho sức khỏe nói chung và bệnh tim mạch nói riêng.


https://i.imgur.com/bMjw2bq.jpg


BS. Thanh Hoài ((Theo newhealthadvisor và top10 homeremedies)
theo Sức khỏe đời sống

florida80
05-13-2019, 19:39
Nguyên nhân của nhức đầu


By BS Nguyễn Ư Đức

https://i.imgur.com/vxBbCKp.jpg
Người bị nhức đầu thường tự cho là tại thức khuya, tại suy nghĩ, tại đủ các thứ khác…

Nhưng các nhà chuyên môn ngày nay đều tin rằng nguyên nhân cụ thể của chúng có thể là mạch máu trên đầu bị dăn ra hoặc do các bắp thịt đều căng thẳng hoặc do cả hai.

Đa số các nguyên nhân của nhức đầu đều do bác sĩ Harold G. Wolff, giáo sư y khoa tại Cornell University Medical College t́m ra.

Các nhà tiền phong về t́m hiểu nhức đầu, bác sĩ Wolff và cộng sự viên, -ấy là không kể một số bệnh nhân hứa sẽ hợp tác- đă đánh dấu vùng đau ở trên đầu và làm cho tăng hoặc giảm cơn đau khi nào muốn. Trong khi giải phẫu các bệnh ở trong sọ, bệnh nhân cho phép cắm và thổi phồng những quả bóng nhỏ vào khoảng trống của năo, kích thích điện năng và một số thủ thuật của các mạch máu và nhiều phần khác nhau của óc rồi cho biết nơi và trạng thái của các cảm giác đă có.


Sau đó th́ bác sĩ Wolff chuyển sang phía hóa chất. Các dược phẩm gọi là dăn mạch máu được chích vào những người t́nh nguyện và sẽ gây ra nhức đầu mà trước đó không có. Bác sĩ Wolff kết luận rằng, tạo hóa làm những cơn nhức đầu cùng chỉ một cách là khiến cho các mạch máu nở rộng mà ta thường thấy trong mắt đỏ, sưng trong lỗ mũi, hay dăn động mạch ở vùng thái dương.




Bảo Huân


Căn cứ vào nhiều nghiên cứu khác nhau, bác sĩ Wolff kết luận rằng, “u bướu, các nhiễm trùng và các cấu tạo bất thường của mắt cũng như khoảng trống của đầu đều là nguyên nhân nhỏ gây ra nhức đầu. Khoảng dưới ba trong số 100 trường hợp nhức đầu khó chữa nhất đều ở trong nhóm này”. Những trường hợp khác đều do mạch máu hoặc bắp thịt bị căng.

Bác sĩ Wolff kết luận rằng trong khi cao huyết áp, xơ cứng động mạch năo và các rối loạn khác của cơ thể gây ra một số rất ít các bệnh nhức đầu v́ mạch máu, số c̣n lại đều do căng thẳng mà ra. Ông ta đă gây ra cơn đau của nhức đầu và dấu hiệu đo được của dăn mạch bằng cách cho bệnh nhân nghe những chuyện không thích hành động như một emotional tinder chất khô dễ bắt lửa. Nói một cách thẳng thừng hơn là có thể chính chúng ta đă tạo ra đa số nhức đầu cho ḿnh.

Khó chịu nhất trong số những nhức đầu là Thiên đầu thống mà người Hy Lạp gọi là Hemikrania-một nửa đầu- v́ cơn đau thường chỉ có ở một phía và hay chạy lên mắt. Cơn đau kéo dài liên tục có khi cả giờ hoặc suốt ngày.

Các t́m kiếm cho hay Thiên đầu thống thường hay thấy ở người có học và thông minh. Bác sĩ Walter C. Alvarez, giáo sư tư vấn về y khoa tại Mayo Clinic nói đến bệnh này như “bệnh của Phi Beta Kappa Key” trong thế giới nhức đầu. Ông ta cũng tả khuynh hướng của Thiên đầu thống đều di truyền, luôn luôn gia tăng bởi môi trường và đ̣i hỏi những tiêu chuẩn rất cao.

Nhức đầu do căng thẳng thường bắt đầu ở gáy hoặc ở dưới xương sọ, lan ra tại bất cứ nơi nào-đằng trước, sau hoặc hai bên cạnh hoặc ở ngay chỏm đầu. Người viết tốc kư, học sinh khom lưng xuống sách lâu quá, tài xế tập trung vào đường đi trong một hành tŕnh dài và luôn luôn nh́n vào tay lái xe, mặc dù cá nhân không để ư tới nhưng các bắp thịt ở cổ, đầu đều co cứng và giựt từng cơn. Nếu cứ co măi th́ các bắp thịt sẽ nhỏ đi cho tới lúc bị thắt chặt của các mạch máu và hệ thống dây thần kinh. Máu giảm sẽ làm cho cơ bắp co lại. Và nhức đầu xuất hiện.


NYD

Arlington, TX

florida80
05-13-2019, 19:40
Mất chân trái v́ nhiễm vi khuẩn ăn thịt người



Thực tập sinh thuộc lực lượng Vệ binh Quốc gia (Mỹ) đă phải cắt bỏ chân trái sau khi bị một loại vi khuẩn ăn thịt người hiếm gặp tấn công trong quá tŕnh huấn luyện cơ bản.



Theo Daily Mail, Dez Del Barba, 21 tuổi, là thực tập sinh tham gia tập luyện trong lực lượng Vệ binh Quốc gia tại Fort Benning, in Georgia, trong 6 tuần. Sau khi hoàn thành khóa huấn luyện, Barba cảm thấy đau họng và đau chân, anh đă uống thuốc ngậm trị viêm họng nhưng không đỡ.

Anh được đưa tới bệnh viện, xét nghiệm ban đầu cho thấy Barba âm tính với viêm họng liên cầu khuẩn. Một ngày sau đó, kết quả xét nghiệm cho biết anh dương tính với liên cầu khuẩn nhóm A.

Theo các bác sĩ, Barba bị viêm cân mạc hoại tử, hay c̣n gọi là bệnh vi khuẩn ăn thịt người, t́nh trạng nhiễm trùng phá hủy mô dưới da rất nhanh và nó đă lan xuống 2 chân của anh. Nhiễm trùng liên cầu khuẩn nhóm A được cho là nguyên nhân phổ biến nhất gây ra t́nh trạng này.

Sau đó, Barba đă trải qua 14 cuộc phẫu thuật tại 3 bệnh viện khác nhau, bao gồm ca phẫu thuật cắt bỏ chân trái. Các bác sĩ hiện nỗ lực điều trị để cứu chân phải của anh và hạn chế sự lây lan của căn bệnh.



Dez Del Barba bị cắt cụt chân trái v́ vi khuẩn ăn thịt người tấn công. Ảnh: Dailymail.


Barba đang được điều trị tại Trung tâm Y tế quân đội Brooke, Texas, để chuẩn bị cấy ghép da, phẫu thuật tái tạo, vật lư trị liệu và chăm sóc vết thương.

Theo Trung tâm Kiểm soát và Pḥng ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC), viêm họng liên cầu khuẩn nhóm A là nguyên nhân phổ biến gây ra nhiễm trùng. Nó thường xâm nhập vào cơ thể thông qua các vết cắt, xước nhỏ nhất trên da. CDC cho biết có khoảng 700-1.200 trường hợp xảy ra ở Mỹ mỗi năm.

Các triệu chứng nhiễm trùng ban đầu bao gồm một vùng da bị sưng hoặc đỏ và đau dữ dội. Các triệu chứng sau này có thể bao gồm chóng mặt, buồn nôn, phồng rộp hoặc thay đổi màu da. Chẩn đoán kịp thời và điều trị nhanh chóng là ch́a khóa ngăn chặn nhiễm trùng.

florida80
05-13-2019, 19:41
Nhà miễn dịch học Harvard: Trẻ em chưa tiêm vắc-xin không có nguy cơ lây bệnh cho bất kỳ ai

https://i.imgur.com/j2SUIQH.jpg
Tiến sĩ miễn dịch học Tetyana Obukhanych đã viết một bức tâm thư với hy vọng góp phần sửa đổi một số nhận thức sai lầm phổ biến về vắc-xin, điển hình như sự phân biệt đối xử với trẻ em không tiêm chủng tại trường học là hoàn toàn phi lư.




Trẻ em chưa tiêm vắc-xin không có nguy cơ lây bệnh cho bất kỳ ai. (Ảnh minh họa qua zazhi.qunba.com)

–***–

Kính gửi nhà lập pháp:

Tên tôi là Tetyana Obukhanych. Tôi có bằng tiến sĩ về lĩnh vực miễn dịch học. Hôm nay tôi viết thư này với hy vọng nó sẽ góp phần sửa đổi một số nhận thức sai lầm phổ biến về vắc-xin. Từ đây nó có thể giúp các vị xây dựng nên một hệ thống kiến thức minh bạch và công bằng dành cho các học thuyết vắc-xin cũng như các phát hiện khoa học mới.

Hiện có một câu hỏi lớn được đặt ra đó là: Liệu những đứa trẻ chưa được tiêm vắc-xin có là mối đe dọa lớn cho cộng đồng đă được tiêm chủng không?

Thời gian qua, người ta thường nói rằng, việc một số phụ huynh không tiêm pḥng cho con cái của họ v́ nhiều lư do là mối đe dọa lớn cho cộng đồng. Đây cũng là nguyên nhân mà các nhà lập pháp liên bang muốn xem xét đến việc hủy bỏ quyền từ chối tiêm pḥng vắc-xin.

Nhưng ông nên biết rằng, bản chất của sự bảo vệ tự nhiên do các loại vắc-xin hiện đại cung cấp, hay cả các vắc-xin mà CDC khuyến cáo dùng cho trẻ em lại không nhất quán với các tuyên bố của nhà sản xuất.

Dưới đây, tôi sẽ chỉ ra một số loại vắc-xin quan trọng nhưng lại không có khả năng pḥng ngừa bệnh tật, bởi v́ chúng không được tạo ra để ngăn ngừa lây nhiễm. Thay vào đó, chúng được sử dụng vào mục đích ngăn ngừa các triệu chứng của bệnh hoặc được dùng cho các bệnh không lây nhiễm.

Vắc xin bại liệt

Vắc xin bại liệt bất hoạt (IPV) không hề ngăn ngừa được sự lây nhiễm của virus bại liệt, một loại virus hoang dại đă không tồn tại ở Mỹ trong ít nhất hai thập kỷ qua. Ngay cả khi virus bại liệt quay trở lại cộng đồng thông qua con đường như du lịch, th́ tiêm pḥng IPV cũng không mang đến sự an toàn cho công chúng.

Ở đây cần lưu ư rằng, hiệu quả loại trừ virus bại liệt trong quá khứ chủ yếu là nhờ vào việc sử dụng các loại vắc-xin khác như OPV hay c̣n gọi là vắc-xin bại liệt bằng đường uống. Và mặc dù OPV có khả năng ngăn ngừa sự lây nhiễm virus, nhưng nó đă được loại bỏ từ lâu ở Mỹ và thay thế bằng vắc-xin IPV do sự lo ngại về tính an toàn.




Tiến sĩ Tetyana Obukhanych cho rằng, tiêm phòng thực chất là một phương pháp phòng bệnh vừa không an toàn vừa không hiệu quả. (Ảnh qua humansarefree.com)

Một cách chính xác mà nói th́ uốn ván không phải là bệnh có thể lây truyền từ người này sang người khác, căn bệnh này chỉ mắc phải khi vết thương hở của bệnh nhân có sự xuất hiện của một loại vi khuẩn có tên là Clostridium Tetani. V́ vậy việc chủng ngừa uốn ván (thông qua vắc-xin kết hợp DTaP) không thể thay đổi sự an toàn cho cộng đồng. Nhất là khi vắc-xin được tạo ra chỉ để bảo vệ mỗi cá nhân.

Bên cạnh đó, mặc dù vắc-xin độc tố bạch hầu được sản xuất với mục đích ngăn chặn những tác động gây bệnh của độc tố bạch hầu (cũng có trong vắc-xin DTaP), nhưng nó không được thiết kế để ngăn cản sự xâm nhập và lây truyền của vi khuẩn Bạch Hầu. Đây cũng là lư do v́ sao mà việc tiêm pḥng bệnh bạch hầu không thể làm thay đổi sự an toàn của không gian công cộng và nó cũng chỉ được thiết kế để bảo vệ cá nhân mỗi người.

Nói về vắc-xin ho gà (aP) (thành tố cuối cùng của vắc-xin kết hợp DTaP) hiện đang được sử dụng ở Mỹ, ta sẽ nhận thấy một nghịch lư rằng, việc thay thế toàn bộ các loại vắc-xin ho gà vào cuối những năm 1990 đă dẫn đến dịch bệnh ho gà tái phát trên quy mô lớn chưa từng thấy trước đây.

Khi này, một cuộc thí nghiệm trên những loài linh trưởng bị nhiễm virus ho gà cho thấy rằng: Vắc-xin AP không có khả năng ngăn ngừa sự xâm thực và lây nhiễm của vi rút ho gà. Và chính cơ quan FDA đă đưa ra một lời cảnh báo về phát hiện quan trọng này.

Hơn nữa, trong một cuộc họp vào năm 2013 của Hội đồng cố vấn khoa học tại cơ quan CDC đă tiết lộ thêm dữ liệu đáng báo động rằng: Các biến thể ho gà hiện đang lưu hành tại Hoa Kỳ có lợi thế chọn lọc trong việc gây bệnh cho những người được tiêm ngừa. Có nghĩa là những người được tiêm chủng có nhiều khả năng bị nhiễm bệnh và do đó họ sẽ dễ dàng lây nhiễm hơn những người không được tiêm chủng.

Vắc-xin cúm Hib

Trong số rất nhiều chủng vi khuẩn Haemophilus influenzae đang tồn tại, th́ vắc-xin Hib chỉ có tác dụng đối với nhóm B. Mặc dù sản phẩm này được ra đời với mục đích giảm bớt các triệu chứng hoặc hạn chế sự lây nhiễm của vi khuẩn, nhưng nó đă vô t́nh củng cố sự thống trị mạnh mẽ của các loại vi khuẩn H. influenzae khác (từ nhóm a đến f).

Chính các chủng vi khuẩn này đă khiến cho bệnh dịch xâm lấn đến mức độ nghiệm trọng. Tỷ lệ mắc bệnh ở người lớn cũng tăng cao. Và nh́n chung cộng đồng chúng ta sẽ dễ dàng mắc phải căn bệnh này nhiều hơn so với trước khi bắt đầu chiến dịch tiêm chủng Hib.

Do vậy, việc phân biệt đối xử với trẻ em không được chủng ngừa vắc-xin Hib trong thời kỳ mà dịch cúm H.influenzae đa chủng loài hoành hành là hoàn toàn không khoa học.

Vắc-xin viêm gan B

Viêm gan B là một căn bệnh do loại siêu vi khuẩn trong máu gây ra. Nó không lây lan trong môi trường công cộng. Đặc biệt là đối với trẻ em, bởi v́ đường lây của virus viêm gan B là dùng chung bơm kim tiêm và quan hệ t́nh dục.

Do vậy, việc tiêm chủng vắc-xin viêm gan B cho trẻ em sẽ không có nhiều thay đổi cho t́nh trạng bệnh dịch ở cộng đồng. Hơn nữa, quyền được đến trường [ở Mỹ] đối với trẻ mang mầm bệnh viêm gan B không hề bị ngăn cấm. Sự cấm đoán chỉ được áp dụng duy nhất dành cho những trẻ không được tiêm ngừa vắc-xin.

Như vậy, rơ ràng việc những đứa trẻ không tiêm pḥng viêm gan B và cũng không mang theo mầm bệnh viêm gan B nhưng lại bị kỳ thị tại trường là điều vô cùng phi lư ở thời điểm hiện tại.

Những phản ứng bất lợi của vắc-xin

Các phản ứng bất lợi xảy ra nghiêm trọng như thế nào? Mặc dù việc tiêm chủng thường được thông báo rằng hiếm khi dẫn đến các tác dụng phụ nghiêm trọng, nhưng điều đó lại không được hỗ trợ bởi các nghiên cứu khoa học.

Một nghiên cứu gần đây được thực hiện ở thành phố Ontario, Canada đă xác định rằng việc tiêm pḥng thực sự có thể khiến trẻ phải đi cấp cứu với tỷ lệ là 1/168 đối với trẻ 12 tháng tuổi và 1/730 đối với trẻ 18 tháng tuổi. Rơ ràng, nguy cơ xảy ra biến cố sau khi tiêm vắc-xin cho những đứa trẻ đang c̣n bú mẹ là rất cao. V́ vậy, việc chủng ngừa tốt nhất vẫn là nằm ở sự chọn lựa của các bậc phụ huynh.

Dịch sởi

Liệu chúng ta có nên phân biệt đối xử với những gia đ́nh phản đối vắc-xin bằng lư do điều đó có thể làm bùng phát một số bệnh dịch trong tương lai, chẳng hạn như dịch sởi?

Các nhà khoa học nghiên cứu về bệnh sởi từ lâu đă nhận thức được cái gọi là “nghịch lư bệnh sởi”. Để làm rơ vấn đề này, tôi sẽ trích dẫn những thông tin từ bài viết của trang Poland & Jacobson (1994) có tựa đề: “Sự thất bại trong việc vươn đến mục tiêu loại bỏ bệnh sởi: Một nghịch lư rơ ràng về sự truyền nhiễm của căn bệnh sởi ở những người đă được tiêm pḥng”. Nội dung chi tiết như sau:

Arch Intern Med 154:1815-1820:

“Có một nghịch lư rơ ràng là khi tỷ lệ tiêm chủng bệnh sởi trong cộng đồng tăng cao, th́ căn bệnh sởi lại trở thành căn bệnh chung của những người được tiêm chủng”.

Nghiên cứu tiếp theo cũng xác định rằng, đằng sau “nghịch lư bệnh sởi” là một phần nhỏ dân số được gọi là người đáp ứng thấp vắc-xin. Theo đó, những người đáp ứng vắc-xin ở mức độ thấp là những người đáp ứng kém với các liều tiêm vắc-xin sởi đầu tiên. Điều này cũng xảy ra tương tự khi họ được tiêm chủng vắc-xin RE. Và rất nhanh chóng họ đă quay trở lại nhóm “dễ bị tổn thương” mặc dù đă được tiêm ngừa đầy đủ.

Theo thông tin ghi nhận, các nghiên cứu về dịch sởi ở Quebec, Canada, Trung Quốc cũng chứng minh được rằng: Dịch sởi vẫn c̣n xảy ra ngay cả khi việc tiêm chủng vắc-xin được tuân thủ đầy đủ ở mức cao nhất (từ 95 – 97% Và thậm chí là 99%).

Tóm tắt:

Do các đặc tính của vắc-xin hiện đại, nên những người không tiêm chủng cũng không có nguy cơ lây nhiễm bệnh bại liệt, bạch cầu, ho gà và nhiều chủng vi khuẩn H. influenzae cao hơn so với các cá thể đă được tiêm vắc-xin. Đồng thời những cá nhân không tiêm chủng cũng sẽ không phải là nguồn lây truyền căn bệnh viêm gan B nguy hiểm ở trường học, cũng như căn bệnh uốn ván (vốn không phải là bệnh truyền nhiễm).

Những đứa trẻ sau khi tiêm pḥng có nguy cơ cao sẽ phải đến pḥng cấp cứu để điều trị. Đây là điều hoàn toàn trái ngược với những ǵ mà mọi người được cho biết, đó là: Việc chủng ngừa không hề có rủi ro.

Dịch bệnh sởi không thể được ngăn ngừa hoàn toàn, ngay cả khi chúng ta đă tuân thủ việc tiêm chủng một cách toàn diện.
Kết hợp cả các sự kiện lại với nhau sẽ cho thấy một sự thật rơ ràng rằng: Sự phân biệt đối xử đối với trẻ em không được tiêm chủng tại trường học là hoàn toàn phi lư.

Trân trọng.

Tiến sĩ Tetyana Obukhanych

Tiến sĩ Tetyana Obukhanych là tác giả cuốn sách “Vaccine Illusion” (Tạm dịch: Ảo tưởng vắc-xin). Cô đă nghiên cứu về miễn dịch học tại một số tổ chức y tế uy tín nhất thế giới. Cụ thể cô lấy bằng Tiến sĩ về Miễn dịch học tại Đại học Rockefeller ở New York và được đào tạo sau tiến sĩ tại Trường Y Harvard, Boston, tiểu bang Massachusetts và Đại học Stanford ở California.

Tiến sĩ Obukhanych cũng thường cung cấp các lớp học trực tuyến cho những người muốn hiểu sâu hơn về cách hoạt động của hệ thống miễn dịch và liệu lợi ích miễn dịch của vắc-xin có đáng để mạo hiểm hay không.


Hoàng An, theo HRF

florida80
05-13-2019, 19:43
7 dấu hiệu cảnh báo bệnh gan tuyệt đối không được xem thường




(VietQ.vn) - Sự thay đổi về thói quen ăn uống, sinh hoạt khiến trường hợp mắc các chứng bệnh về gan ngày càng phổ biến. Dưới đây là 7 dấu hiệu cảnh báo bệnh gan sớm nhất.



Da và mắt bị chuyển màu vàng

Nếu bạn có triệu chứng này, gan của bạn có thể đang gặp rắc rối lớn. T́nh trạng này được gọi là chứng vàng da gây ra bởi sắc tố vàng của da, ḷng trắng mắt và chất nhầy. Màu vàng xuất hiện do lượng bilirubin dư thừa có sắc tố màu vàng cam được t́m thấy trong mật gan.

Khi gan khỏe mạnh, nó sẽ dễ dàng loại bỏ bilirubin. Nhưng nếu nó bị hư hỏng nghiêm trọng, làn da hoặc mắt của bạn có thể chuyển sang màu vàng.




Khi gan bị tổn thương làn da hoặc mắt của bạn có thể chuyển sang màu vàng. Ảnh minh họa



Hay quên

Khi gan phải hoạt động quá mức th́ nó sẽ không thể lọc máu đúng cách được, từ đó khiến độc tố trong cơ thể dần dần gây ảnh hưởng đến năo bộ của bạn. Lúc này, bạn sẽ gặp phải t́nh trạng khó nhớ, hay quên, mất tập trung và chẳng thể ghi nhận được thông tin như ngày trước, thậm chí c̣n gặp khó khăn khi đưa ra bất kỳ quyết định nào.



Dấu hiệu bụng sưng trướng lên

Sưng hay trướng bụng có thể là một trong những triệu chứng khó chịu hơn và chúng gây đau. T́nh trạng này có thể xảy ra khi chất lỏng được giữ lại trong bụng. Trong một số trường hợp, bụng của bạn có thể trở nên căng phồng lên trông giống như bạn đang mang thai.

Đây là hậu quả của sự tích tụ chất lỏng, đồng thời cũng có thể bị sưng ở vùng chân và mắt cá chân.





Sưng hay trướng bụng có thể là một trong những dấu hiệu của bệnh gan. Ảnh minh họa



Mất cân bằng hormone

T́nh trạng rối loạn chức năng gan cũng có thể là do sự mất cân bằng giữa hormone estrogen và testosterone, từ đó gây ra những biểu hiện như kinh nguyệt thất thường, cơ thể mất năng lượng, uể oải...



Thường xuyên cảm thấy mệt mỏi và ủ rũ

Trạng thái này không chỉ là sự mệt mỏi thông thường mà c̣n là vấn đề nghiêm trọng hơn thế nữa. Mệt mỏi được xem là đặc trưng bởi sự thiếu năng lượng tinh thần và thể chất. Bạn không có tinh thần và động lực để làm bất cứ điều ǵ.

Đôi khi bạn có thể cảm thấy cảm giác mệt mỏi chỉ vào buổi sáng và cảm giác như bị tra tấn khi rời khỏi giường. Những lần khác bạn có thể cảm thấy t́nh trạng này diễn biến kéo dài trong suốt cả ngày.



Xuất hiện những vết bầm tím trên cơ thể

Nếu gan của bạn bị tổn thương, việc sản xuất protein sẽ ngừng hoặc trở nên chậm hơn. Nó gây ra t́nh trạng đông máu hoặc rối loạn. Đó là lư do tại sao những người bị tổn thương gan sẽ bị chảy máu hoặc bầm tím dễ dàng hơn so với người khỏe mạnh.



Gặp chứng ngạt thở khi ngủ

Ngạt thở là t́nh trạng rối loạn hơi thở khi bạn đang trong trạng thái ngủ, thường th́ nó sẽ kéo dài từ vài giây đến 1 phút. Với những người có bệnh gan măn tính sẽ thường gặp phải triệu chứng này. Vậy nên, những người có thói quen ngủ ngáy cũng cần đặc biệt lưu ư đến sức khỏe của ḿnh.
https://i.imgur.com/1ltdo4c.jpg



Ḥa Lê (T/h)
vietq.vn

florida80
05-13-2019, 19:44
Thực phẩm tự nhiên giải độc gan rất tốt bán rẻ ở Việt Nam
https://i.imgur.com/9knTqXC.jpg


Có rất nhiều loại thực phẩm có khả năng giải độc gan tự nhiên để thải độc hại ra khỏi cơ thể mà giá bán rẻ bèo, lại sẵn có ở Việt Nam.



Có rất nhiều loại thực phẩm có khả năng giải độc gan tự nhiên để thải độc hại ra khỏi cơ thể mà giá bán rẻ bèo, lại sẵn có vô cùng ở Việt Nam.




Sắn dây

Theo Đông y, sắn dây là một trong những loại thực phẩm bảo vệ gan tốt nhất.

Sắn dây chứa hàm lượng saponins và isoflavones rất cao, có thể phân hủy độc tính của acetaldehyd trong rượu bia, thúc đẩy trao đổi chất và bài tiết cồn trong máu, giảm thiểu sự nguy hại của rượu đối với gan.

Ngoài ra, sắn dây c̣n có tác dụng bảo vệ niêm mạc đường ruột, ngăn chặn sự hấp thụ cồn của ruột và dạ dày.

Đối với những người uống rượu, nên thường xuyên uống bột sắn dây giúp thải độc tố trong gan, thúc đẩy quá tŕnh trao đổi chất của cơ thể, loại bỏ cồn trong máu.




Theo Đông y, sắn dây là một trong những loại thực phẩm bảo vệ gan tốt nhất. Ảnh minh hoạ: Internet


Tỏi

Chỉ cần một lượng nhỏ loại thực phẩm có vị hăng này là lá gan sẽ được kích hoạt các enzyme, giúp cơ thể thải ra độc tố. Lư do là tỏi chứa một lượng lớn allicin và selen, hai hợp chất tự nhiên giúp làm sạch gan. Trong tỏi c̣n chứa chất lưu huỳnh có khả năng loại bỏ các chất độc hại tồn dư trong cơ thể, giúp giảm gánh nặng cho gan, bảo vệ gan tốt hơn. Ngoài ra, tỏi c̣n có tác dụng giúp trị ho rất tốt.


Bưởi

Những loại trái cây có múi như bưởi, cam, chanh, quưt,… chứa nhiều vitamin C và chất chống ôxy hóa giúp hỗ trợ khả năng làm sạch tự nhiên của gan. Chỉ cần một ly nước ép bưởi để tăng cường sản xuất các enzyme giải độc gan, giúp loại bỏ các chất gây ung thư và các chất độc khác.


Trà xanh

Gan thực sự yêu quư trà xanh bởi thức uống này chứa đầy chất chống ôxy hóa thực vật, được biết đến với cái tên catechin - các hợp chất hỗ trợ chức năng gan. Nhưng cũng lưu ư rằng trà xanh tốt thật nhưng chiết xuất trà xanh th́ chưa chắc. Một số nghiên cứu cho thấy chiết xuất trà xanh thực sự có tác động tiêu cực đến sức khỏe gan.




Trái bơ là loại thực phẩm siêu dinh dưỡng giúp cơ thể sản xuất glutathione để bảo vệ gan, chống lại việc bị quá tải chất độc. Một số nghiên cứu đă t́m thấy rằng ăn 1-2 quả bơ/tuần trong ít nhất một tháng có làm lành lá gan bị hư hỏng. Trái bơ cũng rất giàu chất béo không băo ḥa đơn và đă được chứng minh để giảm mức cholesterol khi ăn thường xuyên.






Câu kỷ tử

Hàm lượng đường trong câu kỷ tử đóng vai tṛ quan trọng trong việc bảo vệ gan không bị tổn thương, giảm nồng độ alanine aminotransferase (ALT) trong máu, phục hồi chức năng gan, duy tŕ khả năng tái sinh của tế bào gan.
Tuy nhiên, đối với người bị bệnh tiểu đường cũng cần chú ư khi sử dụng câu kỷ tử.


Bột kiều mạch

Bột kiều mạch có tính hàn, vị ngọt, là loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng, dược liệu cao trong nhóm ngũ cốc nguyên hạt.
Kiều mạch có thành phần Niacin thúc đẩy trao đổi chất trong cơ thể, tăng cường khả năng giải độc, ăn nhiều kiều mạch giúp gan giải độc rất tốt.


Táo

Táo chứa nhiều pectin và các thành phần hóa học cần thiết giúp cơ thể làm sạch và giải phóng độc tố khỏi đường tiêu hóa. Điều này khiến gan dễ dàng hơn trong việc xử lư chất độc hại trong quá tŕnh làm sạch.






Dầu ô liu

Các loại dầu hữu cơ ép lạnh như ô liu, cây gai dầu và hạt lanh rất tốt cho gan khi được sử dụng điều độ. Chúng cung cấp cho cơ thể một cơ sở lipid có khả năng hấp thụ độc tố có hại trong cơ thể, đặc biệt là trong gan.


Bắp cải

Cũng giống súp lơ, ăn bắp cải giúp kích thích các enzyme giải độc gan, giúp loại bỏ độc tố. Kim chi, xà lách trộn, súp bắp cải và dưa bắp cải,… là những loại thực phẩm làm từ bắp cải dễ ăn, phù hợp để bổ sung vào chế độ ăn uống của cả gia đ́nh.


Củ cải đường và cà rốt

Ăn củ cải và cà rốt thường xuyên có thể giúp kích thích và cải thiện các chức năng tổng thể của gan. Ngoài ra, cà rốt chứa một lượng tốt của glutathione, một loại protein giúp làm sạch gan. Bên cạnh những đặc tính giải độc, cà rốt cũng rất giàu vitamin A, C, B6, K và kali. Nó tốt nhất để ăn sống hoặc bạn có thể ngâm chúng vào guacamole, hummus hoặc thậm chí mù tạt.



Ăn củ cải và cà rốt thường xuyên có thể giúp kích thích và cải thiện các chức năng tổng thể của gan. Ảnh minh hoạ: Internet


Chanh

Những trái cây họ cam quưt chứa một lượng vitamin dồi dào, giúp cơ thể tổng hợp các chất độc hại thành các chất có thể hấp thu bởi nước. Uống chanh tươi vào buổi sáng giúp giải độc gan rất tốt. Tuy nhiên, không nên uống khi bụng rỗng.




Theo Quảng An

(Tiền Phong)



Reply With Quote Reply With Quote .

--------------------------------------------------------------------------------









Quick Navigation Y Học Top

florida80
05-13-2019, 19:46
Ung thư da hủy hoại con người như thế nào

https://i.imgur.com/7b0qWWS.jpg
Liên tục tiếp xúc với ánh nắng mà không tự bảo vệ, Judy Cloud 49 tuổi (Mỹ) bị ung thư da và quyết định chia sẻ tác động của căn bệnh đến cơ thể nhằm cảnh báo cộng đồng.




Tổng cộng, Cloud có 23 điểm ung thư trên mặt, ngực, cánh tay, bắp chân và phải chi 27.000 USD để phẫu thuật. Vừa trải qua ca mổ thứ tư, cô thừa nhận đây là hậu quả của việc nhuộm da thường xuyên và không dùng kem chống nắng.

Theo Self, Cloud dành rất nhiều thời gian ngoài trời. Từ tuổi 20, cô nhuộm da 4 lần mỗi năm. Trong gia đ́nh có người bị ung thư, Cloud vẫn chủ quan cho rằng ḿnh không thể mắc bệnh.

Năm 1995, Cloud sững sờ khi kết quả khám cho thấy cô bị ung thư biểu mô tế bào đáy, một dạng ung thư da. Từ đó, cuộc chiến cam go bắt đầu. Người phụ nữ phải đến bệnh viện, lần lượt thực hiện 4 ca phẫu thuật nhằm lấy đi hết mầm bệnh, bao gồm cắt cơ miệng và di chuyển dây thần kinh. “Hăy nh́n những bức ảnh này. Đó có thể là bạn. Ai cũng có thể bị ung thư da, kể cả những người da ngăm. Thật sai lầm khi nghĩ chỉ người da trắng mới mắc bệnh”, Cloud khuyến cáo.




Cơ thể đầy những vết thương sau phẫu thuật của Cloud. (Ảnh: nhân vật chia sẻ).

Sau lần phẫu thuật gần nhất vào tháng 9 năm ngoái, Cloud không thể tắm rửa trong 2 tuần và không thể mở to miệng suốt 4 tuần. Các vết thương trên khắp cơ thể cô cần thời gian dài mới hồi phục.

Ở Mỹ, ung thư da là dạng ung thư phổ biến nhất. Để pḥng bệnh, bạn nên tránh ánh nắng từ khoảng 10h sáng đến 4h chiều, hạn chế nhuộm da, sử dụng kem chống nắng và kiểm tra da hàng tháng nhằm kịp thời phát hiện dấu hiệu bất thường.

Ung thư da là ǵ?Ung thư da là sự tăng trưởng bất thường của tế bào da. Có ba loại chính của ung thư da là ung thư tế bào đáy, ung thư tế bào vảy và ung thư tế bào hắc tố.Khi các tế bào da tăng đột biến một cách không kiểm soát được, chúng tạo thành một khối gọi là khối u. các khối u thường được gọi là tổn thương da. Khối u được gọi là ung thư khi chúng được cấu tạo từ các tế bào ác tính.Ung thư da có 3 loại chính:Ung thư biểu mô tế bào đáy (BCC).Ung thư biểu mô tế bào vảy (SCC).Khối u ác tính.

Theo *********

florida80
05-14-2019, 20:07
FDA: Một số thuốc ngủ làm bệnh nhân hành xử kỳ lạ, kể cả tự tử



Cục quản lư Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) cho biết các loại thuốc ngủ có tác dụng phụ, gây ra những hành vi nguy hiểm như mộng du, lái xe khi mộng du, có thể gây ra chấn thương hoặc tử vong.




(Ảnh: Reggi Tirtakusumah/Pixabay)


Lời cảnh báo mới

FDA đă chỉ rơ ra tên thuốc Ambien và 2 loại thuốc ngủ phổ biến khác là Lunesta và Sonata, cùng 3 công thức chứa zolpidem có tên chung là Ambien.

FDA đă xem lại 66 trường hợp trong 26 năm qua có xảy ra chấn thương nghiêm trọng. Các vụ việc này được mô tả trong báo cáo y khoa và trong cơ sở dữ liệu báo cáo hiện có của cơ quan này – với thông tin từ bác sĩ, bệnh nhân và những người khác liệt kê các vụ việc.

Cơ quan này đă yêu cầu các nhà sản xuất phải ghi rơ cảnh báo trên bao b́, đồng thời không được kê thuốc cho những người có tiền sử bị mộng du. Các loại thuốc này đă trở nên tai tiếng khi làm cho một số người dùng có hành vi kỳ lạ trong trạng thái nửa mơ nửa tỉnh, theo tờ New York Times đưa tin.

Các tai nạn thương tâm liên quan tới thuốc ngủ bao gồm “vô t́nh dùng quá liều, té ngă, bị bỏng, suưt chết đuối, đi ra ngoài trời quá lạnh dẫn đến phải cắt chi, ngộ độc khí CO, chết đuối, giảm thể nhiệt, lái xe hơi va chạm với người đi xe môtô, tự gây hại cho bản thân như vết thương do súng bắn và tự tử,” theo nghiên cứu của FDA.



Bí mật mà ai cũng biết



Embed from Getty Images


Đây không phải lần đầu tiên FDA cảnh báo về thuốc ngủ. Cơ quan này đă cảnh báo công khai về các hành vi kỳ lạ khi dùng thuốc ngủ 12 năm trước; nghĩa là thông báo mới đây chỉ nhằm nhấn mạnh thêm đối với nhận thức của công chúng.

“Tôi bất ngờ khi thấy cảnh báo này xuất hiện bây giờ,” bác sĩ Ilene Rosen của Đại học Pennsylvania nói với tờ New York Times. “Đây là điều tôi đă nói với bệnh nhân của ḿnh trong 15 năm qua, và là kiến thức phổ biến trong cộng đồng dùng thuốc ngủ. Tôi nghĩ rằng chúng ta đă làm tốt khi đưa tin tức ra công chúng, rằng những thuốc này có rủi ro.”

Ở Mỹ, lượng kê đơn thuốc ngủ đă tăng từ 5,3 triệu lên hơn 20 triệu từ năm 1999 đến 2010. Cứ 8 người khó ngủ th́ có 1 người cho biết có dùng thuốc ngủ; trong độ tuổi nghỉ hưu, tỷ lệ này là hơn 1/3.

Ở Việt Nam, hiện nay rất nhiều người hiểu sai về thuốc ngủ nên dễ dăi mua về uống. Đây là việc làm hết sức sai lầm gây tổn hại không nhỏ cho sức khỏe. Bởi lẽ, mất ngủ có thể chỉ là triệu chứng của một vấn đề sức khỏe nào đó. Người bệnh cần đi khám để được bác sĩ tư vấn, bởi thuốc c̣n có các tác dụng phụ mà không phải ai cũng nắm được. Nếu chỉ uống thuốc ngủ th́ theo thời gian, vấn đề căn nguyên không giải quyết được mà có thể sẽ ngày càng nặng lên.




Theo NYT, Futurism,
Phong Trần tổng hợp
trithucvn

florida80
05-14-2019, 20:09
T́m ra loại muối có thể ăn nhiều
mà không sợ cao huyết áp



Phát hiện của các nhà khoa học Mỹ sẽ giúp bạn thưởng thức các món mặn mà nguy cơ cao huyết áp, đột quỵ… không bị tăng cao như muối truyền thống.

Trong bài công bố mới đây trên tạp chí khoa học Journal of Food Science,các nhà khoa học từ Đại học Bang Washington (Mỹ) đă t́m ra loại muối thần kỳ giúp bạn có thể thoải mái tạo ra những món ăn đậm đà mà không sợ bệnh do thừa muối.





"Cuộc chiến" giữa các món ăn đậm đà và bệnh cao huyết áp khiến nhiều người khổ sở
Ảnh minh họa từ internet


Từ lâu, muối ăn, vốn là natri clorua (NaCl) đă được chứng minh làm gia tăng nguy cơ nhiều bệnh như cao huyết áp và các bệnh tim mạch khác, thậm chí là đột quỵ và ung thư dạ dày. Giảm muối ăn c̣n dưới 5 g/ngày theo khuyến nghị của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) không phải là điều dễ dàng.

Theo cuộc điều tra quốc gia "Yếu tố nguy cơ bệnh không lây" năm 2015, hơn 90% người Việt Nam ăn đến 10 g muối/ngày và đây cũng là t́nh trạng mà nhiều quốc gia trên thế giới gặp phải. Một số nghiên cứu mới c̣n chứng minh lượng muối thực sự cần cho con người chỉ là 2 g/ngày. Tiêu chuẩn của Văn pḥng khuyến khích sức khỏe và pḥng chống dịch bệnh Mỹ c̣n nghiêm ngặt hơn WHO: dưới 2,3 g/ngày.

Loại gia vị thần kỳ của Đại học Bang Washington thực ra cũng là muối, theo cách gọi chuẩn của ngành hóa học, nhưng không phải muối ăn thông thường. Hỗn hợp muối này được cắt giảm natri clorua mà thay vào đó là các loại muối không gây hại cho sức khỏe như canxi clorua và kali clorua.

Theo giáo sư Carolyn Ross, tác giả chính của nghiên cứu, thậm chí muối kali c̣n giúp giảm huyết áp.

Điều không may duy nhất là hương vị của chúng có đôi chút khác biệt so với muối natri truyền thống. Để giữ được vị ngon quen thuộc, các nhà khoa học t́m ra 2 công thức tối ưu là 96,4% natri clorua - 1,6% kali clorua - 2% canxi clorua hoặc 78% natri clorua và 22% canxi clorua.

Cho dù phần natri clorua giảm xuống chưa được nhiều lắm trong 2 công thức này, nhưng phần giảm bớt đó cộng thêm các tác dụng có lợi mà muốn canxi và kali mang lại, các nhà khoa học tin rằng nó có ư nghĩa lớn trong việc cải thiện sức khỏe. Một công thức ít natri hơn có thể được xem xét ở những người tiêu dùng chấp nhận hy sinh một ít hương vị muối ăn quen thuộc để có một lựa chọn an toàn cho sức khỏe hơn.

Các phát hiện gần đây cho thấy giảm dần muối trong nhiều năm là cách tốt nhất để điều chỉnh khẩu vị của bạn, giúp bạn vẫn thưởng thức được vị ngon của các món "ruột" mà bớt được nguy cơ sức khỏe.


A. Thư
13/04/2019
Theo EurekAlert

florida80
05-14-2019, 20:10
Ăn ǵ để giảm mỡ máu?



Thời đại ngày càng có nhiều người bị thừa cân và béo ph́, t́nh trạng này dễ dẫn đến mức triglyceride (mỡ) máu cao, triglyceride máu cao có liên quan đến nguy cơ bị đột quỵ, cơn đau tim và có thể có khuynh hướng di truyền.



Triglyceride cao và mức cholesterol “tốt” (HDL) thấp có thể gặp ở cùng nhiều người trong cùng một gia đ́nh. Có một cách tự nhiên để điều chỉnh lượng cholesterol và triglyceride máu đó là việc duy tŕ một chế độ ăn uống lành mạnh và thay đổi lối sống, những việc làm này không những làm cho bạn cảm thấy khỏe mạnh hơn mà c̣n giữ cho mạch máu và cơ tim hoạt động tốt nhất có thể.



Thiết lập một chế độ ăn uống có kiểm soát

Giảm chất béo băo ḥa và chất béo trans (chất béo chuyển hóa). Các nguồn chất béo này thường được t́m thấy trong các sản phẩm động vật, thức ăn nhanh, bánh nướng, các thực phẩm đóng sẵn và chế biến khác.

Sử dụng chất béo không băo ḥa lành mạnh, có trong dầu ăn ôliu hoặc dầu canola.

Ăn nhiều trái cây và rau quả hơn. Nếu phần lớn lượng calo của bạn được nhận từ những nguồn trái cây và rau quả sẽ làm cho bạn qua được cơn đói và giúp bạn tránh xa các lựa chọn không lành mạnh.




Đậu Hà Lan giàu chất xơ và là một trong những thực phẩm rất tốt giúp làm giảm mức triglyceride trong máu.


Uống rượu có kiểm soát, rượu có thể có nhiều calo, nhưng nghèo chất dinh dưỡng.

Tránh đường tinh luyện, thường được t́m thấy trong thực phẩm chế biến.

Sử dụng nguồn protein từ cá, khuyến cáo nên ăn cá hai lần một tuần. Các axit béo omega-3 trong cá có thể giúp giảm mức triglyceride máu.

Ăn nhiều chất xơ. Chất xơ tăng cảm giác no và cũng giúp giảm sự hấp thu cholesterol trong ruột.

Hạn chế cholesterol toàn phần dưới 200mg mỗi ngày.



Thực phẩm tự nhiên làm giảm triglyceride máu

Cá hồi: Các cá nước lạnh như cá hồi, cá ngừ và cá tuyết có axit béo omega-3 là một thực phẩm tốt nhất làm giảm triglyceride và cholesterol. Bổ sung dầu cá cũng có thể được sử dụng.

Các loại ngũ cốc nguyên hạt: Có thể bao gồm bánh ḿ thô, ngũ cốc và gạo lức chứa nhiều carbohydrate và chất xơ phức tạp. Các loại ngũ cốc nguyên hạt cũng cung cấp một số chất đạm và thường có ít chất béo băo ḥa, cholesterol và tổng lượng chất béo.

Đậu khô và đậu Hà Lan: là nguồn thực vật tốt và giàu chất xơ. Có thể dùng thay thế cho thực phẩm giàu chất béo băo ḥa và cholesterol.

Hạt lanh: Có nhiều axit béo omega-3, chỉ dùng 2 muỗng canh hạt lanh chứa gần 133 % nhu cầu hàng ngày của omega-3. Hạt lanh được coi là một trong những loại thực phẩm tốt nhất để giảm triglyceride.

Dầu ôliu: Có lượng triglyceride thấp có thể thay thế cho chất béo no, giúp giảm LDL cholesterol (cholesterol xấu) và giúp duy tŕ HDL cholesterol (cholesterol tốt). Tuy nhiên, dầu ôliu được coi là có hàm lượng calo cao, v́ vậy không nên tiêu thụ nhiều hơn hai muỗng canh mỗi ngày.

Ḷng trắng trứng gà: Ḷng trắng trứng gà không chứa cholesterol và có thể ăn thường xuyên. Nhưng ḷng đỏ một quả trứng có thể chứa 215mg cholesterol, v́ vậy hạn chế dùng ḷng đỏ trứng.



Những thức ăn nên tránh

Biết được thực phẩm không nên ăn để giữ mức triglyceride trong tầm kiểm soát cũng quan trọng. Dưới đây là một số loại thực phẩm bạn nên tránh khi muốn giữ triglyceride và cholesterol ở mức thấp.

Các sản phẩm thịt béo: Các loại thực phẩm này thường có hàm lượng cholesterol và chất béo băo ḥa làm tăng mức triglyceride. Chúng bao gồm thịt đỏ, da gia cầm, bơ, mỡ lợn và ṣ ốc.

Thực phẩm chế biến: Các chất béo chuyển hóa cũng làm tăng mức triglyceride và nhiều thực phẩm nhân tạo được sản xuất thông qua quá tŕnh gọi là hydro hóa có lượng quá nhiều chất béo chuyển hóa. Các nguồn gốc của các chất béo chuyển hóa bao gồm bơ thực vật, khoai tây chiên, bánh quy gịn và đồ tráng miệng như bánh nướng, bánh rán và bánh quy.

Các carbohydrate tinh chế: Carbohydrate tinh chế làm tăng lượng đường trong máu và kích thích sản xuất insulin, dẫn đến tăng nồng độ triglyceride.


Lời khuyên của thầy thuốc

Để đạt được mức triglyceride và cholesterol lư tưởng có thể là một cuộc chiến khó khăn, nhưng nếu tuân thủ những khuyến cáo nêu trên, bạn sẽ đi đúng hướng để thành công. Giảm cân có thể làm giảm mức triglyceride. Bằng cách giảm 500 Kcalo hàng ngày từ khẩu phần ăn uống b́nh thường, bạn sẽ giảm nhanh trọng lượng cơ thể. Cần có thói quen tập thể dục hàng ngày giúp hỗ trợ mục tiêu giảm cân của bạn. Điều quan trọng là bạn phải kiên tŕ và không chán nản qua từng ngày, v́ sức khoẻ của bạn luôn cần được ưu tiên hàng đầu.




Theo BS. Hải Châu (Sức khỏe đời sống)

florida80
05-14-2019, 20:10
Thực phẩm hại gan khủng khiếp nhiều người Việt mê ăn hằng ngày



Nhiều thực phẩm hại gan vô cùng nhưng lại nằm trong thực đơn yêu thích của người Việt, thậm chí có những người ngày nào cũng ăn những món ăn thuộc hàng 'sát thủ' đối với gan.





Ảnh minh hoạ: Internet

Theo Thạc sĩ - Bác sĩ dinh dưỡng Lê Thị Hải, gan là cơ quan dễ bị tổn thương nhất khi bị các chất độc hại xâm nhập vào cơ thể, v́ vậy chế độ ăn uống hàng ngày giữ vai tṛ cực kỳ quan trọng đối với gan. Ăn ǵ tốt cho gan, mát gan, những thực phẩm nào gây hại cho gan… là điều mà chúng ta cần biết để bảo vệ và giữ ǵn lá gan được khoẻ mạnh.



Những thực phẩm không tốt cho gan


Rượu, bia: Rượu là loại thức uống có cồn và được hấp thụ trực tiếp vào máu chứ không cần phải thông qua quá tŕnh tiêu hóa như các loại thức ăn khác. Chính v́ vậy, uống càng nhiều rượu càng khiến gan phải lọc thải nhiều hơn, điều này rất bất lợi cho gan. Uống rượu nhiều là nguyên nhân gây gan nhiễm mỡ, xơ gan và ung thư gan.


Thức ăn nhanh: Ăn quá nhiều thức ăn nhanh, chế độ ăn nhiều chất béo và đường có thể gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho gan.



Rượu là loại thức uống có cồn và được hấp thụ trực tiếp vào máu chứ không cần phải thông qua quá tŕnh tiêu hóa như các loại thức ăn khác. Chính v́ vậy, uống càng nhiều rượu càng khiến gan phải lọc thải nhiều hơn, điều này rất bất lợi cho gan. Uống rượu nhiều là nguyên nhân gây gan nhiễm mỡ, xơ gan và ung thư gan. Ảnh minh hoạ: Internet


Chất béo chuyển hóa (transfat): Có trong các loại thực phẩm chiên rán, xào bằng dầu mỡ tái chế có nhiều trong thức ăn nhanh, quẩy, bánh rán, mỳ tôm … là chất độc hại cho gan.


Muối: Ăn quá nhiều muối có thể làm tăng huyết áp và cũng có thể dẫn đến bệnh gan nhiễm mỡ. Vậy nên bạn cần tuyệt đối hạn chế các món ăn nhiều muối như thịt xông khói và xúc xích...


Măng tươi: Măng là thực phẩm được sử dụng rộng răi. Tuy nhiên, một số loại măng, đặc biệt là măng tươi có thể gây ngộ độc, thậm chí dẫn đến tử vong. Trong măng tươi có hàm lượng cyanide rất cao, khi ăn phải măng có chứa nhiều cyanide, dưới tác động của các enzym đường tiêu hóa, cyanide biến thành axit cyanhydric (HCN), là một chất cực độc với cơ thể, gây hại cho gan.



Ảnh minh hoạ: Internet

Ăn nhiều thịt: Trong thịt chứa nhiều chất béo no và cholesterol, khả năng phân giải của gan và thận đối với các chất này kém hơn rất nhiều so với các chất béo có nguồn gốc thực vật. Nên hạn chế ăn thịt để giảm tải gánh nặng cho gan và thận.


Chất ngọt nhân tạo: Aspartame, Splenda NutraSweet, Equal... đều là các chất ngọt nhân tạo, nếu tiêu thụ quá nhiều có thể tạo ra phản ứng độc hại trong cơ thể, đặc biệt là gan v́ gan phải làm việc trực tiếp để xử lư chúng.



Những thức ăn người bệnh gan không nên ăn:


Thịt mỡ
Người bệnh gan cần giảm các chất béo, hạn chế ăn các món rán, chứ không phải kiêng hẳn chất béo. Một nghiên cứu cho thấy: ăn nhiều chất béo cùng với giảm protein và bột đường làm gia tăng quá tŕnh xơ gan ở người viêm gan siêu vi C.


Trong khi đó, một nghiên cứu khác chứng minh chất lecithin có nhiều trong ḷng đỏ trứng gà và đậu mè các loại chứa nhiều acid béo, omega-3 rất cần cho người bị bệnh về gan mạn tính kể cả viêm gan siêu vi A, B, C.





Ảnh minh hoạ: Internet

Thịt dê
Người bị viêm gan phải kiêng ăn thịt dê. Nguyên nhân là thịt dê có tính ngọt, nóng, ăn quá nhiều có thể làm cho một số vùng nhiễm bệnh trong cơ thể làm cho một số vùng nhiễm bệnh trong cơ thể phát triển, bệnh t́nh nặng thêm.


Y học hiện đại chứng minh, sau khi hấp thụ nhiều protein và chất béo, gan của người mắc bệnh viêm gan sẽ không thể hoàn thành chức năng trao đổi chất, như quá tŕnh phân giải, hấp thụ... một cách hữu hiệu. Từ đó càng tăng thêm gánh nặng cho gan, dẫn đến bệnh t́nh nặng thêm. Thịt dê là thực phẩm giàu chất protein và mỡ, v́ vậy người bị viêm gan nên ăn ít hoặc không nên ăn.


Các thức uống có chất cồn (rượu, bia...) thuốc lá, tránh ăn thực phẩm ôi thiu, nhiễm hóa chất, tránh lao động quá sức.


Người bệnh gan cần chú ư ăn uống hợp lư, không được ăn dư thừa hoặc đưa các chất độc hại vào cơ thể. Nguyên tắc ăn uống hằng ngày là chọn thức ăn dễ tiêu và không kiêng quá mức sẽ dẫn đến suy kiệt cơ thể.




Theo Thái Hà

(Tiền Phong

florida80
05-14-2019, 20:11
Những kiểu ăn uống triệu người đang làm
có thể “tàn sát” các cơ quan nội tạng



Cho dù các cơ quan nội tạng trong cơ thể bạn như tim, gan, thận có tốt đến mức nào, nhưng thường xuyên ăn uống theo những kiểu này, tức là chính bạn đang tự ḿnh “giết chết” các cơ quan nội tạng.


Những kiểu ăn uống khiến các cơ quan nôi tạng rất sợ, mọi người nên cố gắng tránh xa.


1, Kiểu ăn uống làm tổn thương tim mạch

Ăn quá mặn:

Nếu bạn ăn quá nhiều muối, sẽ không có lợi cho tim. Bởi v́ ăn quá nhiều muối dễ khiến cơ thể bị tích trữ nước và natri, từ đó làm tăng gánh nặng cho tim. Ngoài ra, ăn nhiều muối có liên quan đến việc tăng huyết áp và xơ cứng động mạch, gây bất lợi cho sức khỏe của tim. Khuyến cáo người lớn không nên ăn vượt quá 6 gram muối mỗi ngày.







Ăn quá nhiều sản phẩm thịt chế biến:
Thịt chế biến như xúc xích, thịt xông khói, lạp xưởng, giăm bông,… hầu hết đă được xử lư bằng hun khói, ngâm, muối có chứa nhiều natri, nitrat, phốt phát, ảnh hưởng nhất định đến tim mạch. V́ vậy, mọi người nên tránh ăn quá nhiều sản phẩm thịt chế biến.


Axit béo trans:

Có nhiều cholesterol trong axit béo trans, có thể kết tủa trực tiếp trên thành mạch máu và gây ra các bệnh như bệnh tim mạch vành. Một lượng lớn axit béo trans được tạo ra trong dầu ăn được chiên lại nhiều lần.


2. Kiểu ăn uống làm tổn thương gan

Sử dụng các sản phẩm chăm sóc sức khỏe:

Mỗi ngày bổ sung các sản phẩm như vitamin tổng hợp, các nguyên tố vi lượng, hầu hết những thực phẩm này cơ thể không hấp thụ hết, mà c̣n thông qua sự chuyển hóa phân hủy và bài tiết ra ngoài của gan, làm tăng gánh nặng cho gan


Uống nhiều bia rượu:

Uống quá nhiều rượu bia, bộ phận đầu tiên bị ảnh hưởng là gan và gan nhiễm mỡ cũng là dấu hiệu đầu tiên của bệnh gan. Lâu dài sẽ dẫn đến xơ gan, xơ gan không được điều trị kịp thời, hậu quả cuối cùng có thể là ung thư gan. Do đó, chuyên gia y tế khuyên nam giới mỗi ngày uống không quá 25g rượu và phụ nữ không vượt quá 15g.






Ăn thực phẩm bị mốc:
Thực phẩm bị mốc thường bị ô nhiễm bởi nấm mốc, sản sinh độc tố gây ung thư (như aflatoxin) gây hại cho gan, dễ dẫn đến ung thư gan. Chẳng hạn như ḿ, gạo, ngô, đậu phộng, các loại hạt bị mốc.


Thích ăn đồ chiên:

Một báo cáo được công bố trong một chương tŕnh truyền h́nh y tế chuyên nghiệp ở Hoa Kỳ công bố: ăn đồ chiên trong một tháng có thể gây ra những thay đổi đáng kể ở gan, gây ra những thay đổi về enzyme trong cơ thể con người như viêm gan.


3. Kiểu ăn uống làm tổn thương thận

Ăn quá mặn:

95% lượng muối chúng ta tiêu thụ trong chế độ ăn uống hàng ngày được chuyển hóa qua thận. Ăn quá nhiều muối sẽ làm tăng thêm gánh nặng cho thận, dẫn đến suy giảm chức năng thận.







Uống thuốc bừa băi:

Uống thuốc bừa băi sẽ khiến thận tổn thương nhiều nhất, một mặt là thuốc bài tiết qua thận, mặt khác thận lọc máu mỗi ngày, thuốc cũng sẽ gây hại cho máu khi được lọc qua thận.


Ăn quá nhiều chất:

Một nghiên cứu kéo dài 11 năm với 3.121 người nữ tham gia cho thấy chế độ ăn nhiều thịt đỏ, thịt chế biến, chất béo băo ḥa và đồ ngọt làm tăng nguy cơ suy giảm chức năng thận. Chế độ ăn như vậy cũng dễ bị béo ph́. Một nghiên cứu của Đại học London cho thấy những người thừa cân có nguy cơ mắc bệnh thận cao gấp đôi so với người b́nh thường.


4. Kiểu ăn uống gây tổn thương đường tiêu hóa

Thích ăn cay:

Các thực phẩm cay, vị nặng cũng làm cho dạ dày bị đau. Hạt tiêu có thể mang lại cảm giác kích thích ăn ngon miệng, nhưng lại không có lợi cho dạ dày. Ăn quá nhiều, không chỉ tạo cảm giác nóng rát ở dạ dày mà c̣n kích thích ruột, gây tiêu chảy hoặc táo bón.







Ăn uống không đúng giờ:
Chế độ ăn uống không đều đặn cũng là một điều cấm kỵ đối với sức khỏe đường ruột. Không ăn hoặc không ăn đúng giờ, axit dạ dày không được trung ḥa bởi thức ăn kịp thời, bài tiết quá nhiều, sẽ làm tổn thương niêm mạc dạ dày, dẫn đến loét dạ dày.


5. Kiểu ăn uống làm tổn thương tử cung và buồng trứng

Ăn kiêng:

Chế độ ăn kiêng quá mức có thể dẫn đến suy dinh dưỡng, buồng trứng cũng thiếu dinh dưỡng và tự nhiên không thể hỗ trợ nang trứng tốt. Để biết rằng nang trứng là nguồn tiết estrogen chính, một khi estrogen không được bài tiết đủ có thể dẫn đến lượng kinh nguyệt ít, thậm chí vô kinh. Về lâu dài, hậu quả là suy buồng trứng sớm và teo tử cung, có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản.







Ăn thực phẩm có chứa estrogen:

Các chất bổ sung sức khỏe phụ nữ để giúp duy tŕ buồng trứng và giải độc có thể chứa estrogen. Ăn uống quá nhiều thực phẩm chứa estrogen làm tăng nguy cơ ung thư vú và nội mạc tử cung.


Hút thuốc và uống rượu:

Một số thành phần trong thuốc lá và rượu sẽ được cơ thể hấp thụ, chẳng hạn như cồn, nicotine,… có thể gây ra những thay đổi trong mô buồng trứng, ảnh hưởng đến sự phát triển nang trứng dẫn đến giảm khả năng sinh sản, thậm chí là vô sinh.


6. Kiểu ăn uống làm tổn thương phổi







Hút thuốc:

Có hàng ngàn hóa chất trong khói thuốc lá, bao gồm các chất gây ung thư ảnh hưởng đến phổi. Hơn 80% bệnh nhân ung thư phổi là do hút thuốc, bao gồm cả những người hít phải khói thuốc thụ động.


7. Kiểu ăn uống làm tổn thương túi mật
Không ăn sáng:

Sau 8 giờ ngủ, túi mật dự trữ rất nhiều mật. Nếu bạn không ăn sáng, mật sẽ tích tụ trong túi mật và dần h́nh thành sỏi, gây rối loạn chuyển hóa túi mật.


Theo Khám phá
Ngày 9 Tháng 4, 2019

florida80
05-14-2019, 20:12
6 thói quen xấu sau khi ăn người Việt hay mắc
khiến sức khỏe dần suy yếu



Sau khi kết thúc bữa ăn của ḿnh, người Việt thường mắc những thói xấu gây bất lợi cho cơ thể. Dưới đây là 6 thói quen gây bất lợi cho cơ thể sau khi ăn phổ biến nhất.


1. Hút thuốc lá






Nếu bạn là một người nghiện thuốc lá, ít nhất hăy chắc chắn rằng bạn không hút thuốc ngay sau khi dùng bữa. Điều này có thể thực sự nguy hiểm cho tim của bạn và thậm chí dẫn đến các bệnh về đường hô hấp.


Một nghiên cứu cho thấy hút một điếu thuốc sau bữa ăn gây hại tương đương như hút 10 điếu thuốc. Điều này cũng khiến bạn có nguy cơ bị ung thư phổi cao hơn.


2. Ăn trái cây

Mặc dù họ có thể nghĩ rằng đây là một lựa chọn tốt cho sức khỏe, các chuyên gia khuyên bạn không nên ăn trái cây sau bữa ăn. Trái cây sẽ bị trộn cùng thức ăn trong dạ dày khiến các chất dinh dưỡng mất đi thậm chí gây ra t́nh trạng đầy bụng, khó tiêu . Lời khuyên là hăy ăn trái cây trước hoặc sau khi kết thúc bữa ăn chính ít nhất 30 phút.


3. Uống trà






Nếu bạn có thói quen uống trà sau mỗi bữa ăn để cảm thấy tươi mới và tràn đầy năng lượng cũng đang gián tiếp gây hại cho cơ thể. Trà sẽ khiến các protein trong thức ăn không được tiêu hóa đúng cách. Bạn có thể uống trà, nhưng hăy uống sau 2 tiếng sau khi dùng bữa.


4. Tắm

Tắm ngay sau khi ăn không phải là thói quen tốt cho hệ thống tiêu hóa của bạn. Điều này ảnh hưởng đến lưu thông máu trong cơ thể của bạn và dẫn đến các vấn đề trong việc tiêu hóa thức ăn.


5. Đi dạo






Nhiều người nghĩ rằng đi dạo hoặc vận động sau khi ăn là rất có lợi cho việc tiêu hóa. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, việc vận động có thể khiến cơ thể không tập trung năng lượng để tiêu hóa thức ăn nhanh nhất có thể. Tốt nhất bạn nên đi dạo 1 giờ sau khi ăn xong.


6. Đi ngủ

Thức ăn của bạn cần có thời gian để được tiêu hóa hoàn toàn v́ vậy ngủ sau khi dùng bữa là một trong những điều cấm kỵ. Nếu bạn nằm ngửa khi ăn no vô t́nh sẽ dẫn đến t́nh trạng khó tiêu và ảnh hưởng đến dạ dày. Trong một số trường hợp, nó cũng có thể dẫn đến nhiễm trùng dạ dày.


Theo **********



Reply With Quote Reply With Quote .

--------------------------------------------------------------------------------

florida80
05-14-2019, 20:12
Chạy điện năo giúp tăng trí nhớ người trên 60 tuổi





Thử nghiệm chạy điện để gia tăng khả năng trí nhớ tại Boston University. (H́nh: Rob Reinhart/Boston University via AP)

NEW YORK, New York (AP) – Kết quả một cuộc nghiên cứu mới đây cho thấy việc chạy điện với cường độ thấp trên năo của người hơn 60 tuổi đă cải thiện được một loại trí nhớ, khiến họ hoạt động như những người trong độ tuổi 20.

Nhà nghiên cứu Robert Reinhart tại đại học Boston University nói rằng kết quả cuộc nghiên cứu của ông, được đăng tải trên tạp chí y khoa Nature Neuroscience hôm Thứ Hai, 8 Tháng Tư, cho thấy sẽ có ngày người ta có thể đến các trung tâm y tế để có các cuộc điều trị nhằm cải thiện trí nhớ bị sút giảm, ở những người v́ tuổi tác hay trong các trường hợp bị bệnh lú lẫn như Alzheimer’s.

Việc điều trị này nhắm vào khu vực “trí nhớ làm việc – working memory,” nơi có khả năng giữ các dữ kiện trong năo trong thời gian ngắn hạn, tính theo giây, khi người ta đang làm một công việc nào đó, như tính nhẩm (tính rợ).

Trí nhớ làm việc (working memory) khác với trí nhớ ngắn hạn (short term memory) ở chỗ trong trí nhớ làm việc, người ta sử dụng, biến đổi, các dữ kiện ghi nhận được, đôi khi cũng được coi là tờ giấy nháp cho năo.

Phần trí nhớ này quan trọng cho các công việc như uống thuốc, trả các hóa đơn, đi chợ mua sắm hay hoạch địch một việc ǵ đó, theo Tiến Sĩ Rheinhart, cũng là một giáo sư tại đại học Boston University.

“Đây là nơi giúp bạn có sự nhận thức… nơi bạn sử dụng các dữ kiện có được,” ông Reinhart nói.

Cuộc nghiên cứu mới thực hiện này không phải là lần đầu tiên cho thấy việc kích thích năo có thể gia tăng khả năng của trí nhớ làm việc.

Tuy nhiên, theo Giáo Sư Reinhart th́ kết quả cuộc nghiên cứu của ông, cho thấy sự thành công trong việc cải thiện trí nhớ của người lớn tuổi và cũng v́ sự cải thiện này kéo dài tối thiểu là một giờ đồng hồ, có thể lên tới năm tiếng đồng hồ, sau khi việc kích thích chấm dứt.

Bác Sĩ Barry Gordon, giáo sư chuyên về hệ thần kinh và khoa học nhận thức tại trường Y Khoa John Hopkins ở Baltimore, người cũng từng nghiên cứu việc gia tăng khả năng của trí nhớ làm việc qua việc chạy điện, nói: “Đây là bước đầu rất quan trọng để tiến tới việc tạo phương cách để cải thiện hoạt động của trí năo.”

Bác Sĩ Gordon không ở trong nhóm nghiên cứu ở Boston University.

Giáo Sư Reinhart cũng đồng ư là cần có thêm các cuộc nghiên cứu trước khi có thể thử nghiệm việc điều trị này.


(V.Giang)Người Việt

florida80
05-14-2019, 20:13
Thói quen tốt giúp hạn chế tăng đường huyết ở người tiểu đường




Ăn ít thịt, đừng nấu quá chín, không lạm dụng thuốc... giúp đường huyết không tăng quá nhanh, việc chữa trị thêm khả quan.



Thạc sĩ Nguyễn Thị Hồng Hà, tốt nghiệp Viện Dinh dưỡng Toàn diện Mỹ, có nhiều năm kinh nghiệm hỗ trợ, tư vấn dinh dưỡng bệnh nhân tiểu đường cho biết, bên cạnh việc xây dựng thực đơn dinh dưỡng và lối sống hợp lư, người bệnh cũng cần giảm các thói quen xấu gây tăng đường huyết.



Hạn chế thức ăn động vật

Nhiều nghiên cứu chỉ ra việc hấp thụ protein từ thức ăn động vật làm tổn thương sự nhạy cảm insulin của tế bào và tăng cường t́nh trạng kháng insulin của cơ thể. Thậm chí từng có kết quả khảo sát những người tiêu thụ protein động vật cao có nguy cơ tiểu đường tuưp 2 cao hơn.

V́ vậy, thực đơn của người bệnh tiểu đường cần được xây dựng đa dạng và đầy đủ, ưu tiên rau củ quả tươi sống, ngũ cốc nguyên cám giúp cơ thể tăng cường sản xuất insulin, giảm tốc độ đường vào máu, hạn chế tăng đường huyết.



Tránh ăn nhiều món chế biến sẵn, nấu quá chín

Carbohydrate (chất đường bột) là nguồn năng lượng quan trọng cho cơ thể. Khi chọn lọc cẩn thận nguồn carbohydrate, người bệnh có thể quản lư được liều dùng thuốc và tiêm insulin.

Lấy ví dụ 20 gram carbohydrate của thực phẩm chế biến cần khoảng hai đơn vị insulin để chuyển hóa, trong khi 20 gram carbohydrate từ rau củ quả tươi sống có thể chỉ cần một đơn vị insulin để chuyển hóa. "Các thực phẩm chế biến sẵn có thể khiến việc hấp thu đường của cơ thể rối loạn, gây mất cân bằng nội môi", Thạc sĩ Hồng Hà chia sẻ.

Ngoài ra, trong chất đường bột có các loại đường đơn và đường phức hợp mà ở nhiệt độ nước sôi, đường đơn không có biến đổi đáng kể. Tuy nhiên, nếu chế biến ở nhiệt độ cao, nhất là trong môi trường khô không có nước (rang, nướng), các thành phần của tinh bột bị biến đổi cháy đen, khó tiêu hóa hoặc độc hại với cơ thể. Các thực phẩm khi bị nấu chín quá cũng hao hụt hoặc mất đi các khoáng chất, vitamin, protein...



Ăn nhiều rau quả tươi có lợi cho người bệnh tiểu đường. Ảnh: Sihat.



Không lạm dụng thuốc

Với người bệnh tiểu đường hay các bệnh mạn tính khác, uống thuốc là một liệu pháp khẩn cấp, tạm thời. Về lâu dài, nó gây ảnh hưởng đến cơ thể, mất cân bằng nội môi và có nhiều hệ lụy như đau dạ dày, thần kinh kích thích thái quá dẫn tới mất ngủ, mệt mỏi, tăng đường huyết...

Đối với tiểu đường tuưp 1, người bệnh luôn phải sử dụng insulin từ bên ngoài (bởi cơ thể đă giảm hoặc ngừng sản xuất insulin). Đối với tiểu đường tuưp 2, sau một thời gian dài dùng thuốc, đường huyết sẽ vẫn tiếp tục tăng, lúc này người bệnh buộc phải chuyển sang tiêm insulin và lệ thuộc vào chúng. Insulin sẽ được tiêm thẳng vào máu và không qua bộ lọc của gan. Nếu nồng độ insulin tăng cao trong máu, cơ thể sẽ chịu những tác động như tăng nguy cơ mắc ung thư, hạ đường huyết đột ngột, tích mỡ cục bộ nơi chích thuốc...

"Nếu phụ thuộc vào tác dụng cấp tính của thuốc, bạn sẽ chung sống với chúng cả đời. Tuy nhiên việc ngưng hay cắt giảm thuốc luôn cần tham khảo và được bác sĩ đồng ư", Thạc sĩ Hồng Hà lư giải.

Một trong những biện pháp lành mạnh giúp ổn định đường huyết cho người tiểu đường được Thạc sĩ Hồng Hà khuyến nghị áp dụng là phương pháp Bimemo do Tiến sĩ Biswaroop Roy Chowdhury (Ấn Độ) xây dựng dựa trên nhiều nghiên cứu khoa học, công tŕnh đoạt giải Nobel. Để nắm rơ các bước sống khỏe theo phương pháp Bimemo, truy cập tại đây.

Tại Việt Nam, phương pháp này được Thạc sĩ Hồng Hà giảng dạy online qua iwiki.*********.net. Khóa học hữu ích cho người bệnh tiểu đường, mắc các bệnh mạn tính (tim mạch, mỡ trong máu, cao huyết áp), người muốn t́m hiểu về phương pháp Bimemo hoặc những người đang t́m kiếm phương pháp chăm sóc sức khỏe tự nhiên, giúp thoát khỏi lệ thuộc vào insulin và các thuốc điều trị khác. Để tham gia khóa học, truy cập tại đây. Mọi ư kiến thắc mắc gửi về đây để được đội ngũ Ewiki và giảng viên giải đáp.




Hoài Nhơn
VNE



Reply With Quote Reply With Quote .

--------------------------------------------------------------------------------

florida80
05-14-2019, 20:13
Bệnh mỡ máu cao "không trừ một ai":
Muốn không có bệnh th́ nên chú ư 7 điều quan trọng





Bệnh mỡ máu cao "không trừ một ai" đă trở thành nỗi ám ảnh của nhiều người, đang khỏe mạnh bỗng nhiên có bệnh, phải điều trị. Đây là 7 lưu ư giúp bạn pḥng bệnh, nên áp dụng sớm.


Ai cũng có thể mắc bệnh mỡ máu cao, không riêng người béo

Bệnh mỡ máu cao hiện đă trở thành khái niệm quen thuộc với hầu hết mọi người, bởi tỉ lệ người mắc bệnh đang không ngừng tăng lên theo thời gian, nhiều người xung quanh bạn đă bất ngờ biết bản thân mắc bệnh sau mỗi lần đi khám, c̣n bạn th́ sao?

Câu hỏi này không khó trả lời, v́ các chỉ số mỡ máu rất dễ được phát hiện sau khi bạn đi kiểm tra sức khỏe, nếu chế độ ăn uống và lối sống của bạn thiếu lành mạnh, hăy đi khám để biết rơ t́nh trạng thật sự của bạn.


Theo bác sĩ Hùng Ích Quần, Chuyên khoa gan, Bệnh viện Trung y Thành phố Thâm Quyến (TQ), nhiều người nghĩ rằng bệnh mỡ máu cao liên quan trực tiếp đến t́nh trạng béo ph́.

Tuy nhiên, trên thực tế, với sự cải thiện mức sống vật chất của người dân và áp lực công việc và cuộc sống ngày càng tăng, cùng với một số thói quen ăn uống xấu, bất kỳ ai cũng đều có thể bị chứng mỡ máu cao (tăng lipid máu) chứ không chỉ riêng ở nhóm người béo ph́.

Muốn pḥng ngừa và loại bỏ căn bệnh này, bạn phải chú ư bắt đầu với một chế độ ăn uống lành mạnh một cách có kiểm soát.

Chế độ ăn uống để pḥng tránh và điều trị bệnh tăng lipid máu như thế nào là đúng? Sau đây là câu trả lời dành cho bạn. Hăy thực hiện ngay từ bây giờ v́ bạn sẽ không có nhiều thời gian để ngăn chặn căn bệnh này.






1. Nên ăn nhiều thực phẩm chứa canxi

Bệnh nhân tăng huyết áp có thể duy tŕ chế độ ăn nhiều canxi mỗi ngày v́ thực phẩm chứa canxi có thể có tác dụng hạ huyết áp đáng kể.
Ngoài ra, thực phẩm có chứa canxi c̣n có rất nhiều tác dụng khác trong việc ngăn ngừa loăng xương và lăo hóa. Bạn nên dành thời gian chuẩn bị thực đơn cho ḿnh cẩn thận, bao gồm các sản phẩm từ sữa, sản phẩm từ đậu nành, đậu phộng (lạc), quả chà là đỏ, tảo bẹ, rong biển, mộc nhĩ, cá…


2. Nên ăn rau và trái cây đầy đủ

Chúng ta đều biết rằng, rau và trái cây rất nói chung là nguồn thực phẩm phổ biến, giàu vitamin và chất chống oxy hóa tự nhiên.

Hăy ưu tiên chọn các loại rau và trái cây có màu đỏ, vàng và xanh đậm v́ chúng là một nguồn cung cấp các chất dinh dưỡng quan trọng như carotene, vitamin và nhiều hơn nữa.

Để ngăn ngừa mỡ máu cao, bạn nên ăn nhiều rau và trái cây tươi mỗi ngày. Không nên ăn trái cây trước hoặc sau bữa ăn để tránh tiêu thụ quá nhiều carbohydrate cùng một lúc và làm quá tải chức năng hoạt động của tuyến tụy.


3. Nên chú ư uống nhiều nước

Bệnh nhân bị tăng lipid máu thường rơi vào nhóm bệnh lư liên quan đến độ nhớt của máu tăng cao, lưu lượng máu hoạt động chậm và dễ bị chứng huyết khối/cục máu đông.

Lời khuyên của các bác sĩ trên kênh Bác sĩ gia đ́nh là hăy u. Điều này không chỉ cung cấp đủ nước cho mọi hoạt động của cơ thể mà c̣n có lợi cho việc làm loăng máu, giảm độ nhớt của máu và giữ cho sự lưu thông máu trong cơ thể trở nên thuận lợi và trơn tru hơn.


4. Nên ăn nhiều thực phẩm chứa kali

Chúng ta đều biết rằng, Kali là chất vô cùng cần thiết đối với hoạt động của cơ thể, nó có thể làm giảm tác dụng có hại của natri trong cơ thể, thúc đẩy bài tiết natri và hạ huyết áp.

Thực phẩm chứa kali trong đời sống hàng ngày cũng rất phong phú, chỉ cần bạn ghi nhớ lời khuyên này để áp dụng đúng trong khi đi mua đồ ăn, danh sách ưu tiên bao gồm đậu, các sản phẩm từ sữa, nấm tươi và các loại rau lá xanh khác nhau.

Riêng nhóm trái cây giàu kali bao gồm cam, táo, dứa, kiwi, quả óc chó, và dưa hấu. Bất kỳ nhóm thực phẩm nào bạn dễ dàng mua được th́ đều nên bổ sung thường xuyên để đủ kali cho mọi hoạt động của cơ thể diễn ra thuận lợi.


5. Nên giảm lượng đường ăn vào hàng ngày

Mặc dù các bác sĩ thường xuyên nhắn nhủ chúng ta rằng phải giảm lượng đường ăn vào hàng ngày nhưng nhiều người rất khó để thực hiện lời khuyên này.

Đường "ẩn náu" trong rất nhiều loại thực phẩm hàng ngày, đặc biệt là đồ chế biến sẵn, đồ ăn nhanh như nước ngọt, các loại bánh, các loại chè, đồ uống giải khát. Trong khi chúng ta không biết rằng, quá nhiều đường có thể chuyển thành chất béo, dẫn đến béo ph́ và thúc đẩy sự h́nh thành bệnh gan nhiễm mỡ, mỡ máu và rất nhiều bệnh khác.

Lượng Carbonhydrate cung cấp cho cơ thể chủ yếu là từ nguồn ngũ cốc. Bạn chú ư kỹ về việc không ăn thực phẩm có chứa nhiều đường tinh luyện, bao gồm đồ ngọt và món tráng miệng như nước trái cây và kẹo trái cây.


6. Nên ăn ít nội tạng động vật và chất béo

Đa số các món ăn "khoái khẩu" là mối nguy cơ tiềm tàng nhất đối với sức khỏe. Lư do là v́ càng ngon th́ chúng ta lại càng ăn nhiều, ăn thường xuyên và không đủ "dũng cảm" để từ chối những món ăn này, v́ thế nguy cơ thừa chất béo lại ngày càng tăng.

Các bác sĩ khuyên bạn rằng, hăy nhanh chóng điều chỉnh cấu trúc chế độ ăn uống. Không nên ăn thức ăn nhiều dầu mỡ, đặc biệt là vào bữa tối. Thực phẩm có vị ngọt cũng nên ăn ít hơn để tránh làm tăng độ nhớt của máu, gây ra các triệu chứng bệnh tim mạch và mạch máu năo, rất nguy hiểm.

Món ăn từ nội tạng động vật và món ăn chứa nhiều dầu mỡ, chất béo là nhóm thực phẩm bạn cần hạn chế hoặc tránh nếu đang có chỉ số mỡ máu cao.







7. Nên ăn uống thanh đạm, chọn thức ăn nhẹ nhàng

Lời khuyên dành cho bạn là hăy lựa chọn chế độ ăn uống thanh đạm dù bạn đang ở lứa tuổi nào. Thực phẩm bạn ăn vào hàng ngày nên phải được kiểm soát thật tốt. Ăn ít muối, đây là điều quan trọng đầu tiên, v́ quá nhiều muối hoặc thực phẩm nhiều muối có thể gây ra mỡ máu cao.

Hạn chế tối đa việc ăn thức ăn quá mặn, uống ít rượu bia, bởi nếu uống lâu dài có thể làm tăng nồng độ lipid trong máu, dẫn đến xơ cứng động mạch, tăng nguy cơ mắc các bệnh về tim mạch và mạch máu năo.

Tóm lại, nguyên nhân gây tăng lipid máu/mỡ máu cao chủ yếu là do một số thói quen ăn uống xấu, v́ vậy bạn phải chú ư đến các nguyên tắc nhất định của chế độ ăn uống hàng ngày. Nên chú ư phát triển thói quen ăn uống tốt, có thể giúp kiểm soát tốt bệnh mỡ máu cao.

Người khỏe mạnh th́ nên pḥng bệnh, người có bệnh th́ nên điều chỉnh ngay để hạ chỉ số mỡ máu càng sớm càng tốt.




*Theo BS Gia đ́nh (TQ)
Vân Hồng
theo Trí Thức Trẻ




Reply With Quote Reply With Quote .

--------------------------------------------------------------------------------

florida80
05-14-2019, 20:14
Ảnh chụp năo cho thấy tác hại của rượu kéo dài trong suốt 6 tuần






Đau đầu, mệt mỏi và nôn nao do rượu bia thường biến mất vào ngày hôm sau. Tuy nhiên, một nghiên cứu đă chỉ ra năo bộ vẫn có thể phải chịu các tác động của rượu trong 6 tuần sau đó.






Một nghiên cứu gần đây được thực hiện bởi các nhà khoa học tại Viện Khoa học Thần kinh Tây Ban Nha và Viện Sức khỏe Tâm thần Trung ương Đức đă chỉ ra rằng rượu bia và các loại đồ uống có cồn nói chung có thể gây rất nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe, đặc biệt tới năo bộ và hệ thần kinh của bạn ngay cả khi đă dừng uống rượu bia.


Họ đă sử dụng công nghệ quét năo người nghiện rượu và phát hiện ra rằng chất trắng - bộ phận tập hợp các dây thần kinh của năo - vẫn biến đổi sau hơn một tháng không sử dụng rượu bia.






Các bản quét được cho thấy xung điện ít hơn đáng kể (thể hiện bằng các đường màu xanh) trong năo của người nghiện rượu sau hai tuần ngưng uống rượu (trái) so với năo của kiêng rượu hoàn toàn (phải). Ảnh: JAMA Psychiatry




Phát hiện của họ đi ngược lại với quan điểm thông thường rằng tác hại do rượu sẽ dừng sau khi ngừng uống rượu. Tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu, năo bộ của bạn sẽ vẫn phải hứng chịu những tác động của bia rượu âm ỉ liên tục trong ṿng 6 tuần tiếp theo.


Tiến sĩ Santiago Canals, thành viên của nghiên cứu, cho biết: "Cho đến bây giờ, không c̣n ai có thể tin rằng nếu ngừng uống rượu, những tổn thương trong năo sẽ giảm".


Các nhà khoa học đă tiến hành quét song năo của những t́nh nguyện viên và nhận ra tác động xấu mà bộ năo và hệ thần kinh của con người ngay cả sau khi chúng ta dừng sử dụng rượu. Các bản quét cho thấy hai khu vực bị ảnh hưởng nặng nhất là vùng hải mă và vỏ năo trước trán.


Việc h́nh thành kư ức, cảm xúc, khả năng đưa ra quyết định và hành vi của năo đều được kiểm soát bởi hai bộ phận này. Điều đó cho thấy các chức năng trên đều có thể bị ảnh hưởng đáng kể.


Các nhà khoa học viết trong báo cáo: "Chúng tôi thấy rằng sau hai đến sáu tuần kiêng rượu bia, những thay đổi của cấu trúc vi mô vẫn diễn ra". Việc di chuyển các tín hiệu thần kinh tiếp tục bị hạn chế trong năo.









Theo Daily Mail
Hải Tuệ
****

florida80
05-14-2019, 20:15
9 dấu hiệu cảnh báo cơ thể đang tích tụ nhiều độc tố



Táo bón, hôi miệng, thay đổi trên da hay tăng cân không kiểm soát là những dấu hiệu cảnh báo cơ thể chứa nhiều độc tố có thể gây nguy hại đến sức khỏe lâu dài.







Táo bón: Khi ăn thực phẩm, chúng ta vô t́nh tiêu thụ rất nhiều hóa chất đi kèm với chúng, chẳng hạn như chất bảo quản, chất tạo màu, hương liệu nhân tạo. Ruột được giao nhiệm vụ tiêu hóa cũng như phải đối mặt với các chất độc này. Sự tích tụ các độc tố đó trong thời gian dài có thể dẫn đến đau bụng và táo bón. Ăn thực phẩm hữu cơ, hạn chế uống rượu và cố gắng uống nhiều nước sẽ giúp giải quyết vấn đề này.



Bạn bị sương mù năo: Nếu bạn cảm thấy chóng mặt, bối rối và không thể tập trung vào buổi sáng dù vẫn ngủ đủ giấc, các độc tố có hại có thể là nguyên nhân. Những độc tố này gây ra một loạt các phản ứng làm mất các vitamin và khoáng chất thiết yếu mà cơ thể cần để hoạt động. Độc tố có thể ảnh hưởng đến năo như aspartame và mononatri glutamate cũng có thể gây đau đầu dai dẳng.



Cơ thể có mùi hôi dù sử dụng chất khử mùi: Bạn đă tắm vào buổi sáng, sử dụng chất khử mùi, nhưng vẫn bị chảy mồ hôi nhiều và cơ thể vẫn hôi. Độc tố trong cơ thể có thể khiến bạn bốc mùi. Những độc tố này khi được tiêu hóa, thoát qua lỗ chân lông trên cơ thể sẽ tạo ra khí và mùi hôi khó chịu.



Tăng cân không kiểm soát: Mặc dù đă tập thể dục đều đặn, bạn vẫn tăng cân. Đó có thể là có điều ǵ đó không đúng xảy ra với hormone của bạn. Các độc tố quá nhiều trong cơ thể có thể tác động xấu đến mức độ của một số hormone, bao gồm cả các chất chịu trách nhiệm duy tŕ cân nặng. Chuyển sang chế độ ăn uống gồm các thực phẩm hữu cơ lành mạnh có thể giúp đỡ vấn đề này.



Mụn, phát ban, đốm xuất hiện trên da: Da là cơ quan lớn nhất trên cơ thể của con người và thường xuyên bị ô nhiễm. Các sản phẩm như dầu gội, dầu xả, xà pḥng, kem dưỡng da mà bạn sử dụng có thể chứa các hóa chất độc hại. Tiếp xúc nhiều với hóa chất có thể dẫn đến các triệu chứng như mụn trứng cá, phát ban và bệnh chàm.



Khó ngủ: Một mặt, sự tích tụ độc tố khiến bạn cảm thấy kiệt sức, mặt khác, nó lại gây ra rối loạn giấc ngủ. Một lượng lớn chất độc trong cơ thể khiến mức độ hormone kiểm soát giấc ngủ cortisol bị ảnh hưởng, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến giấc ngủ của bạn.



Hơi thở có mùi: Hôi miệng thường là triệu chứng phổ biến của các vấn đề về tiêu hóa. Nó xảy ra khi hệ tiêu hóa phải vật lộn để tiêu hóa hết những ǵ bạn ăn. Nhưng vấn đề tiêu hóa cũng có thể xảy ra khi gan phải chiến đấu để làm sạch tất cả độc tố trong cơ thể. Loại bỏ độc tố hoàn toàn là cách duy nhất để bạn giải quyết vấn đề này.



Móng chân dễ găy và trông xấu xí: Trọng lực kéo chất độc xuống cơ thể và móng chân có thể là bộ phận bị ảnh hưởng. Trong phần lớn thời gian trong ngày, bạn thường đeo tất và mang giày. Điều đó khiến móng chân trở thành điểm yêu thích của nấm để sinh sôi và phát triển.



Bạn rụng tóc nhiều hơn: Rụng tóc không phải là triệu chứng quá tải độc hại gây ra bởi các độc tố hàng ngày. Nó có thể là do ảnh hưởng của các chất độc độc hại hơn như asen, ch́ và tali (được t́m thấy trong khói thuốc lá)... Cơ thể chứa quá nhiều độc tố này có thể gây ngộ độc, thậm chí gây chết người.

florida80
05-14-2019, 20:15
3 thói quen là nguyên nhân dẫn đến bệnh măn tính: Biến người khỏe thành người có bệnh







Bệnh măn tính là nhóm bệnh phổ biến nhất khiến người bệnh phải sống chung với thuốc, điều trị suốt đời. Đa số những người có bệnh đều có 4 thói quen xấu sau đây, bạn nên tránh xa.



Bệnh măn tính xuất hiện với tỉ lệ ngày càng tăng, kể cả ở người trẻ tuổi

Chúng ta đều biết rằng, bệnh măn tính là những căn bệnh xảy ra một cách từ từ và càng ngày càng trở nên nặng hơn, rất khó chữa, và thuốc chỉ có thể kiểm soát các triệu chứng, không thể điều trị khỏi.

Tuy nhiên, trên thực tế th́ các yếu tố nguy cơ đối với các bệnh măn tính có thể pḥng ngừa và kiểm soát được, nhưng nhiều người lại không chú ư đến điều này, để đến khi mắc bệnh rồi mới cuống cuồng lên t́m hiểu, lúc đó th́ hầu như đă muộn.

Các bệnh măn tính sợ nhất với lối sống không lành mạnh, những thói quen này được kể tên đầu tiên là thiếu hoạt động thể chất, thiếu vận động, thừa cân, béo ph́, rối loạn lipid máu… là những yếu tố nguy cơ chính của một loạt các bệnh măn tính, đặc biệt đáng sợ là các bệnh này c̣n xuất hiện ngày càng phổ biến ở những người trẻ tuổi.

Hoạt động thể chất thường xuyên có thể ngăn ngừa và kiểm soát hiệu quả các bệnh măn tính. Trong đó, thói quen hút thuốc lá là đặc biệt nguy hại v́ chúng ta biết, thuốc lá chứa tới hơn 200 chất gây độc hại, có hại nhất là những thành phần có thể dẫn đến ung thư.





Sau đây là những thói quen xấu có thể gây ra các bệnh măn tính sớm, đặc biệt ở người trẻ

1. Thiếu hoạt động thể chất

Thừa cân, béo ph́ và rối loạn lipid máu (mỡ máu) do hoạt động thể chất không đủ là những yếu tố nguy cơ chính của nhiều bệnh măn tính.
Hoạt động thể chất thường xuyên có thể ngăn ngừa và kiểm soát hiệu quả sự h́nh thành các bệnh măn tính.






2. Hút thuốc

Thói quen hút thuốc lá thường xuyên có thể gây ra một loạt các bệnh măn tính, chẳng hạn như bệnh tim mạch và mạch máu năo, bệnh mạch máu ngoại biên, bệnh phổi tắc nghẽn măn tính, ung thư phổi, ung thư thực quản và các khối u ác tính khác.

Những mối nguy hiểm của việc hút thuốc không chỉ dừng lại ở việc gây hại cho các bộ phận cụ thể, mà chúng sẽ lan truyền khắp các cơ quan và hệ thống của cơ thể.

Thuốc lá được xem là một nguồn độc hại rơ ràng v́ chứa tới hơn 200 chất độc hại, có thể gây ung thư, trong đó có hại nhất là tar, nicotine và carbon monoxide…


3. Uống bia rượu quá nhiều

Đông y quan niệm rằng uống rượu càng nhiều càng gây tổn thương gan. Khi uống quá nhiều sẽ tạo ra các yếu tố nguy cơ đối với các bệnh măn tính hoặc nguy hiểm tính mạng như ung thư gan, tăng huyết áp và đột quỵ… v́ vậy mà bất cứ ai cũng nên nỗ lực để kiềm chế việc uống rượu, hạn chế ở mức tối đa.





4. Thức khuya

Đă có rất nhiều nghiên cứu công bố về tác hại của việc thức khuya đối với sức khỏe. Từ quan điểm của nội tiết học, thời gian ngủ hàng ngày nhất định phải từ 11 giờ đêm, không nên thức khuya hơn sau thời gian này.

Thức khuya trong thời gian lâu dài có thể gây rối loạn nội tiết, giảm khả năng miễn dịch, rối loạn hệ thần kinh, gây ra các bệnh tim mạch và mạch máu năo, tăng nguy cơ ung thư.

Lịch làm việc b́nh thường của mỗi người nên được sắp xếp hợp lư, thời gian nghỉ ngơi cần đầy đủ và đi ngủ trước 11 giờ tối.

Ngoài ra, kiểm tra sức khỏe định kỳ là rất quan trọng. Đây là cách mà mọi người có thể tự nắm rơ t́nh h́nh sức khỏe của bản thân thông qua việc kiểm tra toàn diện các yếu tố nguy cơ sức khỏe bằng phương pháp y tế.

Việc làm này có ư nghĩa quan trọng v́ có thể ngăn ngừa phát hiện sớm, chẩn đoán sớm và điều trị sớm và đóng vai tṛ pḥng ngừa tích cực đối với các yếu tố nguy cơ gây ra bệnh măn tính. Do đó, những người trên 30 tuổi nên đi kiểm tra sức khỏe tổng thể, tốt nhất là mỗi năm một lần.

*Theo Health/IF
theo Trí Thức Trẻ



Reply With Quote Reply With Quote .

--------------------------------------------------------------------------------

florida80
05-14-2019, 20:16
Thói quen ăn uống có thể khiến bạn chết sớm



Ăn uống là cách để con người tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, có nhiều thói quen ăn uống lại là nguyên nhân gây bệnh nguy hiểm, có thể khiến bạn chết sớm.



Bỏ bữa: Theo Live Strong, không ăn cũng gây hại như ăn kém lành mạnh. Mọi người thường bỏ bữa v́ cuộc sống bận rộn, vội vàng. Khi bạn bỏ qua một bữa ăn, cơ thể ngừng nhận chất dinh dưỡng. Khi đó, cơ thể phải sử dụng lượng đường và protein dự trữ để hoạt động, gây ảnh hưởng trực tiếp đến da, tăng quá tŕnh lăo hóa và sớm xuất hiện những nếp nhăn. Lần sau đó bạn ăn, cơ thể sẽ hấp thụ mọi thứ, cả xấu và tốt. Bỏ bữa cũng sẽ ảnh hưởng đến dạ dày và gây ra các vấn đề dạ dày mạn tính. Ảnh: Leaderviral.



Quá nhiều thịt đỏ: Thịt đỏ không phải là xấu, nó có nhiều chất dinh dưỡng bạn cần như protein, sắt, vitamin B và kẽm. Tuy nhiên, ăn quá nhiều thịt đỏ lại gây hại cho sức khỏe. Ăn nhiều thịt gây ra 4,2% ca tử vong liên quan đến bệnh tiểu đường trong năm 2012 trên thế giới. Theo Viện Nghiên cứu Ung thư Mỹ, bạn nên hạn chế ăn ít hơn 510 g mỗi tuần. Ảnh: Foodtribute.



Ăn nhiều thịt chế biến: Các loại thịt chế biến như xúc xích, thịt xông khói, thịt nguội chứa nhiều muối, chất bảo quản, phốt phát, nitrat. Chúng là thủ phạm đằng sau nguy cơ suy tim của người tiêu dùng. Ước tính, 8,2% trường hợp tử vong do bệnh tim và tiểu đường liên quan đến ăn quá nhiều thịt chế biến trong năm 2012. Ảnh: Popularscience.



Ăn nhiều chất béo rắn: Có nhiều loại chất béo tốt giúp cơ thể tồn tại. Tuy nhiên, chất béo rắn th́ ngược lại. Nó là chất béo không lành mạnh thường có trong bơ, mỡ ḅ, dầu dừa và dầu cọ. Chúng chứa nhiều chất béo băo ḥa và chất béo chuyển hóa. Do đó, chúng có thể tăng cholesterol xấu và nguy cơ cao mắc bệnh tim. Thói quen ăn quá nhiều chất béo rắn gây ra 2,3% ca tử vong do đột quỵ, bệnh tim và tiểu đường loại 2. Ảnh: Verywellhealth.



Ăn ít rau xanh: Rau củ là một phần thiết yếu của chế độ ăn uống lành mạnh, với khuyến nghị 2,5 cốc mỗi ngày. Rau xanh ít chất béo và calo, chứa nhiều chất dinh dưỡng quan trọng như kali, chất xơ, axit folic, vitamin A và C. Đặc biệt, không có loại rau xanh nào chứa cholesterol. Không ăn đủ rau gây ra 7,6% ca tử vong liên quan đến chế độ ăn uống, chẳng hạn như bệnh tim, đột quỵ và tiểu đường loại 2, vào năm 2012. Ảnh: Wisegeek.



Ăn ít trái cây: Trái cây rất giàu chất dinh dưỡng thiết yếu như kali, vitamin C, axit folic và chất xơ. Lượng trái cây cần thiết mỗi ngày là 1,5-2 cốc trái cây. Ăn ít hơn lượng khuyến nghị này là nguyên nhân của 7,5% trường hợp tử vong do bệnh tim mạch trên thế giới. Ảnh: Brunet.



Uống nhiều nước ngọt: Theo CNN, đối với những người ở độ tuổi 25-64, nước ngọt và đồ uống có đường khác gây chết sớm hơn bất kỳ chế độ ăn uống nào khác. Ước tính, 7,4% ca tử vong liên quan đến đồ uống có đường ảnh hưởng đến nam giới nhiều hơn phụ nữ. Đồ uống có đường có thể gây sâu răng, hội chứng chuyển hóa và béo ph́. Ủy ban Y tế Công cộng Boston (Mỹ) cho biết phụ nữ uống nhiều hơn một lon đồ uống có đường mỗi ngày tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường gấp đôi so với những người không uống hoặc uống ít hơn. Ảnh: Healthyworld.




Uống quá nhiều rượu bia: Việc uống quá nhiều đồ uống có cồn có thể làm giảm tới 20 năm tuổi thọ một người. Ngoài ra, bạn c̣n dễ mắc những bệnh như tổn thương năo, suy gan, chảy máu dạ dày. Do đó, hăy cân nhắc khi tham gia những cuộc vui và giới hạn lượng rượu bia bạn sử dụng. Ảnh: Todayonline.





Phương Mai
****

florida80
05-14-2019, 20:18
Sự phát triển tế bào thần kinh mới: Năo sau chấn thương hoặc lăo hóa có thể tái tạo








Người ta đă từng tin rằng động vật có vú được sinh ra đă có sẵn lượng tế bào thần kinh mà chúng sẽ có trong suốt cuộc đời. Tuy nhiên, trong vài thập kỷ qua, các nhà thần kinh học đă phát hiện ra rằng ít nhất hai vùng năo (bao gồm trung tâm của khứu giác và đồi hải mă, nơi học tập và ghi nhớ) có sự phát triển các tế bào thần kinh mới.

Các nhà nghiên cứu từ Trường Y khoa Perelman thuộc Đại học Pennsylvania đă chỉ ra rằng, ở chuột, một loại tế bào gốc tạo ra tế bào thần kinh trưởng thành nằm trong vùng đồi thị. Những phát hiện này có thể giúp các nhà thần kinh học t́m ra cách duy tŕ các điều kiện trẻ trung để học tập và ghi nhớ, và sửa chữa và tái tạo các bộ phận của năo sau chấn thương và lăo hóa.




Con quay hồi chuyển đồi hải mă của chuột 7 ngày sau sinh, màu xanh dương là đánh dấu hạt nhân, màu xanh lá cây là con của các tế bào tiền thân biểu hiện HOPX (gen mă hóa protein) và màu đỏ là dấu hiệu của sự tăng sinh tế bào. (Ảnh: ScienceDaily)



“Lần đầu tiên, chúng tôi đă chứng minh rằng ở các động vật có vú, các tế bào thần kinh trong ngà răng của đồi hải mă phát triển từ một quần thể tế bào gốc duy nhất trong toàn bộ tuổi thọ… Các tế bào thần kinh chưa trưởng thành mới linh hoạt hơn trong việc tạo ra các kết nối ở vùng hải mă so với các tế bào thần kinh trưởng thành cũ. Đây là điều tối quan trọng cho việc học tập, trí nhớ và điều chỉnh tâm trạng lành mạnh”, Giáo sư, Tiến sĩ Thần kinh học Hongjun Song nói.

Các nhà nghiên cứu dán nhăn tế bào thần kinh gốc trong phôi khi năo chuột vẫn đang phát triển và theo dơi các tế bào này từ khi sinh ra đến khi trưởng thành. Cách tiếp cận đă tiết lộ rằng các tế bào gốc thần kinh liên tục tạo ra các tế bào thần kinh trong suốt cuộc đời của động vật.

“Quá tŕnh này là duy nhất trong năo bộ”, Giáo sư, Tiến sĩ Thần kinh học Guo-li Ming cho biết. “Ở vùng hải mă, những tế bào này không bao giờ ngừng sao chép và góp phần vào sự linh hoạt của năo ở động vật có vú”.

Khả năng này được gọi là tính dẻo, là khả năng của năo để h́nh thành các kết nối mới trong suốt cuộc đời để bù đắp cho chấn thương, bệnh tật và điều chỉnh để đáp ứng với đầu vào mới từ môi trường.

Các bước tiếp theo của các nhà nghiên cứu dự kiến tiến hành là t́m kiếm các tế bào gốc thần kinh tương tự ở các động vật có vú khác, quan trọng nhất là ở người. Bắt đầu t́m kiếm trong mô năo người sau khi chết và điều tra cách thức quần thể tế bào gốc thần kinh này được điều ḥa.




Duy Anh
Theo ScienceDaily

florida80
05-14-2019, 20:19
Điều ǵ xảy ra với cơ thể nếu bạn đi bộ mỗi ngày?










Hầu hết chúng ta biết rằng đi bộ là một bài tập thể dục cường độ nhẹ tốt cho cơ thể. Do đó, bạn nên đi bộ ít nhất 15 – 30 phút mỗi ngày.


Vậy chính xác những lợi ích của việc đi bộ bao gồm những ǵ? Tại sao chúng ta nên liệt kê việc đi bộ vào danh sách những việc cần làm hàng ngày? Dưới đây là một số lư do cho bạn:


1. Tốt hơn cho năo bộ, cải thiện tâm trí

Có một nghiên cứu được thực hiện cho thấy đi bộ rất có lợi cho năo của chúng ta. Nhà nghiên cứu đă phát hiện ra rằng đi bộ làm tăng mức độ endorphin và giảm mức độ căng thẳng trong cơ thể một cách đáng kể. Ngoài ra, nó có tác dụng tốt đối với sức khỏe năo nói chung và thậm chí có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh Alzheimer và chứng mất trí.


2. Tầm nh́n được cải thiện




Đi bộ có thể giúp bạn mở rộng tầm nh́n, giải phóng áp lực cho mắt.
(Ảnh: Pixabay)


Điều này có thể gây ngạc nhiên cho bạn, nhưng đi bộ có thể cải thiện tầm nh́n của bạn! Nó rơ ràng giải phóng áp lực cho mắt, làm giảm bệnh tăng nhăn áp.


3. Trái tim khỏe mạnh hơn

Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ tuyên bố rằng đi bộ cũng tốt như chạy bộ. Nó rất hữu ích trong việc tránh đột quỵ và các vấn đề sức khỏe khác liên quan đến tim. Nó cũng cải thiện lưu thông máu, giảm cholesterol và ổn định huyết áp.


4. Dung tích của phổi tăng hơn

Đi bộ cho phép phổi của chúng ta tăng lượng oxy đi khắp cơ thể. V́ vậy, ngoài việc loại bỏ độc tố cho cơ thể, đi bộ có thể ảnh hưởng lớn đến các chức năng phổi để ngăn chúng ta khỏi bất kỳ bệnh nào liên quan đến phổi.


5. Giúp ngăn ngừa đái tháo đường

Nếu bạn muốn duy tŕ mức glucose ở mức b́nh thường, hăy tập thói quen đi bộ thường xuyên. V́ thực tế, khi so sánh với việc chạy bộ, một nghiên cứu đă phát hiện ra rằng đi bộ tốt hơn trong việc ngăn ngừa bệnh đái tháo đường. Những người đi bộ có lượng đường trong máu ở mức ổn định hơn những người chạy bộ gấp 6 lần.


6. Tiêu hóa tốt




Khi đi bộ, đại tràng cũng đang chuyển động theo,
làm tăng nhu động ruột, giảm t́nh trạng táo bón.
(Ảnh: Pexels)


Khi chúng ta đang đi bộ, đại tràng cũng đang chuyển động theo. Chuyển động này giúp b́nh thường hóa đại tràng của chúng ta, và do đó cân bằng ruột để ngăn ngừa ung thư và các vấn đề tiêu hóa khác như đầy hơi và táo bón.


7. Cơ bắp săn chắc hơn

Cơ bắp của chúng ta trở nên nổi bật và săn chắc hơn khi chúng ta giảm mỡ cơ thể. Đi bộ 10.000 bước mỗi ngày có thể giúp bạn đạt được điều này. Hơn nữa, bạn có thể tăng cường độ tập luyện bằng cách đi bộ lên dốc. Ngoài ra, cơ thể chúng ta thấy đi lại dễ dàng hơn, và do đó nó gây ra đau nhức ít hơn.


8. Tăng cường sức mạnh của xương

Đi bộ để có một cơ thể khỏe mạnh hơn đang được Tổ chức viêm khớp khuyên luyên tập. Bằng cách đi bộ 30 phút mỗi ngày, cơn đau và cứng khớp sẽ giảm bớt. Tác dụng chính của nó là làm khớp khỏe hơn, tránh chấn thương và loăng xương. Tuy nhiên, người bị viêm khớp tiến triển, thoái hóa th́ không nên đi bộ nhiều.


9. Đau lưng ít hơn




Đi bộ sẽ làm giảm t́nh trạng đau lưng hiệu quả.
(Ảnh: Pexels)


Các bài tập cường độ cao hơn có thể làm hỏng lưng. Tuy nhiên, các bài tập cường độ thấp hơn như đi bộ có thể có tác dụng ngược lại: giảm đau lưng. Thông qua việc lưu thông máu trong khu vực cột sống, cùng với tư thế và sự linh hoạt được tăng cường, đi bộ thực tế có thể loại bỏ sự khó chịu ở lưng.


10. Tâm trí cân bằng

Nếu đang bị rối loạn tâm trạng, đi bộ có thể giúp làm nhẹ tâm trạng của bạn. Nó thậm chí c̣n tốt hơn nếu bạn đi bộ với người khác. Căng thẳng, lo lắng và mức độ trầm cảm được chứng minh là được cải thiện bằng cách tập thể dục thường xuyên như đi bộ.

Với những lợi ích trên của việc đi bộ, hăy cùng bạn bè và gia đ́nh xây dựng một thói quen tốt để bảo vệ sức khỏe chính ḿnh và người thân bạn nhé!



Mộc Chi
Theo StethNews
dkn.tv



Reply With Quote Reply With Quote .

--------------------------------------------------------------------------------

florida80
05-14-2019, 20:19
Bí ẩn chế độ ăn Địa Trung Hải:
Dầu ô liu nuôi dưỡng năo như thế nào?









Dầu oliu là sản phẩm quen thuộc với nhiều người, đặc biệt là chị em phụ nữ. Không chỉ nổi tiếng trong việc chăm sóc tóc và da, nó c̣n có nhiều tác dụng khác đối với tim mạch và năo bộ.


Dầu oliu hay olive là loại dầu thu được từ cây oliu, một loại cây truyền thống của vùng Địa Trung Hải với lịch sử lâu đời. Nó chủ yếu được tạo thành từ hầu hết các axit béo không băo ḥa đơn, trong đó quan trọng nhất là axit oleic. Axit oleic được biết là cực kỳ tốt cho sức khỏe tim mạch và có khả năng chống lại các tổn thương gốc tự do (hoặc stress oxy hóa). Điều này đặc biệt đúng khi so sánh với các hợp chất được t́m thấy trong nhiều loại dầu thực vật tinh chế, trans fats hoặc chất béo hydro hóa. Theo các chuyên gia dinh dưỡng, trong một th́a canh dầu ôliu nguyên chất có chứa: (1 th́a canh = 1 tablespoon (viết tắt là tbsp hay tbs) = 15ml)


– 119 calo

– 14 g chất béo (9,8 trong số đó là axit béo không băo ḥa đơn)

– Không chứa đường, carbohydrat và protein

– 8 mcg vitamin K (10% Daily Value – DV – giá trị hàng ngày)

– 2 mg vitamin E (10% DV)





Dầu oliu là thành phần quan trọng trong chế độ ăn của cư dân các nước Địa Trung Hải.
(Ảnh: pexels.com)

Chế độ ăn nhiều dầu oliu nguyên chất của các quốc gia vùng Địa Trung Hải, có mối liên quan đến tỉ lệ thấp mắc các bệnh tim mạch, xơ vữa động mạch và ung thư. Gần đây hợp chất phenolic có trong dầu oliu được quan tâm đặc biệt. Nó có tác động tích cực trên một vài chỉ số sức khỏe bao gồm lipoprotein huyết tương, tổn thương oxy hóa, các dấu hiệu viêm, tiểu cầu, chức năng tế bào và hoạt tính kháng khuẩn. Đặc biệt đây là thực phẩm nuôi dưỡng năo bộ hiệu quả, cụ thể bao gồm:



1. Giảm nguy cơ trầm cảm

Chất béo tốt trong đó có dầu oliu, có tác dụng cân bằng hormone, chống viêm, có thể ngăn ngừa rối loạn chức năng dẫn truyền thần kinh. Chế độ ăn ít chất béo thường liên quan đến tỷ lệ trầm cảm và lo âu cao hơn. Rối loạn tâm trạng hoặc rối loạn nhận thức có thể xảy ra khi năo không có đủ lượng “hormone hạnh phúc” như serotonin hoặc dopamine, những tín hiệu hóa học quan trọng cần thiết cho việc điều chỉnh tâm trạng, ngủ ngon và tư duy.

Một nghiên cứu năm 2011 được tiến hành bởi Đại học Las Palmas ở Tây Ban Nha cho thấy, lượng chất béo không băo ḥa đơn và đa có mối quan hệ nghịch với nguy cơ trầm cảm. Đồng thời, mức tiêu thụ trans fats và nguy cơ trầm cảm có mối quan hệ tuyến tính, tiêu thụ trans fats nhiều hơn và mức PUFA, MUFA thấp hơn có thể tăng nguy cơ phải đối mặt với các rối loạn tâm trạng và điều trị trầm cảm. (PUFA – Polyunsaturated fatty acids hay axit béo không băo ḥa đa nối đôi, là các axit béo cơ thể con người không thể tự tổng hợp được. MUFA (MUFAs) là Monounsaturated fats – chất béo đơn không băo ḥa có nguồn gốc từ thực vật).



2. Chứa nồng độ cao các vitamin thiết yếu tốt cho năo

Hàm lượng vitamin E và K chứa trong dầu ô liu rất phong phú. Vitamin E là chất chống oxy hóa hiệu quả giúp bảo vệ năo khỏi tổn thương của các gốc tự do, lại có thể hỗ trợ giúp tinh thần không bị suy nhược. Đặc biệt với sự tồn tại đồng thời của vitamin C, có thể hỗ trợ giúp tăng cường trí nhớ và giảm đáng kể nguy cơ mắc Alzheimer. Ngoài ra, vitamin E cũng có thể phân phối lại nguồn cấp máu lên năo sau đột quỵ từ đó làm giảm tổn thương.






Theo một nghiên cứu năm 2004 được công bố trên tạp chí chống ung thư châu Âu,
quả oliu và dầu oliu chứa nhiều chất chống oxy hóa.
(Ảnh: pexels.com)


Vitamin K chủ yếu được t́m thấy trong các loại rau lá xanh, nhưng nếu không hấp thụ đủ, có thể hấp thụ lượng này từ dầu ô liu. Vitamin K hỗ trợ giúp giữ cho bộ năo minh mẫn và cải thiện tốc độ phản ứng của năo bộ khi bạn già đi. Đồng thời nó cũng có thể cải thiện khả năng ghi nhớ các từ đơn, một vấn đề lớn đối với người cao tuổi. Theo các chuyên gia, vitamin K có vai tṛ chính trong việc ngăn ngừa bệnh Alzheimer v́ xét nghiệm của những bệnh nhân này thường cho thấy thiếu hụt vitamin K.



3. Chống oxy hóa cao

Năo cần rất nhiều oxy để có thể hoạt động b́nh thường, hàm lượng này chiếm 20% tổng lượng của toàn thân, do đó rất dễ bị tổn thương do các gốc tự do gây ra. Giống như một quả táo sau khi cắt sẽ bị thâm và các tế bào năo cũng sẽ bị tổn thương do quá tŕnh oxy hóa như vậy.

Chất chống oxy hóa tự nhiên được gọi là polyphenol trong dầu ôliu rất cao, và nó chứa hơn 30 hợp chất phenolic, tất cả đều là chất chống oxy hóa hiệu quả và chất tẩy gốc tự do. Hợp chất này đóng một vai tṛ quan trọng trong việc giữ cho dầu đóng chai luôn tươi mới.



4. Cải thiện hai loại vật chất hóa học quan trọng trong năo

Dầu oliu có thể hỗ trợ giúp nâng cao mức độ của hai chất BDNF và NGF. BDNF là một loại protein kích thích sự h́nh thành các tế bào năo mới, loại bỏ các tác động tiêu cực căng thẳng lên năo. BDNF là hormone tăng trưởng chịu trách nhiệm về chức năng của năo bộ. NGF là các hóa chất năo quan trọng giúp thúc đẩy sự tăng trưởng của tế bào, phục hồi và truyền tải tín hiệu thông tin thị giác và âm thanh.






Dầu oliu có tác dụng hỗ trợ hạ huyết áp hiệu quả.
(Ảnh: sohu.com)


5. Bảo vệ năo khỏi các bệnh thoái hóa

Axit béo không băo ḥa đơn trong dầu ô liu có thể làm tăng trí nhớ của người già và chức năng nhận thức của những người ở các độ tuổi khác nhau. Sau khi ăn chế độ ăn Địa Trung Hải với hàm lượng dầu ô liu cao, nguy cơ mắc bệnh mất trí nhớ giảm 40%. Hàm lượng hoạt chất tiêu diệt ung thư Oleocanthal phong phú trong dầu oliu có thể vượt qua hàng rào máu năo và loại bỏ beta-amyloid liên quan đến bệnh Alzheimer.

Bộ năo chủ yếu được tạo thành từ các axit béo và nó yêu cầu một lượng nhiều vừa phải chất béo để thực hiện các nhiệm vụ, điều chỉnh tâm trạng và suy nghĩ sáng suốt. Giống như các nguồn chất béo tốt khác, dầu oliu được coi là một loại thuốc tự nhiên tốt cho năo giúp cải thiện sự tập trung và trí nhớ.

Oleocanthal là một dưỡng chất thiên nhiên có trong dầu oliu nguyên chất. Trong các thí nghiệm trên cơ thể chuột, các nhà nghiên cứu đă khám phá ra rằng oleocanthal tạo điều kiện cho các protein bất thường gây bệnh Alzheimer di chuyển ra khỏi năo bộ.

Một nghiên cứu khác cũng kết luận thêm được một tác dụng của dầu oliu: Khi sử dụng dầu nguyên chất chứa oleocanthal kết hợp cùng với chế độ ăn uống ở vùng Địa Trung Hải có thể giảm nguy cơ mắc những bệnh như rối loạn tăng động giảm chú ư và các bệnh sa sút trí tuệ gây thoái hóa thần kinh.



Kiên Định
Nguồn tham khảo: Secretchina

florida80
05-14-2019, 20:20
Đột quỵ hay tấn công vào buổi sáng, cần pḥng tránh thế nào?




Nhiều gia đ́nh gặp cảnh người thân tỉnh giấc bật dậy rồi đổ gục xuống, đột quỵ. Tại sao căn bệnh này lại hay tấn công vào buổi sáng?






Đột quỵ đă trở nên rất phổ biến, xảy ra không chỉ ở người lớn tuổi mà có xu hướng ngày càng “trẻ hóa”. Người bị đột quỵ rơi vào t́nh trạng bỗng dưng đổ gục xuống, hôn mê, đối mặt với di chứng tàn tật, thậm chí tử vong… Trong 24 giờ mỗi ngày th́ nguy cơ gặp cơn đột quỵ cao nhất thường là vào buổi sáng sớm.



Sáng sớm là thời điểm “cơ hội” cho đột quỵ

Nghiên cứu cho thấy, khi thức dậy vào buổi sáng, cơ thể chuyển từ tĩnh sang động, nhịp sinh học thay đổi, nồng độ các hóc-môn thay đổi khiến cho nhịp tim, huyết áp và trương lực của động mạch vành đều tăng lên.

Thông thường, huyết áp của cơ thể xuống mức thấp nhất vào lúc khoảng 3 giờ sáng, sau đó tăng lên dần lên và tăng nhanh lúc người ta thức dậy vào buổi sáng. Lúc này cơ thể tiết ra hóc-môn adrenaline và các hóc-môn gây căng thẳng khác, làm tăng áp lực máu và nhu cầu oxy. Sau một đêm, cơ thể đă mất đi một lượng nước tương đối lớn, máu trở nên keo đặc hơn, tim phải làm việc vất vả để bơm đẩy máu đi.



Khi tăng huyết áp sẽ tăng nhu cầu oxy cho cơ tim, các mảng xơ vữa động mạch vành có nguy cơ tổn thương, dễ bị rách vỡ, bong và khi đó chúng kích hoạt tiểu cầu gây ra nhồi máu cơ tim cấp.




Cảnh giác với nguy cơ đột quỵ vào buổi sáng (Ảnh: Internet)


Một nguyên nhân khác liên quan đến đột quỵ buổi sáng là do lượng nitric oxit thấp vào lúc đó. Nitric oxit (gọi tắt là NO) có vai tṛ quan trọng trong việc cầm máu. Nó tham gia vào hầu hết quá tŕnh sinh học trong cơ thể như sự thức tỉnh, chức năng sinh dục, cảm giác đau, hài ḷng, điều tiết máu và các chất dinh dưỡng…

NO có vai tṛ đặc biệt quan trọng trong quá tŕnh lăo hóa, mở rộng mạch máu tăng ḍng chảy đưa oxy và các chất dinh dưỡng để nuôi cơ thể. Nó là yếu tố quan trọng quyết định đến việc bị đột quỵ. Vào ban đêm, NO bị tiêu thụ nhiều nhất nên khi sáng sớm cơ thể dễ bị thiếu NO, làm tăng nguy cơ đột quỵ.



Phương pháp pḥng tránh đột quỵ

Để giảm nguy cơ đột quỵ buổi sáng, sau khi tỉnh giấc nên dành một ít phút cho cơ thể quen dần và tỉnh táo hẳn trước khi ra khỏi giường. Có thể nằm trên giường và thực hiện một vài động tác khởi động, nhẹ nhàng duỗi chân duỗi tay, xoa mặt… Với những người có bệnh tim mạch th́ lại càng cần lưu ư hơn.




Khởi động buổi sáng tại giường (Ảnh: Internet)


Buổi tối trước khi đi ngủ, nên uống một ly nước ấm, vừa kích thích cơn buồn ngủ, vừa tránh t́nh trạng khô háo vào sáng hôm sau, làm giảm độ keo nhớt của máu, giảm bớt áp lực lên tim.

Các nguyên nhân dẫn đến đột quỵ khá là phức tạp và thường là một quá tŕnh dồn tích, liên quan đến lối sống và cường độ công việc, tiêu thụ rượu bia và các loại hóa chất trong thực phẩm. Ít vận động cơ bắp, xem TV nhiều, sai lầm trong dinh dưỡng, lạm dụng thuốc hạ mỡ máu…đều có thể tăng nguy cơ đột quỵ.

V́ vậy, mỗi người đều nên chủ động rèn luyện thân thể, pḥng tránh càng sớm càng tốt. Nên tăng cường các loại thực phẩm sạch giàu vitamin C và các chất chống oxy hóa. Những thực phẩm thông thường hàng ngày như trái cây tươi, rau cải xanh, bắp cải, cà chua, vừng (mè), nấm đông cô, cá biển béo, dầu oliu… thực ra là những vị thuốc rất tốt cho tim mạch.




Kiên Thành
dkn.tv



Reply With Quote Reply With Quote .

--------------------------------------------------------------------------------

florida80
05-14-2019, 20:21
Mỹ thử nghiệm thành công cách chữa bệnh hồng cầu h́nh liềm đầu tiên trong lịch sử



Vanhien.vn - Các nhà khoa học Mỹ vừa công bố kết quả tích cực của dự án thử nghiệm điều trị lâm sàng bệnh thiếu máu hồng cầu h́nh liềm bằng phương pháp can thiệp gen, qua đó lần đầu tiên mở ra hy vọng chữa lành căn bệnh gây đau đớn này cho hàng chục triệu người gốc Phi trên toàn thế giới.




Bệnh hồng cầu h́nh liềm là t́nh trạng các tế bào hồng cầu trong máu không có h́nh dạng tṛn mà thay vào đó có dạng h́nh lưỡi liềm. Nguồn ảnh: internet


Theo phóng viên TTXVN tại Nam Phi, các nhà khoa học tại Viện Sức khỏe Quốc gia Mỹ (NIH) đă áp dụng phương pháp cấy gen từ tế bào hồng cầu khỏe mạnh vào cơ thể của 9 bệnh nhân mắc chứng thiếu máu hồng cầu h́nh liềm. Sau một thời gian, kết quả cho thấy lượng hồng cầu khỏe mạnh đă dần thay thế số hồng cầu h́nh lưỡi liềm, giúp người bệnh không c̣n những biểu hiện lâm sàng của căn bệnh nan y trên.

Đánh giá về kết quả của phương pháp mới, Giám đốc NIH Francis Collins (Phran-xít Cô-lin) cho rằng đây là một bước đột phá trong quá tŕnh nghiên cứu chữa trị chứng thiếu máu hồng cầu h́nh liềm – căn bệnh dẫn đến t́nh trạng không có đủ tế bào hồng cầu khỏe mạnh để mang oxy đi khắp cơ thể. Trước đó, giới y học thế giới chưa t́m ra cách chữa căn bệnh này mà chỉ dừng lại ở việc kiểm soát triệu chứng và thực hiện các biện pháp giảm đau cho bệnh nhân.

Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO), người mắc bệnh thiếu máu hồng cầu lưỡi liềm đa số đến từ châu Phi hoặc có ḍng máu liên quan đến nguồn gốc Đại chủng Phi (Negroid), hiện đang sinh sống rải rác tại khu vực Địa Trung Hải, Saudi Arabia, quần đảo Caribe, Trung Mỹ và Nam Mỹ. Riêng tại Mỹ, có khoảng 80.000 đến 100.000 gốc Phi bị mắc chứng bệnh di truyền này.

Thông thường, các tế bào hồng cầu có h́nh tṛn và có thể di chuyển dễ dàng qua các mạch máu, giúp vận chuyển oxy đến các bộ phận của cơ thể. Khi bị thiếu máu hồng cầu lưỡi liềm, các tế bào này biến thành h́nh lưỡi liềm và trở nên cứng và dính. Những tế bào mang h́nh dạng bất thường có thể gặp khó khăn khi di chuyển trong các mạch máu nhỏ, và có thể làm chậm hoặc ngăn chặn lưu lượng máu và oxy đến các bộ phận của cơ thể. T́nh trạng này dẫn đến các mô và cơ quan bị tổn hại do không được cung cấp đủ máu.

Biến chứng của bệnh thiếu máu hồng cầu h́nh liềm bao gồm: bệnh về thận và mắt, hoại tử chân, đột quỵ và nhiễm trùng nhiều nơi như viêm tủy xương, viêm phổi. Trong trường hợp nặng, tủy xương sẽ ngừng sản xuất ra hồng cầu và khiến khoảng 18% bệnh nhân tử vong.




Nguồn: dantocmiennui.vn

florida80
05-14-2019, 20:21
Thanks Thanks Given :25Thanks Thanks Received :100Thanked in:92 Posts




Cơn đau tim và nước



Cơn đau tim và nước



Bạn có biết bao nhiêu người nói rằng họ không muốn uống bất cứ thứ ǵ trước khi đi ngủ bởi v́ nó làm cho họ sẽ phải thức dậy trong đêm.






Đau tim và nước

- Tôi không bao giờ biết hết điều này! Thú vị .......

Vài điều khác tôi không biết ... Tôi hỏi bác sĩ của tôi tại sao mọi người cần phải đi tiểu nhiều vào ban đêm. Bác sĩ tim mạch của tôi trả lời: - Trọng lực giữ nước ở phần dưới của cơ thể khi bạn đứng thẳng (chân sưng lên). Khi bạn nằm xuống và phần cơ thể dưới (chân và v.v...) cố gắng đạt mức cân bằng với thận rồi th́ thận thải nước ra v́ nó dễ dàng hơn. Điều này sau đó liên quan với vấn đề cuối cùng!

Tôi biết bạn cần lượng nước tối thiểu để giúp tẩy sạch các độc tố ra khỏi cơ thể của bạn nhưng điều này hoàn toàn mới đối với tôi. Thời gian chính xác để uống nước ... Rất quan trọng.


Từ một chuyên gia tim mạch!

Uống nước tại một thời điểm nhất định tối đa hóa hiệu quả của nó trên cơ thể:

2 ly nước sau khi thức dậy - giúp kích hoạt các cơ quan nội tạng

1 ly nước 30 phút trước bữa ăn - giúp tiêu hóa

1 ly nước trước khi tắm - giúp giảm huyết áp

1 ly nước trước khi đi ngủ - tránh đột quỵ hoặc nhồi máu cơ tim


Tôi cũng có thể thêm vào điều này ... Bác sĩ của tôi nói với tôi rằng uống nước vào giờ đi ngủ cũng sẽ giúp ngăn ngừa chuột rút ở chân vào ban đêm. Cơ bắp chân của bạn đang t́m cách hấp thụ nước khi bị chuột rút và đánh thức bạn.

Bác sĩ Virend Somers, chuyên gia tim mạch của Bệnh viện Mayo, tác giả đứng đầu của báo cáo trong ngày 29 tháng 7 năm 2008, một ấn bản của Tạp chí American College of Cardiology, nói về aspirin:

Hầu hết các cơn đau tim xảy ra trong ngày, thường vào khoảng giữa 06g00 và trưa. Có một cơn vào ban đêm, khi trái tim đứng yên có nghĩa là một cái ǵ đó bất thường xảy ra. Somers và các đồng nghiệp của ông đă làm việc trong một thập kỷ cho thấy rằng ngưng thở khi ngủ là phải t́m nguyên do.

1 Nếu bạn uống một viên aspirin hoặc aspirin trẻ em mỗi ngày một lần th́ uống vào ban đêm.

Lư do: Aspirin có 24 giờ "chu kỳ nửa phân ră"; do đó, nếu hầu hết các cơn đau tim xảy ra trong những giờ rất sớm của buổi sáng, Aspirin sẽ mạnh nhất trong cơ thể của bạn.


2. Chú ư, Aspirin được cất một thời gian rất dài trong tủ thuốc của bạn, trong nhiều năm (khi nó đă cũ, nó có mùi giống như giấm).



Xin vui ḷng đọc tiếp ...

Một cái ǵ đó mà chúng ta có thể làm để tự giúp ḿnh - để biết rất hay. Bayer đang bào chế aspirin tinh thể để tan nhanh hơn trên lưỡi. Nó tan nhanh hơn nhiều so với thuốc viên.

Tại sao giữ Aspirin cạnh bạn? Đó là về cơn đau tim.

Có những triệu chứng khác của một cơn đau tim, bên cạnh nỗi đau trên cánh tay trái. Người ta cũng phải nhận thức được một cơn đau dữ dội trên cằm cũng như buồn nôn và tiết ra rất nhiều mồ hôi; Tuy nhiên, những triệu chứng này cũng có thể xảy ra ít thường xuyên hơn.

Lưu ư: Có thể KHÔNG có đau ngực trong một cơn đau tim.

Đa số người (khoảng 60%) có một cơn đau tim trong khi ngủ, họ đă không thức dậy. Tuy nhiên, nếu nó xảy ra, cơn đau ngực có thể đánh thức bạn từ một giấc ngủ sâu.

Nếu điều đó xảy ra, ngay lập tức bỏ hai viên aspirin vào miệng và nuốt với một chút nước.

Sau đó, - Gọi 911 - điện thoại cho một người hàng xóm hoặc một thân nhân sống rất gần - Nói "Tôi đau tim!" – và nói rằng bạn đă uống 2 viên aspirin.

Ngồi trên một chiếc ghế dựa hoặc ghế bành gần cửa trước và chờ họ đến và ... KHÔNG NẰM XUỐNG!

Hăy chuyển tiếp thông điệp này. Có thể cứu sống mạng người!

"Cuộc sống là món quà tặng một lần"



Dr Azhar Sheikh (Phạm Thị Cơi Sưu tầm, dịch)
vanhien.vn


Reply With Quote Reply With Quote .

--------------------------------------------------------------------------------

florida80
05-14-2019, 20:22
Sự thật khoảnh khắc cái chết dưới góc nh́n khoa học hiện đạ



Nhiều gen khác nhau vẫn hoạt hóa tại thời điểm con người tắt thở, một số gen tiếp tục chuyển đổi trong một thời gian dài sau khi chết, điều này thách thức khoa học hiện đại v́ không rơ lư do.



Cho dù là ai, nổi tiếng hay b́nh thường, cuối cùng vẫn chạm tay vào cái chết. Khoảnh khắc lúc chết diễn ra thế nào đang là đề tài được quan tâm. Dưới đây là một số trải nghiệm của con người trước khi bước sang thế giới bên kia vừa được khoa học hiện đại nghiên cứu, lư giải.


Cái chết là ǵ?

Khoa học nghiên cứu về cái chết đă trở thành một ngành riêng có tên, tử vong học (thanatology), xem chết hay cái chết là sự chấm dứt các hoạt động của một sinh vật hay ngừng vĩnh viễn mọi hoạt động sống của một cơ thể. Tuy nhiên, định nghĩa cho sự chết c̣n tùy thuộc vào các quan điểm tôn giáo, tín ngưỡng cũng như các lĩnh vực có liên quan.

Trong y học, chết là sự chấm dứt của mọi hoạt động sống như hô hấp, trao đổi chất, sự phân chia các tế bào... đều được chấm dứt vĩnh viễn. Người ta chia chết ra làm hai dạng là chết lâm sàng mà các phương pháp khám lâm sàng cho phép xác định là chết (như tim ngừng đập, ngừng thở, mất tri giác...); hai là chết thật, khi các mô không c̣n hoạt động được nữa và bắt đầu phân hủy.

Những ca tử vong phổ biến ở con người là bệnh tim, tiếp đến là đột quỵ, tai biến mạch máu năo, và thứ 3 là nhiễm trùng đường hô hấp dưới.

Trong xă hội loài người, bản chất của cái chết và sự nhận thức của con người về cái chết là các mối quan tâm diễn ra hàng thiên niên kỷ nay trong thế giới tôn giáo và triết học. Điều này bao gồm niềm tin vào sự sống tái sinh, hoặc ư thức cho rằng vĩnh viễn không c̣n tồn tại, được gọi là lăng quên theo chủ nghĩa vô thần.



Những người chết vào buổi sáng thường có đồng hồ sinh học khác hơn so với những người chết vào ban đêm


Khoảnh khắc khi con người chết có ǵ đặc biệt?

Gen vẫn c̣n sống?

Nhiều gen khác nhau vẫn hoạt hóa tại thời điểm con người tắt thở, một số gen tiếp tục chuyển đổi trong một thời gian dài sau khi chết, điều này thách thức khoa học hiện đại v́ không rơ lư do. Theo truyền thống, giả thiết các gen, giống như tế bào sẽ chết dần dần nhưng thực tế không hẳn như vậy.

Trong một sinh vật đă chết, một số gen trước đây không hoạt động được bật lên sau 24 giờ sau khi tắt thở và có thể “sống” tới nhiều ngày sau khi chết. Ví dụ, trong loài cá ngựa và chuột, các nhà khoa học quan sát thấy có hơn 500 gen kích hoạt đến 48 giờ sau khi con vật chết.

Do gen c̣n hoạt hóa nên “sự sống” sau cái chết của tế bào vẫn tồn tại. Với các tiến bộ của khoa học và công nghệ, nhiều công ty trên thế giới hy vọng một ngày nào đó con người có thể đảo ngược cái chết, cái chết có thể được tŕ hoăn.


Nhịp sinh học:

Các nhà nghiên cứu khám phá thấy rằng cơ thể con người trải qua chu tŕnh chết sinh học được lập tŕnh sẵn thông qua nhịp sinh học. Nhịp sinh học là đồng hồ sinh học điều chỉnh nhiều hoạt động trong cơ thể, chẳng hạn như giấc ngủ, kiểm soát tâm trạng, sự thèm ăn...

Theo nghiên cứu, những người chết vào buổi sáng thường có đồng hồ sinh học, thậm chí cả các thành phần của năo cũng khác so với những người chết vào ban đêm.


Qua nghiên cứu chuyên sâu, các nhà khoa học California, Mỹ, đă phát hiện thấy sự khác biệt trong năo bộ của những người chết đột ngột hay chết bất thường có nhịp sinh học năo khác biệt.

Thông thường, năo không thể “biết” được khi chúng ta sắp chết trong một tai nạn đột ngột, nhưng theo nghiên cứu th́ sự khác biệt chu kỳ của protein trong năo người đột tử giống như ở những người chết tự nhiên. Điều này có nghĩa, một số thay đổi của bộ năo là một phần của chu kỳ được thiết lập để thoát ra tại thời điểm khi con người tắt thở.


Chết sinh học:

Mặc dù “khoảnh khắc” của cái chết khá mơ hồ ngay cả trong bối cảnh lâm sàng, nó vượt ra ngoài cái chết của hành năo (brain stem), tức phần thần kinh trung ương tiếp nối với tủy sống, nằm ở phần thấp nhất của hộp sọ, ngay sát trên lỗ chẩm dài khoảng 28mm, v́ vậy, khi hành năo bị tổn thương, bệnh nhân sẽ tử vong. Ngay cả chủ thể không thể sống lại, th́ nhiều tế bào trong cơ thể vẫn c̣n sống nhưng vẫn được coi là tử vong.

Điều này đặt ra một số câu hỏi liên quan đến bản chất của vấn đề: Con người là ǵ? Ư thức có bị dập tắt hoặc vượt ra ngoài cơ thể sau khi chết hay không?... Khoa học hiện đại đang bị thách thức trước những câu hỏi dạng này, và vấn đề trên có thể sẽ tồn tại trong một thời gian rất dài nữa có câu trả lời đích thực.

Các nhà khoa học cũng lưu ư, cả hai vấn đề về thể chất lẫn tâm hồn đều thuộc về con người. Phần duy nhất mà chúng ta thực sự biết, đó là phần thể chất, c̣n phần linh hồn “bản ngă bên trong” có mất hay không đến nay chưa ai hay biết hoặc nó sẽ mất khi tế bào cuối cùng của cơ thể đă chết hay không?


Thời gian?

Những cá nhân đă trải nghiệm cận tử (NDE) thường cho biết thời gian có sự biến dạng cực độ. NDE là một trải nghiệm được kể lại bởi một người suưt chết hoặc đă bị chết lâm sàng và được cứu lại. Một số nhà khoa học tin rằng trải nghiệm này có thể được giải thích bằng các ảo giác do bộ năo đang chết dần tạo ra, NDE thường bao gồm cả sự thoát xác (OBE). Những cá nhân đă qua NDE giải thích hiện tượng trên thật huyền bí nhưng khoa học th́ lại cho rằng, thời gian dường như chậm lại để chuẩn bị cho giai đoạn dừng lại hoàn toàn.

Theo một số nghiên cứu về cận tử của giáo sư tâm thần học và khoa học thần kinh tại Đại học Virginia (Mỹ), Bruce Greyson, có tới 70% người tham gia đă trải qua một NDE, những người này cho biết thời gian luôn biến thiên, đặc biệt là đi chậm lại.

Các nghiên cứu quy mô lớn dài nhiều thập kỷ cũng đă ghi nhận hiện tượng tương tự, nó giúp củng cố cho giới tâm lư học và khoa học hiện đại. Hy vọng, tương lai sẽ có thêm nhiều nghiên cứu sâu hơn nữa về chủ đề trên, đặc biệt là ư thức và thời gian.



Theo những người cận tử, thời gian luôn biến dạng và đi chậm lại


Hành năo chết mới xem là chết thực sự:

Khác với niềm tin phổ biến, bộ năo không phải là bộ phận cuối cùng đi vào khoảnh khắc chết. Thông thường, sau một thời gian ngắn khi năo chết th́ cơ thể được coi là chết hẳn. Ở hầu hết các quốc gia, “cái chết năo” thường được định nghĩa là hành năo không c̣n hoạt động, bởi đây là bộ phận quan trọng kiểm soát mọi hoạt động của năo và các hệ thống quan trọng trong cơ thể.

Như trên đề cập, hành năo liên kết tủy sống (toàn bộ hệ thống thần kinh) với các phần của năo kiểm soát ư nghĩ và cảm xúc, như vỏ năo trước hoặc hippocampus. Điều này đă từng được đề cập trong phim ảnh, khi hành năo chết, toàn bộ cơ thể sẽ chết theo.

Về bản chất, cái chết hành năo là cái chết của cơ thể bởi hành năo kiểm soát mọi thứ, kể cả chức năng hô hấp. Hiện tại, cái chết của hành năo được xem là thời điểm cuối cùng của cái chết năo và là điểm chết hợp pháp tại mọi quốc gia. Khi tim ngừng đập, người ta ước tính năo có thể sống tối đa 6 phút. Ngay cả đối với một cơn đau tim hoặc chết đuối, nếu năo chết, cơ thể có thể sống trong vài phút.

Hoạt động trí năo và nhận thức:

Đây là một hiện tượng phản trực giác diễn ra tại thời điểm chết. Theo đó, khi cơ thể bị thiếu oxy ở cấp độ tế bào, hoạt động của năo thực sự lên tới đỉnh điểm. Mặc dù các bác sĩ không sử dụng các máy quét cộng hưởng từ chức năng (fMRI) đối với các bệnh nhân đang hấp hối , song nghiên cứu cho thấy bộ năo trở nên bối rối, sáng như màn pháo hoa tại thời điểm chết.

Thử nghiệm trên chuột cho thấy, khi tim chuột ngừng lại, năo phát triển mạnh ở tất cả các khu vực, nhất là nơi tạo ra ư thức. Quá tŕnh này khoa học vẫn chưa hiểu hết, nhiều người cho rằng nó tạo ra để phục vụ cho cái mà ta gọi là cận tử, đó là những cảm giác phi thường, ánh sáng, âm thanh, kư ức và những thứ lạ khác mà chỉ có những người gần đất xa trở” mới có được.

Thực tế th́ lúc này năo bộ đi vào hoạt động quá mức để tạo ra một nhận thức cao ở nhóm người trải nghiệm cận tử. Các nhà khoa học xem những trải nghiệm này này là kết quả của sự kích thích năo bộ khi chết.

Nếu chúng ta nh́n thấy một quang phổ, tức th́ ngay trước khi chết chúng ta là người sống động nhất về mặt kỹ thuật. Đó là một biến số kỳ quặc của số phận, khoảnh khắc cuối cùng của ư thức trước khi vô thức, đây cũng là thời điểm ư thức nhất mà chúng ta có thể có.




Theo KHĐS

florida80
05-14-2019, 20:23
Ngồi 1 tiếng giảm 22 phút tuổi thọ: Bạn nên rèn ngay 8 thói quen này để sống lâu hơn







Ngồi nhiều là một thói quen xấu có thể gây ra nhiều loại bệnh và cắt ngắn tuổi thọ. Nhưng chúng ta lại không thể giảm giờ ngồi. Đây là 8 thói quen có thể giúp bạn khắc phục.



Cứ ngồi 1 tiếng lại phải đổi 22 phút tuổi thọ của bạn

Chúng ta đều biết rất rơ rằng ngồi nhiều chính là một trong những yếu tố tạo nguy cơ vô cùng lớn đối với sức khỏe. Kể từ khi xuất hiện máy móc điện tử, con người đă tạo ra thói quen ngồi nhiều ít vận động, vừa là đặc thù công việc, vừa là một thói quen xấu nhưng không phải ai cũng muốn khắc phục.

Bạn có bao giờ tự đặt câu hỏi, ḿnh ngồi trên ghế bao lâu mỗi ngày? Với số lượng công việc và thói quen "lười" càng ngày càng tăng, nhiều người đă dành một nửa thời gian trong ngày để ngồi, thậm chí c̣n nhiều hơn.

Trong số đó, nhiều người sẽ nghĩ rằng "tập thể dục b́nh thường trong ngày chẳng được mấy, tốt nhất là sẽ tăng cường tập thể dục vào cuối tuần" vậy là họ c̣n không tập thể dục vào những ngày thường nữa.

Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy việc giảm thời gian ngồi lâu sẽ tốt hơn rất nhiều so với việc tăng cường tập thể dục. Đây là một quan niệm rất nguy hiểm.

V́ vậy, đối với những người thường xuyên ngồi nhiều, đặc biệt là nhân viên văn pḥng ít vận động, bạn có thể phát triển những thói quen tốt sau đây để giúp kéo dài cuộc sống.

Theo một nghiên cứu được thực hiện ở Thụy Sĩ, các nghiên cứu về người cao tuổi đă ngồi trong một thời gian dài đă phát hiện ra rằng việc giảm thời gian ngồi ít đi có thể tŕ hoăn sự lăo hóa nhiều hơn là tăng cường tập thể dục.

Trong các nghiên cứu này, mọi người được chia thành hai nhóm, nhóm tập thể dục thường xuyên và nhóm tập thể dục không thường xuyên, thời gian quan sát kéo dài sáu tháng.

Trong đó, các xét nghiệm máu được thực hiện để quan sát nhiễm sắc thể có liên quan mật thiết đến sự sống. Kết quả là, các nhà nghiên cứu đă phát hiện ra rằng có một nhóm nhiễm sắc thể của người thích tập thể dục trở nên ngắn hơn, cho thấy xu hướng rút ngắn tuổi thọ. Trong khi nhóm giảm thời gian ngồi thấy rằng nhiễm sắc thể trở nên dài hơn.

Điều này có nghĩa rằng, việc giảm thời gian ngồi quan trọng hơn là việc tăng cường tập thể dục. Ví dụ, nếu bạn đang ngồi mỗi ngày hơn 8 giờ, th́ bạn nên giảm số giờ ngồi, chứ không phải bạn vẫn tiếp tục ngồi hơn 8 giờ nhưng tăng cường tập thể dục để bù lại.


Tác dụng của tập thể dục khác biệt với tác hại của việc ngồi nhiều.




Đứng lên nhiều hơn là ch́a khóa để kéo dài cuộc sống

Người ta nói rằng mỗi lần bạn ngồi trong một giờ, bạn sẽ mất 22 phút của cuộc đời. Điều này là do các cơ co lại trong quá tŕnh ít vận động, và chức năng của các enzyme trong máu bị ức chế sau khi cơ co lại, và máu có xu hướng bị dính lại. Đó là một trong những nguyên nhân gây ra các bệnh như béo ph́ và tiểu đường.

Mặc dù vậy, nhân viên văn pḥng không thể đứng dậy mọi lúc mọi nơi được do tính chất công việc phải ngồi với máy tính, v́ vậy, làm chủ việc đứng lên và đi lại nhẹ nhàng khi làm việc chính là ch́a khóa giúp bạn khắc phục t́nh h́nh.

Các chuyên gia Nhật Bản khuyên nhân viên văn pḥng rời khỏi vị trí của họ để tập thể dục đơn giản cứ sau 30 phút, hoặc đi vệ sinh, hoặc nghỉ ngơi, hoặc tập thể dục nhịp điệu đơn giản, hoặc đứng dậy và làm việc trong một khoảng thời gian 30 phút một lần. Nó có thể làm giảm các vấn đề sức khỏe gây ra bởi ít vận động và hỗ trợ thúc đẩy lưu thông máu.






Một vài lời khuyên cho người ít vận động:

1. Đứng dậy để gọi điện thoại

Stewart Biddle, giáo sư tâm lư học thể thao đại học tại Loughborough, Vương quốc Anh, đề nghị rằng bạn hăy đứng lên khi gọi điện thoại hoặc trả lời điện thoại, hỗ trợ và chuyển trọng tâm cơ thể, từ đó có thể thúc đẩy lưu thông máu và tiêu thụ nhiều calo hơn.

2. Thực hiện vài động tác thể dục với bóng ngay tại bàn làm việc

Văn pḥng của Google Inc. và BMW tại Hoa Kỳ cho phép nhân viên sử dụng quả bóng thể dục làm ghế. Bởi v́ khi ngồi trên loại bóng này, cơ thể cần phải tiếp tục di chuyển để duy tŕ sự cân bằng, điều này có thể tránh được tác hại do ít vận động gây ra.




3. Đặt đệm trên ghế ngồi

Để loại bỏ chứng đau thắt lưng và đau xương sống do ngồi nhiều ít vận động gây ra, người Nhật thích đặt một chiếc đệm dày trên ghế để giúp phân bổ trọng lượng, đồng thời giảm ma sát của ghế trên ống nhĩ, hoặc đặt một chiếc đệm dày dưới bàn chân. Hăy để đôi chân vươn lên vừa phải.
4. Đặt đồng hồ báo thức bên cạnh để nhắc lịch

Nhân viên văn pḥng bận rộn hoặc người già chơi cờ, thường quên đi những vấn đề c̣n lại nên sẽ mải miết ngồi măi mà không đứng dậy. V́ thế, bạn có thể đặt đồng hồ báo thức nhỏ xung quanh hoặc sử dụng điện thoại để hẹn giờ, nhắc nhở bản thân đứng lên và đi lại mỗi giờ.
5. Co duỗi chân dưới bàn

Ngồi tḥ chân dưới bàn cả ngày, bạn nên tiện thể co duỗi các ngón chân, duỗi lưng hoặc nhấc chân ra một lúc. Duỗi các chi dưới của bạn là việc làm hữu ích nhất để ngăn ngừa chứng huyết khối tĩnh mạch. Người cao tuổi thường xuất hiện vấn đề tuần hoàn xấu ở các chi dưới, cách tốt hơn là thực hiện các bài tập nâng chân như vậy khi xem TV và đọc báo.





6. Thay một chiếc ghế phù hợp

Một phần lớn nguyên nhân khiến bạn có tư thế ngồi xấu là do chiếc ghế không phù hợp. Ngày nay, nhiều ghế văn pḥng được trang bị ḷ xo hoặc chức năng nâng hạ, không đủ ổn định, để các cơ bắp ở trạng thái rất căng sau khi ngồi dậy. Do đó, bạn nên sử dụng ghế phẳng và ổn định và có thể thư giăn được khi ngồi.


7. Chăm chỉ vận động như chiếc máy khâu

Nếu bạn không thể tránh được t́nh trạng ít vận động mỗi ngày v́ công việc, bạn có thể thực hiện một số chuyển động tại chỗ, chẳng hạn như chuyển động chân quy mô nhỏ giống như đạp trên máy may.

Nếu bạn có điều kiện, bạn có thể nâng cao chân của ḿnh đúng cách, và thỉnh thoảng vỗ nhẹ chân hoặc thực hiện một vài động tác massage đơn giản.
8. Luyện tập cơ vai, cổ và eo

Tập chống đẩy hoặc các động tác tập thể dục cho cơ vai và cơ cổ, để hai nhóm cơ này thường dễ siết hơn, từ đó có thể thư giăn hiệu quả. Tất nhiên, phụ nữ khó thực hiện bài tập chống đẩy hơn nam giới, và chị em có thể phù hợp hơn với bài tập tạ tay loại nhỏ.

Hăy tập cho ḿnh những thói quen tốt nếu bạn phải ngồi nhiều để làm việc. Đừng để khi mất đi sức khỏe rồi mới tiếc nuối là không thực hiện lời khuyên này sớm.



*Theo Health/39
Vân Hồng
ttvn



Reply With Quote Reply With Quote .

--------------------------------------------------------------------------------









Quick Navigation Y Học Top

florida80
05-14-2019, 20:24
Dừng ngay 8 thói quen "độc hại" này nếu bạn không muốn cơ thể già đi mỗi ngày khi tuổi vẫn c̣n "thanh niên"









Để sở hữu một cơ thể khỏe mạnh, trẻ trung hăy loại bỏ những thói quen sai lầm mà nhiều người đang mắc phải mỗi ngày.



1. Thức khuya

Giấc ngủ có tác dụng làm đẹp là điều đă được khoa học chứng minh. Các nhà khoa học của đại học Y Western Reserve đă nghiên cứu thông tin về lối sống của 60 phụ nữ trong độ tuổi 30 - 49. Một nửa số đó thường xuyên mất ngủ, chất lượng giấc ngủ kém. Những người phụ nữ thiếu ngủ thường có dấu hiệu lăo hóa da nhiều hơn như nhiều nếp nhăn, sắc tố da không đều, da chùng và giảm độ đàn hồi.
2. Lười hoạt động suốt cả ngày






Trong nghiên cứu lớn nhất về mức độ lăo hóa sức khỏe tại Úc, các nhà nghiên cứu phân tích hành vi, lối sống của hơn 230.000 người tham gia. Họ kết luận rằng ngủ quá nhiều (hơn 9 giờ/đêm), ngồi quá nhiều (hơn 7 giờ/ngày, ít tập thể dục (ít hơn 150 phút/tuần) có thể làm tăng nguy cơ tử vong sớm tới 14 lần và tất nhiên khiến cơ thể bị lăo hóa nhanh hơn.

Nghiên cứu cho thấy, chúng ta thực sự nên xem xét và điều chỉnh các thói quen sống này một cách nghiêm túc, cũng giống như hạn chế các nguy cơ bệnh tật do ăn uống không lành mạnh để bảo vệ sức khỏe.

3. Suy nghĩ già trước tuổi

Điều khiến bạn lăo hóa nhanh nhất chính là suy nghĩ, cảm giác chính bản thân đang giá đi. Khi chúng ta cảm thấy trẻ trung, chúng ta sẽ nhiều hy vọng và hoạt động tích cực hơn. Nhờ đó, chúng ta tiếp cận được những điều tích cực hơn trong cuộc sống.

Một nghiên cứu về sức khỏe tâm lư năm 2016 kết luận rằng, những người cảm thấy già nua hơn tuổi tác thật của họ thường mắc nhiều bệnh tật và phải đi bệnh viện nhiều hơn. V́ thế, càng cảm thấy trẻ trung tích cực bạn càng ǵn giữ được tuổi thanh xuân lâu hơn.

4. Không bao giờ thiền định

Làm dịu tâm trí cũng có tác dụng chống lăo hóa hiệu quả. Các chuyên gia nghiên cứu từ Trung tâm UCLA Brain Mapping t́m ra rằng, những người thường xuyên thiền định có khối lượng chất xám trong năo nhiều hơn. Đây là vùng năo chịu trách nhiệm về trí nhớ, cảm xúc, nghe, nh́n, nói và sự quyết đoán.

Nghiên cứu trước đó cũng chỉ ra rằng, những người có thói quen thiền định có sự kết nối giữa các bộ phận trong năo tốt hơn, ít nguy cơ bị sa sút trí tuệ sớm.
5. Cho rằng cuộc đời đă thôi tươi đẹp

Giả tưởng rằng những năm tháng tốt đẹp nhất cuộc sống của bạn đă chấm dứt là một suy nghĩ độc hại. Nó sẽ vô t́nh trở thành một lời tiên tri và "điều khiển" bạn biến nó trở thành hiện thực.

Nếu bạn vẫn luôn suy nghĩ như vậy, bạn sẽ t́m ra những lư do khiến suy nghĩ đó trở thành hiện thực. Đừng để sự tiêu cực dẫn dắt cuộc sống của bạn. Hăy chấp nhận những thử thách của cuộc sống và chống lại những điều tưởng là định mệnh này.

6. Ngồi làm việc với tư thế xấu





Tất cả mọi thứ trên bàn làm việc của bạn từ bàn phím, màn h́nh máy tính, thói quen ngồi đều có thể dần dần thay đổi cơ thể của bạn, làm căng cơ, gây ra đau lưng, cổ, vai gáy hoặc hông.

Tư thế ngồi xấu có thể khiến cột sống bị lệch khỏi sự liên kết b́nh thường, dẫn đến các cơ đĩa xương bị đau nhức. Thậm chí, gây ra các hậu quả nghiêm trọng mà nhiều người phải chịu đựng cho tới khi về già.


7. Giữ những mối hận thù

Tất cả những cay đắng và thất vọng dồn nén có thể khiến tuổi thọ của bạn bị giảm đi nhiều. Theo giáo sư Karn Swartz, trung tâm nghiên cứu tâm trạng và hành vi, việc bị tổn thương về tinh thần, thất vọng kéo dài tạo ra gánh nặng về thể chất rất lớn. Trên thực tế, một nghiên cứu chỉ ra rằng, những người khó khăn trong việc tha thứ cho lỗi lầm của người khác có khả năng chết sớm hơn những người có ḷng vị tha.

Ngoài ra, ôm mối hận thù cũng có thể làm tăng huyết áp, nhịp tim, thậm chí dẫn đến trầm cảm. Hăy cho qua mọi thứ, tâm trí và cơ thể sẽ cảm ơn bạn.
8. Không kiểm soát mức độ căng thẳng





Sự căng thẳng khiến bạn phát ốm và lăo hóa cả về thể chất và tinh thần theo nghĩa đen. Một nghiên cứu năm 2012 cho thấy, căng thẳng liên quan đến công việc có tác động tiêu cực tới ADN của bạn.

Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng, những người Phần Lan bị căng thẳng do công việc có các telomere ngắn hơn, dẫn tới các đoạn ADN khi phân chia có thể khiến các thế bào bị tổn thương hoặc chết. Thực tế, các telomere hao ṃn theo thời gian, nhưng có thể sự lo lắng và căng thẳng sẽ khiến chúng trở nên nghiêm trọng hơn. Đó là cách mà sự căng thẳng khiến cơ thể bạn lăo hóa nhanh hơn.

Chính v́ vậy, h́nh thành các thói quen tập thể dục, tập yoga, đọc sách để giải tỏa stress là cách hữu hiệu làm dịu tâm trí của bạn trước sự hối hả của cuộc sống thường ngày. Đây là lời khuyên chống lăo hóa mà chắc chắn bạn không nên bỏ qua.

theo RD
ttvn



Reply With Quote Reply With Quote .

--------------------------------------------------------------------------------









Quick Navigation Y Học Top

florida80
05-14-2019, 20:25
Khi nào ăn trái cây sẽ thành "thần dược" và khi nào thành "độc dược"?



Mọi người đều biết nếu thường xuyên ăn hoa quả sẽ rất tốt cho sức khỏe. Nhưng khi nào nên ăn và ăn loại quả nào để thu được hiệu quả tốt nhất th́ chưa hẳn mọi người đều rơ.




Theo các chuyên gia dinh dưỡng, nên ăn trái cây khi bụng rỗng. Nếu ăn theo cách này, trái cây sẽ đóng vai tṛ quan trọng trong việc làm sạch cơ thể, cho các bạn nguồn năng lượng để chữa béo ph́ và những hoạt động khác.




Ăn trái cây vẫn tốt hơn là uống nước trái cây

Ngoài ra, ăn hoa quả lúc bụng đang rỗng cũng có được những lợi ích sau đây:


- Bạn sẽ nhận được năng lượng tức th́.


- Các chất chống oxy hóa trong trái cây sẽ hoạt động hiệu quả hơn bên trong cơ thể bạn, nó được hấp thụ dễ dàng hơn khi dạ dày trống.


- Vitamin và khoáng chất sẽ được hấp thụ tốt hơn.


Tuy nhiên, bạn cần lưu ư rằng, khi cần uống nước trái cây - hăy uống nước trái cây tươi, không uống từ đồ hộp. Ngoài ra, không uống nước trái cây đă nấu ấm và không ăn trái cây đă nấu chín, bởi v́ chúng ta sẽ không có những chất dinh dưỡng, mà chỉ thưởng thức hương vị của trái cây. Nấu chín làm mất tất cả sinh tố.


Bên cạnh đó, bạn cần biết ăn trái cây vẫn tốt hơn là uống nước trái cây. Nếu chúng ta phải uống nước trái cây, chúng ta nên uống từng ngụm, từ từ, bởi v́ cần để nước trái cây ḥa tan với nước bọt trước khi nuốt xuống.






Thời điểm không nên ăn trái cây

Khoa học nhận định không nên ăn trái cây ngay trước hoặc sau bữa ăn, hoặc ngay trước khi đi ngủ.

V́:

Ngay trước và sau bữa ăn

Nếu là người ngay lập tức ăn trái cây trước và sau bữa ăn, bạn nên dừng lại ngay bây giờ. Việc ngay lập tức ăn một bữa ăn trái cây sẽ không giúp cơ thể tiêu hóa đúng cách và do đó không thể hấp thụ tất cả các chất dinh dưỡng thiết yếu. Nên có một khoảng cách thời gian nhất định khi bạn ăn trái cây là 1 giờ trước bữa ăn và 2 giờ sau bữa ăn.





Trước khi đi ngủ

Ăn trái cây trước khi đi ngủ là thời điểm tồi tệ nhất v́ làm tăng lượng đường trong máu và insulin trong cơ thể sẽ làm gián đoạn giấc ngủ của bạn vào ban đêm, giảm năng lượng khi cần thiết.


Ăn trái cây trong bữa ăn

Không nên ăn trái cây với bữa ăn v́ có thể làm chậm quá tŕnh tiêu hóa. Nếu bạn ăn trái cây với các loại thực phẩm khác, trái cây sẽ ở lại lâu hơn b́nh thường và bắt đầu lên men trong cơ thể. Điều này có thể gây khó tiêu cũng như các vấn đề tiêu hóa khác.





Theo Châu Anh

(Gia đ́nh & Xă hội)

florida80
05-15-2019, 19:05
Có Chăng Món Ăn Kích Dục - BS Nguyễn Ý Đức









Ham muốn t́nh dục là một cảm xúc đặc biệt không thể thiếu trong t́nh yêu nam nữ. Các tác nhân đó có thể là các món ăn, nước uống, hóa chất hoặc dược phẩm.




Vấn đề muôn thuở

T́m kiếm phương thức hoặc chất kích dục không phải là việc làm mới đây. Nó đă là điều mong muốn của con người từ thuở xa xưa và sẽ tiếp tục dài dài, chẳng khác chi người ta t́m thuốc trường sinh bất tử.




Các tác nhân này có thể là một hương thơm, dáng đẹp, vẻ tươi mát hoặc rượu, hóa chất, thuốc kích thích, một số thực phẩm. Trong nhiều trường hợp, các chất được truyền tụng không phải v́ thành phần hóa học mà do h́nh thù “giống” như cơ quan sinh dục nam nữ.

Ư niệm “giống như” này không phải là vô căn cứ. Nó bắt nguồn từ “Niềm tin kư hiệu” - Doctrine of signatures được danh y dược thảo Hy Lạp -Paracelsus nêu ra từ thế kỷ thứ 16. Theo thuyết này, khi tạo ra sự vật, Thượng đế đánh dấu bằng một kư hiệu với mục đích riêng. Do đó h́nh dạng, màu sắc, hương vị của mỗi thảo mộc đều có thể dùng để trị bệnh. Một lá cây h́nh dạng giống như lá gan có công dụng chữa bệnh gan. Ṣ huyết gợi h́nh cơ quan sinh dục nữ cho là có tác dụng tốt về tính dục.




Người Việt Nam thường có quan niệm “ăn ǵ, bổ nấy”. Cho nên mới có “tam tinh hải cẩu bổ thận hoàn” với lộc nhung, hải mă, đảng sâm, đỗ trọng, tinh hoàn dê, ḅ rừng hầm thuốc bắc… Các triều đại vua chúa Việt Nam, Trung Hoa đă có những bài thuốc “nhất dạ lục giao”, những món ăn cung đ́nh ích dục.




Một số món ăn thông dụng

Nấm đất

Người giàu tưởng tượng thích ăn nấm v́ vẻ tương tự bề ngoài giữa nấm với cơ quan sinh dục nam. Nhà chuyên môn về cây thuốc nổi danh của Anh (1616 - 1654) Nicolas Culpepper viết rằng, nấm khơi động ḷng ham muốn nhục dục của nam cũng như nữ. Trong khi đó th́ tại Pháp, vào thế kỷ 19, thực phẩm đêm tân hôn của chú rể bao gồm nhiều ngọn nấm rất gợi t́nh.

Về khía cạnh dinh dưỡng, nấm có nhiều kali, sinh tố B6, B1, E, folic acid, chất xơ… Vitamin E được coi như cần thiết cho sự sản xuất hormone nam, tăng sức mạnh t́nh dục.




Chuối

Cũng có h́nh dạng giống như cơ quan sinh dục nam, chuối được coi như món ăn kích dục khá phổ thông. Thực tế chuối có nhiều kali, magiê, vitamin B6 là những chất cần thiết cho việc sản xuất kích thích tố nam. Chuối cũng chứa enzyme bromeliad mà nhiều người cho là có tính cách khích lệ dục tính nam.




Hạt hạnh nhân

Mùi thơm có tính cách khêu gợi, mời chào của hạt hạnh nhân được nhiều phụ nữ ưa thích.

Từ thuở xa xưa, hạt hạnh nhân được ví như biểu tượng của sự màu mỡ sinh sản. Hạnh nhân lại có nhiều vitamin E, magiê.




Sô-cô-la

Vào ngày Lễ t́nh yêu, số lượng sôcô- la bán ra nhiều gấp bội so với những ngày khác trong năm. Người ta tặng nhau sô-cô-la khi cho và nhận t́nh yêu cũng như trong dịp sinh nhật, lễ hội. Để nói là “Tôi yêu bạn”.




Có nghiên cứu nói là sô-cô-la chứa hóa chất phenylethylamine có tác dụng hưng phấn, tương tự chất “yêu đời” endorphins có tự nhiên trong cơ thể. Lại c̣n hóa chất theobromine ảnh hưởng lên sự dẫn truyền tín hiệu thần kinh, tương tự chất kích thích caffeine. Sô-cô-la cũng nhiều antioxidant hơn là trong rượu vang mà nhiều người tin tưởng cho là vũ khí lợi hại giúp ước t́nh lên cao.




Cà phê

Nói tới sô-cô-la th́ cũng không nên quên cà phê, một chất vẫn được cho là có tác dụng kích thích thần kinh năo, khiến con người tỉnh táo. Chẳng thế mà hầu hết các loại nước giải khát trên thị trường đều có ít nhiều caffein.

Tuy nhiên cũng nên lưu ư là, dùng ít th́ caffein kích thích nhưng uống nhiều th́ lại có tác dụng ngược lại.




Ṣ tươi

Ṣ đă được dân Hy Lạp xưa coi như thức ăn kích dục. H́nh dáng con ṣ há miệng cũng khiến nhiều người liên tưởng tới cơ quan sinh dục phụ nữ.




Có nghiên cứu cho hay ṣ chứa nhiều chất kẽm, cần thiết cho việc sản xuất kích thích tố nam. Ṣ cũng có chất mucopysaccharride, tăng sản xuất tinh dịch. Ṣ tươi nên uống với một ly champagne thật lạnh để thêm phần lăng mạn lứa đôi. Nhưng cũng nên cẩn thận v́ ṣ chứa vi khuẩn vibrio có thể gây ảnh hưởng xấu cho sức khỏe.




Mật ong

Những cặp vợ chồng mới cưới đều đưa nhau qua một thời gian gọi là “trăng mật” - Honeymoon.

Mật ong có khoáng boron giúp cơ thể sử dụng và chuyển hóa hormon nữ estrogen. Mật cũng có nhiều vitamin B và các chất dinh dưỡng khác.




Tỏi

Từ nhiều ngàn năm, người Trung Hoa đă hiểu rơ giá trị dinh dưỡng của tỏi sống.

Ngoài công dụng như gia vị, tỏi tăng cường hệ miễn dịch, tiêu diệt vi khuẩn, tiêu hóa thực phẩm, một kháng sinh mạnh và chất kích dục tốt.

Chất allicin của tỏi có tác dụng tăng lưu hành máu trong huyết quản. Mà sự cương dương là do sự tụ nhiều máu vào bộ phận sinh dục nam.




Ư kiến các nhà nghiên cứu

Theo GS. Robert Shmerling, Đại học Y Harvard, “khi không có bằng chứng và không có khả năng xác định chất kích thích th́ cũng khó mà phủ nhận”. Theo ông, các món ăn như: trứng cá muối, nấm đất, ốc sên và một số thực phẩm khác được coi như hỗ trợ t́nh yêu chỉ v́ sự hiếm hoi và giá tiền quá cao của chúng.




Trái ớt với tin tưởng có khả năng kích dục v́ h́nh dáng cũng như vị cay cay th́ cuốn “The Chilli Pepper Encyclopedia” của DeWitt có ư kiến là không có tác dụng kích thích dục tính, dù là về h́nh thức cũng như cấu trúc. Tuy nhiên, ớt có tác dụng giảm đau nhờ chất capsaicin và tăng tiết dịch vị bao tử.




Nhà sành ăn người Pháp Jean Anthelme Brillat - Savarin, trong tác phẩm “The Physiology of Taste” viết về nấm đất như sau: “Nấm đất không phải là món ăn kích dục thực sự, nhưng trong một số hoàn cảnh, nấm đất có thể làm cho phụ nữ trở nên âu yếm hơn và nam giới đáng yêu hơn”.




Cynthia Finley, nhà tiết chế dinh dưỡng tại Đại học Harvard quả quyết rằng, chưa có một bằng chứng cụ thể nào chứng minh các thực phẩm đó tác động như chất kích dục. Món ăn t́nh yêu chỉ là huyền thoại. Theo chuyên viên này, phương thức hữu hiệu nhất là vận động cơ thể và ăn uống đầy đủ.




Như vậy, để có đời sống t́nh dục tốt đẹp, mọi người nên:

- Dinh dưỡng đầy đủ với nhiều loại thực phẩm khác nhau.

- Có đời sống tinh thần thanh thoát, thoải mái.

- Có sự thương yêu chân t́nh với nhau.

- Có sự nâng niu, sẵn sàng hỗ trợ, tạo điều kiện cho nhau trong hoạt động yêu đương.

- Áp dụng một chương tŕnh vận động cơ thể đều đặn.

Suy dinh dưỡng, trầm cảm cũng là yếu tố giảm ước muốn và khả năng hoạt động t́nh dục rất nhiều. Mà sau một bữa ăn thịnh soạn, cơ thể quá mập, khả năng “pḥng the” cũng “x́u x́u, ểnh ểnh”, kém ngoạn mục đấy. Và nếu có rối loạn cương dương, giảm ước muốn t́nh dục th́ nên đi bác sĩ để t́m hiểu nguyên nhân rồi điều trị.


https://i.imgur.com/ej22Ype.jpg


BS. Nguyễn Ư Đức

florida80
05-15-2019, 19:07
Hăy Cẩn Thận Khi Thấy Tay Bạn Có Dấu Hiệu Này









Đó có thể là dấu hiệu cho thấy cơ thể của bạn cần được bổ sung nước ngay lập tức.

Hăy thử quan sát khu vực khớp xương bàn tay của bạn, xem vùng da tại khu vực này có giống như ảnh dưới không nhé.


Nếu có, nhiều khả năng bạn đang rơi vào một t́nh trạng tương đối bất thường trong xă hội hiện đại: đó là mất nước.

Như đă biết, cơ thể chúng ta có đến trên 75% là nước và chỉ cần thiếu đi 3% - 4% số này là cơ thể đă bắt đầu xuất hiện một số dấu hiệu - triệu chứng đầu tiên của việc thiếu nước đó là gây khô da.

Tuy nhiên khi lượng nước trong cơ thể giảm đi 5% - 8% sẽ dẫn đến một số hậu quả khác. Hăy xem đó là ǵ.




1. Đau đầu, chóng mặt

Cơ thể thiếu nước, đồng nghĩa với việc ḍng máu trong cơ thể lưu thông không được tốt, khiến huyết áp giảm đi.




Và khi lượng máu di chuyển đến năo và các khu vực thần kinh giảm sút, những nơi này sẽ hoạt động kém hiệu quả, suy giảm chức năng, và dấu hiệu rơ ràng nhất thường là hoa mắt, chóng mặt.




2. Thường xuyên buồn ngủ

Huyết áp thấp không chỉ gây hoa mắt, chóng mặt, nó c̣n khiến bạn cảm thấy mệt mỏi, buồn ngủ, thậm chí... ngất bất chợt.




3. Chuột rút

Khi cơ thể thiếu nước, thân nhiệt của bạn sẽ tăng lên. Và thân nhiệt càng nóng, khả năng chuột rút càng cao.




Tại sao ư? Đó là v́ khi thân nhiệt cao sẽ gây thay đổi về các thành phần của cơ bắp: chất điện giải, muối natri và kali. Đồng thời, sự mất cân bằng về chất lỏng bên trong cơ thể sẽ làm tăng sự kích thích đến dây thần kinh trong cơ bắp, và khiến cơ tự động bóp nghẹt, gây chuột rút.




4. Táo bón

Ác mộng chốn... WC gần như là một trong những dấu hiệu chắc chắn sẽ xảy ra nếu cơ thể bạn mất nước.




Nước trong cơ thể sẽ được hấp thụ bởi ruột, qua đó giúp phân mềm, ướt át và dễ di chuyển hơn. Khi không đủ nước, tất nhiên phân sẽ trở nên khô cứng, khiến chúng ta khó ḷng... đi cầu.

Táo bón không những khiến chúng ta không thoải mái, mà c̣n có thể gây một số bệnh như trĩ hoặc viêm ruột thừa. Theo viện Y tế quốc gia Mỹ, trĩ sẽ gây nhiều bất tiện và đau đớn trong cuộc sống hàng ngày, c̣n viêm ruột thừa nếu không được chữa trị kịp thời có thể khiến bạn tử vong.




5. Hôi miệng

Thậm chí là rất hôi, v́ theo John Higgins - giáo sư y khoa thuộc ĐH Texas (Mỹ), nước bọt chúng ta có chứa các enzyme và acid kháng khuẩn




Khi không có đủ nước, cơ thể sẽ không sản xuất đủ lượng nước bọt cần thiết, khiến miệng của bạn ngập tràn vi khuẩn, góp phần đẩy nhanh quá tŕnh phân hủy thực phẩm c̣n sót lại sau quá tŕnh ăn uống. Và miệng của bạn sẽ có một mùi hương không được dễ chịu cho lắm.




6. Tăng cân

Có một sự thật khá... trái ngang, đó là khi cơ thể thiếu nước, bạn sẽ luôn thèm ăn, đặc biệt là đồ ngọt.





Theo các chuyên gia th́ khi thiếu nước, các cơ quan dinh dưỡng như gan sẽ hoạt động khó khăn hơn, v́ chúng sử dụng nước để giải phóng glycogen giúp bạn lưu trữ năng lượng. Và khi bạn thiếu năng lượng, năo bộ sẽ kích hoạt chế độ thèm ăn, khiến bạn ăn không ḱm hăm.



https://i.imgur.com/dLJhjIM.jpg

Nguồn: Diply, Mayo Clinic

Theo J / Trí Thức Trẻ

florida80
05-15-2019, 19:10
Ăn Thông Minh, Chết Mạnh Khỏe - Nguyễn Thị Cỏ May


https://i.imgur.com/gC1Lpa7.jpg






Ăn cũng chết, không ăn cũng chết . Ngày nay, thế giới văn minh vẫn c̣n t́nh trạng thiếu ăn rất phổ biến . Chính sự thiếu đói là nguyên nhân gây ra 45% cái chết của trẻ con dưới 5 tuổi hằng năm, tức 3, 1 triêu đứa trẻ . Nhưng ăn nhiều, ăn những thức ăn thừa chất dinh dưỡng cần thiết, lại c̣n chứa những mầm bịnh tật cũng gây tử vong không ít . Hiện nay các cơ quan lo về sức khỏe người dân đang báo động mối nguy v́ ăn .




Trong bài trước “Đũa và Dao”, Cỏ May mô tả t́nh h́nh dân chúng ở Huê kỳ mắc những chứng bịnh hiểm nghèo do thói quen ăn uống bị ảnh hưởng thị trường, không thể chọn lựa hoặc không biết chọn lựa khác hơn (Forks over knives, phần phụ đề pháp ngữ ; 3 tạp chí Le Nouvel Obs, Marianne, Le Point) .




Bịnh tật và tử vong nghiêm trọng không riêng ǵ ở Huê kỳ v́ Huê kỳ là quê hương của những thức ăn nhanh, chế b́ến sẵn hàng loạt, mà cả ở Âu châu như ở Hi-lạp, nước bị khủng hoảng kinh tế nặng nề hay ở nước cộng sản chậm tiến như Việt nam . V́ thế giới không c̣n biên giới và kinh tế được toàn cầu hóa .




Nạn nhân của ” ăn thiếu thông minh ” là sự béo ph́ . Năm rồi, 2014, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OCDE) công bố một báo cáo về t́nh trạng sức khỏe dân chúng Âu châu theo đó, Hi-lạp là nước dẫn đầu 33 nước của Âu châu về trẻ con béo ph́ . Cứ 4 trẻ con trên 10, tức 44% từ 4 tới 16 tuổi bị bịnh béo ph́ do tập quán ăn uống .

Điều nghịch lư ngày nay là các cơ quan y tế kêu gọi hăy ăn ít để sống khỏe và sống lâu . Ăn cho no càng là chết sớm!




Trước kia, người gầy là người bịnh hoạn, thiếu ăn v́ nghèo . Người mập mạp mới là người dư ăn dư để . Ngày nay, người mập ph́ là người nghèo v́ ăn những thức ăn chế biến sẵn của kỹ nghệ thực phẩm . Ở Tàu và Việt nam, người ta quan niệm đứa trẻ mập mới đẹp và biểu hiện từng lớp có tiền nên ở hai xứ cộng sản này bắt đầu xuất hiện bịnh béo ph́ ở trẻ con trong lúc đó ở Huê kỳ, tỷ lệ trẻ con béo ph́ đă ổn định và giảm từ vài năm nay, chỉ c̣n ở một số tiểu bang, người lớn da đen và mễ, bị béo ph́ chiếm trên 44%, da trắng hơn 33% .




V́ tiền

Trước đây, để sản xuất 100 đơn vị thành phẩm, người ta phải cần 1000 đơn vị vật liệu để sản phẩm được bảo đảm phẩm chất. Trái lại ngày nay, muốn có 1000 đơn vị thành phẩm, người ta tính toán thế nào để chỉ cần 100 đơn vị vật liệu mà thôi . Số lượng lớn mới đem lại lợi nhuận cao . Do đó, sản phẩm thiếu phẩm chất, về thực phẩm, chẳng những gây nguy hại cho sức khỏe con người mà c̣n làm thiệt hại môi trường, từ qui mô địa phương tới qui mô toàn cầu .




Cách sản xưất thực phẩm hàng loạt nhằm đạt chỉ tiêu số lượng, bắt đầu từ Huê kỳ, Âu châu đi theo . Ngày nay th́ Minnesota qua Picardie, Pháp, về mặt kỷ nghệ thực phẩm, cung cách sản xuất gần như không c̣n biên giới, ngoại trừ tầm vóc xí ngh́ệp .




Theo những nhà chuyên môn, kỹ nghệ chế biến thực phẩm ăn nhanh hàng loạt có mầm độc hại cho sức khỏe người tiêu dùng được nuôi sống, lớn mạnh trên những thứ mà chính nó tiêu d́ệt . Thử nh́n qua trường hợp thức ăn chơi hằng ngày để thấy họ làm giàu bằng cách gây ra bịnh tật : nhà phân phối làm giàu nhờ buôn bán, nhà kỹ nghệ dược phẩm giàu nhờ bán thuốc chữa bịnh, nhà ngân hàng giàu nhờ quản lư hằng tỷ bạc của những người này .

Y sĩ và Dược sĩ nói với nhà kỷ nghệ fast-food « Nếu bạn đừng thay đổi gỉ cả th́ bạn cứ tiếp tục gởi tới chúng tôi khách hàng của bạn » .

Ăn uống nguy hại ngày nay bắt nguồn từ những chuyển biến lớn trong kỹ nghệ và xă hội ở hậu bán thế kỷ XX mà nguyên tắc chỉ đạo vẫn c̣n được áp dụng triệt để là « sự sản xuất, sự nhanh chống, mức lợi nhuận » . Áp dụng vào thực tế, ở khắp nơi, người ta phải sản xuất mau và rẻ để dân chúng ăn nhiều . Con người từ nay không c̣n « ăn để sống » cho ḿnh nữa mà « sống để ăn » để làm giàu cho giới kỹ nghệ thực phẩm . Chính khẩu hiệu « sản xuất, nhanh, lợi » đă tự nhiên biến đồng áng trở thành những xí nghiệp mà nhà nông trở thành nạn nhân . Đồng thời, nhiều thanh niên bỏ ruộng vườn, đi ra thành phố làm công lảnh lương để cải thiện đời sống bản thân .




Sau cùng khẩu hiệu « cạnh tranh hay chết » đưa một số kỹ nghệ gia và thương gia trở thành những người chỉ c̣n biết lợi nhuận, bỏ mất hẳn tinh thần « trao đổi tự do », tái lập một thứ tư bản nhà nước độc quyền trọn vẹn thị trường và sản xuất . Nói cách khác, đó không ǵ khác hơn chế độ cộng sản nhưng trên cơ sở sở hữu tư nhân .




Những chất độc bạn ta

Ai cũng biết « ăn cũng chết, không ăn cũng chết » . Nhưng nếu ăn uống kỹ lưỡng, biết cẩn thận chọn lựa thức ăn th́ giữ ǵn được sức khỏe tốt, tránh được đau yếu, bịnh tật triền miên . Muốn vậy, những thứ độc hại quen thuộc nay cần được nhận diện .




Đường

Trong việc lựa chọn tránh những thứ độc hại, trước mắt nên tránh ăn nhiều đường . Trong nhiều thức ăn, uống chế biến sẵn, có lượng đường rất cao . Ai có nghĩ món súp tươi rau cải ( légumes) trong hộp 1 lít có ít nhứt 1 cục đường, muối nhiều hơn, trong lúc đó, thứ chủ yếu là rau cải (légumes) lai chỉ có không quá 20% v́ phần c̣n lại là những thứ phụ như mùi vị nhơn tạo, bột, nước, … Một chai Coca Cola chứa lượng chất ngọt bằng 25 cục đường . Thậm chí, sốt tô-mát ( sauce tomate) như ketchup cũng có đường (23 grs /100 grs), hay cá ṃi hộp, các loại sá-lách sẵn sàng để ăn vô hộp, …Bánh kẹo, những thỏi ngũ cốc chứa nhiều đường là dĩ nhiên v́ đó là những thứ ngọt .




Muối

Trong các thứ chế biến sẳn, từ những thứ tươi cho tới đồ hộp hay chín như thịt nguội, …, đều có rất nhiều muối . Người ta dùng nhiều muối để tạo cho những thứ này có « vị » ( goût) vừa làm mất đi cái cảm giác dở ở khách hàng .




Khi ăn tại chỗ, khách hàng ăn mặn sẽ phải uống nhiều nước . Cửa hàng nhờ đó thâu thêm món lợi . Theo qui định của Y Tế Quốc tế (OMS), mỗi ngày, mỗi người không được ăn quá 5 g muối . Khi ta ăn một gói khoai tây chiên (frite) của Mc Do hay một gói Chip, ít ai ngờ ḿnh đă ăn gần đủ số muối trong ngày cho phép. Dân Tây sực mỗi người ngày từ 8 tới 9 grs muối mà không hế để ư tới. Ở xứ Tây, số lượng muối trong thực phẩm chế biến sẵn chưa bắt buộc phải ghi ra trên bao b́ . Năm tới, 2016, sẽ bắt buộc . Nay, người ta chỉ ghi « sodium » mà 1 gr sodium bằng 2, 5 grs muối !




Dầu Cây cọ ( Huile de Palme )

Đây là thứ dầu được kỹ nghệ thực phẩm dùng nhiều nhứt v́ giá rẻ nhờ dể sản xuất . Nó ít mùi vị hơn các thứ dầu khác . Khi ta ăn chocolat, chip, margarine, nhiều loại bánh nướng, cả bánh ḿ, bánh ngọt, cả mayonnaise, …là ăn thứ dầu này . Trong dầu Cây cọ, chất acide chứa nhiều acide béo bảo ḥa làm tăng cholestérol xấu trong máu, hạ thấp cholestérol tốt, và gây ra bịnh tiểu đường .




Người ta cho hydrogène vào dầu thảo mộc như dầu bắp, dầu cây cọ, …để làm cho các loại nướng thêm ḍn nhưng lại là mầm làm nghẽn mạch máu, làm tim bịnh và c̣n là mầm móng ung thư . Hiện nay, ở Pháp, dầu cây cọ dùng rất hạn chế.




Các thức ăn có nhiều bột chiên hay làm chín ở độ nóng trên 120°c được xem là mầm mống trực tiếp gây ung thư . Các loại này rất phổ biến, bày bán khắp nơi, cả trong các máy tự động : bánh bít-qui, frites, crackers , nugets, chips, café, …Cẩn thận là không ăn nhiều, thường xuyên .




Thịt « VSM »

Thứ thịt này, ít có ai nghĩ tới . Đó là thịt người ta cố lấy cho hết sạch, đưa vào máy gọt để lấy cho được những miếng thịt cuối cùng c̣n bám sát theo xương . Trong quá tŕnh này, máy cạo luôn gân, sụng, tủy . Thứ thịt này rẻ tiền nên đem làm súc-xít, ravioli ( như hoành thánh của Ư), …Đó là mầm truyền nhiễm bịnh điên từ súc vật như ḅ điên . Ngoài bao b́, bắt buộc phải ghi rơ « thịt vsm » ( viande séparée mécaniquement = thịt tách ra bằng máy) .

Sau cùng những chất độc là những hoá chất đưa vào thức ăn chế biến sẵn như màu, chất bảo quản, …




Sự thật và ngộ nhận

Uống nưóc từ ṿi nước trong nhà . Tức uống nước phong-tên . Nhưng từ lâu nay, người ta chọn uống nước chai như Evian, Vichy, Vittel, …v́ cho rằng nước chai tốt hơn, tinh khiết hơn, có nhiều khơáng chất hơn . Thật ra, nước trong chai không phải dở về mặt sức khỏe nhưng cái tai hại là quá tŕnh lấy nước, vô chai, bảo quản, bày bán, …nước bị tác hại bỡi những điều kiện khách quan nên khi uống, người uống bị bịnh . Trái lại, nước phong-tên trong nhà, có khi có mùi chlore, uống không ngon, nhưng về mặt vệ sinh lại an toàn . V́ khi nước bị dơ, chỉ trong vài giờ, cơ quan thẩm quyền báo động ngay trong lúc đó, nước chai không thể làm được.




Sữa và các thứ từ sữa như yaourt, phó-mát, xưa nay được nh́n nhận là nguồn dinh dưởng tối ưu . Đúng . Nhưng nay, giới chuyên môn lại cho biết – đang chờ kết quả nghiên cứu cuối cùng – đó cũng chứa mầm móng ung thư prostate, tiểu đường loại 1, …nếu ăn nhiều sữa .

Về mật ong, không phải thứ mật nào cũng tốt . Người tiêu dùng nên cẩn thận khi dùng .

Giữa bơ và marguerine (chất béo từ thảo mộc), khuyên nên chọn bơ .

Dầu Olive là thứ tốt nhứt trong dinh dưỡng . Dân sống ven địa trung hải, ít bịnh về tim mạch nhờ họ ăn nhiều dầu olive . Hơn nữa, dầu Olive nguyên chất dung chiên xào tốt nhứt, cả ở độ nóng cao .

Đừng quan tâm tới “ Olive Bio ” v́ đó chỉ là cách tiếp thị phổ thông bởi cây Olivier không cần phân bón và sát trùng .

Ăn nướng, gần đây bị lên án là mầm ung thư v́ phần cháy đen . Nếu tránh được thịt cá nướng bị cháy đen th́ không có ǵ đáng ngờ vực nữa .

Về cá, không phải trong con cá, tất cả đều tốt .

Café chỉ là chất kích thích . Không đúng . Theo kết quả một nghiên cứu ở Harvard, café làm giảm căng thẳng ở phụ nữ với không quá 4 tách ngày . Nhưng café pha liền không tốt bằng café pha qua cái lọc giấy . Tức « cái nồi ngồi trên cái cốc » v́ nó vướng vài thứ qua quá tŕnh chế biến theo kỹ nghệ .

Ngày nay, mọi thứ, mọi nơi đều bị ô nhiễm . T́m cho được một thứ thiệt tinh khiết tốt cho sức khỏe không c̣n là điều mà ai cũng làm được .




Ở Việt nam, người ta ăn từ sáng cho tới tối, trong nhà, trong tiệm, trên hè phố, lề đường . Người có tiền đ̣i cho được những thứ thật cầu kỳ, thật hiếm . Người không tiền, th́ bết đại xuống lề đường, quán cốc, ăn cho qua cơn đói, không kịp b́ết giá trị dinh dưỡng của món ăn . Cũng như người Tàu, trước đây, không mấy quan tâm vấn đề vệ sinh ăn uống v́ nước Tàu bị nạn đói triềm miên . Đói chết trước khi bị bịnh v́ ăn uống thiếu vệ sinh .




Người ta an ủi nhau « ăn cũng chết, không ăn cũng chết » . Nhưng ăn uống kỹ lưỡng để giữ sức khỏe . Mai này có chết th́ cũng làm ma mạnh khỏe hơn là ma đau ốm!




Nguyễn thị Cỏ May



at 2:22 PM

florida80
05-15-2019, 19:12
T́nh Trạng Sa Sút Trí Nhớ - BS Lương Lễ Hoàng


https://i.imgur.com/Scdft0X.jpg

















Đừng tưởng ngưởi già mới lẫn. T́nh trạng sa sút trí nhớ đến độ "vừa nghe đă quên" của người trẻ từ lâu đă vượt xa mức báo động.


Ai chưa tin xin thử xem có bao nhiêu người nhớ nổi số... driver license !


Nhiều người quên tuốt luốt, quên giờ vào sở, quên luôn công việc, quên cả vợ con, đến độ sau giờ làm việc phải ngồi hàng giờ ở bàn nhậu để cố nhớ nẻo về nhà, thậm chí quên hết đến độ chỉ c̣n nhớ có mỗi ngày... lănh lương!


Chuyện ǵ cũng có lư do.


Bộ nhớ mau hư thường v́ nạn nhân chính là thủ phạm, do thiếu nhiều thứ cùng lúc lại thừa vài món trong cuộc sống thường ngày.


Đó là:



* Thiếu ngủ:


Không kể người lỡ chọn nghề trực đêm, thiếu ngủ v́ thức quá khuya, dường như là "mốt" của nhiều cư dân trong các thành phố.

Kẹt một điểm là chất lượng của trí nhớ gắn liền với độ sâu của giấc ngủ, theo kết quả nghiên cứu ở Đại học Schleiweg-Holstein.

Nhưng nếu tưởng như thế chỉ cần dùng thuốc ngủ để ngủ cho được nhằm tăng cường trí nhớ th́ lầm.

Thuốc an thần tuy tạo được giấc ngủ, nhưng năo bộ đồng thời cũng mê một lèo, khiến bộ nhớ quên luôn công việc.



* Thiếu nước:


Năo lúc nào cũng tiêu thụ không dưới 20% năng lượng của cơ thể riêng cho chức năng tư duy.

Năo v́ thế rất cần nước và chất đường sinh năng.

Theo chuyên gia ở Đại học Erlangen, uống không đủ nước trong ngày lại thêm bữa ăn chiều thiếu chất ngọt là một trong các lư do khiến tín hiệu thần kinh vừa nhập vào lại ra ngay, cứ như nước đổ đầu vịt.



* Thiếu dầu mỡ:


Chất béo loại cần thiết cho cấu trúc của tế bào thần kinh như 3-Omega, Acid Linoleic... là món ăn chính của năo bộ.

Đừng tưởng kiêng cử là béo tốt cho năo. Trái lại là khác.

Tất nhiên đừng để tăng chất mỡ máu v́ đó là yếu tố bất lợi cho hoạt động của bộ năo.

Nhưng thiếu mỡ cũng tai hại tương tự.



* Thiếu dưỡng khí:


Thêm vào đó, năo không thể dán tín hiệu thần kinh, dù là h́nh ảnh hay âm thanh vào bộ nhớ nếu tế bào thiếu dưỡng khí v́

thiếu máu.

Chính v́ thế mà nhiều thầy thuốc khuyên dùng cây thuốc có công năng cải thiện hàm lượng dưỡng khí trong năo bộ ngay cả cho người chưa phát hiện triệu chứng "đụng đâu quên đó.



* Thiếu vận động:


Nhiều công tŕnh nghiên cứu cho thấy người cao tuổi nếu vận động thể dục thể thao trong ngày th́ ít quên hơn người không vận động.

Theo các nhà nghiên cứu về lăo khoa ở Hoa Kỳ, vận động trong ngày là điều kiện để bộ năo không thiếu dưỡng khí trong đêm.

Cũng không cần h́nh thức thái quá, nhẹ nhàng thôi, như đi bộ, bơi, chạy xe, khí công..., miễn là ngày nào cũng có.



* Thiếu tập luyện:


Muốn năo "bén nhọn" như xưa mà không tập luyện chẳng khác nào chưa học bài.

Chơi ô chữ, sudoku, học ngoại ngữ, vẽ tranh..., kiểu nào cũng tốt, càng nhiều cách giải trí càng hay, miễn là đừng ngồi yên mỗi ngày nhiều giờ trước máy truyền h́nh v́ đó là h́nh thức tai hại cho bộ năo.



* Thừa Stress:


Bôi sạch bộ nhớ là một trong các phản ứng phụ của nội tiết tố nẩy sinh trong t́nh huống Stress.

Biết vậy nên t́m cách pha loăng Stress bằng thể dục thể thao, thiền định, kiểu nào cũng được, miễn vui là chính.

Thêm vào đó, đừng tự đầu độc cơ thể và bộ năo bằng thuốc lá, rượu bia, thịt mỡ...

Với bộ năo "ngập rác" th́ quên là cái chắc, v́ đâu c̣n chỗ nào để nhớ!



* Thừa chất oxy-hóa:


Hàm lượng chất gây rỉ sét tế bào, sản sinh từ rối loạn biến dưỡng, độc chất trong môi trường ô nhiễm, khói thuốc lá, độ cồn, phụ gia trong thực phẩm công nghệ, hóa chất trong dược phẩm... càng cao, tế bào năo càng mau già trước tuổi.

Cầm chân chất oxy-hóa bằng hoạt chất kháng oxy-hóa , v́ do’ là biện pháp chinh’ để bộ nhớ đừng mau "hết đát".

Hăy đừng "đem năo bỏ chợ" qua lối sống chẳng khác nào có thù sâu với năo bộ.

Nếu đối xử với năo bạc bẻo th́ đừng trách có lúc "có vay có trả”!










































BS Lương Lễ Hoàng

florida80
05-15-2019, 19:13
Thức Ăn Chay: Đậu Nành - Ts Mai Thanh Truyết

https://i.imgur.com/tKsbatz.jpg







Đậu nành là một nguồn lương thực có nhiều chất đạm (protein) có thể so sánh với nhiều nguồn lương thực khác như thịt, cá v.v…. Đậu nành nghiễm nhiên đă trở thành nguồn cung cấp protein cho những người ăn chay (không ăn thịt cá). Thêm nữa, đậu nành cũng là một nguyên liệu để chế biến nhiều thức ăn và thức uống như tàu hủ (tofu) cùng những chuyển hóa thực phẩm từ tàu hủ, dầu đậu nành, nước chấm, bơ đậu nành,và sữa đậu nành…

Múc sản xuất đậu nành trên thế giới theo thống kê năm 2007 do United Soybean Board là 220 triệu tấn, trong đó Hoa Kỳ đứng đầu với 70,4 triệu tấn và Ba Tây thứ nh́ với 61,0 triệu tấn, Argentina với 47,0 và Trung Cộng với 14,3 triệu tấn.

Lịch sử tàu hũ

Lịch sử của tàu hũ, một sản phẩm đầu tiên của đậu nành phát xuất từ thời cổ Trung Hoa, thời nhà Hán vào năm 164 trước công nguyên, qua h́nh ảnh các bức tranh trên tường chung quanh mộ thời Đông Hán. Tuy nhiêm một số nhà khoa học cho rằng tàu hũ thời nầy chỉ là một loại tàu hũ thô sơ (rudimentary), không có độ cứng (firmness) và vị không giống tàu hũ bây giờ (người viết cũng không hiểu bằng cách nào các nhà khoa học trên có thể kết luận như vậy?).

Một giả thuyết cho rằng tàu hũ chỉ là một khám phá t́nh cờ trong khi nấu sôi bột đâu nành với muối biển chưa tẩy sạch (có magnesium và calcium), và khi để nguội lại, chúng kết thành như một loại chất kết dính (gel)…giống như tàu hũ. Căn nguyên sau nầy có vẻ đứng vững hơn v́ từ lâu lắm, con người dùng đậu nành dưới dạng sữa nấu chín và chuẩn bị cho buổi ăn tối như ăn súp vậy.

Một lư thuyết thứ ba là người Hán học được cách làm đông đặc sữa đâu nành từ kỹ thuật của người Mông Cổ và Đông Ấn, do đó có tên được âm ra là "tofu", c̣n tên Mông Cổ để chỉ tàu hũ được người Hán âm là "rufu" hay "doufu".

Dù tàu hũ đến từ thời nào, nguồn nào đi nữa, một điều chắc chắn là ngày hôm nay, tàu hũ đă và đang góp phần quan trọng cho bữa ăn của con người trên khắp thế giới.

Các sản phẩm từ đậu nành

Tàu hũ (Đậu hũ): Ngoài tên Tofu c̣n có thể gọi là soybean curd, v́ đây là một sản phẩm làm từ sữa đậu nành nóng có thêm vào hóa chất làm đông lại giống như một loại fromage mềm (soft cheese-like). Tàu hũ rất giàu chất đạm, chứa nhiều loại sinh tố B và ít sodium. Tàu hũ cứng (firm) là một dạng giàu chất đạm nhứt và chứa nhiều calcium. Tàu hũ mềm (soft) là một nguyên liệu dùng để chế biến đủ loại thức ăn từ tàu hũ. Cream đậu nành, sauce đậu nành dùng để làm nhiều loại dầu trộn trong món xà lách.

Hạt đậu nành: Hạt đậu nành tươi là một thức ăn chơi (snack) v́ có nhiều protein, và sợi (fiber), không tạo ra cholesterol.

Lecithin: Được ly trích từ dầu đậu nành được dùng nhiều trong kỹ nghệ thực phẩm. Đây là một chất chống oxid hóa (anti-oxidant). Lecithin bột có thể t́m thấy ở các tiệm bán thực phẩm thiên nhiên (natural food).

Thịt thay thế (meat substitute): Đây là các loại sản phẩm gồm protein đậu nành hay tàu hũ trộn lẫn với một số gia vị khác để tạo ra hương vị "thịt" được bày bàn dưới dạng đông lạnh, trong hộp, hay sản phẩm khô. Các loại thịt thay thế nầy rất giàu nguồn protein, chứa nhiều chất sắt (iron) và nhiều loại sinh tố B.

Miso: Đây là một loại súp đặc biệt của người Nhật, do sự trộn lẫn giữa đậu nành và gạo. Sau đó cho lên men trong các thùng chứa bằng gỗ cedar từ 1 đến 3 năm. Miso có thể làm súp, dressing, sốt và pâté.

Natto (Nhựt), hay Tahuri (Phi Luật Tân): Có được qua sự lên men sữa đâu nành. Chính nhờ lên men, các protein phức tạp bị thoái hóa thành những protein cần thiết cho cơ thể, do đó, cơ thể dễ dàng hấp thụ hơn là đâu nành nhuyên chất. Đây là lớp "giống như" sữa phủ trên chén cơm, hay súp miso, hay phủ lên dĩa rau ở các nhà hàng Nhựt.

Đậu nành sợi (soy fiber): Đây là phó sản của đậu nành sau khi đă được ly trích sữa. Tuy ít protein hơn sữa đậu nành, nhưng đây cũng là một nguồn protein tốt. Hương vị giống như các sợi dừa khô. Có thể làm súc xích chay.

Sauce đâu nành (soy sauce): Đây là một dung dịch nâu đậm, giống như nước tương do sự lên men. Các hiệu Nhựt có bán Shoyu là sauce do sự trộn lẫn đậu nành và lúa ḿ sau khi lên men. Tamari do hổn hợp đậu nành và phó sản sau khi điều chế miso. Và Teriyaki sốt có độ đậm đặc cao hơn hai loại trên, và có pha thêm đường, dấm và hương vị khác..

Giá đậu nành (sprouts soy): Do hột đậu nành nẩy mầm. Đây là một nguồn dinh dưỡng tuyệt vời chứa nhiều protein và sinh tố C. Cần ăn sống hay ở nhiệt độ thấp (đừng đun sôi) để giữ lại số protein trong giá.

Tàu hủ ky (tofu skin): Trong khi nấu sôi sữa đậu nành và không đậy nắp, một lớp phim mơng màu vàng đóng ván trên mặt. Đó chính là lớp lipid gồm khoảng 50-55% protein, 24-26% lipid (chất béo), 12% carbohydrate, 3% tro (ash), và 9% độ ẩm (moisture). Người Tàu gọi là "fù pí" (có lẽ v́ vậy mà người Việt âm là tàu hũ ky), và người Nhựt gọi là "yuba". Khi lớp tàu hũ ky dầy hơn nữa và chứa nhiều độ ẩm c̣n được có tên gọi là tàu hũ tre (tofu bamboo), Tàu gọi là "fù zhú", người Việt gọi "phù chúc", và người Nhựt gọi "kusatake".

Định mức dinh dưỡng tàu hũ

Protein: Một nửa "cup" (4 oz hay 118 gr) tàu hũ "cứng" (firm) chứa khoảng 10gr protein. Nhu cầu protein hàng ngày cho đàn ông là 56gr và đàn bà là 46gr.Trong lúc đó, ½ cup sữa chỉ chứa 5,1gr protein, một trứng gà (3 oz) chứa 6gr, và 4 oz thịt ḅ chứa 26gr. Kết luận, tàu hũ là nguồn cung cấp protein tốt nhứt.

Calories: Một nửa cup tàu hũ cung cấp 94 calories. Ngược lại, một lượng tương đương thịt ḅ cho 331 calo, sữa cho 60 và phó mát cho 320 calo.

Do đó, tùy theo nhu cầu cơ thể về calories hay protein. Muốn có 100 calo, tàu hũ chứa 11gr protein, trong lúc đó, thịt ḅ chỉ chứa 8,9gr, và phó mát chứa 6,2gr protein mà thôi.

Chất béo và Cholesterol: Một nửa cup tàu hũ "cứng" (firm) chứa 5gr mỡ, và tàu hũ ít chất béo (low fat) chứa 1,5gr; trong lúc đó, một lượng tương đương thịt ḅ chứa 15gr chất béo, và một trứng gà chứa 5,5gr. Tàu hũ là nguồn thực phẩm không chứa cholesterol; ngược lại sữa ít chất béo cũng đă chứa 9mg, và lượng tương đương của cá chứa từ 75 đến 100mg, và thịt ḅ chứa 113mg.

Calcium và sắt: Một nửa cup tàu hũ chứa 227 mg calcium hay 22% amino-acid (RDA) và 1,72mg sắt. Nhu cầu sắt của đàn bà trong RDA là 18mg, và đàn ông là 8mg.

Cách làm tàu hũ

Một nguyên tắc dùng để làm tàu hũ là làm đông đặc sữa đậu nành. Đậu nành hột được sàng rữa sạch, ngâm trong nước muối có nồng độ ~ 20 gr/lít nước độ 4 giờ nhằm mục đích cho đậu nở ra.

Sau đó, đăi vỏ, rồi đem xay nhuyễn. Bột xay xong, lược lấy phần lỏng (sữa) và đun sôi. Khi đậu sôi nhiều dạo (gọi là bồng con), cho thach cao (MgSO4 và MgCl2 có trộn lẫn với vôi (CaCO3 hay CaSO4)) cà nhuyễn và cho thêm nước muối vào và khuấy đều. Cuối cùng, đổ tất cả vào các khung h́nh chữ nhựt, để yên trong ṿng 45 phút, tàu hũ sẽ đặc lại từng mảng. Cần dằng trên mặt tàu hũ để chắt nước thừa ra….

Xác tàu hũ trên màn lược được dùng làm thức ăn gia súc hay nuôi cá.

Trung b́nh, 2,5 Kg hột đâu nành sẽ cho ra 100 miếng tàu hũ có kích thước 2,5x2,5x4 cm. Nếu pha nhiều thạch cao, tàu hũ sẽ chát, xám xịt. Nếu pha thêm bột gạo, sẽ làm mất "béo" khi ăn; trong trường hợp làm tàu hũ chiên th́ miến tàu hũ sẽ cứng chứ không c̣n mềm (soft) nữa. Nếu sữa đậu nành được vớt lớp trên mặt để làm tàu hũ ky, miếng tàu hũ thành phẩm theo phương pháp nầy sẽ c̣n rất ít chất béo.

Chúc các bạn thành công trong việc sản xuất tàu hũ theo cách trên đây.

Cách bảo quản tàu hũ

Tàu hũ bàn ngoài thị trường thường dưới dạng chứa trong nước hay trong gói nylon. Cần phải xem kỹ thời hạn cho phép dùng (nên nhớ trong siêu thị việt Nam hay Tàu không có tiêu chí nầy, nhưng nếu mua ở một siêu thị Nhựt th́ có). Khi mua về, tàu hũ cần phải được rữa sạch, ngâm trong nước và giữ ở nhiệt độ ~4oC (tương đương 100F). Ở nhiệt độ nầy có thể giữ tàu hũ trong ṿng 7 ngày. Nếu giữ tàu hũ trong ngăn lạnh frozen, có thể giữ được 5 tháng. Khi lấy ra. xả đá, tàu hũ có màu ngà và xốp, chiên lên ăn rất ngon…

Đậu nành làm giảm nguy cơ ung thư?

Ở các quốc gia Á Châu như Nhựt Bổn, Đại Hàn, Trung Hoa, Việt Nam cũng như những người theo Phật giáo thường xem đậu nành nói chung và tàu hũ nói riêng là một thành phần chính trong thực đơn hàng ngày. Thống kê cho thấy mức ung thư vú của phụ nữ ở Nhật chỉ bằng ¼ ở Hoa Kỳ. cũng như ung thư ruột già và nhiếp hộ tuyến cũng thấp hơn ở HK. Một số nhà khoa học đă đồng ư sở dĩ có sự giảm thiểu nầy là v́ trong đậu nành có hóa chất isoflavones, một nguyên tố có tính chất ngăn chận sự phát triển của tế bào ung thư, và có tác dụng như là một chất anti-oxidant.

Đặc biệt, TS Taichi Shimazu thuộc Trung tâm Nghiên cứu Ung thư Quốc gia Tokyo đă thực hiện nghiên cứu ung thư phổi trên 36.000 nam giới tuổi từ 45-74 có hút thuốc là và không có hút thuốc. Kết quả là số người hút thuốc lá có tỷ lệ ung thư phổi ít hơn nếu ăn nhiều đậu nành. Một số nghiên cứu khác, cho rằng isoflavones trong đậu nành cũng giúp trị liệu một số bịnh về tim mạch…

Thay lời kết

Trên đây là một số thông tin về đậu nành và một số chế biến từ đậu nành. Đối với những người xem việc ăn chay như là một công thức riêng cho ăn uống "diet", dùng các sản phẩm có đậu nàh như tàu hũ, sữa…để thay thế các thực phẩm thịt, cá, v.v..có thể nói là cơ thể có được quân b́nh do những thức ăn khác phụ vào các thành phần thực phẩm biến chế từ đậu nành.

Tuy nhiên, đối với những người ăn chay v́ lư do tôn giáo như Phật giáo, công thức ăn uống cần phải được lưu ư hơn để có thể đáp ứng với như cầu của cơ thể v́ nơi đây cần nhiều chất dinh dưỡng khác nữa. Người ăn chay theo kiểu nầy sẽ bị thiếu sinh tố B12 và vôi (calcium) cũng như chất sắt và kẽm, và nhiều chất đạm (protein). Do đó, cần ăn thêm nhiều các loại hạt như hạnh nhân (almond), hạt "nut", các loại đậu, cùng các loại rau có màu xanh đậm như dền Mỹ (spinach), cải xanh, bông cải xanh (broccoli), và các loại nấm.

Xin nhớ không một thức ăn nào có khả năng cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể cả, v́ vậy cần phải có một công thức ăn uống tương đối gồm nhiều nguồn thực phẩm khác nhau để có thể cung ứng cho mức tiêu thụ của cơ thể.

Một lời cuối cho những người ăn chay là, ngoài tàu hũ ra, quư vị c̣n dùng bún, miến, nấm khô như nấm mèo (mộc nhĩ), đông cô, nấm hướng, dầu ăn, bột ngọt, ḿ ăn liền, tương, chao, măng khô, x́ dầu…trong việc pha chế món ăn hàng ngày; những nguyên liệu trên hiện tại, đang c̣n có nguy cơ bị nhiễm độc khi ăn vào, v́ do cung cách chế biến, bảo quản của "gian thương" là cho thêm hóa chất độc hại, hóa chất bảo quản, và nhiều loại hóa chất bảo vệ thực vật và tăng trưởng nhằm mục đích làm tăng thêm lợi nhuận đă được bày bán đầy rẫy ở các siêu thị trên khắp các nơi có người Việt.

Xin thưa, các sản phẩm trên có nguồn sản xuất ở Việt Nam, Trung Cộng và ngay cả Đài Loan cùng một số quốc gia đang phát triển khác. (vào xem maithanhtruyet.blogs pot.com để có thêm những nguồn thông tin về t́nh trạng thực phẩm chúng ta đang tiêu thụ).

Mai Thanh Truyết

3/2010

florida80
05-15-2019, 19:15
Ích Lợi Của Ánh Sáng Mặt Trời



https://i.imgur.com/uK4MG7W.jpg





Việc phơi trần dưới ánh nắng làm tăng khả năng tạo ra hormone serotonin; phần lớn được tạo ra do ánh mặt trời đi xuyên qua vơng mạc mắt; giúp gia tăng khí sắc và làm cho chúng ta tập trung cũng như cảm thấy b́nh tĩnh. Ánh sáng ban đêm kích thích năo tạo ra hormone khác được gọi là melatonin giúp con người cảm thấy buồn ngủ và cần đi ngủ.




Không ra ngoài nắng đủ sẽ làm lượng serotonin thấp và thường dẫn đến nguy cơ rối loạn xúc động theo mùa (seasonal affective disorder-SAD), một dạng của bệnh trầm uất gây ra khi đổi mùa. Do đó, bạn sẽ cảm thấy bị SAD vào mùa đông nhiều hơn khi ngày ngắn hơn đêm. Một trong những cách điều trị SAD là phương thức ánh sáng (phototherapy). Bác sĩ có thể yêu cầu bạn dùng hộp ánh sáng đặc biệt được thiết kế để kích thích năo tạo ra chất serotin và giảm việc sinh ra quá nhiều chất melatonin.




Phơi nắng cũng có lợi cho những ai phải chịu ảnh hưởng của chứng phiền năo không theo mùa, rối loạn tiền kinh nguyệt và những phụ nữ bị chứng trầm cảm khi mang thai. Những rối loạn liên quan đến lo lắng (anxiety) và hoảng sợ (panic attack) cũng do đổi mùa và giảm hấp thụ ánh nắng gây ra.




Những ích lợi khác từ ánh mặt trời
•Xương cứng cáp – Phơi nắng dưới bức xạ tia cực tím B làm làn da chúng ta tạo ra vitamin D. Theo một nghiên cứu cho thấy nếu mặc đồ bơi phơi nắng trong 30 phút, con người sẽ tạo ra lượng vitamin D. Vitamin D thấp làm xương mềm, yếu nơi trẻ em, và dẫn đến những bệnh về xương như loăng xương.
•Ngăn ngừa ung thư – Mặc dù quá nhiều nắng có thể gây ung thư da nhưng lượng vừa phải lại có thể ngăn ngừa ung thư. Những người sống ở khu vực ít ánh nắng ban ngày th́ nguy cơ bị ung thư cao hơn so với sống ở nơi nhiều nắng. Những bệnh ung thư có thể xảy ra bao gồm: ruột, bạch cầu Hodgkin, buồng trứng, tụy, tiền liệt.
•Làm lành da bị thương– Theo Tổ chức sức khỏe thế giới (WHO), phơi nắng có thể trị một số bệnh ngoài da cho một số người. Các bác sĩ da khuyến cáo rằng tia tử ngoại trong ánh nắng có thể chữa bệnh vàng da, mụn, vảy nến và chàm (eczema).

Độ an toàn của nắng

Việc xác định thời gian phơi nắng tùy thuộc vào loại da của mỗi người và hướng của tia nắng. Tránh phơi nắng trong khoảng 10 giờ sáng đến 4 giờ chiều.


Theo WHO, phơi trần tay, cánh tay và mặt từ 5-15 phút, 2-3 lần trong tuần là đủ để tăng lượng vitamin D. Nắng mặt trời phải xuyên qua da, do đó nếu thoa kem chống nắng và mặc quần áo che phủ sẽ không thể tạo vitamin D. Nếu bạn phải đi ra ngoài lâu hơn 15 phút th́ bạn phải bảo vệ làn da bằng cách bôi kem với độ chống nắng ít nhất là 15 SPF và có thể đội nón hoặc mặc thêm áo.




Nguồn: baotreonline.com

florida80
05-15-2019, 19:17
7 Dấu Hiệu Ung Thư Giai Đoạn Đầu Hầu Hết Chúng Ta Đều Bỏ Qua


https://i.imgur.com/lRgVNEo.jpg






Nếu biết lắng nghe cơ thể, mỗi người có thể tự nhận biết, phát hiện từ sớm căn bệnh ung thư để mở ra một cơ hội mới cho ḿnh.





Trong cơ thể mỗi người đều tiềm ẩn những tế bào có khả năng dẫn đến ung thư khi gặp điều kiện “thuận lợi”. V́ thế Hiệp hội ung thư Hoa Kỳ đă thông qua 7 chữ cái trong từ CAUTION (cảnh báo) để giúp mọi người nhận biết sớm 7 dấu hiệu của ung thư giai đoạn

đầu .



C: Thay đổi thói quen đại tiện và tiểu tiện.
A: Trên người có vết thương không thể lành được.
U: Chảy máu hoặc mủ bất thường.
T: Xuất hiện u, cục hoặc bị cứng hơn ở vú, tinh h.oàn hoặc bộ phận nào khác trên cơ thể.






Hăy cẩn thận với các hạch nổi bất thường trên cơ thể.








I: Tiêu hóa kém hoặc nuốt bị nghẹn.
O: Mụn, nốt ruồi, vết loét ở miệng bỗng có kích cỡ, màu sắc, h́nh dạng, độ dày thay đổi bất thường.
N: Ho liên tục hoặc bị khàn giọng.

Ngoài ra, c̣n có một số dấu hiệu khác cảnh báo căn bệnh ung thư như:

- Liên tục bị đau đầu


- Giảm cân hoặc chán ăn bất thường.

- Xương hoặc một bộ phận nào đó của cơ thể thường xuyên bị đau nhức.

- Thường xuyên mệt mỏi, buồn nôn hoặc nôn.

- Dễ bị nhiễm trùng, bị lặp đi lặp lại.

- Thường xuyên sốt nhẹ.







Hăy cẩn thận khi thấy sốt và mệt mỏi thường xuyên.

Để không chết v́ ung thư th́ chính bản thân mỗi người cần phải ư thức được tầm quan trọng của việc khám sức khỏe định kỳ , nghĩa là hăy sống có trách nhiệm với bản thân ḿnh hơn. Nếu hàng năm, bạn ư thức được việc phải đi khám sức khỏe tổng quát định kỳ 6 tháng một lần th́ chắc chắn rằng những mầm mống ung thư sẽ được phát hiện sớm và xử lư kịp thời.

Tuy nhiên, chúng ta thường tiếc vài triệu đồng tiền khám bệnh một năm, chỉ khi thấy đau đớn mới đi khám và nếu mắc bệnh th́ có nhiều người phải bán cả nhà, cả trâu để chữa bệnh…nhưng cuối cùng vẫn phải “bỏ mạng” v́ ung thư.


Hăy ư thức bảo vệ sức khỏe của ḿnh, không ai làm chuyện đó thay bạn đâu.






Nguồn: Webmd



at 4:37 PM

florida80
05-15-2019, 19:20
Tóc Bạc - BS Hồ Văn Hiền








Tóc bạc lúc nào tuỳ theo sắc dân. Đối với người da vàng (Asians),nếu khoảng gần 40. Da trắng khoảng 34-35. Da đen, trễ hơn khoảng 44-46. Chừng 50% chúng ta, tóc bạc đáng kể lúc qua tuổi 50. Nếu người da trắng tóc bạc trước 20 tuổi, da đen trước 30 tuổi và da vàng có lẽ khoảng trước 25 tuổi th́ coi như tóc bạc quá sớm.


Nguyên nhân:

+ Chúng ta chưa hiểu rơ, có thể yếu tố di truyền quan trọng.

+ Trái với tin tưởng trong dân gian, y giới cho rằng stress không làm cho tóc bạc. Chúng ta nghe nói về trường hợp một nhân vật nào đó sáng ngủ giậy, tóc đổi bạc phơ như Ngũ Tử Tư bị vua Sở theo đuổi trong truyện Tàu, hoàng hậu Marie Antoinette thời cách mạng Pháp, hay gần đây hơn, bà Barbara Bush sau khi đứa con gái chết v́ ung thư.

+ Theo y khoa, màu tóc do sắc tố melanin được sản xuất bởi các tê bào melanocyte ở trong nang lông/tóc (hair follicle) dưới chân tóc. Nếu các tế bào này không hoạt động hay chết, v́ không có sắc tố, tóc được sản xuất ra từ nang lông/tóc sẽ trắng, bạc. Một khi một phần sợi tóc đă thành h́nh, phần sợi tóc là một bộ phận chết nên không thể đang từ tóc có màu đổi sang màu trắng được.

+ Hiện nay, người ta giải thích như sau: một số đang sẵn có tóc muối tiêu - vừa có tóc có màu xen lẫn với tóc không có màu, nang tóc ở gốc sợi tóc "bạc" (không có màu) chịu đựng stress tốt hơn. Lúc stress, hay một biến cố nào đó tác dụng trên hệ thống tự miễn nhiễm, làm hư hại các nang tóc, các sợi tóc có màu rụng đi, để lại toàn tóc bạc. Do đó màu của bộ tóc (chứ không phải từng sợi tóc) có thể thay đổi nhanh chóng, trong vài ngày, tuần hay vài tháng (diffuse alopecia areata).

+ Thiếu vitamin B12 (B12 trong thịt, trứng, sữa; bệnh dạ dày v́ giải phẩu hoặc thiếu chất intrinsic factor, bệnh ruột làm hấp thụ kém có thể gây ra triệu chứng thiếu vitamin B12), rối loạn cơ năng tuyến năo thuỳ (dưới đáy năo, là nơi điều khiển cơ năng nhiều tuyến nội tiết như tuyến thượng thận, tuyến giáp, tuyến sinh dục), rối loạn tuyến giáp (cường giáp, suy giáp, bệnh Graves, bệnh Hashimoto: tuyến giáp sưng do các kháng thể tự miễn nhiễm.)

+ Bệnh bạch biến: những vùng da mất sắc tố.

+ Trước đây, người ta nghi bệnh xương xốp (mật độ xương thấp) đi đôi với tóc bạc sớm, tuy nhiên một khảo cứu ở California năm 2007 cho thấy không có liên hệ giữa mật độ xương và tóc bạc.

Nói chung, trừ trường hợp ngoại lệ, tóc bạc sớm không có nghĩa là có vấn đề sức khoẻ.


Y học không có giải pháp làm cho tóc đổi màu.

Trong đông y hà thủ ô (Fo-ti, he-shou-wu, polygonum multiflorum) được cho là có khả năng làm tóc đen, phục hồi sinh lực tuổi trẻ.
Tuy nhiên theo Wikipedia có thể gây độc gan do hiện diện dẫn chất (derivative) của anthroquinone. Có 3 trường hợp được công bố, một thuốc hà thủ ô sản xuất ở Trung Quốc Shou-Wu-Pian gây ra viêm gan cấp tính (acute hepatitis.)


Thiết tưởng, nếu muốn dùng, cần được những chuyên viên về đông y hướng dẫn, nhất là foti có tác dụng estrogen (hormone nữ) và được dùng cho người phụ nữ sau khi măn kinh, có thể có tác dụng không tốt cho người ung thư vú, buồng trứng, tử cung, tuyến tiền liệt.

Người tóc bạc nhuộm tóc, hoặc chấp nhận tóc ḿnh bạc và tóc bạc có vẻ đẹp riêng của nó. Có thể đổi kiểu tóc cho thích hợp với tóc bạc (như cắt ngắn và gọn).


https://i.imgur.com/Q5gGSQf.png

BS Hồ Văn Hiền

florida80
05-16-2019, 17:58
T́m hiểu về "máu vàng" - Nhóm máu kỳ lạ và quư hiếm nhất thế giới, chỉ vài chục người có



https://i.imgur.com/03VdSFM.jpg






Tính từ năm 1961 đến nay mới chỉ có 43 trường hợp được xác định sở hữu loại máu vàng đặc biệt này.



Theo Odditycentral, máu vàng hay máu Rh-null là nhóm máu cực kỳ hiếm từng được xác định trong suốt 50 năm qua. Nhóm máu này không chỉ dùng để nghiên cứu mà c̣n dùng để truyền máu cứu người rất quan trọng. Tuy nhiên hạn chế của nó là sự khan hiếm.

Để hiểu thế nào là máu vàng, chúng ta cần hiểu cách các nhóm máu hoạt động như thế nào. Máu người có thể trông giống nhau nhưng thực tế lại rất khác nhau. Theo Hiệp hội truyền máu quốc tế, có 35 nhóm máu được công nhận nhưng quan trọng nhất vẫn là ABO và Rh.

Sự kết hợp giữa các kháng nguyên A, B và RhD tạo ra 8 nhóm máu phổ biến gồm A+, A-, B+, B-, AB+, AB-, O+ và O-.

Trên bề mặt của mỗi tế bào máu có tới 342 kháng nguyên, đó là các phân tử kích thích sản sinh ra kháng thể. Và việc thiếu đi một số loại kháng nguyên nhất định là yếu tố quan trọng quyết định nhóm máu của một người.

Có khoảng 160 trong số các kháng nguyên này phổ biến, tức là chúng được t́m thấy trên tất cả các tế bào máu của mọi người. Nhưng nếu một ai đó thiếu đi một kháng nguyên được t́m thấy trên 99% những người c̣n lại th́ máu của họ được coi là hiếm. Thậm chí nếu chỉ thiếu một kháng nguyên mà 99,99% người khác đều có th́ máu của họ đươc coi là rất hiếm.

Các kháng nguyên thuộc hệ thống 35 nhóm máu trong đó Rh hoặc Rhesus là hệ thống lớn nhất với 61 kháng nguyên và được chia ra thành Rh- và Rh+. Trong khi Rh+ là nhóm có kháng nguyên D th́ Rh- không có loại kháng nguyên này. Sẽ không có ǵ lạ nếu con người thiếu một trong những kháng nguyên D.

Ví dụ khoảng 15% người da trắng thiếu kháng nguyên D và kháng nguyên Rh quan trọng nhất. Điều này khiến máu của họ có chỉ số Rh-. Trái ngược lại, nhóm máu Rh- ít phổ biến hơn ở người châu Á với tỷ lệ chỉ có 0,3%. Nhưng sẽ ra sao nếu một người bị thiếu tất cả 61 kháng nguyên Rh, hay nói cách khác là không có bất kỳ kháng nguyên nào thuộc hệ Rh.

Nửa thế kỷ trước, các bác sỹ tin rằng một phôi thai không có kháng nguyên thậm chí sẽ khó tồn tại chứ chưa nói đến việc phát triển thành một người khỏe mạnh. Nhưng vào năm 1961, một phụ nữ thổ dân Úc được xác định có nhóm máu Rh-null trong người.

Điều đó có nghĩa rằng, cô ta thiếu tất cả các kháng nguyên trong hệ thống máu Rh. Kể từ đó đến nay chỉ có khoảng 43 người thuộc nhóm máu Rh-null được xác định.






Rh-null được gọi là "máu vàng" v́ hai lư do. Điều đầu tiên và cũng là quan trọng nhất là việc nó thiếu tất cả kháng nguyên Rh. Điều đó cũng đồng nghĩa, nó có thể truyền máu được cho tất cả các nhóm máu khác và những người có máu hiếm thuốc hệ thống Rh. Đây quả thực là một điều vô cùng hiếm có.

Tiềm năng cứu sống người của nó lớn đến mức dù tên của người hiến máu luôn được giấu kín nhưng các nhà khoa học vẫn luôn theo dơi sát sao những người có nhóm máu vàng và khuyến khích họ hiến máu để cứu người. Cũng bởi sự khan hiếm của nó nên rất khó để t́m một loại máu khác thay thế.




theo Vnreview



.

--------------------------------------------------------------------------------

florida80
05-16-2019, 18:05
CẤY GHÉP TAI (EAR IMPLANTS)

Lynn Ly phỏng dịch theo trang web Hear It của Hoa Kỳ
( http://www.hear-it.org/Implants- )

https://i.imgur.com/YQs6IiT.jpg
Việc cấy ghép tai là chèn ghép một thiết bị vào tai qua một tiến tŕnh giải phẫu. Cấy ghép tai đặc biệt hữu ích cho người điếc hoặc khiếm thính trầm trọng khi những người này không thể sử dụng những thiết bị trợ thính thông thường.

Việc cấy ghép tai không khôi phục khả năng nghe b́nh thường. Sự cấy ghép tai chỉ cải thiện khả năng nghe, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đọc ư tưởng từ sự nhấp nháy bờ môi và làm dễ dàng hơn việc phân biệt những âm thành nhất định .


Quote:
Lynn Ly chú thích :

Cấu trúc tai th́ có 3 phần:
•Tai ngoài gồm vành tai và ống tai

•Tai giữa gồm màng nhĩ và 1 chuỗi xương đập + xương đe + xương bàn đạp

•Tai trong gồm các chất dịch lưu và lông thính giác, hệ thống tiền đỉnh, và nơi tiếp nối với thần kinh thính giác.



Những cấy ghép thông dụng nhất bao gồm: (The most commonly used Implants include: )
• Middle ear Implants = Cấy ghép tai giữa (cấy ghép màng nhĩ)

•Inner ear Implants (Cochlear)= Cấy ghép tai trong (cấy ghép ốc tai)

•Bone-anchored hearing aids = Thiết bị trợ thính móc vào xương

•Auditory brainstem Implants = Cấy ghép cuống năo thính giác (brainstem = cuống năo là vùng dây cột sống mở rộng về phía trên vào hộp sọ)


UserPostedImage
Photo of the website "Stroke Survivors Association of Ottawa - Canada

Cấy ghép tai đặc biệt thích hợp cho những người không thể sử dụng thiết bị trợ thính. Những vấn đề về tai ngoài và ống tai có thể làm cho vành tai không thoải mái để đeo hoặc không thể sử dụng thiết bị trợ thính . Tuy nhiên, những người mà không thể sử dụng thiết bị trợ thính hoặc sử dụng sự khuếch đại do máy trợ thính cung cấp, thường sẽ được lợi ích từ (lời) đề nghị về sự cấy ghép để cải thiện khả năng nghe.

Hầu hết các loại cấy ghép tai sẵn có thường đắt tiền hơn các thiết bị trợ thính b́nh thường, và cần một tiến tŕnh phẫu thuật nhỏ để chèn ghép "thiết bị trợ thính" vào trong tai.


Quote:
Lynn Ly chú thích :

Sự khác biệt giữa thiết bị trợ thính thông thường và máy cấy ghép tai
•Máy trợ thính th́ có tác dụng khuyết đại âm thanh làm âm thanh to hơn và rơ ràng hơn, tạo tác động gây hiệu ứng lên các bộ phận của tai giữa là màng nhĩ rồi khiến cho xương đập , xương đe và xương bàn đạp rung đập mạnh lên để truyền tính hiệu vào các bộ phận tai trong rồi di chuyển đến cuốn năo truyền đến dây kinh thính giác. Máy trợ thính áp dụng cho người không bị mất hoàn toàn khả năng thính giác, họ chỉ bị suy giảm khả năng thích giác mà thôi !!!

•Cấy ghép tai trong (cấy ghép ốc tai, ốc tai điện tử = coachlear) không tạo ra âm thanh to hơn hoặc rơ ràng hơn, nhưng bù lại là ốc tai điện tử (coachlear) cấy ghép ở tai trong sẽ kích thích trực tiếp các dây thần kinh thính giác . Ồc tai điện tử là áp dụng cho người bị mầt khả năng thính giác ... khi các bộ phận tai trong không c̣n hoạt động tốt nữa ...



1/ CẤY GHÉP TAI GIỮA (CẤY GHÉP MÀNG NHĨ) (MIDDLE EAR Implants)

Cấy ghép tai giữa hay cấy ghép màng nhĩ (Middle Ear Implants = MEI) là một thiết bị nhỏ được chèn ghép vào bên trong tai giữa và được gắn tới các xương be bé hay nơi lỗ hổng h́nh bầu dục

Trong những năm gần đây, cấy ghép màng nhĩ trở nên phổ biến hơn, và ngày nay có nhiều loại cấy ghép màng nhĩ trên thị trường

Sự khác biệt rơ ràng nhất giữa cấy ghép tai giữa / cấy ghép màng nhĩ và các thiết bị trợ thính khác là không cần thiết bị loa phóng thanh (speaker). Thông thường, sự cấy ghép sẽ truyền âm thanh đến tai trong thông qua một máy phát thanh cực nhỏ (microphone) được đặt phía sau tai. Máy phát thanh cực nhỏ (microphone)sẽ hoán chuyển âm thanh thành những rung động / chuyển động cơ học, rồi được gởi đến bộ phận gọi là "floating mass transducer"( "cơ quan khuyến trương âm lượng") tại vị trí trong tai giữa.

Máy phát thanh cực nhỏ (microphone) đặt ở đằng sau tai được giữ cho nằm đúng chỗ bởi một nam châm được cấy ghép bên dưới da

UserPostedImage
Photo of the website "Audiology Online"

NHỮNG NGƯỜI SỬ DỤNG CẤY GHÉP MÀNG NHĨ (MIDDLE EAR implant USERS)

Việc cấy ghép này chủ yếu được áp dụng cho những người không có được lợi ích từ thiết bị trợ thính thông thường hoặc không thể sử dụng thiết bị trợ thính thông thường, chẳng hạn như:
•Những người vấn đề (tật) hay có trở ngại ở tai ngoài và tai giữa

•Những người không thể đeo máy trợ thính hoặc earmoulds (earmoulds = earmolds là loại máy trợ thính chụp che kính tai)

•Những người không có khả năng hưởng lợi ích từ sự khuếch đại âm thanh



Nhiều người bị mất sự nhạy bén về thính giác có thể có lợi ích từ việc áp dụng phương pháp cấy ghép tai giữa / cấy ghép màng nhĩ .

Giống như trường hợp về thiết bị trợ thính và cấy ghép ốc tai, cấy ghép tai giữa (cấy ghép màng nhĩ) không khôi phục lại khả năng thính giác b́nh thường (normal hearing).

2/ CẤY GHÉP TAI TRONG / CẤY GHÉP ỐC TAI (INNER EAR Implants)

UserPostedImage
Photo of the website Hear It

Cấy ghép tai trong , hoặc cấy ốc tai (CI) là phẫu thuật cấy ghép một thiết bị điện tử vào tai trong của người bị điếc hoàn hoàn .

Không giống như máy trợ thính, việc cấy ghép ốc tai không làm cho âm thanh to hơn hoặc rơ ràng hơn. Thay vào đó, nó kích thích dây thần kinh thính giác một cách trực tiếp. Cấy ghép ốc tai làm cho người khiếm thính cảm giác nghe được âm thanh. Điều quan trọng phải hiểu rằng cấy ghép ốc tai điện tử chỉ cung cấp một cảm giác giảm thính giác, chứ không phải phục hồi hoàn toàn khả năng thính giác.

Việc cấy ghép ốc tai bao gồm các thành phần bên trong và bên ngoài. Máy phát thanh cực nhỏ (microphone) và bộ phận hoán chuyển lời nói (speech processor)là các thành phần bên ngoài . Máy phát thanh cực nhỏ (microphone nằm trên tai và bộ phận hoán chuyển lời nói (speech processor) được đặt ngay phía sau tai. Bộ phận hoán chuyển lời nói (speech processor) này được đặt cố định lên trên phần truyền phát âm thanh ghép cấy dưới da. Một thành phần bên trong khác là bộ phận giải mă được đặt vào tai trong.

ÂM THANH ĐƯỢC TRUYỀN TRỰC TIẾP ĐẾN TAI TRONG (SOUNDS TRANSMITTED DIRECTLY TO INNER EAR)

Ốc tai cấy ghép thay thế chức năng của ốc tai bị hư hại trong tai, trong đó một số tế bào lông thính giác quan trọng bị thiếu hụt. Việc cấy ghép này chuyển đổi giọng nói và âm thanh chung quanh thành tín hiệu điện tử và gửi những tín hiệu này đến thần kinh thính tai ở tai trong . Trên đường di chuyển, các tín hiệu vượt qua các phần hư hỏng của hệ thống thính giác . Các tín hiệu này được nhận biết ra là những âm thanh bởi năo bộ.

Khoảng một tháng sau khi phẫu thuật, bộ phận hoán chuyển lời nói (speech processor) được kết nối và bệnh nhân sẽ bắt đầu cảm nhận được âm thanh. Phần cuối phần của quá tŕnh cấy ghép là phục hồi chức năng, trong đó bệnh nhân được tiếp nhận huấn luyện và học các kỹ thuật truyền thông (phương cách nói chuyện/phương cách giao tiếp) khác nhau. Cần tốn thời gian thực hành /luyện tập và kiên nhẫn để học làm sao sử dụng bộ phận cấy ghép ốc tai .

CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG ĐƯỢC CẢI THIỆN (QUALITY OF LIFE IMPROVED)

Việc cấy ghép ốc tai không chữa được bệnh điếc, nhưng vẫn có thể rất hữu ích. Những lợi ích sẽ có sự khác khác giữa người này người kia. Tuy nhiên, sau một thời gian, khoảng 50% bệnh nhân có thể điều hành một số công ăn việc làm b́nh thường và chỉ có trải nghiệm vài vấn đề - chẳng hạn như khi nghe tiếng ồn ào. 80% bệnh nhân có thể sẽ tiến hành một cuộc tṛ chuyện qua điện thoại. Nhiều bệnh nhân cũng thấy rằng một cách khái quát th́ chất lượng cuộc sống của họ được cải thiện sau khi cấy ghép ốc tai.

TRẺ EM VÀ VIỆC CẤY ỐC TAI (CHILDREN AND cochlear Implants)

Nhiều trẻ em cũng có thể có lợi ích đáng kể từ việc cấy ốc tai. Tuổi tác của trẻ con và kỹ năng giao tiếp trước khi cấy ghép là những yếu tố quan trọng cho một kết quả thành công.

SỰ KÍCH ÂM THANH ĐIỆN TỬ (ELECTRIC ACOUSTIC STIMULATION)

Một số bệnh nhân có thể hưởng lợi từ một sự kích thích âm thanh điện tử (EAS), đó là việc sử dụng 1 máy trợ thính phối hợp với sự cấy ghép ốc tai trong cùng một tai. Máy trợ thính th́ khuếch đại âm thanh ở tần số thấp, trong khi cấy ghép ốc tai th́ kích thích điện tử ở tần số trung b́nh và cao. Tai trong tiến hành sự kích thích âm thanh và kích thích điện tử cùng 1úc.

Những kết quả của nghiên cứu quốc tế đă cho thấy hiệu ứng điều phối cao giữa máy nghe và kỹ thuật cấy ghép ốc tai, đặc biệt là sự rơ ràng ở sự am hiểu lời nói trong sự ồn ào, mức độ phân biệt và đánh giá âm nhạc.

3/ THIẾT BỊ TRỢ THÍNH MÓC VÀO XƯƠNG (BONE-ANCHORED HEARING AID = BAHA)

Thiết bị trợ thính móc vào xương (A bone-anchored hearing aid = BAHA) có thể được sử dụng trong việc điều trị về một số kiểu mất mát nghiêm trọng về thính giác. Cấy ghép này có thể thực hiện bởi v́ xương, giống như không khí, có thể thực hiện những rung động âm thanh.

Kỹ thuật này bao gồm một bộ phận hoán chuyển âm thanh (sound processor) bên ngoài và một cấy ghép titannium 3-4 mm được đặt trong hộp sọ phía sau tai. Sau khoảng ba tháng hoặc sáu tháng đối với trẻ em, bộ phận cấy ghép hợp nhất /nối liền với xương. Tiến tŕnh này gọi là osseointegration (xương phát triển rồi kết nối lại với vật lạ mà được chèn vào xương). Sau khi bộ phận cấy ghép đă kết liền với xương, bộ phận hoán chuyển âm thanh (sound processor)được gắn vào bộ phận cấy ghép để hướng dẫn âm thanh đi đến tai trong thông qua xương. Bằng cách này âm thanh đi chuyển dến tai trong mà không có cần đến ống tai hoặc tai giữa.

Một số thiết bị trợ thính móc vào xương có một đầu tiếp nhận điện tử được thiết kế để kết nối với thiết bị bên ngoài, chẳng hạn như hệ thống nghe FM, hệ thống hồng ngoại, máy nghe nhạc MP3, và truyền h́nh mà thích ứng / phù hợp với điện thoại di động.

NHỮNG BỆNH NHÂN SỬ DỤNG BAHA (USERS OF BAHA)

Nhóm người sử dụng BAHA lớn nhất là những bệnh nhân bị viêm tai giữa có mủ kinh niên, một sự nhiễm trùng măn tính của một tai giữa với sự lủng lỗ màng nhĩ thừng xuyên. Tuy nhiên, cấy ghép này cũng có thể được dùng để điều trị sự mất thính lực và đôi khi mất thính giác 1 bên tai (Unilateral hearing loss (UHL) = single-sided deafness(SSD)) Trước khi thực hiện tiến tŕnh cấy ghép BAHA, một thử nghiệm được thực hiện trong lúc bệnh nhân cắn một que thử gắn liền với một bộ hoán chuyển âm thanh BAHA. Nếu bạn có thể nghe thấy âm thanh rơ ràng bằng phương cách đó, việc cấy ghép BAHA có khả năng hoạt động tốt đối với bạn.

Thiệt bị trợ thính móc vào xương có thể khó khăn khi sử dụng ở trẻ nhỏ , nhưng vài thiết bị trợ thính (khác) được nghe rơ ràng đối với trẻ nhỏ

4/ CẤY GHÉP CUỐNG NĂO THÍNH GIÁC (AUDITORY BRAINSTEM IMPLANT)

Cấy ghép tai trong , hoặc cấy ốc tai (CI) là phẫu thuật cấy ghép một thiết bị điện tử vào tai trong của một cá nhân bị điếc hoàn hoàn.

Việc Cấy Ghép Cuống Năo Thính Giác (ABI) à phẫu thuật cấy ghép một thiết bị nhỏ vào trong năo của người bị điếc khi dây thần kinh thính giác bị thiếu sót hoặc bị hư hỏng . Những dây thần kinh thính giác điều khiển / hướng dẫn các tín hiệu âm thanh từ tai lên năo. Viêc cấy ghép này cho phép người bị điếc có cảm giác nghe được âm thanh .

Cảm giác nghe được th́ bị giới hạn, nhưng những người được cấy ghép được giải thoát ra khỏi sự cô lập hoàn toàn về âm thanh, tạo thuận lợi ích đọc ư tưởng từ sự quan sát mấp máy môi miệng

Việc cấy ghép cuống năo thính giác bao gồm 1 dụng cụ điện tử nhỏ cài gắn vào cuống năo, một máy phát thanh cực nhỏ trên tai ngoài, và một bộ phận hoán chuyển lời nói (speech processor). Các điện cực kích thích những dây thần kinh âm thanh quan trọng bởi ư nghĩa của các tín hiệu điện tủ và lời nói dưới dạng kỹ thuật số được hoán chuyển sang dấu hiệu âm thanh rồi truyền đến 1 chíp giải mă được đặt dưới da . Một sợi dây điện cực nhỏ kết nối chip này đến các điện cực cấy ghép vào cuống năo . Tùy thuộc vào âm thanh, các điện cực cung cấp kích thích khác nhau đến cuống năo khiến cho người điếc nghe thấy một loạt các loại âm thanh.

NHỮNG BỆNH NHÂN SỬ DỤNG CẤY GHÉP CUỐNG NĂO THÍNH GIÁC (USERS OF AUDITORY BRAINSTEM IMPLANT)

Thông thường, những người cấy ghép cuống năo thính giác phải hứng chịu bệnh u xơ thần kinh loại 2 (neurofibromatosis) , một cănbệnh phát sinh ra các khối u trong năo. Sự hư hỏng dây thần kinh thính giác có thể là kết quả từ việc loại bỏ các khối u âm thanh song phương / cùng lúc.

Do phải yêu cầu làm phẫu thuật năo cho việc cấy ghép này và hiệu quả hạn chế của việc cấy ghép này, số người tiếp nhận kiểu cấy ghép là rất ít.


Lynn Ly (09-12/07/2010, bổ xung và điều chỉnh thông tin 17/01/2013)

Lynn sẽ gom thời gian phỏng dịch và biên soạn tổng hợp 1 số thông tin quan trọng thu lượm từ bệnh nhân khi họ sứ dụng từng loại máy hay cách cấy ghép! Cầu mong bất kỳ ai bị tật bệnh đều được giải trừ và giảm thiểu tối đa những hạn chế của tật bệnh ḿnh đeo mang !!!

florida80
05-16-2019, 18:08
NHỮNG CƠ BẢN VỀ THỂ DỤC :
NẾU BẠN CÓ SỰ RỐI LOẠN CHẢY MÁU HOẶC ĐÔNG MÁU
( EXERCISE BASICS: If you have a Bleeding or Clotting Disorder )
Lynn Ly Phỏng Dịch theo thông tin Đại Học Y OHIO-Hoa Kỳ


TẬP THỂ DỤC CÓ TỐT CHO TÔI KHÔNG?

Có!Tập thể dục tốt cho bạn. Vai tṛ của tập thể dục là tăng cường hoạt động thể chất/vận động vật lư, sức khỏe và tinh thần và giao tế xă hội. Bác sĩ phẫu thuật tại Hoa Kỳ cho khuyến cáo phổ biến là những hoạt động thể chât/vận động vật lư "không cần phải vất vả." Những người ở tuổi trưởng thành nên cố gắng thực hiện trong ṿng 30 phút hoạt động hàng ngày hoặc nhiều hơn so với việc đi bộ trung b́nh 10000 bước mỗi ngày . Các loại tập thể dục có thể được tích lũy trong 5 đến 10 phút khởi đầu hoặc những vận động có thể làm liên tục. Điều quan trọng nhất là mọi người đang nhúc động .

TẠI SAO HOẠT ĐỘNG THỂ CHẤT/ VẬN ĐỘNG VẬT LƯ QUAN TRỌNG?

Mục đích của hoạt động thể chất VẬN ĐỘNG VẬT LƯ là:
• Bảo tồn hoặc khôi phục lại ROM (phạm vi cử động) và tính linh hoạt xung quanh các xương khớp

• Tăng điều kiện lưu thông khí trong cơ thể

• Tăng sức mạnh cơ bắp và sức chịu đựng(endurance)

• Tăng trang thái tâm lư lành mạnh

• Giảm những hung hiểm rủi ro sức khỏe ma` liên quan với một lối sống ít vận động


Cả hai sự xuất huyết tại cơ bắp và tại xương khớp đều khiến tế bào mô bị sa thải hoang phí ( atrophy = teo cơ). Điều này có thể dẫn đến nhừng xuất huyết mới, đau nhức, và cứng khớp và có thể gây tổn thuơng xương khớp.

Tập thể dục cũng được sử dụng như một công cụ pḥng chống bệnh tật. Những động tác co duỗi trợ giúp cải thiện tính linh hoạt, trợ giúp giảm thiểu nguy cơ chấn thương. Việc tạo điều kiện lưu thông khí trong cơ thể trợ giúp phổi và các cơ bắp cải thiện chức năng của chúng. Việc đào tạo ra năng lực cho phép cơ bắp thích ứng với yêu cầu mới đặt ra. V́ vậy, ít cóchấn thương xẩy ra cho cơ thể và điều này làm cho việc bảo vệ tốt hơn trong quá tŕnh nhiễm trùng và nhiễm bệnh.

Thông thường, việc kiên tŕ thực hiện là rất quan trọng để duy tŕ những lợi ích từ sự hoạt động. Hoạt động thể chất/vận động vật lư sẽ trợ giúp các chất dinh dưỡng được đưa đến các sụn của xương khớp. Điều này giúp ǵn giữ cho cơ bắp và các khớp xương mạnh, giảm thiểu sự mất xương, giúp có được dung dịch cần thiết cho xương sụn và giúp giảm bớt sự cứng đờ và cảm giác đau nhức tại các khớp xương. Hoạt động thể chất/vận động vật lư cũng có thể giúp cải thiện tuần hoàn, giảm thiếu suy tĩnh mạch (máu không thể trở về tim một cách dễ dàng), và gia tăng dung tích lá phổi mà kèm theo là chứng thuyên tắc phổi( PE = pulmonary embolism) . Tập thể dục có thể mang lại lợi ích bất cứ ai bị rối loạng đông máu hoặc rối loạn chảy máu.

TÔI NÊN THỰC THIỆN LOẠI THỂ DỤC NÀO?

Trước khi bắt đầu một chương tŕnh luyện tập thể dục, hăy tham khoải với bác sĩ của bạn. The dục nhẹ nhàng đến dùng mức độ vừa phải/ trung b́nh là tốt nhất để bắt đầu. Để đo lường sự nỗ lực của bạn, hăy sử dụng cách thử nghiệm "khả năng nói" như sau:
• Nếu bạn có thể hát trong khi tập thể dục, bạn đang tập luyện ở mức độ nhẹ nhàng.

• Nếu bạn có thể nói chuyện, bạn đang tập luyện ở mức vừa phải.

• Nếu bạn có khó khăn trong việc tiếp tục đàm thoại, bạn đang tập luyện ở cường độ mạnh.


Chỉ tiêu nhịp tim (THR=target heart rate) là một cách khác để theo dơi cường độ mà là phù hợp với lứa tuổi và điều kiện thế chất của bạn . Các chuyên gia y tế , bác sĩ của bạn có thể giúp bạn t́m hiểu làm thế nào để sờ mạch tim và cần biết những ǵ về chỉ tiêu nhịp tim của bạn nên có.

Đi bộ, tản bộ, bơi lội, đạp xe đạp (có đội mũ an toàn), khiêu vũ, chơi tṛ ném và chụp đĩa (Frisbee), chơi golf, và tập Thái Cực Quyên là những ví dụ tốt về sự lựa chọn an toàn cho hoạt động thể chất/vận động vật lư. Các động tác làm nóng cơ thể ( vận động nhẹ nhàng khoảng 5-10 phút), các động tác co duỗi (không co thắt quá, và căng giăn nhẹ nhẹ)trước khi thế dục, và những động tác làm giảm thân nhiệt ngay sau khi thể dục cũng rất quan trọng như kiếu vận động mà bạn đă lựa chọn. Khi cơ bắp được làm ấm lên th́ sẽ có ít nguy cơ bị chấn thương.

Đặc biệt nguy hiểm là không vận động nếu bạn có rối loạn đông máu. Bạn cần phải chắc chắn rằng bạn di chuyển/ vận động nếu bạn đă ngồi hoặc không hoạt động trong khoảng thời gian lâu hơn 2 giờ tại một thời điểm. Bởi v́ các cơ bắp của bạn hoạt động như một máy bơm. Khi cơ bắp co giăn, chúng trợ giúp máu di chuyển trong cơ thể của bạn.

Dưới đây là một số ư tưởng để ǵn giữ bạn di động/chuyến động. Đây là những việc đơn giản bạn có thể làm trong khi ngồi tại nơi làm việc hoặc trong xe, hoặc trên máy máy khi đi du lịch:
• Hăy đứng dậy và đi bộ trong vài phút

• Nhấp nhún lên xuống mắt cá chân của bạn

• Co lại và duỗi giăn cơ bắp chân của bạn

• Tháng ba tại chỗ

• Nắm bóp bàn tay của bạn



PHẢI LÀM G̀ SAU KHI BỊ THƯƠNG?

Những dấu hiệu tổn thương bao gồm sưng, đỏ, nóng ấm, và sự vận động suy giảm tại một khớp xương cùng như đau nhức khi chạm vào. Những dấu hiệu sớm của một chấn thương, trước khi bị sưng, th́ bao gồm ngứa ran, nóng ấm hoặc bất kỳ biến đổi được ghi nhận trong khu vực bị căng thẳng hoặc bị chấn thương.

Đây là các bước thực hiện ngay sau khi xảy ra một thương tích. Sử dụng cách nhớ với chữ R.I.C.E(rice=gạo)

R.I.C.E
• Thả lỏng cho vùng bị ảnh hưởng được nghỉ ngơi (Rest the affected part)

• Làm đông lạnh khu vực đó bằng cách trườm nước đá trong ṿng 15 phút mỗi giờ.(Ice the area by applying ice for 15 minutes every hour)

• Bó nén khu vực đó bằng cách sử dụng miếng băng quấn có tính đàn hồi (Compress the area by using an ace wrap)

• Nâng cao vùng bị ảnh hưởng( Elevate the affected area..


Một vành đai để đeo hoặc bó thanh nẹp có thể được sử dụng nếu sự hỗ trợ là cần thiết. Bạn có thể cần được tham khám bởi bác sĩ của bạn.

Nếu các bước này không thay đổi các triệu chứng của bạn hoặc nếu bạn nhận thấy bạn đang khó thở, thở dốc, thở hổn hển (SOB = short of breath) hoặc đau tức ngực, bạn có thể trảichứng thuyên tắc phổi(PE = pulmonary embolism).

Những vấn đề cần sự chăm sóc y khoa ngay lập tức:
• Khu vực khớp xương bị chảy máu: các triệu chứng bao gồm ngứa ran, nóng ấm, đau nhức và sưng.

• Thuyên tắc phổi (PE): Các triệu chứng bao gồm khó thở/thổ dôc/thở hổn hển và đau ngực


Hăy tham khảo bác sĩ của bạn nếu bạn có bất kỳ thắc mắc ǵ.

florida80
05-16-2019, 18:11
Bệnh động kinh là gánh nặng cho các nước đang phát triển


https://i.imgur.com/FPl4pkn.jpg


Động kinh do sự phát sinh quá độ điện trong năo bộ khiến cho một người có các cử động bất thường hay bị hôn mê hoặc trong một số trường hợp có các cảm giác bất thường.


Joe De Capua - VOA - 02.10.2012
Các nước đang phát triển đang chứng kiến tỷ lệ tăng cao về các chứng bệnh không lây nhiễm như tiểu đường, ung thư và bệnh tim mạch. Nhưng các nhà khảo cứu nói các nước đó vốn đă có một con số không cân xứng về các ca bị chứng động kinh so với các nước giàu hơn.

Các nhà khảo cứu nói mặc dầu động kinh là “một trong các chứng rối loạn tốn kém nhất để điều trị,” các nước đang phát triển mang một “gánh nặng.” Họ nói rằng con số người bị chứng động kinh sống ở các nước có thu nhập thấp hay trung b́nh cao gấp đôi.

Các kết quả được đưa ra trong tạp chí y khoa The Lancet.

Giáo sư phân tâm học của trường Đại học Oxford, ông Charles Newton, là tác giả chính của cuộc khảo cứu. Ông dành phần lớn thời gian ở Kenya và Tanzania cho các chương tŕnh Wellcome Trust. Ông giải thích:

“Động kinh là t́nh trạng trong đó một sự phát sinh quá độ về thần kinh hay điện trong năo bộ khiến cho một người có các cử động bất thường hay bị hôn mê hoặc trong một số trường hợp có các cảm giác bất thường.”

Động kinh là một từ bao trùm cho t́nh trạng gây ra bởi nhiều nguyên do và có thể xảy ra ở bất cứ tuổi nào. Ông cho biết:

“Nó có thể do di truyền. Nó có thể có các lư do về gien. Nó có thể gây ra v́ bị nhiễm trùng, bị chấn động lúc sinh nở, bị thương tích ở đầu hay cả do những thứ như đột quỵ hay khối u trong năo.”

Ông Newton cho hay ở châu Phi chấn thương lúc sinh nở thường là do thiếu chăm sóc sản khoa. Và nhiễm trùng năo có thể là do những chứng bệnh trong đó có viêm màng năo và sốt rét. Chứng bệnh này cũng có thể có nhiều h́nh thức:

“Ta có thể thấy những người nh́n sững vào khoảng không rất thường xuyên trong ngày. Những người có các cảm giác lạ kỳ như ảo giác, hay những nười lăn đùng bất tỉnh nhân sự, cứng đơ rồi bắt đầu co giật, lăn lóc dưới đất, nhiều khi đi tiểu ướt cả người.”

Những người bị chứng động kinh c̣n có thể có tỷ lệ tử vong cao hơn nhiều. Chẳng hạn như một người bị co giật có thể bầt tỉnh và dễ bị té, bị phỏng hay bị các tai nạn lao động hơn.

Động kinh là một vấn đề sức khỏe đă có từ lâu đời. Dự án Trị liệu Động kinh nói rằng nhà vật lư học Hy Lạp Hippocrates đă viết cuốn sách đầu tiên về chứng bệnh này vào năm 400 truớc công nguyên. Ông định phá vỡ các huyền thoại, mô tả nó như một chứng rối loạn năo bộ.

Bất kể quan điểm ban đầu đó, những người bị động kinh đă phải đối đầu với sự kỳ thị và thành kiến. Chứng bệnh này, nhiều lúc đă bị mô tả là hậu quả của phù phép, không phải chỉ hồi xưa, mà cả ngày nay nữa.

Ông Newton nói thành kiến và sự kỳ thị khiến cho những người bị chứng động kinh bớt đi cơ may được giáo dục, đi làm hay thậm chí kết hôn. Gia đ́nh họ thường tránh né. Ông Newton nói không nhất thiết phải như thế:

“Động kinh có thể kiểm soát được với các loại thuốc men tương đối ít tốn kém. Chỉ cần từ 5 đến 10 đôla mỗi năm là có thể kiểm soát được những cơn động kinh hoặc giảm thiểu số lần động kinh nơi khoảng 70% những người mắc bệnh.”

Thuốc thông thường nhất dùng để điều trị động kinh ở châu Phi là Phenobarbital. Tuy nhiên, thuốc này có những phản ứng phụ, như hiếu động thái quá và nổi mần da nơi trẻ em và gây buồn ngủ nơi người lớn. Ông Newton nói các loại thuốc mơi hơn đă được phát triển trong những năm vừa qua:

“Vấn đề là tất cả các loại thuốc này rất đắt tiền và những người sống trong các khu vực nghèo khó không thể có được. Do đó tôi nghĩ rằng điều chúng ta cần chú ư đối với các khu vực nghèo khó là t́m cách có được các loại thuốc đă có sẵn và tương đối rẻ tiền, và chúng ta biết rơ các phản ứng phụ là ǵ.”

Nhưng ông Newton và các đồng sự nói rằng ngoài việc làm sao thuốc đến được với người bệnh nhiều hơn, cần phải có nhiều biện pháp hơn để giáo dục và ngăn ngừa chứng động kinh. Ông nói:

“Việc đầu tiên là cảnh báo các cộng đồng để thừa nhận rằng những người bị chứng động kinh thường không biết là ḿnh bị bệnh – và nếu họ biết là họ bị bệnh th́ lại không biết rằng bệnh có thể được kiểm soát bằng điều trị y tế.”

Ông Newton cho rằng nếu chăm sóc thai phụ được cải thiện, nếu có thể tránh được các vụ nhiễm trùng năo qua vệ sinh tốt hơn và các nỗ lực khác, nếu áp dụng việc bảo vệ tốt hơn để tránh chấn thượng đầu, th́ có thể ngăn chặn tới 50% các ca động kinh tại nhiều nơi ở châu Phi.

Ông kêu gọi Liên Hiệp Quốc bao gồm động kinh trong danh sách các chứng bệnh không lây nhiễm cần phải chú ư nhiều hơn.

Back to top

florida80
05-16-2019, 18:11
các anh chị em tham khảo để biết rơ thêm về Chứng Co Giật (seizure) và cơn Động Kinh Co giật (Epileptic seizure = epilepsy = seizure disorder=Crises D'epilepsie) từ tài liệu cấp cứu và hồi sức tích cực của BS Nguyễn Văn Thịnh người có thâm niên nhiều năm trong ngành cấp cứu và đang làm việc tại Bỉ - Châu Âu . Bài viết cho thông tin và phác đồ trị liệu rất hay !!!

Cấp Cứu Nội Thần Kinh :
•Co Giật (Seizures)

•Cơn Động Kinh (Crises D'epilepsie)

•Trạng Thái Động Kinh (Status Epilepticus)


Theo Lynn biết th́ Y Khoa (Tây Y và Đông Y) đều có xác định và phân loại các kiểu động kinh dựa theo 1 số đặc điểm biểu hiện của căn bệnh động kinh khi xuất hiện trên người , và dựa vào sự khởi phát căn bệnh ở độ tuổi nào ... để từ đó BS Đông Y cũng như Tây Y có thể nhận dạng của từng trường hợp về hội chứng động kinh . Tuy nhiên, hầu như đại đa số ai cũng biết là phía Đông Y không có những công tŕnh nghiên cứu trên địa bàn rộng lớn như Tây Y, cho nên Đông Y không phân chia các loại động kinh chi tiết như tây Y . Dù vậy, trị liệu theo hướng Đông Y là phương pháp châm cứu để cấp cứu nội thần kinh xưa giờ cũng rất hiệu quả về tất cả các kiểu động kinh .

Theo Y văn hiện giờ th́ động kinh chia làm 2 loại chính : Co giật toàn phần (cơn động kinh liên quan đến cả 2 bên năo bộ cùng 1 lúc), co giật không toàn phần / Co giật một phần / Co giật cục bộ (cơn động kinh chỉ liên quan đến 1 bên năo bộ) . Phân định rơ ràng chi tiết hơn để trợ giúp BS nhận dạng chứng co giật trong việc chỉ định liều lượng và cho thuốc cứu chữa th́ cơ bản là liệt kê các loại động kinh như sau:

Co giật toàn phần (Primary generalized seizures)
•Absence seizures

•Atypical absence seizures

•Myoclonic seizures

•Atonic seizures

•Tonic seizures

•Clonic seizures

•Tonic-clonic seizures


Co giật không toàn phần / co giật một phần / Co giật cục bộ (Partial Seizures)
•Simple partial seizures

•Complex partial seizures

•Secondarily generalized seizures

florida80
05-16-2019, 18:12
CẤP CỨU NỘI THẦN KINH SỐ 7

CO GIẬT (SEIZURES)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH


1/ THẾ NÀO LÀ MỘT CƠN CO GIẬT ?

Co giật (seizures) là kết quả của sự phóng điện quá mức hay hỗn loạn (excessive or chaotic discharge) từ các tế bào thần kinh năo bộ. Mặc dầu hầu hết các nhà lâm sàng gọi hậu quả của sự phóng điện này (ví dụ : các cử động giật, nh́n trừng) là một cơn co giật (a seizure), nhưng cơn co giật tự bản thân là hoạt động của tế bào thần kinh (neuronal activity). Những biểu hiện quan sát được được gọi là hoạt động co giật (seizure activity).

Tầm quan trọng của các cơn co giật là rơ ràng. Cái ǵ đó cản trở sự hoạt động b́nh thường của một nhóm tế bào thần kinh. Những công tŕnh nghiên cứu kiểm tra sự tạo nên các sản phẩm phụ chuyển hóa (metabolic by-products) cho thấy rằng chính hoạt động điện bất thường, chứ không phải là sự tích tụ các sản phẩm phụ chuyển hóa, gây nên sự thương tổn và chết tế bào. V́ những lư do không được biết rơ, thùy hải mă (hippocampus) dường như đặc biệt nhạy cảm đối với thương tổn này.

2/ LÀM SAO NHẬN BIẾT MỘT CƠN CO GIẬT.

Điều này không hiển nhiên như có vẻ như vậy. Các cơn co giật có thể biểu hiện bằng nhiều cách, tùy theo kích thước và định vị của vùng năo bộ bị thương tổn. Nói chung, các cơn co giật được xếp thành 3 loại : cục bộ, toàn thể, và cục bộ với toàn thể hóa thứ phát. Một cơn co giật cục bộ (focal seizure) được giới hạn vào một vùng đặc biệt của năo bộ và chỉ ảnh hưởng một vùng nào đó của cơ thể. Một cơn co giật toàn thể (generalized seizure) được biểu hiện bởi hoạt động co giật lên toàn bộ cơ thể. Một cơn co giật cục bộ với toàn thể hóa thứ phát (focal seizure with secondary generalization) khởi đầu chỉ ảnh hưởng lên một phần của năo bộ nhưng sau đó lan rộng ra lên toàn bộ năo. Biểu hiện khởi đầu được tách biệt vào một vùng đặc biệt của cơ thể nhưng lan ra ảnh hưởng lên toàn bộ cơ thể. Hoạt động co giật không điển h́nh (atypical seizure activity) khó nhận biết hơn nhiều. Nếu một cơn co giật đă xảy ra nhưng đă dừng lại trước khi khám bệnh nhân, phải t́m kiếm những dấu hiệu thứ phát, bao gồm sự lú lẩn sau co giật, són đái hay phân, và cắn lưỡi hay niêm mạc miệng.


XẾP LOẠI CÁC CO GIẬT


LOẠI

BIỂU HIỆN

TOÀN THỂ
Co cứng-co giật (động kinh cơn lớn) (tonic-clonic) (grand mal) Mất tri giác, tiếp theo ngay sau bởi co cứng các cơ, sau đó co giật các cơ (jerkinh : giật), có thể kéo dài trong vài phút. Một thời kỳ mất định hướng (thời kỳ sau động kinh) xảy ra sau hoạt động co cứng-co giật.
Cơn vắng ư thức (động kinh cơn nhỏ) (absence)
(petit mal) Đột nhiên mất ư thức với dừng hoạt động hay kiểm soát tư thế. Thời kỳ thường kéo dài vài giây đến vài phút và được đi kèm theo bởi một thời kỳ sau động kinh tương đối ngắn.
Mất trương lực (drop attacks) Mất hoàn toàn kiểm soát tư thế và ngă xuống đất, đôi khi gây chấn thương. Thường xảy ra nơi các trẻ em.
MỘT PHẦN HAY CỤC BỘ
Một phần đơn thuần (simple partial) Có thể có nhiều dạng tùy theo vùng năo bộ bị ảnh hưởng. Nếu vỏ năo vận động bị kích thích, bệnh nhân sẽ có co thắt của vùng cơ thể tương ứng. Nếu vùng không vận động của năo bị kích thích, cảm giác có thể gồm có dị cảm, ảo giác, và déjà vu.
Một phần phức hợp (complex partiel) Thường cớ mất hoạt động vận động đang tiếp diễn, với hoạt động vận động nhỏ, như chắc lưỡi, và đi không có mục đích.
MỘT PHẦN VỚI TOÀN THỂ HÓA THỨ PHÁT Những triệu chứng khởi đầu cũng giống như động kinh một phần. Tuy nhiên, hoạt động tiến triển để ảnh hưởng lên toàn cơ thể, với mất kiểm soát tư thế và có thể có hoạt động cơ co cứng-co giật.

3/ THÁI ĐỘ XỬ TRÍ BAN ĐẦU ĐỐI VỚI MỘT BỆNH NHÂN ĐANG CO GIẬT ?

Hăy bắt đầu với ABC (airway, breathing, circulation), nhằm tất cả các dấu hiệu sinh tồn. Trước hết nên hướng sự chú ư vào đường hô hấp (airway) của bệnh nhân. Có nhiều kỹ thuật để mở hoặc có được một airway. Nên cho oxy bổ sung bởi v́ nhu cầu oxy gia tăng do sự co thắt cơ quá mức. Đánh giá t́nh trạng tim mạch với sự xác định huyết áp và capillary refill và điều chỉnh với dịch(nước muối sinh lư hay dụng dịch lactated ringer). Chú ư vào nhiệt độ và đáp ứng nhanh chóng với một bất thường là điều quan trọng.

Hầu hết can thiệp tích cực nơi bệnh nhân bị co giật nhằm vào ngăn ngừa chấn thương hay hít dịch. Bệnh nhân nên được kềm giữ (nhẹ nhàng) và, nếu có thể, nên được nghiêng về một bên để làm giảm khả năng bị hít dịch. Hút dịch miệng bệnh nhân nên được thực hiện trong lúc co giật. Điều quan trọng là không nên đặt bất cứ cái ǵ có thể bị hít hay bị cắn (kể cả các ngón tay của anh) vào trong miệng của bệnh nhân. Oxy bổ sung nên được cho bằng canun mũi (nasal cannula) hay mặt nạ, nhưng sự sử dụng thông khí bổ sung hiếm khi cần thiết nơi bệnh nhân với co giật không biến chứng.

4/ CƠN ĐỘNG KINH LIÊN TỤC (STATUS EPILEPTICUS) LÀ G̀ ?

• đó là một “ một cơn co giật động kinh (epileptic seizure) lập lại thường xuyên hoặc kéo dài tạo nên một t́nh trạng động kinh (epileptic condition) cố định và kéo dài ”.

• theo truyền thống được gọi là cơn động kinh liên tục (status epilepticus) nếu cơn co giật kéo dài hơn 30 phút hoặc các cơn co giật tái diễn nhưng bệnh nhân không tỉnh dậy giữa các cơn. Những khuyến nghị và mô tả hiện nay là hoạt động co giật kéo dài hơn 5 phút và không thể ngừng lại một cách ngẫu nhiên nên được xem là cơn động kinh liên tục (status epilepticus). Điều trị nên được bắt đầu trong ṿng 5 phút này.


Những bệnh nhân với chẩn đoán cơn động kinh liên tục (status epilepticus) cần được đánh giá kỹ và sâu rộng. Điều này bao gồm một đánh giá hoàn chỉnh để nhận diện và điều trị bất cứ các nguyên nhân gây cơn động kinh liên tục có thể đảo ngược và can thiệp nhanh để chấm dứt hoạt động neurone bất thường. Điều trị hỗ trợ đầy đủ để ngăn ngừa những biến chứng do các cơn co giật và những điều trị chúng (ví dụ suy hô hấp, tan cơ vân, hay sốt) là quan trọng.

5/ CÁC CO GIẬT ĐƯỢC LÀM NGỪNG NHƯ THẾ NÀO ?

Nếu một cơn co giật kéo dài hơn 5 phút, cần phải can thiệp ngay. Trong y khoa truyền thống, chuỗi thông thường là chẩn đoán, sau đó mới điều trị. Thường trong y khoa cấp cứu, cần chẩn đoán và điều trị đồng thời. Đừng chờ đợi cho đến khi đă lấy xong bệnh sử, khám nghiệm vật lư hoàn chỉnh, cho y lệnh làm những xét nghiệm phụ, rồi mới điều trị co giật. Các co giật làm thương tổn năo bộ ; càng để các cơn co giật diễn biến liên tục, th́ càng có nhiều tổn hại xảy ra.

Các benzodiazepine là những thuốc được lựa chọn đầu tiên để điều trị các cơn co giật kéo dài hơn 5 phút. Lorazepam (Témesta) là benzodiazepine tuyến đầu được ưa thích để điều trị các cơn co giật do tính hiệu quả gia tăng và thời gian bán hủy dài hơn trong việc giữ cho các cơn co giật khỏi bị tái phát so với diazepam (Valium). Liều lượng người trưởng thành của Lorazepam là 2-4 mg tiêm tĩnh mạch trực tiếp, với liều lượng tối đa 10-15 mg. Nếu không có lorazepam, có thể cho diazepam với liều lượng 5-10 mg tiêm tĩnh mạch trực tiếp, không vượt quá 30 mg trong một thời gian 8 giờ. Nếu nhiều liều benzodiazepine không làm ngừng co giật hay nếu benzodiazepines bị chống chỉ định nơi bệnh nhân, nên cho một liều lượng tấn công của thuốc chống động kinh nguyên phát (primary anticonvulsant).

Nếu không có đường tĩnh mạch, midazolam (Dormicum) có thể được sử dụng bằng tiêm mông hay bằng đường trực tràng. Mặc dầu diazepam và lorazepam không được khuyến nghị dùng bằng đường tiêm mông do sự hấp thụ thất thường, midazolam với liều lượng 0,05 mg/kg đă được sử dụng để điều trị thành công cơn động kinh liên tục (status epilepticus).

6/ KHI CO GIẬT ĐĂ DỪNG, LÀM SAO GIỮ CHO KHỎI TÁI PHÁT ?

Vấn đề này mang chúng ta đến một loại thuốc khác, các thuốc chống co giật (anticonvulsant). Các thuốc chống co giật không chỉ giữ cho các co cơn giật khỏi tái phát ở pḥng cấp cứu mà c̣n được sử dụng để làm ngưng các cơn co giật đề kháng với benzodiazepines.


THUỐC CHỐNG CO GIẬT


TÊN THUỐC

LIỀU LƯỢNG

ĐƯỜNG CHO THUỐC

B̀NH LUẬN

Phenytoin
(Dialantin, Diphantoine) ampoules 250mg/5ml

18-20 mg/kg
Tiêm tĩnh mạch Không nên cho nhanh hơn 50mg/phút ; bệnh nhân nên được monitor tim ; ngưng truyền nếu độc tính xuất hiện (QRS kéo dài hơn 50% căn bản, hạ huyết áp). Nếu động kinh liên tục tiếp diễn, có thể gia tăng liều lượng toàn bộ lên đến 30 mg/kg.
Fosphenytoin
(ProDilantin)
15-20 PE/kg
Tiêm tĩnh mạch, Tiêm mông Đơn vị đo lường là PE (phenytoin equivalent), được ghi chú trên chai thuốc. Thuốc này là chất tiền thân của phenytoin, như vậy an toàn khi tiêm truyền nhanh mà không gây các tác dụng huyết động nghịch. Một nồng độ điều trị của thuốc này đạt được nhanh hơn nhiều so với dilantin.
Fosphenytoin Phenobarbital
(Gardénal)
Flacons 40 mg và 200mg

lên đến 15mg/kg
Tiêm tĩnh mạch Không nên cho nhanh hơn 100mg/phút ; liều lượng có thể được nhắc lại một lần sau 30 phút nếu không có hiệu quả ; liều lượng tổng cộng tối đa là 600 mg ; coi chừng giảm áp hô hấp, đặc biệt là nếu bệnh nhân đă nhận diazepam
Pentobarbital
12mg/kg
Tiêm tĩnh mạch Chỉ sử dụng khi những loại thuốc khác thất bại
Lidocaine
1-1,5 mg/kg
Tiêm tĩnh mạch Đă được ghi nhận là làm ngưng t́nh trạng động kinh liên tục
Propofol
(Diprivan)
2mg/kg
Tiêm tĩnh mạch Có những báo cáo về sự sử dụng propofol trong trường hợp cơn động kinh liên tục đề kháng. Nên được sử dụng với nội thông khí quản và thông khí cơ học. Coi chừng hạ huyết áp và chuẩn bị để điều trị


7/ KỂ NHỮNG NGUYÊN NHÂN THÔNG THƯỜNG NHẤT CỦA CO GIẬT

Những nguyên nhân có thể đảo ngược tức thời mà các thầy thuốc cần cảnh giác gồm có hạ glucose-huyết và giảm oxy-mô (thứ phát ngộ độc nha phiến).

•Nhũ nhi

◦Chấn thương sinh đẻ (giảm oxy mô, chấn thương nội sọ)

◦Nhiễm trùng (áp xe năo, viêm màng năo)

◦Các bất thường điện giải (giảm natri-huyết, giảm canxi-huyết, giảm magnesi-huyết)

◦Các dị dạng bẩm sinh (các nang trong năo bộ, tràn dịch năo)

◦Các rối loạn di truyền (sai lầm chuyển hóa bẩm sinh, thiếu hụt pyridoxine)



•Trẻ em

◦Co giật do sốt cao

◦Co giật không rơ nguyên nhân

◦Chấn thương

◦Nhiễm trùng (viêm màng năo)



•Thiếu niên

◦Chấn thương

◦Co giật không rơ nguyên nhân

◦Ma túy hay rượu (ngộ độc hay cai cấp tính).

◦Dị dạng động-tĩnh mạch



•Thanh niên

◦Chấn thương

◦Rượu (ngộ độc hay cai cấp tính)

◦U năo



•Người trưởng thành lớn tuổi hơn

◦U năo

◦Đột quy

◦Xuất huyết trong năo.

◦Nghiện rượu

◦Các rối loạn chuyển hóa (hạ natri-huyết, tăng natri-huyết, giảm canxi-huyết, hạ đường huyết, uremia, suy gan)





8/ BỆNH SỬ CÓ QUAN TRỌNG KHÔNG ?

Bệnh sử vô cùng quan trọng ! Bạn có thể sử dụng COLD để chắc chắn rằng bạn đă hỏi các khía cạnh của hoạt động co giật :

•Character (tính chất) : Loại hoạt động co giật nào đă xảy ra ?

•Onset (Khởi đầu) : Co giật khởi đầu khi nào ? Trong khi bệnh nhân đang làm ǵ ?

•Location (vị trí) : Hoạt động co giật bắt đầu ở đâu ?

•Duration (thời gian) : co giật kéo dài bao lâu ?


Nói chung những co giật thật sự có khuynh hướng xảy ra đột ngột, có bài bảng (stereotyped) (những tính chất cơ bản của co giật được duy tŕ từ đợt này qua đợt khác), và không bị kích thích bởi những kích thích môi trường, được biểu hiện bởi những cử động không mục đích và không thích hợp, và, ngoại trừ nhưng co giật cỡ nhỏ, được tiếp theo sau bởi một thời kỳ lú lẩn và ngủ lịm (lethargy) (thời kỳ sau cơn vật). Những điểm quan trọng khác bao gồm tiền sử của bệnh nhân (đặc biệt là tiền sử co giật trước đây), sử dụng rượu và uống các độc chất khác, những thuốc đang sử dụng, và tiền sử các khối u hệ thần kinh trung ương, và tiền sử chấn thương mới đây hay đă lâu.

9/ NGOÀI KHÁM THẦN KINH, NHỮNG PHẦN KHÁC NÀO CỦA THĂM KHÁM VẬT LƯ LÀ QUAN TRỌNG VÀ TẠI SAO ?

Một thăm khám hoàn chỉnh từ đầu đến chân là quan trọng. Ngoài việc t́m kiếm các nguyên nhân của co giật, người thầy thuốc nên t́m kiếm chấn thương gây nên bởi co giật. Thăm khám thường b́nh thường nhưng đôi khi có thể cho các manh mối về vấn đề bên dưới. Đặc biệt, thăm khám da có thể phát hiện các thương tổn phù hợp với meningococcemia hay những vấn đề nhiễm trùng khác. Hăy khám đầu t́m các chấn thương. Nếu t́m thấy cứng cổ (nuchal rigidity), viêm màng năo hay xuất huyết dưới màng nhện nên được nghi ngờ. Một tiếng tim thổi, đặc biệt nếu bệnh án chỉ rơ không hề được nghe trước đó, có thể chỉ rơ viêm nội tâm mạc bán cấp do nhiễm khuẩn (subacute bacterial endocarditis), với embolization là nguyên nhân của co giật.

Thăm khám thần kinh là quan trọng. Những dấu hiệu thần kinh khu trú, như liệt nhẹ khu trú (focal paresis) sau co giật (bại liệt Todd) có thể chỉ rơ một thương tổn năo bộ khu trú (khối u, áp xe, đụng dập năo) như là nguyên nhân của co giật. Sự đánh giá các dây thần kinh đầu và đáy mắt có thể chỉ rơ tăng áp lực nội sọ.

10/ NHỮNG XÉT NGHIỆM PHỤ NÀO NÊN ĐƯỢC THỰC HIỆN NƠI MỘT BỆNH NHÂN CO GIẬT ?

Nói chung, việc sử dụng những xét nghiệm phụ tùy thuộc bệnh sử và lâm sàng của bệnh nhân. Nơi bệnh nhân với bệnh sử trước đây có rối loạn co giật, chỉ có một cơn co giật đơn độc, xảy ra tự nhiên, th́ xét nghiệm duy nhất hữu ích là nồng độ của thuốc chống co giật trong máu. Nếu nồng độ ở dưới mức điều trị, bệnh nhân nên được cho một liều tấn công thuốc này để đạt được nồng độ điều trị. Quyết định đánh giá bệnh nhân với những trắc nghiệm phụ khác (xét nghiệm và X quang) nên được căn cứ trên những dấu hiệu của bệnh sử và thăm khám vật lư. Nếu có nghi vấn không biết bệnh nhân đă có một cơn co giật vận động quan trọng hay không, nên xét nghiệm các chất điện giải và tính anion gap.

11/ Ư NGHĨA CỦA ANION GAP TRONG CHẤN ĐOÁN ĐỒNG KINH CƠN LỚN (GRAND MAL SEIZURE) ?

Một anion gap gia tăng tạm thời (thời gian 1 giờ) là bằng cớ tốt cho thấy rằng cơn động kinh cơn lớn (grand mal seizure) đă xảy ra. Điều này được xác nhận bằng cách lấy máu càng gần với lúc động kinh càng tốt. Lấy máu nơi xảy ra động kinh là lư tưởng cho khảo sát này. Nếu không có nhiễm toan anion gap, ta sẽ có thể giả định rằng bệnh nhân đă không có một cơn động kinh quan trọng.

12/ PHẢI LÀM G̀ NẾU TRƯỚC ĐÂY BỆNH NHÂN ĐĂ KHÔNG CÓ MỘT CƠN CO GIẬT ?

Nếu đây là một cơn co giật mới khởi ra (new-onset seizure), th́ những xét nghiệm phụ quan trọng hơn. Tuy nhiên hiệu năng thường rất thấp. Một xét nghiệm t́m những rối loạn chuyển hóa (sodium, calcium, glucose, magnesium, BUN tăng cao, hay creatinine) là quan trọng. Những xét nghiệm độc chất (toxicologic screen) nhắm vào các chất được biết là gây co giật (cocaine, lidocaine, thuốc chống trầm cảm, theophylline, và các chất kích thích là trong số những chất thông thường nhất) nên được thực hiện nếu có chỉ định trên phương diện lâm sàng.

13/ CÓ PHẢI TẤT CẢ BỆNH NHÂN VỚI CO GIẬT ĐỀU CẦN LÀM CT SCAN Ở PH̉NG CẤP CỨU ?

Đây là một lănh vực đang c̣n tiếp tục được nghiên cứu. Câu trả lời hay nhất có thể được cho vào lúc này là rằng sự sử dụng chọn lọc CT scan đầu là an toàn trong những t́nh huống thích đáng. Những bệnh nhân nên được chụp CT scan đầu ở pḥng cấp cứu gồm có những bệnh nhân được nghi có một biến cố cấp tính trong sọ (ví dụ máu tụ dưới màng cứng, xuất huyết dưới màng nhện), những bệnh nhân có một trạng thái tâm thần bị biến đổi kéo dài (t́nh trạng sau vật kéo dài) hay một thăm khám thần kinh bất b́nh thường, và những bệnh nhân không thể đảm bảo một đánh giá theo dơi nhanh chóng bởi thầy thuốc tuyến đầu hay thầy thuốc chuyên khoa thần kinh.

14/ XỬ TRÍ THÍCH ĐÁNG MỘT BỆNH NHÂN VỚI CO GIẬT TÁI PHÁT ?

Nếu như không có những dấu hiệu bất thường trong bệnh sử hay thăm khám vật lư, bệnh nhân có thể được cho xuất viện với theo dơi bởi thầy thuốc gia đ́nh hay thầy thuốc chuyên khoa thần kinh của bệnh nhân. Nếu nồng độ thuốc chống co giật b́nh thường hay bệnh sử gợi ư một sự thay đổi hoạt động(ví dụ tần số cơn gia tăng, loại động kinh khác), th́ bệnh nhân nên được đánh giá như là một bệnh nhân với cơn co giật mới. Điều này có thể bao gồm sự nhập viện nếu việc theo dơi không được đảm bảo hay nếu các dấu hiệu lúc thăm ḍ cho thấy cần phải nhập viện

15/ SỰ VIỆC BỆNH NHÂN CÓ CƠN CO GIẬT LẦN ĐẦU CÓ KHÁC NHAU TRONG ĐIỀU TRỊ VÀ XỬ LƯ HAY KHÔNG ?

Những bệnh nhân với cơn co giật lần đầu (first-time seizure) có khả năng được nhập viện hơn sau khi đă đánh giá ở pḥng cấp cứu. Nếu cơn co giật xảy ra ngắn ngủi, thăm khám vật lư và các xét nghiệm phụ tất cả đều b́nh thường, và sự theo dơi bởi thầy thuốc gia đ́nh hay thầy thuốc thần kinh có thể được xếp đặt trước khi bệnh nhân được cho ra khỏi pḥng cấp cứu, th́ sự nhập viện có thể không cần thiết.

Cũng tương tự như vậy, không phải tất cả các bệnh nhân bị co giật lần đầu đều cần phải bắt đầu cho thuốc chống động kinh. Những lời khuyên đặc biệt về việc sử dụng các thuốc chống động kinh nơi những bệnh nhân này là khó. Nếu có thể theo dơi sát bởi thầy thuốc gia đ́nh hay thầy thuốc thần kinh, và nếu bệnh nhân có thể tin cậy được, th́ việc cho xuất viện mà không bắt đầu cho thuốc chống co giật có thể là thích hợp.

Những chỉ thị xuất viện nên nhấn mạnh với bệnh nhân rằng không được lái xe, vận hành máy móc, hoặc đi đến những chỗ ở cao và mở (ví dụ các platform xây dựng).

16/ CO GIẬT GIẢ (PSEUDOSEIZURE) LÀ G̀, LÀM SAO CHẨN ĐOÁN ?

Những co giật giả (pseudoseizures) là những hoạt động giống co giật (seizure-like activity) nhưng không có hoạt động điện bất thường trong năo bộ. Các co giật giả khó chẩn đoán được ở pḥng cấp cứu. Những thủ thuật đă được chứng tỏ có tác dụng trong vài trường hợp bao gồm sự gợi ư với bệnh nhân rằng co giật chẳng bao lâu sẽ ngừng lại hay cố làm lăng trí bệnh nhân bằng những tiếng động lớn hay những áng sáng chói ḷa trong khi hoạt động “ co giật ” đang diễn biến. Những dạng vẻ của hoạt động bất thường làm cho nó có khả năng là một co giật giả gồm có cử động chi không đồng bộ (asynchronous extremity movement), một cử động đẩy vùng chậu ra phía trước (a forward thrusting movement of the pelvis), và mắt bị lệch về phía đất, dầu cho đầu được đặt ở vị trí nào. Chẩn đoán có thể được thực hiện bằng điện nếu bệnh nhân được móc vào một máy điện tâm đồ. Trong co giật giả, hoạt động điện bất thường không được nh́n thấy. Tương tự, việc đo prolactin huyết thanh 20 phút sau “co giật ” giúp gián biệt một co giật thật sự với một co giật giả. Trong những co giật thật sự, nồng độ prolactin tăng cao ít nhất hai lần, trong khi trong co giật giả, nồng độ prolactin vẫn trong giới hạn b́nh thường. Không có phương pháp nào trong hai phương pháp này có để sử dụng ở pḥng cấp cứu. Các co giật cơn lớn giả (pseudogrand mal seizures) thường không gây nên nhiễm toan chuyển hóa với anion gap, và sự xác định này có thể làm ở pḥng cấp cứu.

BS NGUYỄN VĂN THỊNH (21/3/2010)

florida80
05-16-2019, 18:13
CẤP CỨU NỘI THẦN KINH SỐ 8

CƠN ĐỘNG KINH
(CRISES D’EPILEPSIE)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH

JEAN-LOUIS VINCENT

Chef du Service de soins intensifs Hôpital Erasme Bruxelles .


Cơn động kinh được liên kết với một sự phóng điện giống giao cảm (décharge sympathomimétique) với cao huyết áp, tim nhịp nhanh và một sự gia tăng lưu lượng tim, toát mồ hôi và chảy nhiều nước bọt và sự gia tăng các dịch tiết phế quản.


NHỮNG NGUYÊN NHÂN CHÍNH CỦA CƠN ĐỘNG KINH:
•Bệnh năo chuyển hóa : giảm glucose-huyết, giảm natri-huyết

•Các thương tổn thiếu oxy-mo (lésions postanoxiques)

•Bất thường cấu trúc : chấn thương, tai biến mạch máu năo, khối u…

•Nhiễm trùng của hệ thần kinh trung ương : viêm màng năo, viêm năo, áp xe năo

•Cai thuốc hay cai rượu.

•Ngộ độc thuốc hay rượu.

•Viêm động mạch do viêm (lupus érythémateux).




CÁC BIẾN CHỨNG CHÍNH CỦA CÁC CƠN ĐỘNG KINH
• Hít dịch dạ dày.

• Phù phổi do nguyên nhân thần kinh (oedème pulmonaire neurogénique)

• Thiếu máu cục bộ cơ tim và loạn nhịp tim ; ngừng tim.

• Tiêu cơ vân (rhabdomyolyse) với nguy cơ suy thận cấp tính.

• Sốt



Để xác định nguồn gốc của cơn động kinh, một mô tả lâm sàng có thể rất hữu ích. Một điểm khởi đầu khu trú có thể giúp nhận diện một thương tốn năo bộ. CT Scan năo thường được chỉ định để nhận diện một nguồn gây động kinh khả dĩ. Nếu không có nguy cơ tụt kẹt, chọc ḍ tủy sống có thể hữu ích để loại bỏ một quá tŕnh nhiễm khuẩn. Một thăm ḍ NMR cũng có thể hữu ích trong trường hợp viêm năo.

Những xét nghiệm cần được thực hiện (nhất là nếu động kinh không được biết) :
• xét nghiệm huyết học, glucose-huyết (Dextristix cấp cứu), urée, créatinine, điện giải đồ, calcium và magnésium ionisés ; khí huyết và lactate ;

• CT Scan : tùy theo kết quả, xét chọc ḍ tủy sống và khám NMR.

• Tùy trường hợp, đo nồng độ các chất độc : alcool, tricycliques, cocaine, anti-histamines, aminophylline và isoniazide là những chất thường có liên hệ.

• Đo nồng độ các thuốc chống động kinh (nếu bệnh nhân đă được điều trị trước đây).




TRẠNG THÁI ĐỘNG KINH
(ETAT DE MAL EPILEPIQUE)


Trạng thái động kinh (Status epilepticus) hay cơn động kinh liên tục (état de mal épileptique) được định nghĩa như là một hoạt động co giật kéo dài, hoặc dưới dạng cơn kéo dài ( > 5 phút ), hoặc dưới dạng các cơn nối tiếp nhau, mà bệnh nhân không tỉnh lại giữa các cơn (một loạt các cơn động kinh nhưng bệnh nhân tỉnh lại giữa các cơn, không tương ứng với định nghĩa cơn động kinh liên tục). Cơn động kinh liên tục cũng có thể là biểu hiện đầu tiên của bệnh động kinh.

Cơn động kinh liên tục không phải luôn luôn luôn liên kết với các cơn co giật thấy rơ (cơn động kinh liên tục không điển h́nh, mal épileptique larvé). Cơn động kinh liên tục cũng có thể bị che khuất bởi một điều trị an thần hoặc thuốc thư giăn cơ (myorelaxant). Điện năo đồ là xét nghiệm lựa chọn để nhận biết cơn động kinh. Điện năo đồ có thể vẫn bị xáo trộn sau cơn động kinh.

Cơn động kinh liên tục là một cấp cứu nội khoa, có tỷ lệ bệnh và tử vong quan trọng. Các thương tổn thường trực của năo bộ có thể xuất hiện khi cơn vượt quá 20 đến 30 phút. Các vùng limbique (hải mă : hippocampe) đặc biệt nhạy cảm. Tỷ lệ tử vong từ 20 đến 25% nơi người trưởng thành, tùy theo thời gian kéo dài của các cơn động kinh và tùy theo bệnh lư bên dưới.

THÁI ĐỘ XỬ TRÍ.

CÁC NGUYÊN TẮC CHÍNH
• điều trị phải tiến hành nhanh chóng v́ 2 lư do : một cơn động kinh kéo dài đưa đến những thương tổn thần kinh nghiêm trọng hơn và khó điều trị hơn.

• Tốt hơn là thuốc phải được cho bằng đường tĩnh mạch.

• điều trị có thể cần đến thông khí cơ học (ventilation mécanique)


Về hồi sức cơ bản, trước hết cần bảo về các đường dẫn khí, bằng cách đặt bệnh nhân nằm nghiên để tránh hít dịch dạ dày (tư thế an toàn: position de sécurité). Mặc dầu có những thời kỳ ngừng thở và xanh tía, nói chung những biến chứng hô hấp hạn chế nếu các đường dẫn khi được bảo vệ. Nên cho oxy liệu pháp hào phóng. Sự sử dụng một oxymètre pulsé là rất hữu ích để nhận diện sớm mọi t́nh trang giảm oxy-huyết. Nếu nội thông khí quản tỏ ra cần thiết, có thể cần phải nhờ đến một thuốc làm liệt cơ (paralysant musculaire) có thời gian tác dụng ngắn (như vécuronium 1mg/10kg), để có thể theo dơi thăm khám thần kinh. Một ống thông dạ dày có thể cần thiết để làm giảm nguy cơ hít dịch dạ dày.

Ta cho vitamine B (100mg) trong trường hợp nghiện rượu được xác định hay nghi ngờ hay suy dinh dưỡng ; cho magnésium (1-2g) phải được xét đến, nhất là nơi người nghiện rượu và suy dinh dưỡng.

Ta cho 50mL dung dịch glucose 50% trong trường hợp hạ glucose-huyết hay Na uu trường trong trường hợp hạ natri-huyết.

Một điều trị chồng cao áp phải được thực hiện cấp cứu nếu cơn động kinh xuất hiện trong bối cảnh của một bệnh năo cao áp (encéphalopathie hypertensive) hay một sản giật (éclampsie). Trong những trường hợp khác, cao huyết áp đi kém theo cơn động kinh không được điều trị bởi v́ nó thường có tính cách tạm thời và sự điều chỉnh có thể làm giảm áp suất tưới máu năo.

Toan chuyển hóa lactic có thể nghiêm trọng, nhưng nó có thể tự điều chỉnh nhanh chóng và không cần phải điều trị ; việc tiêm truyền bicarbonate chỉ được chỉ định trong trường hợp đặc biệt.

Về điều trị nhiễm trùng, những viêm màng năo-năo không phải là những nguyên nhân đầu tiên của các cơn động kinh, sự chẩn đoán chúng phải được thực hiện nhanh chóng. Chẩn đoán đôi khi khó, v́ lẽ sốt và tăng bạch cầu là quy tắc trong mỗi cơn động kinh. Ngoài ra, nước năo tủy có thể chứa một số tế bào nào đó.


XẾP LOẠI CHILD-PUGH.



LOẠI VIÊM MÀNG NĂO


BẠCH CẦU (/mm3)


PROTÉINE-NƯỚC NĂO TỦY


GLUCOSE-NƯỚC NĂO TỦY


Vi khuẩn
Nhiều trăm đến > 50.000
Nổi trội bạch cầu đa nhân trung tính. > 100 5-4% glucose-huyết

Lao
25-100 (hiếm khi hơn)
Nổi trội các tế bào lympho (các bạch cầu đa nhân trung tính có thể nổi trội lúc ban đầu). 100-200 (đôi khi hơn) Giảm

Cryptococcose
0-800 (biến thiên)
Nổi trội các tế bào lympho 20-500 (biến thiên) Nói chung giảm

Virus
5 đến nhiều trăm Nổi trội các tế bào lympho (các bạch cầu đa nhân trung tính có thể nổi trội lúc ban đầu). 20-100 (đôi khi hơn trong những trường hợp nặng) B́nh thường (đôi khi hạ trong CMV, herpes simplex, bệnh quai bị)

Ung thư
Biến thiên Thường rất cao Thường thấp



ĐIỀU TRỊ ĐỘNG KINH BẰNG THUỐC.

Tốt hơn là thuốc phải được cho bằng đường tĩnh mạch.

CÁC BENZODIAZEPINES là cần thiết để làm ngưng cơn động kinh, nếu cơn kéo dài (trên 5 phút).
• Lorazépam (Témesta, ampoules 4mg//ml ) là thuốc được ưa thích v́ thời gian tác dụng trên năo bộ kéo dài (2 đến 3 giờ). Liều lượng là 2mg, được lập lại nếu cần, với một liều lượng tổng cộng lên đến 8mg, bằng đường tĩnh mạch.

• Diazépam (Valium, ampoules 10mg/2ml ) , với liều lượng từ 5 đến 15mg bằng đường tĩnh mạch, dễ ḥa tan trong mỡ hơn, đi vào nhanh chóng trong năo bộ, nhưng nhanh chóng bị tái phân bố, v́ vậy thời gian tác dụng trên năo bộ không quá 20 đến 30 phút. Nếu không có đường tĩnh mạch (nhất là ở trẻ em), có thể cho dung dịch tiêm tĩnh mạch diazépam bằng đường trực tràng với liều lượng 0,5 mg/kg (nhưng không vượt quá 20 mg).


CÁC THUỐC CHỐNG ĐỘNG KINH CHÍNH ĐƯỢC SỬ DỤNG DÀI HẠN



Thuốc


Liều lượng mỗi ngày (mg)


Thời gian bán phân hủy


Nồng độ trị liệu (mcg/ml)


Những tác dụng phụ

Diphénylhydantoine
300- 500

20 giờ

10-20
Ph́ đại lợi răng, rậm lông, mụn, biến đổi các xét nghiệm gan.
Phénobarbital
100-200

100 giờ

15-35
An thần, chóng mặt, nôn, trầm cảm
Valproate
1000-3000

15-20 giờ

50-120
Rối loạn tiêu hóa, các trắc nghiệm gan bị biến đổi, run rẩy, giảm tiểu cầu.
Carbamazépine
800-1600

12-20 giờ

8-12
Ngủ gà, rối loạn thị giác, giảm bạch cầu, các trắc nghiệm gan bị biến đổi.



• Midazolam (Dormicum, ampoules 5mg/5ml) là một thuốc lựa chọn thứ hai bởi v́ ít được nghiên cứu trong chỉ định này, và lợi ích của việc tiêm truyền liên tục không chắc chắn.


Trong trường hợp không có đường tĩnh mạch (chủ yếu đó là vấn để nơi trẻ em), ta có thể cho bằng đường trực tràng dung dịch tĩnh mạch diazéapm (Valium), với liều lượng 0,5mg/kg (tuy nhiên không vượt quá 20mg).

DIPHENYLHYDANTOINE (DPH)
• Phénytoine hay diphénylhydantoine (Diphantoine amp 250 mg/ 5ml)

• là thuốc chống động kinh đầu tiên được cho để làm ngưng hẳn cơn động kinh và để ngăn ngừa tái phát.

• DPH chỉ có thể cho bằng đường tĩnh mạch qua một cathéter tĩnh mạch trung ương bởi v́ thuốc có tính chất kích thích ; chích mông không những gây đau đớn mà c̣n có thể đưa đến hoại tử mô.

• liều lượng là 15 đến 20 mg/kg (1 đến 1,5g nơi người trưởng thành). Ở trẻ em dưới 18 tháng, liều lượng là 100 mg trong vài phút ; ở trẻ em trên 18 tháng, liều lượng là 250mg trong 5 phút.

• phải tiêm chậm (50mg/phút, trong 20 đến 30 phút ở người trưởng thành) để tránh hạ huyết áp (giảm áp cơ tim) và những rồi loạn nhịp tim.

• DPH phải được trộn với một dung dịch muối (nguy cơ kết tủa trong dung dịch glucose ) và cho bằng đường tĩnh mạch trung tâm v́ lẽ chất thuốc có tính chất kích thích.

• các tác dụng của DPH bắt đầu tương đối chậm, v́ vậy trước hết phải cho lorazépam hoặc diazépam để làm ngưng cơn động kinh. Nồng độ DPH vẫn có tác dụng điều trị trong gần 24 giờ.

• DPH chỉ kiểm soát được từ 60 đến 80% các cơn động kinh.Trong trường hợp các cơn dai dẳng có thể truyền bổ sung 5-10 mg/kg.

• Trong truong hop cac con keo dài, ta co the them valproate voi lieu luong 20mg/kg.


PHENOBARBITAL

Phénobarbital phải được thêm vào trong trường hợp cơn động kinh kéo dài hoặc tái diễn, với liều lượng khởi đầu 200mg, gia tăng dần dần cho đến một liều lượng cực đại 20 mg/kg. Thuốc phải được tiêm thận trọng và chậm (60 đến 100mg/phút ) v́ lẽ nguy cơ hạ huyết áp do giảm áp cơ tim và giảm trương lực huyết quản. Cấm tiêm mông bởi v́ sự hấp thụ rất chậm. Các nồng độ trị liệu là 15-40 mcg/mL.

GÂY MÊ
• Gây mê liên tục trong 12-24 giờ có thể cần thiết trong trường hợp không đáp ứng với DPH và phénobarbital.

• Tạo hôn mê barbiturique (coma barbiturique) bằng cách truyền liên tục pentobarbital hay thiopental (như trong điều trị cao áp lực nội sọ nghiêm trọng).

• Thiopental được tiêm tĩnh mạch trực tiếp với liều lượng 5mg/kg rồi sau đó truyền 3-5 mg/kg/giờ, nếu cần gia tăng đến 5-6mg/kg/giờ. Nồng độ trị liệu là 20-40 mcg/mL.


CÁC CÁCH KHÁC :
• Midazolam : tiêm tĩnh mạch trực tiếp 10-15 mg rồi sau đó truyền 3-50 mg/giờ.

• Propofol (Diprivan) : tiêm tĩnh mạch trực tiếp 1-2 mg/kg rồi sau đó truyền 2-10mg/kg/giờ.

•Valproate : vị trí của valproate trong điều trị cấp cứu mal épileptique không được xác định rơ, v́ vậy tốt hơn nên tránh sử dụng.

• Cho các thuốc gây mê bằng đường hít (isoflurane) đă được đề nghị, nhưng lợi ích không chắc chắn.

• Cần ghi chú rằng các thuốc thư giăn cơ (myorelaxant) ngăn cản những cử động co giật và do đó làm che lấp các cơn động kinh nhưng không điều trị chúng. Các thuốc này không được sử dụng (trừ trường hợp sử dụng tạm thời để thực hiện một điện năo đồ không bị quấy nhiễu).


ĐIỀU TRỊ PH̉NG NGỪA CÁC CƠN.

CÁC CHỈ ĐỊNH CHÍNH :
• các đụng dập sau chấn thương : điều trị một tuần ;

• phẫu thuật ngoại thần kinh : thời gian điều trị không được xác định rơ (thường từ 1 đến 3 tháng).

• xuất huyết dưới màng nhện.


LA DIPHENYLHYDANTOINE :
• là điều trị mà tính hiệu quả được xác lập hơn hết.

• liều tấn công là 15-20 mg/kg như trong điều trị.

• liều duy tŕ : 5mg/kg/ngày (400mg/ngày) với một liều duy nhất (2 liều/ngày ở trẻ em) ; cần thích ứng tùy theo nồng độ trong máu ; duy tŕ nồng độ từ 10 đến 20 mcg/ml.


LA VALPROATE (DEPAKINE)
• tính hiệu quả không được chứng tỏ lắm như đối với diphenylhydantoine.

• ưu thế là dung nạp tốt lúc chích, có thể được thực hiện nhờ một catheter ngoại biên.

• liều lượng tấn công là 20mg/kg (10mg/kg nơi trẻ em) trong 3-5 phút, rồi truyền sau đó 1mg/kg/giờ.

• những nồng độ cần duy tŕ trong máu là 50-100 mcg/mL.

• nguy cơ chính là sự phát sinh tăng ammoniac-huyết (hyperammoniémie), nguyên nhân của bệnh năo (encéphalopathie).


LE LEVETIRACETAM (KEPPRA) :
• thuốc mới càng ngày càng được sử dụng.

• liều lượng khởi đầu là 500mg 2 lần mỗi ngày, cần gia tăng sau 2-3 tuần, lên đến 1500mg 2 lần mỗi ngày.

• các liều lượng phải được giảm trong trường hợp suy thận.


LA CARBAMAZEPINE (TEGRETOL)
• có thể là một điều trị bổ sung hay trong trường hợp các cơn động kinh bán phần (crises partielles).



BS NGUYỄN VĂN THỊNH (20/5/2010)

florida80
05-16-2019, 18:14
CẤP CỨU NỘI THẦN KINH SỐ 17

TRẠNG THÁI ĐỘNG KINH
(STATUS EPILEPTICUS)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH


1/ ĐỊNH NGHĨA TRẠNG THÁI ĐỘNG KINH.

OMS định nghĩa trạng thái động kinh như là một t́nh trạng được đặc trưng bởi một một cơn động kinh (epileptic seizure) đủ kéo dài hay lập lại với những khoảng thời gian đủ ngắn để gây nên một t́nh trạng động kinh không thay đổi và kéo dài. Trong bối cảnh lâm sàng này, t́nh trạng động kinh có thể được định nghĩa như là hoạt động co giật kéo dài 30 phút hoặc những hoạt động co giật đoạn hồi trong 30 phút hoặc hơn trong đó tri giác không trở lại.

2/ NHỮNG LOẠI KHÁC NHAU CỦA TRẠNG THÁI ĐỘNG KINH ? CHÚNG BIỂU HIỆN NHƯ THẾ NÀO ?

Trạng thái động kinh được chia thành 3 loại : trạng thái động kinh co giật (CSE : convulsive status epilepticus), trạng thái động kinh không co giật (NCSE : nonconvulsive status epilepticus), và trạnh thái động kinh một phần (PSE : partial status epilepticus). Mặc dầu chỉ có trạng thái động kinh co giật (CSE) là đe dọa tính mạng, nhưng tất cả các dạng đều có thể dẫn đến mất năng lực nghiêm trọng.

Trạng thái động kinh co giật (CSE) là loại trạng thái động kinh (SE) nghiêm trọng nhất. Các cơn co giật được đặc trưng bởi sự lay động nhịp nhàng của các chi và thân thể, cắn lưỡi, và mất tri giác. Khi thời gian của các cơn co giật gia tăng, các cử động có thể trở nên bị giảm, đôi khi quy lại thành rung nhăn cầu (eye fluttering), mặc dầu hoạt động điện toàn thể tiếp tục trong năo. Mặc dầu chẩn đoán trạng thái động kinh rơ ràng trong hầu hết các trường hợp, chẩn đoán phân biệt gồm có run cơ (rigors) do sốt và sepsis, giật rung cơ (myoclonic jerks), và t́nh trạng giả động kinh (pseudo-status epilepticus) (những co giật nguồn gốc tâm lư không liên kết với những phóng điện từ năo).

Trạng thái động kinh không co giật (NCSE) có thể khó chẩn đoán hơn. Mặc dầu sự xếp loại trạng thái động kinh không co giật nói chung không được chấp nhận, nhưng có hai loại chính được công nhận : Trong trạng thái động kinh phức hợp không hoàn toàn (partial complex status epilepticus), sự biến đổi tri giác kéo dài hơn 30 phút bởi v́ hoạt động điện bất thường trong vỏ năo. Hoạt động vận động co cứng-co giật toàn thể không có, nhưng những cử động rập khuôn như chắc lưỡi, nhai, hay giật lên quần áo ḿnh có thể xảy ra. Bệnh nhân có thể bị chẩn đoán lầm là bị ngộ độc hay có một rối loạn tâm thần. T́nh trạng động kinh cơn nhỏ (Petit Mal SE) thường khó phân biệt với trạng thái động kinh phức hợp một phần (partial complex SE), ngoại trừ ghi điện năo đồ. Bệnh nhân có vẻ ngủ lịm nhưng có thể trả lời một cách chậm răi những câu hỏi đơn giản. Có thể có nhấp nháy mắt, nhưng tính tự động (automatism) thường ít gặp hơn so với trạng thái động kinh phức hợp một phần.

Trạng thái động kinh một phần (PSE) liên tục bao gồm nhưng co giật vận động khu trú dai dẳng kéo dài hơn 30 phút và không ảnh hưởng lên tri giác.

3/ NHỮNG NGUYÊN NHÂN THÔNG THƯỜNG NHẤT CỦA TRẠNG THÁI ĐỘNG KINH CO GIẬT ?

Ngừng các loại thuốc chống động kinh, hội chứng cai rượu, ngộ độc chất ma túy, và bệnh mạch máu năo là những nguyên nhân thông thường nhất của trạng thái động kinh co giật. Khoảng 50% những người trưởng thành với trạng thái động kinh co giật không có bệnh sử trước đây về động kinh. Nhiều trong số những dấu hiệu này xảy ra trong bối cảnh của những bệnh thần kinh cấp tính như đột qụy. Những nguyên nhân khác gồm mất cân bằng điện giải, chấn thương đầu, những tác dụng độc tính của thuốc, những t́nh trạng giảm oxy mô-thiếu máu cục bộ, những u năo, nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương, và suy thận. Trong khoảng 15 % các bệnh nhân, không có nguyên nhân nào được t́m thấy.

4/ TẠI SAO ĐIỀU TRỊ TRẠNG THÁI ĐỘNG KINH CO GIẬT LÀ MỘT CẤP CỨU NỘI KHOA ?

Sự tiến triển điện sinh lư của trạng thái động kinh co giật (CSE) được chia thành 5 giai đoạn : (1) hoạt động co giật riêng rẻ, (2) sự kết hợp hoạt động co giật, (3) phóng điện liên tục, (4) hủy bỏ đoạn hồi hoạt động co giật, (5) những phóng điện chu kỳ dạng động kinh. Trạng thái động kinh co giật kéo dài cũng được liên kết với những rối loạn toàn thân. Một sự gia tăng khởi đầu minute ventilation nhường chỗ cho sự giảm thông khí (hypoventilation) và ngừng thở ngắn (apnea). Sức cản huyết quản phổi có thể trở nên gia tăng, và trong vài trường hợp phù phổi có thể phát triển. Hít dịch (aspiration) thường xảy ra. Loạn nhịp có thể thấy ở 60% các bệnh nhân với trạng thái động kinh kéo dài. Tăng thân nhiệt (hyperthermia) có thể do phóng thích catecholamine và hoạt động mạnh kéo dài của cơ. Ngoài ra, nhiễm toan lactic và những rối loạn chuyển hóa khác có thể phát triển.
Những dữ kiện thí nghiệm có cơ sở gợi ư rằng thương tổn tế bào vĩnh viễn xảy ra ở vài vị trí vỏ năo và dưới vỏ năo sau 60 phút trạng thái động kinh co giật. Ngoài ra, những công tŕnh nghiên cứu lâm sàng đă cho thấy rằng trạng thái động kinh co giật càng tiếp tục dài lâu, càng khó kiểm soát hơn, và tỷ lệ xuất hiện những di chứng thần kinh càng lớn. Do đó điều quan trọng là phải nhận biết và điều trị trạng thái động kinh co giật sớm và tích cực trước khi những biến chứng như thế phát triển.

5/ NHỮNG GIAI ĐOẠN KHỞI ĐẦU QUAN TRỌNG NHẤT KHI ĐỐI DIỆN VỚI MỘT BỆNH NHÂN BỊ TRẠNG THÁI ĐỘNG KINH CO GIẬT ?

Cũng như mọi khi, ABC (airways, breathing, và circulation) phải được xử trí tức thời. Nên cho oxy bổ sung, và nên thiết đặt một đường tĩnh mạch an toàn. Nếu không có một đường dẫn khí và thông khí thích đáng, nên đặt ống nội khí quản, và sự thông khí nên được hỗ trợ. Nếu phải sử dụng phong bế thần kinh cơ (neuromuscular blockade) để nội thông khí quản, nên sử dụng một thuốc có tác dụng ngắn để tránh che khuất hoạt tính co giật lâm sàng. Một dung dịch muối đẳng trương nên là dịch truyền tĩnh mạch đầu tiên, bởi v́ nó có thể được sử dụng để điều trị hạ huyết áp nếu xảy ra và tương hợp với phenytoin hay fosphenytoin. Nên bắt đầu cấp nước hào pḥng với normal saline (200ml/gio) để làm giảm thiểu nguy cơ suy thận do tan cơ vân và để pḥng ngừa mất nước.

6/ NHỮNG TRẮC NGHIỆM NÀO NÊN ĐƯỢC THỰC HIỆN NGAY ĐỐI VỚI MỘT BỆNH NHÂN VỚI TRẠNG THÁI ĐỘNG KINH CO GIẬT ?

Đếm máu hoàn toàn, nồng độ thuốc chống động kinh, các chât điện giải, glucose, osmolality huyết thanh, BUN, creatinine, calcium, magnesium và phosphate, drug screen, nồng độ cồn trong máu, và phân tích khí huyết động mạch nên được thực hiện ngay.

7/ MỘT KHI ABCs ĐĂ ĐƯỢC XỬ TRÍ, NHỮNG BƯỚC TIẾP THEO TRONG VIỆC XỬ TRÍ TRẠNG THÁI ĐỘNG KINH CO GIẬT LÀ G̀ ?

Phương thức sau đây chỉ dùng như một guideline. Mỗi trường hợp có thể đ̣i hỏi những điều trị khác nhau. Mặc dầu các cơn co giật phải kéo dài trong 30 phút mới được xếp loại t́nh trạng động kinh, nhưng ta không nên chờ đợi cho đến khi 30 phút trôi qua rồi mới bắt đầu điều trị. Một khi đường tĩnh mạch đă được thiết lập, nên tiêm tĩnh mạch thiamine 100mg, tiếp theo bởi 50 ml dextrose 50% nếu trắc nghiệm đường tại giường phát hiện hạ đường huyết. Lorazepam, 0,10 mg/kg, nên được cho với tốc độ không nhanh hơn 2 mg/phút bằng những liều 4mg cho đến một liều người lớn tối đa 10 mg. Đồng thời một liều tấn công fosphenytoin nên được cho với một tốc độ 100mg/phút. Fosphenytoin là một dạng tan trong nước của phenytoin và thiếu propylene glycol, có liên hệ trong hạ huyết áp và loạn nhịp tim, đôi khi được thấy khi cho liều tấn công TM phenytoin. Fosphenytoin được biểu hiện bởi phenytoin equivalent ; do đó liều tấn công cũng giống với phenytoin (18mg/kg). Nếu không có sẵn fosphenytoin, nên tiêm truyền phenytoin (18-20mg/kg được cho với một tốc độ không nhanh hơn 50mg/ phút hay 25mg/phút ở người già). Trên 80% các trường hợp, trạng thái động kinh co giật được kiểm soát bởi phối hợp lorazepam và chế phẩm phenytoin.

Nếu các cơn co giật vẫn tồn tại sau liều tấn công ban đầu của fosphenytoin, nên cho thêm 5mg/kg fosphenytoin (hay phenytoin nếu đó là dạng duy nhất có sẵn). Nếu liều này không hiệu quả, nội thông khí quản được chỉ định, nếu đă chưa được thực hiện, bởi v́ những tác dụng giảm áp tim mạch của barbiturates (thuốc kế tiếp được thêm vào) và benzodiazepines có tác dụng cộng. Ngoài ra, nhiều bệnh nhân bị hạ huyết áp khi barbiturates hay benzodiazepines được cho thêm và đ̣i hỏi hydration IV và hỗ trợ huyết áp với inotropes như dopamine.

Điều trị tối ưu những trường hợp đề kháng của CSE không đáp ứng với phenytoin và lorazepam là một lănh vực đang được tranh căi. Một thầy thuốc thần kinh chuyên về trạng thái động kinh nên được hội chẩn.

Theo truyền thống, phenobarbital (liều tấn công 15 đến 20 mg/kg) đă được khuyến nghị như là thuốc kế tiếp, được cho với tốc độ không nhanh hơn 50-100mg/phút cho đến khi tổng liều đă được cho hay cho đến khi làm ngừng cơn co giật. Liều tấn công Phenobarbital được tiếp theo bởi một liều duy tŕ 1-4 mg/kg/ngày. Nếu liều tấn công phenobarbital không làm ngừng các cơn co giật, nhiều thầy thuốc giờ đây khuyến nghị pentobarbital hay midazolam. Pentobarbital được cho với liều tấn công 2-8mg/kg trong 2 phút, tiếp theo bởi một liều duy tŕ 0,5-5mg/kg/giờ cho đến khi các cơn co giật ngừng lại trên phương diện lâm sàng hay burst suppression đạt được trên điện năo đồ. Một cách khác, một liều tấn công midazolam (10 mg trong 3 đến 5 phút), tiếp theo bởi một liều duy tŕ 0,05-0,4 mg/kg/giờ có thể được sử dụng cho đến khi điện năo đồ không c̣n dấu hiệu co giật.

Nếu những biện pháp này không thành công, lidocaine, 2mg/kg trong 5 phút, tiếp theo bởi tiêm truyền 3mg/kg/giờ trong không hơn 12 giờ, có thể được sử dụng. Lidocaine không nên được sử dụng ở những bệnh nhân với suy tim hay gan hay những bệnh nhân với loạn nhịp tim hay bloc nhánh. Gây mê tổng quát với một thước gây mê dạng hít như isoflurane cũng có thể được xét đến nếu những biện pháp kể trên không thành công. Propofol mới đây đă được sử dụng đối với trạng thái động kinh co giật đề kháng. Cơ chế tác dụng của nó vẫn c̣n không rơ ràng. Liều tấn công 1mg/kg được lập lại mỗi 5 phút cho đến khi hoạt động co giật được hủy bỏ. Một liều duy tŕ 2-10mg/kg/giờ khi đó được sử dụng. Một chế phẩm tĩnh mạch valproic acid đă được phát triển, và những dữ kiện động vật gợi ư rằng nó có thể hiệu quả trong trạng thái động kinh co giật, mặc dầu không được FDA chấp nhận.

8/ NHỮNG YẾU TỐ NÀO CẦN XÉT ĐẾN TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH PHẢI CHO NHỮNG THUỐC PHONG BẾ THẤN KÍNH CƠ NÀO Ở MỘT BỆNH NHÂN VỚI TRẠNG THÁI ĐỘNG KINH CO GIẬT NẾU CẦN THIẾT ?

Các chất phong bế thần kinh cơ (NMBs : neuromuscular blockers) đôi khi có thể cần thiết để giúp làm giảm những rối loạn chuyển hóa và tăng thân nhiệt do sự co cơ mạnh kéo dài. Tác cả các chất phong bế thần kinh cơ đều gây nên yếu cơ nặng, nhưng các loại thuốc thay đổi nhiều theo thời gian tác dụng. Nếu cần phong bế thần kinh cơ và ghi điện năo đồ liên tục không đang được thực hiện, nên cho một liều duy nhất thuốc tác dụng ngắn, không phân cực ; mặc dầu phong bế thần kinh cơ, nhưng trên phương diện lâm sàng không thể đảm bảo hoạt động co giật đang tiếp tục hay không. Điều trị chống co giật nên tiếp tục như đă đề cập trước đây và monitoring điện năo đồ nên được xét đến. Nếu một thuốc tác dụng kéo dài được sử dụng hay nếu nhiều liều thuốc có thời gian tác dụng ngắn được cho, bắt buộc phải monitoring điện năo đồ liên tục để ngăn ngừa trạng thái động kinh không được nhận biết. Tất cả những bệnh nhân nhận các chất phong bế thần kinh nên được nội thông khí quản.

9/ NHỮNG BIỆN PHÁP NÀO THÍCH ĐÁNG SAU KHI KIỂM SOÁT CO GIẬT ?

Một khi cơn co giật đă được kiểm soát, điều quan trọng là xác lập nguyên nhân của t́nh trạng động kinh. Nên thực hiện xét nghiệm máu và cấy. Chụp h́nh ảnh với CT hay MRI nên được thực hiện sớm chừng nào có thể được để loại bỏ những nguyên nhân thực thể hệ thần kinh trung ương. Chọc ḍ tủy sống có thể giúp loại bỏ nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương và xuất huyết dưới nhện. Các kháng sinh nên được bắt đầu nếu nghi nhiễm trùng, và những liều duy tŕ thuốc chống động kinh nên được cho và điều chỉnh căn cứ trên nồng độ huyết thanh.

10/ PHẢI CHĂNG SỐT HAY TĂNG LYMPHO BÀO TRONG NƯỚC NĂO TỦY (CNS PLEOCYTOSIS) LUÔN LUÔN CHỈ MỘT NGUYÊN NHÂN NHIỄM TRÙNG CỦA TRẠNG THÁI ĐỘNG KINH CO GIẬT ?

Hầu hết các bệnh nhân với trạng thái động kinh có một gia tăng nhiệt độ cơ thể, trong những trường hợp hiếm hoi có thể lên đến 107 đó F mặc dầu không có bất cứ một nguyên nhân nhiễm trùng nào. Ngoài ra, sự tăng nhẹ lympho bào (pleocytosis) của máu ngoại biên và nước năo tủy có thể xảy ra ở những bệnh nhân như thế. Mặc dầu sốt và tăng lympho bào trong máu và nước năo tủy có thể là kết quả của trạng thái động kinh, những điều thiết yếu là không được gán những dấu hiệu này cho hậu quả của những co giật liên tiếp cho đến khi tất cả những khả năng khác đă được loại trừ. Nói chung, điều trị thường nghiệm những nguyên nhân nhiễm trùng được ưa thích hơn là không điều trị đủ một nhiễm trùng nghiêm trọng.

BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(30/9/2012)

florida80
05-16-2019, 18:18
RỐI LOẠN CHỨC NĂNG MIỄN DỊCH Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG


BS Phan Quận
Bệnh Viện Nhiệt Đới Trung Ương - VN

Bệnh nhân tiểu đường mắc bệnh nhiễm trùng thường xuyên hơn so với người không mắc bệnh này. Quá tŕnh các bệnh nhiễm trùng cũng phức tạp hơn ở nhóm bệnh nhân này. Một trong những nguyên nhân của sự tăng tỷ lệ các bệnh nhiễm trùng có thể do khiếm khuyết miễn dịch. Bên cạnh đó, trong nghiên cứu ở pḥng thí nghiệm cho thấy một số đáp ứng tế bào bị suy giảm, không rối loạn miễn dịch mắc phải (thích ứng) ở bệnh nhân tiểu đường.

TÓM TẮT

Bệnh nhân tiểu đường mắc bệnh nhiễm trùng thường xuyên hơn so với người không mắc bệnh này. Quá tŕnh các bệnh nhiễm trùng cũng phức tạp hơn ở nhóm bệnh nhân này. Một trong những nguyên nhân của sự tăng tỷ lệ các bệnh nhiễm trùng có thể do khiếm khuyết miễn dịch. Bên cạnh đó, trong nghiên cứu ở pḥng thí nghiệm cho thấy một số đáp ứng tế bào bị suy giảm, không rối loạn miễn dịch mắc phải (thích ứng) ở bệnh nhân tiểu đường. Các rối loạn khác nhau (yếu tố 4 của bổ thể thấp, giảm đáp ứng cytokine sau khi kích thích) trong miễn dịch dịch thể bẩm sinh đă được mô tả ở các bệnh nhân tiểu đường. Tuy nhiên, sự liên quan lâm sàng của các dữ liệu này th́ chưa được rơ. Liên quan đến hầu hết các nghiên cứu miễn dịch bẩm sinh tế bào cho thấy giảm chức năng (ứng động hóa học, sự thực bào, diệt khuẩn) của bạch cầu đa nhân trung tính và tế bào đơn nhân/đại thực bào ở bệnh nhân tiểu đường được so sánh với các loại tế bào này ở nhóm chứng. Nói chung, một sự điều ḥa tốt hơn của bệnh tiểu đường dẫn đến một sự cải thiện chức năng của các tế bào này. Hơn nữa, một số vi sinh vật trở nên độc hơn trong một môi trường đường cao. Một cơ chế khác mà có thể dẫn đến tăng tỷ lệ hiện mắc các bệnh nhiễm trùng ở bệnh nhân tiểu đường là sự tăng tính kết dính (adherence) của các vi sinh vật đối với bệnh nhân tiểu đường so với t́nh trạng này ở người không mắc tiểu đường. Điều này đă được mô tả đối với Candida albicans. Có thể là thành phần carbohydrate của các thụ thể đóng một vai tṛ quan trọng đối với hiện tượng này.

1.Giới Thiệu

Tỷ lệ mới mắc các bệnh nhiễm trùng tăng lên ở bệnh nhân tiểu đường [1]. Một số các bệnh nhiễm trùng cũng có thể có một quá tŕnh phức tạp hơn ở bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường hơn là ở các bệnh nhân không mắc tiểu đường [1]. Ví dụ, bệnh nhân tiểu đường nhiễm toan xê tôn bị biến chứng một nhiễm trùng xảy ra đến 75% trường hợp. Tỷ lệ tử vong của bệnh nhân bị nhiễm trùng và nhiễm toan xê tô là 43% [1]. Trong một nghiên cứu tiến cứu ở 101.293 bệnh nhân người lớn nhập viện, có 1.640 lượt được chẩn đoán là nhiễm trùng huyết. Trong số 1.000 bệnh nhân nhập viện được nghiên cứu, có 2/3 trường hợp nhiễm khuẩn huyết đă được t́m thấy ở các bệnh nhân mắc tiểu đường so với 1/3 bệnh nhân không tiểu đường (P < 0,001). [2]. Rồi vấn đề nổi lên là cái ǵ chịu trách nhiệm về các cơ chế bệnh sinh đối với tỷ lệ bệnh nhiễm trùng cao ở các bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường. Nguyên nhân có thể gồm các khiếm khuyết về miễn dịch, một sự tăng kết dính của vi sinh vật với các tế bào ở bệnh nhân tiểu đường, sự hiện diện của bệnh lư vi mạch máu và các mạch máu lớn hay là bệnh lư thần kinh, và số lượng cao của các can thiệp y tế ở nhóm bệnh nhân này.

Người ta có thể chia hệ miễn dịch thành miễn dịch thể dịch hoặc miễn dịch tế bào bẩm sinh và mắc phải (thích ứng). Liên quan đến miễn dịch thể dịch mắc phải, nồng độ kháng thể trong huyết thanh ở bệnh nhân mắc tiểu đường là b́nh thường và chúng đáp ứng sau khi tiêm chủng với thuốc chủng ngừa phế cầu khuẩn giống như nhóm chứng không mắc tiểu đường [3,4]. Hơn nữa, không thấy có sự khác biệt đă được thể hiện trong các đáp ứng miễn dịch với thuốc chủng ngừa viêm gan B tiêm bắp giữa trẻ em mắc tiểu đường type 1 và nhóm chứng [5]. Liên quan đến miễn dịch tế bào mắc phải, ức chế sự đáp ứng tăng sinh với các kích thích khác nhau đă được quan sát trong các tế bào lymphô ở các bệnh nhân tiểu đường không được kiểm soát [6]. Một phản ứng quá mẫn loại chậm bị bất thường (miễn dịch qua trung gian tế bào) cũng đă được mô tả ở bệnh nhân tiểu đường type 1 và type 2 [7-9]. Tuy nhiên, bệnh nhân tiểu đường không mắc viêm phổi do Pneumocystis carinii hoặc nhiễm khuẩn do mycobacteria (như đă gặp ở bệnh nhân rối loạn chức năng miễn dịch tế bào mắc phải như bệnh nhân bị nhiễm HIV) thường xuyên hơn so với bệnh nhân không mắc tiểu đường. V́ vậy, câu hỏi c̣n lại quan trọng đến mức nào đối với các rối loạn biểu thị trong pḥng thí nghiệm là những vấn đề trên bệnh nhân

Sự xem xét trên có vẻ như các khác biệt trong miễn dịch bẩm sinh giữa các bệnh nhân tiểu đường và không tiểu đường và trong sự kết dính của các vi sinh vật với tế bào của bệnh nhân tiểu đường và không tiểu đường là quan trọng hơn trong sinh bệnh học của sự gia tăng tỷ lệ hiện mắc bệnh nhiễm trùng ở các bệnh nhân này. Các nghiên cứu về hai vấn đề này được đề cập trong bài viết này.

2. Những khiếm khuyết về miễn dịch bẩm sinh

2.1.Miễn dịch thể dịch bẩm sinh

2.1.1. Chức năng bổ thể

Trong một nghiên cứu ở 86 bệnh nhân tiểu đường type 1, với 22 (26%) trường hợp có một nồng độ yếu tố 4 bổ thể huyết thanh (C4) dưới mức b́nh thường [10]. Giá trị C4 thấp h́nh như không phải là do tiêu thụ. V́ cặp song sinh cùng trứng không mắc tiểu đường cũng đă có nồng độ C4 dưới mức b́nh thường, và các gen mă hóa C4 được liên kết với các kháng nguyên DR3, DR4 (được thể hiện trong 95% bệnh nhân tiểu đường người da trắng trái với 40% dân số nói chung [6]) , các tác giả cho rằng C4 bị giảm này có thể là một hiện tượng di truyền [10]. Tuy nhiên, một thiếu C4 riêng rẽ không phải là một yếu tố nguy cơ được biết đến đối với các bệnh nhiễm trùng ở bệnh nhân không mắc tiểu đường và do đó dường như nó không đóng một vai tṛ quan trọng nào trong việc tăng nguy cơ nhiễm trùng ở bệnh nhân tiểu đường.

2.1.2. Cytokines

Các nghiên cứu về máu toàn phần, các tế bào đơn nhân trong máu ngoại vi (PBMCs), và tế bào đơn nhân được lập ở bệnh nhân tiểu đường có thể được chia thành 2, có kích thích và không kích thích. Nếu không có sự kích thích nồng độ TNF-α ở những bệnh nhân tiểu đường type 1 [11], nồng độ IL-6 ở những bệnh nhân tiểu đường type 2 [12], và nồng độ IL-8 ở bệnh nhân tiểu đường type 1 và type 2 [13] đă được nghiên cứu. Các giá trị của TNF-α, IL-6 và IL-8 tăng lên đă được t́m thấy ở những bệnh nhân tiểu đường so với bệnh nhân nhóm chứng không tiểu đường.

Các nghiên cứu với bạch cầu đơn nhân trong máu ngoại vi và tế bào đơn nhân được phân lập của bệnh nhân tiểu đường sau kích thích cho thấy các kết quả như sau: trong một nghiên cứu [14] sự tiết IL-1 của bạch cầu đơn nhân trong máu ngoại vi khi đáp ứng với LPS đă bị giảm ở PBMCs của bệnh tiểu đường (loại 1 và 2), trong khi đáp ứng TNF-α tương tự như trong các tế bào của bệnh nhân nhóm chứng. Trong một nghiên cứu khác về tế bào đơn nhân của các bệnh nhân tiểu đường type 1 đă cho thấy một sự sản xuất thấp hơn có ư nghĩa của IL-1 và IL-6, nhưng lại không có sự khác biệt về nồng độ TNF-α, sau khi kích thích với LPS, so với các tế bào đơn nhân của bệnh nhân tiểu đường loại 2 và nhóm chứng không tiểu đường [15]. Có thể hầu hết của TNF-α đă biến mất sau thời gian ủ 24 giờ [15]. Không phải đường máu cũng không phải insulin cho thấy bất kỳ ảnh hưởng đến sự sản xuất IL-1 hay IL-6 trong tế bào đơn nhân được phân lập, do đó, giảm sản xuất sau khi kích thích với LPS dường như do một khiếm khuyết nội tại tế bào của các tế bào ở bệnh nhân tiểu đường. Nó có thể là giá trị nghỉ cao của các tế bào tiểu đường dẫn đến sự cảm ứng của sự dung nạp với sự kích thích, mà tạo kết quả trong sự tiết cytokine thấp hơn sau khi kích thích. Hiện tượng này đă được mô tả trong các tế bào ở bệnh nhân không tiểu đường [16].

Các nghiên cứu về PBMCs tiết cytokine của bệnh nhân không mắc bệnh tiểu đường sau khi bổ sung những nồng độ đường khác nhau đă cho các kết quả có thể so sánh như các nghiên cứu với các tế bào ở bệnh nhân tiểu đường. Một nghiên cứu [17] cho thấy rằng sau khi bổ sung những nồng độ đường khác nhau, các tế bào đơn nhân chưa được kích thích của các bệnh nhân không tiểu đường đă cho thấy một tăng đáp ứng TNF-α và IL-6. Một nghiên cứu khác [18] đă cho thấy rằng sau khi kích thích sự bào phân bằng cây thương lục Mỹ (pokeweed) nồng độ IL-2, IL-6 và IL-10 là thấp hơn đă được t́m thấy sau khi bổ sung đường (với một hiệu ứng đáp ứng liều lượng). Có thể, sự gây cảm ứng của sự dung nạp, được mô tả ở trên, cũng có thể giải thích những kết quả này. Nói cách khác, sự hiện diện của đường làm cho sự sản xuất cytokine ở trạng thái nghỉ (resting) cao hơn; tuy nhiên sau kích thích sản xuất cytokine này bị suy yếu so với t́nh trạng không có đường. Một chất khác có thể đóng một vai tṛ trong sự tiết cytokine cơ bản tăng lên là các sản phẩm cuối cùng của phản ứng gắn glycosyl – protein (advanced glycation end products: AGEs, là những sản phẩm của đường và các dư lượng lysine hoặc arginine). Một sự h́nh thành của AGEs tăng lên diễn ra ở bệnh nhân tiểu đường được điều ḥa kém [19]. Các nghiên cứu khác đă chỉ ra rằng sự gắn kết của các AGEs này với tế bào của bệnh nhân không mắc bệnh tiểu đường, không có sự kích thích, dẫn đến gia tăng sự sản xuất cytokine [17,20,21], do đó, h́nh như gia tăng sự h́nh thành của các AGEs này ở các bệnh nhân tiểu đường có thể chịu trách nhiệm cho sự tiết cytokine cơ bản tăng lên.

2.1.3.Tăng đường máu/đường niệu

Theo tiêu chuẩn của WHO năm 1985, tiểu đường được định nghĩa khi nồng độ đường huyết lúc đói ít nhất là 7,8 mmol/L hoặc nồng độ đường sau ăn 2 giờ là ≥ 11,1 mmol/L [22]. Như một kết quả của bệnh nhân mắc tiểu đường (có dùng thuốc) thường có tăng đường huyết. Môi trường tăng đường máu có thể tăng cường tính độc của một số vi sinh vật. Một ví dụ là nấm Candida albicans, mà thể hiện một protein bề mặt rất tương đồng với thụ thể của yếu tố 3b bổ thể (CR3). Thông thường, sự cố định vi sinh vật (opsonization) diễn ra bằng sự gắn yếu tố 3b của bổ thể (C3b) lên vi sinh vật đó. Các thụ thể trên các tế bào thực bào nhận diện ra C3b được gắn này và các thụ thể này gắn lên đó, bằng cách này để bắt đầu giết chết và tiêu hóa vi sinh vật. Trong một môi trường đường máu tăng lên, sự biểu hiện của protein của C. albicans giống như thụ thể đă tăng lên, mà tạo kết quả sự gắn cạnh tranh và ức chế sự thực bào qua trung gian của bổ thể [23]. Một ví dụ khác là sự hiện diện của đường trong nước tiểu, như được t́m thấy ở các bệnh nhân tiểu đường được điều trị chưa tốt. Chúng ta đă thấy [24] rằng đường niệu tăng cường sự phát triển vi khuẩn của các chủng E. coli khác nhau, điều này có thể đóng một vai tṛ quan trọng trong tăng tỷ lệ mới mắc nhiễm trùng đường tiết niệu ở bệnh nhân tiểu đường. Do đó, h́nh như rằng là kiểm soát đường máu tốt ở bệnh nhân tiểu đường có thể làm giảm tính độc của một số vi sinh vật gây bệnh.

2.1.4. Các yếu tố huyết thanh khác

Trong phân tích các test ở pḥng thí nghiệm về các chức năng của các tế bào đa nhân trung tính (PMNs) ở bệnh nhân không mắc bệnh tiểu đường được thực hiện bằng cách ủ các tế bào này với huyết tương có nguồn gốc từ bệnh nhân mắc tiểu đường. Những khiếm khuyết này không tương quan với lượng đường có mặt trong huyết tương [6,25,26]. Một ví dụ là sự kết dính tăng lên của bạch cầu đa nhân trung tính (PMNs) của bệnh nhân không mắc tiểu đường với tế bào nội mạc động mạch chủ của ḅ trong sự hiện diện của huyết tương của bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường [27]. Tăng sự kết dính này có thể dẫn đến giảm sự thoát mạch và xuất tiết của bạch cầu đa nhân trung tính [27]. Câu hỏi đặt ra là yếu tố nào trong huyết thanh của bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường chịu trách nhiệm về sự khác biệt được đề cập ở trên. Người ta đă đề xuất [28] rằng AGEs đóng một vai tṛ trong sự kiện này. V́ sự h́nh thành AGEs được tăng lên ở những bệnh nhân mắc tiểu đường được điều trị kém, h́nh như rằng là kiểm soát bệnh tiểu đường tối ưu có thể cải thiện đáp ứng của vật chủ.

Một chất khác thường được đề cập khác trong bệnh sinh nhiễm trùng ở bệnh nhân tiểu đường là kẽm. Nồng độ kẽm thấp trong huyết tương đă được báo cáo trong bệnh tiểu đường type 1 và type 2 [6]. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu khác, người ta t́m thấy không có sự khác biệt về nồng độ kẽm giữa các đối tượng tiểu đường và đối tượng không tiểu đường [29]. Các nghiên cứu ở pḥng thí nghiệm đă mô tả một đáp ứng tế bào lympho bị rối loạn và ức chế ứng động hóa đối với bạch cầu đa nhân trung tính (PMNs) của bệnh nhân tiểu đường khi thiếu kẽm [1,6,28]. Các nghiên cứu ở pḥng thí nghiệm khác với các tế bào đơn nhân trong máu ngoại vi (PBMCs) của bệnh nhân không mắc tiểu đường đă cho thấy tăng sự tiết các cytokine tiền viêm do LPS gây cảm ứng sau khi bổ sung kẽm [30]. Xem xét các dữ liệu dịch tễ học có tính trái ngược nhau về sự thiếu hụt kẽm ở bệnh nhân tiểu đường, sự liên quan lâm sàng được đề cập ở trên về các kết quả thí nghiệm trong bệnh sinh nhiễm trùng ở bệnh nhân tiểu đường vẫn c̣n chưa rơ ràng.

Kết luận, một số (cytokines, bổ thể) chức năng miễn dịch thể dịch bẩm sinh bị giảm và một số vẫn có nồng độ bằng nhau ở bệnh nhân tiểu đường so với người không mắc tiểu đường

2.2. Miễn dịch tế bào bẩm sinh – Bạch cầu đa nhân trung tính

2.2.1. Ứng động hóa học

Một ứng động hóa học thấp hơn đă được t́m thấy đối với bạch cầu đa nhân trung tính của bệnh nhân tiểu đường (type 1 và type 2) so với bạch cầu đa nhân trung tính của nhóm chứng [25,31, 32]. Tuy nhiên, chúng tôi không thể chứng minh sự khác biệt này trong nghiên cứu của chúng tôi mà chúng tôi đă nghiên cứu chức năng bạch cầu đa nhân trung tính ở phụ nữ mắc tiểu đường và có vi khuẩn niệu không triệu chứng được so với phụ nữ tiểu đường không vi khuẩn niệu và người khỏe mạnh [33]. Tất cả các nghiên cứu đă dùng huyết thanh của nhóm chứng khỏe mạnh. Có thể rằng kích thích khác nhau (zymosan, bổ thể) đối với PMNs và những sự khác biệt về đặc điểm bệnh nhân (thời gian, sự điều ḥa đường máu và các biến chứng của tiểu đường, tiểu đường type 1 hoặc type 2) trong các nghiên cứu đă đề cập ở trên có thể giải thích các kết quả mâu thuẫn. Không t́m thấy sự tương quan giữa nồng độ đường [25,32] hoặc nồng độ hemoglobin A1c (HbA1c, đó là một dấu ấn huyết thanh đối với sự điều ḥa của tiểu đường) và các đáp ứng về ứng động hóa học, mặc dù một nghiên cứu đă cho thấy có giảm hơn nữa về ứng động hóa học ở các bệnh nhân có tăng đường huyết [31]. Thật thú vị, một trong những nghiên cứu khác cho thấy rằng các đáp ứng ứng động hóa học của các PMNs đă không thay đổi sau khi ủ đường hoặc insulin, nhưng trở về các giá trị b́nh thường sau khi ủ cả với đường và insulin [32]. V́ hầu hết các chức năng của PMN là những tiến tŕnh lệ thuộc năng lượng [34], một sự sản xuất đủ năng lượng là cần thiết cho một chức năng PMN tối ưu. Đường cần đến insulin để đi vào PMNs để tạo ra năng lượng này, mà có thể giải thích sự cải thiện của các đáp ứng ứng động hóa học sau khi bổ sung hai chất này cùng lúc.

2.2.2. Sự kết dính (adherence)

Người ta đă báo cáo các dữ liệu trái ngược nhau về các thí nghiệm sự kết dính của PMNs của bệnh nhân tiểu đường chưa được kích thích [25,27,31,34,35]. Trái lại, không t́m thấy có sự khác biệt giữa sự kết dính của PMNs bệnh nhân tiểu đường và nhóm chứng sau khi được kích thích [27,31]. Người ta thấy không có sự tương quan giữa đường trong huyết tương hoặc HbA1c và sự kết dính [25,27,31]. Tuy nhiên, trong một số lượng nhỏ của bệnh nhân tiểu đường type 1 và type 2 với tăng đường huyết không được điều trị, đă giảm sự kết dính của PMNs với trụ sợi nylon tăng lên sau khi tăng đường huyết đă được điều chỉnh [34,35]. Tất nhiên sự kết dính với các trụ sợi nylon th́ không giống như với các tế bào nội mạc mạch máu như là một bước đầu tiên trong phản ứng viêm. Tuy nhiên, một lần nữa một sự điều ḥa tốt hơn của bệnh tiểu đường h́nh như làm tăng đáp ứng vật chủ.

2.2.3. Sự thực bào

Bạch cầu đa nhân trung tính của bệnh nhân tiểu đường đă cho thấy năng lực thực bào giống nhau [25,33] và thấp hơn [31,36] so với bạch cầu đa nhân trung tính của nhóm chứng. Nồng độ trung b́nh HbA1c th́ thấp hơn (điều ḥa tốt hơn) ở các bệnh nhân mà sự thực bào không bị suy giảm [33] so với những người có thực bào bị suy yếu [31,36]. Một nghiên cứu [36] cho thấy một mối quan hệ nghịch giữa các nồng độ HbA1c và tỷ lệ thực bào. Một nghiên cứu khác [37] đă cho thấy rằng thực bào giảm được cải thiện, nhưng không trở lại b́nh thường sau 36 giờ đường máu b́nh thường. V́ vậy, h́nh như rằng sự suy yếu thực bào được t́m thấy ở các bạch cầu đa nhân trung tính được phân lập từ bệnh nhân tiểu đường được điều ḥa đường máu kém và rằng sự điều ḥa tốt hơn của bệnh tiểu đường dẫn đến một cải thiện chức năng thực bào.

2.2.4. Sự đốt cháy bằng oxy hóa trong tế bào(oxidative burst)

Hóa phát quang (chemiluminescence: CL) tương ứng với sự phát xạ của ánh sáng trực tiếp hoặc gián tiếp được tạo ra trong quá tŕnh một phản ứng hóa học. Hiện tượng này thường được dùng để đánh giá tiềm năng oxy hóa của bạch cầu đa nhân trung tính, một quá tŕnh trong đó các gốc tự do được tổng hợp sớm trong quá tŕnh thực bào [31,38]. CL tương quan tốt với hoạt động kháng khuẩn [39] và có thể được dùng như một số đo về khả năng thực bào [38]. So với nhóm chứng, CL lúc ban đầu th́ cao hơn [31] hoặc tương tự [36,39] trong bạch cầu đa nhân trung tính của bệnh nhân tiểu đường. Những nghiên cứu này [31,36,39] cũng cho thấy rằng, sau khi kích thích, CL của PMNs tiểu đường thấp hơn CL của PMNs ở nhóm chứng. Có thể là phản ứng của PMNs tiểu đường với các kích thích được dập tắt như là một kết quả của CL lúc nghỉ cao hơn. Trong nghiên cứu của chúng tôi [33], chúng tôi đă không t́m thấy bất kỳ sự khác biệt ở CL sau khi kích thích giữa các bệnh nhân tiểu đường và nhóm chứng. Tuy nhiên, nói chung các bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi được điều ḥa đường máu tốt hơn so với những bệnh nhân trong các nghiên cứu trước đó, mà có lẽ có thể giải thích những kết quả khác nhau này.

2.2.5. Diệt vi sinh vật

Dữ liệu về hoạt động diệt khuẩn của PMNs ở bệnh nhân tiểu đường đă đạt được những kết quả mâu thuẫn nhau [25,26,33,37]. Tuy nhiên, nói chung khả năng diệt vi sinh vật của PMNs ở bệnh nhân tiểu đường thấp hơn so với PMNs của nhóm chứng. Một lần nữa, sự khác biệt trong hoặc các đặc điểm bệnh nhân (xem Phần 2.2.1) hoặc các vi sinh vật được sử dụng có thể giải thích những kết quả khác nhau này. Một chức năng diệt vi sinh vật bị suy yếu của PMNs ở bệnh nhân tiểu đường đă được t́m thấy trong tất cả các nghiên cứu sử dụng tụ cầu vàng là vi sinh vật [25,26,37], nhưng không phải trong các nghiên cứu trong đó diệt chết C. albicans [33] đă được sử dụng làm thước đo. Diệt vi sinh vật bị suy giảm trong một nghiên cứu đă sử dụng huyết thanh người không đái đường để cố định vi sinh vật [37], nhưng không phải trong một cái khác [33]. Như vậy, dựa trên những nghiên cứu này chúng ta không có thể rút ra bất kỳ kết luận nào về tác dụng của huyết thanh của người không mắc tiểu đường lên sự diệt vi sinh vật của các tế bào ở bệnh nhân tiểu đường. Không t́m thấy sự tương quan với [25,26,37] nồng độ đường huyết, mặc dù một số nghiên cứu đă chỉ ra rằng hoạt động diệt khuẩn được cải thiện, nhưng không b́nh thường sau khi đường máu đă đạt được b́nh thường [6,37]

2.2.6. Ảnh hưởng của nhiễm trùng

Trong một nghiên cứu tại bệnh viện của chúng tôi [33], chúng tôi đă không thể chứng minh bất kỳ sự khác biệt về ứng động hóa học, sự thực bào, phát quang hóa học (CL), và sự diệt vi sinh vật giữa bạch cầu đa nhân trung tính của các phụ nữ bị bệnh tiểu đường với vi khuẩn niệu, phụ nữ mắc bệnh tiểu đường mà không có vi khuẩn niệu, và nhóm chứng không bị tiểu đường. Hơn nữa, một nghiên cứu trước đây đă cho thấy không có sự khác biệt về thực bào và diệt vi sinh vật giữa các bệnh nhân tiểu đường có và không có nhiễm trùng tái phát [26]. V́ vậy, những nghiên cứu này không cho thấy sự hiện diện của nhiễm trùng ảnh hưởng đến các chức năng của bạch cầu đa nhân trung tính.

Kết luận, bên cạnh một số kết quả mâu thuẫn trong các nghiên cứu đă được đề cập ở trên, người ta mô tả những rối loạn khác nhau của chức năng bạch cầu đa nhân trung tính ở bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường so với chức năng bạch cầu đa nhân trung tính ở nhóm chứng. Tuy nhiên, sự liên quan lâm sàng của những nghiên cứu trong ống nghiệm vẫn không chắc chắn, chủ yếu là do sự khác biệt trong các xét nghiệm đă thực hiện. Có thể là chỉ là một sự kết hợp của các khiếm khuyết trong các chức năng của bạch cầu đa nhân trung tính đóng một vai tṛ trên cơ thể bệnh nhân. Hầu hết các nghiên cứu cho thấy một sự cải thiện chức năng của bạch cầu đa nhân trung tính sau khi điều ḥa chuyển hóa bệnh tiểu đường tốt hơn.

2.3. Miễn dịch tế bào bẩm sinh – đơn nhân/đại thực bào

Sự suy giảm của ứng động hóa học lẫn sự thực bào của các tế bào đơn nhân ở bệnh nhân tiểu đường đă từng được mô tả [1,40]. V́ huyết tương của người khỏe mạnh làm nhóm chứng không gây ra bất kỳ thay đổi có ư nghĩa nào về khả năng thực bào của tế bào đơn nhân của bệnh nhân tiểu đường [40], h́nh như sự suy giảm chức năng này do khiếm khuyết nội tại của chính bạch cầu đơn nhân gây ra. Một đáp ứng miễn dịch thấp hơn ở trẻ em mắc tiểu đường type 1 so sánh nhóm chứng đă được t́m thấy sau khi chủng ngừa vaccine viêm gan B tiêm trong da (thay v́ tiêm bắp) [5]. Người ta cho rằng đáp ứng này thấp hơn có lẽ là một phần kết quả của một chức năng đại thực bào bị suy yếu trong nhóm bệnh nhân này [5].

Kết hợp với giảm sản xuất các cytokines tiền viêm đă được đề cập trước đó sau khi kích thích bằng LPS ở bệnh nhân mắc tiểu đường type 1, h́nh như rằng chức năng của các tế bào đơn nhân/đại thực bào bị suy yếu trong bệnh nhân tiểu đường type 1. Cơ chế bệnh sinh vẫn c̣n chưa rơ. Nghiên cứu cần được thực hiện thêm nữa để giải thích hiện tượng thú vị này.

3. Tính chất kết dính

Tính chất kết dính của một vi sinh vật với các tế bào niêm mạc hoặc biểu mô là một bước quan trọng trong bệnh sinh của bệnh nhiễm trùng. Các yếu tố liên quan đến vật chủ có thể ảnh hưởng đến sự kết dính này. Ví dụ, phụ nữ bị nhiễm trùng đường niệu tái phát có một sự kết dính của E. coli lớn hơn với tế bào âm đạo và miệng của họ so với nhóm chứng [41]. Nhiễm C. albicans thường được t́m thấy ở các bệnh nhân tiểu đường. V́ hiện tượng quần cư (colonization) của vi sinh vật xảy ra trước trong hầu hết trường hợp nhiễm trùng. Aly và cộng sự đă nghiên cứu các yếu tố nguy cơ nào làm tăng nguy cơ trở thành người mang Candida ở bệnh nhân tiểu đường [42]. Các yếu tố nguy cơ đối với việc mang nấm Candida miệng ở bệnh nhân tiểu đường type 1 th́ tuổi thấp hơn và một nồng độ HbA1c cao hơn (điều ḥa đường máu ở bệnh tiểu đường kém). Đeo răng giả liên tục và sự hiện diện đường trong nước tiểu (cũng là một chỉ điểm của một sự điều ḥa bệnh tiểu đường kém) làm tăng nguy cơ mang nấm Candida ở bệnh nhân tiểu đường type 2, số lượng trung b́nh số điếu thuốc lá hút mỗi ngày tương quan với mang nấm Candida trong cả tiểu đường type 1 và type 2 được ghép lại một nhóm với nhau [42]. Cameron và cộng sự chiết xuất chất béo từ tế bào biểu mô miệng người và đă t́m thấy, dùng thử nghiệm lớp phủ sắc kư, rằng một số ḍng C. albicans liên kết với thành phần fucose và các ḍng C. albicans khác gắn với N-acetylgalactosamine có chứa trong chất béo được chiết xuất từ ​​các tế bào miệng người.

Các tác giả kết luận rằng sự tồn tại của một số hệ thống thụ thể - chất kết dính (adhesin) góp phần vào tính độc của C. albicans [43]. Các thành phần carbohydrate của các thụ thể có thể đóng một vai tṛ quan trọng trong tính nhạy cảm với nhiễm trùng. Nó đă được chứng minh rằng bệnh nhân nặng có một số lượng galactose và sialic acid trên các tế bào miệng của họ bị giảm, được so sánh với bệnh nhân bị bệnh nhẹ và nhóm chứng người khỏe mạnh. Các nhà nghiên cứu đă nói rằng những thay đổi các thụ thể này có thể dẫn đến một gia tăng sự kết dính của vi sinh vật và đóng một vai tṛ trong tỷ lệ hiện mắc cao của hiện tượng quần cư các vi khuẩn Gram âm ở đường hô hấp của các bệnh nhân này [44]. Cơ chế tăng sự kết dính này, do một thành phần carbohydrate của thụ thể bị thay đổi, có thể cũng có mặt ở bệnh nhân tiểu đường. Trong nghiên cứu ống nghiệm, các tế bào niêm mạc miệng của 50 bệnh nhân tiểu đường (type 1 và 2) cho thấy tăng sự kết dính với C. albicans được so sánh với tế bào niêm mạc miệng được lấy từ nhóm chứng [45]. Một tỷ lệ mới mắc cao hơn có ư nghĩa nhiễm Candida, nhưng không mang nấm Candida, cũng được t́m thấy trong nhóm bệnh nhân này (12% so với 0%) [45]. Tuy nhiên, không t́m thấy được mối quan hệ giữa các tần số hoặc số lượng của nấm Candida và tuổi tác, sự kéo dài thời gian, sự điều ḥa, hoặc type tiểu đường [45]. Sự kết dính này tăng lên với các tế bào của bệnh nhân tiểu đường cũng có thể đóng một vai tṛ cho các vi sinh vật khác, ví dụ như sự kết dính của E. coli với các tế bào biểu mô tiết niệu (uroepithelial cells), mà sẽ giải thích tỷ lệ hiện mắc các bệnh nhiễm trùng tăng lên ở bệnh nhân tiểu đường

Kết luận, rối loạn miễn dịch tế bào bẩm sinh đóng một vai tṛ trong bệnh sinh của tăng tỷ lệ hiện mắc bệnh nhiễm trùng ở bệnh nhân tiểu đường (Bảng 1). Nói chung, một sự điều ḥa bệnh tiểu đường tốt hơn dẫn đến một sự cải thiện chức năng tế bào. Một cơ chế quan trọng thứ hai là tăng sự kết dính của vi sinh vật với các tế bào của bệnh nhân tiểu đường. Hơn nữa, một số vi sinh vật trở nên độc hơn hơn trong một môi trường đường máu cao.

florida80
05-16-2019, 18:20
NHỮNG LỜI KHUYÊN KHI CHĂM SÓC NGƯỜI THÂN YÊU BỊ CHỨNG SA SÚT TRÍ TUỆ
(TIPS FOR CARING FOR A LOVED ONE WITH DEMENTIA)

Lynn Ly Phỏng Dịch theo thông tin Đại Học Y OHIO-Hoa Kỳ


Chứng sa sút trí tuệ(dementia) là sự mất mát khả năng suy tư, trí nhớ và khả năng suy xét phán đoán . Chứng bệnh này có thể gây ra những thay đổi về tâm t́nh và tính cách của người bệnh và làm cho người bị sa sút trí tuệ bị khó khăn trong việc tự chăm sóc bản thân.

Là người chăm sóc người bệnh, bạn có thể học những kỹ năng nhằm gia tăng khả năng đảm đương các hành vi ứng sử khó khăn của người bệnh và giúp cho việc chăm sóc bớt căng thẳng .

SAU ĐÂY LÀ NHỮNG LỜI KHUYÊN ĐỂ TRỢ GIÚP VỚI:

SỰ KÍCH ĐỘNG (AGITATION)
•Hăy đơn giản hóa công việc của người thân yêu (làm công việc của họ bớt khó khăn đi). Hăy chia nhỏ như những công việc phức tạp thành nhiều bước thực hiện đơn giản. Hăy cho phép người thân yêu của bạn làm việc càng nhiều càng tốt theo khả năng của họ.

•Hăy hạn chế số lượng các t́nh huống khó khăn mà người thân yêu của bạn phải đối mặt. Tắm rửa cách ngày thay v́ hàng ngày. Hăy thiết lập lịch tŕnh có nhiều hoạt động khó khăn ở một khoảng thời gian trong ngày khi người bệnh ít bị kích động.

•Hăy cung cấp một môi trường an b́nh và thoải mái. Hăy ǵn giữ những thói quen của người bệnh .

•Hăy giảm thiểu tiếng ồn, sự hỗn loạn và số lượng người ở trong pḥng.

•Hăy ǵn giữ pḥng ốc đủ ánh sáng và ở nhiệt độ thoải mái.

•Hăy để các vật dụng nguy hiểm ngoài tầm tay với.

•Hăy sử dụng một bữa ăn nhẹ hoặc một hoạt động nào đó để phân tâm / để đánh lạc hướng khi bệnh nhân bị kích động.



TẮM RỬA(BATHING)
•Hăy trải thảm tắm không trơn trượt, thành vịn, dùng bồn tắm hoặc ghế ngồi tắm, và loại một ṿi bông sen cầm tay.

•Việc gội đầu nên thực hiện riêng biệt với việc tắm rửa hoặc sử dụng sà bông gội dầu loại khô.

•Hăy phủ một chiếc khăn tắm lên người của người thân yêu khi tắm bằng bồn tắm hoặc tắm bằng ṿi sen để che đậy những bộ phận "riêng tư" càng nhiều càng tốt. Chỉ tháo mở khăn phủ khi cần tắm rửa vùng đó trên thân thể, những phần khác c̣n lại th́ vẫn được che đậy.

•Hăy suy nghĩ về sở thích của người thân yêu. Họ thích tắm bằng bồn tắm hoặc ṿi hoa sen? Lúc nào trong ngày? Nếu việc tắm rửa khó khăn, th́ tắm rửa hai lần một tuần là đủ.

•Hăy để các vật dùng việc tắm rửa sẵn sàng. Không để người thân yêu của bạn một ḿnh trong pḥng tắm.



ĂN UỐNG (EATING)
•Hăy nhắc nhở nhẹ nhàng người thân của bạn về việc ăn uống. Đưa cho họ cái ly / cái tách thay v́ đặt lên bàn để khuyến khích họ uống.

•Hăy sử dụng uống hút hay loại ly uống nước không bị đổ của trẻ con nếu người bệnh bị khó khăn trong việc cầm chiếc ly thủy tinh .

•Việc ăn uống cùng chung những người khác có thể nhắc nhở người thân của bạn phải làm ǵ và làm thế nào để ăn uống.

•Những loại thức ăn cầm tay (dùng tay bốc) th́ dễ dàng ăn và khuyến khích sự độc lập. Các bữa ăn và đồ ăn nhẹ có thể được làm toàn bằng loại thức ăn cầm tay và ǵn giữ ở nhiệt độ căn pḥng.

•Hăy để canh / soup trong 1 loại tách to (a mug).

•Hăy cung cấp 5 bữa ăn nhỏ thay v́ ba bữa lớn mỗi ngày. Cung cấp thường xuyên các phần ăn nho nhỏ hơn .

•Hăy cung cấp các loại thực phẩm và thức uống mà người thân của bạn thích để khuyến khích việc ăn uống.


SỰ MẤT KIỂM SOÁT (INCONTINENCE)
•Hăy tôn trọng sự riêng tư và phẩm giá / nhân cách (dignity) của người thân yêu .

•Hăy nhắc nhở hoặc hỗ trợ người thân yêu của bạn sử dụng pḥng tắm mỗi hai giờ (nhắc nhở đi tiêu tiểu). Hăy nhận biết các tín hiệu phi ngôn ngữ như động tác kéo quần áo và kích động của người thân yêu..

•Cài đặt thêm thành vịn và nâng cao bệ ngồi của toitet

•Hăy mua loại ghế toilet để cạnh giường (a bedside commode) tại cửa hàng cung cấp thiết bị y khoa.

•Sử dụng các dấu hiệu để hướng dẫn đường đi đến pḥng tắm.

•Hăy sử dụng loại tă dành cho người lớn tuổi không c̣n có khả năng tự chủ về việc tiêu tiểu (incontinence pads) và những sản phẩm khác nếu cần thiết.

•Hăy để cho người thân của bạn mặc vào dễ dàng cũng như cởi bỏ quần áo với dây thung đàn hồi hoặc loại miếng dán dính (Velcro closures) là loại miếng dán dính vào nhau thay v́ khuy nút)

•Hăy khuyến khích của người thân yêu uống từ 6 đến 8 ly nước mỗi ngày. Hạn chế uống vào buổi tối trước khi đi ngủ. Hạn chế uống cà phê, coca cola, trà và bia (beer) .

•Hăy cố gắng cung cấp dinh dưỡng có nhiều chất sơ (fiber) cho người bị táo bón.



HOANG TƯỞNG (PARANOIA)
•Đừng tranh luận. Hăy bảo người thân yêu của bạn rằng bạn sẽ giúp họ t́m kiếm những ǵ bị mất . Hăy học hiểu những nơi ẩn náu / dấu diếm mà người bệnh yêu thích . Hăy ǵn giữ các bộ phận của các đồ vật mà thường xuyên bị bỏ mất . Hăy phân tâm /phân tán người bệnh bằng một hoạt động nào đó .

•Hăy giữ những người chăm sóc phù hợp với người thân yêu của bạn và giải thích cho người chăm sóc và thân nhân về những ứng sử của người bệnh là b́nh thường .

•Hăy hồi đáp bằng động tác ôm ấp hoặc sự ve vuốt người bệnh.



HÀNH ĐỘNG VÀ NÓI NĂNG LẬP ĐI LẬP LẠI (REPETITIVE SPEECH OR ACTION)
•Hăy làm ngơ những hành vi lập đi lập lại này và sử dụng 1 bữa ăn nhẹ hay một hoạt động nào đó để chuyển hướng / đánh lạc hướng người bệnh.

•Đừng thảo luận về các kế hoạch tương lai cho đến khi ngay trước khi sự kiện xảy ra.

•Hăy giảm thiểu sự buồn bực v́ mong đợi ai hay điều ǵ đó bằng cách viết giấy / đặt dấu hiệu trên bàn ăn như nói là "Ăn tối lúc 6:30" hoặc "Sue ở nhà lúc 5:00"



MẤT NGỦ HOẶC CHỨNG CUỒNG LOẠN DỄ BỊ KÍCH ĐỘNG VỀ CHIỀU TỐI (SLEEPLESSNESS OR SUNDOWNING)
•Hạn chế đồ ngọt và cà phê vào chiều tối.

•Hoạch định nhiều hoạt động ban ngày hơn. Thể dục là tốt nhất , như đi bộ.

•Không khuyến khích người bệnh ngủ trưa.

•Lên kế hoạch hoạt động có tính cách trầm tĩnh và trật tự vào buổi chiều tối như một tṛ chơi các thẻ bài hoặc cùng nhau nghe nhạc.

•Bặt sáng các ngọn đèn khi hoàng hôn . Kéo màn cửa để giảm thiểu bóng tối.

•Hăy đặt những ngọn đèn mờ trong pḥng ngủ, pḥng tắm và lối đi.

•Treo đồng hồ ở những nơi mà người thân yêu của bạn có thể nh́n thấy dễ dàng.

•Thay đổi sự sắp xếp chỗ ngủ để cho người thân yêu của bạn ngủ nơi mà họ thấy thoải mái nhất

•Khóa các cửa ra vào nhà và chận cầu thang bằng loại cửa chận cao . Lock doors and block off stairs with tall gates. Cất dấu đi những vật dụng nguy hiểm .

•Cài đặt loại máy nhận tính hiệu về những di động tại cánh cửa để báo động cho bạn khi người thân của bạn đang đi lang thang nơi cửa

•Hăy nói với bác sĩ để để được trợ giúp . Có thể là thuốc men có vấn đề nên gây khó khăn cho người thân của bạn ngủ. Bác sĩ có thể kê đơn thuốc để giúp người bệnh thư giăn và ngủ .

•Hăy yêu cầu bạn bè và thân nhân người bạn trợ giúp bạn chăm sóc người bệnh để bạn có thể ngủ. Hăy chợp mắt ngủ ngăn ngắn trong ngày, từ đó bạn cảm thấy được nghỉ ngơi.



LANG THANG (WANDERING)
•Hăy vận động vật lư / hoạt động về thể chất như đi bộ mỗi ngày.

•Hăy cung cấp một nơi an toàn cho việc đi lang thang như hàng rào ở sân sau.

•Hăy đặt một rào cản như một dấu hiệu dừng lại (stop sign), dấu hiệu không được đi vào, đồ đạc chận sau cửa hay treo trên cửa .

•Hăy che đấu tay nắm cửa bằng cách quấn vải lên tay nắm cửa hay dùng loại miếng nhựa che để bảo đảm an toàn dành trẻ con ở tay nắm cửa . Hăy cài thêm hệ thống báo động để cảnh báo bạn là người thân yêu của bạn đang rời khỏi khu vực qui định . Hệ thống báo động của bạn có thể chỉ là một vài lon rỗng cột với nhau thành một chuỗi treo ở tay nắm cửa.

•Hăy đặt một tấm thảm màu đen ở bên ngoài phía trước cửa. Điều này có thể làm trông giống như một hố để ngăn chặn người thân yêu của bạn đi ra khỏi cửa.

• Hăy cất đi các vật thiết yếu như: túi xách, áo khoác của người thân yêu hoặc kính đeo. Người bệnh có thể bỏ đi mà không có các bật dụng này.

•Hăy cho người thân yêu đeo tay hay đeo ngực hay may trên áo dấu hiệu / bảng ghi chú để giúp người khác nhận biết họ trong trường hợp họ bỏ nhà đi rồi đi lạc . Hăy có sẵn h́nh ảnh hiện tại của người bệnh trong trường hợp bạn cần phải báo cáo họ hoặc mất tích. Hăy suy xét việc đăng kư người thân yêu với chương tŕnh đưa trở về an toàn của Hiệp hội Mất Trí Nhớ (the Alzheimer’s Association Safe Return program).

•Hăy xem xét việc mua các thiết bị kỹ thuật điện tử có thể đeo như một chiếc đồng hồ hoặc đeo ở vành đai mà có thể sử dụng hệ thống định vị trí (GPS) để theo dơi vị trí của người.

•Hăy kể cho láng giềng hàng xóm của bạn về hành vi đi lang thang của người thân yêu của bạn và cung cấp cho họ số điện thoại của bạn. Hăy nói chuyện với bác sĩ của bạn về hành vi của người thân yêu. Có thể là một vấn đề thuốc men nào đó đă gây ra hành vi gây phiền hà hành vi quấy rối. Hành vi / phương cách ứng sử là đầu mối những ǵ người thân yêu của bạn cảm nhận thấy. Hăy sáng tạo và linh hoạt như bạn đáp ứng những nhu cầu của người thân yêu.



Lynn Ly (20/09/2012)

florida80
05-16-2019, 18:21
Rank: Advanced Member



Groups: Registered
Joined: 3/26/2011(UTC)
Posts: 13,885



Thanks: 6535 times
Was thanked: 2718 time(s) in 1917 post(s)





Nghiên cứu chấn động : OGM gây u bướu và giảm thọ

UserPostedImage
Giáo sư Gilles-Eric Seralini, phụ trách nhóm nghiên cứu về tác động của OGM, họp báo tại Quốc hội Châu Âu, Bruxelles, 20/09/2012.
REUTERS/Yves Herman

Trọng Thành - RFI
Hôm qua, 19/09/2012, theo AFP, một kết quả nghiên cứu về tác hại của thực phẩm biến đổi gen (OGM) đối với chuột thực nghiệm, vừa được công bố, gây chấn động công luận. Pháp và Châu Âu tuyên bố sẽ thẩm định kết quả này và, nếu tác hại là thực, sẽ nhanh chóng có biện pháp thích đáng. Cho đến nay, đây là nghiên cứu khoa học đầu tiên cho thấy tính độc hại của thực phẩm OGM.

Một nhóm chuyên gia, do giáo sư Gilles-Eric Séralini (Đai học Caen) lănh đạo, đă tiến hành trong ṿng 2 năm liền một cách bí mật, một nghiên cứu về tác động của ngô OGM NK 603 (là sản phẩm của hăng Monsanto được nhập vào Châu Âu) và thuốc diệt cỏ Roundup lên chuột. Kết quả nghiên cứu cho thấy : Nhóm chuột ăn ngô biến đổi gen có tỷ lệ bị u, bướu cao gấp khoảng 2,5 lần và tỷ lệ tử vong cũng cao gấp khoảng 2,5 lần so với nhóm đối chứng ăn ngô thường.

Chi phí cho nghiên cứu kể trên của Đại học Caen là hơn 3 triệu euro. Khoản tiền này do hai quỹ Ceres và Fondation Charles Leopold Meyer v́ tiến bộ của con người đài thọ và do Hội đồng Nghiên cứu và thông tin độc lập về công nghệ di truyền (CRIIGEN) quản lư. Ngày 26/09 tới, một bộ phim về nghiên cứu đặc biệt này, mang tên « Tous cobayes », sẽ ra mắt công chúng, cùng với một cuốn sách do NXB Flammarion phát hành.

Châu Âu yêu cầu cơ quan hữu trách khẩn trương thẩm định

Ngay sau khi kết quả nghiên cứu được công bố trên tạp chí khoa học « Food and Chemical Toxicology » hôm qua, Bruxelles đă lập tức yêu cầu EFSA (Cơ quan Châu Âu về an toàn thực phẩm) xem xét hồ sơ này và hứa hẹn sẽ sớm có các biện pháp. Ngay hôm qua, Ủy ban Châu Âu đă tuyên bố ngưng xem xét yêu cầu gia hạn nhập khẩu hạt giống ngô OGM MON 810, trong khi chờ đợi ư kiến của EFSA về vấn đề này. MON 810 là một trong hai giống OGM duy nhất mà Châu Âu cho phép cho đến nay.

Nghiên cứu của đại học Caen, nếu được EFSA công nhận, sẽ lật ngược lại quan niệm cho rằng ngô OGM là vô hại. Đây là luận điểm mà cơ quan này và Ủy ban Châu Âu vẫn dùng để biện bạch cho việc cấp phép cho việc trồng một số cây biến đổi và nhập khẩu các thực phẩm có chứa OGM.

Nghiên cứu kéo dài hai năm kể trên là một trường hợp hy hữu, v́ cho đến nay, theo quy định của Châu Âu, các nghiên cứu chứng minh tính vô hại của OGM đối với sức khỏe, chỉ được tiến hành trong thời gian tối đa là 90 ngày.

Tập đoàn Monsanto cho rằng, c̣n quá sớm để nói về nghiên cứu của Pháp vừa công bố. Bên cạnh đó, một hiệp hội chuyên gia ủng hộ OGM th́ khẳng định, cho đến nay, rất nhiều nghiên cứu đều cho thấy thực phẩm OGM vô hại.

Ủy ban Công nghệ Sinh học Pháp (HCB), được chính phủ Pháp yêu cầu, cam kết sẽ cung cấp một "phân tích sâu" về vấn đề này, đồng thời kêu gọi thận trọng trước việc tuyên truyền thái quá. Giáo sư Jean-Christophe Pagès, chủ tịch Hội đồng khoa học của HCB phẫn nộ lên án việc sử dụng các bức ảnh chuột bị u bướu v́ mục đích tuyên truyền.

UserPostedImage
Nghiên cứu của giáo sư Séralini : Chuột bị u bướu to như quả bóng bàn, sau một thời gian ăn ngô biến đổi gen. AFP

Trả lời họp báo tại Quốc hội Châu Âu ở Bruxelles, giáo sư Séralini tuyên bố, không chấp nhận thẩm quyền của EFSA - Cơ quan Châu Âu về an toàn thực phẩm. Ông khẳng định : Một cơ quan đă từng cho phép nhập giống ngô OGM NK 603, th́ không thể nào đóng vai tṛ thẩm định nghiên cứu về chính giống ngô này, v́ ở đây có « một xung đột lợi ích ». Sự mập mờ trong quan hệ giữa nhiều thành viên của Cơ quan Châu Âu về an toàn thực phẩm và các nhà khoa học với các tập đoàn công nghiệp thực phẩm là điều đă từng bị công luận chỉ trích.



Pháp yêu cầu Châu Âu làm sáng tỏ thủ tục pháp lư đối với OGM

Về phần ḿnh, chính phủ Pháp tuyên bố sẵn sàng yêu cầu Châu Âu ngưng khẩn cấp việc nhập thực phẩm có chứa ngô NK 603, nếu như Cơ quan An toàn Thực phẩm của Pháp – ANSES – khẳng định nghiên cứu của giáo sư Séralini.

Trả lời AFP hôm qua, bộ trưởng Nông nghiệp Pháp Stéphane Le Foll yêu cầu Châu Âu phải làm sáng tỏ các thủ tục pháp lư đối với các cây trồng biến đổi gen, dựa trên các kết quả nghiên cứu khoa học. Theo nghị sĩ Pháp Philippe Martin, lâu nay Châu Âu thường xuyên bác bỏ các đ̣i hỏi của Pháp về OGM với luận điểm « không có bằng chứng khoa học về tính chất nguy hiểm của OGM ». Vào năm 2008, chính phủ Pháp đă từng kiến nghị Châu Âu không cho phép trồng trên diện rộng giống ngô MON 810. Tuy nhiên, đề nghị này đă bị Ṭa án Châu Âu bác bỏ. Cho đến nay, Cơ quan Châu Âu về an toàn thực phẩm (cơ quan phụ trách việc cấp giấy phép) – vẫn dựa trên một số kết quả nghiên cứu chứng minh tính vô hại của ngô OGM, trong đó có các nghiên cứu do chính hăng Monsanto đề nghị.

Hiện tại, Châu Âu dù có rất ít cây trồng OGM, nhưng đậu tương Hoa Kỳ, mà phần lớn là đậu tương OGM chiếm từ 25-30% trong thức ăn cho chăn nuôi của Châu Âu.

Nhân dịp nghiên cứu về OGM gây sốc vừa được công bố, một số nhà chính trị đặt lại nghi vấn về những cản trở ghê gớm đối với các nghiên cứu khoa học độc lập về tác động của OGM từ lâu nay. Các nhà chính trị Pháp thuộc đảng Xanh (EELV) th́ yêu cầu đ́nh chỉ việc nhập khẩu tất cả mặt hàng có chứa thực phẩm biến đổi gen.

Back to top

florida80
05-16-2019, 18:21
TẬP THỂ DỤC GÂY HEN SUYỄN
(EXERCISE INDUCED ASTHMA)
Lynn Ly Phỏng Dịch theo thông tin Đại Học Y OHIO-Hoa Kỳ



Kiểu tập thể dục gây Hen Suyễn (Asthma) c̣n được gọi là thể dục thúc đẩy sự co thắt phế quản (EIB = bronchospasm). Sự co thắt phế quản là một trong những loại bệnh hen suyễn gây ra các vấn đề hô hấp như ho, thở kḥ khè (wheezing) hay co thắt lồng ngực (chest tightness) trong khi hoặc sau khi tập thể dục.

Những người bị loại hen suyễn này có những đường ống khí rất nhạy cảm. Thở nhanh / thở gấp / sự tăng thông khí (fastbreathing = hyperventilation) trong khi tập thể dục khiến cho các đường dẫn khí vào phổi hạ nhiệt và khô đị . Sự thay đổi nhanh chóng ở nhiệt độ không khí và độ ẩm khiến cho các ống khí thắt chặt lại và trở nên nhỏ hơn. Những ống khí nhỏ làm cho hô hấp khó khăn hơn. Ô nhiễm không khí, phấn hoa, hay bào tử nấm mốc (mold spores) được hít vào phổi trong khi tập thể dục cũng có thể gây ra các vấn đề về hô hấp.

Nếu bạn bị bệnh hen suyễn măn tính, dị ứng, các vấn đề về xoang mũi (sinus) hoặc có tiền sử gia đ́nh bị dị ứng, bạn có thể có nguy cơ bị t́nh trạng nàỵ .

NHỮNG DẤU HIỆU (SIGNS)

Những vấn đề về hô hấp khởi phát sau khi bạn bắt đầu tập thể dục hoặc 5 đến 20 phút sau khi ngừng tập thể dục. Các dấu hiệu thường gặp nhất là:
•Kḥ khè (Wheezing)

•Ho (Coughing)

•Mệt mỏi (Tiredness)

•Thở hổn hển , khó thở (Shortness of Breath)

•Co thắt lồng ngực / Lồng ngực như bị bó chặt (Chest Tightness)


THỬ NGHIỆM (TESTING)

Bác sĩ sẽ hỏi bạn về khả năng hô hấp của bạn và làm xét nghiệm, như kiểm tra tim mạch và hơi thở của bạn. Các xét nghiệm sau đây này cũng có thể được sử dụng:
•Thử nghiệm thực hiện các kiểu thể dục có tính cách thử thách va` đo hơi thở của bạn trong khi bạn đi bộ hoặc chạy trên máy chạy bộ (treadmill), hoặc ddang dda.p loa.i xe đạp thể dục.

• Thử nghiệm sự chủ động gia tăng thông khí Eucapnic ( Eucapnic voluntary hyperventilation test = EVH) được thực hiện băng cách hít thở nhanh vào trong một ống đo lường lượng không khí đi vào và đi ra khỏi phổi.


ĐIỀU TRỊ (TREATMENT)

Sự co thắt phế quản (EIB) có thể được điều trị bằng thuốc trước khi tập thể dục. Thuốc đặt trong một ống hít hơi được hít vào phổi 15 phút trước khi tập thể dục. Thuốc này nhanh chóng mở rộng các đường ống dẫn khí và giữ cho chúng mở rộng ra khoảng từ 4 đến 6 giờ. Nếu thuốc hít trước khi tập thể dục không hiệu guả hoặc nếu vấn đề hô hấp trở nên trầm trọng hơn, hăy nói chuyện với bác sĩ của bạn. Bạn có thể cần thay đổi loại thuốc.

KIỂM SOÁT CÁC DẤU HIỆU CỦA BẠN (CONTROLLING YOUR SIGNS)

Không nên để loại bệnh hen suyễn này ngăn cản các hoạt động mà bạn thích hoặc việc luyện tập thể dục. Một số bài tập và thể thao có thời gian nghỉ giữa chừng sẽ ít gây ra những vấn đề hô hấp hơn, như bóng chày (baseball), bóng rổ / bóng chuyền (volleyball), tennis, trượt tuyết xuống đồi dốc , và golf, có thể dễ dàng hơn để thực hiện. Dưới đây là những cách khác làm giảm thiểu các dấu hiệu hen suyễn của bạn:
•Hăy làm nóng người bằng cách thực hiện các động tác co giăn (stretching) hoặc đi bộ chậm chậm từ 5 đến 10 phút trước khi tập thể dục ở mức độ trung b́nh (moderate exercise = thể dục ở mức độ không đ̣i hỏi tận dụng sức lực quá mức) .

•Tự cho ḿnh một khoảng thời gian nghỉ ngơi 5 phút khi có dấu hiệu hen suyễn phát khởi .

•Tập thể dục trong nhà khi thời tiết bên ngoài lạnh và khô, hoặc nếu có cảnh báo về sự ô nhiễm không khí hay ô nhiễm bầu khí quyển, hoặc có cảnh báo về số lượng phấn hoa tăng cao.

•Hô hấp bằng mũi trong khi luyện tập thể dục nhẹ nhàng. Mũi làm ấm và bổ sung thêm độ ẩm cho không khí hơn thở bằng miệng.

•Dùng khăn quàng hoặc mặt nạ che mũi và miệng của bạn để làm ấm không khí trước khi không khí đi vào phổi.

•Nói chuyện với bác sĩ của bạn về phương cách kiểm soát các dấu hiệu bị dị ứng như nghẹt mũi, hắt hơi, ngứa mắt. Dị ứng có thể làm cho dấu hiệu hẹn suyễn trở nên tồi tệ hơn.



Lynn Ly (18/09/2012)

florida80
05-16-2019, 18:22
NHỮNG LO LẮNG VÀ KHÓ CHỊU VỀ THAI NGHÉN
(CONCERNS AND DISCOMFORTS OF PREGNANCY)

Lynn Ly phỏng dịch theo Thông Tin Của Wexner Medical Center


Trong thời gian thai nghén, bạn thường có một số lo lắng và khó chịu do cơ thể thay đổi. Nên làm theo các hướng dẫn đây và nói chuyện với bác sĩ hoặc y tá để có thêm lời khuyên. Không nên dùng thuốc không cần toa bác sĩ hoặc thảo dược khi chưa tham khảo trước ư kiến bác sĩ.

BUỒN NÔN (NAUSEA)

Buồn nôn hoặc khó chịu dạ dày thường được gọi là căn bệnh buổi sáng (morning sickness). Một số phụ nữ cũng bị ợ nóng (heartburn) hoặc có cảm giác nóng trong dạ dày, cổ họng hoặc ngực. Đây là triệu chứng b́nh thường trong 14 tuần lễ đầu của thời kỳ thai nghén. Để cải thiện các dấu hiệu của bạn:
•Nên ăn bánh quy / bánh lạt (crackers), bánh ḿ nướng hoặc ngũ cốc trước khi rời giường vào buổi sáng. Các thức ăn này ngăn cơn buồn nôn vào bất cứ lúc nào trong ngày.

•Chia làm nhiều bữa ăn nhỏ hơn, ăn thường xuyên hơn thoặc v́ 3 bữa ăn chính.

•Không bao giờ để dạ dày trống hoàn toàn.

•Không nên nằm, ngủ hoặc tập thể dục trong 1 giờ sau khi ăn.

•Tránh thực phẩm chiên xào, có nhiều mỡ, nhiều gia vị, nhiều axit hoặc nhiều chất béo. Tránh dùng các loại nước uống có chất caffein.

•Nằm ngủ với đầu nằm ngửa nâng lên trên gối cao.

•Khi cúi xuống, cong đầu gối hạ thấp người xuống và không khom lưng ở ngang eo.

•Phone gọi cho bác sĩ nếu không hết nôn ói lâu hơn 24 giờ, có nước tiểu đậm màu hoặc thấy mệt hoặc chóng mặt.



TẬP THỂ DỤC, NĂNG LỰC VÀ GIẤC NGỦ

Cảm giác mệt mỏi là điều b́nh thường, nhưng tập thể dục có thể giúp tăng cường các cơ khi mang thai và khi sinh nở. Để tăng năng lực cho bạn:
• Tập thể dục mỗi ngày nếu bác sĩ cho phép. Nói chuyện với bác sĩ của bạn về loại bài tập thể dục bạn đang tập.

•Tập thể dục ít nhất 30 phút 4 đến 5 ngày trong tuần, nếu bạn được phép tập thể dục. Tham khảo bác sĩ của bạn trước khi bắt đầu một chương tŕnh tập thể dục mới.

•Nên nghỉ ngơi thường xuyên. Nằm nghiêng về bên trái ít nhất 1 giờ trong ngày để tăng lưu thông máu cho thai nhi. Ôm gối giữa hai chân và dưới bụng có thể trợ giúp gia tăng sự thoải mái.

•Nếu bạn khó ngủ, ngâm ḿnh trong bồn nước âm ấm hoặc tắm ṿi sen bằng nước ấm trước khi đi ngủ. Bạn cũng có thể tập các bài tập thư giăn như tọa thiền, hít thở sâu và co duỗi / căng giăn.



SỨC KHỎE RĂNG MIỆNG
• Khám nha sĩ ít nhất 1 lần trong khi mang thai.

•Báo cho nha sĩ của bạn biết nếu bạn gặp các vấn đề về nướu lợi hoặc răng.

•Dùng bàn chải đánh răng loại mềm và đánh nhẹ nhàng. Dùng chỉ nha khoa (dental floss) để làm sạch kẽ chân răng mỗi ngày.

•Nếu bạn bị nôn mửa do buồn nôn, hăy xúc miệng bằng 1 cốc nước có pha 1 th́a cà phê bột nở (natri hiđrocacbonat). Việc này sẽ giúp loại bỏ axit dạ dày trong miệng.

•Không nên hút thuốc lá .



NHỨC ĐẦU VÀ CHÓNG MẶT
• Nếu bị nhức đầu, gọi cho bác sĩ hoặc y tá khi cần dùng thuốc không theo toa an toàn. Không nên uống aspirin, ibuprofen (Advil hoặc Motrin) hoặc naproxen (Aleve).

•Nếu bạn cảm thấy chóng mặt, hăy ngồi hoặc nằm xuống để tránh bị ngă. Đứng dậy từ từ sau 15 phút để xem có hết chóng mặt hoặc không.

•Di chuyển vị trí, tư thế từ từ khi bạn bị đau đầu hoặc cảm thấy chóng mặt.

•Hăy phone gọi bác sĩ nếu bạn bị đau đầu hoặc chóng mặt không hết, hoặc nặng hơn hoặc bạn thấy mắt mờ, đau mắt hoặc áp lực trong mắt hoặc sưng phù nhiều ở tay hoặc chân.



NGHẸT MŨI VÀ CHẢY MÁU MŨI
• Bạn nên sử dụng thuốc nhỏ mũi bằng nước muối hay gel. Nói chuyện với bác sĩ của bạn trước khi dùng bất kỳ loại thuốc không theo toa bác sĩ .

•Để ngừng chảy máu mũi, hăy ngồi dậy, cúi đầu về phía trước và dùng ngón tay ấn mạnh vào cánh mũi bị chảy máu. Cần phải được chăm sóc y tế nếu bị chảy máu mũi kéo dài hơn 20 phút.



DA, TÓC VÀ MÓNG TAY CHÂN
• Tóc và móng của bạn mọc nhanh hơn. Nếu muốn chăm sóc tóc bằng hóa chất, nên cho thợ cắt tóc biết bạn đang mang thai.

•Khi có vấn đề về da th́ đây cũng là điều b́nh thường kể cả bị thay đổi màu da, ngứa ngáy ngoài da, bị mụn trứng cá và vết nám. Có thể sử dụng kem bôi hoặc thuốc mỡ bôi tại chỗ nơi da bị ngứa hoặc để giảm thiểu sự xuất hiện các vết nám.

•Không sử dụng các sản phẩm có Accutane hoặc Retin-A khi đang mang thai.

•Gọi phone cho bác sĩ nếu có bất kỳ thắc mắc ǵ .


ĐAU VÚ HOẶC CHẢY SỮA
• Mặc nịt vú /áo ngực có đệm đỡ vừa phải thoải mái, như các loại nịt vú / áo ngực thể thao. Một số phụ nữ cũng mặc nịt vú / áo ngực không có dây kim loại bên dưới khi ngủ ban đêm.

•Nếu vú bạn bị chảy sữa, hăy mang miếng lót đệm trong nịt vú / áo ngực và thay miếng lót đệm khi bạn cảm thấy hoặc nghĩ miếng lót đệm ẩm ướt.



ĐI TIỂU THƯỜNG XUYÊN HOẶC RỈ NƯỚC TIỂU

Bạn có thể phải đi tiểu thường xuyên hơn trong suốt thai kỳ. Bị són nước tiểu là chuyện b́nh thường trong những tháng cuối của thai kỳ. Són nước tiểu xảy ra khi ho, hắt hơi, nâng nhấc vật nặng hoặc quan hệ t́nh dục khi mang thai.
• Không nên hạn chế uống nước hay chất lỏng, nhưng uống ít nước hơn trước khi đi ngủ.

•Hăy đi tiểu thường xuyên.

•Kiêng uống chất lỏng có chất caffein.

•Hăy tập các bài tập Kegel để tăng cường và kiểm soát các cơ xung quanh âm đạo. Cách tập Kegel:
◦ Phương cách để xác định vị trí các cơ này là trong khi đang tiểu th́ làm động tác nín tiểu và rồi th́ tiểu , rồi nín tiểu rồi tiểu.

◦Tập co chặt các cơ này trong thời gian ngắn khoảng 5 giây , rồi thả lỏng chầm chậm.

◦Khi co chặt các cơ vùng này , bạn cảm giác được vùng niệu đạo, nơi nước tiểu chảy ra, bị nâng lên một chút.

◦Thực hành các bài tập này khi ngồi, đứng, đi, lái xe hay xem tivi.

◦Làm các động tác này 10 lần cho 1 lần 1 tập, và 5 đến 10 lần tập trong một ngày.



•Gọi cho bác sĩ nếu bạn bị tiểu nóng rát, bị đau khi tiểu hay bị nóng sốt.

•Gọi cho bác sĩ nếu bạn nghĩ ḿnh có thể bị ṛ rỉ nước ối và không phải nước tiểu. Hăy nằm xuống trong 30 phút với một miếng vải thấm. Nếu bạn cảm thấy có nước dịch khi đứng dậy và nước dịch này màu vàng, hồng hoặc nâu, hăy gọi cho bác sĩ của quư vị.



CHẢY NƯỚC ÂM ĐẠO (VAGINAL DRAINAGE)

Sự thay đổi khi có chảy nước trong âm đạo là b́nh thường.
• Hăy rửa phía ngoài âm đạo thường xuyên hơn. Dùng xà bông không có dầu thơm. Hăy rửa vùng ngoài âm đạo kỹ lưỡng.

•Không dùng loại băng vệ sinh đặt nhét vào trong âm đạo, không dùng thuốc xịt âm đạo, thụt rửa, bột phấn và giấy vệ sinh có màu và mùi thơm

•Mặc quần lót bằng vải coton (coton thấm nước hơn loại vải có chất Polyester) . Tránh mặc quần chất liệu nilon (chất Polyester) hoặc quần tất và quần chật bó sát.

•Hăy phone gọi cho bác sĩ nếu âm đạo chảy nước có mùi hôi, bị gây ngứa ngáy hay có máu.



TÁO BÓN HOẶC TIÊU CHẢY

Táo bón là rất b́nh thường khi mang thai v́ sự thay đổi các nội tiết tố / hóc môn (hormones) trong cơ thể. Tiêu chảy có thể do những thay đổi trong chế độ ăn uống, tập thể dục hoặc vitamin dành cho thai phụ hoặc bị bệnh nhiễm trùng.

TÁO BÓN (CONSTIPATION)
• Hăy uống 6 đến 8 ly nước mỗi ngày. Nên uống nước, nước ép trái cây và sữa.

•Hăy ăn loại thực phẩm có nhiều chất xơ như trái cây tươi và rau, ngũ cốc nguyên hạt, ngũ cốc có nhiều chất xơ và đậu khô nấu chín.

•Không nên dùng thuốc nhuận tràng (laxatives), dung dịch thụt hay thuốc mua tự do không cần toa bác sĩ trừ phi bác sĩ cho phép.

•Hăy gọi cho bác sĩ nếu chứng táo bón không khả quan hơn trong 2 ngày.



TIÊU CHẢY (DIARRHEA)
• Uống 8 đến 12 cốc nước, nước canh hoặc loại nước uống thể thao ít đường. Không nên uống nước ép trái cây và sữa khi các loại nước này có thể khiến cho khiến tiêu chảy trở nên nặng hơn. Không nên uống loại nước có chất caffein và rượu.

•Ăn chuối, cơm, táo, bánh ḿ nướng, sữa chua (yogurt), loại súp không có chất kem sữa, khoai tây, bánh quy / bánh lạt, bột yến mạch, ngũ cốc ít đường và ít chất xơ, và thịt nạc, như thịt gà, gà tây, thịt ḅ, thịt lợn, trứng nấu chín hoặc đậu hũ.

•Hăy gọi cho bác sĩ nếu tiêu chảy không giảm bớt trong 2 ngày, bị đau hoặc bị chuột rút nặng hơn hoặc chảy máu từ trực tràng (bleeding from the rectum). Nếu bạn bị tiêu chảy lâu từ 2 ngày trở lên, hăy uống loại nước dùng cho người bị t́nh trạng mất nước trong cơ thể , như sản phẩm Pedialyte®.



BỆNH TRĨ (HEMORRHOIDS)

Bệnh trĩ (Hemorrhoids) là bị sưng các mạch máu ở vùng trực tràng do táo bón hoặc áp lực của em bé trong cơ thể khi mang thai.
• Hăy ăn thực phẩm có nhiều chất xơ, như trái cây tươi và rau. Uống nhiều nước hơn và uống nước hoa quả vừa phải để đi tiêu đều đặn và giữ cho phân mềm dễ đi tiêu.

•Không nên căng cơ quá mức hay ráng sức rặn khi đi tiêu.

•Hăy dùng miếng gạc mát (cold compresses) để giảm đau hoặc giảm sưng vết trĩ
Nói chuyện với bác sĩ của quư vị về việc sử dụng kem bôi tại chỗ để giảm đau

•Gọi cho bác sĩ nếu cơn đau tăng nhiều hoặc có chảy máu.



ĐAU LƯNG VÀ VỌP BẺ/CHUỘT RÚT CHÂN (BACK PAIN AND LEG CRAMPS)

Hầu hết phụ nữ bị đau lưng khi cơ thể thay đổi cùng với sự phát triển của thai nhi. Vọp bẻ /Chuột rút chân là b́nh thường khi mang thai.

ĐAU LƯNG (BACK PAIN)
• Khi nghỉ ngơi hoặc ngủ, hăy sử dụng gối kê / miếng đệm đỡ. Nằm nghiêng bên trái chèn gối ôm giữa hai đầu gối, sau lưng và dưới bụng.

•Đứng thẳng. Không nên ngồi sụp xuống hay đi thơng vai (slump or slouch).

•Mang giày đế thấp, giày đi bộ.

•Không nên đứng lâu một chỗ. Hăy thay đổi tư thế ở mỗi khoảng 30 phút.

•Ngồi chồm hổm / ngồi xổm xuống để lấy vật dụng hơn là khom lưng ngang eo. Không khom lưng ngang eo, mà cong đầu gối hạ thấp người xuống.



VỌP BẺ / CHUỘT RÚT CHÂN (LEG CRAMPS)
• Thêm chất lỏng, canxi (Calsium) và kali (potassium) vào chế độ ăn uống của bạn. Ăn các loại thực phẩm như sữa, sữa chua, chuối và nước cam vắt.

•Thường xuyên nghỉ ngơi trong tư thế đưa gác chân cao lên vào ban ngày. Đặt một chiếc gối ở dưới đầu gối và mắt cá chân khi ngồi hoặc nằm xuống.

•Khi bị chuột rút, duỗi thẳng chân và cong bàn chân về phía trước.

•Gọi cho bác sĩ nếu luôn bị đau chỉ ở một chân, nếu có vùng nóng hay đỏ ở chân hay chân bị đau khi cong bàn chân về phía trước.



CĂNG GIĂN TĨNH MẠCH (VARICOSE VEINS)

Sự căng giăn tĩnh mạch (Varicose Veins) là các tĩnh mạch bị nở rộng mà quư vị có thể nh́n thấy trên chân. Sự căng giăn này có thể gây ngứa ngáy, đau và gây ngứa ran ở cẳng chân.
• Tránh mặc quần chất liệu nilon hoặc quần tất vớ (panty hose) mà có các sợi dây thun (elastic bands).

•Mang giầy đế thấp hoặc giầy thể thao / giầy đi bộ . Không nên đi đế cao .

•Nếu bạn phải đứng lâu 1 chỗ, hăy suy xét việc mang tất / vớ dài có khả năng trợ giúp việc cải thiện lưu thông máu từ chân về tim .

•Hăy lấy khoảng nghỉ giải lao ngăn ngắn (short rest breaks) rồi gác chân lên (bàn) cao hơn vị trí trái tim. Nằm nghiêng bên trái với chiếc gối kê giữa 2 chân và bên dưới bụng .

•Không ngồi chéo chân



SƯNG PHÙ Ở BÀN TAY VÀ BÀN CHÂN (SWELLING OF HANDS AND FEETS)
• Tránh đứng hay ngồi lâu một chỗ.

•Nằm nghiêng bên trái khoảng 30 đến 60 phút, 3 đến 4 lần mỗi ngày.

•Tập thể dục nếu bác sĩ cho phép.

•Kiêng thực phẩm có nhiều muối.

•Gọi phone cho bác sĩ nếu thấy bị sưng phù khi thức dậy vào buổi sáng liên tiếp trong vài ngày.



CẢM LẠNH, CẢM CÚM HOẶC NHIỄM SIÊU VI (COLD, FLU OR A VIRUS)
• Hăy báo cho bác sĩ của bạn về việc chủng ngừa / tiêm vắc xin để bảo vệ bạn khỏi bị cúm. Khi mang thai, quư vị cần tiêm (chích thuốc = shot=injection) và không cần loại thuốc xịt mũi (nasal spray).

•Hăy phone gọi cho bác sĩ hay y tá về loại thuốc bán không cần toa bác sĩ đê bảo đảm an toàn nếu bạn phải dùng để trị cảm lạnh hoặc cảm cúm.

•Tránh đến gần những người bị bệnh. Thường xuyên rửa tay.

•Hăy phone gọi cho bác sĩ nếu bạn bị nóng sốt, thở hổn hển (shortness of breath) hay ho có đờm (coughing up sputum).



ĐAU BỤNG HOẶC CƠN CO THẮT (ABDOMINAL PAIN or CONTRACTIONS)

Bạn có thể cảm thấy bị đau ở vùng háng (groin area) do tử cung lớn lên. Cơn đau này có thể tăng lên khi có vận động di chuyển đột ngột hay đi lại lâu.
• Gọi phone cho bác sĩ ngay lập tức nếu quư vị bị đau nhiều.

•Cơn co thắt Braxton Hicks (Braxton Hicks Contractions) là cơn co thắt nhẹ không đau và bất thường / không thường xuyên (irregular). Đó là triệu chứng b́nh thường và không cần điều trị.

•Khi bạn bị cơn co thắt, nên nằm nghiêng bên trái và nghỉ ngơi. Đặt tay lên bụng để biết khi nào cơn co thắt bắt đầu và kết thúc. Ghi nhận thời gian kéo dài bao lâu và tần suất diễn ra ở các cơn co thắt.

•Nếu bạn có thai dưới 9 tháng và bị cơn co thắt, th́ nên uống 8 đến 10 cốc nước trong một giờ. Nếu bạn vẫn bo/ cơn co thắt khoảng 4 lần hay nhiều hơn trong một giờ sau khi uống nước, nên gọi phone bác sĩ.

•Nếu bạn đang ở vào tháng thứ chín của thai kỳ, hăy gọi bác sĩ nếu bị co thắt nhiều hơn 6 lần trong một giờ, kéo dài hơn 15 đến 30 giây, trở nên đau đớn, bị chảy máu hay chảy dịch âm đạo.

•Bác sĩ có thể yêu cầu bạn gọi họ ngay lập tức nếu bị cơn co thắt.



HOẠT ĐỘNG T̀NH DỤC (SEXUAL ACTIVITY)

Là điều b́nh thường nếu bạn có thay đổi ham muốn t́nh dục trong thời gian mang thai.
• Có thể giao hợp (quan hệ t́nh dục =sexual intercourse) trong thời gian mang thai trừ khi bác sĩ không cho phép. Hăy cho bạn t́nh của bạn biết những ǵ khiến bạn thoải mái.

•Thực hành t́nh dục an toàn nếu bạn hoặc bạn t́nh của bạn bị nhiễm bệnh truyền qua đường t́nh dục (sexually transmitted infection).

•Bạn có thể cảm thấy bị vọp bẻ/ chuột rút trong vài phút sau khi giao hợp (quan hệ t́nh dục).

•Hăy gọi cho bác sĩ nếu sau khi giao hợp (quan hệ t́nh dục) mà bạn bị chảy máu âm đạo, són nước tiểu hoặc vỡ ối.



THAY ĐỔI TÂM TRẠNG / TÂM TÍNH VÀ TRÍ NHỚ (CHANGES IN MOOD AND MEMORY)

Là điều b́nh thường nếu có tâm trạng / tâm tính thất thường do nội tiết tố, những thay đổi trong thói quen ngủ hoặc thói quen ăn uống hoặc bị căng thẳng khi mang thai.
• Cũng là điều b́nh thường nếu có những tâm trạng /tâm tính khác nhau khi mang thai. Bạn có thể vui mừng về việc sinh bé, nhưng lo lắng về mức độ thay đổi trong cuộc sống của bạn. Hăy nói với bạn đời, gia đ́nh và bạn bè của bạn để được hỗ trợ về tinh thần.

•Hăy xử lư / giải quyết sự căng thẳng trong cuộc sống của bạn. Hít thở sâu , tọa thiền, nghe nhạc, tập thể dục nhẹ nhàng và xoa bóp có thể trợ giúp giảm thiểu sự căng thẳng.

•Nếu bạn gặp vấn đề về ăn uống và ngủ nghỉ, việc này có thể làm thay đổi cảm giác của bạn, hăy nói chuyện với bác sĩ và bác sĩ / chuyên gia dinh dưỡng để được trợ giúp.

•Bạn nhận sẽ cảm thấy ḿnh hay bị quên hơn. Nên ghi chú lại để nhớ những điều quan trọng. T́nh trạng này sẽ cải thiện sau khi bạn sinh con.

•Hăy gọi cho bác sĩ nếu quư vị có ư nghĩ muốn tự làm tổn thương ḿnh hoặc người khác hoặc cảm thấy bị trầm cảm.



THÈM ĂN VÀ KHÔNG MUỐN ĂN (FOOD CRAVINGS AND AVERSIONS)

Bạn có thể thèm ăn khi mang thai trong khi mùi hoặc vị của các thức ăn khác lại có thể gây cho bạn bị buồn nôn.
• Ăn đa dạng các loại thức ăn có lợi cho sức khỏe vào các bữa chính và đối với các bữa ăn nhẹ, th́ ăn rau quả trái cây tươi, ngũ cốc nguyên hạt và thịt nạc. Không nên ăn các thực phẩm có nhiều đường, chất béo hoặc muối và nên chọn lựa các thực phẩm có lợi cho sức khỏe hơn.

•Hăy uống loại vitamin cho thai phụ hăng ngày (prenatal vitamin).



Tóm lại hăy liên lạc báo cho bác sĩ , y tá khi bạn có bất kỳ thắc mắc , e ngại lo lắng ǵ .

Lynn Ly (08/09/2012)

florida80
05-16-2019, 18:23
Sức khỏe của phụ nữ ở nông thôn là trọng điểm ngày Quốc tế Phụ nữ

Vào lúc dân chúng trên khắp thế giới mừng ngày Quốc tế Phụ nữ 8 tháng 3, các giới chức y tế kêu gọi các nhà quyết định chính sách và các nước cấp viện trên toàn cầu đem lại sức mạnh cho phụ nữ ở nông thôn bằng cách hỗ trợ cho các chương tŕnh y tế và sức khỏe. Các giới chức nói rằng các mục tiêu chính của những khoản đầu tư này phải là việc chữa trị các bệnh lây nhiễm vùng nhiệt đới và cải thiện sự tiếp cận của phụ nữ đối với các dịch vụ y tế về sinh sản. Thông tín viên VOA Vidushi Sinha ghi nhận chi tiết trong bài tường thuật sau đây.
Vidushi Sinha


UserPostedImage
H́nh: ASSOCIATED PRESS
Một phụ nữ Afghanistan cầm hoa hồng vàng đánh dấu ngày Quốc tế phụ nữ tại thủ đô Kabul


Trong lời phát biểu vừa rồi, bà Margaret Chan, tổng giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới WHO, nói rằng tổ chức của bà cần đến sự hỗ trợ của mọi người v́ đây sẽ là một cuộc hành tŕnh dài.

Bác sĩ Margaret Chan đưa ra lời kêu gọi với các nhà hảo tâm và giới lănh đạo các nước tại một hội nghị mới đây ở London cam kết tài trợ cho việc cải thiện các dịch vụ y tế dành cho phụ nữ ở nông thôn.

WHO nói việc đem lại sức mạnh kinh tế cho phụ nữ nông thôn - chủ đề của ngày Quốc tế Phụ nữ năm nay, chỉ có thể có được khi những người phụ nữ ấy được tiếp cận nhiều hơn với thuốc men cấp thiết và điều trị y tế cơ bản. Tại London, các tổ chức và cá nhân cấp viện chính đă đối mặt với thách thức đó.

Nhà hảo tâm chủ tịch công ty Microsoft Bill Gates đă góp phần lănh đạo một cuộc vận động pḥng chống các dịch bệnh vùng nhiệt đới không được chú ư tới nhưng lại tác động đến hơn 1 tỷ người trên toàn thế giới.

Bác sĩ Julie Jacobson thuộc Quỹ Gates nói rằng phong trào pḥng chống dịch bệnh vùng nhiệt đới cũng là một phong trào trợ giúp phụ nữ nông thôn.

Ông Jacobson nói: “Khi chúng ta nói về bệnh mắt hột, mù ḷa và phụ nữ đă chịu khổ sở ra sao khi mắc những chứng bệnh này và các ảnh hưởng đối với gia đ́nh họ – chẳng hạn như bệnh giun chỉ trong bạch huyết, bệnh sán lá gan, tác động không riêng đến đường tiết niệu mà c̣n cả đến đường sinh dục và là một yếu tố phụ - yếu tố rủi ro nhiễm HIV. Và đây là một điều chưa hề được coi trọng. V́ thế mà qua việc điều trị bằng một viên thuốc được cấp phát miễn phí, ta có thể giảm thiểu yếu tố rủi ro nhiễm HIV xuống từ 3 đến 4 năm cho các phụ nữ này. Tôi cho rằng đó là một khoảng thời gian không thể tưởng tượng được.”

Bà Maureen Greenwood-Basken, giám đốc điều hành ngành sức khỏe sinh sản của Quỹ Liên Hiệp Quốc cũng có chung cảm nghĩ như thế.

Bà Greenwood-Basken nói càng ngày thế giới càng thừa nhận rằng phụ nữ và các em gái có thể là các tác nhân quan trọng trong sự thay đổi xă hội.

Và bà tin rằng phụ nữ nông thông có thể sẵn sàng hoàn tất vai tṛ của ḿnh hơn trong việc xây dựng một xă hội tốt đẹp hơn nếu sức khỏe về sinh sản của họ được cải thiện.

Bà Greenwood-Basken nói: “Nếu họ được tiếp cận với các phương tiện kiểm soát sinh sản và kế hoạch gia đ́nh th́ chúng ta sẽ thấy các kết quả tốt hơn về sức khỏe bà mẹ, trẻ sơ sinh thoát chết nhiều hơn, các gia đ́nh đó có khả năng tốt hơn về cơm ăn áo mặc cho những đứa trẻ mà họ có – trẻ em cũng có nhiều phần chắc hơn được đến trường đi học. Các bà mẹ có khả năng tham gia vào các hoạt động mưu sinh kinh tế – xây dựng gia đ́nh lành mạnh hơn và các cộng đồng vững chắc hơn.”

Các chuyên gia nói rằng tiếp tục đầu tư vào sức khỏe và giáo dục cho phụ nữ và các em gái – và vào các chương tŕnh hỗ trợ cho việc cải thiện kinh tế của họ, là những khoản đầu tư mang lại lợi ích cho tất cả mọi người.


-Phụ nữ hiện chiếm hơn 40% lực lượng lao động toàn cầu.

- Khoảng cách biệt giới tính về giáo dục sơ cấp đă thu ngắn ở gần như tất cả các nước. Về giáo dục trung cấp, các khoảng cách này đang thu ngắn nhanh và đă đảo ngược ở nhiều nước.

-Từ năm 1980, phụ nữ sống lâu hơn nam giới ở mọi nơi trên thế giới.

-Phụ nữ nắm quyền kiểm soát các nguồn lực trong gia đ́nh có thể nâng cao triển vọng tăng trưởng của các nước Nhưng

-Khả năng tử vong nơi phụ nữ có phần cao hơn, so với nam giới, ở các nước có mức thu nhập thấp hoặc trung b́nh, so với các nước giàu.

- Có nhiều phần chắc hơn so với nam giới là phụ nữ phải làm công việc trong nhà hay trong lănh vực không chính thức mà không được trả lương.

- Đối với phụ nữ nghèo ở những nơi nghèo, khoảng cách biệt giới tính đáng kể vẫn c̣n và cách biệt giới tính về sản xuất và thu nhập rất phổ biến.

- Ở nhiều nước, phụ nữ, nhất là phụ nữ nghèo, có ít tiếng nói hơn trong các quyết định, và nắm ít quyền kiểm soát hơn đối với các nguồn lực trong gia đ́nh.

florida80
05-16-2019, 18:24
Rank: Advanced Member



Groups: Registered
Joined: 3/26/2011(UTC)
Posts: 13,885



Thanks: 6535 times
Was thanked: 2718 time(s) in 1917 post(s)




VOA - Thứ Năm, 08 tháng 3 2012

Cứu mạng sống của các bà mẹ và trẻ sơ sinh

Một tổ chức cứu trợ y tế cho hay mỗi ngày có khoảng 1.000 phụ nữ trên toàn thế giới chết lúc sinh nở hay v́ các biến chứng có liên quan đến thai kỳ. Tổ chức Bác sĩ Không Biên giới nói hầu hết những cái chết đó có thể ngăn tránh được. Thông tin vừa kể được công bố trong một bản phúc tŕnh mới về vấn đề này trùng với ngày Quốc tế Phụ nữ 8 tháng 3. Thông tín viên VOA Joe De Capua ghi nhận chi tiết trong bài tường thuật sau đây.
Joe De Capua


UserPostedImage
H́nh: AP
Tổ chức Bác Sĩ Không Biên giới cho biết ít nhất 15% phụ nữ đang mang thai trên toàn thế giới vấp phải những biến chứng gây đe dọa đến tính mạng

Bản phúc tŕnh có tên là “Tử vong các bà mẹ: Cuộc Khủng hoảng có thể Ngăn tránh được.” Tổ chức Bác Sĩ Không Biên giới, c̣n gọi tắt là MSF, nói ít nhất 15% phụ nữ đang mang thai trên toàn thế giới vấp phải những biến chứng gây đe dọa đến mạng sống. Bản phúc tŕnh này nói phụ nữ mang thai c̣n dễ bị tổn thương hơn trong các vụ xung đột hay khủng hoảng.

Bà Catrin Shulte-Hillen là người đứng đầu nhóm công tác của MSF về Sức khỏe sinh sản và t́nh dục. Bà cũng là một cô đỡ. Bà nói lúc sinh nở là thời điểm cấp thiết nhất để cứu mạng sống của cả mẹ lẫn con.

Bà Catrin Shulte-Hillen nói: “Khi mọi sự êm xuôi th́ thật là đẹp đẽ. Đó là một biến cố tuyệt diệu. Nó khiến bạn rơi lệ v́ thực là một biến cố đẹp đẽ. Khi có trục trặc th́ thật rắc tối.”

Rắc rối thường do các biến chứng.

Bà Shulte-Hillen giải thích: “Ta có một t́nh huống với những liên hệ tương quan. Nếu bà mẹ không khỏe, bị kiệt sức th́ bé sơ sinh không có đủ dưỡng khí. Bé cũng bị ảnh hưởng. Do đó vấn đề là ngay khi lâm bồn không thông suốt, không dễ dàng th́ tử cung không chịu co thắt. Bà mẹ bắt đầu băng huyết. Mọi sự tập trung vào bà mẹ, đứa trẻ không thở được, và đó là lúc mọi sự dồn dập xảy ra.”

Tổ chức MSF nói có 5 lư do chính gây ra các biến chứng có khả năng đưa đến tử vong: đó là băng huyết, nhiễm trùng, phá thai không an toàn, áp huyết tăng cao và sinh khó.

Bà Shulte-Hillen nói phụ nữ ở các nước phát triển tử vong lúc sinh nở là điều bất thường. Nhưng nếu có xảy ra, th́ các giới chức y tế muốn biết v́ sao.

Bà Shulte-Hillen nói tiếp: “Ngày nay ở bất cứ bệnh viện nào, nếu có trường hợp tử vong lúc sinh nở là sẽ có một ủy ban được thành lập để điều tra chính xác trục trặc là ǵ. Đó là mức độ nghiêm trọng mà chúng tôi gán cho sự kiện một phụ nữ tử vong lúc sinh nở. Và nếu ta nh́n vào đó so với những ǵ xảy ra ở phần lớn các nơi khác trên thế giới, nơi mà những sự việc như thế hoàn toàn không được giải thích ǵ cả.”

Bà Shulte-Hillen nói MSF đề ra các tiêu chuẩn cao cho việc chăm sóc hộ sản, ngay cả ở trong các khu vực có xung đột hay những vùng bị thiên tai.

Bà Shulte-Hillen nói tiếp: “Chúng tôi trông đợi rằng trong một bệnh viện của MSF, sẽ không có các vụ bà mẹ tử vong. Và chúng tôi cũng làm như thế ở châu Âu. Chúng tôi có một ủy ba. Chúng tôi họp cả ban nhân viên lại và phân tích về nguyên do nếu có xảy ra sự cố nào.”

Bản phúc tŕnh nói giải pháp rất rơ ràng: ban nhân viên y tế có kỹ năng cao, thuốc men và thiết bị.

Phúc tŕnh của Tổ chức Bác sĩ Không Biên giới dựa vào các chương tŕnh của tổ chức này ở 12 quốc gia, trong đó có Nam Sudan, Haiti, Pakistan và Somalia.

Trong những vùng có xung đột như Somalia, các cơ sở hạ tầng chăm sóc sức khỏe đă bị phá hủy. Có rất ít thuốc men sẵn và các chuyên viên y tế lành nghề thường buộc phải bỏ chạy. T́nh h́nh cũng tương tự như thế ở Côte d’Ivoire vào đầu năm 2011, khi bạo động chính trị lan ra khắp nước. MSF mô tả Afghanistan là một trong những nơi nguy hiểm nhất trên thế giới đối với bà mẹ sinh con.

Bà Shulte-Hillen nói nếu và khi nào t́nh h́nh ổn định, th́ có thể cung cấp sự chăm sóc hậu sản, kế hoạch hóa gia đ́nh và giáo dục y tế.

Bà Shulte-Hillen nói: “Điều tốt nhất chúng ta có thể làm được trong tư cách một tổ chức y tế là có mặt ở đó trong ngày hôm nay với sự hỗ trợ có thể cứu được mạng người.”

florida80
05-16-2019, 18:24
Đẻ non, nguyên nhân gây tử vong thứ hai ở trẻ sơ sinh



Anh Vũ
AFP dẫn một báo cáo y tế của Liên Hiệp Quốc công bố hôm 2/5/2012 cho biết , mỗi năm trên thế giới có 15 triệu trường hợp trẻ bị đẻ non, trong đó chỉ có 1,1 triệu trẻ sơ sinh tiếp tục được cuộc sống. Đẻ non, chủ yếu ở các nước đang phát triển, là nguyên nhân tử vong ở trẻ đứng hàng thứ hai.

Theo các nhà khoa học, tác giả của báo cáo trên, đa số những trường hợp trẻ đẻ non c̣n sống sót đều mang những di chứng về thể chất, thần kinh hoặc tâm thần, khiến cho có thể trở thành người tàn tật suốt đời.

Báo cáo về t́nh t́nh trạng trẻ đẻ non trên thế giới được tập hợp với sự tham gia của hơn một trăm chuyên gia đạt diện của gần 40 tổ chức y tế tư nhân, trường đại học và các cơ quan chuyên trách của Liên Hiệp Quốc c̣n tập trung tŕnh bày những kiến thức về hiện tượng sinh nở trước thời hạn, nguyên nhân và những chăm sóc cần thiết.

Bác sĩ Joy Law, Giám đốc tổ chức tư nhân phi vụ lợi Global Evedence an Policy for save Children, một trong số tác giả của báo cáo, nhấn mạnh « Phân nửa các trường hợp tử vong ở trẻ sơ sinh trên ṭan thế giới là trẻ đẻ non. Giờ đây, sau bệnh viêm phổi, đẻ non là nguyên nhân thứ hai gây tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi. »

Các con số thống kê về t́nh trạng sinh nở thiếu tháng c̣n bộc lộ thêm một vấn đề lớn đó là sự chênh lệch giữa các nước trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Những nước có tỷ lệ đẻ non cao nằm trong khu vực Bắc Phi và Nam Á chiếm tới 60% số lượng trẻ đẻ non trên thế giới.

Theo số liệu của năm 2010 th́ Ấn Độ là nước dẫn đầu về số lượng trẻ đẻ non, với 3,5triệu trường hợp, tiếp sau là Trung Quốc với 1,17 triệu và Nigeria với 773.600 trường hợp.

Tuy nhiên đẻ non không chỉ là vấn đề của những nước có điều kiện sống thấp. Các nước có mức sống cao và chăm sóc y tế đầy đủ cũng có liên quan. Lấy thí dụ, ở Hoa Kỳ trẻ để non chiếm 12%, Brazil chiếm 9,2%, Pháp 6,7% Nhật Bản và Thụy Điển cũng chiếm tới 5,9%.

Ở những nước người dân có thu nhập cao, hiện tượng đẻ non gia tăng có thể lư giải bởi xu hướng các sản phụ thường cao tuổi, thường nhờ cậy đến các biện pháp hỗ trợ sinh sản như điều trị vô sinh, hay đẻ mổ. C̣n đối với các nước đang phát triển, các loại bệnh nhiễm trùng, sốt rét, siđa và tỷ lệ trẻ vị thành niên mang thai cao chính là những nguyên nhân chính dẫn đến việc sinh con thiếu tháng.

florida80
05-16-2019, 18:25
Phụ nữ ở Châu Á thiếu hiểu biết về sinh sản


VOA - 07.09.2012
Phụ nữ ở Châu Á phần đông thiếu hiểu biết về các vấn đề sinh sản và có xu hướng cho rằng thất bại trong việc thụ thai là do ‘ư Trời’ và thiếu may mắn. Đó là kết quả cuộc khảo sát do công ty Merck Serono thuộc Tập đoàn dược phẩm Merck KGaA nổi tiếng thế giới của Đức thực hiện vừa công bố.

Cuộc khảo sát tại 10 quốc gia ở Châu Á kể cả Việt Nam trên 1.000 phụ nữ cố gắng thụ thai trong ṿng ít nhất nửa năm cho thấy 62% số này không hề nghi ngờ là họ có vấn đề về sinh sản và 80% không hề nghi là người phối ngẫu của ḿnh có vấn đề về sinh sản.

Cứ 10 người được khảo sát th́ chỉ có 3 người biết là t́nh trạng béo ph́ có thể làm giảm khả năng sinh sản và 36% hiểu rằng càng lớn tuổi, cơ hội mang thai càng giảm sút.

Thay v́ t́m biện pháp chữa trị, gần phân nửa những phụ nữ trong cuộc khảo sát cho rằng sở dĩ họ không thụ thai được là v́ yếu tố hên xui hay do ‘ư Trời’.

Các nhà nghiên cứu cho rằng chính sự thiếu hiểu biết này đă khiến cho nhiều cặp vợ chồng tới khi t́m cách chạy chữa th́ đă quá muộn.

Tỷ lệ thành công của phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm là 40-50% đối với các phụ nữ dưới 30 tuổi. Đối với phụ nữ ngoài 40, tỷ lệ thành công là 10%, nhưng ở lứa tuổi 44 hay 45, 100 phụ nữ áp dụng phương pháp thụ thai này chỉ có 1 người thành công mà thôi.

Back to top

florida80
05-16-2019, 18:27
T́m ra thuốc cai nghiện rượu

https://i.imgur.com/nGrLeke.jpg

Baclofène có thể là liều thuốc mới chữa bệnh nghiện rượu.

Đức Tâm
Sau nhiều thập niên t́m kiếm đủ mọi phương thức cai nghiện rượu, giờ đây, giới chuyên gia y tế đă t́m được một loại tân dược mang lại những kết quả ngoạn mục và đầy hy vọng : Đó là chất Baclofène.

Xuất hiện trên thị trường từ năm 1974, thuốc Baclofène, c̣n có tên thương mại là Lioresal, vẫn thường được chỉ định để điều trị các trường hợp bị viêm nhiễm hệ thần kinh, ví dụ như bệnh xơ cứng rải rác – Sclerose en plaques. Thế nhưng, các nghiên cứu tại Pháp cho thấy, chất baclofène c̣n có tác dụng giúp người nghiện rượu thoát ra khỏi t́nh trạng phụ thuộc, kể cả trong những trường hợp nghiện rất nặng.

Chỉ riêng tại Pháp, hàng năm, có khoảng 45 000 người chết v́ rượu trong số này có khoảng 10 000 người bị ung thư. Đó chưa kể đến các vụ tai nạn giao thông do uống rượu khi lái xe, các vụ bạo hành trong gia đ́nh, các tệ nạn trong xă hội. Giới bác sĩ hoàn toàn bất lực. Một số tân dược được kê đơn như Aotal hay Revia, tỏ ra không có hiệu quả.

Phương pháp trị liệu mới, không ai ngờ tới này, dựa trên các phát hiện rất t́nh cờ của một chuyên gia về tim mạch, ông Olivier Ameisen, thuộc bệnh viện Presbyterian Hospital New York, Hoa Kỳ. Vào năm 2008, trong cuốn sách mang tựa đề « Chén rượu cuối cùng – Le dernier verre », ông kể lại là để đối phó với t́nh trạng nghiện rượu nặng của bản thân, ông đă tự dùng thuốc Baclofène với liều lượng rất cao. Ông tŕnh bày lại quá tŕnh nghiên cứu và đi đến kết luận rằng chất baclofène đă tác động đến một bộ phận trong năo – có tên gọi là GABA – B, và làm mất đi sự thèm muốn uống rượu.

Trong khi chờ đợi các thử nghiệm, từ nhiều năm nay, khoảng 500 bác sĩ Pháp đă cho dùng thuốc Baclofène để cai rượu, mặc dù chưa được các cơ quan có thẩm quyền trong lĩnh vực y tế cho phép. Việc điều trị đối với khoảng 1500 trường hợp tại Pháp mang lại kết quả rất tốt.

Theo nghiên cứu Rigal and Co, dưới sự chỉ đạo của bác sĩ đa khoa Philippe Jaury, giáo sư thuộc đại học Paris Descartes, được đăng trên tạp chí « Alcohol and Alcoholism » năm 2012, 58% số người nghiện được chỉ định dùng baclofène đă bỏ hẳn uống rượu hoặc giảm mức tiêu thụ, chỉ thỉnh thoảng uống từ 1 đến 2 cốc. Rất nhiều người khác tuyên bố « lạnh nhạt với rượu ».

Kết quả ban đầu này đă làm lay chuyển nhận thức vốn tồn tại từ lâu này trong giới chuyên môn, theo đó, việc cai rượu phụ thuộc vào hành vi ứng xử và quyết tâm của người nghiện.

Ngày 02/05/2012, Cơ quan an toàn dược phẩm và các sản phẩm y tế quốc gia của Pháp – Agence nationale de Sécurité du Médicament et des Produits de Santé – ANSM – đă cho phép dùng thuốc Baclofène để cai nghiện rượu và thận trọng nhấn mạnh là việc điều trị tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể.

Theo quy tŕnh, để chính thức thừa nhận công hiệu của thuốc Baclofène trong việc cai rượu, cần phải tiến hành nghiên cứu thử nghiệm mù kép (étude en double aveugle), có đối chứng với giả dược (contre placebo).

Ngày 22/05 vừa qua, dưới sự chỉ đạo của giáo sư Jaury, nghiên cứu này đă được khởi động, với sự tham gia của 60 bác sĩ đa khoa, chia nhau phụ trách 9 vùng trên lănh thổ nước Pháp. Mỗi bác sĩ t́m và lựa chọn từ 6 đến 7 bệnh nhân tự nguyện tham gia thử nghiệm. Kết quả của công tŕnh này sẽ được công bố vào mùa thu năm 2013.

florida80
05-16-2019, 18:28
LĂO THỊ
(Presbyopia)
Judith Lee and Gretchyn Bailey; reviewed by Vance Thompson, MD
Lynn Ly Phỏng Dịch từ trang web All About Vision
( wxw.allaboutvision.c om/conditions/presbyopia.htm )


(Bài viết được cập nhật vào tháng 7, năm 2009)

Thủy tinh thể (Thấu kínk = lens) của mắt cứng dần theo tuổi tác , kết quả là sự nh́n các vật gần bị lờ mờ . Đây gọi là lăo thị (presbyopia)

Lăo Thị (Presbyopia) thường xẩy ra bắt đầu khoảng 40 tuổi , khi người ta trải nghiệm nhận ra tầm nh́n ở khoảng cách gần bị mờ đi khi đọc sách, khi may vá hoặc khi sử dụng computer

Bạn không thể tránh khỏi căn bệnh lăo thị , ngay cả khi bạn chưa bao giờ có một vấn đề ǵ thị lực trước đây. Thậm chí những người đang bị cận thị cũng sẽ nhận thấy rằng khả năng nh́n gần bị mờ đi khi họ đeo kính mắt thông thường của họ hoặc kính sát tṛng để điều chỉnh tầm nh́n xa.

Lăo thị = viễn thị do bị lăo hóa (Presbyopia) lan rộng tại Hoa Kỳ. Theo dữ liệu của Cục điều tra dân số Hoa Kỳ (U.S. Census Bureau) , hơn 135.000.000 người Mỹ ở lứa tuổi 40 trở lên trong năm 2008, và quốc gia đang phát triển "sư lăo hóa" . Tỉ lệ trung b́nh của lứa tuổi này (median age) đạt tới 36,8 vào năm 2008, tăng 1,5 năm kể từ năm 2000. Con số này ngày càng gia tăng về những người dân lớn tuổi hơn tạo ra một nhu cầu rất lớn về kính đeo mắt , kính áp tṛng và phẫu thuật mà có thể giúp người bị chứng "viễn thị do lăo hóa" giải quyết khiếm khuyết về khả năng nh́n gần của họ.

TRIỆU CHỨNG VÀ DẤU HIỆU CỦA BỆNH LĂO THỊ (PRESBYOPIA SYMPTOMS AND SIGNS)

Khi người có tiến triển căn bệnh lăo thị, họ nhận ra là họ cần phải giữ các cuốn sách, tạp chí, báo chí, các thực đơn và các tài liệu khác ở chiều dài của cánh tay để hội tụ tiêu điểm nh́n cho đúng. Khi họ thực hiện công việc gần gần như thêu thùa hay viết bài, họ có thể phát triểN căn bệnh nhức đầu, mỏi mắt hoặc cảm thấy mệt mỏi.

NHỮNG NGUYÊN NHÂN G̀ GÂY NÊN LĂO THỊ (WHAT CAUSES PRESBYOPIA?)

Lăo thị = viễn thị do lăo hóa (Presbyopia) gây nên bởi tiến t́nh lăo hóa (age-related process) . Căn bệnh này khác với bệnh loạn thị (astigmatism), cận thị (nearsightedness) và viễn thị (farsightedness) những bệnh mắt liên quan đến h́nh dạng của nhăn cầu và gây ra bởi di truyền và những yếu tố môi trường (environmental factors). Lăo thị (presbyopia) nói chung được tin là phát sinh từ sự dầy đạc từ từ và sự mất mát về tính linh hoạt của thủy tinh thể (thấu kính) thiên nhiên bên trong mắt của bạn .

Những thay đổi liên quan đến sự lăo hóa này xảy ra bên trong những chất proteins ở thủy tinh thể (thấu kính) của con mắt, làm cho thủy tinh thể (thấu kính) cứng hơn và giảm đàn hồi (less elastic) qua thời gian. Những thay đổi liên quan đến lăo hóa cũng diễn ra trong các sợi cơ (muscle fibers) bao vây thủy tinh thể (thấu kính) . Với độ đàn hồi giảm sút , mắt càng ngày càng có khó khăn hơn về việc hội tụ tập trung tiêu điểm ở gần .

ĐIỀU TRỊ LĂO THỊ : KÍNH ĐEO MẮT (PRESBYOPIA TREATMENT: EYEWEAR)

Các loại kính đeo như kính hai tṛng (bifocal lenes) hoăc loại nhiều tṛng / nhiều tiêu điểm hội tụ (progressive addition lenses = PALs) là những chỉnh sửa phổ biến nhất cho bệnh lăo thị hay viễn thị do lăo hóa . Bifocal nghĩa là 2 điểm hội tụ ; phần chính của thấu kính (lens) chứa đựng tầm nh́n xa theo quy định toa bác sĩ, trong khi phần dưới của kính giữ tầm h́nh gần theo qui định toa bác sĩ cho việc nh́n gần .

Progressive addition lenses (kính nhiều tṛng = kính đa dụng) tương tự như bifocal lenses (kính 2 tṛng) , nhưng chúng cung cấp thêm một quá tŕnh chuyển đổi dần dần thị giác giữa hai quy định toa bác sĩ, không có thể thấy đường lằn giữa 2 qui định về tầm nh́n xa và gần (ở trên kính đeo) .

Kính đọc sách (Reading glasses) là một lựa chọn khác . Không giống kính hai tṛng (bifocals) hay kính nhiều tṛng đa dụng (PALs), mà hầu hết người ta có thể đeo suốt ngày , kính đọc sách thường chỉ đeo trong thời gian làm việc cần nh́n các vật gần

Nếu bạn đeo kính áp tṛng (contact lenses) , bác sĩ nhăn khoa của bạn có thể qui định / khai toa kính đọc sách trong phạm vi bạn cần tiếp xúc trong tầm nh́n cần thiết . Bạn có thể mua kính đọc sách tại các quần hàng tại tiệm bán lẻ , hoặc bạn có thể mua loại có chất lượng cao hơn được qui định theo toa bác sĩ của bạn

Bệnh lăo thị cũng có thể chọn kính áp tṛng nhiều tiêu điểm hội tụ (multifocal contact lenses), sẵn có trong những nguyên liệu thoáng khí hoặc mềm mại . Một loại khác của kính áp tṛng chỉnh sửa lăo thị là monovision, trong đó một mắt đeo kính theo qui định toa bác sĩ cho nh́n xa và một mắt đeo theo qui định toa bác sĩ cho nh́n gần . Bộ năo học và ưu tiên cho con mắt này hoặc mắt kia tùy theo các nhiệm vụ khác biệt . Nhưng trong khi một số người rất vui với giải pháp này, những người khác khiếu nại / than phiền về sự sắc xảo rơ nét của thị giác và sự mất mát nào đó về nhận thức chiều sâu của loại kính monovision .

Bởi v́ thủy tinh thể (thấu kính) của con người tiếp tục thay đổi khi bạn già đi , qui định về độ lăo thị của bạn sẽ cần phải gia tăng theo thời gian . Bạn có thể gập bác sĩ nhăn khoa để khai toa điều chỉnh độ mạnh hơn cho các công việc nh́n gần mà bạn cần đến nó

florida80
05-16-2019, 18:29
PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ LĂO THỊ (PRESBYOPIA TREATMENT: SURGERY)

Thủy Tinh Thể (Thấu Kính) của mắt bị cứng dần theo tuổi, do đó nó ít có khả năng tập trung khi bạn xem 1 vật ǵ ở gần .

Những lựa chọn phẫu thuật để trị liệu lăo thị cũng sẵn có . Một thí dụ là sự tạo h́nh giác mạc của công ty Refractec Inc hoặc sự điều trị NearVision CK, trong đó sử dụng sóng vô tuyến để tạo độ cong hơn trong giác mạc đối với độ qui định cao hơn của bác sĩ để cải thiện tầm nh́n gần . Tiến tŕnh này được thực hiện trên 1 mắt duy nhất cho sự chỉnh sửa monovision . Những nghiên cứu đă chỉ ra rằng NearVision CK có hiệu quả điều trị bệnh lăo thị , nhưng sự sửa chữa chỉ là tạm thời và giảm dần theo thời gian

Phẫu thuật PresbyLASIK là một phẫu thuật chỉnh sửa lăo thị mới gần đang đây đang trải qua những cuộc thử nghiệm lâm sàn của Hoa Kỳ. Tiến tŕnh cải tiến này là sử dụng tia excimer laser để tạo ra một sự cắt bỏ hội tụ nhiều tiêu điểm (multifocal ablation ) trực tiếp trên bề mặt trong suốt của mắt hoặc giác mạc . Điều này cho phép tầm nh́n ở nhiều khoảng cách.

Phẫu thuật LASIK cũng có thể được sử dụng để tạo monovision, mà trong đó một mắt được sửa chữa cho tầm nh́n gần trong khi mắt kia th́ mạnh mẽ hơn cho tầm nh́n xa

Một trị liệu thí nghiệm cao hơn đang đươc nghiên cứu là sự bơm 1 chất keo dẻo có độ đàn hồi vào trong 1 túi h́nh tṛn (capsular bag), có dạng cấu trúc trong mắt chứa thấu kính thiên nhiên, chất keo dẻo sẽ thay thế vị trí Thủy Tinh Thể (Thấu Kính) của mắt và phục vụ như một thấu kính mới đàn hồi hơn

Những thí nghiệm cũng có tập trung vào điều trị bằng tia laser về Thủy Tinh Thể (Thấu Kính) của mắt bị cứng để tăng tính linh hoạt của nó và do đó cải thiện sức hội tụ tiêu điểm

Với hướng dẫn gần đây về những thấu kính điều chỉnh bên trong bệnh lăo thị, một số người trải qua phẫu thuật đục thủy tinh thể có thể đạt được tầm nh́n rơ ràng ở tất cả các khoảng cách .

Đồng thời, một tiến tŕnh chọn lọc được biết như sự trao đổi thấu kính khúc xạ (refractive lens exchange) có thể cho phép bạn thay thế thấu kinh thiên nhiên không thể uốn cong nhưng rơ ràng của mắt bạn với một thấu kính điều chỉnh lăo thị nhân tạo cho việc nh́n nhiều tiêu điểm

Những lựa chọn phẫu thuật khác cho bệnh lăo thị đang được tiếp tục nghiên cứu cho tốt nữa .

Lynn Ly (02/02/2010)

florida80
05-16-2019, 18:29
VIÊM DA DỊ ỨNG / BỆNH CHÀM DỊ ỨNG
(ATOPIC ECZEMA)

Lynn Ly phỏng dịch theo trang web PubMed Health
htxp://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmedhealth/PMH0001856/


Lần xét duyệt cuối cùng: Ngày 26 tháng 10 năm 2009

CÁC TÊN GỌI KHÁC :

• Bệnh chàm ở trẻ con (Infantile eczema);

• viêm da dị ứng (Atopic dermatitis);

• viêm da - dị ứng (Dermatitis - atopic);

• Bệnh Chàm - dị ứng(Eczema - atopic)



Bệnh chàm (Eczema) là một chứng da bị rối loạn măn tính mà có liên quan đến phát ban có vảy và ngứa ngáy, cũng như da bị phồng rộp, chảy nước , hoặc lột da. Bệnh chàm do dị ứng / viêm da dị ứng (Atopic eczema) là loại phổ biến nhất.

XEM THÊM :

•Contact dermatitis: Bệnh chàm do tiếp xúc, viêm da dị ứng do tiếp xúc

•Dyshidrotic eczema: Bệnh chàm mà những vùng nho nhỏ trên da nổi phồng , giộp lên (Tên gọi trong dân gian là bệnh nổi mụn cóc !!!)

•Nummular eczema: Bệnh chàm mà trên da có từng mảng tṛn tṛn như đồng tiền (Tên gọi trong dân gian là bệnh Lác đồng tiền ???!!!)

•Seborrheic dermatitis: Bệnh viêm da mà sự viêm nhiễm thường là ở da đầu và khuôn mặt (vùng trên cổ) tuy nhiên, nách, và háng, mông, và nếp gấp da bên dưới ngực cũng có thể bị ảnh hưởng


NHỮNG NGUYÊN NHÂN, NHỮNG TÁC ĐỘNG VÀ NHỮNG YẾU TỐ RỦI RO ( CAUSES, INCIDENCE, AND RISK FACTORS )

Bệnh chàm do dị ứng / viêm da dị ứng (Atopic eczema) là do phản ứng quá mẫn cảm (hypersensitivity reaction) (tương tự như dị ứng) bên trong da, dẫn đến viêm nhiễm lâu dài

Bệnh chàm /Viêm da thường có nhất ở trẻ sơ sinh . Nhiều trẻ mang chứng bệnh nay cho đến lớn . T́nh trạng này có tính chất di truyền .

Những người có bệnh chàm thường có một bệnh lịch sử gia đ́nh về t́nh trạng dị ứng như bệnh hen phế quản / bệnh suyễn, bệnh nóng sốt mùa hè, hay bệnh chàm.

Những t́nh huống sau đây có thể làm cho các triệu chứng của bệnh chàm trở nên tồi tệ hơn:
•Dị ứng với phấn hoa, nấm mốc, bụi bặm, hoặc thú vật

•Những loại bệnh cảm hay bệnh cúm

•Tiếp xúc với những nguyên liệu thô nhám / vật liệu thô nhám

•Da khô

•Tiếp xúc với chất kích thích môi trường

•Tiếp xúc với nước

•Cảm giác quá nóng hoặc quá lạnh

•Nước hoa / dầu thơm hoặc thuốc được nhuộm bổ sung vào các loại kem dưỡng da hoặc các loại xà pḥng

• Bị căng thẳng



NHỮNG TRIỆU CHỨNG (SYMPTOMS)

Những thay đổi da tiêu biểu có thể bao gồm :.
• Những vết phồng giộp rỉ nước và đóng vẩy cứng cứng

•Lỗ)Tai chảy mủ hoặc chảy máu

•Đau nhức / thô rám nguyên khu vực da bị trầy xước

•Mầu da thay đổi -- đậm hay lạt hơn mầu da thường (Đọc thêm : da sậm hay lạt không b́nh thường

•Da bị đỏ hoặc viêm chung quanh những vết phồng giộp

•Những vùng da dầy lên hoặc bong tróc da, được gọi là sự đóng dầy đặc lớp biểu b́ (lichenification), mà có thể xảy ra sau khi kích thích lâu dài và làm trầy xước



Cả hai loại phát ban (loại nổi từng mảng đo đỏ trên da) và nơi phát ban ( nơi những mảng đa bị nổi đo đỏ ) xuất hiện có thể phụ thuộc vào tuổi tác của bệnh nhân:
• Ở trẻ em dưới 2 tuổi, các tổn thương da bắt đầu ở trên mặt, da đầu, bàn tay và bàn chân. Tổn thương da thường là da đóng thành vẩy cưng cứng, lùi x́u nổi bọt nước / mụn nước tấm tấm, hoặc loại phát ban (da nổi từng mảng đo đỏ.

•Ở trẻ lớn hơn (2 tuổi) và người lớn, phát ban thường thấy ở phía bên trong của đầu gối và khuỷu tay, cũng như ở cổ, bàn tay, và bàn chân.

•Trong thời gian bệnh bộc phát khốc liệt, chứng phát ban có thể xuất hiện bất cứ nơi đâu trên thân thể.



Ngứa ngáy, mà đôi khi trở nên dữ dội, hầu như luôn luôn xảy ra. Bị ngứa ngáy có thể bắt đầu ngay cả trước khi chứng phát ban xuất hiện.

NHỮNG DẤU HIỆU VÀ NHỮNG THỬ NGHIỆM (SIGNS AND TESTS)

Chẩn đoán chủ yếu dựa trên:
•Biểu hiện của da

•Bệnh sử gia đ́nh và cá nhân



Các nhân viên y tế nên xem xét các thương tổn để loại trừ các nguyên nhân khả thi khác. Việc làm sinh khiết vùng da bị thương tổn có thể thực hiện, nhưng không luôn luôn là cần thiết cho việc chuẩn đoán

Việc thử nghiệm da bị dị ứng có thể trợ giúp những người có :
•Bệnh chàm khó điều trị

•Các triệu chứng dị ứng khác

florida80
05-16-2019, 18:30
VIÊM DA DỊ ỨNG / BỆNH CHÀM DỊ ỨNG
(ATOPIC ECZEMA)

Lynn Ly phỏng dịch theo trang web PubMed Health
htxp://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmedhealth/PMH0001856/


Lần xét duyệt cuối cùng: Ngày 26 tháng 10 năm 2009

CÁC TÊN GỌI KHÁC :

• Bệnh chàm ở trẻ con (Infantile eczema);

• viêm da dị ứng (Atopic dermatitis);

• viêm da - dị ứng (Dermatitis - atopic);

• Bệnh Chàm - dị ứng(Eczema - atopic)



Bệnh chàm (Eczema) là một chứng da bị rối loạn măn tính mà có liên quan đến phát ban có vảy và ngứa ngáy, cũng như da bị phồng rộp, chảy nước , hoặc lột da. Bệnh chàm do dị ứng / viêm da dị ứng (Atopic eczema) là loại phổ biến nhất.

XEM THÊM :

•Contact dermatitis: Bệnh chàm do tiếp xúc, viêm da dị ứng do tiếp xúc

•Dyshidrotic eczema: Bệnh chàm mà những vùng nho nhỏ trên da nổi phồng , giộp lên (Tên gọi trong dân gian là bệnh nổi mụn cóc !!!)

•Nummular eczema: Bệnh chàm mà trên da có từng mảng tṛn tṛn như đồng tiền (Tên gọi trong dân gian là bệnh Lác đồng tiền ???!!!)

•Seborrheic dermatitis: Bệnh viêm da mà sự viêm nhiễm thường là ở da đầu và khuôn mặt (vùng trên cổ) tuy nhiên, nách, và háng, mông, và nếp gấp da bên dưới ngực cũng có thể bị ảnh hưởng


NHỮNG NGUYÊN NHÂN, NHỮNG TÁC ĐỘNG VÀ NHỮNG YẾU TỐ RỦI RO ( CAUSES, INCIDENCE, AND RISK FACTORS )

Bệnh chàm do dị ứng / viêm da dị ứng (Atopic eczema) là do phản ứng quá mẫn cảm (hypersensitivity reaction) (tương tự như dị ứng) bên trong da, dẫn đến viêm nhiễm lâu dài

Bệnh chàm /Viêm da thường có nhất ở trẻ sơ sinh . Nhiều trẻ mang chứng bệnh nay cho đến lớn . T́nh trạng này có tính chất di truyền .

Những người có bệnh chàm thường có một bệnh lịch sử gia đ́nh về t́nh trạng dị ứng như bệnh hen phế quản / bệnh suyễn, bệnh nóng sốt mùa hè, hay bệnh chàm.

Những t́nh huống sau đây có thể làm cho các triệu chứng của bệnh chàm trở nên tồi tệ hơn:
•Dị ứng với phấn hoa, nấm mốc, bụi bặm, hoặc thú vật

•Những loại bệnh cảm hay bệnh cúm

•Tiếp xúc với những nguyên liệu thô nhám / vật liệu thô nhám

•Da khô

•Tiếp xúc với chất kích thích môi trường

•Tiếp xúc với nước

•Cảm giác quá nóng hoặc quá lạnh

•Nước hoa / dầu thơm hoặc thuốc được nhuộm bổ sung vào các loại kem dưỡng da hoặc các loại xà pḥng

• Bị căng thẳng



NHỮNG TRIỆU CHỨNG (SYMPTOMS)

Những thay đổi da tiêu biểu có thể bao gồm :.
• Những vết phồng giộp rỉ nước và đóng vẩy cứng cứng

•Lỗ)Tai chảy mủ hoặc chảy máu

•Đau nhức / thô rám nguyên khu vực da bị trầy xước

•Mầu da thay đổi -- đậm hay lạt hơn mầu da thường (Đọc thêm : da sậm hay lạt không b́nh thường

•Da bị đỏ hoặc viêm chung quanh những vết phồng giộp

•Những vùng da dầy lên hoặc bong tróc da, được gọi là sự đóng dầy đặc lớp biểu b́ (lichenification), mà có thể xảy ra sau khi kích thích lâu dài và làm trầy xước



Cả hai loại phát ban (loại nổi từng mảng đo đỏ trên da) và nơi phát ban ( nơi những mảng đa bị nổi đo đỏ ) xuất hiện có thể phụ thuộc vào tuổi tác của bệnh nhân:
• Ở trẻ em dưới 2 tuổi, các tổn thương da bắt đầu ở trên mặt, da đầu, bàn tay và bàn chân. Tổn thương da thường là da đóng thành vẩy cưng cứng, lùi x́u nổi bọt nước / mụn nước tấm tấm, hoặc loại phát ban (da nổi từng mảng đo đỏ.

•Ở trẻ lớn hơn (2 tuổi) và người lớn, phát ban thường thấy ở phía bên trong của đầu gối và khuỷu tay, cũng như ở cổ, bàn tay, và bàn chân.

•Trong thời gian bệnh bộc phát khốc liệt, chứng phát ban có thể xuất hiện bất cứ nơi đâu trên thân thể.



Ngứa ngáy, mà đôi khi trở nên dữ dội, hầu như luôn luôn xảy ra. Bị ngứa ngáy có thể bắt đầu ngay cả trước khi chứng phát ban xuất hiện.

NHỮNG DẤU HIỆU VÀ NHỮNG THỬ NGHIỆM (SIGNS AND TESTS)

Chẩn đoán chủ yếu dựa trên:
•Biểu hiện của da

•Bệnh sử gia đ́nh và cá nhân



Các nhân viên y tế nên xem xét các thương tổn để loại trừ các nguyên nhân khả thi khác. Việc làm sinh khiết vùng da bị thương tổn có thể thực hiện, nhưng không luôn luôn là cần thiết cho việc chuẩn đoán

Việc thử nghiệm da bị dị ứng có thể trợ giúp những người có :
•Bệnh chàm khó điều trị

•Các triệu chứng dị ứng khác



ĐIỀU TRỊ (TREATMENT)

CHĂM SÓC TẠI NHÀ (CARE AT HOME)

Việc chăm sóc làn da của bạn tại nhà có thể làm giảm nhu cầu sử dụng thuốc.

Tránh găi ngứa / tránh làm trầy xước vùng phát ban hoặc da nếu bạn có thể tránh được
• Làm giảm sự ngứa ngáy bằng cách sử dụng dụng cụ ướp lạnh (túi nước đá) và uống thuốc kháng histamine (antihistamines) để giảm ngứa ngáy trầm trọng.

•Cắt ngắn móng tay trẻ con . Suy tính đến việc dùng bao tay mỏng nếu việc găi ngứa là vấn đề (xảy ra) vào ban đêm khi ngủ



Giữ ẩm da (được gọi là bôi trơn hay làm ẩm cho da). Sử dụng những loại thuốc mỡ (như là petroleum jelly / loại vaseline), kem bôi da, hoặc loại kem sữa cho da từ 2 đến 3 lần 1 ngày . Những chất làm ẩm da không nên có chất cồn /alcohol, chất tạo mùi thơm, chất nhuộm / chất tạo mầu sắc, nước hoa, hoặc các loại hóa học khác .

Tránh bất cứ thứ ǵ mà làm cho các triệu chứng của bạn trở nên nặng hơn. Điều này có thể bao gồm:
•Thực phẩm như sữa, lạc / đậu phọng , trứng , hoặc lúa ḿ (trước hết cần luôn tham khảo ư kiến bác sĩ của bạn)

•Những chất kích thích như len sợi và lanolin (Lanolin là các loại sợi tơ nho nhỏ mầu vàng thường từ lông thú vật hay các sản phẩm nhân tạo dạng tơ sợi )

•Những loại xà pḥng/xà bông hoặc chất tẩy rửa / bột giạt có tính chất mạnh, cũng như hóa chất và các chất dung môi

•Những thay đổ đột ngột về thân nhiệt và căng thẳng, mà có thể gây ra sự toát mồ hôi và làm tồi tệ t́nh huống / t́nh trạng

•Những tác nhân / những ǵ mà gây ra các triệu chứng dị ứng


Khi tắm rửa :
• Hăy giữ tiếp súc với nước càng ít càng tốt và ít dùng xà pḥng /xà bông hơn lúc b́nh thường . Tắm nhanh và tắm mát hơn (dùng nước tắm lạnh hơn) th́ tốt hơn là tắm nóng tắm lâu

•Không chà sát / kỳ cọ mạnh hoặc làm khô da cứng hoặc chà sát kỳ cọ quá lâu

•Sau khi tắm xong, điều quan trọng là bôi các loại kem bôi trơn, kem sữa dưỡng da, hay thuốc mỡ trên da, trong khi da đang ẩm ướt. Điều này sẽ giúp giữ lại độ ẩm trong da


DƯỢC PHẨM / THUỐC ĐIỀU TRỊ (MEDICATIONS)

Uống thuốc kháng histamine (Antihistaminescó) thể trợ giúp về chứng ngứa ngáy hoặc nếu bạn có những dị ứng. Thường th́ bạn có thể mua thuốc này mà không cần toa bác sĩ.
• Một số loại kháng histamin (antihistamines) có thể gây ra chứng buồn ngủ / ngủ gật, nhưng có thể giúp đỡ tránh găi ngứa trong khi ngủ

• Một số loại kháng histamin mới sau này (newer antihistamines) it gây hay không gây ra chứng buồn ngủ / ngủ gật . Một số thuốc có bán không cần toa bác sĩ (loại thuốc bày bán trên các quầy kệ). Những thuốc này bao gồm fexofenadine (Allegra), loratadin (Claritin, Alavert), và cetirizin (Zyrtec)


Hầu hết các nguyên nhân của bệnh chàm dị ứng được điều trị bằng thuốc được bôi trực tiếp trên da hoặc da đầu (được gọi là thuốc đắp tại chỗ):
• Trước tiên, bạn có thể sẽ được khai toa / được chỉ định một loại kem hay thuốc mỡ có cortisone nhẹ (hay chất steriod). Nếu cách này không hiệu quả, bạn có thể cần một loại thuốc steroid mạnh mẽ hơn. Bạn có thể cần những mức độ mạnh khác nhau về steroid cho các vùng da khác nhau.

•Các loại thuốc gọi là thuốc đắp tại chỗ immunomodulators (TIMs) có thể được quy định đối với bất cứ ai trên 2 tuổi. TIMs bao gồm tacrolimus (protopic) và pimecrolimus (Elidel). Hăy hỏi bác sĩ những lo ngại về nguy cơ ung thư có thể kết hợp với việc sử dụng của những loại thuốc này.

•Các loại kem hoặc thuốc mỡ có chứa nhựa than đá hoặc anthralin có thể được sử dụng cho các khu vực da bị dày lên / da bị dày cộm


Các loại thuốc khác có thể được sử dụng bao gồm:
• Uống hay tiêm chích thuốc corticosteroids khi bệnh chàm da trở nên trầm trọng

•Các loại kem kháng sinh hoặc viên thuốc kháng sinh nếu da bị nhiễm trùng / da bị làm độc

•Chủng ngừa dị ứng (immunotherapy)

florida80
05-16-2019, 18:30
DỰ ĐOÁN (TIÊN LƯỢNG) ( EXPECTATIONS (PROGNOSIS))

Bệnh chàm là một t́nh trạng măn tính, nhưng bạn có thể kiểm soát căn bệnh với cách điều trị, bằng cách tránh chất kích thích , và bằng cách giữ ẩm da cho tốt.

Ở trẻ em, bệnh chàm thường tan biến bắt đầu từ khoảng tuổi 5-6, nhưng những biến thể khác sẽ thường sẽ xảy ra. Ở người lớn, bệnh chàm là một t́nh trạng lâu dài hoặc định kỳ.

Những người có bệnh chàm có xu hướng có loại da khô rồi căn bệnh bùng phát nhiều hơn trong mùa đông, khi không khí lạnh và khô.

NHỮNG BIẾN CHỨNG PHỨC TẠP (COMPLICATIONS)

• Nhiễm trùng da do những vi khuẩn, những loại nấm, hoặc những siêu vi /virus

• Những dấu thẹo vĩnh viễn



GỌI ĐIỆN THOẠI XIN THĂM KHÁM (CALLING YOUR HEALTH CARE PROVIDER)

Gọi điện thoại xin làm một cuộc hẹn gập bác sĩ của bạn nếu :

• Bệnh chàm không có phản hồi / không có phản ứng đối với các loại kem làm ẩm da hoặc đối với việc tránh các chất gây dị ứng

•Triệu chứng trở nên tồi tệ đi hoặc việc điều trị không hiệu quả

•Bạn có những dấu hiệu nhiễm trùng (như nóng sốt, nổi đỏ, đau nhức)



PH̉NG NGỪA (PREVENTION)

Các nghiên cứu đă chỉ ra rằng trẻ em bú sữa mẹ ít có khả năng bị bệnh chàm. Điều này cũng đúng khi người mẹ cho con bú đă tránh được việc sử dụng sữa ḅ trong chế độ ăn uống của trẻ. Những hạn chế khác trong chế độ ăn uống có thể bao gồm trứng, cá, đậu phộng / lạc, và đậu nành.

Bệnh chàm có xu hướng di truyền. Việc kiểm soát sự căng thẳng, lo lắng, và trầm cảm có thể trợ giúp trong một số trường hợp. Việc giữ ẩm da cho tốt và tránh những chất kích thích là điều quan trọng.

NHỮNG NGUỒN THAM KHẢO (REFERENCES)
• Excema and Hand Dermatitis. In: Habif TP, ed. Clinical Dermatology. 4th ed. St. Louis, Mo: Mosby; 2004:chap 3.

• Lewis-Jones S, Mugglestone MA; Guideline Development Group. Management of atopic eczema in children aged up to 12 years: summary of NICE guidance. BMJ. 2007;335:1263-1264. [PubMed: 18079551]

• Ascroft DM, Chen LC, Garside R, Stein K, Williams HC. Topical pimecrolimus for eczema. Cochrane Database Syst Rev. 2007 Oct 17;(4):CD005500. [PubMed: 17943859]


NGÀY KIỂM DUYỆT BÀI VIẾT (REVIEW DATE:) 10/26/2009.)

Kiểm duyệt bởi: Linda J. Vorvick, MD, Medical Director, MEDEX Northwest Division of Physician Assistant Studies, University of Washington School of Medicine. Also reviewed by David Zieve, MD, MHA, Medical Director, A.D.A.M., Inc.

PS: Lynn sẽ phỏng dịch và cung cấp h́nh ảnh các loại chàm trên da sau !!!

Lynn Ly phỏng dịch (09/03/2011)

florida80
05-16-2019, 18:31
CHỨNG MẤT NGỦ (INSOMNIA)

THUỐC NGỦ, NHỮNG CÁCH HỖ TRỢ GIẤC NGỦ TỰ NHIÊN VÀ NHỮNG DƯỢC PHẨM
CÁCH NÀO TỐT NHẤT CHO BẠN ?
(SLEEPING PILLS, NATURAL SLEEP AIDS & MEDICATIONS
WHAT’S BEST FOR YOU? )

Lynn Ly Phỏng Dịch theo trang web của Hiệp Hội Hướng Dẫn Trợ Giúp Giải Quyết Những Thử Thách về Sức Khỏe tại Hoa Kỳ
(htxp://helpguide.org/life/sleep_aids_medicatio n_insomnia_treatment .htm)


Vào lúc nửa đêm, bạn đang nh́n chăm chăm lên trần nhà pḥng ngủ, suy nghĩ về công việc làm , về chi trả chi phí hàng tháng, hay về con cái . Giấc ngủ sẽ không đến nữa . Bạn bồn chồn lo lắng nh́n đông hồ lần nữa . Có phải chỉ mỗi một ḿnh bạn không thể ngủ ...

Trong những t́nh huống này, sự thu hút thông thường là tiến đến việc sử dụng một viên thuốc ngủ , nhưng trước hết là có những điều quan trọng bạn cần phải biết đến . Những loại thuốc ngủ khác nhau về tính chất an toàn và hiệu quả và càng có ít ư nghĩa hơn ngoài việc sử dụng (để trị liệu) ngắn hạn. Liên tục mất ngủ thường là một triệu chứng của một vấn đề tiềm ẩn về bệnh tật hoặc vấn đều tiềm ẩn về tâm lư mà không thể được điều trị bằng những loại thuốc ngủ. Trong nhiều trường hợp, chỉ đơn giản thay đổi lối sống của bạn là có hiệu quả lâu dài hơn trong việc kết thúc nhưng đêm không ngủ so với việc nốc vào miệng một viên thuốc.

CÓ PHẢI NHỮNG THUỐC HỖ TRỢ GIẤC NGỦ, HOẶC THUỐC NGỦ, HOẶC DƯỢC PHẨM LÀ PHÙ HỢP CHO BẠN ?
(ARE SLEEP AIDS, SLEEPING PILLS, OR MEDICATIONS RIGHT FOR YOU?)

Nói chung , những viên thuốc ngủ và những được phẩm giấc ngủ có hiệu quả nhất khi được sử dụng dè xẻn cầm chừng cho những t́nh huống ngắn hạn, như là du lịch qua nhiều múi giờ (qua những khu vực có thời gian khác biệt) hoặc hồi phục sau một tiến tŕnh điều trị bệnh tật . Đôi khi thuốc ngủ được sử dụng một thời gian ngắn ở giai đoạn đầu của việc điều trị về hành vi / ứng sử do chứng mất ngủ gây ra, đặc biệt là nếu thiếu ngủ trở nên nghiêm trọng . Nếu thuốc được sử dụng trong thời gian dài, thuốc (chỉ) được sử dụng tốt nhất "khi cần thiết" thay v́ dùng hàng ngày để tránh sự lệ thuộc và lờn thuốc. Tham vấn các chuyên viên y tế của bạn là điều cần thiết để đảm bảo bạn có được lợi ích tối đa và an toàn có thể theo dơi biểu hiện của các tác dụng phụ .

RẮC RỐI VỚI NHỮNG VIÊN THUÔC NGỦ, NHỮNG TRỢ GIÚP GIẤC NGỦ BÀY BÁN TRÊN QUẦY THUỐC KHÔNG TOA BÁC SĨ, VÀ NHỮNG DƯỢC PHẨM
(THE TROUBLE WITH SLEEPING PILLS, OVER-THE-COUNTER SLEEP AIDS, AND MEDICATIONS)

Ư tưởng về một viên thuốc mà có thể ngay lập tức giải quyết vấn đề giấc ngủ của bạn là rất hấp dẫn. Thật đáng tiếc, thuốc ngủ không chữa trị các nguyên nhân tiềm ẩn / căn nguyên chứng mất ngủ, và trong thực tế thường có thể làm cho vấn đề tồi tệ hơn về lâu dài.

Điều quan tâm về việc sử dụng cả hai loại thuốc loại không cần toa bác sĩ được bày bán trên quầy kệ tiệm thuốc (OTC) và loại thuốc theo toa bác sĩ bao gồm:
•Những phản ứng phụ Những phản ứng phụ có thể nghiêm trọng và bao gồm sự buồn ngủ kéo dài sang ngày hôm sau, nhầm lẫn / lú lẫn, hay quên và khô miệng.

• Sự dung nạp thuốc Bạn có thể phải đùng nhiều hơn và nhiều hơn thuốc trợ giúp giấc ngủ để có hiệu quả, cho nó để làm việc, do đó có thể dẫn đến nhiều phản ứng phụ hơn.

•Sự lệ thuộc thuốc Bạn có thể trở nên lệ thuộc vào thuốc để ngủ, và sẽ không thể ngủ được hoặc thâm chí có giấc ngủ càng tồi tệ hơn khi không dùng thuốc.

• Những triệu chứng cai nghiện Nếu bạn ngừng thuốc đột ngột, bạn có thể có triệu chứng cai nghiện, như là buồn nôn, toát mồ hôi, và run rẩy .

• Những tương tác thuốc Nếu bạn đang sử dụng những loại thuốc khác, thuốc ngủ có thể tương tác với các thuốc khác . Việc này có thể làm trầm trọng thêm tác dụng phụ và gây nguy hiểm, đặc biệt là đối với các thuốc như thuốc giảm đau theo toa bác sĩ và các loại thuốc an thần khác.

•Sự dội ngược của chứng mất ngủ Nếu bạn cần phải ngừng thuốc, đôi khi mất ngủ có thể trở nên tồi tệ hơn lúc trước.

•Việc dấu diếm vấn đề tiềm ẩn Có thể có một vấn đề tiềm ẩn hoặc tâm thần rối loạn, hoặc thậm chí là rối loạn giấc ngủ, mà nếu được điều trị sẽ cung ấp nhiều giải tỏa hơn cho chứng mất ngủ.



NHỮNG TÁC DỤNG PHỤ / PHẢN ƯNG PHỤ CỦA THUỐC NGỦ VÀ NHỮNG VIÊN THUỐC NGỦ
(SIDE EFFECTS OF SLEEP MEDICATIONS AND SLEEPING PILLS)

Tất cả các toa thuốc ngủ đều có tác dụng phụ / phản ứng phụ, có thể thay đổi tùy theo từng loại thuốc cụ thể, liều lương dùng và thời gian thuốc kéo dài trong cơ thể bạn. Kiểm tra với bác sĩ chuyên nghiệp về bất cứ mối quan tâm mà bạn có. Kiểm nghiệm với bác sĩ chuyên khoa về bất cứ mối quan tâm nào mà bạn có. Những tác dụng phụ / phản ứng phụ thường gặp có thể bao gồm đau đầu, đau nhức bắp thịt, táo bón, khô miệng, buồn ngủ ban ngày, khó tập trung, chóng mặt, đi đứng không vững và chứng mất ngủ trở nên tồi tệ hơn trước khi trị liệu .

MÔT SỐ NGUY CƠ HUNG HIỂM NGHIÊM TRỌNG VỀ NHỮNG VIÊN THUỐC NGỦ
(SOME SERIOUS RISKS OF SLEEPING PILLS)
Các sản phẩm thuốc an thần - thuốc ngủ (benzodiazepines và non-benzodiazepines) có thể gây ra phản ứng dị ứng nghiêm trọng, mặt bị sưng phù, , trí nhớ sai lâm / lầm lẫn , ảo giác, và những cử chỉ hành vi phức tạp liên quan đến giấc ngủ. Đây có thể bao gồm mộng du, ngủ, ngủ gật khi lái xe (lái xe trong khi không hoàn toàn tỉnh táo, không có ghi nhớ về sự kiện diễn tiến) và ăn trong mộng mị (ăn ở giữa đêm mà không có hồi ức , thường dẫn đến tăng cân). Nếu bạn trải nghiệm bất kỳ hành động / cử chỉ bất thường liên quan đến giấc ngủ , hăy tham khảo ư kiến bác sĩ ngay lập tức.


CÓ PHẢI LOẠI THUỐC MỚI HƠN CÓ NGHĨA LÀ TỐT HƠN VÀ AN TOÀN HƠN VỀ DƯỢC PHẨM GIẤC NGỦ?
(DOES NEWER MEAN BETTER AND SAFER FOR SLEEP MEDICATIONS?)

Không nhất thiết là vậy. Một loại thuốc cũ hơn có thể công hiệu tốt tùy vào loại mất ngủ mà bạn có và những cân nhắc khác về sức khỏe / về y học . Những loại dược phẩm cũ hơn thường có nhiều dữ liệu bổ xung qua nhiều năm từ bệnh nhân đă sử dụng và có thể cũng rẻ hơn nếu có sẵn ở h́nh thức chung / dạng chung chung. Mặt khác, thuốc mới hơn có thể có sự khác biệt là giảm thiểu tác dụng phụ của thuốc cũ. Tóm lại: làm việc với một chuyên gia y tế mà bạn tin tưởng để quyết định xem thuốc nào phù hợp với nhu cầu của bạn.

NHỮNG HỖ TRỢ GIẤC NGỦ KHÔNG CẦN TOA BÁC SĨ VÀ NHỮNG VIÊN THUỐC NGỦ
(OVER-THE-COUNTER (OTC) SLEEP AIDS AND SLEEPING PILLS)

Các thành phần chính của loại thuốc ngủ không cần toa bác sĩ là một thuốc kháng histamin . Thuốc kháng histamin thông thường dùng cho dị ứng, nóng sốt do bị dị ứng với phân hoa / loại nóng sốt này thường xảy ra vào mùa hè (hay fever) và những triệu chứng cảm lạnh thông thường, thương hiệu dược phẩm như là Benadryl . Tuy nhiên, histamine, một chất hóa học về truyền tin trong năo, thúc đẩy sự tỉnh táo, cho nên chất kháng histamin có tác dụng làm cho một số bệnh nhân cảm thấy buồn ngủ. Trong khi những tác động tích cực đă không được chứng minh thông qua nghiên cứu, các tác dụng phụ / phản ứng phụ, như buồn ngủ vào ngày hôm sau, có thể là phổ biến và nghiêm trọng.

Những thuốc ngủ không cần toa bác sĩ khi mua (OTC) phổ biến , với kết thông tin thuốc men từ trang web Medline đến NIH, bao gồm:
•Chất thuốc Diphenhydramine (t́m thấy ở thương hiệu như Nytol, Sominex, Sleepinal, Compoz)( http://www.nlm.nih.gov/m...uginfo/meds/a682539.html )

•Chất thuốc Doxylamine (t́m thấy ở thương hiệu như Unisom, Nighttime Sleep Aid )( ttp://www.nlm.nih.gov/medlineplus/druginfo/meds/a682537.html_ )



Một số thuốc ngủ "không cần toa bác sĩ khi mua" khác phối hợp những chất kháng histmines với thuốc giảm đau Acetaminophen (được t́m thấy ở thương hiệu như Tylenol PM và Aspirin loại không có Anacin PM). Các loại thuốc khác như NyQuil, phối hợp chất kháng histamines với chất rượu cồn (alcohol).

Những thuốc hỗ trợ giấc ngủ "không cần toa bác sĩ khi mua" (OTC) được ngụ ư chỉ được sử dụng cho chứng mất ngủ tạm thời / mất ngủ ngắn hạn . Những chuyên gia về giấc ngủ nói chung thường cho lời khuyên chống sử dụng thuốc hỗ trợ giấc ngủ "không cần toa bác sĩ khi mua" bởi v́ những tác dụng phụ / phản ứng phụ, v́ những nghi vấn về sự công hiệu của thuốc, và v́ thiếu thông tin về sự an toàn của thuốc qua thời gian dài .

NHỮNG TÁC DỤNG PHỤ / PHẢN ỨNG PHỤ CỦA NHỮNG THUỐC HỖ TRỢ GIẤC NGỦ "KHÔNG CẦN TOA BÁC SĨ KHI MUA" VÀ DƯỢC PHẨM
(SIDE EFFECTS OF OTC SLEEP AIDS AND MEDICATIONS)

Chất kháng histmines được dùng trong các loại thuốc hỗ trợ giấc ngủ "không cần toa bác sĩ khi mua" có thể tạo ra những tác dụng phụ phổ biến, một số tác dụng phụ nghiêm trọng . Như với bất kỳ các loại thuốc nào, bạn nên tham khảo ư kiến bác sĩ trước khi dùng thuốc ngủ "không cần toa bác sĩ khi mua". Điều này đặc biệt quan trọng nếu bạn có bệnh tăng nhăn áp / glaucoma, khó đi tiểu do một tuyến tiền liệt nở lớn, hoặc một vấn đề về hô hấp như bệnh khó thở hoặc viêm phế quản măn tính. Hăy nói chuyện với bác sĩ nếu bạn đang dùng một loại thuốc chống trầm cảm như là môt chất ức chế monoamine oxidase (MAOI) hoặc đă dùng thuốc này gần như trong hai tuần trước đây. Cũng nên kiểm tra với bác sĩ trước hết nếu bạn dùng những loại thuốc về bệnh trầm cảm hoặc về bệnh Pakinson . Phụ nữ người đang cho con bú cũng nên tránh thuốc hỗ trợ giấc ngủ "không cần toa bác sĩ khi mua" .

NHỮNG TÁC DỤNG PHỤ / TÁC DỤNG PHỤ PHỔ BIẾN CỦA THUỐC HỖ TRỢ GIẤ NGỦ KHÔNG CẦN TOA BÁC SĨ KHI MUA VÀ NHỮNG VIÊN THUỐC NGỦ
(COMMON SIDE EFFECTS OF OTC SLEEP AIDS AND SLEEPING PILLS)

•Buồn ngủ từ trung b́nh đến nghiêm trong vào ngày hôm sau

•Chóng mặt và lăng trí

•Vụng về, cảm giác mất thăng bằng

•Táo bón và bí tiểu

•Mờ mắt

•Khô miêng và khô cổ họng

florida80
05-16-2019, 18:32
NHỮNG VIÊN THUỐC THEO TOA BÁC SĨ VÀ DƯỢC PHẨM GIẤC NGỦ
(PRESCRIPTION SLEEPING PILLS AND SLEEP MEDICATIONS)

Có nhiều loại khác nhau về viên thuốc ngủ theo toa bác sĩ . Những thuốc này được phân loại như là thuốc ngủ an thần . Nói chung, những thuốc này hoạt động băng cách tác dộng lên các thụ thể trong năo để làm chậm hệ thần kinh lại . Một số thuốc (an thần) được sử dụng nhiều hơn để thúc đẩy gây ngủ, trong khi những thứ thuốc khác được sử dụng để duy tŕ giấc ngủ. Một số thuốc kéo dài lâu hơn so với một số thuốc khác trong cơ thể của bạn (dài hơn nửa cuộc đời), và một số thuốc có nguy hiểm cao hơn về việc h́nh thành thói quen / h́nh thành trạng thái nghiện thuốc . Để biết thêm thông tin về một dược phẩm, hăy theo đường link trong bảng để xem bác sĩ tham khảo bàn về từng mỗi loại thuốc. Hăy tham khảo (xin tư vấn) từ chuyên gia sức khỏe / bác sĩ của bạn nếu bạn có một câu hỏi cụ thể về một dược phẩm / 1 loại thuốc

NHỮNG VIÊN THUỐC NGỦ NHƯ THÔI MIÊN ĐỂ AN THẦN BENZODIAZEPINE
( BENZODIAZEPINE SEDATIVE HYPNOTIC SLEEPING PILLS )

Benzodiazepin là loại xưa nhất về thuốc ngủ mà vẫn c̣n phổ biến trong sử dụng . Benzodiazepines như là 1 nhóm được cho là có nguy cơ cao hơn về sự lệ thuộc so với các thuốc ngủ như thôi miên để an thần khác. Tất cả được xếp loại như những chất kiểm soát. Chủ yếu được sử dụng để điều trị những rối loạn lo âu bồn chồn, benzodiazepines được chấp thuận để điều trị chứng mất ngủ bao gồm:


•Estazolam (ProSom) http://www.pdrhealth.com... ProSom&contentId=473

•Flurazepam (Dalmane) http://www.pdrhealth.com... almane&contentId=158

•Quazepam (Doral) http://www.pdrhealth.com... =Doral&contentId=190

•Temazepam (Restoril) http://www.pdrhealth.com... storil&contentId=497

•Triazolam (Halcion) http://www.pdrhealth.com... alcion&contentId=265



NHỮNG HẠN CHẾ / NHỮNG TRỞ NGẠI VỀ NHỮNG VIÊN THUỐC NGỦ BENZODIAZEPINE (DRAWBACKS TO BENZODIAZEPINE SLEEPING PILLS )

Việc sử dụng thuốc ngủ, đặc biệt là benzodiazepines, có thể trể nên rắc rốiphiền hà do một số lư do:

•Cả thể chất và tâm thân của bạn trở nên lệ thuộc vào thuốc ngủ . Bạn có thể tin là bạn không thể ngủ mà không có thuốc ngủ, và thực sụ trải nghiệm những triệu chứng ngừng thuốc như bồn chồn lo âu và chứng mất ngủ tệ hại hơn trước khi dùng thuốc

•Thuốc có thể giảm bớt tác dụng nếu sử dụng hằng đêm , bởi v́ những bộ phận thu nhận tín hiệu của năo trở nên ít nhạy cảm hơn đối với những hiệu ứng . Trong ít nhất là 3 dến 4 tuần, benzodiazepines có thể trở thành không có hiệu quả so với một viên thuốc đường.

•Chất lượng một các toàn bộ về giấc ngủ của bạn có thể suy giảm , với giấp ngủ sâu và ngủ mơ suy giảm

•Bạn có thể trải nghiệm nhận thức chậm chạm và buồn ngủ ở ngày hôm sau (ảnh hưởng như bị say rượu), mà thậm chí có thể là lớn hơn là sự tước đoạt mất giấc ngủ

• Ngay khi nếu thuốc này có hiệu quả trong khi dùng nó, chứng mất ngủ vẫn quay lại khi ngừng thuốc



NHỮNG VIÊN THUỐC NGỦ NHƯ THÔI MIÊN ĐỂ AN THẦN KHÔNG CÓ BENZODIAZEPINE
(NON-BENZODIAZEPINE SEDATIVE HYPNOTIC SLEEPING PILLS)

Một số thuốc mới không có cấu trúc hóa học giống như benzodiazepine, nhưng hoạt động trên cùng một khu vực trong năo bộ. Chúng được cho là có tác dụng phụ ít hơn, và ít nguy hiểm rủi ro về sự lệ thuộc, nhưng vẫn được xem là chất phải được kiểm soát. Một dược phẩm ở thế hệ này, eszopiclone (Lunesta), đă được thử nghiệm để sử dụng lâu dài hơn, sự dụng lâu dài lên đến sáu tháng.


•Eszopiclone (Lunesta) http://www.pdrhealth.com... unesta&contentId=324

•Zalepon (Sonata) http://www.pdrhealth.com... Sonata&contentId=533

•Zolpidem (Ambien) http://www.pdrhealth.com... =Ambien&contentId=34

florida80
05-16-2019, 18:32
NHỮNG HẠN CHẾ / NHỮNG TRỞ NGẠI VỀ NHỮNG VIÊN THUỐC NGỦ KHÔNG CÓ BENZODIAZEPINE
(DRAWBACKS TO NON-BENZODIAZEPINE SLEEPING PILLS )

Nói chung, thuốc không có chất benzodiazepines có ít hạn chế / ít trở ngại hơn thuốc có benzodiazepines, nhưng điều đó không làm cho thuốc không có chất benzodiazepines thích hợp cho tất cả mọi người . Vài người có thể phát hiện loại thuốc ngủ này không có hiệu quả trợ giúp họ ngủ , trong khi những ảnh hưởng lâu dài vẫn chưa được nhận biết . Những phản ứng phụ / những tác dụng phụ bao gồm:

•T́nh trạng như say lao đảo ở buổi sáng / T́nh trạng chệnh choạng ngả nghiêng chao đảo vào buổi sáng

•Sự dung nạp thuốc dường như phải gia tăng về liều lượng

•T́nh trạng mất ngủ trở nên tệ hại hơn trước khi sử dụng thuốc

•Nhức đầu , chóng mặt , buồn nôn

•Trong một số trường hợp hiếm hoi, những hành vi nguy hiểm liên quan đến giấc ngủ như mộng du / đi bộ trong mơ ngủ, lái xe trong mơ ngủ , và ăn trong khi mơ ngủ



BỘ PHÂN THU NHÂN TÍN HIỆU / CHẤT THỤ THỂ MELATONIN CHỐNG LẠI NHỮNG VIÊN THUỐC NHƯ THÔI MIÊN
(MELATONIN RECEPTOR AGAINST HYPNOTIC SLEEPING PILLS )

Đây là loại mới nhất về thuốc ngủ và hoạt động bởi bắt chước sự điều chỉnh của hooc mon melatonin. Thước này có chút nguy hiểm về sự lệ thuộc thể xác nhưng vẫn có những tác dụng phụ / phản ứng phụ . Thuốc được sử dụng cho nhưng vấn đề khởi phát về giấc ngủ và không có hiệu quả đối với những vẫn đề ǵn giữ trạng thái ngủ

•Ramelteon (Rozerem) http://www.pdrhealth.com... ozerem&contentId=513



Những Hạn Chế / Những Trở Ngại Ramelteon (Drawbacks to ramelteon)

Tác dụng phụ / phản ứng phụ của Ramelteon phổ biến nhất là chóng mặt. Thuốc này cũng có thể làm trầm trọng thêm các triệu chứng của bệnh trầm cảm và không nên sử dụng bởi những người có tổn thương gan nặng

THUỐC CHỐNG TRẦM CẢM ( ANTIDEPRESSANTS )

Cơ Quan Quản lư Thực phẩm và Dược Phẩm (FDA) đă không chấp thuận các loại thuốc này để điều trị chứng mất ngủ, việc sử dụng thuốc cũng không chứng minh được hiệu quả trong điều trị mất ngủ. Tuy nhiên, vài bác sĩ tin tưởng chứng mất ngủ có liên quan đến bệnh trầm cảm . Như với mọi thuốc trầm cảm, chỉ một lượng nhỏ nhưng nguy cơ hung hiểm nghiêm trọng về ư tưởng tự sát hoặc làm tệ hại trầm cảm hơn nữa, đặc biệt là ở trẻ em và thanh thiếu niên .

Để t́m hiểu thêm về việc sử dụng và nguy hiểm của thuốc trầm cảm, xem thông tin Thuốc chống trầm cảm (http://helpguide.org/mental/medications_depressi on.htm)

HƯỚNG DẪN VỀ SỬ DỤNG THUỐC NGỦ
(GUIDELINES FOR USING SLEEP MEDICATIONS)

Nếu bạn quyết dịnh muốn thử thuốc ngủ hay thuốc hỗ trợ giấc ngủ, hăy ghi nhớ những điều hướng dẫn sau đây .

Hăy báo cho bác sĩ về

•Những dược phẩm khác mà bạn đang sử dụng . Việc này bao gồm những thuốc mua không cần toa bác sĩ như thuốc giảm đau và thuốc trị dị ứng, ngay cả những thảo dược bổ xung . Việc phối hợp thuốc có thể rất nguy hiểm

• Những hướng dẫn cụ thể để dùng làm giảm và / hoặc làm dứt (bệnh mất ngủ) . Trong vài trường hợp, việc ngừng thuốc đột ngột có thể gây ra những tác dụng phụ / phản ứng phụ không thoải mái và thâm chí c̣n làm mất ngủ trở nên nặng hơn so với trước khi dùng thuốc .

• Sử dụng thuốc liên tục không liên tục / lúc có lúc không , thay v́ mỗi tối, để giảm tác dụng phụ tiêu cực / phản ứng phụ tiêu cực và để gia tăng hiệu quả của thuốc ngủ khi bạn sử dụng chúng. Điều này không phù hợp với tất cả các loại thuốc, như là một số thuốc gây ra nhữbg triệu chứng "ngừng sử dụng thuốc" khi dừng thuốc đột ngột.

•Những t́nh trạng về sức khỏe mà bạn có . Những loại thuốc có thể có những tác dụng phụ / phản ứng phụ nghiêm trọng đối với người có vấn dề về thuốc men như cao huyết áp, vấn đề về gan, bệnh tăng nhăn áp (glaucoma), trầm cảm và khó khăn hô hấp



Hăy ghi nhớ

•Chỉ uống thuốc ngủ khi bạn không có dủ thời gian dể có 1 giấc ngủ suốt đêm (7 dến 8 giờ đồng hồ) . Nếu không, bạn có thể cảm thấy rất buồn ngủ vào ngày hôm sau.

•Hăy đọc kỹ thông tin ghi chú đính kèm theo thuốc của bạn (Ư nói là thông tin ghi chút trên bao b́ / lọ thuốc) . Hăy lưu ư cẩn thận những tác dụng phụ tiềm ẩn nghiêm trọng

• Không bao giờ dùng rượu bia cận sát thời gian bạn uống thuốc . Rượu bia không chỉ làm gián đoạn giấc ngủ của bạn nhiều hơn, nó có thể tương nguy hiểm với thuốc ngủ

•Không bao giờ lái xe hay điều khiển máy móc sau khi uống một viên thuốc ngủ. Đặc biệt là lần đầu tiên khi bạn bắt đầu dùng một loại thuốc mới để hỗ trợ giấc ngủ , khi mà bạn có thể không biết thuốc sẽ ảnh hưởng đến bạn ra sao

•Hăy thực hiện theo những hướng dẫn thật kỹ / thật chặc chẽ, hăy bắt đầu với một liều lượng rất nhỏ và tăng dần dần lên, dựa theo thời khóa biểu / lịch tŕnh của bác sĩ (đề ra). T́m hiểu xem bạn nên uống thuốc chung với hoặc không chung với thức ăn. Đối với một số loại thuốc, một số thực phẩm nhất định phải tránh .

florida80
05-16-2019, 18:33
DƯỢC THẢO VÀ NHỮNG THUỐC HỖ TRỢ THIÊN NHIÊN CHO GIẤC NGỦ
(HERBS AND NATURAL SLEEP AIDS)

Nhiều người bị chứng mất ngủ chọn biện pháp dùng thảo dược để điều trị, mặc dù hiệu quả của dược thảo không được đánh giá bởi Cơ Quan Quản lư Thực phẩm và Dược Phẩm cua/ Hoa Kỳ (FDA) . Một vài phương pháp như chất tinh dầu của chanh hoặc trà hoa cúc thường vô hại . Tuy nhiên, những loại dược thảo khác có thể có tác dụng phụ nghiêm trọng hơn và có thể ảnh hưởng / tương tác đối với các loại thuốc theo toa bác sĩ, mà có thể nguy hiểm. Thí dụ St. John’s Wort có thể hạn chế hiệu quả của nhiều loại thuốc theo toa bác sĩ chẳng hạn như chất làm loăng máu, thuốc tránh thai và một số thuốc chống ung thư . Hăy tham khảo ư kiến các bác sĩ / chuyên gia y tế nếu bạn dáng thủ 1 biện pháp trị liệu dùng dược thảo

NHỮNG DƯỢC THẢO HỖ TRỢ GIẤC NGỦ (HERBAL SLEEP AIDS)

Có một số loại thảo mộc được hiểu là để trợ giúp giấc ngủ, bao gồm hoa cúc, gốc cây valerian, kava kava, tinh dầu của chanh, cây passionflower, lavender, và St John's Wort. Nhiều người uống trà hoa cúc do tính an thần nhẹ nhẹ của trà, mặc dù trà này có thể gây ra phản ứng dị ứng ở những người bị dị ứngthực vật hoặc với phấn hoa thực vật.

MELATONIN

Melatonin là một hoc moon sinh ra tự nhiên (trong cơ thể) có mức độ cao điểm vào ban đêm . Chất này được kích hoạt bởi bóng tối, những mức độ được duy tŕ gia tăng trong suốt đêm cho đến khi trời sáng th́ mới giảm xuống. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu đă không t́m thấy melatonin có lợi ích khi so sánh với một viên thuốc đường (loại giả dược = thuốc giả = placebo). Một số kết quả tích cực đă được thể hiện trong việc trợ giúp đi máy bay và những công nhân viên làm ca đêm, nhưng sự tiếp xúc đơn giản với ánh sáng vào đúng thời điểm có thể chỉ là hiệu quả. Những ảnh hưởng dài hạn của melatonin hiện vẫn chưa biết.

TRYPTOPHAN, L-TRYPTOPHAN

Tryptophan là acic amino cơ bản được sử dụng trong công thức về chất hóa học truyền tin serotonin, một chất trong năo bộ mà trợ giúp nói cơ thể bạn đi ngủ . L-tryptophan là một sản phẩm phụ / sảm phẩm đặc chế phổ biến của tryptophan, mà cơ thể có thể thay đổi (L-tryptophan) thành serotonin . Một số nghiên cứu đă chỉ ra rằng L-tryptophan có thể trợ giúp con người rơi vào giấc ngủ nhanh hơn. Tuy nhiên, kết quả đều không giống nhau / có khác biệt / có trái ngược.

NHỮNG GIẢI PHÁP THAY THẾ TỚI NHỮNG VIÊN THUỐC NGỦ VÀ NHỮNG DƯỢC PHẨM VỀ GIẤC NGỦ
(ALTERNATIVES TO SLEEPING PILLS AND SLEEP MEDICATIONS )

Những nghiên cứu cho thấy rằng việc thay đổi môi trường / không gian ngủ nghỉ của bạn và hành vi / hoạt động trước khi đi ngủ là một trong những cách hiệu quả nhất để chống chứng bệnh mất ngủ. Cả cả nếu ban quyết dịnh sử dụng thuốc ngủ trong 1 khoảng thời gian ngắn, những chuyên gia đề nghị / khuyên cáo bạn nên thay đổi lối sống và hành vi trước khi đi ngủ như là một biện pháp khắc phục lâu dài về bệnh chứng mất ngủ. Việc thay đổi hành vi và môi trường có thể có nhiều tác động tích cực hơn đến giấc ngủ so với những thuốc ngủ, thuốc hỗ trợ giấc ngủ hoặc những dược phẩm, mà không có nguy cơ tác dụng phụ / phản ứng hoặc sự lệ thuộc thuốc.

LIỆU PHÁP ĐỂ NHẬN THỨC HÀNH VI / HÀNH ĐỘNG
(COGNITIVE BEHAVIORAL THERAPY (CBT))

Nhiều người phàn nàn rằng sự bực bội khó chịu, những suy nghĩ tiêu cực và lo lắng bồn chồn thùng ngăn cản không cho họ an giấc ngủ vào ban đêm. Liệu pháp để nhận thức thành vi / hành động (CBT) là một h́nh thức về tâm lư học mà xử lư những vấn đề bằng cách thay đổi những suy nghĩ bất thường hoặc suy nghĩ có tính cách hủy hoại, những cảm xúc và những khuôn mẫu / chiều hướng của những hành vi. CBT là một điều trị tương đối đơn giản có thể cải thiện giấc ngủ bằng cách thay đổi hành vi của bạn trước khi đi ngủ cũng như thay đổi cách suy nghĩ mà ḱm giữ bạn không ch́m vào giấc ngủ. Liệu pháp này cũng tập trung vào sự nâng cao khả năng thư giăn / thả lỏng và thay đổi thói quen lối sống có ảnh hưởng đến các chiều hướng giấc ngủ.

SO SÁNH LIỆU PHÁP ĐỂ NHẬN THỨC HÀNH VI VỚI NHỮNG VIÊN THUỐC NGỦ (CBT vs. SLEEPING PILLS)

Một nghiên cứu gần đây tại trường Y khoa Harvard phát hiện rằng liệu pháp nhận thúc hành vi (CBT), bao gồm những bài tập thả lỏng / bài thể dục thư giăn và sự phối hợp của những thối quen tốt về giấc ngủ, th́ có hiệu quả nhiều hơn đối với chứng mất ngủ măn tính so với thuốc ngủ . Liệu pháp này tạo ra những thay đổi lớn nhất trong khả năng của bệnh nhân để ngủ thiếp đi và duy tŕ giấc ngủ, và những lợi ích vẫn tồn tại cả năm sau khi việc điều trị đă kết thúc.
Nguồn : Viện Y Tế Quốc Gia của Hoa Kỳ


Để biết thêm thông tin về Liệu pháp nhận thức hành vi , hăy xem tài liệu "Liệu pháp dành cho chứng rối loạn lo âu bồn chồn"

florida80
05-16-2019, 18:35
DƯỢC THẢO VÀ NHỮNG THUỐC HỖ TRỢ THIÊN NHIÊN CHO GIẤC NGỦ
(HERBS AND NATURAL SLEEP AIDS)

Nhiều người bị chứng mất ngủ chọn biện pháp dùng thảo dược để điều trị, mặc dù hiệu quả của dược thảo không được đánh giá bởi Cơ Quan Quản lư Thực phẩm và Dược Phẩm cua/ Hoa Kỳ (FDA) . Một vài phương pháp như chất tinh dầu của chanh hoặc trà hoa cúc thường vô hại . Tuy nhiên, những loại dược thảo khác có thể có tác dụng phụ nghiêm trọng hơn và có thể ảnh hưởng / tương tác đối với các loại thuốc theo toa bác sĩ, mà có thể nguy hiểm. Thí dụ St. John’s Wort có thể hạn chế hiệu quả của nhiều loại thuốc theo toa bác sĩ chẳng hạn như chất làm loăng máu, thuốc tránh thai và một số thuốc chống ung thư . Hăy tham khảo ư kiến các bác sĩ / chuyên gia y tế nếu bạn dáng thủ 1 biện pháp trị liệu dùng dược thảo

NHỮNG DƯỢC THẢO HỖ TRỢ GIẤC NGỦ (HERBAL SLEEP AIDS)

Có một số loại thảo mộc được hiểu là để trợ giúp giấc ngủ, bao gồm hoa cúc, gốc cây valerian, kava kava, tinh dầu của chanh, cây passionflower, lavender, và St John's Wort. Nhiều người uống trà hoa cúc do tính an thần nhẹ nhẹ của trà, mặc dù trà này có thể gây ra phản ứng dị ứng ở những người bị dị ứngthực vật hoặc với phấn hoa thực vật.

MELATONIN

Melatonin là một hoc moon sinh ra tự nhiên (trong cơ thể) có mức độ cao điểm vào ban đêm . Chất này được kích hoạt bởi bóng tối, những mức độ được duy tŕ gia tăng trong suốt đêm cho đến khi trời sáng th́ mới giảm xuống. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu đă không t́m thấy melatonin có lợi ích khi so sánh với một viên thuốc đường (loại giả dược = thuốc giả = placebo). Một số kết quả tích cực đă được thể hiện trong việc trợ giúp đi máy bay và những công nhân viên làm ca đêm, nhưng sự tiếp xúc đơn giản với ánh sáng vào đúng thời điểm có thể chỉ là hiệu quả. Những ảnh hưởng dài hạn của melatonin hiện vẫn chưa biết.

TRYPTOPHAN, L-TRYPTOPHAN

Tryptophan là acic amino cơ bản được sử dụng trong công thức về chất hóa học truyền tin serotonin, một chất trong năo bộ mà trợ giúp nói cơ thể bạn đi ngủ . L-tryptophan là một sản phẩm phụ / sảm phẩm đặc chế phổ biến của tryptophan, mà cơ thể có thể thay đổi (L-tryptophan) thành serotonin . Một số nghiên cứu đă chỉ ra rằng L-tryptophan có thể trợ giúp con người rơi vào giấc ngủ nhanh hơn. Tuy nhiên, kết quả đều không giống nhau / có khác biệt / có trái ngược.

NHỮNG GIẢI PHÁP THAY THẾ TỚI NHỮNG VIÊN THUỐC NGỦ VÀ NHỮNG DƯỢC PHẨM VỀ GIẤC NGỦ
(ALTERNATIVES TO SLEEPING PILLS AND SLEEP MEDICATIONS )

Những nghiên cứu cho thấy rằng việc thay đổi môi trường / không gian ngủ nghỉ của bạn và hành vi / hoạt động trước khi đi ngủ là một trong những cách hiệu quả nhất để chống chứng bệnh mất ngủ. Cả cả nếu ban quyết dịnh sử dụng thuốc ngủ trong 1 khoảng thời gian ngắn, những chuyên gia đề nghị / khuyên cáo bạn nên thay đổi lối sống và hành vi trước khi đi ngủ như là một biện pháp khắc phục lâu dài về bệnh chứng mất ngủ. Việc thay đổi hành vi và môi trường có thể có nhiều tác động tích cực hơn đến giấc ngủ so với những thuốc ngủ, thuốc hỗ trợ giấc ngủ hoặc những dược phẩm, mà không có nguy cơ tác dụng phụ / phản ứng hoặc sự lệ thuộc thuốc.

LIỆU PHÁP ĐỂ NHẬN THỨC HÀNH VI / HÀNH ĐỘNG
(COGNITIVE BEHAVIORAL THERAPY (CBT))

Nhiều người phàn nàn rằng sự bực bội khó chịu, những suy nghĩ tiêu cực và lo lắng bồn chồn thùng ngăn cản không cho họ an giấc ngủ vào ban đêm. Liệu pháp để nhận thức thành vi / hành động (CBT) là một h́nh thức về tâm lư học mà xử lư những vấn đề bằng cách thay đổi những suy nghĩ bất thường hoặc suy nghĩ có tính cách hủy hoại, những cảm xúc và những khuôn mẫu / chiều hướng của những hành vi. CBT là một điều trị tương đối đơn giản có thể cải thiện giấc ngủ bằng cách thay đổi hành vi của bạn trước khi đi ngủ cũng như thay đổi cách suy nghĩ mà ḱm giữ bạn không ch́m vào giấc ngủ. Liệu pháp này cũng tập trung vào sự nâng cao khả năng thư giăn / thả lỏng và thay đổi thói quen lối sống có ảnh hưởng đến các chiều hướng giấc ngủ.

SO SÁNH LIỆU PHÁP ĐỂ NHẬN THỨC HÀNH VI VỚI NHỮNG VIÊN THUỐC NGỦ (CBT vs. SLEEPING PILLS)

Một nghiên cứu gần đây tại trường Y khoa Harvard phát hiện rằng liệu pháp nhận thúc hành vi (CBT), bao gồm những bài tập thả lỏng / bài thể dục thư giăn và sự phối hợp của những thối quen tốt về giấc ngủ, th́ có hiệu quả nhiều hơn đối với chứng mất ngủ măn tính so với thuốc ngủ . Liệu pháp này tạo ra những thay đổi lớn nhất trong khả năng của bệnh nhân để ngủ thiếp đi và duy tŕ giấc ngủ, và những lợi ích vẫn tồn tại cả năm sau khi việc điều trị đă kết thúc.
Nguồn : Viện Y Tế Quốc Gia của Hoa Kỳ

florida80
05-16-2019, 18:37
Hướng Dẫn Pḥng Ngừa Bệnh Lyme - Bệnh Nhiễm Khuẩn Do bị Bọ Ve Cắn
Lynn Ly Phỏng Dịch Thông Tin của Bộ Y Tế Cộng Đồng Canada
(Public Health Agency of Canada wxw.phac-aspc.gc.ca/id-mi/lyme-fs-eng.php#s9 )
https://i.imgur.com/J6owTvP.jpg

BỆNH LYME LÀ BỆNH G̀ ?

Bệnh Lyme là một căn bệnh gây ra bởi vi khuẩn Borrelia burgdorferi, có thể lan truyền qua vết cắn của một số loại bọ ve (certain types of ticks). Bệnh Lyme ở người có thể có các triệu chứng nghiêm trọng nhưng có thể được điều trị hiệu quả. Bệnh Lyme là bệnh vector-borne phổ biến nhất ở các vùng ôn đới và xảy ra ở châu Âu, châu Á, và trải rộng khắp Bắc Mỹ.

CON NGƯỜI MẮC PHẢI BỆNH LYME NHƯ THẾ NÀO?

Bọ ve (ticks) sống xung quanh hay trong các khu vực rừng rú và chúng bị nhiễm bệnh khi chúng cắn các con chuột, con sóc, chim và động vật nhỏ khác mà có thể đă mang vi khuẩn. Sau đó bọ ve lây lan vi khuẩn cho con người. Bọ ve thường cắn không gây đau và hầu hết mọi người không biết rằng họ đă bị cắn. Hai loại bọ ve có khả năng lây lan căn bệnh là loại: bọ ve chân đen ở phía Tây của Tỉnh Bang British Columbia và bọ ve chân đen tại các khu vực khác của Canada. Người không thể lây lan bệnh Lyme cho nhau. Mặc dù chó và mèo có thể nhiễm bệnh Lyme, nhưng không có bằng chứng chúng có thể lây nhiễm trực tiếp cho người. Tuy nhiên, các con vật nuôi có thể đem bọ ve bị nhiễm bệnh vào nhà, sân nhà. Những người thợ săn, người hành nghề lâm nghiệp thường có nhiều nguy cơ vướng phải bệnh Lyme, v́ họ sinh hoạt nhiều trong môi trường nơi bọ ve có xu hướng sinh sống. Tuy nhiên, bệnh Lyme có thể không tiêm nhiễm từ việc giết mổ hoặc ăn thịt nai hay các cơ quan nội tạng nai.

LOẠI BỌ VE G̀ GÂY BỆNH LYME?

Bọ ve là động vật thuộc loại nhện nhỏ hay cắn các loài khác để hút máu, chúng liên quan đến bọ cạp, nhền nhện và con bét / con bọ chét nhỏ. Bọ ve có vài kích thước và màu sắc khác biệt, đặc biệt là bọ ve loại chân đen rất nhỏ. Trước khi hút máu, con cái trưởng thành có kích thước dài khoảng 3-5 mm và màu đỏ hay màu nâu sẫm màu. Bọ ve hút máu bằng cách sử dụng các bộ phận ở miệng để cắn bám vào động vật kể cả người . Con cái lớn hơn con đực một chút khi chúng hút máu no đầy th́ chúng có thể to lớn như một quả nho. Con đực không nảy nở kích thước bởi v́ chúng không ngốn máu . Ấu trùng (larvae) và nhộng (nymphs) (giai đoạn vị thành niên của bọ ve) th́ vẫn c̣n nhỏ hơn khi được nuôi dưỡng, th́ có màu nhạt hơn so với bọ ve trưởng thành. Người và vật nuôi có thể bị bọ ve bám vào khi đi lướt qua các dẫy thảm thực vật như bụi cỏ, bụi cây và đống lá rác.


UserPostedImage


H́nh này cho thấy kích thước và màu sắc của bọ ve cái chân đen trong các giai đoạn khác nhau khi hút máu qua việc sử dụng một bức ảnh của năm con bọ ve cái đặt trên thước đo nằm bên cạnh một đồng tiền 10 xu Canada (đồng 10 xu Canada có đường kính khoảng 1.5cm). Bức ảnh cho thấy rằng bọ ve chưa hút máu th́ có một màu nâu đỏ đậm, chúng trở nên màu nâu nhạt rồi chuyển sang màu vàng khi bọ ve bắt đầu hút được máu, sau đó chúng trở thành màu xám khi tiếp tục hút máu và rồi th́ màu xám-nâu đậm khi no. Khi bọ ve được hút máu, bụng bọ ve lớn lên từ kích thước lúc chưa hút máu là khoảng 0.3 cm đến khi căng no là khoảng 0.6 cm. Khi đă no căng , bọ ve dài khoảng 1cm và tṛn như h́nh trái trứng.


UserPostedImage


H́nh này cho thấy kích thước và màu sắc của các con nhộng (nymphs) của bọ ve chân đen trong các giai đoạn khác nhau khi hút máu qua việc sử dụng một bức ảnh của ba con nhộng đặt trên một thước đo và bên cạnh một đồng xu 10 cent. Bức ảnh cho thấy con nhộng bọ ve chưa hút máu th́ rất nhỏ (0.15 cm) và màu nâu xám. Khi chúng "hút ngốn" th́ bụng lớn lên và đậm mầu lại cho đến khi no căng th́ có kích thước là dài khoảng 0.3 cm, gần như thành mầu đen và tṛn như h́nh trái trứng.

Có những khu vực ở Canada, nơi bọ ve sinh sản và tăng trưởng ồ ạt mà truyền những tác nhân bệnh Lyme được xác định và được gọi là khu địa phương bệnh Lyme (Lyme disease endemic areas). Mặc dù bọ ve chân đen phương Tây (western blacklegged ticks), Ixodes pacificus (đôi khi gọi là bọ ve nai (deer tick)), phân phối rộng răi tại tỉnh bang British Columbia, nhưng lại sinh sản tăng trưởng ồ ạt nhất tại khu vực lục địa thấp hơn, ở trên đảo Vancouver và trong thung lũng Fraser. Quần thể mà thành lập (Established populations) các bọ ve chân đen, Ixodes scapularis (đôi khi gọi là bọ ve nai), mặt khác, đă được t́m thấy ở khu vực Đông Nam tỉnh bang Quebec, phía Nam và phía Đông tỉnh bang Ontario, phía Đông Nam tỉnh bang Manitoba và các khu vực của tỉnh bang New Brunswick và Nova Scotia.

Bọ ve chân đen có thể được t́m thấy ở nhiều nơi trong Canada, ngay cả nơi quần thể bọ ve chưa được xác định. Những bọ ve có thể được đưa vào các khu vực này do các loài chim bay di trú và khoảng 10% là những bọ ve "do chim gây ra" (“bird-borne” ticks) bị nhiễm vi khuẩn bệnh Lyme. V́ vậy, t́nh huống người có thể bị cắn bởi một bọ ve nhiễm bệnh hầu như ở bất cứ nơi nào trong Canada, cơ hội xảy ra thường ở những nơi mà quần thể bọ ve chưa dược đánh dấu hay đánh dấu là rất thấp .

NHỮNG TRIỆU CHỨNG BỆNH LYME

Những triệu chứng của bệnh Lyme thường diễn ra trong ba giai đoạn, mặc dù không phải tất cả bệnh nhân đều có tất cả các triệu chứng. Dấu hiệu đầu tiên của nhiễm trùng thường là một vết đỏ trên da h́nh tṛn (a circular rash ) gọi là migrans ban đỏ (erythema migrans) hoặc EM. Loại vết đỏ h́nh tṛn trên da (rash) xuất hiện trong khoảng 70-80% người bị nhiễm bệnh. Nó bắt đầu xuất hiện tại vị trí vết bọ ve cắn khoảng ba ngày sau khi bị cắn, đến sau một tháng và có thể kéo dài đến tám tuần sau đó. Những dấu hiệu điển h́nh của da bị dị ứng như ngứa ngáy, bong tróc vẩy (scaling), đau nhức (pain), sưng phồng (swelling), hoặc ṛ rỉ tiết dịch không liên kết b́nh thường với EM. Những triệu chứng khác bao gồm:

• Mệt mỏi (fatigue) ;

• Ớn lạnh (chills);

• Nóng sốt (fever);

• Nhức đầu (headache);

• Đau nhức khớp xương , bắp thịt (muscle and joint pain);

• Sưng hạch bạch huyết (swollen lymph nodes).


Nếu không được điều trị, th́ tiến triển thành giai đoạn hai của căn bệnh này, và được biết đến như bệnh Lyme phổ biến, có thể kéo dài đến vài tháng và bao gồm các triệu chứng như sau:

• Rối loạn hệ thống thần kinh trung ương và ngoại vi (central and peripheral nervous system disorders);

• Phát ban / nổi vết đỏ nhiều nơi trên da (multiple skin rashes);

• Viêm khớp và các triệu chứng viêm khớp ( arthritis and arthritic symptoms);

• Tim đập nhanh, hồi hộp, tim đập như đánh trống ngực (heart palpitations);

• Cực kỳ mệt mỏi và suy nhược toàn bộ (extreme fatigue and general weakness).


Nếu bệnh vẫn không được điều trị, th́ tiến triển thành giai đoạn ba, bệnh có thể kéo dài vài tháng đến nhiều năm với các triệu chứng có thể bao gồm viêm khớp tái phát và các vấn đề thần kinh. Trường hợp tử vong do bệnh Lyme th́ rất hiếm.

Lynn Ly chú thích: Lynn sẽ phỏng dịch tài liệu nói về các triệu chứng lâm sàng của bệnh Lyme mà bộ Y Tế Canda dành cho bác sĩ gia đ́nh để bổ túc thêm vào phần này của bài phỏng dịch này . Thông tin dành cho bác sĩ Gia Đ́nh về căn bệnh này tại đây: http://www.cfp.ca/content/54/10/1381.full.pdf+html

CHẨN ĐOÁN BỆNH LYME RA SAO?

Việc chẩn đoán bệnh Lyme nên được thực hiện ngay sau khi đánh giá các triệu chứng của bệnh nhân và nguy cơ tiếp xúc với bọ ve bị nhiễm bệnh. Xét nghiệm máu cũng có thể được áp dụng để phát hiện sự hiện diện của kháng thể đối với vi khuẩn.

Cơ quan Y tế Công cộng của Canada khuyến cáo các phương pháp tiếp cận hai tầng (the two-tiered approach) để thử nghiệm máu (mẫu máu sàng lọc với một kiểm tra và thử nghiệm trên các mẫu xét nghiệm dương tính với bệnh Lyme). Cơ quan Y Tế cảnh báo chống lại việc sử dụng những xét nghiệm bất hợp lệ (invalidated tests), những kết quả giải thích mà không theo hướng dẫn phù hợp. Xét nghiệm máu có thể là âm tính ở những bệnh nhân bị bệnh Lyme lúc khởi đầu hoặc ở những bệnh nhân đă từng có điều trị bằng kháng sinh. Tuy nhiên, tính chính xác của xét nghiệm máu gia tăng khi nhiễm trùng tiến triển trong các cá nhân chưa được điều trị.

Bệnh Lyme là một bệnh phải khai báo quốc gia (a nationally notifiable disease) tại Canada từ năm 2009.

florida80
05-16-2019, 18:37
ÁP DỤNG TRỊ LIỆU G̀ CHO BỆNH LYME ?

Một số thuốc kháng sinh có thể điều trị căn bệnh Lyme. Những trị liệu được bắt đầu thực thiện càng sớm càng tốt. Hầu hết các trường hợp của bệnh Lyme có thể được chữa khỏi trong ṿng 2-4 tuần trị liệu mà sử dụng thuốc doxycycline, amoxicillin, hoặc ceftriaxone. Những người có vấn đề về thần kinh hoặc tim mạch có thể yêu cầu điều trị tĩnh mạch với penicillin hoặc ceftriaxone. Cephalexin th́ không hiệu quả. Bệnh nhân được chẩn đoán ở các giai đoạn sau của căn bệnh có thể có triệu chứng kéo dài hoặc tái phát, đ̣i hỏi một quá tŕnh dài điều trị với kháng sinh.

NHỮNG BIỆN PHÁP PH̉NG NGỪA MÀ BẠN NÊN LÀM ĐỂ TRÁNH BỆNH LYME

Những loài gặm nhấm nho nhỏ là các nguồn phổ biến nhất của B. burgdorferi, trong khi các loài động vật lớn đóng vai tṛ như cung ứng phục vụ (host) cho bọ ​​ve. Bọ ve truyền bệnh Lyme phát triển mạnh trong các khu vực cây cối rậm rạp và có thể ẩn nấp trên đầu ngọn cỏ hoặc trong bụi rậm nơi mà chúng có thể dễ dàng nhảy bám vào người hoặc động vật khi đi ngang qua. Tại các khu vực nơi mà bọ ve được t́m thấy, mọi người nên biết về nguy cơ của bệnh Lyme và tự bảo vệ ḿnh. Cần t́m hiểu thông tin từ cơ quan y tế công cộng tại địa phương nếu trong khu vực đó có bọ ve, đặc biệt là bọ ve chân đen (blacklegged ticks). Hầu hết các trường hợp bệnh ở người xảy ra vào khoảng cuối mùa Xuân và mùa Hè khi những con nhộng (nymphs) nho nhỏ đang hoạt động mạnh nhất và cũng là lúc mà con người hoạt động ngoài trời nhiều nhất. Nguy cơ tiếp xúc với bọ ve bắt đầu vào đầu mùa Xuân khi thời tiết ấm lên và kéo dài cho đến khi tuyết bao phủ trường kỳ và nhiệt độ dưới 0 độ C luôn tồn tại. Thời gian và cường độ của những trương hợp có khác biệt trên khắp Canada và do đó thời điểm này là kỳ nguy cơ tiếp xúc với bọ ve. Bọ ve có thể hoạt động trong những tháng mùa Đông ở các tỉnh bang có nhiệt độ âm ấm theo mùa (4 độ C và cao hơn) và những khu vực tuyết bao phủ không thường xuyên.

CẢNH BÁO CÁ NHÂN ĐỂ PH̉NG TRÁNH VIÊM NHIỄM

•Khi đi bộ trong các khu vực (chính phủ) đánh dấu bị lan nhiễm bọ ve, phải mặc quần dài, nhét ống quần vào giầy cao ống (boots) hay tất vớ và mặc áo sơ mi dài tay cài khuy / nút áo chặt chẽ ở cổ tay để giữ cho bọ ve không bám vào những chỗ da để trần.

•Phải mang giày kín và tránh giầy dép hở lỗ (sandals)

•Mặc quần áo màu sáng, bọ ve sẽ được nh́n thấy dễ dàng hơn khi bu bám lên.

•Áp dụng các thuốc chống côn trùng có chứa chất DEET (Diethyltoluamide), thuốc được xem an toàn và hiệu quả có thể đẩy lùi bọ ve. Các loại thuốc chống côn trùng có thể được áp dụng xịt lên quần áo cũng như trên da trần, nhưng không nên áp dụng cho phần da bên dưới quần áo (lưu ư: DEET có thể làm hỏng một số chất liệu áo quần). Để duy tŕ hiệu quả, sản phẩm thuốc có thể được áp dụng (bôi hay xịt) lặp đi lặp lại thường xuyên hơn so với yêu cầu để xua đuổi ruồi muỗi hoặc nhặng đen, tuy nhiên, luôn luôn xem kỹ và làm theo chỉ dẫn trên nhăn hiệu thuốc .

•Thực hiện tự kiểm tra cẩn thận việc bọ ​​ve bu bám sau khi từng ở trong các khu vực (chính phủ) đánh dấu bị lan nhiễm bọ ve. Việc kiểm tra toàn cơ thể hàng ngày và việc nhanh chóng loại bỏ bọ ve bu bám (trong ṿng 36 giờ) có thể làm giảm lây truyền của vi khuẩn Borrelia burgdorferi từ bọ ve bị nhiễm bệnh. Bọ ve chân đen rất nhỏ, đặc biệt là trong giai đoạn ấu trùng hay nhộng, cho nên cần xem xét cẩn thận. Đừng quên kiểm tra trẻ em và các vật nuôi.

•Cẩn thận loại bỏ bọ ve bu bám bằng cách sử dụng cây nhíp (tweezers). Tốt nhất là nắm bắt kẹp lấy đầu bọ ve và các bộ phận miệng sát cận với da và kéo từ từ cho đến khi bọ ve được lấy ra. Đừng vặn hoặc xoay bọ ve và cố gắng không bóp nát hoặc nghiền nát con bọ ve trong quá tŕnh loại bỏ bọ ve đang bám trên da.

•Sau khi loại bỏ con bọ ve bu bám trên da, rửa các chỗ da có vết cắn với xà pḥng và nước hoặc khử trùng với rượu cồn (alcohol) hoặc chất khử trùng gia dụng (household antiseptic).

•Ghi lại ngày tháng có vết cắn bọ ve và cố gắng để giữ các con bọ ve trong một lọ thuốc rỗng hoặc trong 2 lớp túi lylon loại zip-lock. (V́ khi xét nghiệm, pḥng thí nghiệm có yêu cầu gởi mẫu con bọ ve đă cắn người)

•Liên lạc thông báo một bác sĩ ngay nếu bạn phát triển các triệu chứng của bệnh Lyme, đặc biệt là khi bạn đă ở trong một khu vực nơi bọ ve chân đen được t́m thấy. Nếu bạn c̣n giữ con bọ ve cắn bạn , hăy mang nó theo khi đến văn pḥng bác sĩ.


Các bọ ve chân đen chủ yếu được t́m thấy tại các khu vực có mật độ cây cối rậm rạp và khu vực ranh giới chuyển tiếp giữa khu dân cư và vùng đất c̣n cây cỏ hoang dă . Bọ ve ít được t́m thấy trong thực vật cây cảnh và các khu vực sân cỏ. Trong sân cỏ, hầu hết các bọ ve đặc biệt cư ngụ trong sân cỏ có chu vi trong ṿng 3m dọc theo rừng, những bức tường đá, hoặc khu vực trồng cây cảnh.

BIỆN PHÁP PH̉NG NGỪA ĐỂ GIẢM THIỂU MÔI TRƯỜNG SỐNG CỦA BỌ VE GẦN NƠI CƯ TRÚ CỦA BẠN:

•Luôn cắt cỏ trên sân nhà

•Dọn dẹp loại bỏ xác lá cây, bụi cây dại và cỏ dại ở ŕa sân cỏ.

•Hạn chế việc sử dụng của loại cỏ gọi là "groundcover" tại các khu vực thường xuyên tiếp xúc của gia đ́nh, vật nuôi.

•Loại bỏ bụi cây và lá cây xung quanh những bức tường đá và chung quanh đống gỗ chất trong vườn.

•Ngăn cản hoạt động loài gặm nhấm , làm sạch và những bức tường đá (stonewalls) và lỗ nhỏ xung quanh nhà.

•Di dời những đống củi và vật dụng cho chim ăn ra xa xa khỏi nhà ở .

•Ǵn giữ không cho chó và mèo chui vào bụi rậm, rừng rậm.

•Di chuyển những bộ xích đu và thùng chơi cát (sand boxes) của trẻ em ra xa khỏi khu vực tiếp cận bụi rậm, rừng rậm và đặt chúng trên nên đất được bao phủ bằng loại vỏ cây chống cỏ dại

•Cắt tỉa cành cây và bụi cây xung quanh các cạnh sân cỏ để cho ánh sáng mặt trời chiếu rọi nhiều hơn .

•Tạo cảnh trí vườn cây mà môi trường thoáng và khô ráo hơn

•Tạo khu vực có lớp phủ vỏ cây chống cỏ dại khoảng 3m hoặc rộng hơn ở ranh giới giữa sân cỏ, bụi rậm , rừng cây hoặc bừc tướng đá.

•Hăy xem xét khoảng sân gỗ (decks), gạch, sỏi, các viền chia ranh giới, hoặc những thùng chậu trồng cây trên các khu vực gần nhà hoặc thường xuyên đi qua lại.

•Mở rộng những con đường ṃn trong các khu vực rừng cây .

•Trồng các loại cây không thu hút hươu nai hoặc sử dụng hàng rào để loại trừ hươu nai ghé đến.

•Hăy suy xét việc ứng dụng thuốc trừ sâu độc hại như một cách trị liệu với mục tiêu ngăn chận bọ ve .


Xem thêm : H́nh ảnh và hướng dẫn cách pḥng bị những bệnh liên quan đến bọ ve: http://www.ct.gov/caes/l...ions/bulletins/b1010.pdf

CHÍNH PHỦ CANADA ĐANG LÀM G̀ ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ BỆNH LYME ( BỆNH NHIỄM TRÙNG DO BỌ VE CẮN) ?

Các nhà khoa học Canada thuộc Cơ quan Y tế Cộng Đồng tiếp tục hợp tác với nhau trong nghiên cứu sự xuất hiện của các quần thể bọ ve trong Canada. Những nghiên cứu này cho thấy có ít nguy cơ gặp phải bọ ve nhiễm khuẩn gây bệnh Lyme trong Canada nhất so với các nước (v́ Canada tuyết phủ gần như quanh năm !), mặc dù số lượng các vùng có nguy cơ đang gia tăng tại miền đông Canada. Nhiều phát hiện trong số những phát hiện này đă được công bố và báo cáo tại hội nghị khoa học để giúp nâng cao nhận thức về tiềm năng về bệnh Lyme xảy ra ở Canada.

Ngoài ra, Các nhà khoa học Canada thuộc Cơ quan Y tế Cộng Đồng đang nghiên cứu các tác động tiềm tàng của biến đổi khí hậu đối với sự phân bố bọ ve mang bệnh Lyme. Nghiên cứu này sẽ đóng góp vào sự hiểu biết của chúng ta về sự xuất hiện của bọ ve và các tác nhân gây bệnh chúng truyền tải.

Các Viện Nghiên cứu y tế Canada hiện đang tài trợ một dự án nghiên cứu y tế về bệnh Lyme. Chi phí là $ 820.000 trong ṿng năm năm đă được cung cấp để nghiên cứu các tính chất của vi khuẩn. Dự án nghiên cứu y tế sẽ dẫn đến sự nâng cao hiểu biết hơn nữa về phương thức đường lối gây nên bệnh Lyme.

Lynn Ly (11-06-2012)

florida80
05-16-2019, 18:38
NHỮNG NGƯỜI LỚN TUỔI VÀ CHỨNG TRẦM CẢM
(Older Adults and Depression)

Lynn Ly Phỏng Dịch tóm lược theo thông tin Đại Học Y OHIO-Hoa Kỳ


Khi chúng ta già đi, th́ thường cảm thấy buồn bă do cuộc sống hưu trí, do các vấn đề về sức khỏe, do rơi vào hoàn cảnh cô đơn, hay bị mất mát bè bạn hoặc ngườn thân yêu. Nếu những cảm giác này trở nên mạnh mẽ hoặc ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của bạn trong ṿng hơn hai tuần, bạn hăy nói chuyện với bác sĩ. Cảm giác thật buồn bă hay tuột dốc hầu hết mọi lúc trong khoảng thời gian dài là biểu hiện không b́nh thường . Bạn có thể mắc phải một căn bệnh y khoa gọi là trầm cảm (depression).

NHỮNG DẤU HIỆU CỦA CHỨNG BỆNH TRẦM CẢM (SIGNS OF DEPRESSION)

Các dấu hiệu phổ biến nhất của chứng bệnh trầm cảm là:

•Mất hứng thú đến những ǵ bạn từng yêu thích

•Cảm giác là không c̣n có giá trị, bất lực, buồn hay tội lỗi

•Cảm giác bồn chồn, thao thức (Restless feeling)

•Ngủ quá nhiều hoặc không có thể ngủ

•Thiếu năng lực hoặc cảm giác mệt mỏi

•Tăng hoặc giảm cân

•Thiếu vắng cảm giác ngon miệng

•Có những vấn đề về trí nhớ hoặc suy tư

•Cảm giác dễ bị khích thích , dễ cáu gắt (Feeling irritable) hoặc bất chấp không lo thân ḿnh (not caring for yourself)


Nếu bạn có bất cứ dấu hiệu này trong ṿng hơn hai tuần hoặc bạn đang suy nghĩ cách làm tổn thương bản thân hoặc tổn thương người khác, bạn cần gặp bác sĩ.

CHĂM SÓC QUAN TÂM MÀ BẠN CẦN CÓ (YOUR CARE)

Việc trước tiên là bác sĩ của bạn sẽ thực hiện kiểm tra để xem nếu những dấu hiệu của bạn do bởi một vấn đề về sức khỏe, về dinh dưỡng hoặc một loại thuốc bạn đang sử dụng.

Bác sĩ có thể đề nghị bạn nói chuyện với người được đào tạo để điều trị trầm cảm thí dụ như một nhân viên xă hội (social worker), chuyên gia tư vấn (counselor), chuyên gia hoặc bác sĩ tâm thần (therapist or psychiatrist). Có rất nhiều thay đổi nho nhỏ có thể trợ giúp giảm bớt chứng bệnh trầm cảm. Các nhóm chuyên gia hỗ trợ có thể giúp bạn luyện các kỹ năng ứng phó mới.

Những loại thuốc để điều trị trầm cảm, được là là thuốc chống trầm cảm (antidepressants) có thể trợ giúp . Có thể phải mất vài tuần hoặc lên đến 8-12 tuần trước khi bạn cảm thấy công dụng của thuốc. Bác sĩ sẽ kiểm tra theo dơi chặt chẽ sự tiến triển của bạn khi dùng thuốc .

Trầm cảm không phải là một sự b́nh thường ở tuổi già. Với cách điều trị đúng đắn, bạn sẽ cảm thấy tốt hơn theo thời gian.

TỰ TRỢ GIÚP BẢN THÂN M̀NH (HELP YOURSELF):

•Hăy chăm sóc tốt bản thân ḿnh. Ăn uống theo mmột chế độ dinh dưỡng lành mạnh và tránh ăn vặt.

•Uống nhiều nước.

•Cần có 7-8 giờ của giấc ngủ mỗi đêm.

•Tránh rượu và ma túy.

•Sống năng động (siêng năng hoạt động), ngay cả khi bạn không cảm thấy hứng thú .

•Lên kế hoạch hoạt động trong ngày. Thiết lập một mục tiêu nho nhỏ cho mỗi ngày như làm một công việc nho nhỏ hoặc đi bộ.

•Tránh căng thẳng khi bạn có thể.

•Tránh ở một ḿnh. Cần ở trong môi trường tiếp xúc gần gũi với bạn bè và gia đ́nh.

•Hăy suy nghĩ về việc tham gia một nhóm hoạt động từ thiện.

•Giữ liên lạc với nhóm nhỗ trợ tôn giáo hay tinh thần của bạn. Nói chuyện với một giáo sĩ hay một lănh đạo tinh thần.

•Cầu nguyện hoặc ngồi thiền.

•Hăy bày tỏ cảm xúc của bạn một cách an toàn. Nói chuyện với gia đ́nh và bạn bè của bạn. Viết ra những suy nghĩ và cảm xúc của bạn.

•Nếu bạn có nhu cầu, đừng ngại ngùng hăy tiếp nhận trợ giúp từ người khác.



GIA Đ̀NH VÀ BẠN BÈ CÓ THỂ TRỢ GIÚP.

Trợ giúp một người nào đó để được đánh giá và được điều trị là điều quan trọng. Người thân của bạn có thể không có năng lực hoặc không mong muốn nhờ giúp đỡ.

Cách giúp đỡ:
•Đề nghị đi khám bác sĩ với người thân yêu của bạn. Bạn có thể đặt câu hỏi và ghi chép lại.

•Mời người bệnh đi tản bộ hoặc đi chơi. Đừng tỏ ra khó chịu nếu họ nói không. Tiếp tục thỉnh mời, nhưng không thúc ép.

•Trợ giúp về cảm xúc thông qua nói chuyện và lắng nghe cẩn thận. Đừng bỏ qua những cảm giác, nhưng điểm ra những chi tiết thực tế và gợi niềm hy vọng cho họ.

•Hăy làm yên tâm, làm yên ḷng, làm vững dạ (offer reassurance) họ , điều này khiến cho họ sẽ cảm thấy tốt hơn lên theo thời gian.

•Đừng bỏ qua bất kỳ lời nói hoặc hành động mà cho biểu hiện là người bệnh suy nghĩ cuộc đời vô nghĩa , không đáng sống. Đừng bỏ qua lời nói hoặc hành động làm tổn thương chính bản thân hoặc làm tổn thương người khác của người bệnh . T́m kiếm sự giúp đỡ ngay lập tức tại một pḥng cấp cứu của bệnh viện khi phát hiện những điều này từ người bệnh


Hăy nói chuyện với bác sĩ nếu bạn nghĩ bạn hoặc người thân thương có những dấu hiệu trầm cảm mà kéo dài hơn 2 tuần lễ .

Lynn Ly (30/08/2012)

florida80
05-16-2019, 18:40
HƯỚNG DẪN NGƯỜI CHĂM SÓC HIỂU VỀ NHỮNG HÀNH VI MẤT TRÍ NHỚ
(CAREGIVER’S GUIDE TO UNDERSTANDING DEMENTIA BEHAVIORS)

Theo Thông Tin của website của Tổ Chức Liên Minh Người Chăm Sóc Gia Đ́nh (Family Caregiver Alliance)


Chăm sóc cho người bị bệnh mất trí nhớ tạo ra nhiều thách thức cho gia đ́nh và người chăm sóc. Người bị bệnh mất trí nhớ xuất phát từ những t́nh trạng như Alzheimer hoặc những bệnh gây rối loạn năo bộ làm cho họ càng khó ghi nhớ, suy nghĩ rơ ràng, giao tiếp với những người khác, hoặc chăm sóc bản thân. Ngoài ra, mất trí nhớ có thể thay đổi tính cách, và thậm chí c̣n thay đổi tính t́nh và hành vi. Tờ Thông tin này cung cấp một số chiến lược thực tế để đối phó với các vấn đề hành vi gây phiền hà và khó khăn giao tiếp thường gặp khi chăm sóc một người bị bệnh mất trí nhớ.

MƯỜI LỜI KHUYÊN TRONG VIỆC GIAO TIẾP VỚI NGƯỜI BỆNH MẤT TRÍ NHỚ.

Không ai sinh ra đă biết làm thế nào giao tiếp với những người bệnh mất trí nhớ, nhưng chúng ta có thể học hỏi. Nâng cao kỹ năng giao tiếp của bạn sẽ giúp cho việc chăm sóc ít căng thẳng và có thể sẽ cải thiện chất lượng mối quan hệ giữa bạn và người thân. Kỹ năng giao tiếp tốt cũng sẽ tăng khả năng để xử lư các hành vi khó khăn bạn có thể gặp trong lúc chăm sóc cho một người bị bệnh mất trí nhớ.

1.Thiết lập một tâm trạng tích cực cho sự tương tác. Thái độ và ngôn ngữ giao tiếp, cảm xúc và suy nghĩ của bạn mạnh hơn lời nói. Thiết lập một tâm trạng tích cực bằng cách nói chuyện với người bệnh một cách dễ chịu và tôn trọng họ. Thể hiện các biểu hiện trên khuôn mặt, giọng nói và cảm hứng truyền đạt để giúp truyền tải thông điệp và thể hiện cảm xúc của bạn về t́nh cảm.

2. Nhận được sự chú ư. Hạn chế phiền nhiễu và tiếng ồn, tắt các đài phát thanh hoặc truyền h́nh, đóng màn cửa, hoặc di chuyển đến môi trường yên tĩnh hơn.Trước khi nói, hăy chắc chắn rằng nhận được sự quan tâm của người khác, biết địa chỉ của ḿnh theo tên, xác định bản thân bằng tên và mối quan hệ, và sử dụng tín hiệu không lời và cảm ứng để giúp người đó tập trung. Nếu cô ấy ngồi, có được đến cấp độ của ḿnh và duy tŕ tiếp xúc bằng mắt.

3. Thông điệp rơ ràng. Sử dụng từ và câu đơn giản, Nói chậm, rơ ràng và trong một giai điệu trấn an. Không được làm giọng nói cao hơn hoặc to hơn, thay vào đó, cường độ giọng nói thấp hơn. Nếu người đó không hiểu lần đầu tiên, sử dụng từ ngữ tương tự lặp lại thông điệp của bạn. Nếu người đó vẫn không hiểu, chờ một vài phút và diễn đạt lại câu hỏi. Sử dụng tên của người và các địa điểm thay v́ dung đại từ hoặc chữ viết tắt.

4. Hỏi câu hỏi đơn giản. Hỏi một câu hỏi tại một thời điểm, những người có hoặc không có câu trả lời vẫn tỏ thái độ vui vẻ. Không yêu cầu, thắc mắc những câu hỏi mở hoặc cho quá nhiều sự lựa chọn.Ví dụ, hăy hỏi, "Bạn có thích mặc áo sơ mi trắng hoặc áo sơ mi màu xanh?" Vẫn c̣n tốt hơn, người ấy lựa chọn, nh́n vào dễ thấy và các dấu hiệu cũng giúp làm rơ câu hỏi của bạn và có thể dẫn đến sự phản ứng của người đó.

5. Lắng nghe với đôi tai, đôi mắt và trái tim của bạn. Hăy kiên nhẫn chờ người thân của bạn trả lời. Nếu cô ấy tranh căi cho một câu trả lời,th́ cũng đồng ư với họ. Không nên trả lời và ngôn ngữ cơ thể, và đáp ứng một cách thích hợp. Luôn luôn cố gắng lắng nghe ư nghĩa và cảm xúc làm nền tảng cho những lời nói.

6. Phá vỡ các hoạt động thành từng bước nhỏ. Điều này làm nhiều nhiệm vụ quản lư hơn. Bạn có thể khuyến khích người thân của bạn làm những ǵ họ có thể, nhẹ nhàng nhắc nhở người bệnh nếu họ hay quên và giúp đỡ những bước đi mà họ không thể thực hiện riêng ḿnh. Sử dụng tín hiệu h́nh ảnh, chẳng hạn như chỉ cho anh ta với bàn tay của bạn nơi đặt dĩa ăn, cũng có thể rất hữu ích.

7. Khi đi trở nên khó khăn, phân tâm và chuyển hướng. Khi người thân của bạn trở nên khó chịu, hăy thử thay đổi chủ đề hoặc môi trường. Ví dụ, hăy hỏi anh ta nhờ sự giúp đỡ hoặc đề nghị họ đi bộ. Điều quan trọng là kết nối người đó ở một mức độ cảm giác, trước khi bạn chuyển hướng. Bạn có thể nói, "tôi cảm thấy bạn đang buồn-tôi xin lỗi bạn đang khó chịu. Chúng ta hăy đi lấy ǵ để ăn”.

8. Đáp ứng t́nh cảm và trấn an. Những người bị bệnh mất trí nhớ thường cảm thấy bối rối, lo lắng và không nhớ về chính bản thân ḿnh. Hơn nữa, họ thường biết được sự bối rối của thực tế và có thể nhớ lại những điều mà không bao giờ xảy ra trước đó. Tránh thuyết phục họ rằng họ đă sai. Hăy tập trung vào những cảm giác để chứng minh (là có thật) và đáp ứng với các biểu hiện như bằng lời nói, cơ thể thoải mái và giúp đỡ, vững ḷng họ. Đôi khi việc nắm tay, đụng chạm, ôm và lời khen ngợi sẽ giúp cho người bệnh cảm thấy vui hơn.

9. Hăy nhớ những ngày trong quá khứ. Ghi nhớ những ngày trong quá khứ thường là một hoạt động nhẹ nhàng và có hiệu quả. Người bị bệnh mất trí nhớ có thể không nhớ những ǵ đă xảy ra cách đây 45 phút, nhưng họ có thể nhớ lại rơ ràng cuộc sống của họ 45 năm trước đó. Do đó, tránh đặt câu hỏi trong thời gian ngắn, chẳng hạn như họ ăn trưa cái ǵ. Thay vào đó, hăy thử đặt câu hỏi chung về những người họ biết trong quá khứ

10. Duy tŕ cảm giác hài hước của bạn. Sử dụng sự hài hước bất cứ khi nào có thể, mặc dù không phải v́ được trả chi phí. Những người bị bệnh mất trí nhớ có xu hướng giữ lại các kỹ năng xă hội của họ và thường rất vui khi cười cùng bạn.

XỬ LƯ HÀNH VI GÂY PHIỀN HÀ

Một số trong những thách thức lớn nhất cho chăm sóc người thân bị bệnh mất trí nhớ là thay đổi tính cách và hành vi thường xảy ra. Tốt nhất có thể đáp ứng những thách thức này bằng cách sử dụng tính sáng tạo, linh hoạt, kiên nhẫn và ḷng từ bi. Và cũng không để mất đi những thứ cá nhân và duy tŕ cảm giác hài hước của bạn. Để bắt đầu, hăy xem xét các nguyên tắc cơ bản sau:

Chúng ta không thể thay đổi người. Người mà bạn đang chăm sóc đă quên rằng h́nh dạng của họ trước đây. Khi bạn cố gắng kiểm soát hay thay đổi hành vi của họ, bạn rất có thể sẽ không thành công hoặc được đáp ứng với sự chống lại. Điều quan trọng là:
•Hăy cố gắng thích ứng với hành vi, không kiểm soát hành vi. Ví dụ, nếu một người khẳng định về ngủ trên sàn nhà, đặt một tấm nệm trên sàn để làm cho anh ta thoải mái hơn.

•Hăy nhớ rằng chúng ta có thể thay đổi hành vi của chúng ta hoặc môi trường về vật chất. Thay đổi hành vi của chúng ta thường sẽ dẫn đến một sự thay đổi hành vi của người bạn đang chăm sóc.



Kiểm tra với bác sĩ. Các vấn đề về hành vi có thể có một lư do y tế cơ bản: có lẽ những người trải qua đau đớn do một tác dụng phụ bất lợi từ thuốc. Trong một số trường hợp, như không kiểm soát bản thân hoặc ảo giác, có thể một số thuốc hoặc điều trị có thể giúp đỡ trong việc giải quyết vấn đề này.

Hành vi có mục đích. Những người mắc bệnh mất trí nhớ thường không thể cho chúng ta biết những ǵ họ muốn hoặc họ cần. Họ có thể làm một cái ǵ đó,như quăng tất cả những quần áo trong tủ ra ngoài mỗi ngày, và chúng ta tự hỏi tại sao. Rất có khả năng người đó đang thực hiện công việc bận rộn và phát sinh bệnh. Luôn luôn xem xét những ǵ họ cần để có thể cố gắng đáp ứng với những hành vi khi có thể, cố gắng thích ứng với chúng.

Hành vi được kích hoạt. Điều quan trọng để hiểu rằng tất cả các hành vi được kích hoạt, không nên chán nản. Bệnh có thể kích hoạt một hành vi hoặc nó có thể là một sự thay đổi trong môi trường xung quanh.Mục đích để thay đổi hành vi là phá vỡ các mô h́nh mà chúng ta tạo ra. Hăy thử một cách tiếp cận khác nhau, hoặc thử một hệ quả khác nhau.

Công việc hôm nay, không để ngày mai. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gây phiền hà và sự tiến triển tự nhiên của quá tŕnh bệnh nghĩa là giải pháp có hiệu quả có thể phải được sửa đổi vào ngày mai hoặc có thể không được thay đổi vào ngày mai. Ch́a khóa để quản lư các hành vi khó khăn trong chiến lược của bạn phải sáng tạo và linh hoạt để giải quyết một vấn đề nhất định.

Hỗ trợ từ những người khác. Không phải có một ḿnh bạn mà có rất nhiều người khác đang chăm sóc cho người bị bệnh mất trí nhớ. Gọi Cơ quan khu vực địa phương chuyên về bệnh lăo hóa, các địa phương của Hiệp hội bệnh Alzheimer, trung tâm người chăm sóc hoặc một trong các nhóm được liệt kê dưới đây để t́m các nhóm hỗ trợ, các tổ chức và dịch vụ có thể giúp bạn. Hy vọng rằng, giống như người thân yêu mà bạn đang chăm sóc, bạn sẽ có những ngày tốt và ngày tồi tệ. Phát triển các chiến lược để đối phó với những ngày tồi tệ (xem Sự thật tờ FCA, mất trí nhớ, Chăm sóc và kiểm soát thất vọng). Sau đây là cái nh́n tổng quan về các hành vi liên quan đến chứng mất trí phổ biến nhất với các đề xuất, có thể hữu ích trong việc xử lư chúng. Bạn sẽ t́m thấy nguồn bổ sung được liệt kê ở phần cuối của Tờ Thông tin này.

LANG THANG

Những người mất trí khi đi bộ dường như không có mục đích, v́ nhiều lư do chẳng hạn như sự nhàm chán, tác dụng phụ của thuốc hoặc đang t́m kiếm "cái ǵ" hoặc t́m một người nào đó. Họ cũng cố gắng hoàn thành một nhu cầu khác về vật chất, đói, cần phải sử dụng nhà vệ sinh hoặc tập thể dục. Khám phá gây nên họ đi lang thang không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng họ có thể cung cấp những hiểu biết để đối phó với hành vi.
•Dành thời gian tập thể dục mỗi ngày để giảm sự buồn chán.

•Xem xét việc cài đặt ổ khóa đ̣i hỏi phải có một ch́a khóa. Vị trí ổ khóa cao hoặc thấp trên cánh cửa, nhiều người bị bệnh mất trí nhớ sẽ không nghĩ rằng họ có thể nh́n xa hơn tầm mắt. Hăy ghi nhớ việc pḥng cháy và an toàn cho tất cả các thành viên trong gia đ́nh, các khóa phải được tiếp cận với người khác và không mất nhiều thời gian để mở.

•Hăy thử một rào cản như một màn che hoặc màn cửa màu để che cửa. Đặt dấu hiệu "dừng lại" hoặc "không được vào" cũng có thể giúp đỡ bạn.

•Đặt một tấm thảm màu đen hoặc sơn một không gian đậm trước hiên nhà, điều này có thể giúp cho người bệnh mất trí nhớ không thể đi qua.

•Đặt đồ cầm tay bằng nhựa ở cửa ra vào.

•Xem xét việc cài đặt một hệ thống an ninh trong gia đ́nh hoặc hệ thống giám sát mà có thể coi lại người bị bệnh đă làm ǵ. Cũng có sẵn các thiết bị kỹ thuật số mới có thể được đeo như một chiếc đồng hồ hoặc cắt trên một dây sử dụng hệ thống định vị toàn cầu (GPS) hoặc công nghệ khác để theo dơi nơi ở của một người hoặc xác định vị trí anh ta nếu anh ta đi lang thang ..

•Bỏ các vật dụng không cần thiết như áo của người nhầm lẫn, ví, kính. Một số đồ dung cá nhân mà bạn không sử dụng.Nên mang một chiếc ṿng tay có
ID và may nhăn ID trong quần áo của họ.

•Luôn luôn có sẵn một bức ảnh hiện tại , bạn nên báo cáo người thân yêu của bạn mất tích. Xem xét để lại một bản sao trong hồ sơ tại sở cảnh sát hoặc đăng kư t́m người với chương tŕnh Hiệp hội Alzheimer t́m người và trở lại an toàn (xem nguồn thông tin).

•Nói với hàng xóm về hành vi đi lang thang của bạn và chắc chắn rằng họ có số điện thoại của bạn.


KHÔNG THỂ KIỀM CHẾ

Việc mất kiểm soát bản thân thường xảy ra trong quá tŕnh mất trí nhớ. Đôi khi, tai nạn là kết quả của các yếu tố môi trường, ví dụ, một ai đó không thể nhớ pḥng tắm ở đâu hoặc không thể đi vệ sinh đúng thời gian. Nếu xảy ra t́nh trạng như thế, sự hiểu biết và sự bảo đảm của bạn sẽ giúp người bệnh bảo vệ nhân phẩm và giảm thiểu bối rối.
•Thiết lập một thói quen sử dụng nhà vệ sinh. Hăy nhắc nhở người bệnh hoặc giúp họ vào pḥng tắm cách hai giờ một lần.

•Lịch tŕnh hấp thụ chất lỏng để đảm bảo người bệnh tỉnh táo và không bị mất nước. Tuy nhiên, tránh các thức uống có tác dụng lợi tiểu như trà, cà phê, cola, bia. Giới hạn uống nước vào buổi tối trước khi đi ngủ.

•Sử dụng các dấu hiệu (với h́nh minh họa) để chỉ vào cánh cửa dẫn vào pḥng tắm.

•Một tủ có ngăn, mua ở bất k cửa hàng cung cấp thiết bị y khoa, để trong pḥng ngủ vào ban đêm và có thể lấy dễ dàng.

•Tấm đệm lót và các sản phẩm có thể được mua tại các hiệu thuốc hoặc siêu thị. Một bác sĩ tiết niệu có thể quy định một sản phẩm đặc biệt hoặc điều trị.

•Sử dụng quần áo dễ dàng cởi bỏ có thắt lưng đàn hồi và những quần áo có thể dễ dàng giặt phơi


SỰ KÍCH ĐỘNG

Kích động đề cập đến một loạt những hành vi liên quan đến chứng mất trí, bao gồm khó chịu, mất ngủ, và cử chỉ hung dữ trong lời nói. Thường th́ sự tiến triển hành vi của bệnh theo từng giai đoạn, từ nhẹ đến nghiêm trọng. Kích động có thể được kích hoạt bởi nhiều thứ, bao gồm cả môi trường, các yếu tố sợ hăi và mệt mỏi. Thông thường, kích động được kích hoạt khi một người có kinh nghiệm "điều khiển" được lấy từ anh ta.
•Giảm tiêu thụ caffeine, đường và đồ ăn vặt.

•Giảm tiếng ồn, sự huyên náo hay số người trong pḥng.

•Duy tŕ cấu trúc bằng cách giữ các thói quen tương tự như hằng ngày. Giữ các đối tượng hộ gia đ́nh và đồ nội thất ở những nơi tương tự. Đối tượng quen thuộc và h́nh ảnh cung cấp một cảm giác an toàn và có thể gợi lên những kỷ niệm vui vẻ.

•Hăy thử cảm ứng nhẹ nhàng, nghe nhạc êm dịu, đọc sách hoặc đi bộ để ngưng kích động.

•Nói chuyện bằng một giọng trấn an. Đừng giam cầm người bệnh trong khoảng thời gian kích động.

•Giữ các đối tượng nguy hiểm ngoài tầm với.

•Cho phép người bệnh làm cho ḿnh có thể hỗ trợ được tính độc lập và khả năng để tự chăm sóc cho bản thân.

•Chấp nhận sự tức giận của người mất kiểm soát trong cuộc sống của ḿnh. Hăy cho anh ấy hiểu sự thất vọng của ḿnh.

•Đánh lạc hướng người đó với một bữa ăn nhẹ hoặc một hoạt động. Cho phép anh ta quên đi những sự cố gây phiền hà. Đối mặt với một người rối trí có thể làm tăng lo lắng.



LẶP ĐI LẶP LẠI LỜI NÓI HOẶC HÀNH ĐỘNG

Những người bị bệnh mất trí thường có thói quen lặp đi lặp lại một từ, báo cáo, câu hỏi hoặc hoạt động không ngừng. Trong khi những hành vi này thường không có hại đối với người bị bệnh mất trí nhớ, nhưng nó có thể gây phiền nhiễu và căng thẳng cho những người chăm sóc. Đôi khi hành vi được kích hoạt bởi sự lo lắng, sợ hăi, chán nản hoặc các yếu tố môi trường.
•Cung cấp nhiều sự bảo đảm và thoải mái, cả trong lời nói và liên lạc.

•Hăy thử mất tập trung với một bữa ăn nhẹ hoặc hoạt động.

•Tránh nhắc nhở họ rằng họ chỉ hỏi những câu hỏi tương tự. Hăy thử bỏ qua các hành vi hoặc câu hỏi và đánh lạc hướng người bệnh vào một hoạt động nào đó.

•Không thảo luận kế hoạch với một người không c̣n tỉnh táo cho đến khi sự kiện xảy ra.

•Bạn có thể thử đặt một dấu hiệu trên bàn nhà bếp, chẳng hạn như, "Ăn tối vào lúc 6:30" hoặc "Lois đến nhà vào lúc 05:00" để loại bỏ sự lo lắng và không chắc chắn về những sự kiện đă dự kiến.

•T́m hiểu để nhận ra một số hành vi nhất định. Một trạng thái bị kích động hoặc kéo quần áo, ví dụ có thể chỉ họ cách sử dụng pḥng tắm.



HOANG TƯỞNG

Nh́n thấy một người thân đột nhiên trở nên nghi ngờ, ghen tuông hay buộc tội th́ điều này đáng lo ngại. Hăy nhớ rằng, những ǵ đang trải qua với họ th́ rất thực tế. Tốt nhất là không nên tranh luận hay không đồng ư. Điều này cũng là một phần của bệnh mất trí, cố gắng không lấy nó cho cá nhân của ḿnh.
•Nếu người nhầm lẫn nghi ngờ tiền bạc bị"mất ", đưa cho người đó một ít tiền trong túi để giữ hoặc túi xách tay để kiểm tra dễ dàng.

•Giúp họ t́m kiếm các đối tượng và sau đó đánh lạc hướng chúng vào những hoạt động khác. Cố gắng t́m kiếm nơi cất giấu những món yêu thích của họ cho những người chăm sóc, để tránh bị mất hoặc xảy ra tranh căi.

•Hăy dành thời gian để giải thích cho các thành viên trong gia đ́nh hoặc người giúp đỡ, báo cáo những nghi ngờ cũng là một phần của bệnh mất trí nhớ.

•Dùng tín hiệu không lời mà biểu hiện nhẹ nhàng hoặc ôm. Ứng phó với cảm giác đằng sau lời buộc tội và sau đó trấn an người bệnh. Bạn có thể thử nói rằng, "Tôi thấy điều này đang đe dọa bạn, ở lại với tôi, tôi sẽ không để cho bất cứ điều ǵ xảy ra với bạn."



MẤT NGỦ

Bồn chồn, kích động, mất phương hướng và hành vi gây phiền hà ở những người bị mất trí nhớ thường trở nên tồi tệ hơn vào cuối ngày và đôi khi tiếp tục suốt đêm. Các chuyên gia tin rằng hành vi này thường được gọi là sundowning, được gây ra bởi sự kết hợp của các yếu tố, chẳng hạn như kiệt sức từ những biến cố trong ngày và những thay đổi trong đồng hồ sinh học của người nhầm lẫn giữa ngày và đêm.
•Tăng cường hoạt động vào ban ngày, đặc biệt là tập thể dục. Không nên hoạt động và ngủ trưa vào ban ngày.

•Kiểm tra chế độ ăn kiêng, chẳng hạn như cà phê, đường và một số loại đồ ăn vặt. Loại bỏ hoặc hạn chế các loại thực phẩm và nước giải khác trong ngày. Kế hoạch cho bữa ăn nhỏ, bao gồm một bữa ăn nhẹ, chẳng hạn như bánh sandwich trước khi đi ngủ.

•Kế hoạch cho giờ buổi chiều và buổi tối nên được yên tĩnh, tuy nhiên, cấu trúc, hoạt động yên tĩnh là rất quan trọng. Có thể đi dạo ngoài trời, chơi một tṛ chơi thẻ đơn giản hoặc nghe nhạc nhẹ nhàng cùng nhau.

•Bật đèn sáng trước khi mặt trời lặn và đóng màn cửa vào lúc hoàng hôn sẽ giảm thiểu bóng và có thể giúp giảm bớt sự nhầm lẫn. Ở mức tối thiểu, một đèn ngủ ở hành lang, pḥng khách và pḥng tắm cho người bệnh.

•Hăy chắc chắn rằng nhà ở th́ an toàn: chặn cửa cầu thang , khóa cửa nhà bếp hoặc cất những vật dụng nguy hiểm.

•Một phương pháp cuối cùng, nói chuyện với bác sĩ về những loại thuốc để giúp người bệnh bị kích động thư giăn và ngủ. Hăy nhận biết rằng thuốc ngủ và thuốc an thần có thể giải quyết một vấn đề và tạo ra khác nhau, chẳng hạn như ngủ vào ban đêm, nhưng dễ bị nhầm lẫn hơn vào ngày hôm sau.

•Điều cần thiết là người chăm sóc phải ngủ đủ giấc. Nếu người bệnh hay hoạt động vào ban đêm làm bạn không thể ngủ. Yêu cầu một người bạn, người thân, hoặc thuê một ai đó lần lượt chăm sóc để bạn có được một giấc ngủ ngon. Chợp mắt chút xíu trong ngày cũng có thể giúp đỡ bạn.

florida80
05-16-2019, 18:40
DINH DƯỠNG

Đảm bảo người bệnh mất trí nhớ ăn đầy đủ chất dinh dưỡng và uống đủ nước cũng là một thách thức. Những người bị bệnh mất trí nhớ theo nghĩa đen họ bắt đầu quên rằng họ cần phải ăn và uống ǵ. Nguyên nhân có thể do vấn đề về răng hoặc thuốc làm giảm sự thèm ăn hoặc cảm thấy hương vị thức ăn không ngon. Hậu quả ăn ít dinh dưỡng bao gồm giảm cân, khó chịu, mất ngủ, bàng quang hoặc các vấn đề về ruột và mất phương hướng.
•Làm bữa ăn chính và bữa ăn nhẹ theo một thời gian nhất định như một thói quen hằng ngày và lên lịch cùng một khoảng thời gian mỗi ngày. Thay v́ ăn ba bữa lớn,chia ra năm hoặc sáu nhỏ hơn.

•Làm bữa ăn như một thời gian đặc biệt. Hăy thử trang trí hoa hoặc nhạc nhẹ. Tắt các chương tŕnh phát thanh và truyền h́nh lớn.

•Ăn độc lập được ưu tiên hơn ăn một cách gọn gàng, với cách cư xử "thích hợp". Ngón tay hỗ trợ để lấy thức ăn. Cắt sẵn thức ăn. Hăy thử sử dụng ống hút hoặc ly nước trẻ em, nếu cầm một ly nước đă trở nên khó khăn với họ. Cung cấp hỗ trợ khi cần thiết và dành nhiều thời gian cho những bữa ăn.

•Hăy ngồi xuống và ăn cùng với người thân của bạn. Thường th́ họ sẽ bắt chước hành động của chúng ta và làm cho bữa ăn dễ chịu hơn như chia sẻ với ai đó.

•Chuẩn bị thức ăn cho người thân của bạn trong tâm trí. Nếu họ có răng giả hoặc khó khăn khi nhai hoặc nuốt, sử dụng thức ăn mềm hoặc cắt thức ăn thành từng miếng nhỏ.

•Nếu nhai và nuốt có vấn đề, cố gắng nhẹ nhàng di chuyển cằm của người đó trong một chuyển động nhai hoặc nhẹ nhàng vuốt nhẹ cổ họng của họ để khuyến khích họ nuốt.

•Nếu về vấn đề sụt cân, cung cấp dinh dưỡng có hàm lượng calo cao giữa các bữa ăn. Ăn sáng trong các loại thực phẩm có carbohydrate cao. Mặt khác, nếu tăng cân, giữ cho thực phẩm có hàm lượng calo cao ra khỏi tầm nh́n. Thay vào đó, giữ cho trái cây tươi ,khay rau và hàm lượng calo thấp trong đồ ăn nhẹ.



TẮM

Những người bị bệnh mất trí nhớ thường gặp khó khăn trong việc vệ sinh "sạch sẽ", chẳng hạn như đánh răng, đi vệ sinh, tắm và thường xuyên thay đổi quần áo. Từ thời thơ ấu, chúng ta đă được dạy vệ sinh cá nhân và các hoạt động cá nhân như thay quần áo và như thế làm sạch bởi một người khác có thể cảm thấy sợ, nhục nhă và đáng xấu hổ. Kết quả là, tắm thường gây ra khó khăn cho cả hai người chăm sóc và những người thân của họ.
•Hăy biết rơ những thói quen vệ sinh cá nhân của bệnh nhân- họ thích tắm bồn hay ṿi sen? Buổi sáng hay đêm? Cô ấy có muốn gội đầu ở tiệm không hay thích tự gội cho ḿnh? Có thích nước hoa không, kem dưỡng da hoặc có thích thoa phấn không? Biết càng nhiều về thói quen tắm của người bệnh có thể cung cấp một số sự thoải mái cho bạn. Không cần thiết tắm mỗi ngày, đôi khi hai lần một tuần là đủ.

•Nếu người thân của bạn luôn khiêm tốn, tăng cường cảm giác đó bằng cách làm một cánh cửa chắn và rèm cửa để đóng lại. Cho dù tắm ṿi sen hoặc bồn tắm, giữ một chiếc khăn trước mặt người bệnh, đưa lên rửa khi cần thiết. Chuẩn bị khăn tắm và áo choàng hoặc quần áo sẵn trước khi người bệnh đi ra ngoài.

•Quan tâm đến môi trường, chẳng hạn như nhiệt độ trong pḥng và nước (người lớn tuổi nhạy cảm với nóng và lạnh) và đầy đủ ánh sáng. Đó là một ư tưởng tốt để sử dụng các tính năng an toàn như sàn nhà tắm không trơn trượt, thanh vịn để tắm hoặc ghế tắm. Thiết lập một ṿi sen có tay cầm cũng có thể là một tính năng tốt. Người bệnh thường sợ té ngă, giúp họ cảm thấy an toàn trong khi tắm bằng ṿi sen hoặc bồn tắm.

•Phải giám sát người mất trí trong khi tắm. Những điều cần thiết trước khi tắm bạn cần đặt ra trước. Nếu đưa nước vào bồn, chú ư nhiệt độ nước đầu tiên. Trấn an người bệnh rằng nước th́ ấm, có thể đổ một cốc nước trên bàn tay họ trước khi bước vào tắm.

•Nếu gội đầu khó khăn với người chăm sóc, giữ nó như một hoạt động riêng biệt. Hoặc, sử dụng một loại dầu gội khô.

•Nếu tắm trong bồn tắm hay ṿi sen liên tục bị chấn thương, thay thế vào đó là một khăn tắm. Một giường tắm có thể được thiết lập với các bệnh nhân quá yếu và nằm liệt giường, bỏ một ít xà bông lên giường, rửa bằng bồn rửa mặt và lau khô bằng khăn. Số lượng y tá trong và ngoài ngày càng tăng, bắt đầu nhận ra giá trị của nó và thay đổi- "khăn tắm" với những người khác, kể cả những người bị bệnh mất trí nhớ tắm trong bồn hoặc tắm ṿi sen không thoải mái hoặc khó chịu. Bồn tắm sử dụng một chiếc khăn tắm và khăn lau mặt lớn làm nản trong một túi nhựa của nước ấm và xà pḥng không rửa. Bồn tắm lớn-chăn được sử dụng để giữ cho bệnh nhân được an toàn, khô và ấm áp trong khi làm nản khăn và khăn lau mặt được mát xa trên cơ thể. Để biết thêm thông tin, xem các Tắm cuốn sách Nếu không có trận một, (chi tiết trong phần Đọc khuyến nghị dưới đây), hoặc truy cập www.bathingwithoutab attle.unc.edu/.



Vấn đề khu vực bổ sung

Cách ăn mặc hầu hết là khó khăn nhất cho các bệnh nhân mất trí nhớ. Chọn đồ rộng, quần áo thoải mái với dây kéo dễ dàng và ít cài nút. Giảm sự lựa chọn không nên đem những loại bỏ quần áo hiếm từ trong tủ ra. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc mặc quần áo và hỗ trợ độc lập, đặt ra một bài viết của quần áo tại một thời điểm, theo thứ tự đó để được đeo. Đem bỏ quần áo bẩn ra khỏi pḥng. Đừng tranh luận nếu người bệnh khăng khăng mặc giống nhau
•Ảo giác (nh́n thấy hoặc nghe những điều mà những người khác không nghe) và ảo tưởng (niềm tin sai lầm, chẳng hạn như ai đó đang cố gắng làm tổn thương hoặc giết người ) có thể gây ra chứng mất trí. Nhà nước chỉ đơn giản và b́nh tĩnh nhận thức t́nh h́nh của bạn, nhưng tránh tranh luận hoặc cố gắng thuyết phục người nhận thức họ th́ sai. Giữ pḥng đủ ánh sáng để giảm bóng tối, và bảo đảm cung cấp và đơn giản di chuyển màn cửa để lưu thông không khí hoặc một tiếng ồn lớn, chẳng hạn như máy bay hoặc có thể nghe tiếng c̣i, phiền nhiễu. Tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của triệu chứng, bạn có thể xem xét để dùng thuốc.

•Hành vi t́nh dục không phù hợp, chẳng hạn như thủ dâm hoặc cởi quần áo ở những nơi công cộng, dâm dục, nhu cầu t́nh dục không hợp lư, thậm chí quan hệ t́nh dục tích cực hay bạo lực hành vi, có thể xảy ra trong quá tŕnh của bệnh. Hăy nhớ rằng, hành vi này gây ra bởi căn bệnh này. Nói chuyện với bác sĩ về kế hoạch điều trị nếu t́nh trạng này có thể xảy ra. Lập một kế hoạch hành động để làm theo trước khi hành vi xảy ra, tức là, những ǵ bạn sẽ nói và làm nếu hành vi xảy ra ở nhà, xung quanh người lớn hoặc trẻ em khác. Nếu bạn có thể xác định những ǵ gây ra hành vi. Đối với lời nói như nguyền rủa, tranh căi và đe dọa thường là những biểu hiện của sự tức giận hoặc căng thẳng. Phản ứng bằng cách giữ b́nh tĩnh và trấn an. Động viên người thân của bạn và sau đó cố gắng đánh lạc hướng hoặc chuyển hướng sự chú ư của ḿnh đến một cái ǵ đó khác.

•"Ảo ảnh" là khi người bị bệnh mất trí nhớ bắt chước và sau người chăm sóc, hoặc liên tục các cuộc đàm phán, yêu cầu câu hỏi và ngắt. Giống như về giấc ngủ, hành vi này thường xảy ra vào cuối ngày và có thể gây khó chịu cho những người chăm sóc. An ủi người bệnh bằng lời nói và thể chất. Mất tập trung hoặc chuyển hướng cũng có thể giúp đỡ. Cho người thân của bạn một công việc như xếp quần áo có thể giúp cho cô ấy cảm thấy cần thiết và hữu ích. Những người bị bệnh mất trí nhớ có thể bất hợp tác và chống lại với các hoạt động hàng ngày như tắm rửa, mặc quần áo và ăn uống. Thường th́ điều này là một phản ứng cảm giác không thể kiểm soát, vội vàng, sợ hăi hay bối rối bởi những ǵ bạn đang yêu cầu họ. Phá vỡ mỗi nhiệm vụ thành từng bước và bằng một giọng an ủi, giải thích từng bước trước khi bạn làm điều ǵ. Dành nhiều thời gian, t́m cách để hỗ trợ khả năng của họ trong quá tŕnh này, hoặc làm theo với một hoạt động mà họ có thể thực hiện.

florida80
05-16-2019, 18:41
CHĂM SÓC SAU KHI ĐIỀU TRỊ BONG GÂN MẮT CÁ CHÂN
(CARE AFTER TREATMENT SPRAINED ANKLE)
Lynn Ly Phỏng Dịch theo thông tin Đại Học Y OHIO-Hoa Kỳ


Sau đây là hướng dẫn tự chăm sóc và luyện tập khi bạn đă được điều trị bong gân mắt cá chân . Mắt cá chân là khớp ở nơi cuối xương cẳng chân tiếp giáp với xương bàn chân. Những xương này được giữ ở đúng vị trí bởi các sợi dây chằng (ligaments) và được vận động bởi các cơ . Bong gân xảy ra khi có 1 di động bất thường khiến mắt cá chân bị kéo giăn ra, hoặc làm tét rách dây chằng. Điều trị thích hợp, theo dơi chăm sóc và phục hồi chức năng là việc cần thiết để mắt cá chân của bạn trở lại mức khỏe mạnh như b́nh thường, trở lại khả năng hoạt động trước khi bị chấn thương và trở lại lối sống trước kia.

ĐIỀU TRỊ (TREATMENT)

Nâng cao chân bạn lên và chườm nước đá ở mắt cá chân càng nhiều càng tốt cho đến khi chỗ bị sưng giảm sưng. Chườm nước đá khoảng 15-20 phút rồi nghỉ ít nhất là 40. phút. Trườm nước đá khoảng 4-5 lần một ngày để giúp giảm thiểu vết sưng đau .


BẢO VỆ SỰ CỐ ĐỊNH (PROTECTIVE IMMOBILIZATION)
•Mắt cá chân của bạn có thể được bao quấn lại với lớp băng gọi là "Cast Padding" cùng với / hoặc chỉ có loại băng gọi là "ace bandage" . Loại băng bao quấn này được sử dụng giúp giảm thiểu vết sưng và bảo vệ mắt cá chân bạn không cho bị chấn thương thêm nữa.


•Bắt đầu từ các ngón chân và quấn băng ace liên tục về phía đầu gối của bạn. Hăy bảo đảm là tất cả các khu vực của bàn chân và mắt cá chân của bạn được bảo phủ bởi băng ace để pḥng ngừa bất kỳ phần nào của bàn chân của bạn sưng. Sử dụng băng quấn ace cho đến khi không c̣n bị sưng nữa .


•Bạn có thể chêm kèm được một thiết bị, chẳng hạn như "Air-stirrup Ankle Brace", để giúp sự hỗ trợ và bảo vệ mắt cá chân của bạn. Hăy bảo đảm là bạn thực hiện theo các hướng dẫn về bảo quản chăm sóc của thiết bị.




UserPostedImage
"Air-stirrup Ankle Brace


BẢO VỆ ĐỘNG TÁC BƯỚC ĐI (PROTECTIVE WALKING)
•Sử dụng những thanh nạng, ǵn giữ không để trọng lượng thân thể đè xuống mắt cá chân của bạn cho đến khi vận động của mắt cá chân bạn trở lại gần với mức b́nh thường và bạn có thể đi bộ thoải mái. Nhất định là phải dùng loại nạng đi bộ (crutch walking) cho việc vận dụng từng động tác bước chân đi với cái chân bị thương. Tiếp tục sử dụng nạng cho đến khi bước chân đi không c̣n gây đau đớn. (Tham khảo bài Lynn Ly phỏng dịch "Bước Đi với chiếc nạng")



PHỤC HỒI CHỨC NĂNG (REHABILITATION)

PHẠM VI VẬN ĐỘNG ( RANGE OF MOTION )

Bắt đầu tập luyện vận động trong phạm vi giới hạn ngay sau khi bạn được điều trị chấn thương. Hăy sử dụng cảm giác đau như lời hướng dẫn cho việc thực hiện từng động tác. Bạn có thể có một số cơn đau nhức nhối trong khi luyện tập, nhưng nếu bạn có cảm giác đau nhiều hơn là đau nhẹ nhẹ hay sự khó chịu chút chút th́ phải ngừng việc luyện tập. Phải luôn luôn chườm nước đá ở mắt cá chân của bạn sau mỗi lần luyện tập. Phải luyện tập khoảng 3-4 lần một ngày.

•Di chuyển bàn chân của bạn lên và xuống như thể bạn nhấc lên và đạp xuống bàn đạp gas, bàn đạp thắng trong xe hơi. Lặp lại bài tập này
1-2 phút.

UserPostedImage


•Ngồi duỗi thẳng chân ra. Dùng một chiếc khăn / mảnh vải dài ṿng qua bàn chân của bạn và kéo trở lên hướng về đầu gối (xem h́nh). Kéo với sức từ nhẹ nhẹ đến trung b́nh, nhưng không được làm đau, sau đó thả lỏng áp lực kéo. Giữ tư thế kéo như vậy trong ṿng 20-25 giây (20 tiếng đếm số từ 1-20), rồi thả lỏng , lập lại kiểu luyện tập này 3 lần một ngày.

UserPostedImage


•Chỉ sử dụng mắt cá chân và bàn chân để viết các mẫu tự trong bảng chữ cái (alphabet). Viết các chữ cái 1 lần, rồi nghỉ .

UserPostedImage


•Trải 1 tấm khăn tay trên sàn, trên mặt đất trước mặt bạn. Ngồi trên một chiếc ghế với bàn chân phẳng đặt trên tấm khăn tay. Co từ từ các ngón chân bạn để tóm lấy chiếc khăn dưới ḷng bàn chân của bạn. Không di chuyển gót chân của bạn trong lúc luyện tập phương cáchg thể dục này. Tăng dần lên đến mười lần cho mỗi phiên tập .

UserPostedImage



THEO DƠI T̀NH TRẠNG SỨC KHỎE (FOLLOW-UP)

Phone gọi bác sĩ, chuyên gia chỉnh h́nh và y học thể thao để có những cuộc hẹn đánh giá sức khỏe mắt cá chân của bạn trong 7-10 ngày. Hăy bảo đảm bạn được theo dơi chăm sóc và đảm bảo được điều trị đầy đủ để phục hồi chức năng trước khi trở lại những sinh hoạt b́nh thường vất vả hằng ngày .

Lynn Ly (18/08/2012)

florida80
05-17-2019, 17:30
16-May-2019

Current vaccination policies may not be enough to prevent measles resurgence


BioMed Central


    Share

 Print  E-Mail


Current vaccination policies may not be sufficient to achieve and maintain measles elimination and prevent future resurgence in Australia, Ireland, Italy, the UK and the US, according to a study published in the open access journal BMC Medicine.

To successfully achieve and maintain measles elimination in these countries in the medium to long term, further country-specific immunisation efforts may be needed in addition to current strategies. Measles elimination has been defined as the absence of endemic measles transmission in a region or other defined geographic area for twelve months or longer.

A team of researchers at the Bruno Kessler Foundation and Bocconi University, Italy used a computer model to simulate the evolution of measles immunity between 2018 and 2050 in seven countries; Australia, Ireland, Italy, Singapore, South Korea, the UK and the US. The authors focused their analysis on countries with a routine two-dose measles vaccination programme and a high primary school involvement rate, but with different demographics and vaccination histories. The aim was to evaluate the effect of possible adjustments to existing immunisation strategies, and to estimate the proportion of people who may remain susceptible to measles in high-income countries over time.

The authors' projections up until 2050 suggest that if current vaccination policies remain unchanged, the proportion of the population susceptible to measles would only remain below 7.5% in Singapore and South Korea, two countries which had high vaccination coverage in the past. Previous research estimated that the proportion of the population that does not have immunity (maximum susceptibility) needs to be 7.5% or less for measles to be eliminated.

In 2018, the proportion of the population susceptible to measles infection in the countries under study ranged from 3.7% in the UK to 9.3% in Italy (the only country where the proportion was found to be higher than 7.5%). In Australia, Ireland, the UK and the US, vaccination from routine programmes would need to continuously cover more than 95% of the population to keep the proportion of susceptible individuals below 7.5% until 2050.

Dr. Filippo Trentini, the first author said: "In recent years, we've witnessed a resurgence of measles cases even in countries where, according to World Health Organisation guidelines, elimination should already have been achieved. This resurgence is due to suboptimal vaccination coverage levels. In Italy, where measles incidents rates were among the highest, the government has made measles vaccination compulsory for children before they enter primary school. We investigated the potential of this and other policies to reinforce immunisation rates in seven high-income countries."

Co-author Dr. Stefano Merler added: "Our results suggest that most of the countries we have studied would strongly benefit from the introduction of compulsory vaccination at school entry in addition to current immunisation programmes. In particular, we found that this strategy would allow the UK, Ireland and the US to reach stable herd immunity levels in the next decades, which means that a sufficiently high proportion of individuals are immune to the disease to avoid future outbreaks. To be effective, mandatory vaccination at school entry would need to cover more than 40% of the population."

In Italy, the fraction of susceptible individuals by 2050 is projected to be 10%, even if coverage for routine vaccination reaches 100%, and additional vaccination strategies targeting both children at school entry and adults may be needed to achieve elimination.

florida80
05-17-2019, 17:31
Scientists capture first-ever video of body's safety test for t-cells


University of Texas at Austin


    Share

 Print  E-Mail






















Volume 90%






































































































































VIDEO: For the first time ever, UT Austin researchers captured the process in which developing killer T-cells (purple and white) are tested by dendritic cells (yellow), and others, to see if... view more 

Credit: University of Texas at Austin


For the first time, immunologists from The University of Texas at Austin have captured on video what happens when T-cells - the contract killers of the immune system, responsible for wiping out bacteria and viruses - undergo a type of assassin-training program before they get unleashed in the body. A new imaging technique that allowed for the videos, described today in the journal Nature Communications, holds promise for the fight against autoimmune disorders such as Type 1 diabetes.

One of the human body's most potent weapons against many diseases is the T-cell, but in people with autoimmune disorders, T-cells also wreak havoc by mistaking normal cells for invaders and attacking healthy parts of the body.

"T-cells have the daunting task of recognizing and fighting off all of the diverse pathogens that we encounter throughout our lives, while avoiding attacking our own healthy tissue," said associate professor Lauren Ehrlich, one of the authors of the study. "These cells mature in the thymus, an organ just above the heart, where they 'get educated' to not attack the body."

Ehrlich and postdoctoral researcher Jessica Lancaster captured video of this educational process in a mouse thymus. Using a pair of powerful lasers that fire in short pulses and scan through a slice of live tissue every 15 seconds to reconstruct the positions, movements and intracellular signaling of cells, they observed that as T-cells develop, other cells in the thymus help them to encounter all sorts of ordinary human proteins that, later on, the T-cells will need to ignore in order to avoid attacking other parts of the body. The researchers learned more about how different types of cells work together in the thymus to perform the safety tests and, in the event a T-cell fails, trigger it to self-destruct.

Ehrlich says studying T-cells with this new imaging technique holds promise for improvements for human health that will depend on a better understanding of what's happening in the thymus. For example, patients who received bone-marrow transplants endure weeks or months with suppressed immune systems and a higher risk for developing autoimmune disorders, and people with Type 1 diabetes have T-cells that often attack the cells in the pancreas that produce insulin.

###

This work was supported by the National Institute of Allergy and Infectious Diseases and the Cancer Prevention and Research Institute of Texas; Ehrlich is a CPRIT scholar

florida80
05-17-2019, 17:32
News Release 17-May-2019

Tobacco and e-cig promotions spark teens' use of nicotine products, Stanford study finds


Stanford Medicine


    Share

 Print  E-Mail


Owning items that promote e-cigarettes and other alternative tobacco products doubles the likelihood that a young person will try these products, a new study led by the Stanford University School of Medicine has found. The finding illustrates the influence of such marketing on teenagers.

The study, which will be published online May 17 in JAMA Network Open, followed 757 California teens for a year. At the beginning of the year, participants had never used alternative tobacco products, including e-cigarettes, chewing tobacco, cigars, cigarillos, pipes and hookahs.

But some participants owned marketing materials for these products, such as coupons, samples and branded hats or T-shirts.

"We wanted to see how owning promotional materials would affect young people's use later on," said the study's lead author, Hoda Magid, PhD, a postdoctoral scholar in health research and policy. Among teens, cigarette smoking rates have dropped in recent decades, but their use of e-cigarettes and other tobacco products has risen sharply. "The increase in use of alternative tobacco products poses a threat to the decades of hard work that public health experts have done to reduce tobacco use," Magid said.

"We need to know trajectories of use of alternative tobacco products," said the study's senior author, Bonnie Halpern-Felsher, PhD, professor of pediatrics. Understanding when and why youth start using such products is important for stemming the tide of addiction to them, she said.

Restrictions on conventional smokes

While marketing to minors and providing samples is illegal for all tobacco products, providing coupons and branded promotional items such as T-shirts and hats is not illegal for most alternative tobacco products, except smokeless tobacco. Enforcement of all policies is lacking, Halpern-Felsher said.

"The problem is that the FDA has been very slow to enact new or enforce existing laws and regulations for e-cigarettes," Halpern-Felsher said. "Right now, the FDA is not going after manufacturers who have not put in an application to market e-cigarettes." The Family Smoking Prevention and Tobacco Control Act requires all tobacco companies to submit premarket applications to FDA and receive agency authorization before putting a product on the market, but the compliance dates have been extended to 2021 or 2022, depending on the product. This means thousands of e-cigarettes and other alternative tobacco products are being marketed without any FDA review.

When the study began, participants were 13 to 19 years old and attended California high schools. They completed questionnaires asking whether they had ever used traditional cigarettes or any alternative tobacco products, and whether they or their friends owned promotional items -- such as coupons, free samples, T-shirts, posters and hats -- for any type of nicotine product. The researchers asked similar questions about the use of cigarettes and alternative tobacco products a year later and analyzed changes in the teens' use of e-cigarettes and other tobacco products as a function of owning or receiving promotional materials.

At the start of the study, 81 of the 757 participants owned items that promoted tobacco products, including 52 who owned promotional items for e-cigarettes. Over the course of the study, 129 participants, or 17 percent, began using alternative tobacco products but not traditional cigarettes. Twelve participants began using traditional cigarettes alone or in combination with alternative tobacco products. Before adjusting for confounding factors, teens who owned promotional items were found to be 2.23 times as likely to try alternative tobacco products as those who did not own such items. After adjusting for age, gender, race/ethnicity, maternal education level and baseline alcohol and cigarette use, the teens who owned promotional materials were 2.13 times as likely as their peers to begin using alternative tobacco products. When teens who had tried both alternative tobacco products and cigarettes during the year were included in the analysis, the influence of owning promotional materials did not reach statistical significance.

The findings provide evidence that ownership of marketing materials is strongly associated with more young people using e-cigarettes and other alternative tobacco products, the researchers said. The findings clearly show that no tobacco company, including any e-cigarette company, should be allowed to provide coupons, free samples or other marketing materials to teens, and suggest that the FDA should further restrict and enforce such marketing techniques, Halpern-Felsher said.

"Manufacturers say they're not marketing to teens, but teens are reporting owning these promotional items, and they're reporting use of alternative tobacco products," Magid said. Current restrictions and laws that make marketing cigarettes and other tobacco products to minors should be enforced for all nicotine-containing products, she added.

###

florida80
05-17-2019, 17:33
News Release 17-May-2019

For many HIV+ women, daily survival takes precedence over viral suppression


Georgetown University Medical Center


    Share

 Print  E-Mail


WASHINGTON -- According to scientists who study women infected with HIV, statistics often paint an impressionist view of the lives of these women that misses the granular detail that tells the real story. The imprecise big picture is that most of this population is doing a good job at suppressing the virus, but facts gathered on the ground show that many struggle with issues of daily living that can make taking a pill to keep HIV at bay difficult.

In JAMA Network Open, researchers say that while a majority of the 1,989 HIV+ women they have been studying since 1994 have been able to control their virus -- often on and off -- challenges such as mental health, unstable housing, and lack of social support constitute ongoing barriers to effective and sustained viral suppression.

"Survival is a priority over putting a pill in your mouth for a number of our participants, and that is the public health challenge we must address," says the study's first author Seble G. Kassaye, MD, MS, associate professor of medicine at Georgetown University Medical Center.

"The truth of their lives is a lot less rosy than a few lines of statistics in a summary report can reveal," she adds.

Kassaye, an infectious diseases clinician and epidemiology expert, is the principal investigator of the Washington Metropolitan site of the NIH-funded longitudinal cohort, the Women's Interagency HIV study (WIHS), which has tracked many of the participants since it first opened in 1994. Four other WIHS sites (two in New York, Chicago and San Francisco) sites contributed data to this work.

WIHS was launched because of the recognition that HIV is almost as common in women as in men, in some populations, and that the biology and route of infection can differ. For example, in Washington DC, 1.9 percent of African American women are HIV+, compared to 4.4 percent of African American men. And 30 percent of HIV+ women who have been studied have no explanation as to how they became infected -- "It was likely from heterosexual sex, perhaps with a man who may not have been aware of his status or did not disclose infection," Kassaye says. "About a quarter of the women acquired HIV infection related to injection drug use, but that has become an increasingly less common cause of HIV transmission in the current era."

In this study, the researchers took a longitudinal look at how well each participant kept their virus in check, and if they had trouble doing so, why? Each person was interviewed and had a blood draw every six months to establish viral levels. Specific levels indicated the virus was well controlled, or uncontrolled -- a condition called viremia.

The researchers found that over 23 years of viral levels, 3 patterns or 'trajectories' were present: 29 percent were at a low probability for viremia, 39 percent were at intermediate probability, and 32 percent were at high probability. These superseded the usual cross-sectional or short term analyses that are often provided to capture viremia outcomes at the population level. More recently between 2015-2017, 71 percent of women achieved sustained viral suppression, including 35 percent of the high probability of viremia group.

"So, the rosy picture is that 71 percent of the women achieved viral suppression, but the granular detail tells us that some women are doing very well with 89.6 percent of the women in the low probability of viremia consistently suppressed in the recent years, but others are still struggling to get to viral suppression," says Kassaye.

"Despite this struggle, I believe these women continue to resource their personal resiliencies to take their HIV medications as prescribed," adds the study's senior author, Michael Plankey, PhD, clinical infectious disease epidemiologist and professor of medicine at Georgetown University Medical Center.

While today's HIV treatment is much less toxic than it used to be, and drug therapy is now suggested for anyone who is infected -- and are therefore in much greater use -- the barriers to daily therapy are real, she says. The researchers found that women in the high viremia group were more likely to report depressive symptoms (54 percent), have higher levels of current illicit drug (41 percent) and alcohol use (14 percent), be less likely to have stable housing (66 percent) and were more likely to die prematurely (39 percent).

"Just in DC, we see that the public health issues and stigma surrounding HIV remain endemic. My colleagues have treated generations of HIV+ women: grandmothers, their daughters, and their granddaughters. I have seen women with HIV who do not have any support, but if that person develops cancer, there will be a roomful of people coming to the clinic with her," Kassaye says.

An answer to reaching universal treatment and viral suppression will require "wrap-around" services that can effectively address social and mental health issues," she says.

###

florida80
05-17-2019, 17:34
Cancer drug could be repurposed to provide treatment for brain aneurysms

Research uncovers a new genetic basis of a form of brain aneurysm, and suggests that it could be treated by an existing drug currently used to tackle cancer

University of Sussex


    Share

 Print  E-Mail


IMAGE


IMAGE: A 3D reconstruction of an angiogram showing the aneurysm circled in red. view more 

Credit: Taken directly from paper published in American Journal of Human Genetics, May 2019


•Brain aneurysms are relatively common, affecting around 2% of the general population
•Carrying a high risk of death, they can only be treated with difficult surgical procedures
•New research, which identifies a new genetic basis of a specific type of brain aneurysm, found that this abnormality could be countered by an existing family of anti-cancer drugs


An important class of drug used to treat cancer patients could be used to treat brain aneurysms, according to new research published this week.

Brain aneurysms are a bulge in a blood vessel caused by a weakness in the blood vessel wall. As blood passes through the weakened blood vessel, blood pressure causes a small area to bulge outwards.

They can develop anywhere in the body but are most common in the abdominal aorta (the artery that carries blood away from the heart) and the brain.

It's difficult to estimate exactly how many people are affected by brain aneurysms as they usually cause no symptoms until they rupture, but experts believe it could be anywhere from 1 in 100 to as many as 1 in 20 people.

Treatment is difficult, involving complex surgery which is currently only attempted in select cases. In a notable example, Game of Thrones actress Emilia Clarke suffered from two aneurysms while filming the series, undergoing surgery as a result.

Working in collaboration with colleagues at University of Washington School of Medicine in Seattle, USA, scientists at the University of Sussex may now have found a safer and more efficient possible treatment involving 'Receptor tyrosine kinase inhibitors'; a class of drug currently used to treat cancer.

Using sophisticated 'next generation' DNA sequencing technologies, teams in Washington lead by Manuel Ferreira, Associated Professor of Neurological Surgery, identified a new genetic basis of a form of brain aneurysm (mutations PDGFRB). This was unexpected, as mutations in this gene have been previously identified in completely different human developmental disorders.

Mark O'Driscoll, Professor of Human Molecular Genetics at the Genome Damage and Stability Centre at the University of Sussex, then found that multiple disease-associated mutations in PDGFRB caused a specific abnormality in its encoded protein. This abnormality causes its activity to remain locked in a hyper-active form, referred to as 'gain-of-function variants' - in effect, causing the protein to always be 'turned-on'.

Publishing their findings in this months' edition of the American Journal of Human Genetics, the Sussex team also demonstrated that this abnormal form of the protein can, in some cases, be countered by a drug which is currently used in cancer treatments.

Professor O'Driscoll said: "This is an extremely exciting discovery which shows how basic lab-derived observations on a genetic level can move into a clinical setting and start making big changes to public healthcare and treatments.

"Our research focused primarily on understanding the genetic and cellular mechanisms underlying a particular type of aneurysm.

"By finding a new genetic basis in some patients, we were also able to demonstrate that a known cancer drug could counter this genetic basis in most instances.

"Understanding the genetics behind diseases like this is crucial in identifying possible treatments and next steps - and that is exactly what our part in this new research has shown.

"The lead authors and our collaborators on this paper based in the US, are now working on the next stages to test this drug further."

Drug repurposing is not unheard of, and there are already some success stories including the use of thalidomide as a treatment for leprosy as well as a blood cancer called multiple myeloma.

Dr Manuel Ferreira, lead author of the report from the University Of Washington School Of Medicine, said: "We are now very close to treating these aneurysm patients with PDGFRB variants with specific receptor tyrosine kinase inhibitors

florida80
05-17-2019, 17:36
News Release 16-May-2019

Mining 25 years of data uncovers a new predictor of age of onset for Huntington disease


University of British Columbia


    Share

 Print  E-Mail


Investigators at the University of British Columbia (UBC)/Centre for Molecular Medicine & Therapeutics (CMMT) and BC Children's Hospital have examined more than 25 years of data to reveal new insights into predicting the age of onset for Huntington disease.

"This discovery may enable us to provide families with additional information," said lead author Galen Wright, a research associate in the UBC faculty of medicine, CMMT and BC Children's. "It could also potentially improve disease management by providing genetic counsellors with valuable data in the future."

Huntington disease is an inherited disorder that affects one in approximately 7,000 Canadians. For every affected person, there are four to five individuals that carry the gene mutation that causes the disease, but are not yet ill. The disease often begins around age 40. Symptoms include motor, cognitive and psychiatric changes.

Huntington disease is caused by a single mutation in the huntingtin gene, where patients carry an expanded stretch of repetitive DNA. While the length of this mutation has long been regarded as the greatest indicator of when (and whether) an individual will exhibit symptoms of the disease, researchers at UBC have uncovered a genetic variant that also significantly influences age of onset in patients.

"Our study reveals that age of onset in Huntington disease is influenced not only by the length of the expansion mutation, but also by the DNA sequence directly adjacent to this repetitive sequence," said senior author Dr. Michael Hayden, a Killam professor of medical genetics and director emeritus for the CMMT, which is part of the faculty of medicine at UBC and located at BC Children's.

This is the key finding in a new study published today in the American Journal of Human Genetics. While previous studies of the huntingtin gene have focused on the length of the string of glutamine building blocks in the DNA of the gene, this study examined variants in the DNA sequence encoding for these glutamine building blocks and the relationship between these variants and the age of onset of the disease.

The DNA sequence that causes Huntington disease is primarily made up of repeats of three letters of DNA, CAG, which encode the protein building block, glutamine. But UBC researchers have shown that the presence of another glutamine building block, CAA, significantly impacts the disease. In individuals where the CAA sequence is replaced with a CAG sequence, patients were found to present with the disorder decades earlier than expected, despite carrying an identical number of glutamine amino acids.

"Now we know that the age of onset in Huntington disease is significantly impacted by the length of uninterrupted CAG sequence," said Hayden.

The length of uninterrupted CAG sequence also appears to contribute to somatic instability.

The researchers screened samples from patients in the UBC Huntington disease biobank for the variant in the huntingtin gene, to examine age of onset and whether the mutation was more likely to expand to longer repeat lengths in the blood. Hayden established this bank -- which now contains approximately 8,000 specimens -- in 1986 in an effort to conduct such studies.

Hayden's team hopes to screen additional DNA samples to further refine age of onset prediction models for people from families with Huntington disease with this variant, and to look at how these variants express themselves in brain tissue.

florida80
05-17-2019, 17:37
A PCR statement on behalf of PCR and the EAPCI

Percutaneous edge-to-edge repair in patients with heart failure and secondary mitral regurgitation

PCR


    Share

 Print  E-Mail


Paris, France, 21 May 2019. Heart failure is a common cardiovascular disorder with ominous prognosis despite significant therapeutic advances. Mitral regurgitation (MR, leaking of the mitral valve within the heart) affects at least 50% of patients with heart failure and is independently associated with worse prognosis. Timely diagnosis is essential, and management is complex, requiring an expert approach. These patients should be referred for assessment and management by a multidisciplinary Heart Team.

Detailed imaging assessment is essential to confirm the diagnosis and severity of MR and provide further insights into cardiac anatomy and function that will guide the choice of management.

The first essential step in management is the institution of optimised pharmacological therapy and use of cardiac resynchronisation devices according to guideline recommendations. Recent evidence supports the use of transcatheter mitral edge-to-edge repair using the MitraClip device in carefully selected patients with heart failure-associated MR who remain symptomatic despite these measures.

Surgical treatment of heart failure-associated MR should be considered in patients with coronary artery disease undergoing surgical revascularisation. Circulatory support devices and cardiac transplantation are an alternative in patients with extreme left and/or right ventricular failure and no accompanying severe comorbidity.

Expensive, high-risk and ultimately futile procedures should be avoided in patients who will derive little or no symptomatic benefit or quality of life improvement. Specialist palliative care should be available for these patients.

This summary is based upon a published Viewpoint article [1] and underpins a more extensive joint position statement in preparation by a collaborative working group derived from the European Association of Percutaneous Cardiovascular Intervention (EAPCI), European Heart Rhythm Association (EHRA), European Association of Cardiovascular Imaging (EACVI) and Heart Failure Association (HFA) of the European Society of Cardiology.

###

florida80
05-17-2019, 17:38
News Release 17-May-2019

Metals influence C-peptide hormone related to insulin

New field of metalloendocrinology explores subtle effects of metals in body

University of California - Davis


    Share



Metals such as zinc, copper and chromium bind to and influence a peptide involved in insulin production, according to new work from chemists at the University of California, Davis. The research is part of a new field of "metalloendocrinology" that takes a detailed look at the role of metals in biological processes in the body.

"We're asking questions people didn't realize we don't have the answers to," said Marie Heffern, assistant professor of chemistry at UC Davis and senior author on the paper, to be published in the journal ChemBioChem.

Metals play a role in many biochemical processes. Hemoglobin contains iron and carries oxygen in the blood; zinc and copper are involved in a third to a half of all body functions. But while scientists know the overall amount of an element in a given component of the body, such as blood, they generally don't know the exact location of these metals, the state they are in or their biological role in the body.

"A metal is an ingredient - what you do with it is what makes the difference," Heffern said. Her laboratory at UC Davis is using new techniques to understand how metals are distributed inside and outside cells, how they bind to proteins and other molecules and the subtle influences they have on those molecules.

The new study looked at C-peptide, or connecting peptide, a short chain of amino acids. C-peptide is being investigated for potential in treating kidney disease and nerve damage in diabetes, so any better understanding of how it behaves in different conditions could be useful in drug development.

Influencing shape and uptake by cells

When the pancreas makes insulin, C-peptide connects two chains of insulin in a preliminary step. C-peptide is then cut out, stored along with insulin and released at the same time. C-peptide used to be considered a byproduct of insulin production but now scientists know that it acts as a hormone in its own right.

The researchers measured how readily zinc, copper and chromium bound to C-peptide in test tubes, and how the metals affected the ability of cells to take up C-peptide.

The metals had subtle effects on the structure of C-peptide, notably on its ability to curl into a helix in some conditions. Copper and chromium prevented cells from taking up the hormone, but other metals such as zinc, cobalt and manganese did not have such an effect.

The results show that metals can potentially "tune" the activity of hormones such as C-peptide by altering their structure or affecting uptake into cells, Heffern said. Additional authors on the paper are postdoctoral researcher Michael Stevenson, research specialist Kylie Uyeda, graduate student Jessica San Juan and Ian Farran, undergraduate majoring in biochemistry and molecular biology.

florida80
05-17-2019, 17:39
News Release 16-May-2019

University of Virginia chemist IDs possible addiction-free pain reliever


An estimated 1.7 million Americans suffer from substance abuse disorders related to opioid use for pain relief, according to the National Institute on Drug Abuse. This causes an economic burden of more than $78 billion per year in health care and addiction treatment costs, as well as loss of worker productivity and increased criminal activity. In 2017, more than 47,000 people died as a result of drug abuse involving opioids and related drugs.

As the problem amplifies, researchers are seeking non-addictive chronic pain treatment options that produce few or no negative side effects.

Ken Hsu, a chemistry professor at the University of Virginia, and his graduate student, Myungsun Shin, has identified an enzyme that "chews up fat" molecules to produce chemical signals that control inflammation.

The naturally occurring enzyme, called diacylglycerol lipase-beta, or DAGL?, is a possible new drug target for reducing pain. Hsu developed, during his postdoctoral training, selective molecules that inhibit DAGL? and reduce inflammation, similarly to aspirin and other non-steroidal anti-inflammatory drugs, or NSAIDS. However, unlike NSAIDs, DAGL? inhibitors can provide pain relief without gastrointestinal toxicity in preclinical models when used over a long term. And unlike opioids, DAGL? inhibitors do not exhibit addictive properties.

"This could be a new route to treating long-term inflammation and pain without the side effects of toxicity and risk of addiction observed with current treatment options," Hsu said. "Generally, if we block inflammation, we also affect the immune response. But we're suggesting a different approach, one where we can stop inflammation without impacting the normal immune response."

Hsu's findings were published today in the online edition of the journal Cell Chemical Biology.

According to Hsu, studies at UVA in collaboration with Virginia Commonwealth University demonstrate that DAGL? inhibitors are highly effective at reducing different pain states, including neuropathic pain and chemotherapy-induced peripheral neuropathy.

In the new study, the Hsu lab uncovered a new role for DAGL? in dendritic cells, a specialized type of innate immune cell that not only controls inflammation, but can also activate our body's ability to fight infections by stimulating T cells, which produce an immune response.

"We found that by blocking DAGL?, we can stop inflammation without affecting immunity," Hsu said. "This supports the idea that DAGL? is a viable target for long-term blockade of inflammation and pain without potentially compromising our immune system."

Hsu's research program is focused on using chemistry to find new ways to modulate the immune system, whether for fighting cancer, or, in this case, a better understanding of molecular pathways that can be targeted to reduce chronic inflammation and pain.

florida80
05-17-2019, 17:41
News Release 17-May-2019

Tobacco and e-cig promotions spark teens' use of nicotine products, Stanford study finds


Stanford Medicine


    Share

 Print  E-Mail


Owning items that promote e-cigarettes and other alternative tobacco products doubles the likelihood that a young person will try these products, a new study led by the Stanford University School of Medicine has found. The finding illustrates the influence of such marketing on teenagers.

The study, which will be published online May 17 in JAMA Network Open, followed 757 California teens for a year. At the beginning of the year, participants had never used alternative tobacco products, including e-cigarettes, chewing tobacco, cigars, cigarillos, pipes and hookahs.

But some participants owned marketing materials for these products, such as coupons, samples and branded hats or T-shirts.

"We wanted to see how owning promotional materials would affect young people's use later on," said the study's lead author, Hoda Magid, PhD, a postdoctoral scholar in health research and policy. Among teens, cigarette smoking rates have dropped in recent decades, but their use of e-cigarettes and other tobacco products has risen sharply. "The increase in use of alternative tobacco products poses a threat to the decades of hard work that public health experts have done to reduce tobacco use," Magid said.

"We need to know trajectories of use of alternative tobacco products," said the study's senior author, Bonnie Halpern-Felsher, PhD, professor of pediatrics. Understanding when and why youth start using such products is important for stemming the tide of addiction to them, she said.

Restrictions on conventional smokes

While marketing to minors and providing samples is illegal for all tobacco products, providing coupons and branded promotional items such as T-shirts and hats is not illegal for most alternative tobacco products, except smokeless tobacco. Enforcement of all policies is lacking, Halpern-Felsher said.

"The problem is that the FDA has been very slow to enact new or enforce existing laws and regulations for e-cigarettes," Halpern-Felsher said. "Right now, the FDA is not going after manufacturers who have not put in an application to market e-cigarettes." The Family Smoking Prevention and Tobacco Control Act requires all tobacco companies to submit premarket applications to FDA and receive agency authorization before putting a product on the market, but the compliance dates have been extended to 2021 or 2022, depending on the product. This means thousands of e-cigarettes and other alternative tobacco products are being marketed without any FDA review.

When the study began, participants were 13 to 19 years old and attended California high schools. They completed questionnaires asking whether they had ever used traditional cigarettes or any alternative tobacco products, and whether they or their friends owned promotional items -- such as coupons, free samples, T-shirts, posters and hats -- for any type of nicotine product. The researchers asked similar questions about the use of cigarettes and alternative tobacco products a year later and analyzed changes in the teens' use of e-cigarettes and other tobacco products as a function of owning or receiving promotional materials.

At the start of the study, 81 of the 757 participants owned items that promoted tobacco products, including 52 who owned promotional items for e-cigarettes. Over the course of the study, 129 participants, or 17 percent, began using alternative tobacco products but not traditional cigarettes. Twelve participants began using traditional cigarettes alone or in combination with alternative tobacco products. Before adjusting for confounding factors, teens who owned promotional items were found to be 2.23 times as likely to try alternative tobacco products as those who did not own such items. After adjusting for age, gender, race/ethnicity, maternal education level and baseline alcohol and cigarette use, the teens who owned promotional materials were 2.13 times as likely as their peers to begin using alternative tobacco products. When teens who had tried both alternative tobacco products and cigarettes during the year were included in the analysis, the influence of owning promotional materials did not reach statistical significance.

The findings provide evidence that ownership of marketing materials is strongly associated with more young people using e-cigarettes and other alternative tobacco products, the researchers said. The findings clearly show that no tobacco company, including any e-cigarette company, should be allowed to provide coupons, free samples or other marketing materials to teens, and suggest that the FDA should further restrict and enforce such marketing techniques, Halpern-Felsher said.

"Manufacturers say they're not marketing to teens, but teens are reporting owning these promotional items, and they're reporting use of alternative tobacco products," Magid said. Current restrictions and laws that make marketing cigarettes and other tobacco products to minors should be enforced for all nicotine-containing products, she added.

florida80
05-17-2019, 17:42
News Release 17-May-2019

Metals influence C-peptide hormone related to insulin

New field of metalloendocrinology explores subtle effects of metals in body

University of California - Davis


 


Metals such as zinc, copper and chromium bind to and influence a peptide involved in insulin production, according to new work from chemists at the University of California, Davis. The research is part of a new field of "metalloendocrinology" that takes a detailed look at the role of metals in biological processes in the body.

"We're asking questions people didn't realize we don't have the answers to," said Marie Heffern, assistant professor of chemistry at UC Davis and senior author on the paper, to be published in the journal ChemBioChem.

Metals play a role in many biochemical processes. Hemoglobin contains iron and carries oxygen in the blood; zinc and copper are involved in a third to a half of all body functions. But while scientists know the overall amount of an element in a given component of the body, such as blood, they generally don't know the exact location of these metals, the state they are in or their biological role in the body.

"A metal is an ingredient - what you do with it is what makes the difference," Heffern said. Her laboratory at UC Davis is using new techniques to understand how metals are distributed inside and outside cells, how they bind to proteins and other molecules and the subtle influences they have on those molecules.

The new study looked at C-peptide, or connecting peptide, a short chain of amino acids. C-peptide is being investigated for potential in treating kidney disease and nerve damage in diabetes, so any better understanding of how it behaves in different conditions could be useful in drug development.

Influencing shape and uptake by cells

When the pancreas makes insulin, C-peptide connects two chains of insulin in a preliminary step. C-peptide is then cut out, stored along with insulin and released at the same time. C-peptide used to be considered a byproduct of insulin production but now scientists know that it acts as a hormone in its own right.

The researchers measured how readily zinc, copper and chromium bound to C-peptide in test tubes, and how the metals affected the ability of cells to take up C-peptide.

The metals had subtle effects on the structure of C-peptide, notably on its ability to curl into a helix in some conditions. Copper and chromium prevented cells from taking up the hormone, but other metals such as zinc, cobalt and manganese did not have such an effect.

The results show that metals can potentially "tune" the activity of hormones such as C-peptide by altering their structure or affecting uptake into cells, Heffern said. Additional authors on the paper are postdoctoral researcher Michael Stevenson, research specialist Kylie Uyeda, graduate student Jessica San Juan and Ian Farran, undergraduate majoring in biochemistry and molecular biology.

florida80
05-17-2019, 17:43
News Release 16-May-2019

Designing biological movement on the nanometer scale

Scientists have designed proteins that move in response to acid, a technology that could help medication enter cells

University of Washington Health Sciences/UW Medicine


    Share

 Print  E-Mail



IMAGE


IMAGE: This is molecular art depicting the new proteins that can move in predictable, tunable ways in response to their environment. The proteins were designed from scratch on computers, then produced... view more 

Credit: Ian Haydon/Institute for Protein Design

Synthetic proteins have been created that move in response to their environment in predictable and tunable ways. These motile molecules were designed from scratch on computers, then produced inside living cells.

To function, natural proteins often shift their shapes in precise ways. For example, the blood protein hemoglobin must flex as it binds to and releases a molecule of oxygen. Achieving similar molecular movement by design, however, has been a long-standing challenge.

The May 17 issue of Science reports the successful design of molecules that change shape in response to pH changes. (pH is a chemical scale from basic to acidic.)

The Institute for Protein Design at the University of Washington School of Medicine led the multi-institutional research.

The researchers set out to create synthetic proteins that self-assemble into designed configurations at neutral pH and quickly disassemble in the presence of acid.

The results showed that these dynamic proteins move as intended and can use their pH-dependent movement to disrupt lipid membranes, including those on the endosome, an important compartment inside cells.

This membrane-disruptive ability could be useful in improving drug action. Bulky drug molecules delivered to cells often get lodged in endosomes. Stuck there, they can't carry out their intended therapeutic effect.

The acidity of endosomes differs from the rest of the cell. This pH difference acts as a signal that triggers the movement of the design molecules, thereby enabling them to disrupt the endosome membrane.

"The ability to design synthetic proteins that move in predictable ways is going to enable a new wave of molecular medicines," said senior author David Baker, professor of biochemistry at the UW School of Medicine and director of the Institute for Protein Design. "Because these molecules can permeabilize endosomes, they have great promise as new tools for drug delivery."

Scientists have long sought to engineer endosomal escape.

"Disrupting membranes can be toxic, so it's important that these proteins activate only under the right conditions and at the right time, once they're inside the endosome," said Scott Boyken, a recent postdoctoral fellow in the Baker lab and lead author on the recent project.

Boyken achieved molecular motion in his designer proteins by incorporating a chemical called histidine. In neutral (neither basic nor acidic) conditions, histidine carries no electric charge. In the presence of a small amount of acid, it picks up positive charge. This stops it from participating in certain chemical interactions. This chemical property of histidine allowed the team to create protein assemblies that fall apart in the presence of acid.

"Designing new proteins with moving parts has been a long-term goal of my postdoctoral work. Because we designed these proteins from scratch, we were able to control the exact number and location of the histidines," said Boyken. "This let us tune the proteins to fall apart at different levels of acidity."

Other scientists from the UW, The Ohio State University, Lawrence Berkeley National Laboratory, and Howard Hughes Medical Institute's Janelia Research Campus contributed to this research.

Those in Vicki Wysocki's Group at OSU used native mass spectrometry to determine the amount of acid needed to cause disassembly of the proteins. They confirmed the design hypothesis that having more histidines at interfaces between the proteins would cause the assemblies to collapse more suddenly.

Collaborators in the Kelly Lee lab at the UW School of Pharmacy showed that the designer proteins disrupt artificial membranes in a pH-dependent manner that mirrors the behavior of natural membrane fusion proteins.

Follow-up experiments conducted in Jennifer Lippincott-Schwartz's lab at HHMI's Janelia Research Campus showed that the proteins also disrupt endosomal membranes in mammalian cells.

Re-engineered viruses that can escape endosomes are the most commonly used drug delivery vehicles, but viruses have limitations and downsides. The researchers believe a drug delivery system made only of designer proteins could rival the efficiency of viral delivery without the inherent drawbacks

florida80
05-17-2019, 17:44
News Release 17-May-2019

Being sick in the morning can be different from being sick at night


Cell Press


   


In a review published May 17 in the journal Trends in Immunology, researchers discuss how time of day affects the severity of afflictions ranging from allergies to heart attacks.

Researchers in Switzerland compiled studies, predominantly in mice, that looked at the connection between circadian rhythms and immune responses. For example, studies showed that adaptive immune responses--in which highly specialized, pathogen-fighting cells develop over weeks--are under circadian control. This is "striking," says senior author Christoph Scheiermann, an immunologist at the University of Geneva, "and should have relevance for clinical applications, from transplants to vaccinations."

The body reacts to cues such as light and hormones to anticipate recurring rhythms of sleep, metabolism, and other physiological processes. In both humans and mice, the numbers of white blood cells also oscillate in a circadian manner, raising the question of whether it might be possible one day to optimize immune response through awareness and utilization of the circadian clock.

In separate studies that compared immune cell time-of-day rhythms under normal conditions, inflammation, and disease, researchers found that:

•Heart attacks in humans are known to strike most commonly in the morning, and research suggests that morning heart attacks tend to be more severe than at night. In mice, the numbers of monocytes--a type of white blood cell that fights off bacteria, viruses, and fungi--are elevated in the blood during the day. At night, monocytes are elevated in infarcted heart tissue, resulting in decreased cardiac protection at that time of day relative to morning.

•The ability of immune cells to fight atherosclerotic plaques can depend on CCR2--a chemokine protein linked to immune function and inflammation. CCR2 exhibits a daily rhythm in mice, peaking in the morning, and based on its influence on immune cells, can be followed to understand white blood cell behaviors in mouse models of atherosclerosis.

•Parasite infections are time-of-day dependent. Mice infected with the gastrointestinal parasite Trichuris muris in the morning have been able to kill worms significantly faster than mice infected in the evening.

•A bacterial toxin tied to pneumonia initiates an inflammatory response in the lungs of mice. Recruitment of immune cells during lung inflammation displays a circadian oscillation pattern. Separately, more monocytes can be recruited into the peritoneal cavity, spleen, and liver in the afternoon, thus resulting in enhanced bacterial clearance at that time.

•Allergic symptoms follow a time-of-day dependent rhythmicity, generally worse between midnight and early morning. Hence, the molecular clock can physiologically drive innate immune cell recruitment and the outcomes of asthma in humans, or airway inflammation in mice--the review notes.



"Investigating circadian rhythms in innate and adaptive immunity is a great tool to generally understand the physiological interplay and time-dependent succession of events in generating immune responses," Scheiermann says. "The challenge lies in how to channel our growing mechanistic understanding of circadian immunology into time-tailored therapies for human patients."

florida80
05-17-2019, 17:45
Changes in subsistence hunting threaten local food security

Modern weapons, commercial hunting, fragmented landscapes impacting local subsistence hunters in Neotropical rain forests

Wildlife Conservation Society


    Share

 Print  E-Mail



IMAGE


IMAGE: Scientists say that subsistence hunting in Neotropical rain forests -- the mainstay of local people as a source of protein and a direct connection to these ecosystems -- is in... view more 

Credit: Galo Zapata-Rios/WCS

Scientists with the Universidad San Francisco de Quito and WCS Ecuador Program publishing in the journal BioTropica say that subsistence hunting in Neotropical rain forests - the mainstay of local people as a source of protein and a direct connection to these ecosystems - is in jeopardy from a variety of factors.

The authors say that the relatively small groups that hunted in large and mostly undisturbed forests, using traditional weapons, have been replaced by a growing population using fragmented habitats and modern hunting methods. Meanwhile, increased exploitation from mining, oil exploitation and tourism has fueled a rapidly growing commercial trade in wildlife.

Thus, the authors say that subsistence hunting is less likely to be sustainable, threatening the food security of local people and the persistence of species with critical roles in the functioning of Neotropical rain forests.

Said co-author Galo Zapata?Ríos, Science Director of WCS's Ecuador Program: "No longer can subsistence hunting be seen or managed as a sustainable activity carried out by small, isolated human groups occupying large tracts of natural habitat and using traditional hunting methods. Any approach to the problem must take into account the fundamentally different context in which subsistence hunting occurs in the present day."

Managing subsistence hunting in this changing context will require a more efficient combination of tools. These might include banning the hunting of large and sensitive species, shifting toward smaller species with high reproductive rates, coupled with strengthening protected areas - some of which are already under threat of being downgraded, downsized, or degazetted. One approach to addressing this might be participatory zoning, to designate residential areas and areas where farming, gathering non-timber forest products, forestry and hunting can be practiced sustainably, while allowing for the designation of no-hunting areas that serve as source areas for hunted species. Other tools include diversification of income sources (e.g., ecotourism), production of domestic animals for food, mini-livestock breeding, and payment for ecosystem services alternatives to reduce the role of wildlife protein on local people's subsistence.

###

florida80
05-17-2019, 17:46
News Release 16-May-2019

Current vaccination policies may not be enough to prevent measles resurgence


BioMed Central


    Share

 Print  E-Mail


Current vaccination policies may not be sufficient to achieve and maintain measles elimination and prevent future resurgence in Australia, Ireland, Italy, the UK and the US, according to a study published in the open access journal BMC Medicine.

To successfully achieve and maintain measles elimination in these countries in the medium to long term, further country-specific immunisation efforts may be needed in addition to current strategies. Measles elimination has been defined as the absence of endemic measles transmission in a region or other defined geographic area for twelve months or longer.

A team of researchers at the Bruno Kessler Foundation and Bocconi University, Italy used a computer model to simulate the evolution of measles immunity between 2018 and 2050 in seven countries; Australia, Ireland, Italy, Singapore, South Korea, the UK and the US. The authors focused their analysis on countries with a routine two-dose measles vaccination programme and a high primary school involvement rate, but with different demographics and vaccination histories. The aim was to evaluate the effect of possible adjustments to existing immunisation strategies, and to estimate the proportion of people who may remain susceptible to measles in high-income countries over time.

The authors' projections up until 2050 suggest that if current vaccination policies remain unchanged, the proportion of the population susceptible to measles would only remain below 7.5% in Singapore and South Korea, two countries which had high vaccination coverage in the past. Previous research estimated that the proportion of the population that does not have immunity (maximum susceptibility) needs to be 7.5% or less for measles to be eliminated.

In 2018, the proportion of the population susceptible to measles infection in the countries under study ranged from 3.7% in the UK to 9.3% in Italy (the only country where the proportion was found to be higher than 7.5%). In Australia, Ireland, the UK and the US, vaccination from routine programmes would need to continuously cover more than 95% of the population to keep the proportion of susceptible individuals below 7.5% until 2050.

Dr. Filippo Trentini, the first author said: "In recent years, we've witnessed a resurgence of measles cases even in countries where, according to World Health Organisation guidelines, elimination should already have been achieved. This resurgence is due to suboptimal vaccination coverage levels. In Italy, where measles incidents rates were among the highest, the government has made measles vaccination compulsory for children before they enter primary school. We investigated the potential of this and other policies to reinforce immunisation rates in seven high-income countries."

Co-author Dr. Stefano Merler added: "Our results suggest that most of the countries we have studied would strongly benefit from the introduction of compulsory vaccination at school entry in addition to current immunisation programmes. In particular, we found that this strategy would allow the UK, Ireland and the US to reach stable herd immunity levels in the next decades, which means that a sufficiently high proportion of individuals are immune to the disease to avoid future outbreaks. To be effective, mandatory vaccination at school entry would need to cover more than 40% of the population."

In Italy, the fraction of susceptible individuals by 2050 is projected to be 10%, even if coverage for routine vaccination reaches 100%, and additional vaccination strategies targeting both children at school entry and adults may be needed to achieve elimination.

florida80
05-17-2019, 17:46
A new approach to targeting cancer cells

UC Riverside researchers develop new drugs that target therapeutically relevant protein surfaces

University of California - Riverside


    Share

 Print  E-Mail



IMAGE


IMAGE: The Pellecchia lab at UC Riverside is working on an approach in which effective drugs can be obtained by appropriately designing molecules to contain an aryl-fluoro sulfate (the chemical group... view more 

Credit: Pellecchia lab, UC Riverside.

RIVERSIDE, Calif. -- A University of California, Riverside, research team has come up with a new approach to targeting cancer cells that circumvents a challenge faced by currently available cancer drugs.

A cancer target is often a rogue protein that signals cancer cells to proliferate uncontrollably and invade organs. Modern cancer drugs have emerged that work by striking a tight bond between the drug and a particular amino acid called cysteine, one of the 20 natural amino acids that constitute our proteins. Cysteine is unique in that it can react with specific organic functional groups to form a strong molecular bond.

Only a few new cancer drugs that target cysteine have been recently approved by the Food and Drug Administration, or FDA. A challenge cancer researchers face is that cysteine is rarely found within binding sites of cancer targets, limiting the application of this approach to only a few drug targets.

The UC Riverside research team has now met this challenge by exploring the development of drugs that target other potentially reactive amino acids, such as lysine, tyrosine, or histidine, which occur more often within the binding site of the target.

The researchers also addressed another challenge: The target they used for proof of concept was a protein-protein interaction, or PPI, target. PPIs represent a large class of possible therapeutic targets for which designing effective drugs is particularly difficult. This is because PPIs lack a well-defined and deep-binding pocket onto which drugs can de designed to bind tightly.

"To date, there is only one drug approved by the FDA that was designed to antagonize -- or block -- a PPI target," said Maurizio Pellecchia, a professor of biomedical sciences in the School of Medicine, who led the research. "Only a few others have entered clinical trials. Our approach provides novel and effective avenues to derive potent and selective PPI antagonists by designing drugs that can react with lysine, tyrosine, or histidine residues that are ubiquitously present at binding interfaces of PPIs."

Study results appear in the Journal of Medicinal Chemistry.

Pellecchia, who holds the Daniel Hays Chair in Cancer Research at UCR, explained that academic researchers, the biotechnology industry, and pharmaceutical companies are heavily pursuing the design of "covalent drugs" that bind irreversibly with their targets. Those that target cancer cells most often target cysteine because it is more reactive than all other amino acids in a protein target. Oncology drugs such as Osimertinib, Ibrutinib, Neratinib, and Afatinib have all been approved in very recent years by the FDA, he said, and all target a cysteine that is present on the binding site of their respective targets.

"Our work widens the available target space beyond cysteine," he added. "Such covalent agents could represent significant stepping stones in the development of novel drug candidates against PPIs, which represent an untapped large class of therapeutic targets not only in oncology, but also in other conditions including neurodegenerative and inflammatory diseases."

###

florida80
05-17-2019, 17:47
News Release 17-May-2019

















































































































































VIDEO: For the first time ever, UT Austin researchers captured the process in which developing killer T-cells (purple and white) are tested by dendritic cells (yellow), and others, to see if... view more 

Credit: University of Texas at Austin


For the first time, immunologists from The University of Texas at Austin have captured on video what happens when T-cells - the contract killers of the immune system, responsible for wiping out bacteria and viruses - undergo a type of assassin-training program before they get unleashed in the body. A new imaging technique that allowed for the videos, described today in the journal Nature Communications, holds promise for the fight against autoimmune disorders such as Type 1 diabetes.

One of the human body's most potent weapons against many diseases is the T-cell, but in people with autoimmune disorders, T-cells also wreak havoc by mistaking normal cells for invaders and attacking healthy parts of the body.

"T-cells have the daunting task of recognizing and fighting off all of the diverse pathogens that we encounter throughout our lives, while avoiding attacking our own healthy tissue," said associate professor Lauren Ehrlich, one of the authors of the study. "These cells mature in the thymus, an organ just above the heart, where they 'get educated' to not attack the body."

Ehrlich and postdoctoral researcher Jessica Lancaster captured video of this educational process in a mouse thymus. Using a pair of powerful lasers that fire in short pulses and scan through a slice of live tissue every 15 seconds to reconstruct the positions, movements and intracellular signaling of cells, they observed that as T-cells develop, other cells in the thymus help them to encounter all sorts of ordinary human proteins that, later on, the T-cells will need to ignore in order to avoid attacking other parts of the body. The researchers learned more about how different types of cells work together in the thymus to perform the safety tests and, in the event a T-cell fails, trigger it to self-destruct.

Ehrlich says studying T-cells with this new imaging technique holds promise for improvements for human health that will depend on a better understanding of what's happening in the thymus. For example, patients who received bone-marrow transplants endure weeks or months with suppressed immune systems and a higher risk for developing autoimmune disorders, and people with Type 1 diabetes have T-cells that often attack the cells in the pancreas that produce insulin.

###

florida80
05-17-2019, 17:49
News Release 17-May-2019

Blister packaging for drugs in nursing homes: Much discussed, but hardly investigated

Robust study data are lacking for arguments on the pros and cons/IQWiG proposes a study design

Institute for Quality and Efficiency in Health Care


    Share

 Print  E-Mail


In blister packaging, a pharmacy (or a service provider commissioned by it) portions and packs the prescribed drugs of a patient according to weekdays and times of day, sorted into individual transparent packages (blisters). In this way, one can see at a glance when tablets should be taken and whether all tablets have been taken as planned.

For some years now, there has been a broad and controversial debate in Germany as to whether increased blister packaging for nursing home residents is suitable for relieving the burden on the long-term care system and sustainably improving the care of nursing home residents. The German Federal Ministry of Health therefore commissioned the Institute for Quality and Efficiency in Health Care (IQWiG) to examine, among other things, findings from studies. The report is now available.

According to IQWiG's search for evidence, studies on patient-specific blister packaging have so far been predominantly conducted for the outpatient sector, also internationally. However, as far as blister packaging for nursing homes is concerned, hardly any robust data from studies are available. Even the common arguments put forward by various stakeholders and interest groups for or against more blister packaging in nursing homes are not scientifically proven. This also applies to the aspect of cost-effectiveness.

Possible advantages and disadvantages

In the opinion of its advocates, the fact that medication errors will occur less frequently with blister packaging supports the introduction of this method. Because the more illnesses a resident suffers from, the more complex drug therapy becomes. In addition, if nursing staff were relieved of the burden of organizing the administration of drugs, they would have more time to care for the individual patient. And this in turn could increase job satisfaction in nursing and make the profession more attractive for young people.

Critics, however, fear a loss of competence if tasks are increasingly shifted from nurses to other professional groups. Moreover, patients might also lose some of their autonomy because they would be even less able to recognize and decide which drugs to take and which not. Critics also point out that not all drugs are "blisterable". This could even complicate the administration of drugs for nursing staff in nursing homes, as they would have to remember a second distribution of drugs in addition to the tablets in the blisters.

Initially, blister packaging causes additional costs. However, these should at least in part be compensated if wastage is reduced. The fact that not every patient receives a full package, but only individual tablets in the blister, means that overall, fewer tablets are thrown away.

Studies examine blister packaging in the outpatient sector

The IQWiG researchers found a number of studies that investigated aspects of the benefit of blister packaging, but they all referred to an outpatient setting; however, such studies can hardly be transferred to residential settings. This holds especially because people who live at home should still be able to handle their medication themselves. No study investigated residential geriatric long-term care.

The studies originating from Germany are mainly before-and-after comparisons without a control group, which were evaluated in model projects by health insurance funds. However, the results of such studies are not very meaningful from a scientific point of view - both with regard to the benefit for nursing home residents (symptoms, state of health, side effects of medication, etc.) and for the nursing staff (professional competence, work-related quality of life, etc.). IQWiG concludes that the benefit and harm of blister packaging in nursing homes therefore remain unclear.

Statements on cost-effectiveness can only be made by means of estimation

The evidence on the cost-effectiveness of blister packaging for nursing homes is also insufficient, but the Institute was able to estimate possible effects based on various sources. IQWiG assumed that a weekly blister costs about €3 and that drug expenditure will decrease by 4.1% due to less waste. If at least €73.17 of costs for blistered drugs are incurred per week and resident, blister packaging would be cost-neutral. This, however, refers only to drug costs. Due to a lack of data, it is not possible to consider other monetary effects (e.g. due to fewer hospital referrals).

Statements on non-monetary effects are also uncertain: Assuming that about half to two thirds of the approximately 818,000 people needing full residential nursing care in Germany receive blister-packed drugs, the time savings for nursing staff would amount to about 22 to 51 minutes per month and resident.

Great need for research: IQWiG proposes a design for a new study

The Institute has identified a great need for research on blister packaging in nursing homes. Thomas Kaiser, Head of the IQWiG's Drug Assessment Department, notes: "The discrepancy between the broad and sometimes vehement debate about blister packaging on the one hand and the lack of evidence on the other surprised us. Individual stakeholders and interest groups passionately argue for or against blister packaging, without being able to scientifically support their pros or cons. It is good that the commission from the Ministry of Health has now disclosed this." Against this background, IQWiG developed the design for a future study and integrated it into the report. Thomas Kaiser affirms: "Our research has shown that high-quality studies are indeed available on other research questions in residential long-term care and that such studies are evidently feasible."

Process of report production

In June 2018 the German Ministry of Health commissioned IQWiG to prepare the report as a rapid report in an accelerated procedure. Interim products were thus not published and did not undergo a hearing. The present rapid report was sent to the Ministry on 29 March 2019.

An English-language extract of the report will be available soon; if you would like to be informed when it is published, please send an email to info@iqwig.de

florida80
05-17-2019, 17:50
News Release 17-May-2019

Nivolumab with ipilimumab: Combination has added benefit in advanced renal cell carcinoma

Advantages in overall survival are not offset by serious disadvantages

Institute for Quality and Efficiency in Health Care


   


Renal cell carcinoma is one of the cancer diseases for which the range of promising treatment options has become considerably wider in recent years. In several early benefit assessments since 2013, the German Institute for Quality and Efficiency in Health Care (IQWiG) has already been able to determine an added benefit of a new drug in comparison with the respective appropriate comparator therapy (ACT).

The Institute has also come to a positive conclusion in its current assessment of nivolumab with ipilimumab: The drug combination has considerable added benefit in comparison with the ACT (sunitinib) for patients with advanced renal cell carcinoma and an intermediate risk score, and even major added benefit for patients with at least three risk factors and a corresponding unfavourable prognosis.

Antibodies as multipurpose weapons

In recent years, both monoclonal antibodies have already been subject of several early benefit assessments because, alone or in combination, they are also used against other types of cancer, e.g. melanoma, squamous cell carcinoma of the lung and non-small cell lung cancer. As so-called checkpoint inhibitors, they block different molecules on the outside of immune cells.

Nivolumab binds to the PD-1 receptors on T lymphocytes and thus prevents their defence-inhibiting effect. Ipilimumab, in contrast, weakens the inhibitory effect of the CTLA-4 molecules on the T lymphocytes. Both increase proliferation and activity of the immune cells, so that they can fight the tumour cells more vigorously.

Premature end of study after interim analysis

The data for both corresponding dossier assessments - in each case of one of the drugs in combination with the other - are from the randomized controlled trial CheckMate 214. The study was ended prematurely after the first interim analysis because the results on overall survival were clearly in favour of the combination.

For patients with an intermediate risk score, the study data showed statistically significant and clinically relevant advantages in overall survival, symptoms and health-related quality of life. With both positive and negative effects of approximately the same magnitude regarding side effects, the conclusion for this outcome category was: Greater or lesser harm is not proven. Overall, there was an indication of a considerable added benefit.

The survival advantage was even more pronounced in patients with higher risk scores. In addition, there were hints of lesser harm of different extent for a number of side effects. This was offset by hints of greater harm in three side effects. However, these did not outweigh the advantages, so that the Institute sees an overall indication of a major added benefit.

G-BA decides on the extent of added benefit

Both dossier assessments are part of the early benefit assessment according to the Act on the Reform of the Market for Medicinal Products (AMNOG) supervised by the Federal Joint Committee (G-BA). After their publication, the G-BA conducts a commenting procedure and makes a final decision on the extent of the added benefit.

More English-language information will be available soon (extracts of the dossier assessments as well as easily understandable information on informedhealth.org). The website http://www.​gesundheitsinfo rmation.​de, published by IQWiG, provides easily understandable German-language information.

florida80
05-18-2019, 18:04
News Release 18-May-2019

Button batteries can rapidly damage stomach lining before symptoms appear

Experts recommend changing current practice of watchful waiting

Digestive Disease Week


    Share

 Print  E-Mail


San Diego, CA (May 18, 2019) -- Damage to the lining of the stomach can occur quickly when children swallow button batteries; therefore, clinicians should consider prompt endoscopic removal, even when the child is symptom free and the battery has passed safely through the narrow esophagus, according to research presented at Digestive Disease Week® (DDW) 2019. The recommendations represent a change from current practice of watching and waiting.

"We know there can be injury even when there are no symptoms," said Racha Khalaf, MD, lead researcher and pediatric gastroenterology, hepatology and nutrition fellow at the Digestive Health Institute at Children's Hospital Colorado, Aurora. "Batteries in the stomach cause damage, including perforation of the gastric wall, so physicians should consider removing the batteries as soon as possible and not let them pass through the digestive tract."

Researchers from pediatric hospitals in Colorado, Florida, Texas and Ohio collected data regarding 68 button battery ingestions from January 2014 to May 2018. Previous research has been conducted on button batteries lodged in the esophagus, but little is known about the effect in the stomach.

"We have been seeing more injuries from button batteries," Dr. Khalaf said. "The batteries come in toys, remote controls, key fobs, singing greeting cards and watches. They are everywhere."

Erosive injuries to the mucous lining of the stomach were found in 60 percent of cases reviewed, with no apparent relationship between damage and symptoms, or with the amount of time passed since ingestion. This suggests that clinicians and parents should not wait for symptoms or passage of time to act, Dr. Khalaf said, adding that removing the battery earlier avoids repeated trips to the emergency room or pediatrician's office and reduces repetitive x-rays or other imaging.

The authors' recommendations are more aggressive than those of two national organizations that have issued recommendations about button battery ingestion. The North American Society for Pediatric Gastroenterology, Hepatology and Nutrition recommends observation when it's been less than two hours since ingestion, the battery is 20 mm or smaller, and the child is at least 5 years old. The National Capital Poison Center, which runs the National Battery Ingestion Hotline, currently recommends observation alone for asymptomatic gastric button batteries to allow them to pass through the digestive system

florida80
05-18-2019, 18:05
News Release 17-May-2019

Integrated stepped alcohol treatment for people in HIV care improves both HIV & alcohol outcomes


NIH/National Institute on Alcohol Abuse and Alcoholism


   


New clinical research supported by the National Institutes of Health shows that increasing the intensity of treatment for alcohol use disorder (AUD) over time improves alcohol-related outcomes among people with HIV. This stepped approach to AUD treatment also improves HIV-related disease measures in this patient population. A report of the new study, led by researchers at Yale University, is now online in The Lancet HIV.

"These research findings demonstrate the potential of integrated treatment for AUD and HIV in improving health outcomes," said George F. Koob, Ph.D., director of the NIH's National Institute on Alcohol Abuse and Alcoholism (NIAAA), which provided primary funding for the new research, with additional funding provided by the National Institute on Drug Abuse (NIDA). "Moreover, it underscores the importance of integrating treatment for alcohol problems into mainstream health care."

In the United States, estimates of the prevalence of people with HIV who either drink heavily, or who have AUD, range from 8 percent to 42 percent. Alcohol misuse can increase risky behaviors that increase the likelihood of acquiring HIV or transmitting it to others. Alcohol misuse may also speed the progression of HIV in individuals with HIV infection and make it harder to follow medication regimens.

"Many people with HIV are unaware of, or not seeking treatment for, their alcohol use problems," said first author E. Jennifer Edelman, M.D., M.H.S., associate professor of medicine at Yale School of Medicine. "In addition, HIV clinicians often do not realize that there are effective medications and counseling that they can easily integrate into their practice for patients with alcohol use problems."

Noting that previous studies have found that integrating the treatment of opioid use disorder into HIV clinics improves both HIV and substance-related outcomes, the researchers wanted to evaluate whether such a model would similarly benefit people with HIV and AUD.

Treatment for AUD often occurs apart from an individual's HIV clinical care. The current study integrates the treatment for AUD with treatment for HIV.

Dr. Edelman and her colleagues conducted a randomized clinical trial in five Veterans Affairs-based HIV clinics with 128 people who had HIV infection and AUD. The researchers investigated integrated stepped alcohol treatment (ISAT) -- an approach that involved consecutive steps of increased AUD treatment intensity if lower intensity treatment did not produce desired results.

People in the ISAT group started their AUD treatment with an on-site addiction psychiatrist, focusing on the use of medications for AUD. If that step did not stop heavy drinking, the next step included the addition of a behavioral intervention conducted on-site to boost motivation to change drinking behavior and teach coping skills for managing high-risk situations. Researchers defined heavy drinking as five drinks or more per day for men and four drinks or more per day for women, on one or more days during the previous 14 days. Patients who continued to engage in heavy drinking were advanced to the final step of referral to specialty addiction treatment -- such as intensive outpatient treatment or residential treatment depending on locally available resources. Patients in the control group received treatment as usual - which included alcohol screening, brief intervention, and referral to specialty addiction treatment at the VA at the discretion of their HIV clinician.

At the end of the six-month study, while both groups reported reduced alcohol intake, the researchers found no differences in drinks per week or HIV outcomes between the ISAT and control groups. Both groups then continued AUD treatment under treatment as usual (control) conditions. At the 12-month follow up, individuals who had initially received ISAT were found to have fared better than individuals who only received treatment as usual. People in the ISAT group, for example, reported having fewer drinks per drinking day than people in the control group and a greater percentage of days abstinent. The ISAT group also had a higher percentage of people who reported no heavy drinking days.

"Importantly, we also observed that participants randomized to stepped AUD treatment were more likely to achieve an undetectable HIV viral load," said Dr. Edelman. "We believe that with decreased alcohol consumption, participants in the ISAT group were more likely to take their HIV medications consistently, translating into improved HIV viral control."

In an invited commentary on the new research in The Lancet HIV, co-authors Lorenzo Leggio, M.D., Ph.D., Senior Investigator in the NIH Intramural Research Program at NIAAA and NIDA, and Roberta Agabio, M.D., a psychiatrist at the University of Cagliari in Italy welcomed the new findings as important for the HIV field and beyond.

"Stepped care approaches have been found to be effective for treating a variety of chronic diseases," said Dr. Leggio.

"These findings are a first indication of their potential value for treating AUD in the context of HIV treatment. The results warrant further investigation on how to optimize its use among people with HIV, and to explore its integration in other medical care settings. Indeed, the study is a compelling example of the need for trained clinicians across the spectrum of health care to recognize and treat AUD as a medical disorder amenable to a variety of treatment approaches."

florida80
05-18-2019, 18:06
News Release 17-May-2019

'Stepped' treatment reduces drinking in patients with HIV


Yale University


   


New Haven, Conn. -- People with HIV who drink too much were more likely to reduce drinking after undergoing an approach to care known as integrated stepped alcohol treatment, according to a Yale-led study.

The finding supports greater use of this treatment model in HIV clinics to improve outcomes for patients with both HIV and drinking problems, the researchers said.

The study was published in The Lancet HIV.

Stepped care is used to treat some patients with chronic diseases such as hypertension and depression. It entails the use of different treatments that are "stepped up," or increased in intensity over time, in response to patients' needs. Prior to this new study, little research had been done to evaluate the impact of stepped care for patients struggling with alcohol use disorder, and none had been conducted in HIV treatment settings, the researchers said.

The research team recruited 128 individuals from one of five Veterans Affairs-based HIV clinics. They randomized the patients into one of two groups -- those given integrated stepped alcohol treatment and an equal number receiving treatment as usual.

The stepped-care patients were offered evidence-based treatments, including medication, motivational therapy, and specialty care at either an outpatient or residential treatment facility. By comparison, the treatment-as-usual patients were referred to specialty addiction treatment at the VA at the discretion of their HIV clinician.

At the end of the study period, the researchers found that patients who received integrated stepped care fared better overall. After 52 weeks, stepped-care patients had fewer heavy drinking days, drank less per drinking day, and had more days of abstinence, the researchers noted.

"We saw overall improvements in drinking," said Jennifer Edelman, M.D., lead author and associate professor in internal medicine. "We also found improved HIV outcomes at the 52-week mark."

The improvements in patients' HIV status were presumably associated with the reduced alcohol use, Edelman noted. "Over time, the patients receiving integrated stepped care showed decreases in alcohol use and a higher rate of undetectable HIV viral load, likely related to improved HIV medication adherence," she said.

The study results support the expanded use of integrated stepped care for alcohol misuse in settings where patients are already being treated for HIV, the researchers said

florida80
05-18-2019, 18:07
News Release 17-May-2019

Clinical trial at IU School of Medicine improves treatment of genetic rickets


Indiana University


   






IMAGE: Erik Imel, MD view more 

Credit: Indiana University School of Medicine

A new study shows a drug developed in conjunction with investigators at Indiana University School of Medicine to alleviate symptoms of a rare musculoskeletal condition is significantly more effective than conventional therapies. The findings are published in Lancet.

X-linked hypophosphatemia, or XLH, is a phosphate-wasting disease that causes rickets and osteomalacia, or softening of the bones, and can cause short stature, bowed legs, dental abscesses and bone pain. This rare, genetic disease affects about 1 in every 20,000 people.

Researchers recruited 61 children between the ages of 1 and 12 at 16 centers around the world, including the U.S., Canada, the United Kingdom, Sweden, Australia, Japan and Korea. The children were randomly assigned to either receive Burosumab, a biweekly injection that was approved by the Food and Drug Administration in April 2018, or conventional therapies of taking oral phosphate and active vitamin D several times a day. The primary outcome was improvement in rickets on X-rays, as scored by radiologists that were unaware of which treatment group the participant was in.

The children were observed for 64 weeks, and by 40 weeks of treatment, researchers found 72 percent of the children who received Burosumab achieved substantial healing of rickets, while only 6 percent of those in the conventional therapy group saw substantial healing. Burosumab also led to greater improvements in leg deformities, growth, distance walked in a 6-minute test and serum phosphorus and active vitamin D levels.

"This is the first study comparing Burosumab head-to-head with conventional therapy," said lead investigator Erik Imel, MD, associate professor of medicine at IU School of Medicine. "We now know the magnitude of benefit from Burosumab over the prior approach with conventional therapy. This information is critical for doctors to make treatment decisions for patients with XLH."

Researchers plan to continue studying the long-term effects of Burosumab, including the effect treating children has on height outcomes as an adult and whether this treatment will decrease the need for surgeries to correct bowed legs.

Burosumab blocks a protein called fibroblast growth factor 23 that was originally discovered by investigators at Indiana University School of Medicine. Burosumab is marketed by Ultragenyx Pharmaceutical, Inc. in collaboration with Kyowa Hakko Kirin Co., Ltd. and its European subsidiary, Kyowa Kirin International PLC, under the brand name Crysvita

florida80
05-18-2019, 18:08
News Release 17-May-2019

IU researchers develop electric field-based dressing to help heal wound infections


Indiana University


   

Credit: Indiana University School of Medicine

Researchers at Indiana University School of Medicine have found a way to charge up the fight against bacterial infections using electricity.

Work conducted in the laboratories of the Indiana Center for Regenerative Medicine and Engineering, Chandan Sen, PhD and Sashwati Roy, PhD has led to the development of a dressing that uses an electric field to disrupt biofilm infection. Their findings were recently published in the high-impact journal "Annals of Surgery."

Bacterial biofilms are thin, slimy films of bacteria that form on some wounds, including burns or post-surgical infections, as well as after a medical device, such as a catheter, is placed in the body. These bacteria generate their own electricity, using their own electric fields to communicate and form the biofilm, which makes them more hostile and difficult to treat. The Centers for Disease Control and Prevention estimates 65 percent of all infections are caused by bacteria with this biofilm phenotype, while the National Institutes of Health estimates that number is closer to 80 percent.

Researchers at IU School of Medicine are the first to study the practice of using an electric field-based dressing to treat biofilms rather than antibiotics. They discovered the dressing is not only successful in fighting the bacteria on its own, but when combined with other medications can make them even more effective. This discovery has the potential to create significant changes in the way physicians treat patients with bacterial infections which are resistant to antibiotics. The dressing can also help prevent new biofilm infections from forming in the future. The dressing electrochemically self-generates 1 volt of electricity upon contact with body fluids such as wound fluid or blood, which is not enough to hurt or electrocute the patient.

"This shows for the first time that bacterial biofilm can be disrupted by using an electroceutical dressing," said Chandan Sen, PhD, director of the Indiana Center for Regenerative Medicine and Engineering and associate vice president of research for the IU School of Medicine Department of Surgery. "This has implications across surgery as biofilm presence can lead to many complications in successful surgical outcomes. Such textile may be considered for serving as hospital fabric - a major source of hospital acquired infections"

Marketing of the dressing for burn care was recently approved by the Food and Drug Administration. The team is now studying the device's effectiveness in patients recovering from burns.

florida80
05-18-2019, 18:09
Enzyme may indicate predisposition to cardiovascular disease

Study suggests that people with low levels of PDIA1 in blood plasma may be at high risk of thrombosis; this group also investigated PDIA1's specific interactions in cancer

Fundaçăo de Amparo à Pesquisa do Estado de Săo Paulo


  


Measuring the blood plasma levels of an enzyme called PDIA1 could one day become a method of diagnosing a person's predisposition to cardiovascular disease even if they are healthy, i.e., not obese, diabetic or a smoker, and with normal cholesterol.

This is suggested by a study published in the journal Redox Biology by Brazilian researchers affiliated with the University of Săo Paulo (USP), the University of Campinas (UNICAMP) and Butantan Institute.

The investigation was conducted under the aegis of the Center for Research on Redox Processes in Biomedicine (Redoxome), one of the Research, Innovation and Dissemination Centers (RIDCs) funded by the Săo Paulo Research Foundation (FAPESP). Redoxome is hosted by USP's Chemistry Institute.

"This molecule belongs to the protein disulfide isomerase [PDI] family. Our study showed that people with low plasma levels of PDIA1 have a more inflammatory protein profile and hence run a higher risk of thrombosis. On the other hand, people with high levels of PDIA1 have more 'housekeeping' proteins associated with cell adhesion, homeostasis and the organism's normal functioning," said Francisco Rafael Martins Laurindo, a professor at the University of Săo Paulo's Medical School (FM-USP) and principal investigator for the study.

The study was conducted during the PhD research of Percíllia Victória Santos de Oliveira with a scholarship from FAPESP.

The group analyzed blood plasma samples from 35 healthy volunteers with no history of chronic or acute disease. None was a smoker or a user of recreational drugs or chronic medication.

Plasma was collected 10-15 times at intervals of days or weeks during a period of 10-15 months. Circulating PDI levels were within a small range for most individuals. Moreover, in a cohort of five individuals, PDIA1 levels were measured three times in a nine-hour period. The variability of the results was again negligible.

"However, the measurements showed that some patients had high levels of PDIA1, while the levels were very low, almost undetectable, in others. When the tests were repeated for the same person over time, these values hardly varied at all," said Laurindo, who heads the Translational Cardiovascular Biology Laboratory at the Heart Institute (InCor) attached to FM-USP's teaching and general hospital (Hospital das Clínicas).

The researchers also measured the levels of PDIA1 in 90 plasma bank samples from patients with chronic cardiovascular disease. The analysis consistently showed low levels of the enzyme.

They then conducted several additional proteomic studies to investigate how the plasma levels of PDIA1 correlated with an individual's protein signature. The adhesion and migration of cultured vein endothelial cells treated with PDIA1-poor plasma were impaired in comparison with those of cells treated with PDIA1-rich plasma.

These results led to the hypothesis that the plasma level of PDIA1 could be a window onto individual plasma protein signatures associated with endothelial function, which could indicate a possible predisposition to cardiovascular disease.

The study also showed no correlation between PDIA1 levels and well-known risk factors for cardiovascular disease, such as triglycerides and cholesterol.

The next steps for the research group include studying PDIA1 levels in conditions such as acute coronary disease, as well as other members of the protein disulfide isomerase family (there are more than 20 PDIs all told), to compare results and confirm whether all these enzymes are potential markers of vulnerability to cardiovascular disease.

Inhibitors

Clinical trials of inhibitors of other PDIs are being conducted by different groups of researchers in several parts of the world. Because these enzymes play various essential roles in cell survival, Laurindo explained, it is important to understand their specific interactions in the cancer context to design inhibitors capable of eliminating tumors with a minimum of toxicity to normal cells.

In another study, published in the American Journal of Physiology-Heart and Circulatory Physiology, the researchers used an antibody to inhibit PDIA1 on the surface of vascular cells and observed the effects of stimulation with several different mechanical forces, such as stretching and alterations to the rigidity of the extracellular matrix.

Resulting from research conducted during Leonardo Yuji Tanaka's postdoctoral internship (https:/​/​bv.​fapesp.​br/​en/​pesquisador/​77430/​leonardo-yuji-tanaka) with support from FAPESP (https:/​/​bv.​fapesp.​br/​en/​bolsas/​151090), the study concluded that surface PDIA1 inhibition affected the cytoskeleton, an intracellular framework of filaments, thereby hindering cell migration.

"PDIA1 is fundamental for the ability of cells to migrate within the organism, and so it mustn't be completely inhibited. When the surface portion, which corresponds to less than 2% of total PDIA1, is silenced, the cell survives but loses fine regulation of cell direction during migration. This can be leveraged in the search for new disease mechanisms and drugs," Laurindo explained.

###

florida80
05-18-2019, 18:10
Dangerous pathogens use this sophisticated machinery to infect hosts

A detailed new model of a bacterial secretion system provides directions for developing precisely targeted antibiotics

California Institute of Technology


    Share

 Print  E-Mail



IMAGE


IMAGE: A structural model of a dynamic machine, called a Type IV secretion system, used by many bacteria in order to inject toxic molecules into cells and also to spread genes... view more 

Credit: Caltech

Gastric cancer, Q fever, Legionnaires' disease, whooping cough--though the infectious bacteria that cause these dangerous diseases are each different, they all utilize the same molecular machinery to infect human cells. Bacteria use this machinery, called a Type IV secretion system (T4SS), to inject toxic molecules into cells and also to spread genes for antibiotic resistance to fellow bacteria. Now, researchers at Caltech have revealed the 3D molecular architecture of the T4SS from the human pathogen Legionella pneumophila with unprecedented details. This could in the future enable the development of precisely targeted antibiotics for the aforementioned diseases.

The work was done in the laboratory of Grant Jensen, professor of biophysics and biology and Howard Hughes Medical Institute investigator, in collaboration with the laboratory of Joseph Vogel at the Washington University School of Medicine in St. Louis (WUSTL). A paper describing the research appeared online on April 22 in the journal Nature Microbiology.

There are nine different types of bacterial secretion systems, Type IV being the most elaborate and versatile. A T4SS can ferry a wide variety of toxic molecules--up to 300 at once--from a bacterium into its cellular victim, hijacking cellular functions and overwhelming the cell's defenses.

In 2017, Caltech postdoctoral scholar Debnath Ghosal and his collaborators used a technique called electron cryotomography to reveal, for the first time, the overall low-resolution architecture of the T4SS in Legionella, the bacteria that causes Legionnaires' disease, a severe and often lethal form of pneumonia.

Ghosal, along with Kwangcheol Jeong of WUSTL and their colleagues, have now made a detailed structural model of this dynamic multi-component machine. The team also made precise perturbations to the bacterium's genes to study mutant versions of the T4SS, revealing how this complex machine organizes and assembles.

The model revealed that the secretion system is composed of a distinct chamber and a long channel, like the chamber and barrel of a gun. Characterizing these and other components of the T4SS could enable the development of precisely targeted antibiotics.

Current antibiotics act broadly and wipe out bacteria throughout the body, including the beneficial microorganisms that live in our gut. In the future, antibiotics could be designed to block only the toxin delivery systems (such as the T4SS) of harmful pathogens, rendering the bacteria inert and harmless without perturbing the body's so-called "good bacteria."

###

The paper is titled "Molecular architecture, polar targeting and biogenesis of the Legionella Dot/Icm T4SS." Ghosal and Jeong are co-first authors. In addition to Jensen and Vogel, other co-authors are former Caltech postdoctoral scholar Yi-Wei Chang, now of the University of Pennsylvania; Jacob Gyore of WUSTL; Lin Teng of the University of Florida; and Adam Gardner of the Scripps Research Institute. The work was funded by the National Institutes of Health.


Disclaimer: AAAS and EurekAlert! are not responsible for the accuracy of news releases posted to EurekAlert! by contributing institutions or for the use of any information through the EurekAlert system.

florida80
05-18-2019, 18:11
News Release 17-May-2019

A new approach to targeting cancer cells

UC Riverside researchers develop new drugs that target therapeutically relevant protein surfaces

University of California - Riverside


    Share

 Print  E-Mail



IMAGE


IMAGE: The Pellecchia lab at UC Riverside is working on an approach in which effective drugs can be obtained by appropriately designing molecules to contain an aryl-fluoro sulfate (the chemical group... view more 

Credit: Pellecchia lab, UC Riverside.

RIVERSIDE, Calif. -- A University of California, Riverside, research team has come up with a new approach to targeting cancer cells that circumvents a challenge faced by currently available cancer drugs.

A cancer target is often a rogue protein that signals cancer cells to proliferate uncontrollably and invade organs. Modern cancer drugs have emerged that work by striking a tight bond between the drug and a particular amino acid called cysteine, one of the 20 natural amino acids that constitute our proteins. Cysteine is unique in that it can react with specific organic functional groups to form a strong molecular bond.

Only a few new cancer drugs that target cysteine have been recently approved by the Food and Drug Administration, or FDA. A challenge cancer researchers face is that cysteine is rarely found within binding sites of cancer targets, limiting the application of this approach to only a few drug targets.

The UC Riverside research team has now met this challenge by exploring the development of drugs that target other potentially reactive amino acids, such as lysine, tyrosine, or histidine, which occur more often within the binding site of the target.

The researchers also addressed another challenge: The target they used for proof of concept was a protein-protein interaction, or PPI, target. PPIs represent a large class of possible therapeutic targets for which designing effective drugs is particularly difficult. This is because PPIs lack a well-defined and deep-binding pocket onto which drugs can de designed to bind tightly.

"To date, there is only one drug approved by the FDA that was designed to antagonize -- or block -- a PPI target," said Maurizio Pellecchia, a professor of biomedical sciences in the School of Medicine, who led the research. "Only a few others have entered clinical trials. Our approach provides novel and effective avenues to derive potent and selective PPI antagonists by designing drugs that can react with lysine, tyrosine, or histidine residues that are ubiquitously present at binding interfaces of PPIs."

Study results appear in the Journal of Medicinal Chemistry.

Pellecchia, who holds the Daniel Hays Chair in Cancer Research at UCR, explained that academic researchers, the biotechnology industry, and pharmaceutical companies are heavily pursuing the design of "covalent drugs" that bind irreversibly with their targets. Those that target cancer cells most often target cysteine because it is more reactive than all other amino acids in a protein target. Oncology drugs such as Osimertinib, Ibrutinib, Neratinib, and Afatinib have all been approved in very recent years by the FDA, he said, and all target a cysteine that is present on the binding site of their respective targets.

"Our work widens the available target space beyond cysteine," he added. "Such covalent agents could represent significant stepping stones in the development of novel drug candidates against PPIs, which represent an untapped large class of therapeutic targets not only in oncology, but also in other conditions including neurodegenerative and inflammatory diseases."

###

florida80
05-18-2019, 18:11
News Release 17-May-2019

Percutaneous edge-to-edge repair in patients with heart failure and secondary mitral regurgitation

A PCR statement on behalf of PCR and the EAPCI

PCR


    Share

 Print  E-Mail


Paris, France, 21 May 2019. Heart failure is a common cardiovascular disorder with ominous prognosis despite significant therapeutic advances. Mitral regurgitation (MR, leaking of the mitral valve within the heart) affects at least 50% of patients with heart failure and is independently associated with worse prognosis. Timely diagnosis is essential, and management is complex, requiring an expert approach. These patients should be referred for assessment and management by a multidisciplinary Heart Team.

Detailed imaging assessment is essential to confirm the diagnosis and severity of MR and provide further insights into cardiac anatomy and function that will guide the choice of management.

The first essential step in management is the institution of optimised pharmacological therapy and use of cardiac resynchronisation devices according to guideline recommendations. Recent evidence supports the use of transcatheter mitral edge-to-edge repair using the MitraClip device in carefully selected patients with heart failure-associated MR who remain symptomatic despite these measures.

Surgical treatment of heart failure-associated MR should be considered in patients with coronary artery disease undergoing surgical revascularisation. Circulatory support devices and cardiac transplantation are an alternative in patients with extreme left and/or right ventricular failure and no accompanying severe comorbidity.

Expensive, high-risk and ultimately futile procedures should be avoided in patients who will derive little or no symptomatic benefit or quality of life improvement. Specialist palliative care should be available for these patients.

This summary is based upon a published Viewpoint article [1] and underpins a more extensive joint position statement in preparation by a collaborative working group derived from the European Association of Percutaneous Cardiovascular Intervention (EAPCI), European Heart Rhythm Association (EHRA), European Association of Cardiovascular Imaging (EACVI) and Heart Failure Association (HFA) of the European Society of Cardiology.

florida80
05-18-2019, 18:12
Nivolumab with ipilimumab: Combination has added benefit in advanced renal cell carcinoma

Advantages in overall survival are not offset by serious disadvantages

Institute for Quality and Efficiency in Health Care


    Share

 Print  E-Mail


Renal cell carcinoma is one of the cancer diseases for which the range of promising treatment options has become considerably wider in recent years. In several early benefit assessments since 2013, the German Institute for Quality and Efficiency in Health Care (IQWiG) has already been able to determine an added benefit of a new drug in comparison with the respective appropriate comparator therapy (ACT).

The Institute has also come to a positive conclusion in its current assessment of nivolumab with ipilimumab: The drug combination has considerable added benefit in comparison with the ACT (sunitinib) for patients with advanced renal cell carcinoma and an intermediate risk score, and even major added benefit for patients with at least three risk factors and a corresponding unfavourable prognosis.

Antibodies as multipurpose weapons

In recent years, both monoclonal antibodies have already been subject of several early benefit assessments because, alone or in combination, they are also used against other types of cancer, e.g. melanoma, squamous cell carcinoma of the lung and non-small cell lung cancer. As so-called checkpoint inhibitors, they block different molecules on the outside of immune cells.

Nivolumab binds to the PD-1 receptors on T lymphocytes and thus prevents their defence-inhibiting effect. Ipilimumab, in contrast, weakens the inhibitory effect of the CTLA-4 molecules on the T lymphocytes. Both increase proliferation and activity of the immune cells, so that they can fight the tumour cells more vigorously.

Premature end of study after interim analysis

The data for both corresponding dossier assessments - in each case of one of the drugs in combination with the other - are from the randomized controlled trial CheckMate 214. The study was ended prematurely after the first interim analysis because the results on overall survival were clearly in favour of the combination.

For patients with an intermediate risk score, the study data showed statistically significant and clinically relevant advantages in overall survival, symptoms and health-related quality of life. With both positive and negative effects of approximately the same magnitude regarding side effects, the conclusion for this outcome category was: Greater or lesser harm is not proven. Overall, there was an indication of a considerable added benefit.

The survival advantage was even more pronounced in patients with higher risk scores. In addition, there were hints of lesser harm of different extent for a number of side effects. This was offset by hints of greater harm in three side effects. However, these did not outweigh the advantages, so that the Institute sees an overall indication of a major added benefit.

G-BA decides on the extent of added benefit

Both dossier assessments are part of the early benefit assessment according to the Act on the Reform of the Market for Medicinal Products (AMNOG) supervised by the Federal Joint Committee (G-BA). After their publication, the G-BA conducts a commenting procedure and makes a final decision on the extent of the added benefit.

More English-language information will be available soon (extracts of the dossier assessments as well as easily understandable information on informedhealth.org). The website http://www.​gesundheitsinfo rmation.​de, published by IQWiG, provides easily understandable German-language information.

florida80
05-18-2019, 18:14
PCR statement on evolving indications for transcatheter aortic valve implantation

Aortic stenosis, surgical aortic valve replacement, transcatheter aortic valve implantation

PCR


    Share

 Print  E-Mail


Paris, France, 21 May 2019. Severe symptomatic aortic stenosis, a degenerative disease-causing calcification and immobility of the aortic valve leaflets leading to left ventricular outflow obstruction, is the most common valve lesion leading to intervention in Europe and the USA. Symptoms include heart failure, syncope and angina, and have a dismal prognosis if left untreated. There is no effective medical treatment, except for replacement of the diseased valve by means of surgical aortic valve replacement (SAVR) or transcatheter aortic valve implantation (TAVI), but for which indications

Aortic stenosis is in most cases a degenerative disease-causing calcification and immobility of the aortic valve leaflets that in turn leads to left ventricular outflow obstruction. Severe, symptomatic aortic stenosis is the most common heart valve lesion leading to intervention in Europe and the USA. Affected patients suffer from symptoms including heart failure, syncope and angina and have a dismal prognosis if left untreated. There is no effective medical treatment, and the only intervention is replacement of the diseased valve by means of surgical aortic valve replacement (SAVR) or transcatheter aortic valve implantation (TAVI). The latter less invasive treatment has resulted in an unprecedented effort to conduct a series of high quality randomised clinical trials (RCTs) in a field devoid of randomised evidence prior to the advent of TAVI.

Previously accumulated evidence among patients with severe aortic stenosis, who are at extreme (inoperable), high- and intermediate-surgical risk were summarized in the 2017 ESC/EACTS Guidelines on the management of valvular heart disease (Baumgartner H et al. EHJ 2017, https:/​/​doi.​org/​10.​1093/​eurheartj/​ehx391.). In these guidelines, TAVI was recommended as therapy of choice among patients at extreme-risk (inoperable) and as treatment alternative to SAVR among patients at increased surgical risk with the decision made by the Heart Team according to individual patient characteristics, and TAVI being favoured in elderly patients suitable for transfemoral access, while SAVR remained the standard of care among patients at low surgical risk.

Recently, the results of two additional RCTs comparing TAVI with SAVR extend the available evidence to patients at low surgical risk. In the PARTNER 3 trial, TAVI with use of the balloon-expandable Edwards SAPIEN S3 prosthesis compared with SAVR was associated with a lower risk of the primary composite endpoint of death, stroke and rehospitalisation at 1 year among low surgical risk patients (mean age 74±6 years, STS score 1.9±0.7%) (Mack M et al. NEJM 2019, https:/​/​doi.​org/​10.​1056/​NEJMoa1814052. ). In the EVOLUT Low Risk trial, TAVI with use of the self-expanding supra-annular CoreValve/Evolut prosthesis compared with SAVR was non-inferior with respect to the primary composite endpoint of death and disabling stroke and superior for heart failure rehospitalisation at 2 years among patients at low surgical risk (mean age 74±6 years, STS score 1.9±0.7%) (Popma J et al. NEJM 2019, https:/​/​doi.​org/​10.​1056/​NEJMoa1816885. ). These trials included patients, who were anatomically good candidates for TAVI.

An updated meta-analysis of seven RCTs comparing TAVI and SAVR among 8,020 patients with severe, symptomatic aortic stenosis reported a lower risk of all-cause mortality (12% relative risk reduction) and stroke (19% relative risk reduction), irrespective of underlying surgical risk throughout two years of follow-up (Siontis G et al. EHJ 2019, https:/​/​doi.​org/​10.​1093/​eurheartj/​ehz275.).

In aggregate, the available evidence from the low surgical risk trials and meta-analyses can be summarised as follows:


•TAVI is superior to SAVR at two years with respect to patient-oriented endpoints including: ◦ death
◦ dtroke
◦ rehospitalisation


•TAVI is associated with improved health care resource utilisation owing to: ◦ shorter interventions without need for general anaesthesia, cardiopulmonary bypass and intensive care unit monitoring
◦ shorter hospitalisation duration
◦ reduced need for rehabilitation services
◦ faster recovery and more rapid restoration of daily life activities and quality of life
◦ notwithstanding, the cost-effectiveness of TAVI requires further study in view of the current cost of transcatheter heart valves



These findings constitute a paradigm shift that will affect the care of patients with severe, symptomatic aortic stenosis in several ways:

• The favourable outcomes of TAVI are consistent across the entire risk spectrum suggesting that surgical risk estimation is no longer the basis to guide the choice between TAVI and SAVR.
• Instead, the Heart Team will weigh clinical and anatomic characteristics to identify the best treatment option for individual patients with transfemoral TAVI replacing SAVR as default therapy in more patients.
• Prosthetic valve selection will be determined by life expectancy and durability with surgically implanted mechanical valve prostheses being favoured in younger patients (<50 years of age), and bioprotheses (TAVI or SAVR) being favoured in older individuals (>65 years of age).


Future research will need to address remaining uncertainties and options for further improvement in outcomes:

• evaluation of TAVI in younger patients (<70 years)
• assessment of long-term durability using predefined clinical and echocardiographic assessment
• evaluation of TAVI in patients with bicuspid aortic valve disease
• evaluation of TAVI in patients with concomitant coronary artery disease
• continued measures to reduce the need for permanent pacemaker implantation
• definition of the optimal short and long-term antithrombotic treatment therapy
• TAVI in asymptomatic patients with severe aortic stenosis


###

florida80
05-18-2019, 18:15
News Release 17-May-2019

Early dengue virus infection could 'defuse' Zika virus


German Center for Infection Research


    Share

 Print  E-Mail


"We now know for sure that Zika virus infection during pregnancy can affect the unborn foetus in such a way that the child develops microcephaly and other severe symptoms," explains Prof Felix Drexler, a virologist at the Charité who has been developing diagnostic tests for Zika and other viruses at the DZIF. Just a few years ago, pictures of affected new-borns were cause for worldwide dismay and perplexity. "However, what we did not understand then was that high incidence of microcephaly seemed to occur particularly in northeastern Brazil," says Drexler. Why are expecting mothers in these regions at a higher risk of developing a severe Zika-associated disease than in other regions? The scientists consequently began to search for cofactors that have an influence on whether a Zika infection during pregnancy will develop fatal consequences or not.

A suspected cofactor

Dengue viruses, which are widespread in Latin America and cause dengue fever, were suspected cofactors. Initially, the scientists suspected that the antibodies humans produce against the dengue virus contribute to the foetal damage caused in later Zika infection. It has been known for a long time that these antibodies can enhance subsequent dengue infections under certain conditions.

However, in the case of Zika, the opposite seems to be the case. "Surprisingly, our study has shown that a previous dengue infection can protect against Zika-associated damage," emphasizes Drexler.

The study

As a first step to investigating the interactions between dengue and Zika viruses, the genomes of all known dengue viruses in Brazil were compared to each other. This was to enable the researchers to find out whether perhaps dengue viruses in northeastern Brazil had caused different immunity compared to the immunity observed in other regions in Brazil over the last decades. In addition, the scientists conducted extensive serological tests in Salvador, Brazil: Samples from a case-control study were tested for antibodies against four different dengue serotypes. Samples from 29 mothers who had undergone Zika infection during pregnancy and gave birth to children with microcephaly were investigated. Samples from 108 mothers who also had undergone Zika infection during pregnancy but gave birth to healthy children were used as controls. In this project, scientists from the Charité - Universitätsmedizin Berlin collaborated closely with the Federal University of Bahia and the Institute of Virology of the Bonn University Medical Centre.

Cofactor becomes a protective factor

The study showed that an existing immunity against dengue virus significantly reduces the risk of Zika-associated microcephaly in newly borns. "We can now say that people who have had early infections with dengue do not need to worry much about contracting more severe forms of Zika infection due to this," summarises Drexler.

This is an important message for pregnant women.

Consequently, it could not be confirmed that the dengue virus acts as a cofactor for congenital Zika infection. The scientists are now looking for further cofactors and other possibilities of identifying the risk of microcephaly early on.

Background

Felix Drexler and his research group have already developed several novel Zika virus tests. The Zika diagnostics project in Brazil was brought underway by the DZIF in order to act against the threat of emerging infections. It is also being funded by the EU programme Horizon 2020.

Zika and dengue viruses

Zika viruses are usually transmitted by mosquitoes, particularly by the Aedes species, but they can also be transmitted sexually. Symptoms of Zika include rashes, headaches, joint pain and muscle pain, conjunctivitis and sometimes fever.

However, these symptoms are considered mild compared to other tropical diseases that are transmitted by mosquitoes. During pregnancy, the virus can cause microcephaly and other malformations in the unborn child.

The dengue virus is also transmitted by mosquitoes of the Aedes species and has similar symptoms to Zika infection. Dengue usually causes high temperatures, headaches, muscle and joint pain. People usually recover within a few days, but complications may also occur. Dengue fever is one of the most common diseases transmitted by mosquitoes worldwide.

florida80
05-18-2019, 18:16
Wearable cooling and heating patch could serve as personal thermostat and save energy


University of California - San Diego


    Share

 Print  E-Mail


IMAGE


IMAGE: Prototype of the cooling and heating patch embedded in a mesh armband. view more 

Credit: David Baillot/UC San Diego Jacobs School of Engineering


Engineers at the University of California San Diego have developed a wearable patch that could provide personalized cooling and heating at home, work, or on the go. The soft, stretchy patch cools or warms a user's skin to a comfortable temperature and keeps it there as the ambient temperature changes. It is powered by a flexible, stretchable battery pack and can be embedded in clothing. Researchers say wearing it could help save energy on air conditioning and heating.

The work is published May 17 in the journal Science Advances.

"This type of device can improve your personal thermal comfort whether you are commuting on a hot day or feeling too cold in your office," said Renkun Chen, a professor of mechanical and aerospace engineering at UC San Diego who led the study.

The device, which is at the proof-of-concept stage, could also save energy. "If wearing this device can make you feel comfortable within a wider temperature range, you won't need to turn down the thermostat as much in the summer or crank up the heat as much in the winter," Chen said. Keeping a building's set temperature 12 degrees higher during the summer, for example, could cut cooling costs by about 70 percent, he noted.

There are a variety of personal cooling and heating devices on the market, but they are not the most convenient to wear or carry around. Some use a fan, and some need to be soaked or filled with fluid such as water.

Chen and a team of researchers at the UC San Diego Jacobs School of Engineering designed their device to be comfortable and convenient to wear. It's flexible, lightweight and can be easily integrated into clothing.

The patch is made of thermoelectric alloys--materials that use electricity to create a temperature difference and vice versa--sandwiched between stretchy elastomer sheets. The device physically cools or heats the skin to a temperature that the wearer chooses.

"You could place this on spots that tend to warm up or cool down faster than the rest of the body, such as the back, neck, feet or arms, in order to stay comfortable when it gets too hot or cold," said first author Sahngki Hong, a UC San Diego mechanical engineering alumnus who worked on the project as a PhD student in Chen's lab.

The researchers embedded a prototype of the patch into a mesh armband and tested it on a male subject. Tests were performed in a temperature-controlled environment. In two minutes, the patch cooled the tester's skin to a set temperature of 89.6 degrees Fahrenheit. It kept the tester's skin at that temperature as the ambient temperature was varied between 71.6 and 96.8 degrees Fahrenheit.

A building block for smart clothing

The ultimate goal is to combine multiple patches together to create smart clothing that can be worn for personalized cooling and heating. So engineers designed a soft electronic patch that can stretch, bend and twist without compromising its electronic function.

The work is a collaboration between several research groups at the UC San Diego Jacobs School of Engineering. Chen's lab, which specializes in heat transfer technology, led the study. They teamed up with nanoengineering professors Sheng Xu, an expert in stretchable electronics, Shirley Meng, an expert in battery technology, Ping Liu, who is also a battery expert, and Joseph Wang, a wearable sensors expert.

The researchers built the patch by taking small pillars of thermoelectric materials (made of bismuth telluride alloys), soldering them to thin copper electrode strips, and sandwiching them between two elastomer sheets.

The sheets are specially engineered to conduct heat while being soft and stretchy. Researchers created the sheets by mixing a rubber material called Ecoflex with aluminum nitride powder, a material with high thermal conductivity.

The patch uses an electric current to move heat from one elastomer sheet to the other. As the current flows across the bismuth telluride pillars, it drives heat along with it, causing one side of the patch to heat up and the other to cool down.

"To do cooling, we have the current pump heat from the skin side to the layer facing outside," Chen explained. "To do heating, we just reverse the current so heat pumps in the other direction."

The patch is powered by a flexible battery pack. It is made of an array of coin cells all connected by spring-shaped copper wires and embedded in a stretchable material.

Saving energy

One patch measures 5 × 5 centimeters in size and uses up to 0.2 watts worth of power. Chen's team estimates that it would take 144 patches to create a cooling vest. This would use about 26 watts total to keep an individual cool on an average hot day (during extreme heat, estimated power use would climb up to 80 watts, which is about how much a laptop uses). By comparison, a conventional air conditioning system uses tens of kilowatts to cool down an entire office.

It's more energy-efficient to cool down an individual person than a large room, researchers noted. "If there are just a handful of occupants in that room, you are essentially consuming thousands of watts per person for cooling. A device like the patch could drastically cut down on cooling bills," Chen said.

The team is now working on patches that could be built into a prototype cooling and heating vest. They hope to commercialize the technology in a few years.

"We've solved the fundamental problems, now we're tackling the big engineering issues--the electronics, hardware, and developing a mobile app to control the temperature," Chen said.

###
Paper title: "Wearable Thermoelectrics for Personalized Thermoregulation." Co-authors include Yue Gu and Joon Kyo Seo.

This work is supported by the Advanced Research Project Agency - Energy (ARPA-E, grant DE-AR0000535) and UC San Diego startup funds.


Disclaimer: AAAS and EurekAlert! are not responsible for the accuracy of news releases posted to EurekAlert! by contributing institutions or for the use of any information through

florida80
05-18-2019, 18:17
Earliest evidence of the cooking and eating of starch

Early human beings who lived around 120,000 years ago in South Africa were 'ecological geniuses' who were able to exploit their environment intelligently for suitable food and medicines

University of the Witwatersrand


    Share

 Print  E-Mail


IMAGE


IMAGE: The Klasies River cave in the southern Cape of South Africa. view more 

Credit: Wits University


New discoveries made at the Klasies River Cave in South Africa's southern Cape, where charred food remains from hearths were found, provide the first archaeological evidence that anatomically modern humans were roasting and eating plant starches, such as those from tubers and rhizomes, as early as 120,000 years ago.

The new research by an international team of archaeologists, published in the Journal of Human Evolution, provides archaeological evidence that has previously been lacking to support the hypothesis that the duplication of the starch digestion genes is an adaptive response to an increased starch diet.

"This is very exciting. The genetic and biological evidence previously suggested that early humans would have been eating starches, but this research had not been done before," says Lead author Cynthia Larbey of the Department of Archaeology at the University of Cambridge. The work is part of a systemic multidisciplinary investigation into the role that plants and fire played in the lives of Middle Stone Age communities.

The interdisciplinary team searched for and analysed undisturbed hearths at the Klasies River archaeological site.

"Our results showed that these small ashy hearths were used for cooking food and starchy roots and tubers were clearly part of their diet, from the earliest levels at around 120,000 years ago through to 65,000 years ago," says Larbey. "Despite changes in hunting strategies and stone tool technologies, they were still cooking roots and tubers."

Professor Sarah Wurz from the School of Geography, Archaeology and Environmental Studies at the University of the Witwatersrand in Johannesburg, South Africa (Wits University) and principal investigator of the site says the research shows that "early human beings followed a balanced diet and that they were ecological geniuses, able to exploit their environments intelligently for suitable foods and perhaps medicines".

By combining cooked roots and tubers as a staple with protein and fats from shellfish, fish, small and large fauna, these communities were able to optimally adapt to their environment, indicating great ecological intelligence as early as 120 000 years ago.

"Starch diet isn't something that happens when we started farming, but rather, is as old as humans themselves," says Larbey. Farming in Africa only started in the last 10 000 years of human existence.

Humans living in South Africa 120 000 years ago formed and lived in small bands.

"Evidence from Klasies River, where several human skull fragments and two maxillary fragments dating 120 000 years ago occur, show that humans living in that time period looked like modern humans of today. However, they were somewhat more robust," says Wurz.

Klasies River is a very famous early human occupation site on the Cape coast of South Africa excavated by Wurz, who, along with Susan Mentzer of the Senckenberg Institute and Eberhard Karls Universit?t Tübingen, investigated the small (c. 30cm in diameter) hearths.

###

The research to look for the plant materials in the hearths was inspired by Prof Hilary Deacon, who passed on the Directorship of the Klasies River site on to Wurz. Deacon has done groundbreaking work at the site and in the 1990's pointed out that there would be plant material in and around the hearths. However, at the time, the micro methods were not available to test this hypothesis.

florida80
05-18-2019, 18:17
'Imagine...' -- our attitudes can change solely by the power of imagination

Roland Benoit and Philipp Paulus together show that our attitudes can be influenced not only by what we actually experience but also by what we imagine

Max Planck Institute for Human Cognitive and Brain Sciences


    Share

 Print  E-Mail


Sometimes in life there are special places that seem to stand out to us - a school playground, perhaps an old church, or that inconspicuous street corner where you were kissed for the first time. Before the kiss you had never even noticed that corner. It's as if the special experience with that beloved person transferred positive emotion to the location. Our attitude towards these places thus suddenly changes - they become valuable to us. But could this also happen purely by the power of imagination rather than by actual experiences? Roland Benoit and Philipp Paulus from the Max Planck Institute for Human Cognitive and Brain Sciences, together with Daniel Schacter from Harvard University, have examined this question in a study published in the journal Nature Communications. They show that our attitudes can be influenced not only by what we actually experience but also by what we imagine. Furthermore, they believe the phenomenon is based on activity in a particular location in the front of our brains, the ventromedial prefrontal cortex.

Participants in their study were first asked to name people that they like very much and also people they don't like at all. In addition, they were asked to provide a list of places that they considered to be neutral. Later, when the participants were lying in the MRI scanner, they were asked to vividly imagine how they would spend time with a much-liked person at one of the neutral places. "So I might imagine myself with my daughter in the elevator of our institute, where she wildly pushes all the buttons. Eventually, we arrive at the roof top terrace, where we get out to enjoy the view," describes first author Roland Benoit, who heads the research group 'Adaptive Memory'.

After the MRI scanning, he and his colleagues were able to determine that the attitudes of the participants towards the places had changed: the previously neutral places that had been imagined with liked people were now regarded more positive than at the beginning of the study. The authors first observed this effect with study participants in Cambridge, MA, and then successfully replicated this effect in Leipzig, Germany. "Merely imagining interacting with a much-liked person at a neutral place can transfer the emotional value of the person to this place. And we don't even have to actually experience the episode in reality," is how co-author Daniel Schacter sums it up.

Using MRI data, the researchers were able to show how this mechanism works in the brain. The ventromedial prefrontal cortex plays an important role in this process. This is where information about individual persons and places from our environment is stored, as the authors assumed. But this region also evaluates how important individual people and places are for us. "We propose that this region bundles together representations of our environment by binding together information from the entire brain that form an overall picture," Roland Benoit explains.

"For example, there would be a representation with information about my daughter - what she looks like, how her voice sounds, how she reacts in certain situations. The idea now is that these representations also include an evaluation - for example, how important my daughter is to me and how much I love her."

Indeed, when the participants thought of a person that they liked more strongly, the scientists saw signs of greater activity in that region. "Now, when I imagine my daughter in the elevator, both her representation and that of the elevator become active in the ventromedial prefrontal cortex. This, in turn, can connect these representations - the positive value of the person can thus transfer to the previously neutral location."

Why are the researchers interested in this phenomenon? They want to better understand the human ability to experience hypothetical events through imagination and how we learn from imagined events much in the same way as from actual experiences. This mechanism can potentially augment future-oriented decisions and also help avoiding risks. According to Benoit, it will be important to also understand the consequences of negative thoughts: "In our study, we show how positive imaginings can lead to a more positive evaluation of our environment. I wonder how this mechanism influences people who tend to dwell on negative thoughts about their future, such as people who suffer from depression. Does such rumination lead to a devaluation of aspects of their life that are actually neutral or even positive?" This could be the next interesting research question for his team.

florida80
05-18-2019, 18:18
Study finds narrowing gender gap in youth suicides

Recent data show a disproportionate increase in the suicide rate among female relative to male youth

Nationwide Children's Hospital


    Share

 Print  E-Mail


New research from Nationwide Children's Hospital finds a disproportionate increase in youth suicide rates for females relative to males, particularly in younger youth aged 10-14 years. The report, which describes youth suicide trends in the United States from 1975 to 2016, appears this week in JAMA Network Open.

Suicide is the second leading cause of death among youth aged 10-19 years in the U.S., with rates historically higher in males than females. However, recent reports from the Centers for Disease Control and Prevention reveal female youth are experiencing a greater percent increase in suicide rates compared to males.

Donna Ruch, PhD, a post-doctoral researcher in the Center for Suicide Prevention and Research at the Research Institute at Nationwide Children's Hospital, examined these trends by investigating suicide rates among U.S. youth aged 10-19 years from 1975 through 2016.

The researchers found that following a downward trend in suicide rates for both sexes in the early 1990s, suicide rates increased for both sexes since 2007, but suicide rates for females increased more. There was a significant and disproportionate increase in suicide rates for females relative to males, with the largest percentage increase in younger females. These trends were observed across all regions of the country.

"Overall, we found a disproportionate increase in female youth suicide rates compared to males, resulting in a narrowing of the gap between male and female suicide rates," said Dr. Ruch.

When the researchers looked at the data by method, they found the rates of female suicides by hanging or suffocation are approaching those of males. This is especially troubling in light of the gender paradox in suicidal behavior, according to Jeff Bridge, PhD, director of the Center for Suicide Prevention and Research at Nationwide Children's and co-author of the new study.

Dr. Bridge said females have higher rates of non-fatal suicidal behavior, such as thinking about and attempting suicide, but more males die by suicide than females.

"One of the potential contributors to this gender paradox is that males tend to use more violent means, such as guns or hanging," said Dr. Bridge. "That makes the narrowing of the gender gap in suicide by hanging or suffocation that we found especially concerning from a public health perspective."

The researchers called for future work to examine whether there are gender-specific risk factors that have changed in recent years and how these determinants can inform intervention.

"From a public health perspective, in terms of suicide prevention strategies, our findings reiterate the importance of not only addressing developmental needs but also taking gender into account," said Dr. Ruch.

Dr. Bridge emphasized that asking children directly about suicide will not trigger subsequent suicidal thinking or behavior.

"Parents need to be aware of the warning signs of suicide, which include a child making suicidal statements, being unhappy for an extended period, withdrawing from friends or school activities or being increasingly aggressive or irritable," he said. "If parents observe these warning signs in their child, they should consider taking the child to see a mental health professional."

florida80
05-18-2019, 18:19
Study may help prevent relapse in cocaine use disorder patients

Brazilian researchers combined cognitive dysfunction tests with an analysis of drug use patterns to identify patients at high risk of relapse after treatment

Fundaçăo de Amparo à Pesquisa do Estado de Săo Paulo


    Share

 Print  E-Mail


A study conducted at the University of Săo Paulo (USP) in Brazil and described in an article published in the journal Drug and Alcohol Dependence may help healthcare workers identify patients who risk relapse after undergoing treatment for cocaine use disorder.

According to the authors, the findings reinforce the need to offer individualized treatment strategies for these cases, which are considered severe.

The principal investigator for the study was Paulo Jannuzzi Cunha, a professor at the University of Săo Paulo's Medical School (FM-USP), with a postdoctoral research scholarship from Săo Paulo Research Foundation - FAPESP and support from the National Council for Scientific and Technological Development (CNPq).

For 30 days, the researchers monitored 68 patients admitted for treatment for cocaine dependence to the Psychiatry Institute of Hospital das Clínicas, FM-USP's general and teaching hospital in Săo Paulo. All patients volunteered to participate in the study. They were contacted three months after discharge to verify their abstinence. All but 14 reported a relapse, defined as at least one episode of cocaine use during the period.

One of the goals of the study was to determine whether the 11 criteria for diagnosing chemical dependence established in the DSM-5 were also effective at predicting the response to treatment. DSM-5 is the latest edition of the Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, published by the American Psychiatric Association (APA) and valued as the standard classification by mental health professionals in many parts of the world.

"Our hypothesis was that these criteria would not help accurately predict relapse. However, after completing the study, we recognized that they may in fact be useful for predicting vulnerability to relapse," Cunha told.

The DSM-5 criteria for diagnosing a substance use disorder include taking the drug in larger amounts and/or for longer periods than intended; craving, or a strong desire to use the drug; giving up social, occupational or recreational activities because of substance use; continued use despite having persistent social or interpersonal problems caused or exacerbated by the effects of the drug; tolerance (needing increasing amounts to achieve the desired effect); and withdrawal symptoms, among others.

According to the DSM-5 guidelines, a substance use disorder can be considered mild if two or three of the 11 criteria are met for a year, moderate if four or five are met for a year, or severe if six or more are met for a year.

"Our sample included only cases classified as severe. We observed a clear difference between patients who met six to eight criteria and those who met nine to 11. The relapse rate was significantly higher in the latter group," said Danielle Ruiz Lima, first author of the article.

The results suggested that the three categories recommended by DSM-5 should be reviewed. "There seems to be an 'ultra-severe' group as well as a 'severe' group," they said.

Refining the analysis

Another hypothesis investigated was that the pattern of cocaine use (DSM-5 score plus factors such as age at use onset and intensity of use in the month prior to hospital admission) and the cognitive deficit caused by the drug were related variables that could help predict a relapse after treatment.

The researchers used several tests to assess the participants' performance in executive functioning, which include working memory (required for specific actions, such as those of a waiter who has to associate orders with customers and deliver them correctly), sustained attention (the ability to focus for as long as it takes to complete a specific task, such as filling out a form, without being distracted), and inhibitory control (the capacity to control impulses).

The researchers applied the tests a week after admission on average, as they considered this waiting time sufficient to know whether the urine toxicology was negative. The aim of this procedure was to avoid acute effects of the drug on the organism.

One of the tests used to measure memory span required the patient to repeat an ascending sequence of numbers presented by the researchers. Patients who had made intensive use of cocaine in the previous month before admission underperformed on this test.

In other tests, in this case used to measure selective attention, cognitive flexibility and inhibitory control, patients were asked to repeat a sequence of colors and then to name the ink color when the name of a different color is printed (the word "yellow" printed in blue ink, for example).

"The automatic response is to read what's written instead of naming the ink color, as required. Inhibitory control is essential to perform this task. This function is extremely important in the early stages of drug dependence rehabilitation, when the patient has to deal with craving and situations that stimulate the desire to use the drug," Cunha said.

The analysis showed a correlation between inhibitory control test results and the age at cocaine use onset. "The earlier the onset, the more mistakes they made, which could point to a higher risk of relapse. The idea is to identify the people who have substantial difficulties so that we can work out individualized treatment strategies," Lima said.

Intense cocaine use in the 30 days preceding admission also correlated with underperformance on the inhibitory control test and the working memory test, in which the patient was asked to listen to a sequence of numbers and repeat them in reverse order, reflecting an important function for the manipulation of information as a basis for decision making.

According to the researchers, studies have shown that executive functions may be restored after a period of abstinence, but to what extent and how long this recovery may take are unknown.

The research group at FM-USP advocates cognitive rehabilitation programs to support the recovery process. "We have a motivational chess proposal that's being studied right now," Cunha said. "A therapist plays chess with the patient and then discusses the moves, making analogies with the patient's life in an attempt to transfer the knowledge acquired in the chess game to day-to-day experience and train inhibitory control, planning and healthy decision making in the real world."

In his view, the assessment of cognitive deficits is important for both diagnosing substance use disorder and predicting relapse. "Chemical dependence is a brain disease, and these neuropsychological tests offer a slide rule with which to measure objectively whether the damage is mild, moderate or severe, along similar lines to the classification of dementia," he said.

According to the researchers, despite the clinical relevance of neuropsychological test results, they are not part of the DSM-5 criteria, which are based solely on self-reported factors and clinical observations.

"We hope the sixth edition of the DSM takes these developments into account in recognition of the research done by us and other groups worldwide," Cunha said

florida80
05-18-2019, 18:20
News Release 16-May-2019

How we make complex decisions

Neuroscientists identify a brain circuit that helps break decisions down into smaller pieces

Massachusetts Institute of Technology


    Share

 Print  E-Mail


CAMBRIDGE, MA -- When making a complex decision, we often break the problem down into a series of smaller decisions. For example, when deciding how to treat a patient, a doctor may go through a hierarchy of steps -- choosing a diagnostic test, interpreting the results, and then prescribing a medication.

Making hierarchical decisions is straightforward when the sequence of choices leads to the desired outcome. But when the result is unfavorable, it can be tough to decipher what went wrong. For example, if a patient doesn't improve after treatment, there are many possible reasons why: Maybe the diagnostic test is accurate only 75 percent of the time, or perhaps the medication only works for 50 percent of the patients. To decide what do to next, the doctor must take these probabilities into account.

In a new study, MIT neuroscientists explored how the brain reasons about probable causes of failure after a hierarchy of decisions. They discovered that the brain performs two computations using a distributed network of areas in the frontal cortex. First, the brain computes confidence over the outcome of each decision to figure out the most likely cause of a failure, and second, when it is not easy to discern the cause, the brain makes additional attempts to gain more confidence.

"Creating a hierarchy in one's mind and navigating that hierarchy while reasoning about outcomes is one of the exciting frontiers of cognitive neuroscience," says Mehrdad Jazayeri, the Robert A. Swanson Career Development Professor of Life Sciences, a member of MIT's McGovern Institute for Brain Research, and the senior author of the study.

MIT graduate student Morteza Sarafyzad is the lead author of the paper, which appears in Science on May 16.

Hierarchical reasoning

Previous studies of decision-making in animal models have focused on relatively simple tasks. One line of research has focused on how the brain makes rapid decisions by evaluating momentary evidence. For example, a large body of work has characterized the neural substrates and mechanisms that allow animals to categorize unreliable stimuli on a trial-by-trial basis. Other research has focused on how the brain chooses among multiple options by relying on previous outcomes across multiple trials.

"These have been very fruitful lines of work," Jazayeri says. "However, they really are the tip of the iceberg of what humans do when they make decisions. As soon as you put yourself in any real decision-making situation, be it choosing a partner, choosing a car, deciding whether to take this drug or not, these become really complicated decisions. Oftentimes there are many factors that influence the decision, and those factors can operate at different timescales."

The MIT team devised a behavioral task that allowed them to study how the brain processes information at multiple timescales to make decisions. The basic design was that animals would make one of two eye movements depending on whether the time interval between two flashes of light was shorter or longer than 850 milliseconds.

A twist required the animals to solve the task through hierarchical reasoning: The rule that determined which of the two eye movements had to be made switched covertly after 10 to 28 trials. Therefore, to receive reward, the animals had to choose the correct rule, and then make the correct eye movement depending on the rule and interval. However, because the animals were not instructed about the rule switches, they could not straightforwardly determine whether an error was caused because they chose the wrong rule or because they misjudged the interval.

The researchers used this experimental design to probe the computational principles and neural mechanisms that support hierarchical reasoning. Theory and behavioral experiments in humans suggest that reasoning about the potential causes of errors depends in large part on the brain's ability to measure the degree of confidence in each step of the process. "One of the things that is thought to be critical for hierarchical reasoning is to have some level of confidence about how likely it is that different nodes [of a hierarchy] could have led to the negative outcome," Jazayeri says.

The researchers were able to study the effect of confidence by adjusting the difficulty of the task. In some trials, the interval between the two flashes was much shorter or longer than 850 milliseconds. These trials were relatively easy and afforded a high degree of confidence. In other trials, the animals were less confident in their judgments because the interval was closer to the boundary and difficult to discriminate.

As they had hypothesized, the researchers found that the animals' behavior was influenced by their confidence in their performance. When the interval was easy to judge, the animals were much quicker to switch to the other rule when they found out they were wrong. When the interval was harder to judge, the animals were less confident in their performance and applied the same rule a few more times before switching.

"They know that they're not confident, and they know that if they're not confident, it's not necessarily the case that the rule has changed. They know they might have made a mistake [in their interval judgment]," Jazayeri says.

Decision-making circuit

By recording neural activity in the frontal cortex just after each trial was finished, the researchers were able to identify two regions that are key to hierarchical decision-making. They found that both of these regions, known as the anterior cingulate cortex (ACC) and dorsomedial frontal cortex (DMFC), became active after the animals were informed about an incorrect response. When the researchers analyzed the neural activity in relation to the animals' behavior, it became clear that neurons in both areas signaled the animals' belief about a possible rule switch. Notably, the activity related to animals' belief was "louder" when animals made a mistake after an easy trial, and after consecutive mistakes.

The researchers also found that while these areas showed similar patterns of activity, it was activity in the ACC in particular that predicted when the animal would switch rules, suggesting that ACC plays a central role in switching decision strategies. Indeed, the researchers found that direct manipulation of neural activity in ACC was sufficient to interfere with the animals' rational behavior.

"There exists a distributed circuit in the frontal cortex involving these two areas, and they seem to be hierarchically organized, just like the task would demand," Jazayeri says.

florida80
05-18-2019, 18:21
Human capital benefits of military boost economy by billions


North Carolina State University


    Share

 Print  E-Mail


A recent study from North Carolina State University finds that U.S. government spending on military personnel has a positive impact on the nation's human capital - essentially improving the American workforce. Using a new computer model, the study estimates the economic impact of this human capital improvement to be $89.8 billion for 2019 alone.

"Previous efforts to estimate the economic impact of military spending have viewed that spending collectively, whether the money was spent on buying new planes or training personnel," says Bruce McDonald, author of a paper on the study and an associate professor of public budgeting and finance in NC State's School of Public and International Affairs. "I was able to obtain spending records that detailed precisely how the military was spending its money, and that allowed me to tease out the effect of military spending on human capital and what that means for the U.S. economy."

McDonald used year-by-year expense report data for all Defense Department spending from 1949 through 2014 to develop a computational economic model. The model was able to estimate the overall economic impact of military spending, as well as what portion of that impact comes from human capital investment versus spending on material goods.

"Basically, the model shows that 18.9 percent of annual economic growth in the U.S. can be attributed to human capital investments made by the military," McDonald says. "This likely reflects the scope of the military's personnel training and education efforts - from entry level training to training in technical specialties to sending personnel to medical school."

Economic growth is measured by year-to-year growth of the GDP, which comes to $475.5 billion for 2019. And, since 18.9 percent of $475.5 billion is $89.8 billion, that's how much can be attributed this year to military spending on human capital.

"Understanding these complex economic relationships is important for ensuring that we are making informed decisions about both the size of the military and how we fund it," McDonald says.

florida80
05-19-2019, 17:44
News Release 19-May-2019

Researchers document impact of coffee on bowels



Rat study shows coffee changes gut microbiome and improves ability of intestines to contract

Digestive Disease Week


    Share

 Print  E-Mail


San Diego, Calif. (May 19, 2019) -- Coffee drinkers know that coffee helps keep the bowels moving, but researchers in Texas are trying to find out exactly why this is true, and it doesn't seem to be about the caffeine, according to a study presented at Digestive Disease Week® (DDW) 2019. Researchers, feeding rats coffee and also mixing it with gut bacteria in petri dishes, found that coffee suppressed bacteria and increased muscle motility, regardless of caffeine content.

"When rats were treated with coffee for three days, the ability of the muscles in the small intestine to contract appeared to increase," said Xuan-Zheng Shi, PhD, lead author of the study and associate professor in internal medicine at the University of Texas Medical Branch, Galveston. "Interestingly, these effects are caffeine-independent, because caffeine-free coffee had similar effects as regular coffee."

Coffee has long been known to increase bowel movement, but researchers have not pinpointed the specific reason or mechanism. Researchers examined changes to bacteria when fecal matter was exposed to coffee in a petri dish, and by studying the composition of feces after rats ingested differing concentrations of coffee over three days. The study also documented changes to smooth muscles in the intestine and colon, and the response of those muscles when exposed directly to coffee.

The study found that growth of bacteria and other microbes in fecal matter in a petri dish was suppressed with a solution of 1.5 percent coffee, and growth of microbes was even lower with a 3 percent solution of coffee. Decaffeinated coffee had a similar effect on the microbiome.

After the rats were fed coffee for three days, the overall bacteria counts in their feces were decreased, but researchers said more research is needed to determine whether these changes favor firmicutes, considered "good" bacteria, or enterobacteria, which are regarded as negative.

Muscles in the lower intestines and colons of the rats showed increased ability to contract after a period of coffee ingestion, and coffee stimulated contractions of the small intestine and colon when muscle tissues were exposed to coffee directly in the lab.

The results support the need for additional clinical research to determine whether coffee drinking might be an effective treatment for post-operative constipation, or ileus, in which the intestines quit working after abdominal surgery, the authors said.

###

florida80
05-19-2019, 17:45
Walking and strength training may decrease the risk of dying from liver disease

Study of exercise habits of 117,000 people over 26 years assesses risk factors

Digestive Disease Week


   


San Diego, Calif. (May 19, 2019) -- Physical activity, including walking and muscle-strengthening activities, were associated with significantly reduced risk of cirrhosis-related death, according to research presented at Digestive Disease Week® (DDW) 2019. Chronic liver disease is increasing, partly due to the obesity epidemic, and currently there are no guidelines for the optimal type of exercise for the prevention of cirrhosis-related mortality. Researchers hope these findings will help provide specific exercise recommendations for patients at risk for cirrhosis and its complications.

"The benefit of exercise is not a new concept, but the impact of exercise on mortality from cirrhosis and from liver cancer has not yet been explored on this scale," said Tracey Simon, MD, lead researcher on the study and instructor of medicine at Harvard Medical School and Massachusetts General Hospital, Boston. "Our findings show that both walking and strength training contribute to substantial reductions in risk of cirrhosis-related death, which is significant because we know very little about modifiable risk factors."

Dr. Simon and her team prospectively followed 68,449 women from the Nurses' Health Study and 48,748 men from the Health Professionals Follow-up Study, without known liver disease at baseline. Participants provided highly accurate data on physical activity, including type and intensity, every two years from 1986 through 2012, which allowed researchers to prospectively examine the association between physical activity and cirrhosis-related death.

Researchers observed that adults in the highest quintile of weekly walking activity had 73 percent lower risk for cirrhosis-related death than those in the lowest quintile. Further risk reduction was observed with combined walking and muscle-strengthening exercises.

Previous research has been limited to studies that assessed physical activity at just one point in time, or studies with very short-term follow-up. This was the first prospective study in a large U.S. population to include detailed and updated measurements of physical activity over such a prolonged period, which allowed researchers to more precisely estimate the relationship between physical activity and liver-related outcomes.

"In the U.S., mortality due to cirrhosis is increasing dramatically, with rates expected to triple by the year 2030. In the face of this alarming trend, information on modifiable risk factors that might prevent liver disease is needed," said Dr. Simon. "Our findings support further research to define the optimal type and intensity of physical activity to prevent adverse outcomes in patients at risk for cirrhosis."

###

florida80
05-19-2019, 17:46
News Release 19-May-2019

Many with mild asthma, low sputum eosinophils respond equally well to steroids as placebo

'Low eosinophil' biomarkers found in nearly three-quarters of people with mild asthma

NIH/National Heart, Lung and Blood Institute

florida80
05-19-2019, 17:47
News Release 19-May-2019

Growth in life expectancy in Australia slows, research finds


University of Melbourne


 


After 20 years of rapid increases in life expectancy at birth, the rate of growth in Australia is now falling behind most other high-income nations, meaning better control of health risk factors such as obesity will be needed if further life expectancy increases are to be achieved, research shows.

Published today by the Medical Journal of Australia, researchers from the University of Melbourne School of Population and Global Health have analysed data for Australia and 26 other high-income countries from 1980-2016.

Researchers found from 1981 to 2003, life expectancy at birth increased rapidly in Australia, both in absolute terms, and in comparison, with other high-income countries.

For males, the difference in life expectancy between Australia and the other 26 countries increased from +0.7 years to +2.3 years over this period. For females, the difference in life expectancy increased from +0.9 years to +1.3 years.

University of Melbourne Rowden-White Chair of Global Health and Burden of Disease Measurement Alan Lopez said the main contributor to greater increases in life expectancy for males in Australia than in western Europe was lower mortality from ischaemic heart disease.

"Compared with the United States, mortality from ischaemic heart disease, cerebrovascular disease, and transport-related injuries was lower," Laureate Professor Lopez said.

Since 2003, researchers found life expectancy has increased more slowly for both sexes than in most other high-income countries, mainly because declines in mortality from cardiovascular disease and cancer have slowed. For males, it was +2.3 years in 2015, and females, +1.1 years.

"Together with the high prevalence of obesity, this suggests that future life expectancy increases will be smaller than in other high-income countries," Professor Lopez said.

University of Melbourne researcher and co-author Tim Adair said this slowing should concern public health policy makers.

"Life expectancy in Australia is among the highest in the world, a testament to boldly progressive public health interventions over several decades," Dr Adair said.

"However, there are several major barriers to marked increases, including the notably higher mortality of more recent birth cohorts and the comparative failure of efforts to reduce levels of overweight and obesity.

"Other high-income countries have greater scope for reducing the prevalence of smoking. As a result, our high global ranking with regard to life expectancy at birth is unlikely to be maintained unless new strategies for reducing mortality associated with specific behaviours are developed and deployed effectively."

florida80
05-19-2019, 17:48
News Release 19-May-2019

New risk scores help physicians provide better care for high-risk pulmonary patients, study finds


Intermountain Medical Center


   




IMAGE: A new laboratory-based method of estimating outcomes for patients with a severe pulmonary disorder that has no cure may help physicians better provide proper care, referrals, and services for patients... view more 

Credit: Intermountain Healthcare

A new laboratory-based method of estimating outcomes for patients with a severe pulmonary disorder that has no cure can help physicians better provide proper care, referrals, and services for patients at the end of life, according to a new study of more than 17,000 patients from Intermountain Healthcare.

The Laboratory-based Intermountain Validated Exacerbation (LIVE) score is a prediction model that predicts all-cause mortality, morbidity, and hospitalization rates for patients with chronic obstructive pulmonary disease (COPD), a chronic, progressive lung disease that gradually makes it hard to breathe. COPD affects roughly 16 million Americans, or just under five percent of the U.S. population. It's estimated that millions more have the disease, but are undiagnosed.

The LIVE score combines a patient's simple laboratory values (levels of hemoglobin, albumin, creatinine, chloride, and potassium) to identify patients who are at high risk of death or further disease advancement, and who may most need referrals to palliative care and advanced care planning resources.

In the study, Intermountain Healthcare researchers calculated the LIVE scores of 17,124 patients with COPD from the Kaiser Health System Northwest Region. They found that patients with high-risk LIVE scores had the highest one-year mortality rates (39.4%) and the highest rate of palliative care referrals (41.7%). In comparison, patients with the lowest risk LIVE scores had 0.7% all cause one-year mortality and 0.7% palliative care referral rate.

"We found the LIVE score helps personalize therapy to patients beyond the COPD diagnosis alone and provides additional risk information to both patients and their doctors. From a population health perspective, the LIVE score allows for designing pathways of care that identify and treat patients based on individual risk beyond a single diagnosis label alone," said Denitza Blagev, MD, the study's lead author, and a pulmonary and critical care physician at Intermountain Medical Center, who serves as medical director for Quality, Specialty Based Care at Intermountain Healthcare in Salt Lake City.

Results from the study will be presented at the annual international conference of the American Thoracic Society, in Dallas on May 19.

Unlike other COPD risk scores, the LIVE score is entirely based on blood tests and assesses rates of other diseases in COPD patients rather than lung function specifically. While diseases such as heart disease and kidney disease contribute to the risk of death, hospitalization, and symptoms in patients with COPD, there has been no systematic way of incorporating these diseases in determining overall risk for patients with COPD, until now.

Researchers say the findings can help physicians determine which of their COPD patients are at highest risk, and who may benefit from palliative care and appropriate end-of-life services. Palliative care focuses on relief from the symptoms of a serious disease, rather than on a cure, and is often provided in the final stages of a patient's life.

While patients with COPD in general are considered high risk, there is a lot of variability in the risk of death for a particular patient with a COPD diagnosis. By using the LIVE score clinicians can design health system interventions that assess high-risk patients for palliative care evaluation.

"By exploring the association of palliative care referrals and LIVE score risk, this study is a step forward in understanding how the LIVE score may be used to target appropriate patient care," said Dr. Blagev.

"Our findings lend more insight into how we can use these laboratory-based scores at the bedside to ensure that patients are receiving the most appropriate care," she said. "This doesn't mean everyone with high risk needs to be referred to palliative care, but it shows potential opportunities to improve care for patients in that highest risk group," said Dr. Blagev.

For example, for a COPD patient with a low-risk LIVE score, interventions aimed at optimizing COPD management may be most effective, as the risk of other diseases and death is relatively low. In contrast, a patient with a high-risk LIVE score may see benefit from COPD-directed therapy, but may find even more improvement with management of their other diseases, which contribute to the risk of death.

Researchers note that the LIVE score model has already been validated in more than 100,000 COPD patients at several diverse health systems, so these new study findings further demonstrate the effectiveness of using the model to enhance care and planning for patients

florida80
05-19-2019, 18:02
Bacterial pneumonia predicts ongoing lung problems in infants with acute respiratory FAI


American Thoracic Society


    Share

 Print  E-Mail


ATS 2019, Dallas, TX -- Bacterial pneumonia appears to be linked to ongoing breathing problems in previously healthy infants who were hospitalized in a pediatric intensive care unit for acute respiratory failure, according to research presented at ATS 2019. The researchers found that infants with bacterial pneumonia when they left the hospital were more likely to have lung problems that required supplemental oxygen, bronchodilators or steroids

florida80
05-19-2019, 18:03
News Release 18-May-2019

Button batteries can rapidly damage stomach lining before symptoms appear

Experts recommend changing current practice of watchful waiting

Digestive Disease Week


   


San Diego, CA (May 18, 2019) -- Damage to the lining of the stomach can occur quickly when children swallow button batteries; therefore, clinicians should consider prompt endoscopic removal, even when the child is symptom free and the battery has passed safely through the narrow esophagus, according to research presented at Digestive Disease Week® (DDW) 2019. The recommendations represent a change from current practice of watching and waiting.

"We know there can be injury even when there are no symptoms," said Racha Khalaf, MD, lead researcher and pediatric gastroenterology, hepatology and nutrition fellow at the Digestive Health Institute at Children's Hospital Colorado, Aurora. "Batteries in the stomach cause damage, including perforation of the gastric wall, so physicians should consider removing the batteries as soon as possible and not let them pass through the digestive tract."

Researchers from pediatric hospitals in Colorado, Florida, Texas and Ohio collected data regarding 68 button battery ingestions from January 2014 to May 2018. Previous research has been conducted on button batteries lodged in the esophagus, but little is known about the effect in the stomach.

"We have been seeing more injuries from button batteries," Dr. Khalaf said. "The batteries come in toys, remote controls, key fobs, singing greeting cards and watches. They are everywhere."

Erosive injuries to the mucous lining of the stomach were found in 60 percent of cases reviewed, with no apparent relationship between damage and symptoms, or with the amount of time passed since ingestion. This suggests that clinicians and parents should not wait for symptoms or passage of time to act, Dr. Khalaf said, adding that removing the battery earlier avoids repeated trips to the emergency room or pediatrician's office and reduces repetitive x-rays or other imaging.

The authors' recommendations are more aggressive than those of two national organizations that have issued recommendations about button battery ingestion. The North American Society for Pediatric Gastroenterology, Hepatology and Nutrition recommends observation when it's been less than two hours since ingestion, the battery is 20 mm or smaller, and the child is at least 5 years old. The National Capital Poison Center, which runs the National Battery Ingestion Hotline, currently recommends observation alone for asymptomatic gastric button batteries to allow them to pass through the digestive system

florida80
05-19-2019, 18:04
News Release 18-May-2019

Men ignore serious health risks of steroid abuse in pursuit of the body beautiful


European Society of Endocrinology


  


Many men continue to abuse steroids despite knowing that they have serious, life-limiting and potentially lethal side effects, according to findings to be presented in Lyon, at the European Society of Endocrinology annual meeting, ECE 2019. The study findings indicate that men using anabolic steroids to improve strength and physical performance are often aware of the side effects but choose to continue taking them. This raises serious concerns not only for their own health but that of future generations, since side effects are known to damage sperm as well as increase the risk of sexual dysfunction, heart disease and liver damage.

Anabolic steroids such as testosterone are performance-enhancing hormones that increase muscle mass and boost athletic ability, which has led to their misuse and abuse by some, and men in particular. However, the use of steroids has some life-limiting and serious side effects including reduced sperm count, erectile dysfunction, baldness, breast development and an increased risk of heart disease, stroke and liver or kidney failure. Despite this steroid misuse persists, a 2014 study estimated that worldwide 3.3% of the population or 6.4% of the male population are abusing steroids. Recent evidence has suggested that not only do steroids pose serious health risks to the individual but that they also cause damage to sperm, so could be harmful to their future children. To adequately tackle this health issue, it is necessary to establish whether men abusing steroids are fully aware of all the risks or if they are choosing to ignore them.

In this study, Dr Mykola Lykhonosov and colleagues from Pavlov First Saint Petersburg State Medical University in Russia, conducted an anonymous survey of men, who regularly attend the gym, to assess their knowledge of, use of and attitude towards the health risks of anabolic steroids. Of 550 respondents 30.4% said they used steroids, 74.3% of users were aged 22-35 years old and 70.2% of users said they were aware of the side effects. In addition, 54.8% of all respondents indicated that they would like to receive more expert information on steroids and their side effects.

Dr Lykhonosov says, "These findings were surprising, not only was the prevalence of steroid abuse high, knowledge of the damaging side effects was also high, yet this does not stop them taking them."

Dr Lykhonosov's now plans to investigate how to treat hormonal imbalances and disorders caused by steroid abuse. He also thinks that greater public awareness of steroid abuse and its health risks may help discourage users.

Dr Lykhonosov comments, "We need to tackle this growing public health problem, increasing awareness through the promotion of stories from former users, on how steroid abuse has negatively impacted on their health and lives, could be a good strong message to discourage abuse."

florida80
05-19-2019, 18:05
News Release 18-May-2019

Breastfeeding reduces long-term risk of heart disease in mothers


European Society of Endocrinology


    Share

 Print  E-Mail


Women who breastfed their babies are less likely to develop heart disease later in life, according to findings to be presented in Lyon, at the European Society of Endocrinology annual meeting, ECE 2019. The study also suggests that the protective effect on heart health is increased in women who breastfed for longer periods of time. These findings provide further evidence for the long-term health benefits of breastfeeding and that women should be encouraged to do so when possible.

Breastfeeding has previously been shown to reduce the risk of postpartum depression and the risk of certain cancers in women. It has also been established that breastfeeding can help mothers to maintain a healthy body weight and regulate their blood sugar. These benefits are likely to be related to the higher levels of the hormone, prolactin, in breastfeeding mothers. More recently, studies have indicated that prolactin reduces the risk of diabetes, which is a major risk factor for cardiovascular disease. Cardiovascular disease is a leading cause of death among women worldwide but the long-term protective effects of breastfeeding on heart disease risk have not been adequately investigated.

In this study, Professor Irene Lambrinoudaki from the University of Athens and colleagues, measured markers of heart and blood vessel health in postmenopausal women, in relation to their history of breastfeeding. After adjusting for other cardiovascular health risk factors, including body weight, age, cholesterol levels and smoking habits, the data indicated that women who had breastfed had significantly lower levels of heart disease and heart disease risk indicators. This effect was even more significant in women that had breastfed for longer periods of time.

Prof Lambrinoudaki says, "These findings indicate that breastfeeding lowers the risk of heart disease in women. However, this is an association study only, we are now interested in looking at establishing the underlying causes of this protective effect."

Prof Lambrinoudaki comments, "If we can show causality for the protective effect, women will have one more reason to nurse their infants, beyond the already documented benefits of breastfeeding for short- and long term health of both them and their children."

Prof Lambrinoudaki's team are now investigating the molecular mechanisms of how prolactin affects blood sugar, which is a major risk factor for heart disease. This research could uncover new mechanisms to target in the prevention of heart disease for everyone, not just breastfeeding women.

florida80
05-19-2019, 18:09
Clinical trial at IU School of Medicine improves treatment of genetic rickets


Indiana University


 






IMAGE: Erik Imel, MD view more 

Credit: Indiana University School of Medicine

A new study shows a drug developed in conjunction with investigators at Indiana University School of Medicine to alleviate symptoms of a rare musculoskeletal condition is significantly more effective than conventional therapies. The findings are published in Lancet.

X-linked hypophosphatemia, or XLH, is a phosphate-wasting disease that causes rickets and osteomalacia, or softening of the bones, and can cause short stature, bowed legs, dental abscesses and bone pain. This rare, genetic disease affects about 1 in every 20,000 people.

Researchers recruited 61 children between the ages of 1 and 12 at 16 centers around the world, including the U.S., Canada, the United Kingdom, Sweden, Australia, Japan and Korea. The children were randomly assigned to either receive Burosumab, a biweekly injection that was approved by the Food and Drug Administration in April 2018, or conventional therapies of taking oral phosphate and active vitamin D several times a day. The primary outcome was improvement in rickets on X-rays, as scored by radiologists that were unaware of which treatment group the participant was in.

The children were observed for 64 weeks, and by 40 weeks of treatment, researchers found 72 percent of the children who received Burosumab achieved substantial healing of rickets, while only 6 percent of those in the conventional therapy group saw substantial healing. Burosumab also led to greater improvements in leg deformities, growth, distance walked in a 6-minute test and serum phosphorus and active vitamin D levels.

"This is the first study comparing Burosumab head-to-head with conventional therapy," said lead investigator Erik Imel, MD, associate professor of medicine at IU School of Medicine. "We now know the magnitude of benefit from Burosumab over the prior approach with conventional therapy. This information is critical for doctors to make treatment decisions for patients with XLH."

Researchers plan to continue studying the long-term effects of Burosumab, including the effect treating children has on height outcomes as an adult and whether this treatment will decrease the need for surgeries to correct bowed legs.

Burosumab blocks a protein called fibroblast growth factor 23 that was originally discovered by investigators at Indiana University School of Medicine. Burosumab is marketed by Ultragenyx Pharmaceutical, Inc. in collaboration with Kyowa Hakko Kirin Co., Ltd. and its European subsidiary, Kyowa Kirin International PLC, under the brand name Crysvita.

###

florida80
05-19-2019, 18:10
News Release 17-May-2019

IU researchers develop electric field-based dressing to help heal wound infections


Indiana University


    Share

 Print  E-Mail



IMAGE


IMAGE: Chandan Sen, PhD view more 

Credit: Indiana University School of Medicine

Researchers at Indiana University School of Medicine have found a way to charge up the fight against bacterial infections using electricity.

Work conducted in the laboratories of the Indiana Center for Regenerative Medicine and Engineering, Chandan Sen, PhD and Sashwati Roy, PhD has led to the development of a dressing that uses an electric field to disrupt biofilm infection. Their findings were recently published in the high-impact journal "Annals of Surgery."

Bacterial biofilms are thin, slimy films of bacteria that form on some wounds, including burns or post-surgical infections, as well as after a medical device, such as a catheter, is placed in the body. These bacteria generate their own electricity, using their own electric fields to communicate and form the biofilm, which makes them more hostile and difficult to treat. The Centers for Disease Control and Prevention estimates 65 percent of all infections are caused by bacteria with this biofilm phenotype, while the National Institutes of Health estimates that number is closer to 80 percent.

Researchers at IU School of Medicine are the first to study the practice of using an electric field-based dressing to treat biofilms rather than antibiotics. They discovered the dressing is not only successful in fighting the bacteria on its own, but when combined with other medications can make them even more effective. This discovery has the potential to create significant changes in the way physicians treat patients with bacterial infections which are resistant to antibiotics. The dressing can also help prevent new biofilm infections from forming in the future. The dressing electrochemically self-generates 1 volt of electricity upon contact with body fluids such as wound fluid or blood, which is not enough to hurt or electrocute the patient.

"This shows for the first time that bacterial biofilm can be disrupted by using an electroceutical dressing," said Chandan Sen, PhD, director of the Indiana Center for Regenerative Medicine and Engineering and associate vice president of research for the IU School of Medicine Department of Surgery. "This has implications across surgery as biofilm presence can lead to many complications in successful surgical outcomes. Such textile may be considered for serving as hospital fabric - a major source of hospital acquired infections"

Marketing of the dressing for burn care was recently approved by the Food and Drug Administration. The team is now studying the device's effectiveness in patients recovering from burns.

florida80
05-19-2019, 18:11
Children in Quebec are not diagnosed early enough with type 1 diabetes

A study reveals a rise in the number of children presenting a life-threatening complication at diagnosis

McGill University Health Centre


    Share

 Print  E-Mail


IMAGE


IMAGE: Dr. Meranda Nakhla, senior author of the study, is a pediatric endocrinologist at the Montreal Children's Hospital of the McGill University Health Centre (MUHC) and a scientist from the... view more 

Credit: McGill University Health Centre (Julie Robert)


Montreal, May 14 2019-- Elwyn was a healthy 13 month-old toddler when she started drinking water from the bathtub. Over time, she became increasingly thirsty and demanded more and more breast milk. For her parents, this seemed like typical behaviour related to a growth spurt. One day, however, they noticed that she was abnormally weak and rushed her to the emergency department. She was diagnosed with type 1 diabetes and had already developed a life-threatening complication of the disease known as diabetic ketoacidosis. She was immediately transferred to the intensive care unit, where she was treated for several days. Now two years old, Elwyn is still recovering, but doing better.

Unfortunately, the late diagnosis of type 1 diabetes and its severe complications is not uncommon. According to a new study led by a team at the Research Institute of the McGill University Health Centre (RI-MUHC), more than 25% of children in Quebec diagnosed with type 1 diabetes already have diabetic ketoacidosis. Their findings, published today in CMAJ Open, indicate this number has been on the rise by two percent per year since 2001.

"The symptoms of type 1 diabetes are not recognized fast enough by the parents, the schools or healthcare providers," says the study's lead author, Dr. Meranda Nakhla, a pediatric endocrinologist at the Montreal Children's Hospital of the MUHC and a scientist from the Child Health and Human Development Program of the RI-MUHC. "A simple blood sugar test is all that is needed to diagnose a child with type 1 diabetes in presence of symptoms such as frequent urination, excessive thirst, weight loss, a lack of energy and constant hunger."

Type 1 diabetes is one of the most common chronic diseases of childhood and affects around 4,000 children in Quebec. It occurs when the pancreas stops producing insulin, an important hormone that helps your body control the level of sugar in the blood. Diabetic ketoacidosis (DKA) is a serious complication of diabetes that occurs when the body produces high level of blood acids that become toxic.

"Diabetic ketoacidosis is generally an avoidable and preventable complication of type 1 diabetes. If caught early, the child is started on insulin, preventing the development of diabetic ketoacidosis," adds Dr. Nakhla, who is also an assistant professor of pediatrics at McGill University.

Researchers looked at the trends of DKA by analyzing data provided by the Institut national de santé publique du Québec (INSPQ), which focused on the diagnosis of type 1 diabetes in patients between the ages of 1 to 17 years, from 2001 to 2014. They identified a total of 5,741 new cases of diabetes among children and adolescents. Overall, 1,471 children presented with DKA at diabetes diagnosis (with a peak between 5 and 11 years old). Researchers also looked at different factors such as age at diabetes diagnosis, biological sex, socioeconomic and rural status.

"We have not yet been able to establish the exact causes of the increased occurrence of DKA in Quebec," explains first study author, Dr. Marie-Ève Robinson, a pediatric endocrinologist who was a research fellow at the Montreal Children's Hospital at the time of the study. "It would appear that access to the front-line health care system could be a factor, especially for people living outside of major cities."

"Our results show that action needs to be taken and underscore the need for awareness campaigns in Quebec, which are now non-existent, about the symptoms of type 1 diabetes among the general public and general practitioners across the province," states Dr. Nakhla.

florida80
05-19-2019, 18:12
News Release 17-May-2019

Enzyme may indicate predisposition to cardiovascular disease

Study suggests that people with low levels of PDIA1 in blood plasma may be at high risk of thrombosis; this group also investigated PDIA1's specific interactions in cancer

Fundaçăo de Amparo à Pesquisa do Estado de Săo Paulo


    Share

 Print  E-Mail


Measuring the blood plasma levels of an enzyme called PDIA1 could one day become a method of diagnosing a person's predisposition to cardiovascular disease even if they are healthy, i.e., not obese, diabetic or a smoker, and with normal cholesterol.

This is suggested by a study published in the journal Redox Biology by Brazilian researchers affiliated with the University of Săo Paulo (USP), the University of Campinas (UNICAMP) and Butantan Institute.

The investigation was conducted under the aegis of the Center for Research on Redox Processes in Biomedicine (Redoxome), one of the Research, Innovation and Dissemination Centers (RIDCs) funded by the Săo Paulo Research Foundation (FAPESP). Redoxome is hosted by USP's Chemistry Institute.

"This molecule belongs to the protein disulfide isomerase [PDI] family. Our study showed that people with low plasma levels of PDIA1 have a more inflammatory protein profile and hence run a higher risk of thrombosis. On the other hand, people with high levels of PDIA1 have more 'housekeeping' proteins associated with cell adhesion, homeostasis and the organism's normal functioning," said Francisco Rafael Martins Laurindo, a professor at the University of Săo Paulo's Medical School (FM-USP) and principal investigator for the study.

The study was conducted during the PhD research of Percíllia Victória Santos de Oliveira with a scholarship from FAPESP.

The group analyzed blood plasma samples from 35 healthy volunteers with no history of chronic or acute disease. None was a smoker or a user of recreational drugs or chronic medication.

Plasma was collected 10-15 times at intervals of days or weeks during a period of 10-15 months. Circulating PDI levels were within a small range for most individuals. Moreover, in a cohort of five individuals, PDIA1 levels were measured three times in a nine-hour period. The variability of the results was again negligible.

"However, the measurements showed that some patients had high levels of PDIA1, while the levels were very low, almost undetectable, in others. When the tests were repeated for the same person over time, these values hardly varied at all," said Laurindo, who heads the Translational Cardiovascular Biology Laboratory at the Heart Institute (InCor) attached to FM-USP's teaching and general hospital (Hospital das Clínicas).

The researchers also measured the levels of PDIA1 in 90 plasma bank samples from patients with chronic cardiovascular disease. The analysis consistently showed low levels of the enzyme.

They then conducted several additional proteomic studies to investigate how the plasma levels of PDIA1 correlated with an individual's protein signature. The adhesion and migration of cultured vein endothelial cells treated with PDIA1-poor plasma were impaired in comparison with those of cells treated with PDIA1-rich plasma.

These results led to the hypothesis that the plasma level of PDIA1 could be a window onto individual plasma protein signatures associated with endothelial function, which could indicate a possible predisposition to cardiovascular disease.

The study also showed no correlation between PDIA1 levels and well-known risk factors for cardiovascular disease, such as triglycerides and cholesterol.

The next steps for the research group include studying PDIA1 levels in conditions such as acute coronary disease, as well as other members of the protein disulfide isomerase family (there are more than 20 PDIs all told), to compare results and confirm whether all these enzymes are potential markers of vulnerability to cardiovascular disease.

Inhibitors

Clinical trials of inhibitors of other PDIs are being conducted by different groups of researchers in several parts of the world. Because these enzymes play various essential roles in cell survival, Laurindo explained, it is important to understand their specific interactions in the cancer context to design inhibitors capable of eliminating tumors with a minimum of toxicity to normal cells.

In another study, published in the American Journal of Physiology-Heart and Circulatory Physiology, the researchers used an antibody to inhibit PDIA1 on the surface of vascular cells and observed the effects of stimulation with several different mechanical forces, such as stretching and alterations to the rigidity of the extracellular matrix.

Resulting from research conducted during Leonardo Yuji Tanaka's postdoctoral internship (https:/​/​bv.​fapesp.​br/​en/​pesquisador/​77430/​leonardo-yuji-tanaka) with support from FAPESP (https:/​/​bv.​fapesp.​br/​en/​bolsas/​151090), the study concluded that surface PDIA1 inhibition affected the cytoskeleton, an intracellular framework of filaments, thereby hindering cell migration.

"PDIA1 is fundamental for the ability of cells to migrate within the organism, and so it mustn't be completely inhibited. When the surface portion, which corresponds to less than 2% of total PDIA1, is silenced, the cell survives but loses fine regulation of cell direction during migration. This can be leveraged in the search for new disease mechanisms and drugs," Laurindo explained.

florida80
05-19-2019, 18:13
News Release 17-May-2019

Wearable cooling and heating patch could serve as personal thermostat and save energy


University of California - San Diego


    Share

 Print  E-Mail


IMAGE


IMAGE: Prototype of the cooling and heating patch embedded in a mesh armband. view more 

Credit: David Baillot/UC San Diego Jacobs School of Engineering


Engineers at the University of California San Diego have developed a wearable patch that could provide personalized cooling and heating at home, work, or on the go. The soft, stretchy patch cools or warms a user's skin to a comfortable temperature and keeps it there as the ambient temperature changes. It is powered by a flexible, stretchable battery pack and can be embedded in clothing. Researchers say wearing it could help save energy on air conditioning and heating.

The work is published May 17 in the journal Science Advances.

"This type of device can improve your personal thermal comfort whether you are commuting on a hot day or feeling too cold in your office," said Renkun Chen, a professor of mechanical and aerospace engineering at UC San Diego who led the study.

The device, which is at the proof-of-concept stage, could also save energy. "If wearing this device can make you feel comfortable within a wider temperature range, you won't need to turn down the thermostat as much in the summer or crank up the heat as much in the winter," Chen said. Keeping a building's set temperature 12 degrees higher during the summer, for example, could cut cooling costs by about 70 percent, he noted.

There are a variety of personal cooling and heating devices on the market, but they are not the most convenient to wear or carry around. Some use a fan, and some need to be soaked or filled with fluid such as water.

Chen and a team of researchers at the UC San Diego Jacobs School of Engineering designed their device to be comfortable and convenient to wear. It's flexible, lightweight and can be easily integrated into clothing.

The patch is made of thermoelectric alloys--materials that use electricity to create a temperature difference and vice versa--sandwiched between stretchy elastomer sheets. The device physically cools or heats the skin to a temperature that the wearer chooses.

"You could place this on spots that tend to warm up or cool down faster than the rest of the body, such as the back, neck, feet or arms, in order to stay comfortable when it gets too hot or cold," said first author Sahngki Hong, a UC San Diego mechanical engineering alumnus who worked on the project as a PhD student in Chen's lab.

The researchers embedded a prototype of the patch into a mesh armband and tested it on a male subject. Tests were performed in a temperature-controlled environment. In two minutes, the patch cooled the tester's skin to a set temperature of 89.6 degrees Fahrenheit. It kept the tester's skin at that temperature as the ambient temperature was varied between 71.6 and 96.8 degrees Fahrenheit.

A building block for smart clothing

The ultimate goal is to combine multiple patches together to create smart clothing that can be worn for personalized cooling and heating. So engineers designed a soft electronic patch that can stretch, bend and twist without compromising its electronic function.

The work is a collaboration between several research groups at the UC San Diego Jacobs School of Engineering. Chen's lab, which specializes in heat transfer technology, led the study. They teamed up with nanoengineering professors Sheng Xu, an expert in stretchable electronics, Shirley Meng, an expert in battery technology, Ping Liu, who is also a battery expert, and Joseph Wang, a wearable sensors expert.

The researchers built the patch by taking small pillars of thermoelectric materials (made of bismuth telluride alloys), soldering them to thin copper electrode strips, and sandwiching them between two elastomer sheets.

The sheets are specially engineered to conduct heat while being soft and stretchy. Researchers created the sheets by mixing a rubber material called Ecoflex with aluminum nitride powder, a material with high thermal conductivity.

The patch uses an electric current to move heat from one elastomer sheet to the other. As the current flows across the bismuth telluride pillars, it drives heat along with it, causing one side of the patch to heat up and the other to cool down.

"To do cooling, we have the current pump heat from the skin side to the layer facing outside," Chen explained. "To do heating, we just reverse the current so heat pumps in the other direction."

The patch is powered by a flexible battery pack. It is made of an array of coin cells all connected by spring-shaped copper wires and embedded in a stretchable material.

Saving energy

One patch measures 5 × 5 centimeters in size and uses up to 0.2 watts worth of power. Chen's team estimates that it would take 144 patches to create a cooling vest. This would use about 26 watts total to keep an individual cool on an average hot day (during extreme heat, estimated power use would climb up to 80 watts, which is about how much a laptop uses). By comparison, a conventional air conditioning system uses tens of kilowatts to cool down an entire office.

It's more energy-efficient to cool down an individual person than a large room, researchers noted. "If there are just a handful of occupants in that room, you are essentially consuming thousands of watts per person for cooling. A device like the patch could drastically cut down on cooling bills," Chen said.

The team is now working on patches that could be built into a prototype cooling and heating vest. They hope to commercialize the technology in a few years.

"We've solved the fundamental problems, now we're tackling the big engineering issues--the electronics, hardware, and developing a mobile app to control the temperature," Chen said

florida80
05-19-2019, 18:15
'Imagine...' -- our attitudes can change solely by the power of imagination

Roland Benoit and Philipp Paulus together show that our attitudes can be influenced not only by what we actually experience but also by what we imagine

Max Planck Institute for Human Cognitive and Brain Sciences


    Share

 Print  E-Mail


Sometimes in life there are special places that seem to stand out to us - a school playground, perhaps an old church, or that inconspicuous street corner where you were kissed for the first time. Before the kiss you had never even noticed that corner. It's as if the special experience with that beloved person transferred positive emotion to the location. Our attitude towards these places thus suddenly changes - they become valuable to us. But could this also happen purely by the power of imagination rather than by actual experiences? Roland Benoit and Philipp Paulus from the Max Planck Institute for Human Cognitive and Brain Sciences, together with Daniel Schacter from Harvard University, have examined this question in a study published in the journal Nature Communications. They show that our attitudes can be influenced not only by what we actually experience but also by what we imagine. Furthermore, they believe the phenomenon is based on activity in a particular location in the front of our brains, the ventromedial prefrontal cortex.

Participants in their study were first asked to name people that they like very much and also people they don't like at all. In addition, they were asked to provide a list of places that they considered to be neutral. Later, when the participants were lying in the MRI scanner, they were asked to vividly imagine how they would spend time with a much-liked person at one of the neutral places. "So I might imagine myself with my daughter in the elevator of our institute, where she wildly pushes all the buttons. Eventually, we arrive at the roof top terrace, where we get out to enjoy the view," describes first author Roland Benoit, who heads the research group 'Adaptive Memory'.

After the MRI scanning, he and his colleagues were able to determine that the attitudes of the participants towards the places had changed: the previously neutral places that had been imagined with liked people were now regarded more positive than at the beginning of the study. The authors first observed this effect with study participants in Cambridge, MA, and then successfully replicated this effect in Leipzig, Germany. "Merely imagining interacting with a much-liked person at a neutral place can transfer the emotional value of the person to this place. And we don't even have to actually experience the episode in reality," is how co-author Daniel Schacter sums it up.

Using MRI data, the researchers were able to show how this mechanism works in the brain. The ventromedial prefrontal cortex plays an important role in this process. This is where information about individual persons and places from our environment is stored, as the authors assumed. But this region also evaluates how important individual people and places are for us. "We propose that this region bundles together representations of our environment by binding together information from the entire brain that form an overall picture," Roland Benoit explains.

"For example, there would be a representation with information about my daughter - what she looks like, how her voice sounds, how she reacts in certain situations. The idea now is that these representations also include an evaluation - for example, how important my daughter is to me and how much I love her."

Indeed, when the participants thought of a person that they liked more strongly, the scientists saw signs of greater activity in that region. "Now, when I imagine my daughter in the elevator, both her representation and that of the elevator become active in the ventromedial prefrontal cortex. This, in turn, can connect these representations - the positive value of the person can thus transfer to the previously neutral location."

Why are the researchers interested in this phenomenon? They want to better understand the human ability to experience hypothetical events through imagination and how we learn from imagined events much in the same way as from actual experiences. This mechanism can potentially augment future-oriented decisions and also help avoiding risks. According to Benoit, it will be important to also understand the consequences of negative thoughts: "In our study, we show how positive imaginings can lead to a more positive evaluation of our environment. I wonder how this mechanism influences people who tend to dwell on negative thoughts about their future, such as people who suffer from depression. Does such rumination lead to a devaluation of aspects of their life that are actually neutral or even positive?" This could be the next interesting research question for his team.

###

florida80
05-19-2019, 18:16
News Release 17-May-2019

Study finds narrowing gender gap in youth suicides

Recent data show a disproportionate increase in the suicide rate among female relative to male youth

Nationwide Children's Hospital


    Share

 Print  E-Mail


New research from Nationwide Children's Hospital finds a disproportionate increase in youth suicide rates for females relative to males, particularly in younger youth aged 10-14 years. The report, which describes youth suicide trends in the United States from 1975 to 2016, appears this week in JAMA Network Open.

Suicide is the second leading cause of death among youth aged 10-19 years in the U.S., with rates historically higher in males than females. However, recent reports from the Centers for Disease Control and Prevention reveal female youth are experiencing a greater percent increase in suicide rates compared to males.

Donna Ruch, PhD, a post-doctoral researcher in the Center for Suicide Prevention and Research at the Research Institute at Nationwide Children's Hospital, examined these trends by investigating suicide rates among U.S. youth aged 10-19 years from 1975 through 2016.

The researchers found that following a downward trend in suicide rates for both sexes in the early 1990s, suicide rates increased for both sexes since 2007, but suicide rates for females increased more. There was a significant and disproportionate increase in suicide rates for females relative to males, with the largest percentage increase in younger females. These trends were observed across all regions of the country.

"Overall, we found a disproportionate increase in female youth suicide rates compared to males, resulting in a narrowing of the gap between male and female suicide rates," said Dr. Ruch.

When the researchers looked at the data by method, they found the rates of female suicides by hanging or suffocation are approaching those of males. This is especially troubling in light of the gender paradox in suicidal behavior, according to Jeff Bridge, PhD, director of the Center for Suicide Prevention and Research at Nationwide Children's and co-author of the new study.

Dr. Bridge said females have higher rates of non-fatal suicidal behavior, such as thinking about and attempting suicide, but more males die by suicide than females.

"One of the potential contributors to this gender paradox is that males tend to use more violent means, such as guns or hanging," said Dr. Bridge. "That makes the narrowing of the gender gap in suicide by hanging or suffocation that we found especially concerning from a public health perspective."

The researchers called for future work to examine whether there are gender-specific risk factors that have changed in recent years and how these determinants can inform intervention.

"From a public health perspective, in terms of suicide prevention strategies, our findings reiterate the importance of not only addressing developmental needs but also taking gender into account," said Dr. Ruch.

Dr. Bridge emphasized that asking children directly about suicide will not trigger subsequent suicidal thinking or behavior.

"Parents need to be aware of the warning signs of suicide, which include a child making suicidal statements, being unhappy for an extended period, withdrawing from friends or school activities or being increasingly aggressive or irritable," he said. "If parents observe these warning signs in their child, they should consider taking the child to see a mental health professional."

florida80
05-19-2019, 18:17
News Release 16-May-2019

Study may help prevent relapse in cocaine use disorder patients

Brazilian researchers combined cognitive dysfunction tests with an analysis of drug use patterns to identify patients at high risk of relapse after treatment

Fundaçăo de Amparo à Pesquisa do Estado de Săo Paulo


    Share

 Print  E-Mail


A study conducted at the University of Săo Paulo (USP) in Brazil and described in an article published in the journal Drug and Alcohol Dependence may help healthcare workers identify patients who risk relapse after undergoing treatment for cocaine use disorder.

According to the authors, the findings reinforce the need to offer individualized treatment strategies for these cases, which are considered severe.

The principal investigator for the study was Paulo Jannuzzi Cunha, a professor at the University of Săo Paulo's Medical School (FM-USP), with a postdoctoral research scholarship from Săo Paulo Research Foundation - FAPESP and support from the National Council for Scientific and Technological Development (CNPq).

For 30 days, the researchers monitored 68 patients admitted for treatment for cocaine dependence to the Psychiatry Institute of Hospital das Clínicas, FM-USP's general and teaching hospital in Săo Paulo. All patients volunteered to participate in the study. They were contacted three months after discharge to verify their abstinence. All but 14 reported a relapse, defined as at least one episode of cocaine use during the period.

One of the goals of the study was to determine whether the 11 criteria for diagnosing chemical dependence established in the DSM-5 were also effective at predicting the response to treatment. DSM-5 is the latest edition of the Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, published by the American Psychiatric Association (APA) and valued as the standard classification by mental health professionals in many parts of the world.

"Our hypothesis was that these criteria would not help accurately predict relapse. However, after completing the study, we recognized that they may in fact be useful for predicting vulnerability to relapse," Cunha told.

The DSM-5 criteria for diagnosing a substance use disorder include taking the drug in larger amounts and/or for longer periods than intended; craving, or a strong desire to use the drug; giving up social, occupational or recreational activities because of substance use; continued use despite having persistent social or interpersonal problems caused or exacerbated by the effects of the drug; tolerance (needing increasing amounts to achieve the desired effect); and withdrawal symptoms, among others.

According to the DSM-5 guidelines, a substance use disorder can be considered mild if two or three of the 11 criteria are met for a year, moderate if four or five are met for a year, or severe if six or more are met for a year.

"Our sample included only cases classified as severe. We observed a clear difference between patients who met six to eight criteria and those who met nine to 11. The relapse rate was significantly higher in the latter group," said Danielle Ruiz Lima, first author of the article.

The results suggested that the three categories recommended by DSM-5 should be reviewed. "There seems to be an 'ultra-severe' group as well as a 'severe' group," they said.

Refining the analysis

Another hypothesis investigated was that the pattern of cocaine use (DSM-5 score plus factors such as age at use onset and intensity of use in the month prior to hospital admission) and the cognitive deficit caused by the drug were related variables that could help predict a relapse after treatment.

The researchers used several tests to assess the participants' performance in executive functioning, which include working memory (required for specific actions, such as those of a waiter who has to associate orders with customers and deliver them correctly), sustained attention (the ability to focus for as long as it takes to complete a specific task, such as filling out a form, without being distracted), and inhibitory control (the capacity to control impulses).

The researchers applied the tests a week after admission on average, as they considered this waiting time sufficient to know whether the urine toxicology was negative. The aim of this procedure was to avoid acute effects of the drug on the organism.

One of the tests used to measure memory span required the patient to repeat an ascending sequence of numbers presented by the researchers. Patients who had made intensive use of cocaine in the previous month before admission underperformed on this test.

In other tests, in this case used to measure selective attention, cognitive flexibility and inhibitory control, patients were asked to repeat a sequence of colors and then to name the ink color when the name of a different color is printed (the word "yellow" printed in blue ink, for example).

"The automatic response is to read what's written instead of naming the ink color, as required. Inhibitory control is essential to perform this task. This function is extremely important in the early stages of drug dependence rehabilitation, when the patient has to deal with craving and situations that stimulate the desire to use the drug," Cunha said.

The analysis showed a correlation between inhibitory control test results and the age at cocaine use onset. "The earlier the onset, the more mistakes they made, which could point to a higher risk of relapse. The idea is to identify the people who have substantial difficulties so that we can work out individualized treatment strategies," Lima said.

Intense cocaine use in the 30 days preceding admission also correlated with underperformance on the inhibitory control test and the working memory test, in which the patient was asked to listen to a sequence of numbers and repeat them in reverse order, reflecting an important function for the manipulation of information as a basis for decision making.

According to the researchers, studies have shown that executive functions may be restored after a period of abstinence, but to what extent and how long this recovery may take are unknown.

The research group at FM-USP advocates cognitive rehabilitation programs to support the recovery process. "We have a motivational chess proposal that's being studied right now," Cunha said. "A therapist plays chess with the patient and then discusses the moves, making analogies with the patient's life in an attempt to transfer the knowledge acquired in the chess game to day-to-day experience and train inhibitory control, planning and healthy decision making in the real world."

In his view, the assessment of cognitive deficits is important for both diagnosing substance use disorder and predicting relapse. "Chemical dependence is a brain disease, and these neuropsychological tests offer a slide rule with which to measure objectively whether the damage is mild, moderate or severe, along similar lines to the classification of dementia," he said.

According to the researchers, despite the clinical relevance of neuropsychological test results, they are not part of the DSM-5 criteria, which are based solely on self-reported factors and clinical observations.

"We hope the sixth edition of the DSM takes these developments into account in recognition of the research done by us and other groups worldwide," Cunha said.

###

florida80
05-19-2019, 18:18
News Release 17-May-2019

Integrated stepped alcohol treatment for people in HIV care improves both HIV & alcohol outcomes


NIH/National Institute on Alcohol Abuse and Alcoholism


    Share

 Print  E-Mail


New clinical research supported by the National Institutes of Health shows that increasing the intensity of treatment for alcohol use disorder (AUD) over time improves alcohol-related outcomes among people with HIV. This stepped approach to AUD treatment also improves HIV-related disease measures in this patient population. A report of the new study, led by researchers at Yale University, is now online in The Lancet HIV.

"These research findings demonstrate the potential of integrated treatment for AUD and HIV in improving health outcomes," said George F. Koob, Ph.D., director of the NIH's National Institute on Alcohol Abuse and Alcoholism (NIAAA), which provided primary funding for the new research, with additional funding provided by the National Institute on Drug Abuse (NIDA). "Moreover, it underscores the importance of integrating treatment for alcohol problems into mainstream health care."

In the United States, estimates of the prevalence of people with HIV who either drink heavily, or who have AUD, range from 8 percent to 42 percent. Alcohol misuse can increase risky behaviors that increase the likelihood of acquiring HIV or transmitting it to others. Alcohol misuse may also speed the progression of HIV in individuals with HIV infection and make it harder to follow medication regimens.

"Many people with HIV are unaware of, or not seeking treatment for, their alcohol use problems," said first author E. Jennifer Edelman, M.D., M.H.S., associate professor of medicine at Yale School of Medicine. "In addition, HIV clinicians often do not realize that there are effective medications and counseling that they can easily integrate into their practice for patients with alcohol use problems."

Noting that previous studies have found that integrating the treatment of opioid use disorder into HIV clinics improves both HIV and substance-related outcomes, the researchers wanted to evaluate whether such a model would similarly benefit people with HIV and AUD.

Treatment for AUD often occurs apart from an individual's HIV clinical care. The current study integrates the treatment for AUD with treatment for HIV.

Dr. Edelman and her colleagues conducted a randomized clinical trial in five Veterans Affairs-based HIV clinics with 128 people who had HIV infection and AUD. The researchers investigated integrated stepped alcohol treatment (ISAT) -- an approach that involved consecutive steps of increased AUD treatment intensity if lower intensity treatment did not produce desired results.

People in the ISAT group started their AUD treatment with an on-site addiction psychiatrist, focusing on the use of medications for AUD. If that step did not stop heavy drinking, the next step included the addition of a behavioral intervention conducted on-site to boost motivation to change drinking behavior and teach coping skills for managing high-risk situations. Researchers defined heavy drinking as five drinks or more per day for men and four drinks or more per day for women, on one or more days during the previous 14 days. Patients who continued to engage in heavy drinking were advanced to the final step of referral to specialty addiction treatment -- such as intensive outpatient treatment or residential treatment depending on locally available resources. Patients in the control group received treatment as usual - which included alcohol screening, brief intervention, and referral to specialty addiction treatment at the VA at the discretion of their HIV clinician.

At the end of the six-month study, while both groups reported reduced alcohol intake, the researchers found no differences in drinks per week or HIV outcomes between the ISAT and control groups. Both groups then continued AUD treatment under treatment as usual (control) conditions. At the 12-month follow up, individuals who had initially received ISAT were found to have fared better than individuals who only received treatment as usual. People in the ISAT group, for example, reported having fewer drinks per drinking day than people in the control group and a greater percentage of days abstinent. The ISAT group also had a higher percentage of people who reported no heavy drinking days.

"Importantly, we also observed that participants randomized to stepped AUD treatment were more likely to achieve an undetectable HIV viral load," said Dr. Edelman. "We believe that with decreased alcohol consumption, participants in the ISAT group were more likely to take their HIV medications consistently, translating into improved HIV viral control."

In an invited commentary on the new research in The Lancet HIV, co-authors Lorenzo Leggio, M.D., Ph.D., Senior Investigator in the NIH Intramural Research Program at NIAAA and NIDA, and Roberta Agabio, M.D., a psychiatrist at the University of Cagliari in Italy welcomed the new findings as important for the HIV field and beyond.

"Stepped care approaches have been found to be effective for treating a variety of chronic diseases," said Dr. Leggio.

"These findings are a first indication of their potential value for treating AUD in the context of HIV treatment. The results warrant further investigation on how to optimize its use among people with HIV, and to explore its integration in other medical care settings. Indeed, the study is a compelling example of the need for trained clinicians across the spectrum of health care to recognize and treat AUD as a medical disorder amenable to a variety of treatment approaches."

###

florida80
05-19-2019, 18:18
News Release 17-May-2019

'Stepped' treatment reduces drinking in patients with HIV


Yale University


    Share

 Print  E-Mail


New Haven, Conn. -- People with HIV who drink too much were more likely to reduce drinking after undergoing an approach to care known as integrated stepped alcohol treatment, according to a Yale-led study.

The finding supports greater use of this treatment model in HIV clinics to improve outcomes for patients with both HIV and drinking problems, the researchers said.

The study was published in The Lancet HIV.

Stepped care is used to treat some patients with chronic diseases such as hypertension and depression. It entails the use of different treatments that are "stepped up," or increased in intensity over time, in response to patients' needs. Prior to this new study, little research had been done to evaluate the impact of stepped care for patients struggling with alcohol use disorder, and none had been conducted in HIV treatment settings, the researchers said.

The research team recruited 128 individuals from one of five Veterans Affairs-based HIV clinics. They randomized the patients into one of two groups -- those given integrated stepped alcohol treatment and an equal number receiving treatment as usual.

The stepped-care patients were offered evidence-based treatments, including medication, motivational therapy, and specialty care at either an outpatient or residential treatment facility. By comparison, the treatment-as-usual patients were referred to specialty addiction treatment at the VA at the discretion of their HIV clinician.

At the end of the study period, the researchers found that patients who received integrated stepped care fared better overall. After 52 weeks, stepped-care patients had fewer heavy drinking days, drank less per drinking day, and had more days of abstinence, the researchers noted.

"We saw overall improvements in drinking," said Jennifer Edelman, M.D., lead author and associate professor in internal medicine. "We also found improved HIV outcomes at the 52-week mark."

The improvements in patients' HIV status were presumably associated with the reduced alcohol use, Edelman noted. "Over time, the patients receiving integrated stepped care showed decreases in alcohol use and a higher rate of undetectable HIV viral load, likely related to improved HIV medication adherence," she said.

The study results support the expanded use of integrated stepped care for alcohol misuse in settings where patients are already being treated for HIV, the researchers said.

florida80
05-19-2019, 18:19
News Release 15-May-2019

Legal marijuana reduces chronic pain, but increases injuries and car accidents

Overall hospital stays remain steady after colorado legalized cannabis, UCSF study finds

University of California - San Francisco


    Share

 Print  E-Mail


The legalization of recreational marijuana is associated with an increase in its abuse, injury due to overdoses, and car accidents, but does not significantly change health care use overall, according to a study by researchers at UC San Francisco.

In a review of more than 28 million hospital records from the two years before and after cannabis was legalized in Colorado, UCSF researchers found that Colorado hospital admissions for cannabis abuse increased after legalization, in comparison to other states. But taking the totality of all hospital admissions and time spent in hospitals into account, there was not an appreciable increase after recreational cannabis was legalized.

The study, appearing online May 15, 2019, in BMJ Open, also found fewer diagnoses of chronic pain after legalization, consistent with a 2017 National Academy of Sciences report that concluded substantial evidence exists that cannabis can reduce chronic pain.

"We need to think carefully about the potential health effects of substantially enhancing the accessibility of cannabis, as has been done now in the majority of states," said senior author Gregory Marcus, MD, MAS, a UCSF Health cardiologist and associate chief of cardiology for research in the UCSF Division of Cardiology.

"This unique transition to legalization provides an extraordinary opportunity to investigate hospitalizations among millions of individuals in the presence of enhanced access," Marcus continued. "Our findings demonstrate several potential harmful effects that are relevant for physicians and policymakers, as well as for individuals considering cannabis use."

According to the 2014 National Survey on Drug Use and Health, more than 117 million Americans, or 44.2 percent of all Americans, have used cannabis in their lifetime, and more than 22 million Americans report having used it within the past 30 days. While its use is a federal crime as a controlled substance, 28 states and the District of Columbia now allow it for treating medical conditions. Nine of those states have legalized it for recreational use.

To understand the potential shifts in health care use resulting from widespread policy changes, Marcus and his colleagues reviewed the records of more than 28 million individuals in Colorado, New York and Oklahoma from the 2010-2014 Healthcare Cost and Utilization Project, which included 16 million hospitalizations. They compared the rates of health care utilization and diagnoses in Colorado two years before and two years after recreational marijuana was legalized in December 2012 to New York, as a geographically distant and urban state, and to Oklahoma, as a geographically close and mainly rural state.

The researchers found that after legalization, Colorado experienced a 10 percent increase in motor vehicle accidents, as well as a 5 percent increase in alcohol abuse and overdoses that resulted in injury or death. At the same time, the state saw a 5 percent decrease in hospital admissions for chronic pain, Marcus said.

"There has been a dearth of rigorous research regarding the actual health effects of cannabis consumption, particularly on the level of public health," said Marcus, holder of the Endowed Professorship of Atrial Fibrillation Research in the UCSF School of Medicine. "These data demonstrate the need to caution strongly against driving while under the influence of any mind-altering substance, such as cannabis, and may suggest that efforts to combat addiction and abuse of other recreational drugs become even more important once cannabis has been legalized."

The study findings may be beneficial in guiding future decisions regarding cannabis policy, the researchers said.

"While it's convenient and often most compelling to simplistically conclude a particular public policy is 'good' or 'bad,' an honest assessment of actual effects is much more complex," Marcus said. "Those effects are very likely variable, depending on each individual's idiosyncratic needs, propensities and circumstances. Using the revenues from recreational cannabis to support this sort of research likely would be a wise investment, both financially and for overall public health."

The researchers could not explain why overall health care utilization remained essentially neutral, but said the harmful effects simply may have been diluted among the much larger number of total hospitalizations. They said it also may be that some beneficial effects, either at the individual or societal level, such as violent crime, counterbalanced the negatives.

###

florida80
05-19-2019, 18:20
News Release 14-May-2019

Preclinical study: Probiotic-derived molecule may suppress fatal brain inflammation

City of Hope scientists explore how swallowing a 'bacterial envelope molecule' may prime your body to fend off viral infections




DUARTE, Calif. -- The existence of certain microorganisms in your gut may bolster the immune system's ability to fend off a herpes viral attack that can cause fatal brain inflammation, reports a new City of Hope-led study.

Researchers say the findings are the first to suggest that an envelope molecule from a bacterium called Bacteroides fragilis (B. fragilis) might be useful against viral inflammatory diseases. Called capsular polysaccharide A (PSA), the envelope molecule appears to promote protective, anti-inflammatory responses during a viral infection, said Ramakrishna Chandran, Ph.D., and Edouard Cantin, Ph.D., authors of the study and virology and immunology experts at City of Hope.

"This mouse study shows that B. fragilis PSA can temper the immune system so that infection does not result in an uncontrolled, potentially fatal inflammatory response in the brain," Cantin said. "Although herpes simplex encephalitis is a rare brain inflammation disorder, the lessons we learned here might, with more research, be applicable to other viral infections such as other herpesviruses, influenza virus, West Nile virus and maybe even viral respiratory diseases - conditions where inflammation begins to jeopardize the health of your body and brain function."

Herpes simplex encephalitis affects about 2,000 people in the United States each year and has a high mortality rate if symptoms are not recognized and patients aren't treated promptly; survivors usually have serious neurological conditions. About 70% of untreated individuals die, according to multiple scientific reports.

The study, published in Nature Communications on May 14, found that B. fragilis' bacterial envelope, PSA, brings forth regulatory T and B cells that suppress the immune system from overproducing harmful inflammatory responses triggered by herpes simplex virus infection. In other words, PSA reduced brainstem inflammation by promoting the appearance of IL-10 secreting regulatory T and B cells. IL-10 is a strong anti-inflammatory cytokine which creates a protective, anti-inflammatory response that prevents encephalitis.

"It's possible that consumption of certain prebiotics, probiotics or synbiotics may enhance your body's natural ability to suppress inflammatory diseases," Chandran said. "Our study provides an exciting proof of principle that needs further research validation, but it seems reasonable that what you decide to eat may affect your overall health and ability to fight off disease."

Chandran, Cantin and their colleagues found that mice pretreated with the candidate probiotic, B. fragilis or PSA, survived a lethal herpes simplex virus infection, whereas mice pretreated with a placebo did not survive despite the fact that both groups were given Acyclovir, an antiviral that is the standard of care for herpes simplex virus encephalitis. The finding suggests that the probiotic-derived PSA optimizes the immune system to fight against viruses, especially those that induce damaging inflammation.

The researchers reported on the important role B cells play in extinguishing inflammation. B cells are a type of white blood cell that secretes antibodies. When the scientists depleted mice of their B cells prior to PSA treatment, the mice lost their ability to marshal regulatory T cells and to secrete the anti-inflammatory cytokine IL-10. The researchers showed that B cells bound PSA, and this was crucial for induction of protective regulatory T cells, which secrete the anti-inflammatory cytokine IL-10. Thus, eliminating B cells rendered the immune system weaponless in the fight against fatal herpes simplex virus brain inflammation.

###

florida80
05-19-2019, 18:22
News Release 9-May-2019

Neurodevelopmental disorders may be rooted in genetics and mitochondrial deficits

In a model of DiGeorge/22q11 Deletion Syndrome, George Washington University researchers found a connection between mitochondrial dysfunction and cortical under-connectivity and cognitive impairment; Function was restored through antioxidant therapy

George Washington University


 


Under-connectivity, or too few connections in the brain, is the underlying cause of brain disorders like autism and schizophrenia, according to a recent study from investigators at the George Washington University (GW) Institute for Neuroscience. The study, published in Neuron, provides the first evidence showing that individual nerve cells fail to make the right number of connections. The reason for this deficit is limited growth of key nerve cells in the cerebral cortex during early development, due to both genetics and mitochondrial dysfunction.

Working in models of DiGeorge/22q11 Deletion Syndrome -- a common disorder with the highest known genetic association with diseases like schizophrenia and autism -- the GW group defined the disruptions of cell and molecular functions that lead to altered development of nerve cells and their connections in the cerebral cortex. They associated these changes with behavioral deficits linked to neurodevelopmental disorders. This work confirms, for the first time, a well-known clinical hypothesis that under-connectivity is the basis of these disorders.

The work from the GW research team also showed that cortical under-connectivity and cognitive impairment are linked to genes that cause mitochondrial dysfunction in DiGeorge/22q11 Deletion Syndrome. When mitochondrial function is restored through antioxidant therapy, so are cortical connections and behavioral deficits.

"The good news is that mitochondrial deficits are very treatable pharmacologically or through diet" said senior author Anthony-Samuel LaMantia, PhD, director of the GW Institute for Neuroscience and Jeffrey Lieberman Professor of Neurosciences at the GW School of Medicine and Health Sciences. "Our research holds up the possibility that in some instances, children who are diagnosed with neurological disorders may have genetic deficits that lead to a final common pathway of focal metabolic disruption -- ultimately, this is treatable."

Using a DiGeorge/22q11 Deletion Syndrome mouse model, the GW research team first sought to confirm that under-connectivity, not over-connectivity, underlies behavioral deficits. They found that the integrity and efficiency of synapses in the cortex were diminished. The GW team then looked at the cells making the connections. They found the cells were unhealthy due to dysfunctional mitochondria, long known to be the powerhouse of the cell. The research team then tested the theory that mitochondria in these cells might be dysfunctional due to increased reactive oxygen species -- oxygen molecules that roam freely through cells and cause extensive damage. Finally, the team used antioxidant therapy to neutralize these dangerous oxygen "free radicals" to help restore mitochondrial function. This therapy not only fixed connectivity, but fixed the behavioral deficits that happened as a result.

The team then looked at the 28 genes on chromosome 22 for which one of two copies is lost in individuals with DiGeorge/22q11 Deletion Syndrome. They focused on six of these 28 genes associated with mitochondria. They identified the Txrnd2 gene, which encodes an enzyme that neutralizes reactive oxygen in mitochondria, as a critical player in the growth and connectivity of the cortical cells that are under-connected.

"This is one of the first times that any group has gone from genetic mutation, to cell biological pathology, to behavioral consequences, and then to safe, effective therapy that corrects both the pathology and behavioral impairment in a valid animal model of any neurodevelopment disorder," said LaMantia

florida80
05-20-2019, 17:34
Protein that hinders advancement of prostate cancer identified


Boston University School of Medicine


    Share

 Print  E-Mail


(Boston)--Researchers at Boston University School of Medicine (BUSM) have discovered that blocking a specific protein, may be a promising strategy to prevent the spread of castration-resistant prostate cancer (CRPC).

Under the direction of BUSM's Gerald V. Denis PhD, researchers have long studied a family of three closely related proteins, called BET bromodomain proteins, composed of BRD2, BRD3 and BRD4, which regulate gene expression. BUSM researchers were the first (in the 1990s) to show how these proteins function in human cancer.

These researchers now have discovered that inhibition of the protein BRD4, but not BRD2 or BRD3, consistently regulated prostate cancer cell migration and invasion.

CRPC is a highly aggressive form of prostate cancer that often leads to the development of lethal metastases. Standard of care treatment for patients with CRPC typically includes a means to disrupt androgen receptor (AR) signaling, and while effective for an average of two-three years, treatment inevitably fails to impede progression due to acquired resistance mechanisms to the AR.

"Our findings are significant because current therapeutic options for CRPC are limited and focus primarily on suppressing prostate tumor cells that rely on AR signaling," explained first author Jordan Shafran, a PhD candidate in the department of molecular and translational medicine at BUSM.

CRPC is a complex, heterogenous disease, with varying AR states and expression patterns across individual tumor cells. As the disease progresses, prostate tumor cells can become less reliant on AR signaling and use alternative signaling mechanisms to sustain growth and dissemination. "Therefore, it is imperative to identify 'druggable' targets that regulate prostate cancer cell migration and invasion in cells that are either reliant on, or independent of, androgen receptor signaling," he added.

florida80
05-20-2019, 17:35
Noninvasive biomarker for Parkinson's disease possibly found in EEG data

A University of Oregon-led study finds the clue in a fresh analysis and comparison of unfiltered beta waves obtained from Parkinson's patients and healthy individuals

University of Oregon


    Share

 Print  E-Mail


EUGENE, Ore. - May 20, 2019 - Specific angles and sharpness of brain waves seen in unfiltered raw data from scalp electroencephalogram s have been tied to Parkinson's disease.

Reporting in the online journal eNeuro, researchers suggest that noninvasive EEG readings may provide easily detectable electrophysiological biomarkers to aid the diagnosis and fine-tune therapeutic treatments for the disease and potentially other motor disorders.

"Using this safe and affordable way to measure and quantify brain activity, we were able to distinguish differences between Parkinson's patients who were on and off medications and in comparisons with healthy people," said the study's principal investigator Nicole Swann of the Department of Human Physiology at the University of Oregon.

The initial diagnosis of Parkinson's disease currently relies on a neurologist's assessment of patients performing a series of body-movement tasks. Such subjective testing, however, can lead to misdiagnosis.

"We don't know yet whether this approach will be better, but it could provide easily obtained brain measurements that would be helpful and possibly used in tandem with clinical observations and other EEG measurements," Swann said.

Previous efforts to detect Parkinson's disease in EEG brain waves have been inconsistent, she said, because the focus has been on measures which model brain signals as sine waves, which are beta waves filtered to round the waves and show the overall power of periodic oscillations. Novel methods like the one used here currently have only been shown to relate to Parkinson's disease with electrodes surgically implanted in patients' brains.

In the new analysis of scalp EEG data, previously collected at the University of California San Diego from 15 Parkinson's patients and 16 healthy control participants, Swann focused on the original unfiltered beta waves to look for specific angles and full shape of the oscillations. Co-author Scott Cole, a doctoral student at UC San Diego in 2017, had noticed that people with Parkinson's disease appear to have sharp brain waves, suggesting a new look was warranted.

"The raw signals go up and down like sine waves but with more asymmetry," Swann said. "The steepness - the slant - turns out to be important in Parkinson's patients. This was easily detectable in the patients who are off medication."

When the peak is sharper at the top of the wave than in the trough, or low part of the oscillation, it is indicative of patients who are off their medications, she said.

In a large follow-up study, Swann said she hopes to combine scalp EEG measurements with detailed medical histories and self-reports of how patients are feeling on each day of testing. Eventually, it is hoped the approach could help detect changes in the disease in individuals over time.

Current treatment involves surgery to permanently implant an electric stimulator or a pharmacological approach in which dosage titration is difficult and often results in frustrating cycling of effectiveness, said study co-author Bradley Voytek, a neuroscientist at UC San Diego, in whose lab Cole, who has since earned his doctorate, had worked.

"If there were real-time measures of how effective treatments are at reducing the negative symptoms of Parkinson's disease, treatments could be adjusted in real-time," Voytek said. "In the case of an invasive brain stimulator, this might mean only applying electric stimulation when it's needed. In the case of pharmacology, it would mean adjusting a drug's dose much like continuous glucose monitoring done by an implant can signal a pump to adjust insulin levels as needed."

Ideally, Swann said, if the approach proves to provide robust information, EEG testing could be remotely done by Parkinson's patients wearing a hat fitted with electrodes. Results could be sent to their neurologists and used to quickly and easily adjust treatments.

A challenge, Voytek said, is that real-time measures of brain activity are often noisy and can cloud the ability to capture the correct signals.

"A lot of the tools we have for measuring them take a lot of processing power, so they can't easily be applied in real-time," he said.

florida80
05-20-2019, 17:36
News Release 20-May-2019

Noninvasive electrophysiological biomarker for Parkinson's disease

With additional validation, approach could be developed into wearable technology for patients to monitor disease-related brain activity at home

Society for Neuroscience


    Share

 Print  E-Mail


IMAGE


IMAGE: Schematic summarizing waveform shape calculations. view more 

Credit: Jackson et al., eNeuro (2019)


Novel measures of brain activity associated with Parkinson's disease (PD) can be detected with scalp electrodes, according to a new analysis published in eNeuro. Such a marker of PD -- detected using a noninvasive, affordable approach -- could improve management of the disease by doctors and patients, particularly in rural areas.

Measuring PD-related brain activity using these novel methods had previously only been demonstrated in patients who have had electrodes surgically implanted deep in their brain. Nicole Swann and colleagues at the University of Oregon and the University of California, San Diego report that similar information can be obtained by recording electrical activity from the surface of the head with electroencephalograp hy (EEG). By analyzing previously published EEG data from PD patients and healthy individuals, the researchers were able to distinguish between the two groups and within the PD group when patients were on or off their medication.

These results suggest the shape of beta oscillations is abnormal in PD and may be a promising electrophysiological indicator of disease state. Recording this signal with EEG is straightforward and, after additional validation, could potentially be developed into wearable technology for patients to monitor disease-related brain activity even in patient's own homes.

florida80
05-20-2019, 17:37
News Release 20-May-2019

Protein that hinders advancement of prostate cancer identified


Boston University School of Medicine


    Share

 Print  E-Mail


(Boston)--Researchers at Boston University School of Medicine (BUSM) have discovered that blocking a specific protein, may be a promising strategy to prevent the spread of castration-resistant prostate cancer (CRPC).

Under the direction of BUSM's Gerald V. Denis PhD, researchers have long studied a family of three closely related proteins, called BET bromodomain proteins, composed of BRD2, BRD3 and BRD4, which regulate gene expression. BUSM researchers were the first (in the 1990s) to show how these proteins function in human cancer.

These researchers now have discovered that inhibition of the protein BRD4, but not BRD2 or BRD3, consistently regulated prostate cancer cell migration and invasion.

CRPC is a highly aggressive form of prostate cancer that often leads to the development of lethal metastases. Standard of care treatment for patients with CRPC typically includes a means to disrupt androgen receptor (AR) signaling, and while effective for an average of two-three years, treatment inevitably fails to impede progression due to acquired resistance mechanisms to the AR.

"Our findings are significant because current therapeutic options for CRPC are limited and focus primarily on suppressing prostate tumor cells that rely on AR signaling," explained first author Jordan Shafran, a PhD candidate in the department of molecular and translational medicine at BUSM.

CRPC is a complex, heterogenous disease, with varying AR states and expression patterns across individual tumor cells. As the disease progresses, prostate tumor cells can become less reliant on AR signaling and use alternative signaling mechanisms to sustain growth and dissemination. "Therefore, it is imperative to identify 'druggable' targets that regulate prostate cancer cell migration and invasion in cells that are either reliant on, or independent of, androgen receptor signaling," he added.

###

florida80
05-20-2019, 17:37
News Release 20-May-2019

Scientists succeed in testing potential brain-based method to diagnose autism


Wake Forest Baptist Medical Center


    Share

 Print  E-Mail



IMAGE


IMAGE: Top left: In ASD kids, VMPFC (yellow) activates normally to single presentation of favorite objects Top right: In ASD kids, VMPFC (missing yellow) does not activate normally to single presentation of... view more 

Credit: Wake Forest Baptist Health

WINSTON-SALEM, N.C. - May 20, 2019 - Scientists at Wake Forest School of Medicine have taken the first step in developing an objective, brain-based test to diagnose autism.

Using functional magnetic resonance imaging (fMRI), the team was able to measure the response of autistic children to different environmental cues by imaging a specific part of the brain involved in assigning value to social interactions.

Findings from the study are published in the current online edition of the journal Biological Psychology.

"Right now, a two- to four-hour session by a qualified clinician is required to diagnose autism, and ultimately it is a subjective assessment based on their experience," said the study's principal investigator, Kenneth Kishida, Ph.D., assistant professor of physiology and pharmacology at Wake Forest School of Medicine, part of Wake Forest Baptist Health.

"Our test would be a rapid, objective measurement of the brain to determine if the child responds normally to social stimulus versus non-social stimulus, in essence a biomarker for autism."

Autism spectrum disorder (ASD) is a developmental disorder that affects communication and interaction with other people. The National Institutes of Health estimates that 1 in 60 children in the United States are autistic.

In the study, the team led by Kishida and P. Read Montague, Ph.D., of Virginia Tech, tested the responsiveness of the brain's ventral medial prefrontal cortex (vmPFC) to visual cues that represented highly-valued social interaction in children diagnosed with ASD compared to typically developing (TD) children. The study included 40 participants ranging in age from 6 to18; 12 had ASD and 28 were TD.

First, the study participants were scanned in an fMRI while viewing eight images of either people or objects, each one multiple times. Included in each set of images were two self-selected pictures of a favorite person and object from each participant. The other six were standardized images of three faces and three objects, each representing pleasant, neutral or unpleasant aspects from a data base widely used in psychological experiments.

After completing the 12- to 15-minute MRI scan, the children viewed the same set of images on a computer screen and ranked them in order from pleasant to unpleasant with a self-assessing sliding scale. In addition, pairs of images were viewed and ranked as to which one they liked better.

According to the study, the average response of the vmPFC was significantly lower in the ASD group than in the TD group. Using images as a single stimulus to capture 30 seconds of fMRI data was sufficient to differentiate the ASD and TD groups, Kishida said.

"How the brain responded to these pictures is consistent with our hypothesis that the brains of children with autism do not encode the value of social exchange in the same way as typically developing children," he said.

"Based on our study, we envision a test for autism in which a child could simply get into a scanner, be shown a set of pictures and within 30 seconds have an objective measurement that indicates if their brain responds normally to social stimulus and non-social stimuli."

He added that this approach could also help scientists better understand the brain mechanisms involved in autism disorder as a whole as well as the many variations on the disorder's spectrum.

Kishida's team plans to do follow-up studies to identify which additional areas of the brain are involved in the different facets of the disorder to help personalize treatments for patients.

###

florida80
05-20-2019, 17:39
SLAS Discovery announces its June cover article

SLAS Discovery announces its June cover article, 'A Perspective on Extreme Open Science: Companies Sharing Compounds without Restriction'

SLAS (Society for Laboratory Automation and Screening)


    Share

 Print  E-Mail



IMAGE


IMAGE: The June cover of SLAS Discovery features cover article 'A Perspective on Extreme Open Science: Companies Sharing Compounds without Restriction,' by Timothy M. Willson, Ph.D. view more 

Credit: David James Group

Oak Brook, IL - The June cover of SLAS Discovery features cover article "A Perspective on Extreme Open Science: Companies Sharing Compounds without Restriction," by Timothy M. Willson, Ph.D., a noted University of North Carolina Eshelman School of Pharmacy (Chapel Hill, NC, USA) Research Professor and Chief Scientific Officer for the Structural Genomics Consortium (SGC) (Oxford, UK).

The article focuses on how the validation of new targets for drug discovery remains a considerable hurdle to the exploration of new and innovative medicines. For instance, although the human genome sequence was published over 15 years ago, the biological role of most of the proteins it encodes is still not known or even studied. Dr. Willson and his team outline their experience with the open sharing of small molecule kinase inhibitors as a disruptive approach to explore the biology of some of these "dark proteins." Therefore, by leveraging the pooled knowledge of the scientific community, several dark kinases have emerged as potential drug targets.

Furthermore, the principles of open science often present challenges for pharmaceutical and other for-profit companies due to their conventional research and intellectual property practices, especially when small molecules are involved. Working within GlaxoSmithKline, Dr. Willson and his colleagues overcame these obstacles by creating a chemogenomic set of published kinase inhibitors in which they gained support for the open sharing of the compounds. Their critical argument was that the public data generated by use of the inhibitors would "bake a bigger pie" of knowledge from which the company could initiate internal drug discovery projects.

"GlaxoSmithKline was a pioneer in the unrestricted sharing of kinase inhibitors to support basic research," says Dr. Willson. "Now we are seeing many more pharmaceutical companies making small molecule tools openly available to the research community through our SGC laboratories."

Access to June's SLAS Discovery special issue is available at https:/​/​journals.​sagepub.​ com/​toc/​jbxb/​24/​5 through June 20. For more information about SLAS and its journals, visit http://www.​slas.​org/​journals.

florida80
05-20-2019, 17:40
News Release 20-May-2019

Zebrafish help researchers explore alternatives to bone marrow donation

UC San Diego researchers discover new role for epidermal growth factor receptor in blood stem cell development, a crucial key to being able to generate them in the laboratory

University of California - San Diego


    Share

 Print  E-Mail



IMAGE


IMAGE: Zebrafish with blood cells shown as purple dots stretching the length of its body. view more 

Credit: UC San Diego Health

Blood diseases such as leukemia and lymphoma are currently treated with bone marrow transplants -- a transfer of blood stem cells from a healthy person to a patient in need. But the demand for patient-matched blood stem cells far exceeds their availability, and many patients go without. To bypass the need for donations, University of California San Diego School of Medicine researchers are using zebrafish and human cells to determine how to grow blood stem cells in a laboratory dish.

Whether it's humans or zebrafish, a major player driving embryonic and blood cell development is the Wnt family of molecules. These molecules tell cells what to do by docking on Frizzled receptors, which sit on cell surfaces like antennae.

In their latest study, published May 20, 2019 by Nature Cell Biology, the team was surprised to discover that when one particular Wnt signaling molecule, Wnt9a, is received by blood stem cells, three different molecules are involved. Scientist had previously thought there were only two.

That third -- and, it turns out, crucial -- factor is the epidermal growth factor receptor, or EGFR. This finding may help advance the development of blood stem cells in the laboratory.

"Previous attempts to develop blood stem cells in a laboratory dish have failed, and that may be in part because they didn't take the interaction between EGFR and Wnt into account," said first author Stephanie Grainger, PhD, assistant project scientist at UC San Diego School of Medicine.

Researchers commonly use zebrafish -- a pet shop staple -- to study how blood stem cells develop in a normal organism. Zebrafish are an ideal model for this because they use the same mechanisms to make blood stem cells that humans do, but they are translucent as they develop. That means researchers can watch their blood stem cells arise in real time, and test how genetic modifications affect them.

According to the study, blood stem cell development works like this: The Wnt9a molecule touches down on a Frizzled receptor on the outer surface of a blood stem cell (Fzd9b, to be exact). At the same time, Wnt9a also brings EGFR into the mix from the outside of the cell, bringing Fzd9b and EGFR closer together. Then, inside the cell, EGFR tags Fzd9b's inner tail with a chemical, a phosphate group. This last step triggers a cascade of cellular events necessary to turn a stem cell into a blood cell.

The researchers said identifying EGFR in this context was also exciting because many cancer therapies work by targeting this receptor.

"Our findings raise the possibility that such treatments will impact Wnt signaling," said Karl Willert, PhD, associate professor at UC San Diego School of Medicine and faculty member in the Sanford Consortium for Regenerative Medicine. "We currently don't know how EGFR inhibitors will impact the biology of blood stem cells, and future studies will certainly have to take these interactions into account." Willert was co-senior author of the study with David Traver, PhD, professor at UC San Diego School of Medicine and Division of Biological Sciences.

Now that the team has determined how blood stem cells receive this Wnt signal at the cell surface, they will focus on unraveling how the cells relay and process the signal. Then they can start thinking about ways to trick the cells into thinking they have received this cue, even if they have not. That technique would better enable researchers to generate human blood stem cells in the laboratory -- and perhaps one day use off-the-shelf blood stem cells, instead of bone marrow transplants, to treat patients with blood diseases.

Cancer cells often hijack these same developmental pathways to grow and form tumors. Grainger said learning how cells communicate with each other through Wnt, Frizzled and EGFR might provide a new approach to treating malignancies where these signals are out of control.

"This is a great example of how working in one area of biology can have a huge impact on a seemingly unrelated process," said Willert, who is also director of the Human Embryonic Stem Cell Core Facility at UC San Diego School of Medicine. "In this case, we were studying Wnt's role in blood development and we landed smack in the middle of the EGFR-cancer field."

florida80
05-20-2019, 17:41
News Release 20-May-2019

Pinterest homemade sunscreens: A recipe for sunburn

Researchers urge parents to use commercially sold and regulated sunscreen products

Nationwide Children's Hospital


    Share

 Print  E-Mail


Social media and other online tools have changed the way people seek and share health information. Recent consumer interest in natural, organic, and ethically-made personal care products has led to an increase of shared recipes for homemade products including sunscreen. A new study conducted by researchers at the Center for Injury Research and Policy at Nationwide Children's Hospital and the Brooks College of Health at University of North Florida examined how homemade sunscreens were portrayed on Pinterest.

The study, published today in Health Communication, found that nearly all (95%) pins, or bookmarks, for homemade sunscreen positively portrayed the effectiveness of homemade sunscreens and most (68%) recommended recipes for homemade sunscreens that offered insufficient UV radiation protection. Sun Protection Factor (SPF) claims were made in a third of pins with a range of SPF 2 to SPF 50. This is concerning because the ingredients recommended in homemade sunscreen pins offer minimal scientifically proven broad-spectrum protection from UV radiation yet are widely shared and promoted as safe alternatives to commercial sunscreens on Pinterest. The average number of saves for a pin was 808, with one pin being saved more than 21,700 times.

"The internet is a great place for families to go to for recipe inspiration and arts and crafts projects, but not necessarily for making their own safety-related things," said Lara McKenzie, PhD, co-author of this study and principal investigator in the Center for Injury Research and Policy at Nationwide Children's. "Homemade sunscreen products are risky because they are not regulated or tested for efficacy like commercial sunscreens. When you make it yourself, you don't know if it's safe or effective." With rising skin cancer rates, the use of effective broadband sunscreen is critical to protect the skin from UV radiation and reduce incidence of skin cancer.

Just because you make it yourself or something is labeled as natural or has fewer ingredients doesn't necessarily mean it's safer. The best sunscreen is one that can be regularly applied and stay on the skin without causing irritation or other side effects, which usually depend on the child and the activity. It often takes a trial of several sunscreens before finding the one that does the job best for your family, even if that means everyone uses a different type of product. Here are some tips on how to protect your child's skin:

•Use an FDA-approved sunscreen. The American Academy of Dermatology recommends that everyone 6 months and older wear sunscreen. Make sure the sunscreen has these characteristics: ◦Broad spectrum, which protects against UVA and UVB sunrays.
◦Water-resistant (effective for up to 40 minutes in water) or very water resistant (effective for up to 80 minutes in water).
◦Sun Protection Factor (SPF) of 30 or higher.

•Start early. Children whose parents regularly apply sunscreen at an early age are more likely to continue using sunscreen as teenagers and adults. Make a habit of using sunscreen to set kids up for a lifetime of safely enjoying outdoor activities.
•Apply early and often. Sunscreen should be applied in a thick layer (about ¼ teaspoon for a toddler's face), 30 minutes before heading outside and reapplied every 2 hours. If children are swimming or sweating a lot, reapply sunscreen more often and use a water-resistant formula. For a week-long beach vacation, a school-aged child should go through an entire 8 oz. bottle of sunscreen, applying it twice a day.
•Throw out expired or old sunscreen. Look for an expiration date on the bottle and throw out expired sunscreen. If there is no expiration date, throw out sunscreen three years after opening. If your sunscreen looks or feels really different - it's much thicker or thinner or the color has changed - throw it out.

florida80
05-20-2019, 17:43
News Release 20-May-2019

SABER tech gives DNA and RNA visualization a boost

New DNA-nanotechnology-based method enhances nucleic acid analysis in cells and tissues, enabling parallel detection of many targets with high sensitivity and tunability and at low costs

Wyss Institute for Biologically Inspired Engineering at Harvard


    Share

 Print  E-Mail



IMAGE


IMAGE: In this image, the use of SABER-FISH enabled the visualization of the retina's organization into distinct layers with the light-sensing photoreceptor layer positioned at the top of the image. Each... view more 

Credit: HMS Genetics Department and Blavatnik Institute, and HHMI

(BOSTON) -- Researchers have been using "Fluorescence in situ hybridization" (FISH) analysis for decades to literally fish for specific DNA and RNA sequences in intact cells and tissues within their vast seas of nucleic acid molecules. Because of its ability to light specific sequences up under the microscope at the exact locations at which they reside, FISH has come to be a go-to method in the diagnosis of chromosomal abnormalities, investigation of the 3D organization of genomes in cells' nuclei, analysis of the immediate products of gene expression known as messenger RNAs and more.

However, it remains challenging to pick up sequences with FISH that are rare, especially in thick tissues that emit unspecific background fluorescence, and to detect many targets at the same time in multiplexed analysis. Several methods have been developed that can amplify weaker FISH signals but these cannot be easily customized, are unable to simultaneously visualize a large number of DNA or RNA target molecules, and they are expensive and difficult to use.

A collaborative research team from Harvard's Wyss Institute for Biologically Inspired Engineering and Harvard Medical School (HMS) has now developed "Signal Amplification by Exchange Reaction" (SABER), a highly programmable and practical method that significantly enhances the sensitivity as well as customization and multiplexing capabilities of FISH analysis. The team demonstrated SABER to amplify FISH signals at distinct RNA and DNA targets in the different layers of the mouse retina, and visualize up to 17 different target regions on the human X chromosome simultaneously. In addition, they used SABER as an effective tool to identify a genomic element that controls the transcription of a specific gene expressed in a particular type of retinal neuron. Their study is published in Nature Methods.

"With SABER-amplified FISH analysis and its sensitivity, multiplexing potential, practicality and cost-efficiency, we created a way to overcome key limitations of existing methods and provide researchers with a more powerful handle on a broad spectrum of analyses, ranging from fundamental research, to biomarker discovery and the development of therapeutics," said Wyss Institute Core faculty member Peng Yin, Ph.D., who corresponded the study together with Constance Cepko, Ph.D., the Bullard Professor of Genetics and Neuroscience in the Blavatnik Institute at HMS, and Brian Beliveau, Ph.D., a former Damon Runyon Postdoctoral Fellow in Yin's group and now Assistant Professor at the University of Washington's Department of Genome Sciences in Seattle.

Yin also is co-leader of the Wyss Institute's Molecular Robotics Initiative, and Professor of Systems Biology at Harvard Medical School; and Cepko also is an Investigator of the Howard Hughes Medical Institute and a member of the Harvard Stem Cell Institute.

In SABER, the researchers first programmed the "Primer Exchange Reaction" (PER) method previously reported by Yin's group to synthesize a longer concatemer of identical shorter sequences with the help of a catalytic self-folding DNA hairpin structure. This engineered mechanism shares similarity with the naturally occurring enzymatic mechanism that extends "telomeres" at the ends of chromosomes with identical DNA repeats to protect them from degradation but can be executed in a test tube.

The PER-generated concatemers are then hybridized via short complementary handle sequences to their target DNA or RNA sequences in fixed cells and tissues where they provide a scaffold with multiple binding sites for short fluorescent oligonucleotides ('imagers') added next. "In contrast to conventional FISH analysis, SABER allows us to not only bind one but many fluorescent dye molecules to a single nucleic acid target, which can considerably boost the strength of the signal coming from its location inside the cell, and we can even further amplify it by creating branched structures in extra hybridization steps, with additional concatemers grown from internal branch points of already existing concatemers," said Jocelyn Kishi, Ph.D., a co-first author on the study and Postdoctoral Fellow working with Yin who developed SABER with Beliveau. "This opens a wealth of new opportunities."

"SABER enables us to tune the signal strength to the abundance and localizations of specific RNA and DNA targets in FISH analysis, and, because concatemers for multiple targets can be synthesized in bulk ahead of time, SABER provides us with standardized probe sets that can be easily generated and re-used in different studies," said Beliveau. "In addition, by repeatedly washing imagers complementary to one set of targets out of a sample and substituting them for imagers that bind to other targets in a process we call DNA-Exchange, we were able to further multiplex our approach."

The spectral features of distinguishable fluorescent dyes allow researchers to only analyze up to four targets at the same time by conventional fluorescence microscopy. With DNA-Exchange, a set of imagers can be washed out of a sample and replaced by a different one binding to PER-generated concatemers at different target sites, and the process can be repeated multiple times. Using the multiplexing potential of 'Exchange-SABER', the team visualized 17 distinct regions of the human X chromosome in one fell swoop using the same type of microscopic equipment.

Applying SABER to thick tissues, Constance Cepko's group at HMS demonstrated the performance and utility of the method in the retina, which is organized into layers with a high diversity of neural cell types. "We previously applied single-cell sequencing to dissociated retinal tissue, but were unable to use the resulting markers to identify many cell types simultaneously in intact tissue," said co-first author Sylvain Lapan, Ph.D., a Postdoctoral Fellow in Cepko's group. "By providing multiplexed detection of marker transcripts, SABER is allowing us to close this loop and add a spatial dimension to our analyses."

Key to their analysis was a method developed for the study by co-first author Emma West that, based on cell surface fluorescence stainings, can computationally map all cells contained in a cross-section of the retina to specific positions. This enabled the team to assign individual signals obtained by SABER-enhanced FISH analysis to exact 3D spaces occupied by cells. "By modeling cellular coordinates and transcript positions, we can create a digital representation of our tissue that is quantitative at the single cell level. This is not only useful for identifying cell types, but also for analyzing phenotypes and the activity of introduced genetic elements," said co-first author Emma West, who is a Graduate Student in Cepko's group.

In addition, the team used SABER-FISH as an effective tool to identify genomic elements known as enhancers that drive gene expression in specific retinal cell types. "We introduced recombinant DNA constructs into the retina in which those elements were individually coupled to a reporter, and by performing SABER-FISH analysis to quantify the copy numbers of constructs in single cells, as well as the expression of the reporter, we were able to correlate activity of one specific enhancer with cell type-specific expression," said Lapan.

"The sensitivity and simpler, cheaper workflow of SABER-FISH allow us to gather much more information from experiments in which we manipulate the retina in order to understand the regulatory networks that govern its development, and to assess the efficacy of our gene therapy approaches to eye diseases," said Cepko. "Importantly, this approach has the potential to similarly enhance research in many other tissue types and organs."

###

florida80
05-20-2019, 17:44
Key drug target shown assembling in real-time

Study reveals a structural timeline of cellular signaling events

Case Western Reserve University


    Share

 Print  E-Mail


Over one-third of all FDA-approved drugs act on a specific family of proteins: G-protein coupled receptors (GPCRs). Drugs to treat high blood pressure, asthma, cancer, diabetes and myriad other conditions target GPCRs throughout the body--but a recent study shows what happens next. In results published in Cell, researchers outline the timeline of events, including precisely when and how different parts of a GPCR interacts with its G protein signaling partners. The findings provide new insights into the fundamental mechanisms of drug-induced signaling in cells, including ways to identify the most critical portions of GPCRs for targeting development of novel therapeutics.

"We're able to see--from millisecond to minutes timescales--the detailed sequence of events where a GPCR encounters its downstream signaling partner and catalyzes a change in its structure, providing the basis for understanding its signaling," said corresponding author David Lodowski, PhD, assistant professor in the Department of Nutrition at Case Western Reserve University School of Medicine. "The most exciting part is that we can follow the signaling in a time-resolved manner. We first rapidly mix the activated GPCR and its G-protein signaling partner, and then capture time-resolved details along the natural signaling pathway."

The researchers observed the formation of the GPCR signaling complex using a powerful technique called "radiolytic footprinting" that couples chemical labeling of proteins with mass analysis. In this technique, high intensity X-rays are used to generate highly reactive chemical labels from the water surrounding proteins, enabling a "snapshot" of the protein's regions of interest. This x-ray footprinting technique was pioneered by Mark Chance, PhD, vice dean for research at Case Western Reserve University School of Medicine and a coauthor on the manuscript.

"Our footprinting approach efficiently labels the outside of proteins," Lodowski explained. "If a protein in isolation is labeled on one side, and then in complex is no longer labeled there, we know that's most likely the interaction surface." This approach helped the researchers understand how a GPCR uses its different parts of its surface to engage with the G protein.

Previous studies have shown what GPCRs look like at rest (before activation) and long after they've formed complexes with other proteins (and signaling is over). The in-between steps have been more elusive. Said Lodowski, "We are now moving into the fourth dimension--the temporal dimension--of how these complexes form."

Activated GPCRs form a complex with particular G proteins inside cells that control cell functions. The process transfers information (e.g. the signal) from the GPCR to the signaling partner. The study reveals specifics in this process, called the "G protein cycle." In milliseconds to seconds, GPCRs identify a signal (such as a hormone or drug), reconfigure themselves, recruit specific G proteins inside cells, and activate cellular signaling cascades.

The new analysis technique can identify when a certain portion of a GPCR--individual amino acids, for example--locks in with target amino acids inside a G protein. It thus reveals precise amino acids most central to GPCR function. If applied to GPCRs known to cause disease, such a detailed analysis could potentially uncover new sites for precision drug targeting. "We can use the same techniques to identify precise regions on GPCRs to target therapeutically," Lodowski explained. "If we know site A gets touched before site B in the cycle, then we can design better, more effective drugs."

GPCRs are not easy subjects to study. They are embedded in cell membranes, a natural location that facilitates their ability to transmit information from outside to inside the cell. However, this location complicates their isolation, purification and analysis. Due to these difficulties, structures of GPCRs and their complexes have been exceedingly difficult to solve, with the first structure of a GPCR only determined in 2000. Extensive GPCR structure determination efforts over the past 20 years have enabled the structure determination of a number of GPCRs, including the first GPCR-G protein complex structure in 2012, which earned Brian Kobilka, MD, of Stanford University the Nobel Prize in Chemistry. Kobilka was also a corresponding author on the new Cell publication.

"This work would not have been possible without our world-class team of investigators including collaborators at Stanford, Sungkyunkwan University in Korea, the University of Copenhagen in Denmark, and the scientists and engineers at the Case Center for Synchrotron Biosciences at Brookhaven National Laboratory," Chance said. The Case Center for Synchrotron Biosciences, located at the National Synchrotron Light Source II (NSLS-II) at Brookhaven laboratory, operates the custom footprinting beamline (BM-17) the researchers used in the new study.

Going forward, the researchers plan to use the beamline at NSLS-II to further analyze activation of GPCRs and their complexes. They'll combine their findings with existing GPCR structural data to better understand how GPCRs work. The results could lead to better beta-blockers, chemotherapy drugs, even drugs to treat vision or cognitive deficits.

"GPCRs are critical targets for a variety of new drugs," Lodowski said. "We've had some ideas of how GPCRs and their signaling complexes come together, but not the sequence of events with molecular detail. It's exciting that this novel time resolved approach allows us to extract more meaning from these structures."

###

florida80
05-20-2019, 17:45
Baylor Scott & White gastroenterology researchers share key takeaways from DDW 2019

Phone or in-person interviews at or after Digestive Disease Week available upon request

Baylor Scott & White Research Institute


    Share

 Print  E-Mail


Researchers from Baylor Scott & White Research Institute's Center for Esophageal Research will play key roles at this year's Digestive Disease Week. Baylor Scott & White is known for the unique multidisciplinary team approach applied to bench and clinical research, as well as the clinical care provided at the largest not-for-profit healthcare system in Texas.

The following researchers are available to discuss how this unique program model is making an impact in the field of gastroenterology, including their ground-breaking research on Barrett's Esophagus and Eosinophilic Esophagitis. They will also be available to weigh in on key topics and trends coming out of Digestive Disease Week 2019.

• Rhonda Souza, MD, AGAF - Co-Director, Center for Esophageal Research and Chair, AGA Institute Council


• Stuart J. Spechler, MD, AGAF, FACG - Co-Director, Center for Esophageal Research and 2019 Esophageal, Gastric & Duodenal Disorders Research Mentor Award Recipient


• Vani Konda, MD - Clinical Director, Center for Esophageal Diseases


Baylor Scott & White is committed to diagnosing and treating digestive disease conditions and working across the continuum of care to provide rehabilitation and other lifestyle adjustments to patients.

Through advanced diagnostic technology, education and support programs, and research and clinical trials conducted through Baylor Scott & White Research Institute, Baylor Scott & White offers a unique and comprehensive program for a variety of digestive diseases. The Center for Esophageal Research is devoted to conducting innovative, translational research in a multidisciplinary setting in order to advance understanding of esophageal diseases and to improve the treatment of patients with those diseases.

###

florida80
05-20-2019, 17:46
News Release 20-May-2019

People with benign skin condition willing to trade time, money to cure disorder

New study highlights the substantial effect that condition has on quality of life

Boston University School of Medicine


    Share

 Print  E-Mail


(Boston)--People with benign hyperpigmentation (the darkening or increase in the natural color of the skin), are willing to pay (WTP) nearly 14 percent of their monthly income and approximately 90 minutes a day to cure their condition.

The study involved 85 adults with skin hyperpigmentation who were surveyed on the number of hours per day they would be willing to give up as well as how much money they were willing to spend to potentially be cured of a condition.

"Our findings highlight the substantial effect that benign hyperpigmentation has on quality of life as measured by the amount of time and money patients are willing to give up to rid themselves of disease," explained corresponding author Neelam Vashi, MD, assistant professor of dermatology at Boston University School of Medicine and director of the Boston University Cosmetic and Laser Center at Boston Medical Center.

Hyperpigmentation disorders comprise a large group of benign skin conditions and their prevalence may vary with race and ethnicity. Despite often being considered a cosmetic condition, Vashi has shown in her previous research that this common clinical complaint has been shown to negatively impact quality of life and psychosocial well-being of patients, especially when facial skin is involved.

According to the researchers these findings suggest that disease burden was overall severe in patients with hyperpigmentation disorders, and measuring WTP and TTO may be useful in determining the daily impact of disease and treatment preferences. "We found that the WTP for a curative treatment was greater than that previously observed among patients with other skin diseases such as rosacea and vitiligo. This may suggest that hyperpigmentation disorders have a greater impact on daily life or that patients expect to pay more out of pocket for conditions that are often considered cosmetic."

The researchers point out that although the study is limited by sample size and design, the information collected on WTP preferences allow physicians to gauge the impact of hyperpigmentation disorders on patients' lives and may be useful to guide therapeutic decisions.

florida80
05-20-2019, 17:47
News Release 20-May-2019

Shedding light on cancer metabolism in real-time with bioluminescence


Ecole Polytechnique Fédérale de Lausanne


    Share

 Print  E-Mail



IMAGE


IMAGE: EPFL chemist Elena Goun of the Laboratory of Bioorganic Chemistry and Molecular Imaging. view more 

Credit: EPFL

EPFL scientists have invented a new way to quantify - in real-time - glucose metabolism of cancerous tumors by making them bioluminesce. This new light probe is not radioactive and works on living organisms such as mice that carry the tumor cells. The technique requires tagged tumor cells, two jabs and a camera. The results are published in Nature Methods.

Take a mouse with a tumor tagged with luciferase. Luciferase-expressing tumors are made by taking a sample of the cancerous tumor from a patient, and chemically labeling them with luciferase, a class of oxidative enzymes that produce bioluminescence. These labeled cells are grown in mice to understand the basic biology of the cancer and for the development of effective cancer treatments.

Next, inject a first compound in the mouse that doesn't easily break down in the blood. Twenty-four hours later, inject a second compound that is designed to react only with the first under very specific conditions.

The reaction between the two compounds is engineered to produce bioluminescent light which escapes the body, like in fireflies, but happens where luciferase-expressing tumors have metabolized sugar. Point a CCD camera sensor at the body and you have a snapshot of the tumor's metabolic levels. The amount of light produced is directly proportional to the amount of metabolized sugar.

"We wanted to develop a tool to help create more effective cancer treatments," explains EPFL chemist Elena Goun of Laboratory of Bioorganic Chemistry and Molecular Imaging who led the study. "Our new imaging technique allows us to quantify how much sugar is being metabolized in real-time, providing valuable information about the metabolic status of the tumor and the types of drugs that could deprive the tumor of its major energy source."

How it works: from fireflies to cancer imaging

Goun and her team found inspiration from the way fireflies glow and combined it with click-chemistry, a branch of chemical biology in which biocompatible molecules are designed to specifically "click" together in a tailored reaction that happens directly in the complex environment of the living organism.

Since cancer has a high metabolic rate, it consumes sugar in large amounts. This process is important for cancer growth and metastasis but remains poorly understood due to the lack of non-invasive tools that work at the level of the entire organism.

Goun's idea was to engineer two click-molecules, one with sugar and the other with the "caged" luciferin, the light-emitting compound found in fireflies that make them glow. And it works.

Once the click-labeled sugar is eaten by the tumor, it reacts with this "caged" luciferin via the "click" reaction and produces bioluminescent light proportional to the amount of sugar entering the cells. She termed her firefly imaging technique BiGluc, short for "Bioluminescent glucose".

BiGluc could be used to understand the metabolic requirements of different tumors, opening avenues for the generation of novel, effective treatments.

BiGluc in preclinical imaging of cancer metabolism and drug development

"Our novel optical imaging technique has high clinical applicability and many advantages," says Goun. "It is non-radioactive, highly sensitive and quantifiable, the reagents are stable for years, and the glow can be observed for many hours."

Due to its versatile nature, BiGluc could also be extended beyond cancer to image dysfunctional cells of many other important human pathologies in which changes in metabolism play a key role, such as diabetes, neurodegenerative diseases, nonalcoholic steatohepatitis, and many others.

"What's exciting about these results is that we have created the foundation for the development of an ultra-sensitive imaging platform for quantifying the uptake of many important metabolites that play a central role in multiple human diseases with the goal of creating more effective treatments," says Goun.

florida80
05-20-2019, 17:48
News Release 20-May-2019

Infant deaths highlight danger of misusing car seats, other sitting devices

Researchers: Car seats are essential for safety but must be used as directed

University of Virginia Health System


    Share

 Print  E-Mail



IMAGE


IMAGE: Rachel Moon, MD, is a pediatrician at the University of Virginia Children's Hospital. She was part of a research team that reviewed infant deaths that occurred while the children were... view more 

Credit: UVA Health System

Car safety seats are vital to protect children while traveling, but a new infant death study underlines the need to follow the seats' instructions and to use them only for their intended purpose.

In a review of infant deaths that occurred while children were sleeping in sitting devices, researchers determined than more than 60% of the deaths were in car seats. The car seats were used as directed in less than 10% of those cases.

"While car seats are important when you're traveling with an infant, it's best not to have the infant sleep in the car seat when you're at home," said researcher Rachel Moon, MD, a pediatrician at the University of Virginia Children's Hospital. "The safest place for a baby to sleep is on a firm, flat surface."

Sleep-Related Infant Deaths in Sitting Devices

Moon and colleagues set out to shed light on a poorly documented category of infant deaths: deaths while sleeping in sitting devices, such as car seats and strollers. The American Academy of Pediatrics discourages allowing children to routinely sleep in such devices.

Of almost 12,000 infant sleep-related deaths reported between 2004 and 2014, approximately 3% - 348 deaths - occurred in sitting devices, the researchers found. Car seats were the site of 62.9% of these deaths, but in the "great majority" of cases, the infant was not traveling in a car, the researchers report. Out of the total deaths in a sitting device, only .2% occurred in a vehicle that was in motion or temporarily parked. More than half of car seat deaths occurred at the child's home.

While the researchers did not establish why the infants were in car seats when not traveling, they note that some parents may not be able to afford a crib or bassinet, or people may use the seats to hold the child while doing other tasks.

After car seats, the most common site for sleep-related infant deaths while sitting were bouncers, swings and similar devices (122 deaths, 35.1%). Strollers were the site of only 2% of deaths (seven of the 348).

Overall, nearly two-thirds of the deaths in sitting devices occurred while the devices were not being used for their intended purpose and in compliance with their instructions, the researchers report.

The researchers emphasize that their findings in no way call into question the safety of car seats when used as directed. Car seats are a "safe and effective way of transporting an infant and should always be used when transporting an infant in a motor vehicle, whether the infant is awake or asleep," the researchers

florida80
05-20-2019, 17:49
News Release 20-May-2019

Progress to restore movement in people with neuromotor disabilities

A study published in the journal Neural Computation involving Núria Armengol, a biomedical engineer at UPF, further to her bachelor's degree final project which she conducted at Duke University (Durham, USA)

Universitat Pompeu Fabra - Barcelona


    Share

 Print  E-Mail


IMAGE


IMAGE: LSTM-based approaches could provide a better algorithm strategy for neuroprostheses. view more 

Credit: UPF


A study published in the advanced edition of 12 April in the journal Neural Computation shows that approaches based on Long Short-Term Memory decoders could provide better algorithms for neuroprostheses that employ Brain-Machine Interfaces to restore movement in patients with severe neuromotor disabilities.

This investigation was carried out by researchers of Duke University (USA) and has involved Núria Armengol, an alumna of the bachelor's degree in Biomedical Engineering at UPF who initiated this research topic for her end-of-degree project under the supervision of Ruben Moreno Bote, a researcher at the Center for Brain and Cognition (CBC) of the Department of Information and Communication Technologies (DTIC) at UPF, which she developed at Duke University (Durham, USA). Currently, Armengol is pursuing a master's degree at the Swiss Federal Institute of Technology in Zurich (ETH, Switzerland).

Although over the years many real-time neural decoding algorithms have been proposed for brain-machine interface (BMI) applications, recent advances in deep learning algorithms have improved the design of brain activity decoders involving recurrent artificial neural networks capable of decoding the activity of all neurons in real time.

As Núria Armengol explains, "for this study, we developed an LSTM decoder to extract the kinematics of the movement of the activity of large populations of neurons (N = 134-402), sampled simultaneously from multiple cortical areas of micus rhesus while they performed motor tasks".

The brain regions studied include primary motor areas and primary somatosensory cortical areas. The LSTM's capacity to retain information for extended periods of time enabled accurate decoding for tasks that required both movements and periods of immobility.

"Our LSTM algorithm significantly outperformed the Kalman filter (an analytical method that enables estimating unobservable state variables from observable variables) while the monkeys were performing different tasks on a treadmill (raising an arm, raising both arms or walking)", Armengol adds.

Notably, LSTM units exhibited a variety of well-known physiological features of cortical neuronal activity, such as directional tuning and neuronal dynamics during tasks. LSTM modelled several key physiological attributes of the cortical circuits involved in motor tasks. These discoveries suggest that LSTM-based approaches could provide a better algorithm strategy for neuroprostheses that employ Brain-Machine Interfaces to restore movement in patients with severe neuromotor disabilities.

florida80
05-20-2019, 17:50
News Release 20-May-2019

Sex sells: how masculinity is used as currency to buy sperm donors' time

UK and Australian sperm banks use masculine archetypes to attract donors

City University London


    Share

 Print  E-Mail


Sperm banks in the United Kingdom and Australia use images and phrases associated with masculinity to attract donors because laws prohibit them from paying for sperm.

Research co-authored by Cass Business School academic Dr Laetitia Mimoun has analysed marketing strategies used by sperm banks in the United Kingdom and Australia and found they rely on masculine archetypes to create value for a commodity they cannot legally buy.

Globally, the sperm donation industry is valued at more than 3.5 billion US Dollars; greater acceptance of same-sex relationships and increased demand for fertility treatments are expected to drive further industry growth in coming years.

Sperm banks in the UK and Australia are disadvantaged within this industry as they are unable to pay donors or provide them with anonymity, they are subject to limitations on the number of donations any one male can provide and the import and export of sperm is highly regulated.

These constraints have contributed to sperm shortages in both countries, particularly after the UK ended donor anonymity in 2005, resulting in the closure of the national sperm bank.

To overcome regulatory constraints and increase donor numbers sperm banks in the UK and Australia began to market the act of donating sperm as a confirmation of masculinity.

"This is to say that if you give your sperm you are a real man and you are better than all the other men who cannot do so for whatever reason," said Dr Laetitia Mimoun, the study's lead author.

Dr Mimoun said this strategy relied on two archetypes of masculinity -- the 'soldier' serving their country and the 'everyday hero' saving a damsel in distress.

The soldier archetype uses images and phrases associated with duty, honour and heroism to affirm masculinity; a donor is willing to sacrifice himself and his time without reward.

Examples of the soldier archetype are found in a recreation of the famous Lord Kitchener propaganda poster used to recruit soldiers to the British Expeditionary Force in 1914 and in a campaign that described sperm shortages as 'the real banking crisis'.

The everyday hero archetype uses images of life-saving professions such as firefighters and life guards, linking the ability to create a life with being able to save one.

The researchers found that campaigns employing the everyday hero archetype sometimes use hypersexualised or romanticised images of men to intensify their appeal.

Examples of this are found in campaign posters showing athletically built men in swimming trunks or underpants but also in videos depicting men cooking barbecues or handing out roses to women.

Dr Mimoun said the use of these marketing strategies had significant impacts on the sperm donation industries in both the UK and Australia.

"This has helped the industry in the UK and Australia to resolve their donor shortages to a great extent," Dr Mimoun said.

"It's very interesting that sperm banks are able to procure sperm for free as long as they sell it as a way to affirm the masculinity of donors, especially in today's context when the notion of masculinity is constantly challenged."

###

florida80
05-20-2019, 17:51
Young children willing to punish misbehavior, even at personal cost, new research shows


New York University


    Share

 Print  E-Mail






















Volume 90%






































































































































VIDEO: Children as young as three years old are willing to punish others' bad behavior, even at personal cost, finds a new study by psychology researchers. view more 

Credit: Video courtesy of Alex Paris


Children as young as three years old are willing to punish others' bad behavior, even at personal cost, finds a new study by psychology researchers at New York University. The work adds to growing evidence that human beings distinguish between right and wrong at a very young age and are willing to pay a personal cost to encourage positive behavior in others.

"Morality is about more than just doing good oneself--it is also about encouraging good behavior in others," says lead author Daniel Yudkin, a postdoctoral researcher at Yale University and an NYU doctoral student at the time of the study, which appears in the Journal of Experimental Psychology. "These results highlight a distinctly human aspect of moral behavior."

The scientists, who included NYU psychology professors Marjorie Rhodes and Jay Van Bavel, sought to better understand a uniquely human trait: our willingness to punish, at personal cost, "bad actors" who haven't harmed us directly.

"This behavior, known as 'costly third-party punishment,' is interesting because it is believed to underlie people's conception of justice," Yudkin explains. "Specifically, it relates to justice because it involves people making sure others are acting fairly, even if their behavior doesn't impact them."

The researchers focused on young children to better understand this behavior for the following reason: seeing how we think about punishment early in life can help shed light on the underlying psychological processes driving this behavior.

Yudkin and his colleagues deployed a naturalistic experiment--one aimed at capturing the reality of children's everyday lives. In it, more than 200 children, aged three to six, were recruited from the Children's Museum of Manhattan and brought one at a time into a classroom with a large red slide in the corner. The children were given the chance to try out the slide and all of them reported enjoying doing so. Next, they were shown a video of a little girl ("Stacey") tearing up someone else's drawing, then were told that Stacey planned to come back into the room later in the day to play on the slide.

The children were then given a sign--one side of which said "Open" and the other "Closed." They were told that if they put the "Open" sign on the slide, then they could go down the slide and Stacey could, too. If they put the "Closed" sign on, then they could stop Stacey from going down, but then they couldn't go down, either. In other words, punishing Stacey came at a cost to themselves, too--they would be denied the chance to do something they previously said they enjoyed (all children confirmed their understanding of the significance of their choice to the researchers).

Surprisingly, about half the children across all age groups--including some as young as three years old--enacted costly punishment. Rates of punishment increased with age: children aged five and six punished at about three times the rate of those aged three and four.

In a follow-up experiment, the researchers wanted to test what makes children more or less likely to punish. To do this, they randomly assigned participants to different conditions. Under one, some learned that Stacey was a member of the Children's Museum or while others learned she was a member of the Boston Museum (thereby manipulating Stacey's "group membership"). In another, some children wore a sheriff's badge while others did not (thereby manipulating punishers' sense of "authority"). They then examined whether rates of punishment differed according to which condition participants had been assigned.

The results showed that group membership and authority did in fact affect children's likelihood of punishment, but in an unexpected way. Typically, social science experiments show that people treat out-group members more harshly than in-group members. Thus, participants might be expected to punish Stacey more when they believed she was a member of the Boston museum rather than as a member of the Children's Museum, since the former would designate Stacey's membership to an out-group. And indeed, among the youngest children, this is exactly what happened: children were more than twice as likely to punish Stacey in the former than the latter condition.

However, this finding occurred only when the children were not wearing a sheriff's badge. When they were wearing the badge, they demonstrated precisely the opposite pattern, punishing Stacey more when she was a member of the Children's Museum than when she was a member of the Boston Museum. The researchers termed this effect "in-group policing" and concluded the following: people become more committed to ensuring that members of their own communities are behaving well when they feel a sense of responsibility.

More generally, the researchers note that we frequently encounter examples of those who perform third-party punishment--from those who risk arrest at a protest over a matter that doesn't directly affect them to others who stand up to protect a stranger being harassed on the subway.

What's behind the acquisition of this tendency is unclear. One possibility is reputational: that people do it merely to look good to others. Another possibility is that it is innate: that people are intrinsically willing to uphold moral rules.

"By showing that even some children as young three years of age do enact costly punishment, we provide evidence that reputation isn't the only thing driving this behavior," notes Yudkin, who adds that past research suggests that children at this age don't take into account their reputations when making decisions that affect themselves or others.

"Of course, we cannot tell for sure whether this behavior is innate or learned in the first few years of life," he concludes. "But it does add to growing evidence that, at a very young age, humans are predisposed to do good themselves and encourage good behavior in others."

florida80
05-20-2019, 17:52
News Release 20-May-2019

Estonian scientists took a big step forward in studying a widespread gynecological disease


Estonian Research Council


    Share

 Print  E-Mail


Endometriosis is a women's disease that affects 10-15% of all reproductive-aged women. Although no cure has been found for the disease, researchers seek to find out why some women develop endometriosis and which may be its effective treatment. Researchers from Tartu have completed a study that helps to get closer to explaining the causes of endometriosis.

Endometriosis is a disorder in which tissue that lines the inside of the uterus -- the endometrium -- grows and develops lesions outside the uterine cavity. This causes inflammation which in turn brings along chronic pelvic pain, painful intercourse or pain with urination and bowel movements, and often also infertility.

According to the Research Fellow of Reproductive Medicine at Tartu University Institute of Clinical Medicine and the Competence Centre on Health Technologies Merli Saare, nobody actually knows how many women suffer from the disease because it is not easy to diagnose. So far, there is no method for identifying endometriosis from a blood sample.

"Today, the disease is mainly diagnosed surgically. In general, patients have to undergo a laparoscopic procedure in which lesions are surgically removed from the abdominal cavity. Small pieces of this tissue are taken for histological analysis that helps to confirm the diagnosis," explained Saare.

Surgical removal of lesions relieves symptoms but does not cure the disease, which tends to recur. In addition to the fact that there is no effective treatment for endometriosis, researchers still do not know exactly which factors support the development of the disease or why some women have it and others do not.

The causes of endometriosis are studied by analysing the uterine mucosa and the tissue that has formed and grows in the abdominal cavity. Like any other endometrium-related diseases, also the menstrual cycle factors have to be considered while studying endometriosis. Women usually inform doctors of the day of their menstrual cycle when they go to surgery. However, this may not be accurate enough for determining the exact phase of the menstrual cycle, as Saare and her colleagues say in their research paper published in the journal Biology of Reproduction.

Their study, which is based on the analysis of endometrium samples taken from about 80 women, confirmed that the day of the menstrual cycle given by the women themselves and the molecular profile of their endometrium were often incompatible. Therefore, molecular tools are needed for more accurate classification of samples: by analysing RNA from the endometrium, researchers can assign exact dates to tissue samples and improve the quality of future research. "Our study helps to precisely determine the phase of the biopsy samples taken from the endometrium. This way we can avoid examining the endometrium in different phases of the cycle," explained Saare.

She is convinced that a breakthrough in establishing the causes of endometriosis is only a question of time, considering the modern technological potential. "All small steps and discoveries take us closer. If our studies become more precise and we are able to eliminate side factors, it is much easier to find causal changes of the disease."

In their study, the researchers used an advanced molecular tool beREADY, a test developed at the Competence Centre on Health Technologies and used in fertility clinics, which provides an opportunity to select the most appropriate day for embryo implantation. Research has shown that the test used for determining the genes that are important in endometrial maturation can also be beneficial in the molecular studies of the endometrium.

florida80
05-20-2019, 17:54
News Release 20-May-2019

Behold the Bili-ruler: A novel, low-cost device for screening neonatal hyperbilirubinemia

Study validates new, low-cost, non-invasive tool in screening newborn jaundice with high diagnostic accuracy

Brigham and Women's Hospital


    Share

 Print  E-Mail



IMAGE


IMAGE: This is a closeup view of the bili-ruler being used on an infant. view more 

Credit: Brigham and Women's Hospital

Neonatal hyperbilirubinemia, commonly known as newborn jaundice, is a condition that affects up to 80 percent of newborns in the first week of life. Severe hyperbilirubinemia (bilirubin levels >20mg/dL) affects an estimated 1 million infants around the world annually. If diagnosed early, severe hyperbilirubinemia is largely treatable with high-intensity phototherapy, resulting in recovery without long-term consequences. If left undiagnosed or untreated, severe hyperbilirubinemia may lead to irreversible brain damage or even death. These complications often arise in low-resource settings; in low- and middle-income countries (LMICs), one-third of infants with extreme hyperbilirubinemia die from a condition that is largely treatable.

But access to treatment itself may not be the primary challenge.

One significant barrier to managing hyperbilirubinemia in LMICs is the failure to recognize the severity of the condition before the onset of irreversible symptoms. A team from Brigham and Women's Hospital recently reported the creation and validation of a novel tool, the Bili-ruler, designed for use by frontline health workers to screen for hyperbilirubinemia in low-resource settings. The findings are published in Pediatrics.

"In low-income settings, many people don't have access to very basic diagnostics, medications and interventions that could prevent a large burden of neonatal morbidity and mortality," said lead author Anne CC Lee, MD, MPH, a pediatrician, director of the Brigham Global Newborn Health Lab and principal investigator of the project. "Improving early recognition and care seeking for potentially serious newborn illness is a first step."

The first low-cost screening tool for jaundice was the Gosset icterometer developed in the 1950s. This device comprised five shades of yellow and presented good correlation with serum bilirubin concentrations; however, it was developed using robbialac paint which led to a lack of color standardization and was never widely adopted. Currently, in high-income settings, there are trancutenous bilirubin instruments, but these cost over $7,000 and are not affordable in most low-income settings.

"Ultimately, if the baby is not diagnosed or is diagnosed too late, there is very little that can be done before the effects are permanent," said co-author Lian Folger, a program coordinator at the Global Newborn Health Lab.

To address this barrier of illness recognition, the team designed the Bili-ruler to improve the identification of clinically severe hyperbilirubinemia in low-resource settings. As its name suggests, the Bili-ruler is a portable, handheld "ruler" to measure the degree of newborn jaundice, using six color strips arranged in a stepwise gradient of increasing yellow hue. The colors were developed using advanced digital color processing of images of infants with different levels of hyperbilirubinemia.

To assess for jaundice, the Bili-ruler is pressed against the infant's skin, and the underlying skin tone is visualized through a circular window enclosed by a uniform color strip. This process is repeated for all six colors, and the user chooses the score which corresponds to the color that most closely matches the underlying skin tone. The team went through many iterations of the design of the device and collaborated with groups at MIT that specialize in visual design.

To validate the Bili-ruler across diverse populations, the research team recruited a total of 790 newborns from the Brigham and its partner institution, the Sylhet Osmani Medical College Hospital (SOMCH) in Sylhet, Bangladesh. Newborns were eligible for inclusion if they were <28 days old, generally healthy, and had not previously received phototherapy or exchange transfusion.

In the study, the Bili-ruler was used to assess for jaundice alongside clinical measures of transcutaneous bilirubin (TcB) and total serum bilirubin (TSB) levels. Bili-ruler measurements were obtained on the forehead, nose, abdomen, palms, or soles of feet, without previous knowledge of bilirubin levels. The scores were then compared with TcB and TSB.

The Bili-ruler had high diagnostic accuracy and validity, showing strongest positive correlations between measurements taken on the nose with bilirubin concentrations measured by both TcB and TSB. In addition, measurements on the nose had high validity, sensitivity and specificity for identifying hyperbilirubinemia of several different thresholds. Bili-ruler scores on the foot also had high sensitivity, but lower specificity in identifying serum bilirubin at very high thresholds.

Results initially seemed consistent between infants of varying skin tones -- an important consideration for use in multi-ethnic populations. However, since the largest populations validated in the study were south Asian and white, the researchers hope to expand validating the Bili-ruler in other ethnicities -- namely Hispanic and black populations.

Currently, the team is working to partner with organizations in Ghana and Peru to expand the application and validity of the device. In Peru, the researchers are working with Little Sparrow Technologies, INMED, and Bilimetrix to implement a low-cost, package to guide both diagnostic evaluation and clinical management of jaundice.

Lee and Folger speak passionately about the significance and global health impact of their work.

"The hope is that this tool will improve the early recognition and more accurate diagnosis of severe jaundice in settings that traditionally do have not had access to care. Two of my own children had severe hyperbilirubinemia and required phototherapy. They likely would not have had the same healthy outcome if they were born at home and without postnatal care in rural Bangladesh. We hope that the Biliruler will improve access to treatment for hyperbilirubinemia and improve health outcomes for babies born in low-resource settings," said Lee. "Every baby, no matter where they are born, deserves the equal opportunity for a healthy start in life."

florida80
05-20-2019, 17:55
News Release 20-May-2019

Just released: Proceedings from inaugural Medical Summit on Firearm Injury Prevention

Article published online by Journal of the American College of Surgeons reflects the consensus of 42 professional organizations on a constructive approach that can be taken to reduce injury, disability, and death from firearm violence in the United States

American College of Surgeons


    Share

 Print  E-Mail


CHICAGO (May 20, 2019): Proceedings from the first-ever Medical Summit on Firearm Injury Prevention have been released and published on the Journal of the American College of Surgeons website as an "article in press" in advance of print publication.


Leaders from the 43 national medical organizations and the American Bar Association attended the historic meeting on February 10-11 in Chicago, which was hosted by the American College of Surgeons Committee on Trauma (ACS COT). Organizations represented lawyers, physicians, nurses, public health professionals, and emergency medical service providers, with attendees providing perspectives from the front lines of caring for seriously injured patients as well as dealing with the aftermath of violence in communities.


"We've reached a point where tens of thousands of Americans are seriously injured, permanently disabled, or die annually from firearm incidents," said David B. Hoyt, MD, FACS, ACS Executive Director. "By working together with other stakeholder organizations seeking to remedy this crisis, we can collectively find and put forth viable solutions to this epidemic that continues to inflict tragedy on Americans' lives."


Throughout the Summit, attendees expressed their compelling interest in reducing deaths, injuries, and disabilities from firearms in the U.S. The collegial environment of the meeting set the scene for fostering an inclusive dialogue on how to work together to identify opportunities for the medical community to reach a consensus-based, apolitical approach to firearm injury prevention focused on understanding and addressing the root causes of firearm violence while making firearm ownership as safe as possible.


Summit attendees identified opportunities to collaborate in the areas of research, education, and targeted injury prevention initiatives. Using a public health framework, attendees engaged in collegial discussions to build consensus on actionable items for firearm injury prevention that the group could support as a unified voice.


Following the meeting, consensus statements were compiled by the planning committee and brought to the attention of attendees for further internal consideration by their organizations.


The just-released Summit proceedings article identifies a comprehensive public health approach to addressing this problem that 42 of the participating organizations have formally agreed to support and provides a road map that can be implemented through collaboration among medical, legal, and community organizations.


Briefly summarized below, these consensus-based points for potential action address the need to:

•Recognize firearm injury as a U.S. public health crisis, and take a comprehensive public health and medical approach to address it
•Research this public health crisis using a disease model, and call for research funding at federal and philanthropic levels commensurate with the burden of the disease on society
•Engage firearm owners and communities at risk as stakeholders to develop firearm injury programs
•Empower the medical community across all health care settings to act in the best interests of their patients in a variety of palpable ways: counsel patients on safe firearm storage; screen patients at risk for firearm injury or death; and engage the community in addressing the social determinants of disease through hospitals and healthcare systems
•Commit professional stakeholder organizations to ensure that these statements lead to constructive actions for improving the health and well-being of our nation
(Read the complete Executive Summary of the Summit proceedings. Addendum follows.)

"A key driver for this movement is to take a systems-based approach toward addressing the problem and base it on the public health model," explained Ronald M. Stewart, MD, FACS, article coauthor, who is Medical Director of ACS Trauma Programs. "This approach involves not only engaging firearms owners as part of the solution--not the problem--but also engaging people who live in communities at risk as part of the solution, and not the problem. We must identify our society's structural factors and social determinants that create or perpetuate the cycle of firearm violence and call for a commitment for research funding that matches the burden of this disease in America."


"Despite the fact that many organizations have been leading efforts for years to address the dire consequences of firearm violence, a national collaborative effort led by the medical profession as a whole has yet to take flight," said Eileen M. Bulger, MD, FACS, Summit moderator, coauthor, Chair of the ACS Committee on Trauma, and professor of surgery, University of Washington, Seattle. "And yet--while the medical community has successfully worked together to reduce death rates from traffic injuries, HIV, and cancer--U.S. death rates from firearm violence have risen. The precedent is already there: by taking a public health approach to addressing this problem, we can work more effectively as a whole to reduce death, disability, and injury from firearms."


As the authors write, "coming together as a professional community and approaching this epidemic as a disease and a public health problem promises to make our neighborhoods and our country safer, stronger, and more resilient. We believe this can be done in a manner which preserves (or even enhances) freedom. This professional approach requires freedom with responsibility."


###

florida80
05-20-2019, 17:56
News Release 20-May-2019

Just released: Proceedings from inaugural Medical Summit on Firearm Injury Prevention

Article published online by Journal of the American College of Surgeons reflects the consensus of 42 professional organizations on a constructive approach that can be taken to reduce injury, disability, and death from firearm violence in the United States

American College of Surgeons


    Share

 Print  E-Mail


CHICAGO (May 20, 2019): Proceedings from the first-ever Medical Summit on Firearm Injury Prevention have been released and published on the Journal of the American College of Surgeons website as an "article in press" in advance of print publication.


Leaders from the 43 national medical organizations and the American Bar Association attended the historic meeting on February 10-11 in Chicago, which was hosted by the American College of Surgeons Committee on Trauma (ACS COT). Organizations represented lawyers, physicians, nurses, public health professionals, and emergency medical service providers, with attendees providing perspectives from the front lines of caring for seriously injured patients as well as dealing with the aftermath of violence in communities.


"We've reached a point where tens of thousands of Americans are seriously injured, permanently disabled, or die annually from firearm incidents," said David B. Hoyt, MD, FACS, ACS Executive Director. "By working together with other stakeholder organizations seeking to remedy this crisis, we can collectively find and put forth viable solutions to this epidemic that continues to inflict tragedy on Americans' lives."


Throughout the Summit, attendees expressed their compelling interest in reducing deaths, injuries, and disabilities from firearms in the U.S. The collegial environment of the meeting set the scene for fostering an inclusive dialogue on how to work together to identify opportunities for the medical community to reach a consensus-based, apolitical approach to firearm injury prevention focused on understanding and addressing the root causes of firearm violence while making firearm ownership as safe as possible.


Summit attendees identified opportunities to collaborate in the areas of research, education, and targeted injury prevention initiatives. Using a public health framework, attendees engaged in collegial discussions to build consensus on actionable items for firearm injury prevention that the group could support as a unified voice.


Following the meeting, consensus statements were compiled by the planning committee and brought to the attention of attendees for further internal consideration by their organizations.


The just-released Summit proceedings article identifies a comprehensive public health approach to addressing this problem that 42 of the participating organizations have formally agreed to support and provides a road map that can be implemented through collaboration among medical, legal, and community organizations.


Briefly summarized below, these consensus-based points for potential action address the need to:

•Recognize firearm injury as a U.S. public health crisis, and take a comprehensive public health and medical approach to address it
•Research this public health crisis using a disease model, and call for research funding at federal and philanthropic levels commensurate with the burden of the disease on society
•Engage firearm owners and communities at risk as stakeholders to develop firearm injury programs
•Empower the medical community across all health care settings to act in the best interests of their patients in a variety of palpable ways: counsel patients on safe firearm storage; screen patients at risk for firearm injury or death; and engage the community in addressing the social determinants of disease through hospitals and healthcare systems
•Commit professional stakeholder organizations to ensure that these statements lead to constructive actions for improving the health and well-being of our nation
(Read the complete Executive Summary of the Summit proceedings. Addendum follows.)

"A key driver for this movement is to take a systems-based approach toward addressing the problem and base it on the public health model," explained Ronald M. Stewart, MD, FACS, article coauthor, who is Medical Director of ACS Trauma Programs. "This approach involves not only engaging firearms owners as part of the solution--not the problem--but also engaging people who live in communities at risk as part of the solution, and not the problem. We must identify our society's structural factors and social determinants that create or perpetuate the cycle of firearm violence and call for a commitment for research funding that matches the burden of this disease in America."


"Despite the fact that many organizations have been leading efforts for years to address the dire consequences of firearm violence, a national collaborative effort led by the medical profession as a whole has yet to take flight," said Eileen M. Bulger, MD, FACS, Summit moderator, coauthor, Chair of the ACS Committee on Trauma, and professor of surgery, University of Washington, Seattle. "And yet--while the medical community has successfully worked together to reduce death rates from traffic injuries, HIV, and cancer--U.S. death rates from firearm violence have risen. The precedent is already there: by taking a public health approach to addressing this problem, we can work more effectively as a whole to reduce death, disability, and injury from firearms."


As the authors write, "coming together as a professional community and approaching this epidemic as a disease and a public health problem promises to make our neighborhoods and our country safer, stronger, and more resilient. We believe this can be done in a manner which preserves (or even enhances) freedom. This professional approach requires freedom with responsibility."

florida80
05-20-2019, 17:57
News Release 20-May-2019

Discovery in mice could remove roadblock to more insulin production

A combination of two immune-system factors keeps the pancreas from keeping up with the demands of a Western diet; together, they could act as a new target for boosting beta cell proliferation

Michigan Medicine - University of Michigan


    Share

 Print  E-Mail



IMAGE


IMAGE: The top two images show the pancreas of normal mice, with a wide view at left and a zoomed-in view of the area in the box on the right, showing... view more 

Credit: Qi lab, University of Michigan

By the time someone gets diagnosed with diabetes -- in either of its forms -- the insulin-making factory inside their body has ground to a halt, or at least a slow crawl.

And in people with obesity, insulin supply often struggles to keep up with demand -- especially if the person eats a typical Western diet.

But a new discovery made mainly in mice could provide new options for getting those factories going again. It could offer new pathways to ramping up insulin supply to get metabolism back on track in people with Type 1 and Type 2 diabetes, and obesity.

The discovery of a new way to get the mouse pancreas to make more insulin-producing beta cells, described in a new paper in Nature Immunology, was made by researchers from the University of Michigan and their colleagues. An image from the paper is featured on the journal's cover.

Boosting beta cells

Many research teams have worked to find ways to stimulating beta cell proliferation, mainly by by boosting positive cell signals. But the team behind the new paper did it in a different way, by taking away a pair of negative signals that act as a roadblock to beta cell division and growth.

The result? Beta cells divided rapidly, swelling the structures called islets inside the pancreas, and producing insulin enough to handle the high-fat diet the mice were fed. In fact, the approach only worked when the mice were getting a high-fat, Western-style diet.

The research focused on a pair of receptors called TLR2 and TLR4. Normally, they help cells throughout the body receive signals about the presence of an invader, and start ringing the alarm bells to spur the immune system to fight off infection.

But when Ling Qi, Ph.D., and his colleagues at Cornell University and the U-M Medical School studied mice that had been altered to lack both TLR2 and TLR4 in their cells, they found something surprising. When fed a high-fat diet with 60 percent of calories from fat, their pancreatic islets swelled so much they could be seen with the naked eye.

"After this initial observation, we performed additional experiments that demonstrate that these two factors work together to block beta cell proliferation," says Qi, a professor of molecular and integrative physiology and internal medicine at U-M and senior author of the new paper. "But if you take out both TRL2 and TRL4 together, those beta cells proliferate like crazy."

An unexpected turn

Qi and his colleagues originally set out to study the role of TRL2 and TRL4 in inflammation in fat tissue in animals that had developed obesity, to test ideas about the role of the immune system in this process. But when they allowed the obese mice to eat a high-fat diet, they noticed that their islets had grown very large.

This accidental discovery led them to examine what was going on - and what factors inside beta cells were affected.

They discovered that a factor that regulates the cycle of cell division and growth wasn't able to get into the nucleus of cells of mice, except when the mice lacked both TLR2 and TLR4 and received a high-fat diet.

In other words, TLR2 and TLR4 were blocking the signals needed to prompt beta cells to produce more of themselves.

The team also performed several experiments that ruled out factors circulating in the blood, or coming from other types of cells such as the liver or nerves, in prompting beta cell proliferation. The only thing remaining was the role of the pair of TLR molecules, and they both had to be absent in the islets to get beta cells to reproduce.

The mice that lacked TRL2 and TRL4 kept their new beta cells functioning, and bringing down their blood sugar even with a high-fat diet that can disrupt normal metabolism.

A new avenue to explore

The discovery of the key role of the combination of TRL2, TRL4 and diet in regulating the production of beta cells opens up new avenues for treating diabetes and obesity, says Qi. The team used human beta cells from the University of Pennsylvania to validate the finding.

But first, he notes, it will be important to understand what the role of the high-fat diet is, relative to TRL2 and TRL4. He and his colleagues are already working on that.

"Something associated with high-fat-induced obesity plays a key role in this process, but we don't yet know what," he says. He notes that in people with obesity and Type 2 diabetes, research has shown that new beta cells are made for a while, but then stop being produced.

They're also working to acquire more human beta cells and islets to study, to see if the studies in mice fully bear out in human cells.

But, Qi notes, the new discovery of the importance of "negative" factors that block beta cell proliferation means that efforts to promote beta cell growth just by amplifying "positive" factors are probably not going to work.

Making therapies based on a combination of drugs to boost positive factors and remove the negative roadblocks will probably work best, he says.

And while there are drugs that can block TLR2 and TLR4, they can't be given in a way that reaches the entire body, because they would disable the immune system. The mice in the study were living in a pathogen-free facility at U-M, so this wasn't an issue. But disabling TLR2 and TLR4 would have to be done in a islet-specific way.

The new discovery might also be useful for improving outcomes from islet transplants that are emerging as a promising experimental treatment for Type 1 diabetes. He and his team will study the effects of editing the genes of beta cells within islets before they're transplanted into mice.

florida80
05-20-2019, 17:58
News Release 20-May-2019

Withering away: How viral infection leads to cachexia


CeMM Research Center for Molecular Medicine of the Austrian Academy of Sciences


    Share

 Print  E-Mail


Cachexia is a multifactorial syndrome that occurs in patients suffering from chronic infections such as HIV, tuberculosis and malaria. In addition, 50% to 80% of cancer patients are affected by cachexia (Argiles JM et al. Nature Reviews Cancer 2014). Due to reduced food intake and altered metabolism, patients unintentionally lose body weight and lose their strength. Their fat reserves and skeletal muscle mass are progressively depleted, which cannot be reversed by nutritional supplementation. Cachexia severely impacts the patient's quality of life and worsens the outcome of ongoing therapies. Despite this tremendous clinical need the standards of diagnosis and care for cachectic patients remain insufficient and effective treatment options are elusive so far.

In recent years, studies using experimental models of cancer-associated cachexia greatly improved our understanding of how inflammation may trigger cachexia and the associated metabolic alterations. These studies showed that secreted inflammatory factors can induce weight loss through either direct or indirect mechanisms that affect appetite and alter fat and muscle metabolism. In the context of infectious diseases, the knowledge of cachexia is lagging behind, and it is not understood whether the same or different mechanisms of cachexia occur during infection and cancer.

The research group of Andreas Bergthaler, Principal Investigator at CeMM, together with collaboration partners from the University of Graz, the Medical University of Vienna as well as international collaboration partners from Germany, Switzerland and the USA elucidated a novel mechanism of how chronic viral infection leads to cachexia. These results are published in the recent issue of Nature Immunology (DOI: 10.1038/s41590-019-0397-y) and describe the organism-wide pathophysiological changes associated with cachexia during chronic viral infection.

By using well-controlled animal infection models, the researchers identified the key molecular players that lead to cachexia. Viral infection resulted in a reduction of body weight. This weight loss could only partially be explained by decreased food intake and it was not prevented by nutritional supplementation.

The researchers went on to show that the viral infection led to a severe reorganization of the architecture of the fat tissue which coincided with the activation of lipolysis, a molecular cascade of processes that the body uses to melt its fat depots. Yet, none of the inflammatory mediators known to induce cachexia in cancer seemed to play an important role during infection. "This came as quite a surprise to us", says first-author of the study, PhD student Hatoon Baazim.

The researchers continued to study other potential mechanisms and realized that CD8 T cells were responsible for triggering cachexia. CD8 T cells are important cells of the immune system, which are able to recognize and kill virus-infected cells or cancer cells. In this study the researchers could show that in order to trigger cachexia, the CD8 T cells required additional signals from the antiviral cytokines type I interferons and needed to recognize the virus.

This study by Baazim et al. elucidates the inflammatory drivers of infection-associated cachexia and offers a valuable model for future investigations about the mechanisms of infection-associated cachexia to the international research community. This will allow for new molecular insights into how infectious pathogens including HIV, mycobacterium tuberculosis or various parasites cause cachexia. In addition, as last-author Dr. Andreas Bergthaler puts it, "We are convinced that future studies that compare cachexia in the context of both infection and cancer, ideally through the integration of experimental models and clinical patient data, are going to provide much needed advancements for our understanding of this still very mysterious disease." Such new insights from basic research may stimulate the development of innovative therapeutic strategies to alleviate the burden of cachexia and associated life-threatening chronic diseases.

###

The study has been supported by the European

florida80
05-20-2019, 18:00
News Release 20-May-2019

Eliminating extended work shifts improves sleep duration for senior resident physicians

Hours slept per week increased by 8 percent among pediatric resident physicians who worked a rapid cycling work roster

Brigham and Women's Hospital


    Share

 Print  E-Mail


Getting a good night's sleep is important for everyone -- including physicians. In 2011, the Accreditation Council for Graduate Medical Education (ACGME) set a limit on first-year resident physician shifts of 16 or fewer continuous hours of work. This policy change was based primarily on the results of studies comparing outcomes for first-year residents who worked extended-duration work shifts (24 hours or more) to those who worked rapid-cycling work shifts.

But data for more senior resident physicians has been lacking. Currently, resident physicians are permitted to work extended-duration shifts of up to 28 hours after their first postgraduate year. A new study led by investigators from Brigham and Women's Hospital is the first multi-center randomized clinical trial of senior resident physicians (postgraduate year two and higher) to compare the work hours and sleep obtained by those working extended shifts with those whose scheduled shift lengths were limited to no more than 16 consecutive hours. The team found that hours of sleep per week increased by 8 percent for pediatric resident physicians working under the modified schedule. The team's results are presented today at the American Thoracic Meeting and simultaneously published in Sleep.

"Sleep deficiency impairs performance and patient safety, adversely affects the mental and physical health of resident physicians and increases their risk of occupational injury and motor vehicle crashes," said senior author Charles Czeisler, PhD, MD, FRCP, chief of the Division of Sleep and Circadian Disorders at the Brigham, who presented the findings at the meeting. "This operational trial, conducted in six pediatric intensive care units across the country, showed that rosters eliminating scheduled extended-duration shifts reduced weekly work hours and improved sleep of resident physicians."

The current study enrolled 302 resident physicians working in pediatric intensive care units at six U.S. academic medical centers. Sleep was measured using wrist-worn actigraphs, and work hours and sleep data were collected using electronic diaries. In the clustered-randomized crossover clinical trial, resident physicians were randomized to an Extended Duration Work Roster (EDWR), with extended-duration (24 hours or more) shifts, or a Rapidly Cycling Work Roster (RCWR), in which scheduled shift lengths were limited to 16 or fewer consecutive hours.

Resident physicians worked 10 percent fewer total hours per week during the RCWR compared to the EDWR and obtained significantly more sleep per week. Weekly sleep duration increased nearly four hours overall in the RCWR as compared to the EDWR.

The authors note that the RCWR schedule was implemented differently across the six hospitals and that more information is needed about optimal scheduling practices that ensure enough opportunity for residents to sleep.

"There is a compelling need for the design of schedules that enable sufficient sleep in settings that require safety-sensitive 24-hour operations," said corresponding author Laura Barger, PhD, an associate physiologist in the Division of Sleep and Circadian Disorders. "These findings extend the evidence from our previous single-site study, provide data on more senior resident physicians, and indicate that eliminating extended-duration shifts may improve sleep duration for senior resident physicians."

florida80
05-20-2019, 18:00
News Release 20-May-2019

Strawberry tree honey inhibits cell proliferation in colon cancer lines


FECYT - Spanish Foundation for Science and Technology


    Share

 Print  E-Mail



IMAGE


IMAGE: Strawberry tree honey is capable of inhibiting the proliferation of tumour cells on a line of human colon adenocarcinoma (HCT-116) and another with metastatic characteristics (LoVo). view more 

Credit: Afrin, S. et al.

Spanish and Italian researchers have proven that when honey from strawberry trees, a product typical of Mediterranean areas, is added to colon cancer cells grown in the laboratory, cell proliferation is stopped. The authors hope that these promising results and the anti-tumour potential of this food will be confirmed in in vivo models.

The honey extracted from the flowers of the strawberry tree (Arbutus unedo) is appreciated in the beekeeping sector for its organoleptic characteristics, especially for its strong bitter taste and dark colour. Now, scientists from the universities of Vigo and Granada (Spain) and from the Polytechnic University of Marche (Italy) have analysed for the first time the potential of this Mediterranean product to fight colon cancer.

The results, published in the Journal of Functional Foods, show that strawberry tree honey is capable of inhibiting the proliferation of tumour cells cultivated in laboratory plates - more specifically, those of a line of human colon adenocarcinoma (HCT-116) and another with metastatic characteristics (LoVo), widely used to investigate this type of tumour.

"Treatment with honey stops the tumour cells cycle by regulating some genes (cyclin D1, CDK2, p27Kip...); it inhibits cell migration, reduces the ability to form colonies and induces apoptosis or programmed cell death through the modulation of other key genes (p53, caspase-3, c-PARP) and various apoptotic factors," says Maurizio Battino, coordinator of the research.

"It also suppresses the receptor of the epidermal growth factor called EGFR/HER2 and its signalling pathways, which could be an attractive target in cancer therapies because of their important role in the processes of cell survival and proliferation, as well as in those of apoptosis and metastasis."

The cytotoxicity and anti-tumour effects of strawberry tree honey in relation to colon cancer lines increased with the amount and time of treatment. This led to other relevant results, such as the reduction of some transcription factors, the inhibition of the activity of certain enzymes and the decrease of mitochondrial respiration and glycolysis of tumour cells.

"None of these effects was observed when honey was applied to healthy cell lines," the authors point out, noting the anticarcinogenic potential of this natural product, but insisting on the need for new studies with colon cancer in vivo models to confirm its chemopreventive effects.

"With these data it is not yet possible to speak of a cure or safe prevention of colorectal cancer thanks to strawberry tree honey," emphasizes Battino, who adds: "This work constitutes a starting point in the effort to evaluate its possible biological and anti-cancer effects and indicates the main molecular mechanisms through which it exerts its effect, reinforcing the interest in the study and production of this Mediterranean foodstuff."

"It is one more piece of evidence that a healthy, balanced and natural diet can provide bioactive compounds with possible interesting effects on the control and development of diseases as critical as this type of cancer," concludes the researcher.

florida80
05-20-2019, 18:01
News Release 20-May-2019

Pyrrolizidine alkaloid levels in dried and deep-frozen spices and herbs too high

BfR Opinion No 017/2019 of 13 May 2019

BfR Federal Institute for Risk Assessment


    Share

 Print  E-Mail


The German Federal Institute for Risk Assessment (BfR) deals regularly with the contamination of food with 1,2-unsaturated PA. It has already published opinions on the occurrence of 1,2-unsaturated PA in herbal teas, tea and honey, as well as a salad mixture contaminated with ragwort and food supplements (FS). The BfR has now made a health assessment of levels of 1,2-unsaturated PA determined by the monitoring authorities of the federal states in samples of various dried and deep-frozen herbs and spices.

A high level of 1,2-unsaturated PA was detected in borage, as well as in some samples of commercially purchased deep-frozen and dried lovage, oregano and marjoram. Although the absolute consumption quantity of herbs is low in prepared foods, it can make a considerable contribution towards longer term as well as short-term exposure to 1,2-unsaturated PA.

The BfR made a preliminary assessment of the health risk posed by short as well as long-term uptake on the basis of the levels of 1,2-unsaturated PA determined in the samples of deep-frozen and dried herbs and spices. A conclusive assessment of the possible health risk resulting from the consumption of herbs contaminated with 1,2-unsaturated PA is not possible at the moment as there is not enough data on the longer as well as the short-term consumption of various herbs. The preliminary health estimation of the levels of 1,2 unsaturated PA in herbs made in this opinion is therefore based on various scenarios on the uptake of these substances (exposure).

The primary target organ of PA-induced adverse effects in humans and animals is the liver, but other organs can be affected too, such as the lungs in particular. The effects can occur within a short period of time if larger doses of unsaturated PA have been ingested and within a longer period of time with lower doses. Typical symptoms, especially if high doses have been ingested, are closure of the central sublobular hepatic vein and liver damage which can lead to liver necrosis. It is also known from experiments with animals that they cause a mutagenic and carcinogenic effect.

To estimate the risk of possibly non-carcinogenic (non-neoplastic) damage, an orientation value of 0.1 μg PA per kilogram body weight and day was used in a makeshift manner. This health-based guidance value (HBGV) was derived from a chronic study with animals. With a daily intake quantity of less than 0.1 μg 1,2-unsaturated PA per kilogram body weight and day, the occurrence of non-carcinogenic liver damage is not to be expected with short as well as long-term exposure. The exposure scenarios, which are based on model food dishes which, according to the recipe, are usually prepared with certain herbs, indicate that an exceedance of the orientation value through the consumption of individual dishes containing highly contaminated herbs is possible. As no reliable information is available on the dose-response relationship, it has not been possible up to now to define a sufficiently safety margin between the uptake of a quantity with which severe health effects occur and the safe up-take level.

For the health risk assessment of the uptake of 1,2-unsaturated PA, however, primary attention has to be laid on the genotoxic and carcinogenic effects. As no safe uptake level can be defined for genotoxic-carcinogenic substances, the contents of 1,2-unsaturated PA in foods should be as low as possible (ALARA principle: as low as reasonably achievable) as even low uptake quantities may lead to an increased cancer risk, especially if consumed regularly. The margin of exposure (MOE) concept is used in the European Union (EU) for substances with a genotoxic-carcinogenic mode of action in order to determine the urgency of risk management measures. An MOE value of 10,000 or higher is regarded in principle as being of little concern from the view of public health.

On the basis of consumption data from National Nutrition Study II, the BfR calculated that consumption of highly contaminated herbs ma y lead to long-term exposure levels solely through this food category, which are associated with MOE values of less than 10,000. In the case of high consumers of herbs, an MOE of clearly less than 10,000 is already reached solely through the consumption of herbs, when they contain medium levels (1,000 μg/kg).

The data provided to the BfR by the monitoring authorities of the federal states show that the mean levels of 1,2-unsaturated PA in borage, which produces PA by itself, are particularly high. High contents of 1,2-unsaturated PA were also detected in samples of lovage and samples from the "Oregano, Marjoram" group. Only very low levels of 1,2-unsaturated PA or none at all were found in fresh herbs such as parsley.

The BfR also points out that when assessing the possible health risk to consumers, all sources of 1,2-unsaturated PA have to be taken into consideration in addition to the exposure via herbs as described here. These include in particular herbal teas, teas and honey. The consumption of herbs therefore leads to further uptake of 1,2-unsaturated PA. The Institute also recommends that overall exposure to PA from all foods be kept as low as possible and that an MOE of less than 10,000 be avoided when considering PA exposure from all sources. To this end, efforts should be continued to further reduce PA levels through the improvement of cultivation, harvesting and purification methods. The BfR describes a method on its homepage on how plant material can be examined to establish its levels of 1,2- unsaturated PA analytically.

https:/​/​www.​bfr.​bund .​de/​cm/​343/​bestimmung-vonpyrrolizidinalkal oiden.​pdf

florida80
05-20-2019, 18:02
News Release 20-May-2019

New single vaccination approach to killer diseases


University of Adelaide


    Share

 Print  E-Mail


Scientists from the University of Adelaide's Research Centre for Infectious Diseases have developed a single vaccination approach to simultaneously combat influenza and pneumococcal infections, the world's most deadly respiratory diseases.

The researchers say a single vaccination - combining vaccines from the new class of vaccines they are developing - will overcome the limitations of current influenza and pneumococcal vaccines used around the world.

Published today in the prestigious journal Nature Microbiology, they have shown that the new Influenza A virus vaccine under development (based on inactivated whole influenza virus) induces enhanced cross-protective immunity to different influenza strains, when it is co-administrated with the new class of pneumococcal vaccine.

They showed the enhancement in immunity is associated with a direct physical interaction between the virus and the bacterium.

Led by Dr Mohammed Alsharifi and Professor James Paton, this latest study builds on previous research on the development of a new class of inactivated vaccines that target components of both the virus and the bacterium that do not vary from strain to strain.

Current influenza vaccines target surface molecules that are affected by mutations and so an annual update is required to match newly emerging viruses. Existing pneumococcal vaccines provide longer lasting protection, but cover only a minority of disease-causing strains. The researchers say there is a clear need for better vaccines capable of providing universal protection.

"Influenza infection predisposes patients to severe pneumococcal pneumonia, with very high mortality rates," says Dr Alsharifi. "Despite this well-known synergism, current vaccination strategies target the individual pathogens.

"We're investigating combining our novel influenza and pneumococcal vaccines into a single vaccination approach and have demonstrated a highly significant enhancement of immune responses against diverse subtypes of influenza."

Previously published work from the team show a similar boost in efficacy of their pneumococcal vaccine when co-administered with the flu vaccine, so there is bi-directional enhancement of pathogen-specific immunity.

"Our findings challenge an age-old immunological dogma about mixing viral and bacterial vaccines in a single injection", says Dr Alsharifi.

"Influenza virus and pneumococcus worked together to cause up to 100 million deaths during the great 'Spanish flu' pandemic of 1918-1919," says Professor Paton.

"A century later, we have shown analogous, but this time highly protective, synergy with our novel vaccination strategy that targets both pathogens simultaneously."

Commercial development of the new class of vaccines is being undertaken by two University of Adelaide-associated Biotech companies, Gamma Vaccines Pty Ltd and GPN Vaccines Pty Ltd, respectively.

florida80
05-20-2019, 18:03
News Release 20-May-2019

New Finnish study: Dietary cholesterol or egg consumption do not increase the risk of stroke


University of Eastern Finland


    Share

 Print  E-Mail


A new study from the University of Eastern Finland shows that a moderately high intake of dietary cholesterol or consumption of up to one egg per day is not associated with an elevated risk of stroke. Furthermore, no association was found in carriers of the APOE4 phenotype, which affects cholesterol metabolism and is remarkably common among the Finnish population. The findings were published in the American Journal of Clinical Nutrition.

Findings from earlier studies addressing the association of dietary cholesterol or egg intake with the risk of stroke have been contradictory. Some studies have found an association between high dietary cholesterol intake and an increased risk of stroke, while others have associated the consumption of eggs, which are high in cholesterol, with a reduced risk of stroke. For most people, dietary cholesterol plays a very small role in affecting their serum cholesterol levels. However, in carriers of the apolipoprotein E phenotype 4 - which significantly impacts cholesterol metabolism - the effect of dietary cholesterol on serum cholesterol levels is greater. In Finland, the prevalence of APOE4, which is a hereditary variant, is exceptionally high, with approximately one third of the population presenting as carriers. Yet, research data on the association between a high intake of dietary cholesterol and the risk of stroke in this population group has not been available until now.

The dietary habits of 1,950 men aged between 42 and 60 years with no baseline diagnosis of a cardiovascular disease were assessed at the onset the Kuopio Ischaemic Heart Disease Risk Factor Study, KIHD, in 1984-1989 at the University of Eastern Finland. APOE phenotype data were available for 1,015 of the men participating in the study. Of those, 32% were known carriers of APOE4.

During a follow-up of 21 years, 217 men were diagnosed with stroke. The study found that neither dietary cholesterol nor egg consumption was associated with the risk of stroke - not even in carriers of APOE4.

The findings suggest that moderate cholesterol intake or daily egg consumption are not associated with the risk of stroke, even in persons who are genetically predisposed to a greater effect of dietary cholesterol on serum cholesterol levels. In the highest control group, the study participants had an average daily dietary cholesterol intake of 520 mg and they consumed an average of one egg per day, which means that the findings cannot be generalised beyond these levels. One egg contains approximately 200 mg of cholesterol. In this study, about a fourth of the total dietary cholesterol consumed came from eggs. Furthermore, the generalisability of this study is also weakened by the fact that the study population did not have a pre-existing cardiovascular disease at baseline and the size of the study population was relatively small. Therefore, the findings of the study should be verified in a larger cohort as well as in people with a pre-existing cardiovascular disease, who are currently advised to limit their intake of cholesterol and eggs

florida80
05-20-2019, 18:04
News Release 20-May-2019

Virulence factor of the influenza A virus mapped in real-time


Kanazawa University


    Share

 Print  E-Mail



IMAGE


IMAGE: HS-AFM setup for direct visualization of HA0 trimer. Schematic diagram of the HS-AFM setup for scanning the HA0 trimer. view more 

Credit: Kanazawa University

The influenza A viruses, which have instigated deadly pandemics in the past, still remain a major global public health problem until today. Molecules known as virulence factors are produced by bacteria, viruses, and fungi to help them to infect host cells. One of virulence factors found in the influenza A viruses is hemagglutinin (HA). Researchers at Kanazawa University have recently studied the structure of HA of avian influenza virus, H5N1, using high-speed atomic force microscopy (HS-AFM) and the findings are essential for developing therapeutic approaches against influenza A viruses in future.

HA is initially synthesized by host cells in its precursor form that known as HA0. Conversion of HA0 to HA is depending on the pathogenicity of influenza A viruses: extracellular conversion for low pathogenic influenza A viruses and intracellular conversion for highly pathogenic influenza A viruses. Therefore, understanding the structure and properties of HA0 is paramount to deciphering HA. Richard Wong and his research team thus sought out to scrutinize HA0 under the microscope. Recombinant HA0 protein of H5N1 was visually analyzed by HS-AFM system developed by Kanazawa University.

Both HA0 and HA exist in homotrimeric forms and conversion of HA0 to HA does not significantly modify the homotrimeric structure. Therefore, it is sensible to use HA as a template to generate HA0 HS-AFM simulation images. Acidic endosomal environment is the critical factor for HA to induce fusion between viral membrane and endosomal membrane in order to release viral materials into host cells. To elucidate the acidic effect on HA0, it was first exposed to an acidic environment. The trimer of HA0 turned out to be very sensitive to the acidic solution and expanded considerably. When conformational changes of hemagglutinin were measured in real-time using HS-AFM, the team found that its area was larger, and its height shorter. Acidic environment essentially made the molecule flatter and more circular, as compared to its original counterpart. This change in conformation was, however, reversible as the structure reverted back to its original form upon neutralization.

"Our pilot work establishes HS-AFM as an inimitable tool to directly study viral protein dynamics, which are difficult to capture with low signal-to-noise techniques relying on ensemble averaging, such as cyro-EM and X-ray crystallography," says lead author of the study Dr Kee Siang Lim. "With high scanning speed and a minimally invasive cantilever, we predict that HS-AFM is feasible to reveal the flow of irreversible conformational changes of HA2 induced by low pH, which is mimicking the true biological events that occur when HA enters a host endosome, in future study."

This study paved the way for investigating biological events within viruses in real-time. The authors state the importance of HS-AFM for this research: "Our work establishes HS-AFM as an inimitable tool to directly study viral protein dynamics, which are difficult to capture with low signal-to-noise techniques relying on ensemble averaging, such as cyro-EM and X-ray crystallography," explains Dr Richard Wong, senior author of the study.

florida80
05-20-2019, 18:05
News Release 20-May-2019

SCAI releases multi-society endorsed consensus on the classification stages of cardiogenic shock

New classification system developed to describe five stages of shock

Society for Cardiovascular Angiography and Interventions


    Share

 Print  E-Mail


IMAGE


IMAGE:

Adapted from the SCAI Clinical Expert Consensus Statement on the Classification of Cardiogenic Shock

Endorsed by ACC, AHA, SCCM, and STS
For more information, please visit: www.scai.org/shockdefinition... view more 

Credit: Society for Cardiovascular Angiography and Interventions


LAS VEGAS (May 19, 2019) - A newly released expert consensus statement proposes a classification schema for cardiogenic shock (CS) that will facilitate communication in both the clinical and research settings. The document was published online in SCAI's Catheterization and Cardiovascular Interventions journal, and is endorsed by the American College of Cardiology, American Heart Association, the Society of Critical Care Medicine and the Society of Thoracic Surgeons.

Cardiogenic shock is a condition in which the heart, often abruptly, cannot pump enough blood to meet the body's needs (Mayo Clinic). Most often accompanying larger heart attacks such as myocardial infarction (MI), outcomes for patients with cardiogenic shock complicating MI have not significantly improved over the last 30 years despite the development of various percutaneous mechanical circulatory support technologies and the national standard of emergent angioplasty and stenting.

SCAI convened a multi-disciplinary writing group comprised of leading experts in interventional and advanced heart failure, non-invasive cardiology, emergency medicine, critical care, and cardiac nursing to represent the team-based care of these patients. The writing group developed a new five-stage system that is defined by narrative patient descriptions, physical findings, and biochemical/hemodynamic markers, creating a new language that will facilitate rapid assessment, reassessment over time, and communication between providers including hospital systems.

The new CS definition is intended to provide clinicians and researchers with a unified and standardized vocabulary that will translate across all settings. Additionally, the definition aims to facilitate recognition of risk for adverse outcomes and the potential benefit from various interventions and prognosis, with the goal of reducing mortality on both an individual and national scale.

"The main areas we may have failed in the fight to improve mortality in cardiogenic shock is, quite simply, not speaking the same language when describing these patients," said Srihari S. Naidu, MD, FSCAI, former SCAI Trustee and chair of the writing group. "Without that, we can't even begin to understand these patients, how sick they are, what might work and what does not work. This is the most important first step, and it is important to use this classification system to reset our understanding of cardiogenic shock and restart the trials very much needed in this space."

###

florida80
05-20-2019, 18:06
News Release 20-May-2019

Artificial intelligence system spots lung cancer before radiologists

Google and Northwestern scientists show precision of new deep learning system to predict lung cancer

Northwestern University


    Share

 Print  E-Mail


•Lung cancer is most common cause of cancer deaths in U.S.
•Lung cancer is harder to treat when diagnosed at advanced stages
•Lung cancer screening has been shown to decrease mortality in large U.S. and U.K. trials
•Deep learning showed increased specificity and sensitivity in identifying lung cancer as part of a first-time screening
•Deep learning produced fewer false positives and negatives.


CHICAGO --- Deep learning - a form of artificial intelligence - was able to detect malignant lung nodules on low-dose chest computed tomography (LDCT) scans with a performance meeting or exceeding that of expert radiologists, reports a new study from Google and Northwestern Medicine.

This deep-learning system provides an automated image evaluation system to enhance the accuracy of early lung cancer diagnosis that could lead to earlier treatment. The deep-learning system was compared against radiologists on LDCTs for patients, some of whom had biopsy confirmed cancer within a year. In most comparisons, the model performed at or better than radiologists.

Deep learning is a technique that teaches computers to learn by example.

The deep-learning system also produced fewer false positives and fewer false negatives, which could lead to fewer unnecessary follow-up procedures and fewer missed tumors, if it were used in a clinical setting.

The paper will be published in Nature Medicine May 20.

"Radiologists generally examine hundreds of two-dimensional images or 'slices' in a single CT scan but this new machine learning system views the lungs in a huge, single three-dimensional image," said study co-author Dr. Mozziyar Etemadi, a research assistant professor of anesthesiology at Northwestern University Feinberg School of Medicine and of engineering at McCormick School of Engineering. "AI in 3D can be much more sensitive in its ability to detect early lung cancer than the human eye looking at 2-D images. This is technically '4D' because it is not only looking at one CT scan, but two (the current and prior scan) over time.

"In order to build the AI to view the CTs in this way, you require an enormous computer system of Google-scale. The concept is novel but the actual engineering of it is also novel because of the scale."

Etemadi leads his research team while also in anesthesiology residency training at Northwestern as part of a unique residency research track.

Etemadi's dual roles allow research in his lab to traverse the technological and communications boundaries between healthcare and engineering. His lab is based inside one of the intensive care units at Northwestern Memorial Hospital to allow seamless communication among engineers and nurses, physicians and other care providers.

"This area of research is incredibly important, as lung cancer has the highest rate of mortality among all cancers, and there are many challenges in the way of broad adoption of lung cancer screening," said Shravya Shetty, technical lead at Google. "Our work examines ways AI can be used to improve the accuracy and optimize the screening process, in ways that could help with the implementation of screening programs. The results are promising, and we look forward to continuing our work with partners and peers."

Lung cancer is the most common cause of cancer-related death in the United States, resulting in an estimated 160,000 deaths in 2018. Large clinical trials across the United States and Europe have shown that chest screening can identify the cancer and reduce death rates. However, high error rates and the limited access to these screenings mean that many lung cancers are usually detected at advanced stages, when they are hard to treat.

The deep-learning system utilizes both the primary CT scan and, whenever available, a prior CT scan from the patient as input. Prior CT scans are useful in predicting lung cancer malignancy risk because the growth rate of suspicious lung nodules can be indicative of malignancy. The computer was trained using fully de-identified, biopsy-confirmed low-dose chest CT scans.

The novel system identifies both a region of interest and whether the region has a high likelihood of lung cancer.

The model outperformed six radiologists when previous CT imaging was not available and performed as well as the radiologists when there was prior imaging.

"The system can categorize a lesion with more specificity. Not only can we better diagnose someone with cancer, we can also say if someone doesn't have cancer, potentially saving them from an invasive, costly and risky lung biopsy," Etemadi said.

Google scientists developed the deep-learning model and applied it to 6,716 de-identified CT scan sets provided by Northwestern Medicine to validate the accuracy of its new system. The scientists found the artificial-intelligence-powered system was able to spot sometimes-minuscule malignant lung nodules with a model AUC of 0.94 test cases. The cases were pulled from the Northwestern Electronic Data Warehouse as well as other Northwestern Medicine data sources, as a result of complex, highly customized software engineered by Etemadi's team.

"Most of the software we use as clinicians is designed for patient care, not for research," Etemadi said. "It took over a year of dedicated effort by my entire team to extract and prepare data to help with this exciting project. The ability to collaborate with world-class scientists at Google, using their unprecedented computing capabilities to create something with the potential to save tens of thousands of lives a year is truly a privilege."

The authors caution that these findings need to be clinically validated in large patient populations, but they say this model may assist in improving the management and outcome of patients with lung cancer.

florida80
05-20-2019, 19:35
Đậu lăng không chỉ là một loại thực phẩm được ưa thích, dễ chế biến mà c̣n biết đến là một loại đậu chứa nhiều chất dinh dưỡng, chất. V́ thế, bài viết dưới đây sẽ cung cấp các lợi ích không ngờ từ đậu lăng với sức khỏe của con người.




Đậu lăng là ǵ?

https://i.imgur.com/e2w8D0f.gif

https://i.imgur.com/v6DknkW.gif

Đậu lăng là loại thực vật có chung họ hàng với các loại đậu phổ biến như: đậu đen, đậu đỏ, đậu xanh, đậu nành, đậu Hà Lan, Lạc…

Trong một quả đậu lăng th́ có từ 1 đến 2 hạt đậu với các thể loại h́nh dạng như: h́nh tṛn, bầu dục, trái tim dẹt và có lích thức chỉ lớn hơn miếng tẩy ở đầu bút ch́ một tư.

Đậu lăng có nguồn gốc chung với các loại đậu thường gặp khácĐậu lăng có nguồn gốc chung với các loại đậu thường gặp khác

Các loại đậu lăng

Dưới đây, chúng tôi sẽ cung cấp danh sách các loại đậu lăng phổ biến nhất.

Đậu lăng nâu: là loại đậu lang được nhiều người sử dụng nhất. Loại đậu này có hương vị từ đất và không bị nát trong quá tŕnh chế biến. Người ta thường dùng đậu lăng nâu trong các món hầm.

Đậu lăng Puy: có xuất xứ đến từ vùng Le Puy của Pháp với màu sắc giống với đậu lăng xanh nhưng chỉ nhỏ bằng 1 phần 3 và có vị cay.

Đậu lăng xanh: là một lựa chọn rẻ hơn thay thế cho đậu lăng Puy

Đậu lăng vàng và đỏ: loại đậu lăng này có thể tách ra được dễ dàng và cũng thuận tiện trong chế biến

Đậu lăng Beluga: Đây là đậu lăng có màu đen với kích thước nhỏ trông giống như trứng cá muối. Loại đậu này thường được sử dụng trong món salad

Điểm chung của các loại đậu lăng này là đều có thành phần bao gồm chất chống oxy hóa cùng với các khoáng, dưỡng chất giàu dinh dưỡng.

Những lợi ích không ngờ của đậu lăng với sức khỏe

Làm Giảm cholesterol trong máu, giúp ổn định đường huyết

Với thành phần là các chất xơ ḥa tan, đậu lăng có những tác dụng như:
✓ Giảm lượng cholesterol trong máu
✓ Ngăn ngừa nguy cơ đột quỵ
✓ Giúp các động mạch không bị xơ vữa gây giảm nguy cơ bệnh về tim mạch
✓ Có khả năng làm chậm quá tŕnh tiêu hóa giúp ổn định và hấp thụ lượng đường trong máu từ đó đảm bảo sức khỏe đối với những ai bị đái tháo đường, hạ đường huyết hoặc kháng insulin.

Những lợi ích của đậu lăng với sức khỏeNhững lợi ích của đậu lăng với sức khỏe

Lợi ích cho hệ tim mạch

Ngoài chất xơ, đậu lăng c̣n chứa nhiều chất magne và folate với tác dụng:
✓ Magne có trong đậu lăng giúp hỗ trợ lưu thông máu, oxy và chất dinh dưỡng đi khắp cơ thể
✓ Folate có trong đậu lăng làm giảm đi mức độ homocysteine tránh được các yếu tố gây hại cho thành mạch máu và giảm rủi ro bị xơ vữa động mạch

Giúp bổ máu

Ngoài ra, đậu lăng c̣n là một nguồn thực phẩm giúp cung cấp sắt dồi dào. Rất nhiều phụ nữ khi đến kỳ kinh nguyệt (thời gian bị thiếu sắt nhiều) đă bổ sung sắt bằng cách ăn nhiều đậu lăng. Khác với các loại thực phẩm có chứa nhiều chất sắt, đậu lăng không chứa nhiều calo cũng như chất béo. Đây thực sự là một loại thực phẩm tốt cho trẻ em, trẻ đang dậy th́ để có thể tăng cường chất sắt trong cơ thể.

Giúp duy tŕ vóc dáng thon gọn

Với thành phần là protein chiếm 26% lượng calorie, đậu lăng c̣n được xem như là một nguồn cung cấp protein an toàn. Nhiều chị em phụ nữ đă ăn đậu lăng thay cho cơm để duy tŕ vóc dáng hoặc giảm béo.

Các chuyên gia thuộc ban tư vấn các trường Cao Đẳng Dược Sài G̣n cho biết, một chén đậu lăng đă nấu chín tương đương với 230 calorie, khi dung nạp vào cơ thể sẽ giúp cơ thể có cảm giác no lâu và khống chế được cơn đói. Đậu lăng giúp quá tŕnh giảm cân trở nên dễ dàng thực hiện hơn

Lợi ích cho hệ tiêu hóa

Đậu lăng chứa nhiều chất xơ nên có khả năng ngăn ngừa một số t́nh trạng tiêu hóa như:
✓ T́nh trạng táo bón
✓ Túi thừa đại tràng
✓ Viêm túi thừa
✓ Hội chứng ruột kích thích

Với lợi ích trong cải thiện hệ tiêu hóa, đậu lăng được nhiều bà mẹ đưa vào bữa ăn của bé để giúp bé mau ăn chóng lớn.

Hy vọng với những thông tin cung cấp trên, mọi người sẽ biết thêm nhiều công dụng của đậu lăng với sức khỏe từ đó có thể áp dụng và cải thiện t́nh trạng của cơ thể.

florida80
05-20-2019, 19:38
Theo phát ngôn của cơ quan Y tế Cu ba, nước này vừa phát hiện ra loại vắc xin đầu tiên có thể ngăn chặn các tế bào ung thư ở phổi. Đây là bước đột phá của nền Y học toàn cầu với kỳ vọng sẽ chữa lành nhiều bệnh nhân.

https://i.imgur.com/CTyV2YF.jpg

Theo kết quả do các nhà nghiên cứu khoa học công bố, tính khả quan trong việc điều trị ung thư phổi của loại vắc xin này rất cao, nó có tác dụng tiêu diệt các tế bào bị bệnh, ngăn chặn sự lây lan của chúng mà không tác động đến việc sinh hoạt của người bệnh.

Ngay sau khi thông tin này được công bố rộng răi, một viện nghiên cứu Hoa Kỳ đă kư kết hợp đồng với Cuba nhằm trao đổi các thông tin quan trọng về loại vắc xin này. Tuy nhiên, hiện tại chưa thỏa thuận được bởi do bị cấm vận về kinh tế, chưa được thương mại hóa.

điều trị ung thư phổiVắc xin chống ung thư phổi lần đầu tiên trên thế giới được phát hiện bởi Cuba

Ung thư phổi cần được kiểm soát khi nào?

Các chuyên gia Y tế cảnh báo rằng nếu bị tức ngực kèm theo ho dai dẳng không khỏi th́ cần nghĩ ngay đến ung thư. Mặc dù ho là một trong những biểu hiện thường gặp trong cuộc sống của mỗi người, có thể do thời tiết hoặc cảm cúm,...Tuy nhiên khi sử dụng thuốc kháng sinh chống ho không khỏi cần cẩn thận v́ đó có thể là triệu chứng của bệnh ung thư phổi. Thực tế có đến 80% bệnh nhân ung thư phổi mắc chứng ho khan kéo dài kèm theo đờm nhiều và có màu trắng và không rơ nguyên nhân, thậm chí xuất hiện bội nhiễm.

Đặc biệt, khi ho ra máu, quá nhiều đờm, khó thở th́ bệnh thường ở giai đoạn tiến triển. Bên cạnh đó, bệnh nhân cũng có thể thấy khó thở khi làm việc nặng, đau ngực. Nhiều người bị ung thư phổi xuất hiện dấu hiệu đau đầu do các tế bào ung thư đă di căn sang xương sống, năo, sườn. Ngoài ra, bệnh c̣n có thể gây mệt mỏi, giảm cân nhanh,...Khi mắc các bệnh trên cần đi khám để sàng lọc ung thư ngay khi có thể.

Trên fanpage của bác sĩ, nhà khoa học Cuba Fernando ravsberg cho biết “Vaccine chống ung thư phổi là vaccine mới và duy nhất trên thế giới, các phân tử tác động lên sự biểu hiện quá mức trong các khối u, gây ra sự phát triển tế bào bất thường, khiến khối u phát triển”. Ông c̣n giải thích thêm rằng “Đây là một loại vaccine trị liệu với kết quả rất tốt trong giai đoạn ung thư phổi tiến triển”.

vắc xin điều trị ung thưCuba tập trung vào việc nghiên cứu sản xuất các loại thuốc chống ung thư từ rất sớm

Kết quả kiểm nghiệm cũng chứng minh khi sử dụng loại vắc xin này, đôi khi khối u có thể không bị loại bỏ hoàn toàn nhưng tốc độ phát triển sẽ giảm mạnh rồi dừng hẳn, giúp tăng tuổi thọ cho người bệnh cũng như cải thiện chất lượng cuộc sống cho họ. Đây là tính ưu việt mà các phương pháp điều trị thông thường như xạ trị, hóa trị không có được v́ độc tính của những phương pháp này rất cao khiến chất lượng cuộc sống của người bệnh bị giảm. Điều đáng mừng, người dân có quyền dùng vắc xin miễn phí thông qua bệnh viện.

Được biết, từ năm 1994 (năm xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất trong lịch sử đất nước Cuba)Trung tâm Miễn dịch học Phân tử Cuba tập trung đầu tư vào việc nghiên cứu, chế tạo ra các loại vắc xin tạo ra và sản xuất các loại thuốc điều trị ung thư, nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở nước này.

Hiện nay, họ đă xuất khẩu CIM ra toàn cầu, có mặt tại hơn 30 quốc gia với trị giá 80 triệu đô la Mỹ mỗi năm, không tính trong nước. Vaccine đă được đăng kư tại Cuba, Peru và Paraguay c̣n đang thử nghiệm ở các nước châu Âu nhưng thời gian mất 3 - 4 năm và tốn kém kinh phí. Đó cũng là trở ngại khi Cuba có nhiều nhà khoa học giỏi nhưng nguồn tài chính chưa đủ để đưa vào nhiều thị trường. Lúc này, sự hợp tác đầu tư từ nước ngoài là điều cần thiết và có ư nghĩa quan trọng.

Ngoài ra, để đưa được vắc xin này đến Mỹ cũng cần rất nhiều thời gian. Arlhee Díaz xác định rằng “Cho đến nay, điều duy nhất chúng tôi đă làm là kư một thỏa thuận bảo mật với một trung tâm nghiên cứu ở quốc gia đó để bắt đầu trao đổi thông tin”. Từ thời điểm này trong tương lai chúng tôi có thể bắt đầu thử nghiệm giai đoạn 1, hiệu quả, nhưng đây mới chỉ là nghiên cứu lâm sàng chứ chưa đạt đến giai đoạn thương mại, một lỗi mà nhiều nhà báo đă mắc phải khi viết báo công bố “. Tổng giám đốc của công ty tiếp thị của CIM, Einar Blanco, đảm bảo rằng luật mới về đầu tư nước ngoài, vừa được chính phủ Cuba phê duyệt, ủy quyền cho Trung tâm Miễn dịch học Phân tử kư hợp đồng với các đối tác nước ngoài để nghiên cứu, sản xuất và thương mại hóa nó. Họ thậm chí có khả năng sử dụng vùng Mariel miễn phí, nơi lợi ích cho nhà đầu tư lớn hơn nhiều.




Nguồn: Tạp chí sức khỏe

florida80
05-20-2019, 19:42
Berodual là loại thuốc được nhiều người mắc các bệnh hen hoặc tắc phổi mạn tính. Vậy cách dùng loại thuốc này như thế nào? Hăy cùng t́m hiểu bài viết dưới đây để biết thêm chi tiết nhé.

https://i.imgur.com/ZqyrHbe.jpg

https://i.imgur.com/tEodscs.jpg


Công dụng của thuốc Berodual

Berodual là loại thuốc thuộc phân nhóm thuốc trị hen và bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và được điều chế dưới dạng dung dịch hít với hàm lượng 20ml.

Loại thuốc này thông thường được sử dụng trong liệu pháp duy tŕ và dự pḥng khó thở trong các chứng bệnh:
✓ Rối loạn phế quản phổi gây co thắt phế quản
✓ Viêm phế quản tắc nghẽn mạn tính
✓ Khí phế thũng

Ngoài ra Berodual c̣n được dùng với mục đích điều trị dài hạn hoặc ngắn hạn ở các trường hợp:
✓ Lên cơn hen suyễn cấp
✓ Liệu pháp aerosol bằng kháng sinh, chất nhầy, corticosteroild
✓ Các liệu pháp điều trị phế quản cục bộ

Tác dụng của thuốc BerodualTác dụng của thuốc Berodual

Cách dùng thuốc Berodual

Khi sử dụng thuốc Berodual, người bệnh cần được giám sát y tế từ khi bắt đầu.

Theo ư kiến của chuyên gia các trường Cao Đẳng Dược, nếu dùng thuốc giăn phế quản chủ vận beta liều thấp, người bệnh có thể được các các sĩ chỉ định sử dụng ở nhà.

Khi bắt đầu dùng thuốc ở dung dịch hít th́ cần dùng liều khởi đầu ở mức thấp nhất theo chỉ định. Phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của bệnh mà liều lượng được điều chỉnh ở mức phù hợp. Khi nhận thấy có những triệu chứng bất thường, người bệnh cần phải ngừng sử dụng thuốc.

Khi sử dụng thuốc quá liều, người bệnh cần được mang đến cơ sở y tế gần nhất cùng với danh sách các loại thuốc đă uống để được chẩn đoán và điều trị kịp thời.

Khi phát hiện ra đă quên một liều thuốc, người bệnh cần bổ sung ngay lập tức trừ khi liều đó gần với liều kế tiếp. Khi đó, nên uống liều kế tiếp như liệu tŕnh và tuyệt đối không được uống gấp đôi liều.

Liều dùng thuốc Berodual

Để đảm bảo an toàn cho sức khỏe, người bệnh cần tham khảo ư kiến tư vấn của chuyên gia trước khi quyết định dùng thuốc.

Liều dùng Berodual ở người lớn: dùng 1ml (20 giọt) để giảm triệu chứng tức th́. Dùng 2,5ml (50 giọt) và tối đa 4ml (80 giọt) cho các trường hợp nghiêm trọng hơn.

Liều dùng Berodual với trẻ em dưới 12 tuổi:
✓ Trẻ từ 6 đến 12 tuổi: để giảm nhẹ triệu chứng th́ dùng 0,5-1ml (10-20 giọt), dùng 2 ml (40 giọt), tối đa 3ml (60 giọt) với các trường hợp nghiêm trọng hơn.
✓ Với trẻ dưới 6 tuổi: hiện nay vẫn chưa nghiên cứu và xác định được liều dùng phù hợp v́ vậy muốn sử dụng thuốc cho đối tượng này th́ cần có sự tham khảo ư kiến của bác sĩ.

Liều lượng sử dụng thuốc BerodualLiều lượng sử dụng thuốc Berodual

Tác dụng phụ có thể gặp khi dùng thuốc Berodual

Trong một số trường hợp, người dùng có thể gặp các tác dụng phụ không mong muốn khi dùng Berodual như sau:
✓ T́nh trạng ho, khô miệng, viêm họng
✓ Chóng mặt, nhức đầu, buồn nôn, chóng mặt
✓ Nhịp tim nhanh, đánh trống ngực, tăng huyết áp tâm thu và lo lắng
✓ Các phản ứng quá mẫn cảm

Ngoài các tác dụng phụ trên, người bệnh có thể xảy ra các tác dụng phụ khác. Trong quá tŕnh sử dụng thuốc, hăy liên hệ với các chuyên gia nếu có bất kỳ thắc mắc nào về cách dùng cũng như các phản ứng mà thuốc gây ra.

Những lưu ư khi dùng thuốc Berodual

Hăy báo cáo lại với bác sĩ của bạn trước khi dùng thuốc nếu gặp bất kỳ t́nh huống nào dưới đây:
✓ Bạn gặp các vấn đề về tim mạch như: rối loạn tim mạch nghiêm trọng
✓ Bạn bị cường giáp, hẹp mạch máu nội tại, tăng sinh tuyến tiền liệt, xơ năng, tắc nghẽn cổ bàng quang.
✓ Bạn gặp phải t́nh trạng hạ kali máu
✓ Bạn đang trong quá tŕnh mang thai và cho con bú

V́ chưa có nghiên cứu chỉ ra chính xác những nguy hiểm cho phụ nữ mang thai và cho con bú khi sử dụng thuốc nên người dùng cần tham khảo ư kiến của chuyên gia để có thể đi đến quyết định có dùng thuốc hay không.

Lưu ư về tương tác thuốc

Người bệnh nếu đang dùng các loại thuốc khác th́ cần chủ động ghi lại danh sách để gửi cho bác sĩ từ đó có thể điều chỉnh được cách dùng thuốc phù hợp, tránh được các tương tác thuốc không đáng có.

Tương tác khi xảy ra có thể làm thay đổi hiệu quả của thuốc và có nguy cơ tăng cường các tác dụng phụ.

Berodual có tương tác với các thuốc:
✓ Thuốc lợi tiểu
✓ Thuốc chống trầm cảm 3 ṿng
✓ Thuốc mê chứa halogen
✓ Thuốc ức chế MAO
✓ Thuốc kháng cholinergic
✓ Thuốc β-adrenergics

Ngoài thuốc, Berodual cũng có khả năng tương tác với một số loại thức ăn nhất định, rượu hay thuốc lá. V́ vậy, người bệnh cần cân nhắc khi sử dụng những sản phẩm này khi dùng thuốc Berodual.

Lưu ư về bảo quản thuốc

Berodual cần được bảo quản ở nơi có thoáng mát, có nhiệt độ pḥng tránh ánh sáng trực tiếp, tránh ẩm. Tuyệt đối không để thuốc trong ngăn đá hay pḥng tắm. Ngoài ra, thuốc Berodual c̣n có thể có những cách bảo quản riêng. Tốt nhất, người dùng nên tham khảo hướng dẫn bảo quản thuốc có ghi trên bao b́

Trong trường hợp muốn tiêu hủy thuốc, người dùng không được vứt thuốc vào bồn cầu hay đường nước thải để tránh gây ô nhiễm cho nguồn nước.

Khi phát hiện thuốc có dấu hiệu hư hỏng hay quá hạn th́ không được phép sử dụng mà phải tiêu hủy ngay!

Sẽ rất nguy hiểm nếu người bệnh không t́m hiểu kỹ thông tin của thuốc trước khi sử dụng. V́ vậy, hy vọng rằng bạn đọc có thể rút ra được cách dùng thuốc Berodual an toàn qua bài viết trên.

florida80
05-20-2019, 19:45
Vào lúc 12 giờ 30 phút ngày 8/1 chiếc xe chở đoàn sinh viên đi thực tế bị rơi xuống đèo Hải Vân. Khoảng 1 tiếng sau, tất cả các nạn nhân mới được đưa ra khỏi khu vực. Theo thông tin ban đầu, có 21 người bị thương nặng c̣n 1 người bị tử vong. Trong số người bị thương, nghiêm trọng nhất là trường hợp của Ngô Thị Su Sal 20 tuổi, cánh tay trái của cô bị đứt gần sát vai, phần vai cũng bị dập nát.

Ngay khi cô được đưa vào bệnh viện, ê kíp cấp cứu và đội trực cấp cứu thảm họa của BV Đà Nẵng choáng ngợp với t́nh trạng đó, tiên lượng phải ghép nối. Điều đáng nói, cánh tay của cô không đi cùng với phần thân thể mà bị “lạc” ở đâu đó chưa rơ. Ngay lập tức, đội ngũ bác sĩ kết nối với trung tâm cấp cứu 115 để bằng mọi cách t́m lại được cánh tay đứt găy của nữ sinh.

ghép nối tayLật tung từng vạt cây trong rừng để t́m cánh tay bị đứt ĺa (ảnh:****.vn)

Lực lượng bộ đội biên pḥng đi lật tung từng vạt cây để t́m cánh tay. Mọi ngóc ngách hiểm hóc trong rừng được lật lên nhưng không ai t́m thấy. Cuối cùng, may mắn được t́m thấy khi họ quay trở lại mặt đường. H́nh ảnh cánh tay trái đeo chiếc dồng hồ xinh xắn cứ ám ảnh anh thiếu tá Hoàng Văn Dũng, Chính trị viên phó Đồn Biên pḥng Lăng Cô (Thừa Thiên - Huế) măi không thôi. Bởi lẽ chính anh là người t́m thấy trong khi toàn đội như bế tắc.

Thiếu tá Dũng kể lại: “Sau khi đưa tất cả các nạn nhân ra ngoài, chúng tôi hay tin một nạn nhân bị đứt ĺa cánh tay trái nên tôi yêu cầu anh em bộ đội quay lại t́m kiếm”. Mặc cho chiếc xe bẹp dị nhưng họ không bỏ sót một góc nào với mục tiêu nhất định phải t́m được cánh tay nhanh nhất, kịp để ghép nối.

Thiếu tá Dũng

Trong lúc vô vọng, thiếu tá Dũng nh́n thấy cánh tay nhưng bị dập nát và đem đi ướp đá (ảnh: Báo mới)

“Càng t́m, càng mất”, không c̣n vạt cây nào là chưa lật lên nhưng vẫn không có hy vọng. “Khi gần như vô vọng, chúng tôi quay lại mặt đường trên đèo. Lúc này, bất ngờ tôi nh́n thấy vật màu trắng nằm khá sát đường. Khi lại gần th́ đó chính là cánh tay của em nữ sinh viên. Trên tay c̣n đeo chiếc đồng hồ…”, thiếu tá Dũng xúc động.

Liền sau đó, anh Dũng kêu đồng đội t́m nước đá ướp lạnh cánh tay để không bị phân hủy. “Tôi thấy cánh tay như bị vết chém sắc nhưng đă bị dập nát khá nhiều. Hy vọng có thể ghép nối”, thiếu tá Dũng nói.

Chạy đua với thời gian để nối cánh tay thành công

Một giờ sau khi Su Sal nhập viện và đă xử lư các vết thương phục vụ cho quá tŕnh ghép nối th́ mới t́m thấy cánh tay cảu cô. “Cánh tay trái đang ướp đá vừa được đưa đến viện th́ cũng hội chuẩn xong để làm phẫu thuật. Toàn bộ ê kip phải chạy đua với thời gian để đảm bảo ghép nối và phục hồi thành công cho cháu” ThS Bác sĩ Phạm Trần Xuân Anh, Phó Giám đốc Bệnh viện Đà Nẵng, người trực tiếp chỉ huy ê kíp làm phẫu thuật ghép nối cánh tay cho nữ sinh chia sẻ.

Suốt 5 tiếng đồng hồ với sự nỗ lực của y bác sĩ cùng sự phối hợp nhịp nhàng của các khoa pḥng khác, ca phẫu thuật bước đầu thành công. “Theo đánh giá, sau 1 ngày ghép nối, các chi của nạn nhân được nuôi dưỡng hồng, ấm, bàn tay hồng ấm nh́n thấy rơ rệt” bác sĩ Xuân Anh nói.

ghép nối cánh tay cho nữ sinh bị nạn

Bàn tay vàng của đội ngũ Y bác sĩ đă cứu lấy cánh tay bị đứt ĺa dập nát của nữ sinh (ảnh: báo Thanh niên)

Cũng theo vị phó giám đốc này, điểm khó của ca ghép nối này là do phần cánh tay vừa bị đứt vừa bị dập nát chứ không sắc nhọn như dao cắt. Với những phần dập, họ cần mất thời gian và kỹ thuật mới loại bỏ được để ghép nối. Phần xương của cánh tay phải cắt ngắn mất gần 3 phân. Có thể nói, các bước nối động mạch, tĩnh mạch và mạch máu của hệ thống thần kinh đă hoàn hảo.

Ngoài bác sĩ Xuân Anh với hơn 15 năm kinh nghiệm trong việc ghép các chi, bộ phận đứt rời, êkip thực hiện ca ghép nối cánh tay bị đứt dập cho Su Sal c̣n có những bác sĩ ngoại khoa được mệnh danh là những “bàn tay vàng” phẫu thuật ghép nối của hai khoa Ngoại chấn thương chỉnh h́nh và Ngoại bỏng tạo h́nh của Bệnh viện Đà Nẵng.

Tuy nhiên, theo các bác sĩ, bệnh nhân có thể phải được phẫu thuật thêm vài lần mới phục hồi được. Quá tŕnh khôi phục chức năng vận động của cánh tay có thể kéo dài và khó khăn.

Nguồn tin: Báo thanh niên
https://i.imgur.com/uAr9OOv.jpg

https://i.imgur.com/Zey5xaL.jpg

florida80
05-20-2019, 19:46
Mimosa là một loại thuốc ngủ có thành phần thảo dược. Có nhiều người đă sử dụng thuốc và cảm thấy rất hiệu quả. Tuy nhiên, có một số người sử dụng lại thấy rằng không đạt được kết quả như mong muốn. Chúng ta hăy cùng t́m hiểu thêm về loại thuốc này nhé!
https://i.imgur.com/vJjU3lA.jpg
>> Lạm dụng thuốc ngủ gây ra hệ lụy nguy hiểm đến sức khỏe
>> Thuốc Smecta dùng để điều trị bệnh ǵ?
>> Chymodk là thuốc ǵ? Công dụng và cách sử dụng thuốc như thế nào?


Mimosa là một loại thuốc ngủ có thành phần thảo dược

Thuốc Mimosa được nhiều người tin tưởng lựa chọn sử dụng không chỉ v́ thuốc có thành phần hoàn toàn từ thảo dược, có độ an toàn cao hơn mà c̣n v́ so sánh với các loại thuốc ngủ hóa dược khác th́ thuốc Mimosa có độ dung nạp cao hơn. Đặc biệt là thuốc Mimosa thích hợp với mọi đối tượng sử dụng.

T́m hiểu thông tin về thuốc Mimosa

Mimosa chính là tên chi của loài cây trinh nữ. Trinh nữ là loại cây khi bị chạm vào sẽ tự động cụp lá lại, đây là một loại cây rất quen thuộc với trẻ em nông thôn. Và thành phần chính trong thuốc ngủ thảo dược Mimosa chính là loại cây này.

Thuốc ngủ thảo Dược Mimosa được sản xuất bởi công ty cổ phần Dược phẩm OPC. Ngoài cây trinh nữ, Mimosa c̣n chứa 4 loại thảo dược khác có tác dụng an thần, dưỡng tâm: B́nh vôi, Sen lá, Lạc tiên, Vông nem lá. Tất cả những loại thảo dược này đă được dân gian Việt Nam sử dụng rất rộng răi. Không những thế, quá tŕnh sản xuất thuốc Mimosa đă áp dụng công nghệ chiết xuất và bào chế dược liệu hiện đại nhằm mục đích nâng cao tính khả dụng của thuốc theo đường uống.

Từ những nghiên cứu dược lư lâm sàng và dược lư thực nghiệm đă chỉ ra được rằng Mimosa là một loại thuốc:
✓ Không gây ra độc tính cho cơ thể người sử dụng
✓ Có tác dụng an thần rất mạnh
✓ Có thể sử dụng thuốc trong thời gian dài, không gây nghiện
✓ Khi sử dụng thuốc sẽ không gặp phải t́nh trạng lừ đừ lúc tỉnh giấc
✓ Làm hạ nhẹ huyết áp đối với những bệnh nhân bị bệnh cao huyết áp

Thuốc an thần Mimosa được dùng cho những trường hợp nào?

Thuốc an thần thảo dược Mimosa thường được dùng phổ biến cho những trường hợp có triệu chứng sau đây:
✓ Mất ngủ
✓ Suy nhược thần kinh
✓ Giấc ngủ đến chậm

Ngoài ra, đối với những bệnh nhân sử dụng Diazepam bị nhờn thuốc, có thể sử dụng thuốc Mimosa để thay thế.

Những trường hợp không nên sử dụng thuốc:
✓ Những người bị dị ứng với bất cứ thành phần nào của thuốc.
✓ Những người vận hành máy móc hoặc lái xe: V́ đây là loại thuốc có tác dụng an thần và gây buồn ngủ. Nếu sử dụng thuốc có thể gây ra nguy hiểm đối với bản thân và những người xung quanh.


Thành phần chính của thuốc Mimosa được chiết xuất từ cây trinh nữ

Liều lượng sử dụng thuốc Mimosa

Khi sử dụng thuốc ngủ Mimosa th́ các bạn phải sử dụng tuân theo liều lượng được bác sĩ chỉ định hoặc tham khảo liều lượng sử dụng sau đây:
✓ Liều sử dụng thông thường đối với người lớn: Trước khi đi ngủ khoảng 30 phút đến 1 tiếng, uống 1-2 viên thuốc.
✓ Liều sử dụng thông thường cho trẻ em dưới 15 tuổi: Cũng uống cùng thời gian với người lớn nhưng chỉ nên uống liều lượng bằng ½ liều lượng của người lớn.

Tác dụng phụ của thuốc Mimosa

Tính đến thời điểm này vẫn chưa có nghiên cứu hoặc phản hồi của người sử dụng thuốc Mimosa về tác dụng phụ. Có thể thấy đây là một loại thuốc rất an toàn. Tuy nhiên, nếu gặp phải tác dụng không mong muốn hăy lập tức thông báo cho bác sĩ.

Đối với những người bị mất ngủ khi sử dụng thuốc ngủ Mimosa có thể cải thiện chất lượng giấc ngủ rơ rệt. Nhờ đó mà t́nh thần sẽ được sảng khoái và mang lại cảm giác khỏe khoắn hơn mỗi khi thức giấc. Đặc biệt là sẽ không gây ra t́nh trạng nhờn thuốc khi sử dụng và không gây ảnh hưởng đến vấn đề trí nhớ. Đây chính là một trong những lư do để mọi người quyết định sử dụng thuốc Mimosa thay thế cho những loại thuốc hóa dược khác trên trị trường hiện nay.

Với những trường hợp sử dụng thuốc nhưng không mang lại hiệu quả như mong muốn có thể là chưa sử dụng thuốc đúng cách và liều lượng phù hợp. Hăy tham khảo thêm lời khuyên từ bác sĩ kê đơn để khắc phục được t́nh trạng đó.

Nguồn: Caodangduoctphcm tổng hợp

florida80
05-20-2019, 19:49
Chlorpheniramine là một trong rất nhiều loại thuốc chữa cảm lạnh hiệu quả trên thị trường hiện nay. Tuy nhiên không phải ai cũng nắm rơ cách sử dụng Chlorpheniramine an toàn nhất. Dưới đây, Trường Cao Đẳng Y Khoa Phạm Ngọc Thạch sẽ cung cấp cho các bạn những thông tin tổng quan về loại thuốc này!

✓ Điểm chuẩn Cao đẳng Y Dược Quận B́nh Tân, TP.HCM các năm
✓ Cập nhật thông tin tuyển sinh Cao đẳng Y Dược Huyện Củ Chi, TP.HCM
✓ Các trường Cao đẳng Y Dược ở Quận 8, TP.HCM tuyển sinh


Công dụng của thuốc Chlorpheniramine

Chlorpheniramine thường được điều chế dưới dạng viên nén, viên nang và viên nhai, cụ thể như sau:
✓ Chlorphenamine ở dạng viên nén: 4mg, 12 mg.
✓ Chlorphenamine ở dạng viên nhai: 4mg
✓ Chlorphenamine ở dạng viên nang: 4mg

Đây là một loại thuốc kháng histamine với cơ chế hoạt động là ngăn chặn các ảnh hưởng của chất histamin để tránh gây ra các triệu chứng dị ứng ở cơ thể. V́ thế, Chlorphenamine được sử dụng điều trị chứng cảm lạnh thông thường và viêm mũi dị ứng bằng cách làm giảm bớt các triệu chứng như: chảy nước mắt, hắt hơi, ngứa mũi hoặc cổ họng. Tuy nhiên thuốc không có tác dụng điều trị tận gốc các nguyên nhân trực tiếp gây ra t́nh trạng dị ứng.

Các dạng điều chế của ChlorpheniramineCác dạng điều chế của Chlorpheniramine

Cách dùng thuốc Chlorpheniramine

Để có được hiệu quả dùng thuốc tốt nhất, người bệnh nên kết hợp hướng dẫn sử dụng thuốc có ghi trên bao b́ và tư vấn của bác sĩ trước khi dùng thuốc. Người bệnh tuyệt đối không được phép tự ư điều chỉnh liều lượng của thuốc.

Khi dùng thuốc ở dạng viên nén, viên nén nhai và si-rô, bạn nên sử dụng trong khoảng mỗi 4 đến 6 tiếng đồng hồ khi cần thiết.

Với dạng viên nén và viên nang phóng thích kéo dài có tác dụng lâu, bạn nên uống hai lần trong ngày vào buổi sáng và tối.

Thuốc cũng có thể được uống kết hợp với các loại thuốc với mục đích giảm sốt, giảm đau, long đờm và thông mũi.

Tuy nhiên khi sử dụng kết hợp, bạn nên kiểm tra các thành phần hoạt tính của các loại thuốc để tránh các tương tác không đáng có.

Phụ huynh cần cẩn thận khi cho trẻ từ 4 đến 11 tuổi dùng chlorpheniramine

Nếu sử dụng thuốc ở dạng si-rô, bạn không nên sử dụng muỗng ăn một cách tùy tiện để đo lượng thuốc mà chỉ được phép sử dụng các dụng cụ đi kèm thuốc.

Khi sử dụng thuốc ở dạng viên nang hoặc viên nén, bạn không được chia nhỏ, làm vỡ, nghiền nát hoặc nhai thuốc mà cần uống trọn viên.

Liều dùng thuốc Chlorpheniramine

Tùy vào t́nh trạng sức khỏe và đối tượng mà thuốc Chlorpheniramine được điều chỉnh với những liều lượng khác nhau.

Với người lớn bị mắc các bệnh dị ứng: Dùng thuốc dạng uống với liều lượng 4mg trong mỗi 4 đến 6 giờ khi cần thiết và không được dùng tối đa 24mg mỗi ngày.

Với người lớn bị cấp cứu v́ sốc quá mẫn cảm: tiêm thuốc với liều lượng từ 10-20mg qua tĩnh mạch trong khoảng thời gian 1 phút với liều tối đa và 40mg một ngày.

Với trẻ em mắc các bệnh dị ứng, liều lượng được khuyến cáo sử dụng là
✓ 1mg, dùng 2 ngày 1 lần với trẻ từ 1-2 tuổi
✓ 1mg, dùng mỗi 4 đến 6 tiếng với trẻ từ 2-5 tuổi
✓ 6mg, dùng mỗi ngày với trẻ từ 1 đến 5 tuổi
✓ 12mg, dùng mỗi ngày từ 6 đến 12 tuổi

Với trẻ em cần thuốc trong hỗ trợ trong điều trị cấp cứu các cú sốc quá mẫn: tiêm với liều lượng 87,5 mcg/kg vào mạch máu 4 lần một ngày.

Tác dụng phụ của thuốc Chlorpheniramine

Như các loại thuốc tây khác, Chlorpheniramine có thể gây ra một số tác dụng phụ không mong muốn đặc biệt là trong trường hợp dùng quá liều.

Người bệnh cần thông báo ngay cho bác sĩ nếu thấy các triệu chứng sau xuất hiện và không có dấu hiệu thuyên giảm thậm chí c̣n nặng thêm:
✓ Cảm giác buồn nôn, buồn ngủ, ăn không ngon miệng
✓ Cảm thấy khô ở miệng, mũi và họng
✓ T́nh trạng đau đầu, đau ngực

Ngoài ra, người bệnh c̣n có thể gặp các triệu chứng nghiêm trọng hơn như: giảm thị lực, khó đi tiểu.

Tuy nhiên bạn nên yên tâm v́ không phải ai cũng gặp các tác dụng phụ này khi dùng thuốc, đặc biệt là khi dùng thuốc đúng với liều lượng như chỉ dẫn.

Chlorpheniramine có thể gây ra một số tác dụng phụ

Chlorpheniramine có thể gây ra một số tác dụng phụ

Những lưu ư khi dùng thuốc Chlorpheniramine

Để có được những hiệu quả tốt nhất cũng như cách sử dụng thuốc thuốc chlorpheniramine an toàn nhất, bạn nên thông báo ngay cho bác sĩ nếu đang gặp 1 trong các t́nh trạng dưới đây:
✓ Bạn mẫn cảm hoặc dị ứng với bất kỳ thành phần ghi trên bao b́ của thuốc
✓ Bạn đang sử dụng các loại thuốc khác bao gồm cả thuốc kê toa, không kê toa, thảo dược và thực phẩm chức năng
✓ Bạn đă có tiền sử về các bệnh hen suyễn, viêm phế quản măn tính, tăng nhăn áp, tiểu đường, bệnh tim mạch….
✓ Bạn đang có cuộc phẫu thuật thậm chí là phẫu thuật nha khoa
✓ Bạn đang trong thời gian thai kỳ, cho con bú hoặc có dự định mang thai trong tương lai gần

Bên cạnh đó, thuốc Chlorpheniramine gây ra hiện tượng buồn ngủ cho người dùng v́ vậy bạn không nên lái xe hoặc vận hành máy móc khi dùng thuốc. Nếu muốn dùng bia, rượu hay hút thuốc lá trong quá tŕnh dùng thuốc, bạn cũng nên tham khảo ư kiến bác sĩ để tránh các tương tác thuốc không mong muốn.

Việc t́m hiểu thông tin về thuốc sẽ đảm bảo cho quá tŕnh sử dụng được an toàn. Sau khi tham khảo những kiến thức bổ ích trên, hy vọng các bạn sẽ trang bị cho bản thân phương pháp sử dụng thuốc Chlorpheniramine phù hợp.
https://i.imgur.com/U9tD18F.jpg

florida80
05-20-2019, 19:51
Loperamide là loại thuốc không cần kê đơn được nhiều người sử dụng để trị chứng tiêu chảy. Tuy nhiên, không ít người sử dụng loại thuốc này một cách tùy tiện, gây ra những hậu quả khôn lường cho cơ thể. Bài viết dưới đây sẽ cung cấp những thông tin giúp mọi người sử dụng loại thuốc này một cách an toàn và hiệu quả nhất.

https://i.imgur.com/5aTR2fw.jpg



Công dụng của thuốc Loperamide

Cơ chế hoạt động của Loperamide là: làm giảm nhu động ruột giúp giảm số lần đi vệ sinh từ đó làm phân ít nước. V́ vậy mà loại thuốc này có công dụng điều trị các chứng tiêu chảy đột ngột, tiêu chảy ở những người mắc bệnh viêm ruột. Ngoài ra Loperamide c̣n hỗ trợ những người đă trải qua thủ thuật mở thông ruột hồi với tác dụng giảm lượng bài tiết.

Lưu ư: thuốc này chỉ có tác dụng điều trị các triệu chứng tiêu chảy chứ không thể giải quyết dứt điểm được nguyên nhân gây ra tiêu chảy. Dù Loperamide là loại thuốc được sử dụng mà không cần kê đơn, tuy nhiên bệnh nhân cũng cần tham khảo tư vấn của bác sĩ v́ thuốc chỉ có tác dụng ở một số trường hợp và c̣n tồn tại một số hạn chế gây ra những tác dụng không mong muốn khác.

Tác dụng của thuốc Loperamide

Tác dụng của thuốc Loperamide

Các tác dụng phụ khi dùng thuốc Loperamide

Như ở nói ở trên, Loperamide có một số hạn chế và có thể gây ra một số tác dụng phụ không mong muốn với những biểu hiện thường gặp như sau:
✓ Các biểu hiện xảy ra với đường tiêu hóa như: nôn, buồn nôn, khô miệng, đau bụng, trướng bụng, táo bón và thậm chí là đau dạ dày.
✓ Gây ra t́nh trạng dị ứng, nhức đầu, chóng mặt và mệt mỏi
✓ Các biểu hiện ở hệ thần kinh khi dùng thuốc ở trẻ em: hôn mê, trầm cảm, ngủ gật, suy hô hấp và hệ thần kinh trung ương.
✓ Làm trầm trọng các triệu chứng chóng mặt, đau đầu ở những người bị rối loạn tiền đ́nh
✓ Làm nặng hơn các bệnh lư về gan sẵn có

Cách dùng thuốc Loperamide hiệu quả

Các chuyên gia thuộc ban tư vấn các trường Cao Đẳng Dược cho biết, thuốc loperamide không được chỉ định để điều trị các trường hợp tiêu chảy do vi rút, vi khuẩn, ngộ độc thức ăn.

Loại thuốc này không dễ dàng sử dụng như nhiều người suy nghĩ v́ thuốc không có hiệu quả trong tất cả trường hợp tiêu chảy. Đôi lúc, dùng loperamide vừa có hại lại vừa có lợi.

Loperamide giúp cho người bị tiêu chảy chống t́nh trạng mất nước trầm trọng nhưng nếu dùng thuốc quá sớm th́ sẽ gây tích tụ mầm bệnh. Ở một số trẻ em đă ghi nhận t́nh trạng hoại tử niêm mạc do uống thuốc loperamide.

V́ thế, người bệnh cần xác định rơ ràng nguyên nhân gây ra t́nh trạng cơ thể từ đó có thể yên tâm sử dụng thuốc theo sự tư vấn của bác sĩ.

Thuốc loperamide được sử dụng sau mỗi lần đi ra phân lỏng dưới sự tư vấn của bác sĩ. Người bệnh sử dụng thuốc theo liều dùng phù hợp với t́nh trạng sức khỏe và khả năng đáp ứng thuốc.

Với người lớn, liều lượng thuốc không được quá mức 8mg trong ṿng 1 ngày khi tự điều trị, khi có sự chỉ dẫn của bác sĩ th́ không được quá 16mg.

Với trẻ em, thuốc được sử dụng phụ thuộc vào độ tuổi và cân nặng của trẻ.

Khi sử dụng Loperamide ở dạng viên nhai, người bệnh nên nhai kỹ và uống thuốc khi chưa ăn ǵ.

Khi sử dụng Loperamide ở dạng viên nén ḥa tan nhanh, người bệnh không được phép nghiền, bẻ, chia nhỏ viên thuốc mà chỉ lấy viên nén ra một cách cẩn thận.

Sau khi dùng thuốc 2 ngày mà không nhận thấy sự cải thiện, thậm chí t́nh trạng bệnh c̣n xấu hơn th́ người bệnh cần thông báo ngay cho bác sĩ.

Khi nhận thấy các hiện tượng như sốt, đau dạ dày hay xuất hiện máu trong phân, bạn cần đến ngay các cơ sở gần nhất để được cấp cứu kịp thời.

Nếu dùng thuốc với mục đích điều trị tiêu chảy liên tục dưới sự chỉ định của bác sĩ th́ người bệnh cần thông báo lại khi nhận thấy t́nh trạng tiêu chảy không thuyên giảm sau 10 ngày điều trị.

Khi không có sự chỉ định của bác sĩ th́ không được phép sử dụng thuốc Loperamide cho trẻ em dưới 1 tuổi.

Để tránh sự tương tác thuốc gây ra một số tác dụng nguy hiểm, người bệnh không nên dùng chung thuốc Loperamide với các thuốc ngủ, thuốc ức chế thần kinh, các loại kháng sinh hay loại barbituric. Khi dùng đồng thời các thuốc này với Loperamide, người bệnh có thể gặp t́nh trạng tiêu chảy kéo dài và táo bón.

Liều dùng thuốc Loperamide

Liều dùng Loperamide được điều chỉnh theo độ tuổi và cân nặng để đảm bảo tính hiệu quả và an toàn khi sử dụng thuốc.

Đối với người lớn gặp chứng tiêu chảy cấp tính

Khi dùng thuốc ở dạng viên nén, viên nang và dạng lỏng th́ cần uống sau mỗi lần đi phân lỏng đầu tiên với liều khởi đầu là 4mg, liều duy tŕ là 2mg. Lưu ư không được uống vượt quá mức 16mg trong ṿng 1 ngày

Dạng viên nén nhai: cũng uống sau lần đi phân lỏng đầu tiên với liều khởi đầu là 4 mg liều duy tŕ là 2mg nhưng mức liều lượng được sử dụng là 8 mg.

Đối với người lớn gặp chứng tiêu chảy măn tính

Dạng viên nén, viên nang và dạng lỏng:
✓ Liều khởi đầu: dùng 4mg uống một lần kèm theo 2mg sau mỗi lần đi phân lỏng, không dùng vượt quá 16mg trong ṿng 24 giờ.
✓ Liều duy tŕ: trung b́nh mỗi ngày là 4-8 mg. T́nh trạng lâm sàng thường được quan sát cải thiện trong ṿng 10 ngày. Nếu liều tối đa 16 mg trong 10 ngày không cải thiện lâm sàng, các triệu chứng sẽ không đảm bảo được kiểm soát nếu uống thêm.

Đối với trẻ nhỏ mắc bệnh tiêu chảy cấp tính

Trẻ từ 2-6 tuổi (nặng từ 16kg đến 20kg) chỉ được phép sử dụng thuốc ở dạng lỏng với liều khởi đầu là 1mg, uống 3 lần trong ngày đầu tiên. Tiếp đó th́ dùng liều duy tŕ với liều lượng 0,1 mg/kg/liều sau mỗi lần đi phân lỏng và không được vượt quá liều đầu tiên.

Trẻ từ 6-8 tuổi (nặng từ 20 đến 30 kg)
✓ Khi dùng ở dạng viên nén, viên nang và dạng lỏng th́ uống 2 mg, 2 lần trong ngày đầu tiên. Đối với các liều tiếp theo th́ dùng 0,1 mg/kg/liều sau mỗi lần đi phân lỏng miễn là không vượt quá liều lượng ở liều ban đầu.
✓ Khi dùng thuốc ở dạng viên nén nhai: dùng 2 mg uống sau lần đi phân lỏng đầu tiên với liều khởi đầu sau đó dùng 1 mg uống sau mỗi lần đi phân lỏng tiếp theo với mức tối đa là 4mg trong ṿng một ngày.

Trẻ từ 8-12 tuổi (nặng hơn 30 kg)

Khi sử dụng ở dạng viên nén, viên nang, và dạng lỏng: uống 2 mg trong 3 lần ngày đầu tiên và uống với liều duy tŕ ở mức 0,1 mg/kg/liều sau mỗi lần đi phân lỏng, nhưng không vượt quá liều đầu tiên.

Khi sử dụng thuốc ở dạng viên nén nhai: uống 2mg sau lần đi phân lỏng đầu tiên, tiếp đó duy tŕ với liều 1 mg uống sau mỗi lần đi phân lỏng tiếp theo và không được vượt quá mức 6mg trong ṿng 1 ngày.

Trẻ em từ 12-18 tuổi:

Đối tượng này được phép sử dụng tất cả dạng của thuốc với liều khởi đầu là 4 mg, uống sau lần đi phân lỏng đầu tiên. Sau đó trẻ dùng liều 2 mg sau mỗi lần đi phân lỏng tiếp theo, nhưng không được phép vượt 8mg trong ṿng 1 ngày.

Liều dùng loperamide cho trẻ em Liều dùng loperamide cho trẻ em

Những lưu ư trước khi dùng thuốc loperamide

Để tránh những tác dụng không mong muốn của thuốc, người bệnh cần thông báo cho bác sĩ nếu gặp một trong các trường hợp sau đây:
✓ Bạn bị dị ứng hoặc mẫn cảm với bất cứ thành phần của thuốc
✓ Bạn đang sử dụng các loại thuốc khác
✓ Bạn đang trong thời gian thai kỳ, cho con bú, hoặc dự định có thai

Ngoài ra, trong quá tŕnh sử dụng Loperamide, người bệnh cũng cần chú ư một số lưu ư sau:
✓ Không nên lái xe hoặc vận hành máy móc khi dùng Loperamide v́ thuốc có thể khiến bạn buồn ngủ hay chóng mặt, đau đầu.
✓ Thuốc này không thích hợp với những người mắc các bệnh lư về gan v́ vậy những người đang gặp các t́nh trạng xơ gan, viêm gan nặng th́ không nên dùng thuốc để t́nh trạng bệnh không trở nên trầm trọng hơn.
✓ Loperamide chống chỉ định với những người bị táo bón, sốt cao và đang có phản ứng dị ứng.

Tiêu chảy là một chứng bệnh thường gặp và có diễn biến khá phức tạp. V́ vậy, chúng tôi mong rằng những thông tin trên về thuốc tiêu chảy Loperamide sẽ giúp các bạn có được những hiểu biết và cách dùng loại thuốc này một cách khoa học nhất!

florida80
05-20-2019, 19:53
Telfast là một chất kháng sinh histamine chứa thành phần chính là fexofenadine hydrochloride - không gây buồn ngủ cho người dùng.
https://i.imgur.com/id8XODT.jpg

Cơ chế hoạt động của thuốc: ngăn tác động của các histamine được tạo ra bởi cơ thể khi tiếp xúc với một số dị nguyên, tác nhân gây hại cho cơ thể, từ đó làm giảm các triệu chứng dị ứng.

Telfast được sử dụng để làm giảm các triệu chứng dị ứngTelfast được sử dụng để làm giảm các triệu chứng dị ứng

Telfast được điều chế dưới dạng viên nang và viên nang bao phim với các hàm lượng như sau:
✓ Hàm lượng 120mg với viên nang:
✓ Hàm lượng 60mg, 120mg, 180mg với viên nang bao film

Tác dụng của thuốc Telfast

Với cơ chế hoạt động như đă nói ở trên, Telfast được chỉ định điều trị với tác dụng như sau:

Làm giảm các triệu chứng hắt hơi, ngứa, chảy nước mắt, tắc mũi ở bệnh viêm mũi dị ứng theo mùa.

Ngoài ra, Telfast c̣n có một số tác dụng không được ghi trên bao b́ nhưng vẫn được bác sĩ chỉ định trong một số trường hợp. Thuốc chỉ được dùng để điều trị một số bệnh khác khi có sự chỉ định của bác sĩ.

Những trường hợp nào không nên dùng thuốc Telfast?

Những người quá mẫn cảm hoặc dị ứng với chất fexofenadine hay bất kỳ tá dược nào có trong thuốc th́ bị chống chỉ định dùng Telfast.

Ngoài ra, các chuyên gia cũng cảnh báo người dùng các trường hợp cần tham khảo sự tư vấn của bác sĩ khi có ư định dùng Telfast, cụ thể như sau:
✓ Những người gặp các vấn đề về gan, thật hay đă có tiền sử, đang mắc các bệnh lư tim mạch th́ cần đặc biệt cẩn trọng khi dùng thuốc.
✓ Đối tượng người cao tuổi cũng cần đặc biệt lưu ư khi sử dụng thuốc để tránh xảy ra các tác hại cho cơ thể.
✓ Thuốc Telfast không được khuyến cáo dùng cho phụ nữ đang mang thai, đối tượng này chỉ nên dùng thuốc khi thực sự cần thiết và phải tuyệt đối theo chỉ định của bác sĩ.

Cách dùng thuốc Telfast

Để Telfast đạt được hiệu quả cao nhất, người bệnh cần dùng thuốc đúng liều lượng, đúng thời điểm, thời gian theo chỉ định của bác sĩ cũng như hướng dẫn trên bao b́.

Trong quá tŕnh sử dụng, người dùng cần hỏi ngay bác sĩ để có những tư vấn kịp thời.

Dưới đây là các liều dùng thông thường dành cho từng đối tượng khi sử dụng Telfast.

Với trẻ em lớn hơn 12 tuổi và người lớn: dùng 1 viên 120mg mỗi ngày vào trước khi ăn.

Với trẻ dưới 12 tuổi bị viêm mũi dị ứng:
✓ Trẻ từ 2 – 5 tuổi: dùng 5ml (hay 30mg) Telfast oral Liquid, uống 2 lần/ngày mỗi khi cần thiết.
✓ Trẻ từ 6 – 11 tuổi: dùng 5ml (hay 30mg) Telfast oral Liquid hoặc 1 viên. uống 2 lần/ngày mỗi khi cần thiết .

Với trẻ dưới 12 tuổi bị nổi mề đay, mẩn ngứa :
✓ Trẻ từ 2 – 23 tháng tuổi: dùng 2,5 ml (hay 15mg) Telfast oral Liquid, 2 lần mỗi ngày trong các trường hợp cần thiết.
✓ Trẻ từ 2 – 5 tuổi: dùng 5ml (hay 30mg) Telfast oral Liquid, 2 lần mỗi ngày, trong các trường hợp cần thiết.
✓ Trẻ từ 6 – 11 tuổi: dùng 5ml (hay 30mg) Telfast oral Liquid hoặc 1 viên, 2 lần/ngày trong các trường hợp cần thiết.

Các triệu chứng bệnh sẽ được thuyên giảm sau 1 giờ dùng thuốc và có tác dụng kéo dài trong một ngày.

Khi có dấu hiệu của t́nh trạng quá liều như: chóng mặt, khô miệng, mệt mỏi, buồn ngủ; người bệnh nên được mang đến các cơ sở y tế để có biện pháp xử lư kịp thời.

Khi phát hiện ra ḿnh quên thuốc, người bệnh cần uống liều tiếp theo chỉ định của bác sĩ trước đó mà không cần uống gấp đôi liều.

Trong trường hợp, người bệnh muốn ngưng sử dụng thuốc th́ cần có ư kiến của bác sĩ để tránh t́nh trạng tái phát triệu chứng và làm bệnh ngày càng trầm trọng hơn.

Telfast có tác dụng ngay sau một giờ dùng thuốcTelfast có tác dụng ngay sau một giờ dùng thuốc

Tác dụng phụ có thể xảy ra khi dùng thuốc Telfast

Giống như các loại thuốc khác, Telfast có thể gây nên một số tác dụng phụ nghiêm trọng với mức độ khác nhau, đặc biệt là trong các trường hợp quá liều.

Một số tác dụng phụ nghiêm trọng của thuốc có biểu hiện như: sưng môi, cổ họng, lưỡi mặt và cảm thấy khó thở. Khi gặp các t́nh trạng này, người bệnh cần thông báo cho bác sĩ để có chỉ định ngưng dùng thuốc.

Ngoài ra cũng có thể gặp các tác dụng phổ biến thông thường như là: Chóng mặt, đau đầu, buồn nôn.

Trong một số trường hợp hiếm gặp, người bệnh cũng có thể cảm thấy mệt mỏi, khó chịu.

Người bệnh c̣n có thể gặp một số tác dụng phụ bổ sung khi dùng thuốc như: t́nh trạng rối loạn giấc ngủ, gặp ác mộng, tim đập nhanh, gặp ác mộc và nổi mày đay, mẩn ngứa.

Những lưu ư khi sử dụng thuốc Telfast

Để tránh những tác hại không mong muốn trong thời gian dùng thuốc, người bệnh cần chú ư các tương tác thuốc có thể xảy ra.

Người bệnh cần ghi lại danh sách các thuốc khác đang dùng nếu có và báo cho bác sĩ để tránh gây ra trường hợp thay đổi hoạt động thuốc và tăng cường tác dụng phụ. Một số loại thuốc có thể tương tác với Telfast: Aspirin, salmeterol, Celecoxib, Alprazolam, Clopidogrel, Atorvastatin. Albuterol, dầu cá...

Người bệnh không được uống rượu bia, hút thuốc lá và cần chú ư các thực phẩm nhất định có thể tương tác với Telfast.

Bên cạnh đó, t́nh trạng sức khỏe cũng có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của thuốc, v́ vậy người dùng cần thông báo các vấn đề sức khỏe đang gặp phải để các chuyên gia chỉ định được cách dùng hiệu quả nhất.

Với những kiến thức về cách sử dụng thuốc Telfast mà cao đẳng dược tp hcm tổng hợp trên đây, hy vọng các bạn có thể nắm được những thông tin quan trọng để lựa chọn được phương pháp sử dụng Telfast tốt nhất.






Cơ chế hoạt động của thuốc: ngăn tác động của các histamine được tạo ra bởi cơ thể khi tiếp xúc với một số dị nguyên, tác nhân gây hại cho cơ thể, từ đó làm giảm các triệu chứng dị ứng.

Telfast được sử dụng để làm giảm các triệu chứng dị ứngTelfast được sử dụng để làm giảm các triệu chứng dị ứng

Telfast được điều chế dưới dạng viên nang và viên nang bao phim với các hàm lượng như sau:
✓ Hàm lượng 120mg với viên nang:
✓ Hàm lượng 60mg, 120mg, 180mg với viên nang bao film

Tác dụng của thuốc Telfast

Với cơ chế hoạt động như đă nói ở trên, Telfast được chỉ định điều trị với tác dụng như sau:

Làm giảm các triệu chứng hắt hơi, ngứa, chảy nước mắt, tắc mũi ở bệnh viêm mũi dị ứng theo mùa.

Ngoài ra, Telfast c̣n có một số tác dụng không được ghi trên bao b́ nhưng vẫn được bác sĩ chỉ định trong một số trường hợp. Thuốc chỉ được dùng để điều trị một số bệnh khác khi có sự chỉ định của bác sĩ.

Những trường hợp nào không nên dùng thuốc Telfast?

Những người quá mẫn cảm hoặc dị ứng với chất fexofenadine hay bất kỳ tá dược nào có trong thuốc th́ bị chống chỉ định dùng Telfast.

Ngoài ra, các chuyên gia cũng cảnh báo người dùng các trường hợp cần tham khảo sự tư vấn của bác sĩ khi có ư định dùng Telfast, cụ thể như sau:
✓ Những người gặp các vấn đề về gan, thật hay đă có tiền sử, đang mắc các bệnh lư tim mạch th́ cần đặc biệt cẩn trọng khi dùng thuốc.
✓ Đối tượng người cao tuổi cũng cần đặc biệt lưu ư khi sử dụng thuốc để tránh xảy ra các tác hại cho cơ thể.
✓ Thuốc Telfast không được khuyến cáo dùng cho phụ nữ đang mang thai, đối tượng này chỉ nên dùng thuốc khi thực sự cần thiết và phải tuyệt đối theo chỉ định của bác sĩ.

Cách dùng thuốc Telfast

Để Telfast đạt được hiệu quả cao nhất, người bệnh cần dùng thuốc đúng liều lượng, đúng thời điểm, thời gian theo chỉ định của bác sĩ cũng như hướng dẫn trên bao b́.

Trong quá tŕnh sử dụng, người dùng cần hỏi ngay bác sĩ để có những tư vấn kịp thời.

Dưới đây là các liều dùng thông thường dành cho từng đối tượng khi sử dụng Telfast.

Với trẻ em lớn hơn 12 tuổi và người lớn: dùng 1 viên 120mg mỗi ngày vào trước khi ăn.

Với trẻ dưới 12 tuổi bị viêm mũi dị ứng:
✓ Trẻ từ 2 – 5 tuổi: dùng 5ml (hay 30mg) Telfast oral Liquid, uống 2 lần/ngày mỗi khi cần thiết.
✓ Trẻ từ 6 – 11 tuổi: dùng 5ml (hay 30mg) Telfast oral Liquid hoặc 1 viên. uống 2 lần/ngày mỗi khi cần thiết .

Với trẻ dưới 12 tuổi bị nổi mề đay, mẩn ngứa :
✓ Trẻ từ 2 – 23 tháng tuổi: dùng 2,5 ml (hay 15mg) Telfast oral Liquid, 2 lần mỗi ngày trong các trường hợp cần thiết.
✓ Trẻ từ 2 – 5 tuổi: dùng 5ml (hay 30mg) Telfast oral Liquid, 2 lần mỗi ngày, trong các trường hợp cần thiết.
✓ Trẻ từ 6 – 11 tuổi: dùng 5ml (hay 30mg) Telfast oral Liquid hoặc 1 viên, 2 lần/ngày trong các trường hợp cần thiết.

Các triệu chứng bệnh sẽ được thuyên giảm sau 1 giờ dùng thuốc và có tác dụng kéo dài trong một ngày.

Khi có dấu hiệu của t́nh trạng quá liều như: chóng mặt, khô miệng, mệt mỏi, buồn ngủ; người bệnh nên được mang đến các cơ sở y tế để có biện pháp xử lư kịp thời.

Khi phát hiện ra ḿnh quên thuốc, người bệnh cần uống liều tiếp theo chỉ định của bác sĩ trước đó mà không cần uống gấp đôi liều.

Trong trường hợp, người bệnh muốn ngưng sử dụng thuốc th́ cần có ư kiến của bác sĩ để tránh t́nh trạng tái phát triệu chứng và làm bệnh ngày càng trầm trọng hơn.

Telfast có tác dụng ngay sau một giờ dùng thuốcTelfast có tác dụng ngay sau một giờ dùng thuốc

Tác dụng phụ có thể xảy ra khi dùng thuốc Telfast

Giống như các loại thuốc khác, Telfast có thể gây nên một số tác dụng phụ nghiêm trọng với mức độ khác nhau, đặc biệt là trong các trường hợp quá liều.

Một số tác dụng phụ nghiêm trọng của thuốc có biểu hiện như: sưng môi, cổ họng, lưỡi mặt và cảm thấy khó thở. Khi gặp các t́nh trạng này, người bệnh cần thông báo cho bác sĩ để có chỉ định ngưng dùng thuốc.

Ngoài ra cũng có thể gặp các tác dụng phổ biến thông thường như là: Chóng mặt, đau đầu, buồn nôn.

Trong một số trường hợp hiếm gặp, người bệnh cũng có thể cảm thấy mệt mỏi, khó chịu.

Người bệnh c̣n có thể gặp một số tác dụng phụ bổ sung khi dùng thuốc như: t́nh trạng rối loạn giấc ngủ, gặp ác mộng, tim đập nhanh, gặp ác mộc và nổi mày đay, mẩn ngứa.

Những lưu ư khi sử dụng thuốc Telfast

Để tránh những tác hại không mong muốn trong thời gian dùng thuốc, người bệnh cần chú ư các tương tác thuốc có thể xảy ra.

Người bệnh cần ghi lại danh sách các thuốc khác đang dùng nếu có và báo cho bác sĩ để tránh gây ra trường hợp thay đổi hoạt động thuốc và tăng cường tác dụng phụ. Một số loại thuốc có thể tương tác với Telfast: Aspirin, salmeterol, Celecoxib, Alprazolam, Clopidogrel, Atorvastatin. Albuterol, dầu cá...

Người bệnh không được uống rượu bia, hút thuốc lá và cần chú ư các thực phẩm nhất định có thể tương tác với Telfast.

Bên cạnh đó, t́nh trạng sức khỏe cũng có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của thuốc, v́ vậy người dùng cần thông báo các vấn đề sức khỏe đang gặp phải để các chuyên gia chỉ định được cách dùng hiệu quả nhất.

Với những kiến thức về cách sử dụng thuốc Telfast mà cao đẳng dược tp hcm tổng hợp trên đây, hy vọng các bạn có thể nắm được những thông tin quan trọng để lựa chọn được phương pháp sử dụng Telfast tốt nhất.

florida80
05-20-2019, 19:57
Thông tin về thực phẩm chức năng Herbalife


https://i.imgur.com/eiJdRGd.jpg

Năm 1980, Mark Hughes đă trực tiếp thành lập ra hăng thực phẩm chức năng đầu tiên trên thế giới với tên gọi là Herbalife. Hăng này chuyên sản xuất và phân phối các sản phẩm dinh dưỡng với nguồn gốc từ các thành phần thảo mộc thiên nhiên nhằm thay đổi thói quen dinh dưỡng của mọi người.

Cho đến thời điểm hiện tại, Herbalife đă đưa các thực phẩm chức năng tới phạm vi 90 quốc gia và lănh thổ trong đó có cả Việt Nam. Chỉ với gần 10 năm xuất hiện, các thực phẩm chức năng Herbalife đă tạo được sự tin tưởng và uy tín với người dùng Việt Nam

Các sản phẩm thực phẩm chức năng Herbalife được sản xuất dưới nhiều dạng khác nhau như: viên nén thảo dược, bột dinh dưỡng ở dạng pha, dịch tiết cô đặc với nguồn nguyên liệu có xuất xứ là thực phẩm quư hiếm đến từ các nước Trung Quốc, Hàn Quốc, Braxin, Nam Mỹ, Trung Đông, Ấn Độ…

Herbalife là hăng thực phẩm chức năng đầu tiên trên thế giớiHerbalife là hăng thực phẩm chức năng đầu tiên trên thế giới

Công dụng của các thực phẩm chức năng Herbalife

Theo các chuyên gia dinh dưỡng, các sản phẩm của Herbalife có chức năng hỗ trợ sức khỏe người dùng cụ thể như sau:
✓ Hỗ trợ kiểm soát cân nặng hiệu quả khi được sử dụng cho các t́nh trạng tăng cân, giảm cân, duy tŕ mức dinh dưỡng.
✓ Có khả năng loại bỏ các chất dầu mỡ, calo đồng thời cung cấp các chất dinh dưỡng cần thiết một cách an toàn.
✓ Giúp những đối tượng không thể tổng hợp các chất dinh dưỡng cần thiết hàng ngày dung nạp đủ lượng dinh dưỡng.
✓ Với thành phần không chất độc hại, thuốc c̣n có tác dụng ngăn ngừa các nguy cơ béo ph́, bệnh tim mạch, bệnh xương khớp, tiểu đường.

Độ hiệu quả của các thực phẩm chức năng Herbalife phụ thuộc vào t́nh trạng của đối tượng sử dụng sản phẩm, ví dụ:
✓ Phụ nữ đang trong thai kỳ hoặc thời gian tiền măn kinh
✓ Trẻ em gặp các t́nh trạng thiếu cân, ốm yếu, suy dinh dưỡng
✓ Những người làm việc nặng nhọc, làm việc trong các môi trường độc hại và vận động viên
✓ Những người bị béo ph́, thừa cân hoặc cần giảm cân
✓ Những người khó tăng cân, gầy, yếu ớt

Cách sử dụng sản phẩm chức năng herbalife

Các chuyên gia Ngành Dược khuyến cáo: người dùng nên lưu ư các thực phẩm chức năng chỉ có vai tṛ hỗ trợ sức khỏe người dùng chứ không phải là “thần dược”. Trước khi sử dụng thuốc, mọi người cần phải xem xét t́nh trạng sức khỏe bản thân, tốt nhất là hăy hỏi ư kiến của bác sĩ khi bạn đang gặp các vấn đề về sức khỏe hoặc đang dùng bất cứ loại thuốc nào.

Khi đă xem xét t́nh trạng sức khỏe hoặc có sự cho phép của bác sĩ, người dùng nên đọc kỹ hướng dẫn sử dụng trên bao b́ trước khi dùng. Mỗi loại sản phẩm lại có cách dùng và liều lượng khác nhau.

Ngoài ra, bạn cũng cần lưu ư khi t́m mua các sản phẩm của herbalife để tránh mua phải các bộ sản phẩm không rơ nguồn gốc, chất lượng kém, hàng nhái.

Người dùng cần mua đúng các thực phẩm chức năng Herbalife chính hăng để tránh “tiền mất tật mang”Người dùng cần mua đúng các thực phẩm chức năng Herbalife chính hăng để tránh “tiền mất tật mang”

Những sản phẩm Herbalife giá rẻ có an toàn khi sử dụng?

Sản phẩm Herbalife giá rẻ thực tế là tên gọi sử dụng cho các đại lư có doanh thu lớn v́ vậy có chiết khấu lớn cho khách hàng. Điều đó có nghĩa những sản phẩm này là hàng chính hăng được chứng nhận đảm bảo chất lượng, an toàn vệ sinh của Bộ y tế.

Để kiểm nghiệm hiệu quả chính xác của các sản phẩm chức năng Herbalife, mọi người nên dùng trọn bộ sản phẩm có thể dùng từ cơ bản đến nâng cao.

Với tác dụng của thực phẩm chức năng, người dùng chỉ cảm nhận rơ những thay đổi của cơ thể và hiệu quả sử dụng thuốc sau một thời gian sử dụng nhất định. Mức độ hiệu quả thuốc c̣n tùy thuộc vào từng đối tượng khác nhau và khả năng kích ứng sản phẩm.

Người dùng cũng cần lưu ư những tác dụng phụ có thể xảy ra sau một thời gian sử dụng các thực phẩm chức năng Herbalife như: hiện tượng ngứa nhẹ, đau đầu, tăng hưng phấn, cồn cào… Tuy nhiên các dấu hiệu này sẽ tự khỏi sau một thời gian sử dụng sản phẩm nên người dùng không cần quá lo lắng

Cách mua thực phẩm chức năng Herbalife chất lượng

Để tránh trường hợp mua phải các sản phẩm kém chất lượng, hàng giả, hàng nhái, người dùng tốt nhất là hăy t́m đến các showroom lớn, phân phối chính hăng để mua các sản phẩm có giấy tờ đảm bảo chất lượng, kiểm định của bộ y tế.

Bên cạnh đó người dùng cũng có thể lên mạng t́m kiếm kiểm tra thông tin nhiều luồng về thông tin, chất lượng cũng như độ uy tín của sản phẩm để có được sự cân nhắc để lựa chọn loại sản phẩm phù hợp với t́nh trạng sức khỏe.

Có thể thấy thực phẩm chức năng herbalife chính hăng được ghi nhận là sử dụng an toàn trên phạm vi nhiều quốc gia. Nếu người dùng tuân thủ, kiên tŕ sử dụng các loại thuốc chính hăng sẽ có thể cải thiện t́nh trạng cơ thể và sức khỏe một cách đáng kể.

Hy vọng những thông tin đă cung cấp trên đây có thể giúp bạn và người thân lựa chọn và có cách dùng những thực phẩm chức năng Herbalife một cách phù hợp, hiệu quả và an toàn.

Cập nhật tin tức tại Caodangduoctphcm.org .vn

florida80
05-21-2019, 17:19
Pharmacy error leads to fatal medication mix-up

David B. Brushwood

































Unlabelled Image





















Pharmacy errors can occur in many different ways. A recent case from Missouri reviewed several key sources of pharmacy error and eventually restored an aggravating damages claim in a pharmacy error case.




Background


According to the court, a patient was discharged from a hospital, and a nurse phoned prescriptions to the patient’s pharmacy. The prescriptions were received by a pharmacy technician who had no formal training and had worked in the floral department before being transferred to the pharmacy.

The technician made many errors transcribing the prescriptions. The most significant was confusing once-daily methotrexate for the metolazone that had been prescribed. The pharmacist approved the once-daily methotrexate, later explaining “for some reason I didn’t recognize the weekly versus daily. It didn’t click in my mind.” The pharmacy’s computer system did not flag the once-daily methotrexate dosing schedule.





Unlabelled Image Opens large image







The patient’s husband picked up the medication. He was asked if he had any questions, to which he replied no. No additional patient education was provided. The patient used the methotrexate daily as instructed on the label, and she died less than 1 month later from the effects of the drug.

A lawsuit was filed against the pharmacy. The pharmacy admitted negligence, and the jury returned a verdict for the plaintiffs in the amount of $2 million. This was reduced to $125,000 based on statutory damages caps. The plaintiffs claimed additional damages for “aggravating circumstances,” but the lower court granted a pharmacy motion to deny these damages.

From this ruling, the plaintiffs appealed.




Rationale


In reversing the lower court, the Missouri Court of Appeals cited four factors that would support an award of additional damages based on aggravating factors.

First, the court noted that in the absence of a computerized “hard stop” for once-daily methotrexate prescriptions, it is imperative that pharmacists conduct their own personal verification of prescriptions. A pharmacy corporate representative testified that, based on her analysis of the facts, “the pharmacist really did not perform a medication review of this drug and of this patient.” The court was skeptical of the pharmacist’s claim that he had reviewed the prescription and concluded that the failure to perform such a review could justify a finding of aggravating circumstances.

Second, the court was critical of the pharmacy technician receiving a new prescription over the telephone. Although the court cited evidence that Missouri is one of only a few states allowing this practice, the court noted the pharmacy’s own policies and procedures that state only pharmacists are allowed to accept prescriptions over the phone.

Third, the court was critical of the pharmacy’s failure to provide patient education when dispensing a high-risk medication like methotrexate. An expert witness for the plaintiffs testified that simply asking if the person receiving a medication has any questions is inadequate. He testified that it is “absolutely inadequate and absolutely deadly in the case of high-alert drugs to not do that counseling.”

Fourth, the court noted that the pharmacy “had made no meaningful changes to its procedures as a result of [the patient’s] death.” The pharmacy corporate representative testified that the pharmacists as a group “have had an in-depth conversation about being more conscientious than we already were, you know, just trying to be more safe in everything that we do.” The court was not impressed.

For these reasons, the appellate court reversed the lower court’s dismissal of the aggravating circumstances claim.




Discussion


This case is a classic example of how pharmacists can be set up to fail by a dysfunctional system. This error did not occur because pharmacists weren’t conscientious and weren’t trying to be safe. Remedial measures after a fatal error of this type must go beyond a platitudinous pep talk.

Computer systems must be designed to implement a “hard stop” when a lethal prescription is entered into the pharmacy computer. Pharmacy technicians must be adequately trained and forbidden to perform functions for which they are unqualified. Patient counseling is absolutely mandatory when dispensing a high-alert drug to a patient for the first time.

florida80
05-21-2019, 17:28
I work in a pharmacy where the prescriptions are printed with the time the customer expects to pick it up (or when the computer expects us to have a new prescription from the md ready... sure we can fill, dispense, and check all 50 prescriptions sent in during the office's lunch break within the hour). I was working with a pharmacist once who would refuse to check any prescription other than those marked as "waiter" or with a printed time outside 60 minutes after the current time. No past-dues, nothing for later in the day. They would hand all the past due ones to the secondary checking pharmacist, and if there wasn't anything due in the next hour, would pop a squat on a stool. If anyone came in early, they made us redo the prescription and change the time to a more current one. Meanwhile, we still had about 150 prescriptions in the queues we were furiously working to fill.

They worked an overnight with me one night, and when all of the automatic filling prescriptions dropped, I was working my butt off to print and fill and stack prescriptions to check. The prescriptions print with a due date of midnight the next day, and when I left, they were all still on the counter. I didn't work the next two nights, and when I worked during the day, all of the automatic fills had been left there both nights. All ~200 of them. To fill along with the ~800 we do during the day.

florida80
05-21-2019, 17:29
Worked with a pharmacist who would leave the pharmacy for smoke breaks. Leave us to do the work while he bummed cigarettes. Would close at the end of the night with 30 unchecked orders. Tell people we didn't have stuff when we did because he didn't feel like doing anything over 4 scripts per order. Ended up getting arrested for stealing ambiens and practicing pharmacy under his dad's license, his was suspended a year prior. Ended up killing himself

florida80
05-21-2019, 17:30
My pharmacist got arrested for selling drugs on the street. Here's the strange part, he wasn't caught selling narcotics. He had been stealing albuterol inhalers for months and selling them uptown on the street. Kind of a stupid move, our store didn't find out until his arrest and he was immediately fired. Our lead tech said it all clicked once we heard; for months we kept having inventory discrepancies.

Other stories, well I worked with a total sociopath of a pharmacist for a whole day, and never went back. He would lie to patients, would call the Quality Assurance hotline (the phone number at the bottom of the receipt to leave comments or complaints) from various phone numbers and pretend to be customers and praise the work he did. A nice old lady dropped off a Z-pack prescription, I filled it in under 2 minutes and handed it to him. "Make her wait," he said, and hid the bag under the computer for 10 minutes. I was schocked and asked him why, and he said he didn't want people to think short wait times were a habit or routine. I still feel bad about not reporting him somehow.

florida80
05-21-2019, 17:31
I worked with this girl who graduated pharmacy school like 4 years before. She's floated at my store a few times, and she calls the doc about EVERYTHING. Rx for losartan says "1t qd"? She has to call to verify its by mouth. And we all know how often docs don't put route of administration, because we as a pharmacy team KNOW that these certain drugs are always done by mouth or by nose or whatever. She was literally on the phone the whole time, even when all the other techs were telling her she had to verify faster. It's like all the things she learned in pharmacy school were just forgotten and she didn't use any prior knowledge or instincts when working!

florida80
05-21-2019, 17:33
work in an inpatient psychiatric hospital, and up until recently, we had a really terrible pharmacist. She was over 70 and either unwilling or unable to learn the computer system. But what made her terrible was her disdain for actual medicine. She didn't think that our actively psychotic population of patients needed anything other than vitamins and coconut oil. I mean, I get not believing in medicine, but then why become a pharmacist? Why, if you must be a pharmacist, work in a situation where not medicating patients is absolutely not an option? It just blew my mind.

She was actually pretty crazy herself - I've heard stories about how she followed people home from work and threatened to kill herself in the pharmacy, though by the time I met her, she had called down a lot. She was still doing the pretty shit, though. Like, I'd put a medication in my section to use and if she got mad, she'd come and hide it so I'd have to get more and then the rest would show up days later. She used to hide work things life printer ink and personal things like the pictures we have on our desks. And food, she hid food all the time. No one could prove it was her, but everyone knew it was because she made a habit of staying late or sneaking back in when she thought everyone was gone.

She started to decline; forgetting things and messing up so that our boss had to double check everything she did, and was eventually put out on medical leave. She retired, much to the joy of all of us in the pharmacy and the nurses that had to deal with her on a daily basis.

florida80
05-21-2019, 17:34
That's almost sad. You have to wonder if even early on she was in beginning stages of dementia. Maybe she was legitimately misplacing stuff but couldn't remember where or why she moved it. Lashing out can be very normal reactions to confusion.

If that was the case, it's pretty terrifying that she was a pharmacist.

florida80
05-21-2019, 17:34
She was getting very forgetful so I wouldn't doubt it, but she did all the things before she started forgetting things. She worked there over 20 years.

She voluntarily retired, but only after being forced to go out because of her mistakes. She was never really mean - just annoying and petty. We threw her a retirement party and she seemed happy

florida80
05-21-2019, 17:35
One time we had a float (hired only to go to different stores in our company, so she should know how to use the company's software the same as EVERY. OTHER. PHARMACIST.) who started screaming when one of our staff pharmacists asked her to help fill, because she "only knows how to do data verification and product verification and doesn't need to know the stupid filling process".

She doesn't float at our store anymore.

florida80
05-21-2019, 17:36
One of our staff pharmacists, I'll call her RPhNaz, seems to go out of her way to make more work for people. Two weeks ago on Friday was a perfect example.

She got a call from a patient, talked to them for a few minutes and then asked me, "Have you ordered any Drysol?" I said no, because it was backordered. She talks with the person on the phone some more, puts the line on hold and goes on with her work. RPhNaz mentions to me that the woman is crazy, telling her that someone named Stephanie said they would order Drysol for her. There's no one in our store named Stephanie. I agree that it is odd.

After about ten minutes I ask what's the deal with the line on hold and RPhNaz says it is for me, the lady wants to know why her order for Drysol hasn't been filled. I tell RPhNaz she never told me the lady was holding to talk to me. RPhNaz says she did tell me to talk to her. I ask the patient's info so I can at least look at her profile and try to see what's going on but RPhNaz backed out of the profile to keep verifying and doesn't remember the patient's name.

I brace myself and proceed to spend the next fifteen minuted getting yelled at by this woman who is seriously pissed that she was on hold for ten minutes, insists it was someone in our store who ordered the Drysol her and won't believe me when I tell her that the prescription is at another store entirely where it is very likely that someone named Stephanie ordered it for her.

I finally get off the phone and ask RPhNaz if she told the patient that the prescription is at another store. She says the patient didn't believe her. I asked her why she though the patient would believe me, a tech, over her, a pharmacist. She proceeds to lecture me for five minutes about how I don't know what my job is, all I ever do is stand there and fill. A tech's job is more than filling, sometimes I will have to order things, type prescriptions and ring.

At this point I make the tactical error of engaging with her. I make the point that I told her Drysol was backordered, that I knew this because I had tried to order it at numerous points in the last week for several different customers. Just not this one in particular. I advised her that I was fully aware that I was required to ring and type, both things that I did when there was an actual line. I advised her that I did the outside vendor order three nights a week and that I was not the only one who was supposed to order things from that vendor. We are all supposed to be able to do it. That it was in fact quite simple, much like ordering products online. Because that is exactly what it is. She replied that I was lazy and irresponsible. I told her she was a gigantic pain in my ass.

Not my best moment.

No one likes working with RPhNaz. She will only verify and consult. She will fill if there is a lot of typing. Her idea of covering drop off is to ask when a patient when they want to pick up a prescription, write that time on it and drop it in a pile for the techs to type. She spends the better part of her time while she is verifying talking on the phone in Farsi to what I can only assume are her friends because if a new script or consult comes in she will put them on hold, take the call and then go back to talking to them. She won't refill cells in the ScriptPro but will instead fill it from one of the stock bottles on the shelf. If there isn't a stock bottle on the shelf she will tell the patient we are out even if the cell has tablets and the cell just needs to be shaken to loosen the pills. She once told someone we couldn't fill their prescription because the machine was broken. It was out of labels. This wouldn't be an issue except that, as a tech, I could get fired for refilling cells in the ScriptPro. She is blatantly racist towards Asians. If one of the Asian techs asks her a question RPhNaz will make them repeat it at least once because she "can't understand what the question is." Once she has answered the question she will turn to whichever tech is closest, this is usually me even though we don't like each other, and talk about how stupid the question was and how the Asian tech doesn't know what they are doing.

The pharmacy manager once texted me that she couldn't count on RPhNaz to do anything right

florida80
05-21-2019, 17:37
At my last store there was a pharmacist who had apparently opened the store once upon a time - she's a bit of a workaholic, but after going on convalescence after a surgery and getting a divorce, she had stepped down. The current pharmacy manager is younger than her, much less of a nazi about the rules, and most importantly, a PharmD, whereas said pharmacist is only an RPH with a bachelors. She was the sweetest person to all of the patients, always smiling and making pleasantries and being ridiculously cheerful. She stuck to the rules religiously, to the point where she had us double counting tramadol before it was controlled because "it ought to be" and fioricet because "it's controlled elsewhere." When I first met her, I liked her, she was always nice to me and complimented me because I always did things just so and by the book (I'm kind of anal about my job), but one day I overheard another tech saying that that pharmacist made her want to quit. I didn't get it.

Until one night. I closed with the pharmacist, and when it was late and all the other techs were gone, she proceeded to talk all sorts of shit about our rxm. She talked about how she'd "make deals" with longtime patients to keep their c2's in stock, how she hired shitty techs, how in HER day, the pharmacy was always clean and blah blah blah. She insinuated to me that the rxm was somehow in cahoots with the druggies that frequent the town's pill mill, that she was keeping ludicrous amounts of methadone and oxycodone in the store for no good reason, that she heard her dad used to work for a methadone clinic and that now she was continuing his work in servicing the same clientele. I was trapped with this woman basically trying to tell me my boss was doing things that she could lose her license for, things she should never, ever share with a subordinate.

After that, I noticed more about how she would turn to me and make comments about other techs and how incompetent they were for no good reason.

I ended up telling the rxm about her comments and how uncomfortable she made me. Nothing came of it. The pharmacist is currently working 4 days a week desperately pursuing a master's, because she thinks she's gonna be replaced by a younger PharmD who will work for less. I kinda hope she's right.

florida80
05-21-2019, 17:38
I've been a pharmacist for over 20 years, and worked in pharmacy nearly 30. Oh the things I've seen. I've worked with outright incompetents, but by far the saddest case was my partner at a busy physician owned clinic/pharmacy. She was a sweet lady, but always very...jittery. Her handwriting would progress from legible to downright Parkinsonian over the shift. Hands trembling all the time. Often her eyes were glazed and her mouth agape by noon. A chronic insomniac that needed 20mg Ambien to get a fitful night's rest.

And she was the PIC.

She'd been hired on after getting in trouble at a big chain for stealing meds. She was on probation with the state board and knew that all eyes were on her. I was asked to be her probationary supervisor in a meeting with her, me, and the rxm. It looked like she was turning over a new leaf.

But addiction is one hell of a monkey. So one afternoon I get a call at home from my rxm. I immediately think, oh shit - what did I do? Nope. My lead tech reported that midshift, homegirl straight up made a beeline to the fast movers and popped a few Soma and Vicodin right in front of her. This was last straw time.

My rxm asked if I was willing to work the full 12 hr shift since I was already opening. Sure. She comes in for her afternoon shift and the phone rings. It's our rxm asking her to come to his office. It was so sad to hear her ask in a pathetic voice, "am I in trouble"? Breaks my heart to this day thinking about it.

She was shown the video footage and fired. Ended up losing her license. I worked nearly 2 months open to close, 7 days a week until we found a decent replacement.

At least I'm happy to report that she's still alive and seems to be doing better 4 years down the road. I think about her all the time. I've lost a brother and a wife to pills and booze and suicide. I don't know if she's a Redditor, but if you're reading this, I'm glad you got the help you so desperately needed and I'm rooting for you still.

florida80
05-21-2019, 17:40
Worst tech was a young lad I worked with, he lost scripts but wouldn't ring the doctor to get a new one, ordered the wrong items in but instead of returning them he hid them in various places around the pharmacy. He was a lovely lad, but just so overwhelmed all the time. He was slightly OCD about his hands and would spend 40mins every morning putting plasters on his fingers.

You would come down to grab an item and would get caught up in his mess and spend at least an hour and a half dealing with irate customers.

Worst pharmacist ever was..I just don't know...she was a whirlwind of stress and confusion. She wouldn't do anything, she left a mess of messages and a line of furious customers that made the lunch cover pharmacist cry. Somebody handed a script in for one inhaler and said he would be back in ten minutes.

He came back after one two mins and she made him wait a whole ten minutes. It was sitting on the side for him!! She would question everything, even things that the other pharmacist had checked.

I refused to ever work with her again, my nerves just couldn't take it

florida80
05-21-2019, 17:40
few of my classmates would talk about this super sweet, but very incompetent elderly pharmacist that was known in their WAG chain as 'slow-Joe'. Apparently he was verifying prescriptions when a patient asked to be counseled on a new drug that came through for them, 'Seroquel/Quetiapine 25mg QHS #30 (https://www.vietbf.com/forum/usertag.php?do=list&action=hash&hash=30) , 2 refills'. This was completely new to the patient. Joe walked over to counsel, and began with 'oh I can't remember what this drug is for.. hold on one second...'

A lot of you veteran techs and pharmacists can probably guess where I'm going with this by now...

He returns to his terminal to pull up Lexi-comp where he spends the next five minutes trying to figure out what Seroquel is for. In an epiffany upon finding the indications section he, very loudly proclaims over the heads of the pharmacy staff and patients in line "Ohhhh! It's for your psychosis!" And no, the patient in question did not have psychoses.

florida80
05-21-2019, 17:41
I am a pharmacist at a retail chain that has float pharmacists and float techs. For a while we kept getting this float tech scheduled at our store. She was obese to the point that she could barely walk across the room to help customers. As you can imagine, her customer service skills were pretty low. Its hard to be upbeat and helpful when you can barely breathe. Then she would lean over the counter in one spot and wouldn't move. She was slow, rude, and pissed off customers. I couldn't stand her and had her banned from my store.

florida80
05-21-2019, 17:42
We had a floater a while back, smart guy, very smart, actually invented things on the side and made millions. But man was he also dumb as a rock. No common sense at all. He would verify things so fast that I am sure he didn't actually look at hardcopies at all. He also would not consult. Every question was met with, "Go to Webmd". He couldn't stand still either, always fidgeting like a crack head. I have been a tech for eight years. Luckily most of my pharmacists have been great. But ninety percent of my tech coworkers have no work ethic, or just plain cannot figure out how to do the job efficiently. It is extremely stressful, most days I feel like I'm the only one working. I do 75 percent of the work from 8-4 even though there are three other techs with me. In a 3000 a week store, I'm headed for either a stress leave or heart attack.

florida80
05-21-2019, 17:45
The Pharmacist Calls The Shots

Pharmacy | Perth, WA, Australia | Working | November 7, 2013


(I have numerous health problems, and have to take 10 different prescription medications. Because of the risk of drug interactions, I don’t take as much as a vitamin without running it past a pharmacist. I’m in the pharmacy to buy an over-the-counter drug allergy tablet.)

Me: “Before I get that, I’d like to speak to the pharmacist please.”

Assistant: “The pharmacist is very busy. What’s the problem?”

Me: “I take several prescription drugs. I’d like to make sure this tablet’s not going to cause a bad interaction.”

Assistant: *rolling eyes* “I shouldn’t think it would.”

Me: “I would like to speak to the pharmacist, please.”

Assistant: “The pharmacist is very busy. I’m sure I can answer your questions.”

Me: “I’m concerned about drug interactions and I WOULD LIKE TO SPEAK TO THE PHARMACIST, PLEASE.”

Assistant: “Well, it’s just Lipitor or something, isn’t it? That’s no problem.”

(Instead of answering, I place on the counter the bag I carry my meds in; I bring it to new pharmacies so there’s no possibility of mistaken dosages or anything forgotten. I open the bag and begin to take out my various medications, including the injectible, and the ones plastered with warning labels. The assistant’s eyes get bigger with each new box.)

Assistant: “…I’ll just go get the pharmacist.”

Me: “You do that.”

florida80
05-21-2019, 17:45
Drive Flu

Pharmacy | Austin, TX, USA | Right | October 30, 2013


(I work at a pharmacy that has a drive-thru. We do flu shots and they are in high demand. We have never administered a flu shot at the drive-thru. A customer drives up to the window in her mini-van.)

Me “Good afternoon! What can I help you with today?”

Customer: “I would like to get the flu shot. Can you hurry because I have things to do.”

Me: “I’m very sorry, but you will have to come inside for us to administer the shot. It won’t take more than five minutes.”

Customer: “No! I don’t want to get out of my car. I’m in a hurry; I’m the customer and you have to do what I say, so you have to do it from here!”

Me: “I’m sorry, but it’s against the rules to do it at the drive-thru. I don’t think it would be very sanitary and I wouldn’t even be able to reach you from this window. You will need to come in. I promise it won’t take long.”

(The customer puts her car into gear, so I figure she is coming inside so I close the window and walk away. As I walk away I hear a blaring car horn so I go back to the window.)

Customer: “You have no right to deny me the shot! Are you trying to kill me? What if I get the flu and die? It would be your fault and you will go to jail for MURDER!”

Me: “I’m not denying you the shot, ma’am. Like I said you will have to come inside; it’s the rules. Please move so I can help the other customers.”

Customer: “NO, B****! I WANT THE SHOT RIGHT NOW AND I’M NOT COMING INSIDE! I’M NOT MOVING MY CAR UNTIL YOU HELP ME! WHAT IS WRONG WITH YOU? YOU ARE WASTING MY TIME! I HAVE THINGS TO DO! I AM THE CUSTOMER AND YOU HAVE TO HELP ME! GIVE IT TO ME NOW YOU LAZY B****!”

Me: “No, you need to come inside. We can not administer a shot at a drive-thru window. We have never done it that way. If you come inside I will be able to help you and it will only take minutes. Please move your car so I can help other customers.”

Customer: “NO! I’M NOT MOVING AND YOU BETTER NOT HELP ANYONE ELSE! I WAS HERE FIRST AND I DEMAND YOU GIVE ME THE SHOT FROM HERE! IF YOU DON’T GIVE ME THE SHOT I’M GOING TO HAVE YOU FIRED AND I WILL MAKE SURE YOU NEVER GET ANOTHER JOB IN THIS CITY!”

Me: “For the last time, NO! If you don’t move your car, I’m going to call the police.”

(I start helping the other customers. The customer continues to yell, flips me off and hits the gas. That’s when I hear a loud crash. I look to see that she had put her car in reverse by accident and slammed into the car behind her!)

florida80
05-21-2019, 17:46
No ID, No Idea, Part 13

Pharmacy | Drexel Hill, PA, USA | Right | October 3, 2013


(I have recently been hired at a pharmacy a few towns over from mine. It’s my second day as cashier, when a teen girl comes to my register. I’m 22 and wearing a name tag.)

Customer: “Hi, I’d like a pack of [Brand] cigarettes, please.”

Me: “No problem. I just need to see your ID.”

Customer: “Oh, well it’s at my house and I don’t have time to run back and get it. Can’t you let me go this time?”

Me: “Sorry, it’s not worth my job.”

Customer: “But you know me!”

Me: “I can’t say that I do.”

Customer: “Dude, [My Name], we go to high school together.”

Me: “Oh, really? What high school do you go to?”

Customer: “[Local High School]. We totally have English together.”

Me: “Yeah, no. First of all I went to [Rival High School]. Second, I was in AP English, the scores of which I used to go to [University], which I just graduated from. So, no, I don’t know you. Show me ID or move along.”

Customer: “You suck.”

(She left and asked the next few visibly older customers to buy her cigarettes. No one bought them, and one even threatened to call the cops if she didn’t leave!)

florida80
05-21-2019, 17:51
Let’s Hope This Negative Becomes A Positive

Pharmacy | NY, USA | Working | October 3, 2013


(My sister and her husband are having trouble conceiving. It’s been four long and emotional years for all of us. She forgot to buy pregnancy tests last time she was out, so I offer to get some on my way over to her house. I hand over my items to the cashier.)

Cashier: *picking up pregnancy test with a gleeful smile* “Oooh! Is this a good thing or a bad thing?”

Me: “…what?”

Cashier: “Are you hoping you are or hoping you aren’t?”

Me: “That is a pretty personal question.”

Cashier: “Yeah, but I’m stuck here all day with nothing to do. So I’m thinking you cheated on your boyfriend and hope you aren’t carrying some random guy’s kid!” *huge grin* “Am I right?”

Me: “They’re not for me, but that’s really none of your business.”

Cashier: *offended and hostile* “Y’know, it’s people like YOU who make the world a terrible place! Try being friendly instead of such a b****!”

Me: “Just finish ringing me up, please.”

Cashier: “I HOPE YOUR B****** KID HAS A.D.D.!”

florida80
05-21-2019, 17:52
Doing A Real Job On Doing A Real Job

Pharmacy | NB, Canada | Working | October 3, 2013


(I have just gotten off of a split shift, during my second seven-day work week. My children have joined me for the last part of my second shift to help me out and we are heading home. It’s just after 8:30 pm, and I’ve been at it since 6 am. We go to the pharmacy next to my store to buy some ibuprofen, and I go up to the pharmacy desk to pay since the main cash has a huge lineup of people buying toilet paper and snack foods. After waiting about two minutes the pharmacy technician, who’s been looking at me and sighing deeply, finally comes to serve me.)

Employee: “Are you here to pick up a prescription?”

Me: “No, I’d just like to pay for these.”

Employee: *as she’s scanning my pills* “Okay, well this cash is only for prescription medication purchases. You should really have gone to the main cash.”

(I’ve often seen customers paying for everything from band aids to makeup at this cash without buying prescriptions, as long as they had some sort of medication with them from the pharmacy area where I picked up my pills.)

Me: “Oh, I’m sorry about that. I just assumed that you pay for medicine at the pharmacy counter. I’ll keep that in mind for next time.”

Employee: “Yeah, well we’re really busy you know, and this takes me away from doing all my work. Now it’s going to take me even longer to finish up and get out of here tonight.”

Me: “Again, I’m sorry. I didn’t realize. I work in retail myself, I know how frustrating it is when you’re busy and you have to stop to help a customer or coworker. It can be—”

Employee: “And you know, just because it doesn’t look like we’re doing anything, it doesn’t mean we’re not busy. We have a lot to do here and this is really annoying! You know, people are just leaving us with their prescriptions all the time.”

Me: “Well, that is your job but still I can understand—”

Employee: “When customers like you waste our time like this it’s really annoying. It’s going to take us even longer to finish up now.”

(The pharmacist finally hands me my change. My children are clinging to me nervously and the customers around me are all shuffling around awkwardly, trying not to look our way. I’ve had enough.)

Me: “Look, I’ve literally been working since 6am. I worked seven days in the last week, I have one day off this week, and I’ll be working from home, and then I work another seven days. I am exhausted, and I regularly have to stop what I’m doing to help my customers, coworkers and employees even when they really could have managed without me. I regularly have to work late or start early due to these interruptions, and my job is 90% physical work on the floor doing heavy lifting and going up and down ladders in a dusty stockroom. You are preaching to the choir here lady. And I’ll tell you, I have never spoken to a customer the way you just spoke to me, or made them feel guilty about coming in to shop and making me do my JOB! Thank you and good night.”



1 Thumbs


2,541

VOTES


Share on Facebook

Share on Twitter

Share on Reddit

florida80
05-21-2019, 18:21
5 Loại Rau “Khó Ăn” Nhưng Lại Có Giá Trị Đặc Biệt Cao






Trong số các loại thực phẩm chúng ta ăn hàng ngày, đây là danh sách 5 món ăn dù mùi vị khó ưa nhưng lại rất tốt cho sức khỏe. Nếu bạn biết tận dụng, chúng có thể là bài thuốc quư.





Nhiều món ăn chính là thuốc quư, bạn nên tận dụng hiệu quả

Trong cuộc sống hàng ngày, nhiều người tâm niệm rằng, cái ǵ cũng "có giá của nó". Trong thế giới thực phẩm và rau xanh cũng vậy. Những loại rau "khó ăn" đôi khi lại là nguồn thực phẩm vô cùng quư giá.




Khi nói đến món đậu phụ thối hay sầu riêng, mọi người đều có phản ứng đầu tiên là nó có mùi hôi thối đặc trưng rất khó ăn. Nhưng nếu ai ăn được th́ đều khen "nức nở" rằng nó có vị rất ngon.

Một số loại rau chúng ta ăn trong cuộc sống hàng ngày cũng như vậy, rất khó để ăn, mùi vị khó chịu, tuy nhiên đó có thể là món ăn thực sự rất tốt cho sức khỏe.




Vậy loại rau nào có hương vị khó ăn nhưng lại mang giá trị dinh dưỡng cao? Dưới đây là một vài lời giới thiệu đơn giản của các bác sĩ dinh dưỡng và sức khỏe trên kênh Bác sĩ Gia đ́nh (TQ) sẽ giúp chúng ta hiểu rơ hơn về từng loại rau tuyệt vời đó.









1, Rau cải cúc

Giá trị dinh dưỡng và trị liệu đặc biệt: Pḥng ngừa táo bón

Cải cúc là món ăn có mùi ngai ngái, nhiều người không thích hương vị này nên có thể họ thường không mua về ăn. Tuy nhiên, dưới góc nh́n của các chuyên gia Đông y, cải cúc không chỉ là món ăn, mà c̣n là vị thuốc quư.




Theo Đông y, cải cúc có vị hơi đắng, hàm lượng chất xơ rất phong phú. Mặc dù nhiều người không có cách nào để chấp nhận mùi vị của món ăn này, nhưng lợi ích sức khỏe của nó thực sự là rất nhiều.

Ngoài ra, cải cúc c̣n chứa một lượng khá cao các axit amin, carotene,… có thể nâng cao khả năng hoạt động của sức khỏe tim mạch và làm dịu thần kinh, giảm huyết áp, ngăn ngừa chứng mất trí nhớ.









2, Hành tây

Giá trị dinh dưỡng và trị liệu đặc biệt: tiệt trùng, giảm mỡ máu

Hành tây là thực phẩm rất phổ biến ở nhiều nước trên thế giới, thường được sử dụng để chế biến nhiều món ăn và đặc biệt là dùng để làm gia vị ở Trung Quốc.

Hành tây chứa chất cay, dễ kích thích tuyến lệ khi chúng ta bóc vỏ và sơ chế hành, nhưng nhiều người lại thích ăn sống.




Hành tây có chứa một chất gọi là allyl disulfide, có tác dụng diệt khuẩn rất mạnh. V́ vậy chúng được xem là món ăn có tác dụng diệt khuẩn tuyệt vời trong nhóm thực phẩm hàng ngày. Nếu ăn sống th́ tác dụng này được chứng minh là rất hiệu quả.

Ngoài việc khử trùng, hành tây c̣n có thể giúp làm hạ lipid máu, làm giăn mạch máu, loại bỏ "rác" trong mạch máu và giảm mức cholesterol trong máu.









3, Mướp đắng

Giá trị dinh dưỡng và trị liệu đặc biệt: Tốt cho tim và tăng cường thị lực

Khi nói đến các loại rau có hương vị khó ăn hoặc không ngon, mướp đắng chắc chắn không thể "lọt" khỏi danh sách này v́ mướp đắng rất đắng như cái tên của nó. Tuy nhiên dưới góc nh́n của các chuyên gia, đây lại là loại thực phẩm tốt như thuốc và có giá trị dinh dưỡng không hề thấp.




Mướp đắng rất giàu vitamin và lipoprotein, đây là những chất dinh dưỡng rất hữu ích cho sức khỏe của con người và có thể tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể. Ngoài ra, mướp đắng và các chất bitum trong thành phần chứa vị đắng đó có thể điều chỉnh lượng đường trong máu và hạ huyết áp.









4, Rau mùi

Giá trị dinh dưỡng và trị liệu đặc biệt: Trừ phong giải hàn, chữa cảm lạnh

Rau mùi là một món ăn nhận được sự ưu ái và "ghét bỏ" trái ngược nhau ở 2 nhóm người. Một nhóm vô cùng yêu thích hương vị thơm đặc trưng này, nhưng nhóm c̣n lại lại không thể ăn được món rau có mùi đậm đặc như vậy.

Những người thích rau mùi sẽ cảm thấy loại rau gia vị này giống như sầu riêng, mặc dù mùi vị rất khó chịu, nhưng ăn vào lại rất ngon.

C̣n những người không thích th́ nghĩ rằng tốt nhất nên đổi tên thành "rau mùi hôi" để c̣n biết mà tránh nó.




Theo quan niệm Đông y, rau mùi có tính ấm, vị cay và đi vào phổi và lá lách sau khi ăn. V́ vậy, loại rau gia vị này có hiệu quả trong việc kích thích lá lách và điều trung ích khí, loại bỏ tiêu chảy, có tác dụng tốt trong việc điều trị táo bón, khó tiêu, khẩu vị kém, chán ăn, cảm lạnh, đau đầu, đau răng…









5, Rau diếp cá

Giá trị dinh dưỡng và trị liệu đặc biệt: Thanh nhiệt, giải độc, giảm sốt

Rau diếp cá có thể xem là "đại diện" cho nhóm những món ăn có mùi vị khó ưa, khó nuốt đối với nhiều người. Không phải ai cũng ăn được rau diếp cá v́ cái mùi tanh tanh, ngai ngái của nó.

Rau gia vị này được sử dụng phổ biến hơn trong các món ăn sống, ăn lạnh, và hương vị của nó được nhiều người nhận xét là thực sự rất tệ.




Tuy nhiên, nhóm người yêu thích món ăn này lại không đồng quan điểm đó. Nếu bạn đă thích ăn th́ rau diếp cá chính là một món ăn ngon.

Theo quan niệm Đông y, rau diếp cá có nhiều chức năng tốt cho sức khỏe, giống như một vị thuốc có thể giúp thanh nhiệt, giải độc, tiêu sưng, lợi tiểu, loại bỏ đờm và giảm ho, đồng thời có thể giảm đau và long đờm rất hiệu nghiệm.









Có thể nói, khẩu vị ăn uống của chúng ta là rất đa dạng, mỗi người mỗi vẻ. Cùng là một món ăn, nhưng mỗi người lại có cảm nhận khác nhau. Tuy nhiên, giá trị dinh dưỡng và trị liệu của chúng là không hề nhỏ. Chúng ta hăy nên tận dụng "món quà" dinh dưỡng này từ thiên nhiên.




*Theo BS Gia đ́nh (TQ)

Theo Trí Thức Trẻ



at 2:09 PM

florida80
05-21-2019, 18:22
Ngủ Trưa: Lợi Và Hại - BS Hồ Ngọc Minh






Rất nhiều quốc gia trên thế giới mà dân chúng có thói quen ngủ trưa. (H́nh minh họa: Getty Images)




“Nắng chia nửa băi chiều rồi

Vườn hoang trinh nữ khép đôi lá rầu

Sợi buồn con nhện giăng mau

Em ơi hăy ngủ anh hầu quạt đây.” (Huy Cận)

Rất nhiều quốc gia trên thế giới mà dân chúng có thói quen ngủ trưa. Theo ước tính, có trên 51% dân số địa cầu thường xuyên ngủ trưa, nhất là các xứ ở châu Âu. Khoảng hai thế kỷ trước, người Âu Châu vẫn c̣n ngủ ba giấc mỗi ngày. Thời đó, ban đêm có khi người ta thức giấc khoảng 2 giờ sáng, làm việc nhà, rồi đi ngủ trở lại, và cho là thói quen b́nh thường.




Có một lần vợ chồng chúng tôi đi chơi ở Tây Ban Nha, giữa trưa tự dưng phố phường vắng ngắt, các cửa tiệm đều đóng cửa, muốn mua sắm ít đồ, phải chờ đến hai giờ chiều. Thoạt đầu, tôi cho là lạ, nhưng chợt nhớ lại ngày xưa c̣n bé, tôi và các anh chị cũng về nhà buổi trưa để ăn trưa và “bị” má tôi bắt lên giường ngủ trưa trước khi đi học lại buổi chiều. C̣n ba tôi, giấc ngủ trưa là điều không thể thiếu.




Ở Mỹ lại khác, người ta cho chuyện ngủ trưa là điều phí phạm, giảm mất năng suất làm việc, và có đôi khi, bị đồng nghĩa với sự lười biếng. Gần đây, một số hăng xưởng hay công sở lại cho phép công nhân viên được “nghỉ trưa” một giờ, muốn tranh thủ để ngủ chút đỉnh cũng được. Tuy nhiên, theo thăm ḍ, đa số những người trẻ tuổi vẫn không thích ngủ trưa.




Thế th́, nên hay không nên ngủ trưa?

Thông thường vào buổi trưa, chiếc đồng hồ điều khiển sự tuần hoàn của cơ thể sẽ đi chậm lại, làm giảm mức độ tỉnh táo, đó là tại sao cơn buồn ngủ thường hay kéo đến sau khi ăn trưa, nhất là khi không được ngủ ngon giấc vào buổi tối hôm trước.




Ngủ đầy đủ, từ 7 đến 9 tiếng mỗi ngày là yếu tố cần thiết cho sự hoạt động b́nh thường của cơ thể. Rất nhiều người bị t́nh trạng thiếu ngủ kinh niên do nề nếp sống không tốt, hay bị stress thường xuyên. Thiếu ngủ lại gây ra thêm stress. Thiếu ngủ có hại đến sức khoẻ thể chất cũng như tâm thần. Người thiếu ngủ dễ bị các chứng bệnh về tim mạch, tiểu đường, béo ph́, cao huyết áp, giảm trí nhớ, thiếu sáng suốt, và kể cả bệnh tâm thần như phiền muộn, kinh hăi vô cớ.




Ngủ trưa có ích lợi cho nhiều người. Bằng cách bổ sung cho sự thiếu ngủ, sẽ làm tăng hiệu năng làm việc do sự tỉnh táo, tăng độ chính xác của phản xạ, tăng độ bén nhạy của hệ thần kinh, trí trớ, tư duy và dĩ nhiên làm cho tính t́nh, tâm tư dễ chịu hơn. Ngủ trưa cũng giúp hệ thống đề kháng, miễn nhiễm, chống lại bệnh tật linh tinh. Ngủ đầy đủ cũng giảm tai nạn nghề nghiệp cũng như tai nạn xe cộ.




Ngủ trưa cũng có lợi khi mà cơ thể không được khỏe, như bị cảm cúm, mỏi mệt chẳng hạn. Người già hay người có giờ giấc làm việc bất thường cần đến giấc ngủ trưa. Giấc ngủ là phương cách hồi sức chống lại sự mệt mỏi tốt nhất. V́ thế nếu thấy cần ngủ th́ cứ ngủ. Ngược lại, nếu không thấy mệt, th́ giấc ngủ trưa không phải là điều luôn luôn phải có trong đời sống b́nh thường.




Có hai tác động không tốt do việc ngủ trưa quá nhiều:

Thứ nhất, ngủ trưa làm giảm bớt sự đ̣i hỏi và động cơ của việc “thèm ngủ”. Điều nầy tốt nếu cần lấy lại sự tỉnh táo, quân b́nh trong ngày, nhưng sẽ trở thành vấn nạn nếu giấc ngủ trễ, sẽ làm ảnh hưởng đến giấc ngủ ban đêm, do đó sẽ tạo thành một ṿng tṛn lẩn quẩn của bệnh thiếu ngủ. Thứ nh́, nếu giấc ngủ quá dài sẽ làm cho cơ thể cảm thấy lừ đừ, như bị say rượu khi mới thức dậy.




Ngoài ra, nếu ngủ trưa để bù đắp lại cho giấc ngủ tối v́ bệnh mất ngủ lại là một điều đáng quan tâm, cần phải chữa trị. Một người có sức khỏe b́nh thường, có thể ngủ “trọn gói” đầy đủ trong một đêm, và không cần phải tranh thủ ngủ bù vào giấc trưa. Một số bằng chứng khoa học cho thấy, nếu thường xuyên cần phải ngủ trưa trên một giờ mỗi ngày, có ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe.




Tóm lại, nếu buồn ngủ và điều kiện cho phép, th́ cứ ngủ để chống lại sự mỏi mệt. Ví dụ như cuối tuần, ngày lễ nghỉ chẳng hạn. Nguyên tắc là không nên ngủ quá 30 phút, và không nên ngủ quá trễ vào buổi xế chiều, để tránh ảnh hưởng đến giấc ngủ ban đêm.


Riêng những ai thích uống cà phê, có một phương cách kết hợp cà phê với giấc ngủ trưa để tăng cường sự tỉnh táo của cơ thể.






Kết hợp cà phê với giấc ngủ trưa để tăng cường sự tỉnh táo của cơ thể. (H́nh minh họa: Getty Images)




Thoạt nghe, có vẻ không hợp lư, v́ cà phê làm cho khó ngủ. Thật ra không phải như vậy. Nguyên tắc là chỉ uống một chút cà phê trước khi đi ngủ trưa, loại cà phê Mỹ chứ không phải nguyên ly cà phê sữa đá của Việt Nam! Một tí cà phê không làm cản trở cơn buồn ngủ, và sẽ tốn khoảng 30 phút để thấm vào máu, đạt nồng độ cao nhất trong năo bộ. Vào thời điểm 30 phút nầy, cà phê sẽ làm cho ta thức giấc và tỉnh táo hơn, không bị lừ đừ, so với người không uống cà phê.




Nếu có ai đó đi ngủ trưa chung với ḿnh th́ lại càng hạnh phúc hơn!

“Ḷng anh mơ với quạt này,

trăm con chim mộng về bay đầu giường.

Ngủ đi em mộng b́nh thường,

ngủ đi em mộng b́nh thường.

Ru em sẵn tiếng, thùy dương đôi bờ.


Ngủ đi em, ngủ đi em.” (Huy Cận)




BS Hồ Ngọc Minh

nguoi-viet.com

florida80
05-21-2019, 18:23
Bệnh Parkinson’s Disease (PD): Nguyên Nhân, Triệu Chứng Và Cách Điều Trị - Nguyễn Minh Tâm









Kính thưa quí ông bà, cùng các anh chị,

Tôi là người mắc bệnh Parkinson Disease (PD) suốt 14 năm qua. Tôi như người vừa trở về từ cơi chết. Từ t́nh trạng bi đát tuyệt vọng nhất, tôi trở nên hy vọng, vui vẻ sống những ngày tháng sắp tới cuộc đời ḿnh. Nhờ kỹ thuật tân tiến của y khoa hiện đại, tôi nay phục hồi được khoảng 75% sức lực vẫn có. Chỉ vài ngày sau cuộc giải phẩu kéo dài 6 tiếng đồng hồ tại bệnh viện Westmead Private Hospital ở NSW, Australia, bạn bè người thân và những người mới quen biết đến thăm tôi đều rất đỗi ngạc nhiên về thành quả tôi đạt được. Có người c̣n nói rằng: ”Thật đúng là phép lạ!” Bản thân tôi, có phép lạ hay không, tôi cũng không biết. Điều mà riêng tôi cảm nhận được một cách rơ ràng, đó là sư nhẹ nhàng thoải mái, không c̣n thấy các triệu chứng hoặc dấu hiệu của căn bệnh PD này nữa. Trước khi giải phẩu, tôi như mang khối đá ngàn cân trên người. Thân ḿnh đi đứng xiêu vẹo, cổ và hai vai đau nhức khinh khủng lắm. Tim hồi hộp, khó thở. Tất cả, nay đột nhiên được tháo gỡ, thật vui mừng tuyệt diệu! Mọi người thấy tôi nhanh nhẹn và tươi tĩnh hơn xưa rất nhiều.




Bằng vào bài viết này, tôi xin chia sẻ cùng tất cả quí ông bà, và các anh chị đă và đang chịu nhiều khổ đau v́ bệnh này. Tôi chỉ là bệnh nhân, không phải một bác sĩ y khoa, nên sự hiểu biết của tôi c̣n quá ít ỏi, nông cạn, thiếu sót. Đó là điều chắc chắn. Tôi chẳng muốn khuyên bảo, cũng không muốn chỉ dẫn nào cho ai cả. Mỗi bệnh nhân đều có những triệu chứng khác nhau, những phản ứng khác nhau, tùy cơ thể, tuổi tác, sức vóc… Mọi quyết định phải do bác sĩ của quí vị đề ra thôi.




PHẦN 1: TỔNG QUÁT VỀ BỆNH PARKINSON’S DISEASE (tiếng Anh gọi tắt là PD)

Theo tài liệu của Hiệp hội Y sĩ Úc Châu (The Australian Medical Asociation – AMA), th́ Parkinson’s Disease là chứng bệnh nan y, chưa có thuốc nào chữa lành hẵn. Nguyên nhân chính xác nhất về bệnh này vẫn chưa t́m ra. Nam nhân hay nữ giới cũng đều có thể mắc phải bệnh này. Đây là một căn bệnh về thể chất phát xuất từ năo bộ mà ra. Nó không do sự âu lo, dồn nén tinh thần, hoặc do khủng hoảng trong gia đ́nh tạo nên… Bệnh Parkinson’s Disease này do sự thoái hoá tế bào thần kinh sắc tố (pigmented nerve cells) trong năo tạo ra. Bệnh thường xảy ra trong lứa tuổi từ 50 trở lên. Cũng có nhiều trường hợp xảy đến với người trẻ hơn 50 và thường kéo dài nhiều năm tháng và phát triển ngày càng nặng. Ở giai đoạn cuối, bệnh nhân bị co cứng, run rẩy, bị mất thăng bằng nặng và dễ bị té ngă… cuối cùng, phải đi xe lăn hoặc nằm yên trên giường, trở ḿnh rất khó…


Bệnh Parkinson’s Disease thường cho ra những dấu hiệu hoặc triệu chứng sau đây:


– Động tác rất chậm chạp.

– Cứng đơ bắp thịt và khớp xương, tay chân nặng nề, co cứng, khó cử động.

– Tay run, chân có khi cũng bị run, nhất là khi nghỉ ngơi trong tư thế nằm. Do đó, rất khó ngủ.

– Mất thăng bằng cơ thể. Dáng người xiêu vẹo, cổ và thân ḿnh như cong gập xuống, hai tay không thể đánh “đồng xa” một cách tự nhiên khi chân bước đi (như khi đi bộ).

– Tay chân vận động không theo ư muốn (chứng loạn tác động: Dyskinesia), bệnh nhân thường bước những bước ngắn.


PD làm rút ngắn sự sống ở bất cứ mức độ nặng nhẹ nào. Thời kỳ nặng ở, th́ sự run rẩy, chậm chạp và cứng đơ cơ bắp cũng khớp xương ảnh hưởng trầm trọng lên cả hai bên tay chân và cả thân ḿnh nữa. Phát âm, th́ chỉ phát những tiếng yếu ớt, ngọng nghịu, lắp bắp, không rơ ràng. Ngay cách diễn đạt tư tưởng cũng rất khó khăn. Cả thân ḿnh như cứng đơ, co rúm hay vặn vẹo một cách không b́nh thường. Bệnh nhân bước những bước ngắn và có thể té ngă bất cứ lúc nào.

– Giao động khi lên khi xuống của bệnh nhân: Bệnh nhân, sau khi uống thuốc chữa bệnh này, thường th́ sau 20 phút hoặc nửa giờ, khi thuốc đă ngấm, mới cảm thấy dễ chịu: đi đứng tự nhiên hơn, nói năng cũng không đến nổi lắp bắp, ngọng nghịu, thấy trong người khỏe hơn. Đó là thời gian ở vào lúc “LÊN”. Đến khi chất thuốc trong người hạ xuống thấp, th́ các triệu chứng trên trở nên: chậm chạp, co cứng, ngọng nghịu… Đó là thời gian “XUỐNG”… Giao động lên xuống xảy ra liên tục như vậy trong ngày, nên bệnh nhân thấy rất mệt, tim đập th́nh thịch, rất hồi hộp.

– BỊ TÁO BÓN: Táo bón hầu như là người bạn đồng hành luôn gắn bó với bệnh nhân PD.




AI LÀ NGƯỜI CÓ THỂ BỊ BỆNH PARKINSON’S DISEASE?

PD có thể xảy đến với tất cả mọi người, ở bất cứ tầng lớp, màu da, hoặc chủng tộc nào. Nó xảy ra trên khắp thế giới. Bệnh t́nh sẽ tăng trưởng tuỳ theo thời gian và tuổi tác. Tuy nhiên, già nua không phải là lư do gây nên bệnh. Nói chung, th́ những người như thế chỉ có tỉ lệ một phần ngàn (1/1000) bị bệnh mà thôi. Nhưng, ở lứa tuổi 70–80, th́ tỉ lệ cao hơn: lên khoảng 10 %. Rất nhiều người già bị ảnh hưởng nhẹ về bệnh này và rất dễ nhận biết. Đàn bà hoặc đàn ông đều có thể mắc bệnh này như nhau. Tuy nhiên PD không phải là bệnh di truyền.

ĐỪNG QUÁ LO LẮNG

Nếu những điều trên làm quí vị lo lắng, th́ xin nhớ rằng: suốt nhiều năm tháng, căn bệnh ở t́nh trạng nhẹ; và vào thời kỳ này, bệnh nhân có thể sinh hoạt một cách b́nh thường trong gia đ́nh và có thể làm việc để mưu sinh như mọi lúc. Hơn nữa, PD trong hiện tại, chưa có cách nào có thể chữa dứt được hết. Tuy nhiên, nhiều hiện tượng, triệu chứng của PD có thể kềm chế được bằng các phương pháp điều trị thích hợp.




PD ĐƯỢC CHẨN ĐOÁN NHƯ THẾ NÀO?

Hầu hết, chúng ta không làm sao biết được rằng ḿnh đă mắc bệnh Parkinson’s Disease, bỡi v́ có những triệu chứng, những hiện tượng xảy ra gần giống như PD, nhưng không phải là bệnh này. Ví dụ như: bệnh Alzeimer, bệnh có bướu trong năo, tai biến mạch máu năo, bệnh tâm thần phân liệt (Schizophrenia)… Phân biệt để nhận ra những bệnh tương tự như bệnh PD là một điều rất hệ trọng, v́ phương pháp chữa trị có thể khác hẵn nhau. Ví dụ như: các loại thuốc chữa bệnh thần kinh như bệnh tâm thần phân liệt (schizophrenia), hoặc các bệnh tâm thần khác có thể làm tắc nghẽn luu thông chất dopamine trong năo, gây ra triệu chứng giống như bệnh PD.




Tốt hơn hết là quí vị nên hỏi ư kiến bác sĩ gia đ́nh hoặc bác sĩ cố vấn xem có phải các thứ thuốc mà các vị này cho uống làm phát sinh những triệu chứng như PD không? Những thuốc này có thể làm quí vị buồn nôn, ói mửa, chóng mặt. Trong t́nh trạng đó, các hiện tượng giống như PD không phát triển thêm lên, nếu việc điều trị này không kéo dài lâu hơn một tháng. Bác sĩ sẽ cho ngưng các loại thuốc đó và các triệu chứng trên sẽ từ từ mất đi, hoặc có thể kéo dài nhiều tháng.

Tùy nguyên nhân, hiện tượng của quí vị mà bác sĩ có thể chẩn đoán bệnh PD đă bắt đầu xuất hiện. Khi ấy, việc điều trị phải bắt đầu càng sớm càng tốt.




PD ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ NHƯ THẾ NÀO?

Việc điều trị bệnh Parkinson’s Disease được căn cứ trên sự thay thế các hóa chất trong năo bị hao hụt, hay giảm sút. Hóa chất chính làm phát sinh căn bệnh này do có thiếu hụt, là chất Dopamine. Chất này giảm từ từ trong năo từ nhiều năm, trước khi những hiện tượng của PD bắt đầu nhận thấy rơ. Lượng phỏng định của Dopamine mất đi là 80% trước khi các dấu hiệu kia xuất hiện.




Dopamine được t́m thấy trong nhóm tế bào thần kinh ở đáy năo, gọi là hạch thần kinh bạch huyết (basal ganglia). Bệnh nhân được điều trị bằng loại thuốc có tên là Levodopa để thay thế lượng dopamine bị mất đi. Bác sĩ cũng có thể cho toa những loại thuốc khác để chữa bệnh này.




Với các bệnh nhân PD, phương pháp vật lư trị liệu, ăn kiêng, phương pháp giúp phát âm tiếng nói… cũng rất là hữu ích. Tuy nhiên, những phương pháp này chỉ là phụ thuộc mà thôi.

Mục tiêu điều trị, là để giữ cho sinh hoạt của bệnh nhân được b́nh thường và giúp bệnh nhân có cuộc sống càng tự nhiên càng tốt.




AI LÀ NGƯỜI TRỊ BỆNH PD

Nên nhớ, PD là căn bệnh rất phức tạp và nguy hiểm cho bệnh nhân kéo dài qua nhiều năm tháng. Do đó, không chỉ mỗi bác sĩ, mà cả người nhà, hoặc những người thường xuyên chăm sóc cho bệnh nhân, hoặc những người sử dụng các phương pháp trị liệu nào khác… tất cả cần nổ lực như nhau. Và chính bệnh nhân cũng cần rất nhiều nghị lực. Các hiệp hội Parkinson’s Asociations thường có nhiều tài liệu, nhiều khóa hướng dẫn đặc biệt cho người nhà hoặc người chăm sóc cho người bệnh PD. Nếu bất cẩn hoặc sơ ư, có thể khiến bệnh nhân té ngă hoặc có những rủi ro khác.




Bác sĩ gia đ́nh là người đầu tiên chẩn đoán phát giác ra bệnh và có trách nhiệm trong việc điều hành t́nh trạng của bệnh nhân, nên công việc của vị này bao gồm việc chẩn đoán, giải thích, cho toa và có thể gởi bệnh nhân đi vật lư trị liệu, hoặc phương pháp điều trị nào khác. Sau đó, bác sĩ gia đ́nh có thể gởi quí vị đến bác sĩ cố vấn, bác sĩ chuyên khoa khác, tốt nhất là bác sĩ chuyên về thần kinh, cũng có thể là bác sĩ tổng quát hoặc y sĩ nào khác chuyên chữa cho bệnh nhân cao niên.




Sau khi khám bệnh, bác sĩ hay y sĩ này sẽ viết thư thông báo cho bác sĩ gia đ́nh, xác định sự chẩn đoán và khuyên bác sĩ gia đ́nh nên điều trị như thế nào. Một khi việc chẩn đoán được xác định và bắt đầu đi vào điều trị, th́ bác sĩ gia đ́nh của quư vị sẽ tiếp tục làm như thế. Khi thấy chuyện bất thường xảy ra, bệnh nhân sẽ được gởi trở lại cho bác sĩ chuyên khoa chăm sóc.




Tùy trường hợp nặng/nhẹ, bác sĩ có thể cho thuốc chữa trị khác nhau, từng giai đoạn một. Ở mỗi giai đoạn, các loại thuốc trên có liều lượng khác nhau, như Sinemet 100/25 100, Sinemet CR 200/50 100, hoặc Madopar rapid 62.5, long-acting Madopar… Tùy hăng thuốc, cùng một chất thuốc, nhưng tên gọi khác nhau như: Sinemet do hăng khác làm lại có tên khác nhau. Ví dụ Kinson 100/25 100 cũng giống như Sinemet 100/25 mà thôi… Vấn đề này,xin quí vị hỏi bác sĩ của quí vị th́ rơ hơn…


– Khi mọi loại thuốc mà bác sĩ đă cho quí vị dùng đều bị lờn hết rồi, và những loại khác mà cơ thể của quí vị không dung nạp được, th́ có thể quí vị sẽ được cho một loại thuốc tự chích chung quanh rốn (như những người bị tiểu đường nặng chích insulin vậy). Đó là Apomorphine injections (Chú ư : Apomorphine không liên hệ ǵ đến morphine).


– Với y khoa hiện đại, giải phẩu thần kinh (neurosurgery) giúp cho bệnh nhân có thể hồi phục được đến 70% hoặc 75%. Tuy nhiên, không phải bệnh nhân nào cũng có thể được giải phẩu, mà tùy theo sức khỏe, tuổi tác hoặc t́nh trạng thích nghi của cơ thể nữa. Thông thường, tuổi từ 70 trở lên, bác sĩ phải xem xét lại rất kỹ, và những người bị máu loăng cũng rất khó được giải phẩu. Việc giải phẩu này như thế nào, xin quí vị xem ở cuối phần 2 sau đây.




PHẦN 2: BỆNH PARKINSON DISEASE (PD) VÀ TÔI

Bệnh Parkinson’s của tôi xuất hiện từ năm 1997, đến nay đă 14 năm! Trong thời gian này, nhất là những năm sau cùng, có những lúc tưởng chừng tôi không chịu đựng nổi nữa, muốn buông xuôi tất cả!




Giai đoạn đầu, tôi chỉ thấy vai và tay trái tôi mỏi sơ sơ thôi. Vài tháng sau, vai tay trái tôi mỏi hơn, nhưng không có cảm giác đau. Bác sĩ gia đ́nh gởi tôi đến một bác sĩ chuyên khoa ở Fairfield, NSW Úc. Vị bác sĩ này cho tôi làm nhiều xét nghiệm, kể cả chụp X-Ray, CT Scan và MRI Scan nữa. Vẫn không t́m ra bệnh. Tôi quay sang thuốc bắc và châm cứu, bệnh vẫn không thuyên giảm. Tôi chán nản không đến bác sĩ nữa, cũng ngưng thuốc Bắc luôn, khoảng hai năm. Măi cho đến năm 2000, khi vai và tay trái vừa mỏi, vừa đau nữa (đau trong xương chứ không phải bên ngoài), cũng không phải do tại khớp. Bác sĩ gia đ́nh Trương Tuấn ở Bankstown NSW gởi tôi đến bác sĩ chuyên khoa thần kinh (neurologist) là bác sĩ McKenzie. Sau khi chẩn đoán, bác sĩ Mckenzie đă quả quyết rằng tôi bị bệnh Parkinson trong thời kỳ nhẹ. Bác sĩ cho thuốc uống. Tôi không c̣n nhớ tên thuốc là ǵ, nhưng khi uống vào, cơ thể tôi không dung nạp được nên bị phản ứng dữ dội: Ói mửa, chóng mặt, mất ngủ… Thay bao nhiêu lần thuốc, tôi cũng đều bị phản ứng hết, có khi mất ăn luôn. Mỗi ngày cố gắng lắm cũng chỉ ăn được nửa chén cơm thôi. Đến thời gian này, bác sĩ gia đ́nh Trương Tuấn mới cho biết là cơ thể tôi rất nhạy cảm đối với bất cứ loại thuốc mới nào. Từ đó, mỗi lần đổi thuốc mới là mỗi lần bị phản ứng, nên tôi rất sợ đổi thuốc. Sợ, nhưng cũng phải uống v́ đang bị bệnh! Bệnh ngày càng nặng và thêm một hiện tượng nữa, là tay trái tôi bị run. Bệnh run tay này, phát triển nhanh cho đến nỗi tôi nghĩ rằng: có lẽ tôi không thể lái xe được nữa, đó là năm 2002.




Tôi rất chán nản, v́ uống thuốc nào cũng không xong, mà bệnh PD càng ngày càng nặng. Tôi lại nhận thấy động tác tay chân đă trở nên chậm và ngày càng chậm chạp thêm.




Tháng ba năm 2002, một số bạn bè và tôi nghe đồn rằng có một bác sĩ người Nga ở vùng Burwood NSW, rất giỏi. Ba bốn anh em chúng tôi rủ nhau đến ông ấy. Chúng tôi phải đến thật sớm lúc 6 giờ sáng, xếp hàng và bốc số thứ tự. Dù ḿnh có là người đầu tiên, bốc số 1, cũng phải chờ măi đến 2-3 giờ chiều mới gặp được bác sĩ, v́ ông ấy phải khám cho những người đă hẹn mấy hôm trước. Tôi rất mừng v́ ông cho đúng thuốc tôi uống và không bị phản ứng, Sinemet 100/25 100, mỗi ngày chỉ uống 1 viên mà thôi. Tôi thấy trong người khỏe hơn, ít run hơn, ít bị co cứng hơn… Tuy vậy, chỉ được vài hôm, đâu lại vào đấy. Run tay, đau mỏi vai tay, chậm chạp… trở lại và ngày càng nặng hơn. Tôi trở lại với vị bác sĩ này và nhất định ông không cho tăng lượng Sinemet lên, chỉ một viên mỗi ngày mà thôi. Dĩ nhiên, thưa quí vị, tôi lại phải rời bỏ vị bác sĩ này. Đến đây, tôi mới biết rằng: Một bác sĩ giỏi vẫn không phải là người có khả năng chữa lành mọi thứ bệnh. Dù xa rời bác sĩ này, tôi vẫn công nhận rằng ông là một bác sĩ giỏi, mặc dù ông không chữa lành bệnh Parkinson cho tôi.




Cuối năm 2002, t́nh cờ thấy trên một tạp chí Anh ngữ (tôi không c̣n nhớ tên) tại pḥng bác sĩ gia đ́nh, lúc ngồi đợi, tôi đă đọc và biết được địa chỉ của Hiệp hội Parkinson của NSW tại bệnh viện Concord, NSW Úc. Về nhà, tôi gọi điện thoại ngay cho họ và có được cuộc hẹn gặp vị bác sĩ cố vấn chuyên khoa, ngay vào ngày hôm sau. Sau 30 phút trao đổi, tôi được vị này gọi cho Parkinsons Clinic của bệnh viện Concord, NSW này. Cuộc hẹn đầu tiên, vị cố vấn nói lại, cần sự có mặt của tôi trong 4 tiếng đồng hồ. Họ dặn đây là bữa hẹn rất quan trọng cho tôi, đừng đến trễ.


Khi đến đó lần đầu, sau khi làm thủ tục ban đầu, tôi phải gặp pḥng vật lư trị liệu 1 tiếng đồng hồ, pḥng cố vấn về vấn đề ăn kiêng 1 tiếng, pḥng hướng dẫn về phát âm tiếng nói một tiếng đồng hồ nữa. Và cuối cùng, tôi đă gặp được một bác sĩ chuyên khoa thần kinh và cũng là một giáo sư dạy y khoa, Dr/Pr Alastair Corbett. Tôi rất kính mến vị này, v́ ngay từ lần gặp gỡ đầu, ông đă tỏ ra quá tận tâm và thương bệnh nhân đích thực. Tất cả mọi việc trên, tôi không phải trả một đồng nào cả. (Hiệp hội Parkinson là hội từ thiện, bác sĩ chỉ được trả bằng medicare). Bác sĩ này cho tôi uống Sinemet 100/25, ngày 3 viên. Sau hơn một năm, tôi vẫn giữ liều lượng như vậy. Cho đến khi thuốc này giảm hiệu lực, bác sĩ cho thêm 1 viên Sinemet CR 200/50 nữa mỗi ngày (CR: Control Release) Thời gian này, tôi rất là mệt. Giao động lên/xuống như đă nói ở trên liên tục xảy ra. Mọi hiện tượng Parkinson cứ tăng dần lên măi mặc dù rất chậm trong thời gian uống 3 viên Sinemet 100/25 vào sáng, trưa, chiều và buổi tối thêm 1 viên Sinemet CR 200/50. Cho đến giữa năm 2006 th́ lượng thuốc Sinemet CR tăng lên 3 viên một ngày (tức 3 viên Sinemet 100/25 + 3 viên CR 200/50. Đền đây tôi nhận ra rằng bệnh “run” hầu như biến mất, nhưng chứng cứng đơ bắp thịt tay, chân và những hiện tượng khác lại gia tăng. Vào cuối năm 2008, th́ Sinemet không c̣n công hiệu nữa. Bác sĩ lại thay bằng Stalevo liều mạnh: Stalevo 150. Ba tiếng đồng hồ uống một lần, rồi 2 tiếng. Như vậy, tôi phải uống 7 đến 8 viên mỗi ngày. Thuốc Stalevo 150, ngày nào cũng uống 7, 8 lần, bụng tôi bị nóng như thiêu như đốt, bị táo bón rất nặng, mặc dù có uống kèm thuốc bao tử để giảm chất axit quá nhiều. Tôi đă phải vào bệnh viện Concord 3 ngày để bác sĩ theo dơi và đổi thuốc. Tất cả mọi thứ thuốc tôi dùng qua, đều bị lờn hết. Cuối cùng, bác sĩ cho tôi thử thuốc chích vào quanh rốn morphine. Sau khi chích Apomorphine, tôi ói mửa, chóng mặt và hầu như kiệt sức. Cho nên bắt buộc phải ngưng Apomorphine injections. Bác sĩ cho tôi dùng lại Stalevo 150, cứ 2 tiếng đồng hồ uống một lần. Như vậy, giao động lên/xuống cứ xảy ra 2 tiếng đồng hồ một lần!

Các loại thuốc trị bệnh PD mà bác sĩ đă cho tôi uống rất là nhiều thứ, nhiều tên, nên tôi không nhớ hết được, v́ sau khi bị phản ứng, tôi phải xin đổi ngay thuốc khác. Thường là, tôi chỉ nhớ những tên thuốc mà tôi đă dùng lâu dài mà thôi.




Bác sĩ Alastair Corbett chăm sóc tôi tận t́nh cho đến đầu năm 2010. Đúng vào thời gian này, tôi đọc được trên Internet phương pháp mới của nền y khoa tân tiến về cách điều trị bệnh PD bằng phẩu thuật đặc biệt gọi là DEEP BRAIN STIMULATION (DBS), và được một người chị Việt Nam quen biết do bạn tôi là Lê Hữu Phúc giới thiệu. Chồng của chị cũng bị bệnh Parkinson ở thời kỳ nặng, giọng nói rất yếu ớt và đang chờ giải phẩu DBS. Chị đề nghị tôi vào bảo hiểm trước và xin bác sĩ thần kinh của tôi giới thiệu để được giải phẩu DBS tại bệnh viện PA Brisbane, Queensland.




Sau khi t́m hiểu, tôi biết rằng ở tiểu bang nào của Australia cũng có clinic điều trị DBS nầy, nên tôi đă nhờ bác sĩ thần kinh của tôi giới thiệu đến bác sĩ giải phẩu thần kinh. Bác sĩ này nói rằng phải chờ tối thiểu là một năm kể từ ngày vào bảo hiểm th́ công ty bảo hiểm mới bao gộp chi phí bệnh viện cho tôi, nếu không, tiền bạc tôi phải trả tất cả cho cuộc giải phẩu này cao lắm. Do đó, ngày 28/01/2011 tôi đă được giải phẩu DBS. Bảo hiểm trả tất cả mọi chi phí, kể cả tiền chiếc máy Neurostimulator lên đến $33,000.00 Úc kim.




PHẨU THUẬT DEEP BRAIN STIMULATION (DBS)

Tổng quát về phẩu thuật này, để cho trung thực hơn, tôi xin trích nguyên văn tiếng Anh như sau từ trên internet:


MEDIA RELEASE


Queensland Government – Queensland Health – 21st April 2009

PA Hospital rewiring the brain



Princess Alexandra Hospital is rewiring the brain to help patients who endure tremors and shakes 24 hours/seven days a week from neurological problems.Guided by new developments in technology, the neurosurgery team are now able to target the part of the brain that cause a tremor impulse and stimulate it with a wired electrical signal that is implanted into the patient’s brain.


Patients with Parkinson’s Disease, Cervical Dystonia (Spasm of the head and neck) and essential tremors have all benefited from the implantation of the electrical device to their brain.

Neurosurgeon Dr Sarah Olson, who performs Deep Brain Stimulation operations said the procedure was made possible through a combination of CAT scan, MRI’s and a computer navigation system which is a recent addition to neurosurgery at PAH (Princess Alexandra Hospital).



“We do these types of operations for patients with Parkinson’s Disease and other movement disorders which cause tremors of the limbs,abnormal movements or stiffness, which has not responded to medication”, Dr Olson said.


“It is imperative that the ‘electrical stimulation’ is put in the exact location for each particular patient in order for the operation to work effectively”, she said.

“This takes a lot of time and cross checks”.


The complicated surgery involves input from the patient.Initially,th e patient is asleep while the hole in the skull is drilled,then woken for assessment on thought,speech and motor skills for the remainder of the procedure…




Muốn biết thêm chi tiết, xin quí vị dùng Google t́m chữ “Deep Brain Stimulation”, ở đó sẽ có đầy đủ thông tin và cả video lúc giải phẩu nữa. Ở đây, tôi chỉ thấy khác một điều là: Khi họ đưa mũi khoan và khoan vào sọ, lúc ấy tôi không cảm thấy đau, mà nhận biết rất rơ ràng như đang tỉnh táo. Khi bắt đầu khoan vào sọ, tôi nghe một tràng những âm thanh khủng khiếp như núi đang lở xuống vậy…!




Bấy nhiêu, tôi xin chia sẻ cùng quí ông bà, các anh chị nào đang bị bệnh Parkinson’s Disease. Đối với quí vị không bị bệnh nầy, mong rằng quí vị sẽ dễ cảm thông và cố gắng giúp đỡ thân nhân của quí vị nếu đang mắc phải chứng bệnh này v́ những đau khổ và bất tiện của họ.




Tôi rất là biết ơn các bác sĩ đă tận t́nh chữa trị cho tôi trải qua bao năm tháng dài. Tôi rất biết ơn tất cả bạn bè, thân quyến, nhất là các con tôi, lúc nào cũng cảm thông và kiên nhẫn giúp đỡ tôi. Ngàn lời cám ơn cũng không thể đủ để nói lên ḷng biết ơn sâu xa của tôi, đối với người vợ thân yêu của tôi đă ngày đêm luôn cạnh kề một bên, đă săn sóc, lo lắng không rời. Những năm tháng trôi qua, biết bao lần những giọt nước mắt ân t́nh ấy đă tuôn rơi v́ nh́n thấy những quằn quại, những đau đớn hành hạ tôi. Tôi nghĩ: ”Người bệnh đă không chịu nhiều khổ đau bằng người chăm sóc bệnh nhân, nhất là bệnh Parkinson”. Người chăm sóc tuyệt vời ấy là vợ tôi: Trần Thị Hân.




Hiện tại, bệnh PD của tôi vẫn c̣n đó! Tuy rằng sau phẩu thuật DBS, tôi đă phục hồi được 75% do sự kich thích thần kinh của chiếc máy Neurostimulator được cấy vào người có pin hoạt động từ 4 đến 5 năm, nhưng chỉ làm giảm đi những hiện tượng của bệnh mà thôi, chứ không phải chữa dứt bệnh. Tôi vẫn c̣n uống thuốc với liều rất nhẹ.

Nguyễn Minh Tâm


(Viết theo kinh nghiệm cá nhân và lược dịch từ các tài liệu:


– The Australian Medical Association (AMA)

– Stand by me, (Tạp chí đinh kỳ của hội Parkinson’s NSW incorporation)

– Eat well, stay well with Parkinson’s Disease của Kathrynne Holden, MS, RD.

– Media Release, Queensland Government, Queensland Health 21/4/09 qua internet)



Sau đây là địa chỉ hoặc số điện thoại của Hiệp hội Parkinson tại NSW:


– Parkinson’s NSW inc. PO Box 71 North Ryde BC NSW 1670.

Toll free: 1 800 644 189, Phone : 02 8875 8900, Fax: 02 8875 8999.



Quí vị sẽ được giúp đỡ về nhiều vấn đề của bệnh PD. Các tiểu bang khác, muốn biết, hăy gọi điện thoại cho hội ở NSW, hỏi họ, họ sẽ cho quí vị biết.


Hoặc t́m trên Internet: chữ Parkinsons Asociations in Australia, sẽ có tất cả.

florida80
05-21-2019, 18:37
Màng Bọc Thực Phẩm Có An Toàn Không? - Huỳnh Chiếu Đẳng


https://i.imgur.com/v4qCHpU.jpg



Cám ơn sư phụ Huỳnh Chiếu Đẳng









Kính GS Huỳnh Chiếu Đẳng
Tôi đọc được tin này, không biết có đúng như nội dung không,


Kính chuyển lại để GS xem và có lời khuyên>

Cảm ơn nhiều.

MK

Forward

Rất nhiều người đang dùng màng bọc thực phẩm sai cách: Nguy cơ mắc bệnh ung thư rất cao!

By senle

27 Tháng Tư, 2019

Share on Facebook

Tweet on Twitter




Màng bọc thực phẩm đang trở nên rất quen thuộc và phổ biến khi có mặt ở khắp các gia đ́nh, được các bà nội trợ sử dụng rất thường xuyên. Tuy nhiên, đằng sau vẻ hợp vệ sinh và sạch sẽ của những tấm màng bọc thực phẩm lại tiềm ẩn những chất độc nguy hại đến sức khỏe con người. Nếu dùng màng bọc thực phẩm sai cách c̣n có thể làm tác nhân gây bệnh đặc biệt là ung thư rất cao.


Nguy hiểm ŕnh rập từ màng bọc kém chất lượng

Màng bọc thực phẩm rất tiện dụng trong cuộc sống hàng ngày, v́ thế con người ngày càng ỷ lại vào nó. Chỉ cần dùng bọc lên rau, quả, đồ ăn thừa là chúng ta cảm thấy yên tâm. Nhưng nhiều thực sự th́ không giống như chúng ta vẫn nghĩ.

Hầu hết các sản phẩm màng bọc thực phẩm ở Việt Nam được làm bằng nhựa PVC và PE. Trong đó PVC là loại nhựa mà trong thành phần của nó có chứa một số chất độc hại rất dễ bị thôi nhiễm trong quá tŕnh bảo quản thực phẩm. Nhựa PE th́ an toàn hơn và được sử dụng rộng răi với ngành thực phẩm.





Màng bọc thực phẩm không hẳn đă an toàn như bạn nghĩ (Ảnh: Internet)


Để chế tạo màng bọc PVC được dai, mềm, trong suốt như như màng bọc nhựa PE th́ có nhiều nhà sản xuất đă cho vào đó một số chất tạo dẻo như DEHP (Di-ethylhexyl phthalate) và DEHA (Di-ethylhexyl adipate), và nguy cơ nhiễm độc là từ các chất này. Chúng có thể gây ung thư, hủy hoại thận, phá hủy hệ thống hoóc môn của cơ thể con người. Đối với trẻ em, nguy cơ mắc các bệnh hen suyễn và dị ứng là rất cao.







HCD: Thưa các bạn tôi bàn theo kiến thức phổ thông hiện nay.


Ngày nay người ta chế tạo màng plastic bao plastic dùng trong thực phẩm không có hai chất tác giả đề cập, lâu lắm rồi. Ở Việt Nam tôi không nghĩ là tự sản xuất được, phải nhập cảng của Trung Quốc, và như các bạn biết, với Trung Quốc th́ có lợi th́ thôi, ai chết ráng chịu.


Sau đây tôi dịch toát câu trả lời của trường Đại Học Y Khoa Harvard. Chữ nghiêng tím là phỏng dịch, c̣n chữ đứng tím là tôi thêm vào. Chữ thẳng đen là nguyên văn của email forward .

Nguồnthamkhảo:

https://www.health.harvard.e du/newsletter_article/food_safety_microwav ing_food_in_plastic_ dangerous_or_not







HCD: Nếu bạn sử dụng e-mail, rất có thể bạn đă nhận được một "HĂY ĐỌC NÀY!" nói về sự nguy hiểm của việc bỏ thực phẩm xong hâm nóng bằng ḷ microwave. Cái email cảnh báo rằng hóa chất có thể thoát ra khỏi nhựa và vào thực phẩm, gây ung thư, các vấn đề sinh sản và các bệnh khác. Có sự thật nào cho điều này không, hay nó chỉ là một "huyền thoại đô thị" được tiếp sức bởi Internet? Như thường thấy với các e-mail báo động, cái này chứa một chút xíu nhỏ của sự thật - và rất nhiều thông tin sai lệch.


FDA, công nhận có tiềm năng một lượng nhỏ chất hóa dẻo di chuyển do màng nhựa tiếp xúc với thực phẩm. Trước khi phê duyệt một loại màng bọc hay container dùng cho thực phẩm, FDA tiến hành các xét nghiệm để đảm bảo rằng nó không ṛ rỉ lượng không an toàn của bất kỳ chất nào vào thực phẩm.







Những cách sử dụng màng bọc thực phẩm gây nguy hiểm
1. Dùng màng bọc thực phẩm trong ḷ vi sóng

Tháng 8, 2015, Trung tâm Nghiên cứu Ung thư Anh đă đưa ra cảnh báo đặc biệt đối với người dân về mức độ nguy hiểm khi hâm nóng thức ăn được bọc bằng màng bọc thực phẩm trong ḷ vi sóng.

Các bà nội trợ có thói quen sử dụng màng bọc để bảo quản thức ăn, sau đó tiện thể cho vào ḷ vi sóng để hâm nóng nhằm bảo vệ món ăn khỏi bị khô. Nhưng họ không hề biết hành vi này lại vô cùng nguy hiểm.


Theo các chuyên gia sức khỏe, hóa chất độc hại nhất trong màng bọc thực phẩm là Bisphenol A (BPA), vốn được sử dụng rộng răi trong sản xuất chất dẻo từ nhựa. Trong cơ thể, chất này gây ảnh hưởng tới hóc-môn estrogen ở nữ giới.

Các nghiên cứu trong pḥng thí nghiệm cũng đă phát hiện mối liên hệ giữa BPA với bệnh ung thư vú, ung thư tuyến tiền liệt và quá tŕnh dậy th́ sớm bất thường.







Dùng màng bọc thực phẩm trong ḷ vi sóng là vô cùng có hại (Ảnh: Internet)




“Tôi chỉ hâm nóng thức ăn đựng trong các sản phẩm được làm từ thủy tinh hoặc gốm. Mặc dù sử dụng màng bọc thực phẩm để bảo quản thức ăn đă nấu chín trong tủ lạnh nhưng tôi bao giờ cũng bỏ nó ra trước khi hâm nóng thức ăn trong ḷ vi sóng“.

Đó là ư kiến giáo sư Andrea Gore dược học tại Đại học Austin (Mỹ), người đă nghiên cứu những ảnh hưởng của hóa chất từ nhựa với chức năng sinh sản.




HCD: FDA xét nghiệm trước khi cho phép bán ra thế nầy:


Theo Tiến sĩ George Pauli, phó giám đốc đă nghỉ hưu củaUS FDA, các xét nghiệm này đo lường sự di chuyển của hóa chất ở nhiệt độ mà hộp đựng hoặc bọc có thể gặp phải trong quá tŕnh sử dụng thông thường. Cơ quan này ước tính tỷ lệ diện tích bề mặt nhựa so với thực phẩm, thời gian chứa trong ḷ vi sóng, tần suất một người có thể ăn từ hộp và mức độ nóng của thức ăn trong quá tŕnh vi sóng. Do ḷ vi sóng làm nóng nước trong thực phẩm, nhiệt độ cao nhất là điểm sôi của nước - 212º F, hoặc 100º C.


Các nhà khoa học sau đó đo các hóa chất bị ṛ rỉ và mức độ chúng di chuyển sang các loại thực phẩm khác nhau. Lượng tối đa cho phép là nhỏ hơn 100.000 lần cho mỗi pound trọng lượng cơ thể so với lượng gây hại cho động vật thí nghiệm trong suốt thời gian sử dụng. Vật liệu nào thí dụ như plastic dùng đựg thực phẩm phải có tiêu chuẩn trên mới cho phép sản xuất bán ra thị trường.




2. Bọc thực phẩm nhiều dầu mỡ

Không nên dùng màng bọc thực phẩm bọc đồ ăn chín, đồ ăn nóng và những thực phẩm chứa dầu mỡ v́ sau khi tiếp xúc với những thực phẩm này, thành phần hóa học chứa trong màng bọc sẽ dễ dàng phát huy, thâm nhập vào thực phẩm, gây ra nhiều tác hại cho sức khỏe.

Ngoài ra, không dùng bọc những thực phẩm ở môi trường acid, kiềm hoặc nhiệt độ cao. Các chất độc hại này thôi nhiễm vào thực phẩm sẽ tác động đến hệ thống nội tiết làm phát triển sớm ở trẻ em gái và ảnh hưởng đến sinh sản ở trẻ em.





HCD: Khi thực phẩm được bọc trong nhựa hoặc đặt trong hộp nhựa và ḷ vi sóng, các chất được sử dụng trong sản xuất nhựa (chất hóa dẻo) có thể ṛ rỉ vào thực phẩm. Đặc biệt, các thực phẩm béo như thịt và pho mát gây ra một chất làm mềm được gọi là diethylhexyl adipate để lọc ra. Điều này chắc chắn nghe có vẻ đáng sợ, v́ vậy, có người đưa ra một báo động xuất hiện trên Web.



3. Bọc màng bọc quá sát vào thực phẩm

Dùng màng bọc thực phẩm sát vào đồ ăn rất dễ bị thôi nhiễm những chất độc hại gây ra tác hại khôn lường cho sức khỏe. V́ thế, nên để thực phẩm trong hộp thủy tinh cao rồi mới bọc bằng màng thực phẩm. Ngoài ra, không dùng bọc những của quả như cà rốt, dưa chuột, đậu đũa v́ sẽ khiến hàm lượng vitamin C của những củ, quả này giảm đi nhiều.








HCD: Không có phản ứng hoá học nào giữa các chất trong plastic và thực phẩm để làm giản lượng vitamin C hết, đây là nói càng.










Màng bọc quá sát thực phẩm sẽ dễ làm thôi nhiễm chất có hại sang thức ăn (Ảnh: Internet)




HCD: Cũng sai, chai đựng nước ngọt, chai đựng nước th́ sao. Nếu plastic của vỏ chai làm hại thực phẩm chứa trong đó th́ Mỹ đă cấm dùng rồi.



4. Để màng bọc ở nơi khô ráo, hợp vệ sinh

Sau khi mua màng bọc thực phẩm về sử dụng cần bảo quản màng bọc ở nơi có nhiệt độ trung b́nh. Nếu bảo quản ở những nơi có nhiệt độ cao hoặc quá thấp dễ làm màng bọc biến chất và sinh độc tố. Đặc biệt, không sử dụng màng bọc có dấu hiệu nấm mốc, bị sun, có mùi lạ. Nếu vẫn cố t́nh sử dụng sẽ dễ gây ngộ độc v́ mang bọc thực phẩm kém chất lượng.




HCD: Cũng nói nhắm chừng, nhiệt độ cao mới làm cho hoá chất hoạt động mạnh, c̣n nhiệt độ thấp th́ phản ứng hoá học khó xảy ra. Nếu nhiệt độ thấp mà làm chất hoá học trong cây cỏ của thang thuốc bắc tan ra th́ sao người ta sắc thuốc bắc trên lửa tới cả vài tiếng đồng hồ (Sắc ba chén nước c̣n lại sáu phân)



Cách sử dụng màng bọc đúng cách, an toàn

Nếu vẫn muốn sử dụng màng bọc thực phẩm bảo quản thức ăn, GS.TS Nguyễn Văn Khôi, Trưởng pḥng Vật liệu polyme, Viện Hóa học, Viện Hàn lâm KH&CN VN khuyên người dùng cần phân loại màng bọc trước khi sử dụng. Màng bọc PE dùng cho thức ăn đă qua sơ chế. Màng bọc PVC bảo quản thực phẩm chưa qua chế biến, không dùng màng nhôm bọc cho thực phẩm giàu axít.






Nên sử dụng màng bọc PE v́ an toàn hơn PVC (Ảnh: Internet)




Việc lựa chọn màng bọc thực phẩm và cách sử dụng đúng cách để bảo quản thực phẩm rất quan trọng trong bảo đảm an toàn thực phẩm.

– Tốt nhất, bạn nên mua màng bọc có thương hiệu đảm bảo uy tín, có giấy chứng nhận chất lượng của các cơ quan quản lư.

– Các nhà nghiên cứu đă chứng minh màng bọc chế tạo từ vật liệu PE an toàn v́ ít chất phụ gia hơn từ vật liệu PVC. Cách phân biệt:

Màng PVC: Có màu trắng ngà/hoặc vàng nhạt và ít dai khi kéo dãn; sờ có cảm giác dính tay, khó tách các lớp màng bọc khi chúng tiếp xúc trực tiếp với nhau; khó cháy, chỉ cháy khi đốt trực tiếp bằng lửa và có mùi hắc.

Màng PE: Có màu trắng, trong suốt, dai khi kéo dãn; khi sờ và sản phẩm ít dính tay, dễ dàng tách các lớp màng bọc khi chúng tiếp xúc trực tiếp với nhau; dễ bị đốt cháy bằng lửa và cháy rất nhanh, không tắt và hầu như không tạo ra mùi khi cháy.

– Khi bảo quản đồ ăn cần bọc cách thực phẩm ít nhất là 2,5 cm.

– Bỏ màng bọc ra khi hâm nóng.

– Bảo quản màng bọc ở nhiệt độ pḥng. Không dùng những màng bọc đă bị mốc, rúm, để quá lâu và tái sử dụng.



HCD: Những dặn ḍ ngay trên chắc không cần bàn tới, v́ FDA đă trả lời rồi. Chỉ nói thêm là từ năm 2006 không c̣n phthalate nữa (2006, almost all plastic wraps made in the United States are phthalate-free) chất nầy từa tựa kích thích tố.


Kết luận là màng plastic bọc thực phẩm ở Mỹ được FDA kiểm soát và chấp nhận cho bán ra. Lượng các chất hoá học có hại được kể trong bài có tan vào thực phẩm nhưng trong đời sống hàng ngày số lượng nầy nhỏ hơn 1/100.000 mỗi pound trọng lượng cơ thể (được coi là vô hại). Tóm một câu là số lượng hoá chất từ màng plastic bọc thực phẩm tan vào thực phẩm không đáng nói, kể cả gói thực phẩm bỏ vào ḷ microwave.





Tuy nhiên các bạn nhớ là chỉ dùng loại plastic có ghi ngoài hộp là dùng cho ḷ microwave. Nếu không thấy th́ chỉ gói thực phẩm bỏ vào tủ lạnh hay để ở nhiệt độ trong pḥng. Khi hâm thực phẩm nhớ gở giấy bọc ra.

Các bạn đọc thêm ở link đưa vào trang web của trường Harvard bên trên.



Huỳnh Chiếu Đẳng

florida80
05-21-2019, 18:38
10 Thói Quen Đoản Mệnh Và 10 Thói Quen Trường Thọ Được Thế Giới Công Nhận



https://i.imgur.com/FCaznJJ.gif





Bạn muốn sống lâu, sống khỏe sống có ích hay sống trong bệnh tật? Dưới đây là 10 thói quen đoản mệnh và 10 thói quen trường thọ đă được thế giới công nhận.










Rất nhiều ví dụ thực tế đă chứng minh rằng thói quen sống không tốt chính là nguyên nhân gây ra các bệnh măn tính và ung thư. Bởi vậy, nếu tránh xa được các thói quen xấu th́ cũng có thể tránh xa được các loại bệnh.




Bạn muốn sống lâu, sống khỏe sống có ích hay sống trong bệnh tật? Điều này phụ thuộc vào sự lựa chọn của bạn. Dưới đây xin chia sẻ tới các bạn mười thói quen đoản mệnh và mười thói quen trường thọ đă được thế giới công nhận.




Mười thói quen cuộc sống khiến bạn đoản mệnh

1. Lười vận động






Tạp chí y khoa hàng đầu thế giới “The Lancet” đă từng có một bài viết rằng, trong 10 người tử vong sớm th́ có 1 người tử vong do thiếu vận động. Ngoài ra c̣n có những nghiên cứu chỉ ra rằng những người mắc bệnh tim mạch, đột quỵ, u bướu, tiểu đường tuưp 2, các bệnh măn tính có 12%-19% nguyên nhân mắc bệnh là do kém vận động.




Năm 2013 tổ chức y tế thế giới đă từng công bố “bệnh lười vận động” đă trở thành nhân tố có nguy cơ tử vong đứng thứ 4 trên thế giới. Theo thống kê, trên toàn thế giới mỗi năm có 3,2 triệu người chết do nguyên nhân này mà con số này đang tăng lên mỗi năm.




2. Ngồi vắt chéo chân

Bạn đang ngồi vắt chéo chân hay ngồi ngay ngắn ? Bạn có biết ngồi vắt chéo chân rất nguy hiểm không ?

Khi một chân của bạn vắt chéo vào chân c̣n lại sẽ gây mất cân bằng cột sống, các cơ mềm xung quanh cột sống sẽ bị co rút lại, lâu dần sẽ gây ra các bệnh biến dạng cột sống, đau cơ và đau lưng.









Tư thế ngồi này cũng khiến đầu gối và các tĩnh mạch bị ức chế khiến máu lưu thông khó và huyết áp tăng cao dễ gây ra các bệnh giăn tĩnh mạch hay viêm tĩnh mạch nén.

Hai chân kẹp chặt vào nhau c̣n khiến nhiệt độ ở vùng xương chậu tăng cao tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn sinh sôi ảnh hưởng đến sức khỏe.

Đối với nam giới không chỉ làm giảm sức sống của tinh trùng mà c̣n có khả năng bị viêm tuyến tiền liệt. Đối với nữ giới sẽ có nguy cơ mắc các bệnh phụ khoa. Bạn c̣n chần chừ ǵ nữa mà không mau ngồi ngăn ngắn lại?




3. Ngồi lâu trước máy tính

Tôi tin rằng có rất nhiều người đang mắc phải điều này: ngồi lâu trước máy tính mà không vận động. Theo như một nghiên cứu của trường đại học Queensland, Úc sự nguy hại của việc ngồi ĺ một tiếng đồng hồ tương đương với việc hút hai điếu thuốc lá, điều này đồng nghĩa với việc bạn bị giảm “22 phút tuổi thọ mỗi giờ”.




Ngồi lâu trước màn h́nh máy tính mà không vận động khiến mật độ máu đông tương đối cao lâu dần sẽ gây t́nh trạng đông máu dưới chân, khi vận động các cục máu đông sẽ bong ra rồi di chuyển gây tắc nghẽn mạch phổi, nghiêm trọng có thể gây đột tử.

Ngồi lâu trước máy tính với một tư thế không đổi c̣n gây căng thẳng đốt sống cổ chèn ép dây thần kinh và mạch máu, nh́n lâu vào màn h́nh máy vi tính c̣n khiến mắt khô và đỏ, ảnh hưởng tới da và trí năo.




4. Uống ít nước

Uống nước là chuyện nhỏ nhưng uống ít nước lại là chuyện lớn.

Khi bạn cảm thấy khát nước tức là lượng nước trong cơ thể bạn đă bị mất đi 1% so với trọng lượng cơ thể, các cơ quan trong cơ thể đă bắt đầu bị ảnh hưởng.









Khi lượng nước mất đi đạt mức 2% trọng lượng cơ thể th́ việc vận động của cơ thể sẽ bị cản trở đồng thời cảm thấy bị ức chế và chán ăn.

Nếu đạt mức 4%-8% sẽ xuất hiện các triệu chứng như khô da, khàn giọng, mất sức… nghiêm trọng hơn sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng.




5. Dùng sức quá mạnh khi đi vệ sinh

Bị táo bón khi đại tiện nếu như dùng sức quá mạnh có thể khiến cơ tim bị kích thích gây ra các biến cố đột quỵ nghiêm trọng hơn c̣n có nguy cơ bị nhồi máu cơ tim cấp tính hoặc tai biến mạch máu năo.

Điều này thường gặp ở người trung tuổi và người già đặc biệt là những người huyết áp cao, xơ vữa động mạch, bệnh tim, bệnh tiểu đường…




6. Thích uống nước ngọt ướp đá

Người già mà thường xuyên uống nước ngọt ướp đá với một lượng lớn vô cùng nguy hiểm. Do thực quản nằm sau tim, dạ dày nằm ở dưới tim, v́ vậy nếu như uống một lượng lớn nước ngọt ướp đá dễ gây co thắt mạch vành và dễ dẫn tới đột tử.




7. Sử dụng điện thoại khi đi vệ sinh

Bạn có thói quen mang theo điện thoại vào nhà vệ sinh không ?

Vừa đi vệ sinh vừa xem điện thoại dễ gây phân tán mất tập trung, đáng lẽ chỉ cần mất mấy phút để đi vệ sinh thế nhưng v́ chú tâm vào điện thoại mà phải mất đến nửa tiếng đồng hồ mà vẫn chưa giải quyết xong khiến chất thải tắc nghẽn lâu trong hậu môn kích thích mạch máu gây tụ máu, lân dần sẽ khiến tuần hoàn máu tắc nghẽn gây ra bệnh trĩ.




8. Cúi lưng bê vác đồ nặng

Bê vác vật nặng mà tư thế không đúng rất hại cho lưng.

Cúi gập lưng để bê vác vật nặng khiến địa đệm xương sống của thắt lưng đột nhiên phải chịu sức ép lớn dễ gây thoát vị địa đệm, rất nhiều người đau lưng bị nặng hơn là do việc khom lưng bê vác vật nặng không đúng tư thế.




Hăy cố gắng để tránh việc khom lưng bê vác nặng hay xoay người với đồ. Nếu muốn bê vác vật nặng hăy nên ngồi hẳn xuống thấp chân và thẳng lưng, để vật nặng tựa vào cơ thể ḿnh hoặc các dụng cụ trợ lực. Nếu như bất đắc dĩ phải khom lưng th́ nên để tay đỡ hai bên của vật thể để giảm trọng tải cho lưng của bạn.




9. Trầm lặng ít nói, dễ nổi nóng và cáu giận









Khi công việc không được thuận lợi, quan hệ xã hội không được tốt nhưng lại không thể thổ lộ với ai, dễ bị ỷ lại và dựa dẫm vào người thân nhưng nếu người thân không hiểu hoặc ít thổ lộ sẽ cảm thấy bị bất lực, bế tắc. Thử hỏi nếu như áp lực bị dồn nén lâu ngày trong người th́ liệu bạn có thể khỏe mạnh được không?

Sức ép, uất ức khiến tâm lư bị rối loạn khiến sức đề kháng và miễn dịch bị giảm sút tạo cơ hội cho các tế bào ung thư dễ dàng xâm nhập vào trong cơ thể.




10. Không chú trọng tới những tín hiệu bất thường trong cơ thể

Theo như một báo cáo nghiên cứu nam giới ở độ tuổi trung niên có hơn 70% người mắc một hoặc nhiều loại bệnh chủ yếu liên quan tới cơ quan sinh sản và đường ruột. Nhưng 80% trong số đó xuất hiện triệu chứng bệnh mà không lập tức điều trị, đợi cho tới khi “không thể chịu đựng được nữa” mới t́m đến bác sỹ, 18% người trong số đó khi chẩn đoán chính xác đă phải tiến hành phẫu thuật gấp, số ít c̣n lại đă là giai đoạn cuối hoặc rơi vào t́nh trạng nghiêm trọng.


Có bệnh phải kịp thời t́m bác sỹ điều trị nếu không sẽ khiến bệnh t́nh ngày càng tồi tệ. Có biết bao nhiêu người v́ nghĩ bệnh nhẹ mà không đi khám đợi tới khi phát triển thành bệnh nặng có muốn cứu chữa cũng không kịp. Trên đời này không có thuốc hối hận, một khi đă trở thành bệnh nặng th́ chỉ c̣n nước chờ chết mà thôi.




Mười thói quen sống giúp bạn trường thọ

1. Ăn rau quả






Việc này nghe th́ dễ thế nhưng lại có rất nhiều người không làm được.

Ăn rau quả không chỉ giúp bổ sung vitamin và các khoáng chất có lợi cho sức khỏe, pḥng chống bệnh ung thư mà c̣n giúp cải thiện trạng thái tâm lư giúp pḥng chống các loại bệnh tật.




2. Ngủ trưa hàng ngày

Học việc sức khỏe cộng đồng Harvard đă từng nghiên cứu 24,000 người và phát hiện ra rằng, so với những người không ngủ trưa th́ tỉ lệ những người ngủ trưa tử vong do bệnh tim mạch ít hơn 40%. Cơ thể ngoài việc ngủ vào buổi tối th́ ban ngày cũng cần phải được ngủ.

Thời gian ngủ trưa lư tưởng nhất là khoảng 15 phút và tốt nhất không nên vượt quá 30 phút.




3. Đi bộ ít nhất 7 giờ/1 tuần

Tạp chí Nature của Mỹ đă từng đưa tin những người từ 60 tuổi trở lên nếu kiên tŕ một tuần 3 ngày đi bộ ít nhất 45 phút/ngày có thể pḥng tránh bệnh đăng trí tuổi già. 1 tuần đi bộ ít nhất là 7 giờ có thể giảm thiểu 20% tỷ lệ mắc bệnh ung thư vú.

Đeo một đôi giày thể thao nhẹ nhàng và tiên lợi, mỗi buổi sáng tối hàng ngày đi bộ vài ṿng, hai chân bước đều hai tay cùng vận động sẽ rất có lợi cho sức khỏe và hệ tim mạch.




4. Mỗi tuần ăn một con cá

Ăn cá có tác dụng ǵ ? Trong thịt cá có chứa một lượng lớn Omega-3 có tác dụng quan trọng trong việc cải thiện sức khỏe năo bộ tăng cường trí nhớ. Với những người lớn tuổi ăn cá giúp pḥng ngừa mắc các bệnh đăng trí. Lưu ư không nên rán hoặc chiên cá mà hăy chế biến càng thanh đạm càng tốt.




5. Ít ăn thịt màu đỏ sẫm

Tạp chí y khoa của Anh mới đăng một bài nghiên cứu phát hiện ra rằng càng ăn nhiều thịt có màu đỏ sẫm th́ dễ có nguy cơ mắc các bệnh như: ung thư, bệnh tim mạch, bệnh về đường hô hấp, tai biến, tiểu đường, hội trứng bệnh mất trí, bệnh gan thận…

Ghi nhớ: Mỗi ngày chỉ nên ăn 80-150 g thịt và tốt nhất là nên thái sợi, thái lát rồi hầm hoặc hấp chín.




6. Chơi các tṛ chơi thử thách trí nhớ

Thường xuyên chơi các tṛ chơi thử thách trí nhớ giúp làm chậm quá tŕnh lăo hóa của bộ năo như đoán chữ, đánh cờ, học thêm một môn ngoại ngữ, học thêm một điệu nhảy mới…đều có thể giúp bộ năo được bổ sung và cung cấp nhiều máu và chất dinh dưỡng hơn. Điều này sẽ giúp tăng cường trí nhớ và làm chậm quá tŕnh lăo hóa.




7. Năng làm việc nhà



Làm việc nhà cũng có rất nhiều lợi ích mà bạn không ngờ tới. Một bài luận văn đại học ở Hồng-Kong có chỉ ra rằng : làm việc nhà có thể giảm nguy cơ tử vong.

Dọn dẹp nhà cửa: Có thể ngăn chặn tái phát bệnh tim.

Lau chùi nhà bếp: Giúp giảm cân

Trồng cây: Giúp giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh trầm cảm

Rửa bát: Giúp giảm thiểu cảm giác lo âu.

Dọn dẹp giường ngủ: Nâng cao hiệu quả công việc

Hơn nữa làm tốt việc nhà c̣n chứng tỏ khả năng quy hoạch thống kê của năo bộ là rất tốt, thu gọn đồ đạc giúp làm chậm quá tŕnh suy thoái trí nhớ rất có lợi trong việc thả lỏng và rèn luyện năo bộ.


8. Ăn các loại quả hạch khô

So với những người không ăn hoặc ít ăn các loại quả hạch khô th́ những người hàng tuần đều ăn loại quả này có nguy cơ tử vong thấp hơn. Các loại quả hạch có hàm lượng chất chống ô-xi hoá, chất xơ và a-xít béo không băo hoà phong phú, nó có tác dụng giảm nguy cơ mắc các bệnh về tim mạch. Đây là loại quả có nhiệt lượng tương đối cao mỗi lần ăn không nên vượt quá 28g.




9. Nói chuyện nhiều với mọi người xung quanh

Nói chuyện có đơn giản không? Vừa đơn giản mà lại cũng không hề đơn giản. Ngay cả việc nói chuyện phiếm thôi cũng là một cách để rèn luyện thể lực và trí lực. Nói chuyện là một quá tŕnh cần phải động năo là cách để rèn luyện khả năng phản ứng và khả năng ngôn ngữ của bộ năo.




10. Thường xuyên tắm nắng








Ánh nắng mặt trời không chỉ là chất hoạt hoá vitamin D mà c̣n là một liều thuốc bổ miễn phí, thuốc hạ huyết áp miễn phí và thuốc yêu đời miễn phí. Người ta nói mặt trời có thể chữa bách bệnh là bởi các chức năng của “lục phủ ngũ tạng” trong cơ thể đều phải dựa vào dương khí, dương khí dồi dào sẽ giúp cơ thể kháng được bách bệnh.




Nếu thời tiết tốt khuyên bạn ra ngoài tắm nắng vào lúc 9-10 giờ sáng hoặc 3-4 giờ chiều, mỗi lần khoảng 15-30 là được. Tốt nhất nên chọn những nơi có nhiều cây xanh hoặc không khí trong lành để thưởng thức những lợi ích to lớn mà ánh nắng mặt trời mang lại.




Theo Trí Thức Trẻ/cafebiz



at 9:51 PM

florida80
05-21-2019, 18:40
Thu Phí Người Nuôi Bệnh: Một Kiểu Tận Thu Tàn Nhẫn Vô Nhân Đạo - Đỗ Duy Ngọc

https://i.imgur.com/mG67vbF.jpg









Ở xứ Việt thời nay, bệnh vào đến bệnh viện đă là một sự khốn khổ, khốn nạn. Đồng tiền phải đi trước, dù cấp cứu gần chết th́ phải đóng tiền mới có người hỏi tới, không th́ nằm đó chờ. Một người bệnh ít nhất phải có một người đi theo nuôi bệnh bởi lực lượng y tá, điều dưỡng không thể chăm sóc người bệnh. Con nuôi cha mẹ, vợ nuôi chồng, chồng theo nuôi vợ, con cháu nuôi ông bà.. Không thể không có mặt được. Không chỉ để rót miếng nước, đút miếng cháo, đưa viên thuốc mà c̣n phải có mặt ở đấy để khi bác sĩ, y tá cần th́ đáp ứng ngay. Bệnh nhân nếu ở pḥng chăm sóc đặc biệt tức là đă có một chân vào cửa tử th́ người nhà càng phải cần có mặt để được gọi tên bất cứ lúc nào. Đến các bệnh viện nhà nước mà xem, đa số bệnh nhân đều là người nghèo đến từ các tỉnh, có người không đủ tiền mua thuốc, và người đi nuôi bệnh thường là sống nhờ cơm từ thiện. Chồng vừa nuôi vợ bệnh vừa chạy xe ôm là chuyện thường t́nh. Họ nghèo lắm, nghèo đến xác xơ. Nhà có người bệnh, nhất là những bệnh nan y kéo dài ngày chữa trị th́ từ gia đ́nh khá khá biến thành hộ nghèo và người nghèo trở thành tàn mạt điêu đứng cũng là chuyện thường t́nh. Bán trâu, bán ruộng, bán vườn rồi bán nhà khăn gói lên thành phố chữa bệnh cho người thân, trắng tay cũng là chuyện thường t́nh.




Cán bộ lănh đạo khi bệnh có pḥng riêng, có bác sĩ riêng, có y tá, điều dưỡng riêng, có chế độ chăm sóc cũng riêng. Đa số lại chữa trị ở nước ngoài với cả cặp đô la, cả túi hột soàn mang theo để chi tiêu, chưa kể đến ngân sách nhà nước dành cho họ. Họ đâu thấm cảnh chạy vạy từng đồng mua thuốc, bông, băng. Người thân của họ đâu phải nằm ở hành lang, ở sân bệnh viện để nuôi bệnh, họ đâu phải xếp hàng để kiếm miếng cơm từ thiện qua ngày. Cho nên họ mạnh miệng cho rằng thu phí người nuôi bệnh là hợp lư. Tuyên bố như thế là chưa thấm được nỗi đau của dân, chưa đồng cảm với nỗi khổ của dân. Dân đă nghèo tận đáy khi trở thành người bệnh mà tận thu như thế là một việc làm tàn nhẫn. Có thể gọi là vô đạo. Đồng ư là bệnh viện hoạt động phải có kinh phí thế nhưng đă gọi là một chế độ v́ dân, do dân và lo cho dân mà c̣n tính với dân miếng nước dội cầu, một chút ánh sáng của bóng đèn th́ chính phủ đó có c̣n nên tồn tại không? Ngân sách hàng năm dành cho y tế cũng không nhỏ, sao lại nghĩ đến chuyện tận thu những người đi nuôi bệnh, những người đă nghèo đến tận cùng khi đến bệnh viện.




Ngày xưa ở miền Nam, các bệnh viện công c̣n gọi là nhà thương thí, ở đó bệnh nhân được chữa trị không mất tiền, c̣n được nuôi ăn. Người nuôi bệnh có chỗ c̣n được cung cấp các bữa ăn do các tổ chức xă hội phân phát. Họ không hô hào v́ dân nhưng họ đồng cảm với hoàn cảnh với người bệnh. Đó là cách đối xử nhân văn, nhân đạo giữa con người với nhau. C̣n bây giờ chúng ta hành xử với nhau như thế nào? Các ngài cứ nghĩ việc tận thu, càng nhiều càng tốt, sống chết mặc bay với những lư lẽ nghe qua tưởng chừng rất hợp lư.





"Ngày 10-4, trao đổi với báo chí về vấn đề BV có được thu phí người nuôi bệnh hay không, Thứ trưởng Thường trực Bộ Y tế Nguyễn Viết Tiến cho rằng hiện nay các BV đă thực hiện tự chủ tài chính, chủ trương của Bộ Y tế cố gắng tạo điều kiện cho các cơ sở y tế làm chủ về kinh phí để có nguồn trả lương cho nhân viên và thực hiện nhiều công tác khác. Do đó theo Thứ trưởng Nguyễn Viết Tiến, những khoản thu hợp pháp, không sai luật th́ BV vẫn được quyền thu.





Trở lại vấn đề thu phí người nuôi bệnh, Thứ trưởng Bộ Y tế nh́n nhận nhiều người không phải là bệnh nhân vào BV nhưng sử dụng điện, nước, vệ sinh, ảnh hưởng môi trường. “BV phải cử nhân viên hoặc thuê người dọn dẹp vệ sinh và trả tiền cho các khoản điện, nước này. Về nguyên tắc, BV là đơn vị tự chủ kinh phí nên người vào sử dụng dịch vụ phải trả tiền là hợp lư”.


Cái hợp lư mà các ngài đang đề cập đến là sự hợp lư tàn nhẫn vô nhân đạo. Sự tận thu này đă đẩy người bệnh đă nghèo càng khổ thêm, họ càng túng quẫn hơn khi phải thêm một khoản kinh phí không biết t́m đâu. Họ lại phải nhịn ăn, bán thêm ruộng vườn để đáp ứng việc tận thu của các ngài. Khốn nạn thật!




Fb Do Duy Ngoc



at 11:05 PM

florida80
05-21-2019, 18:45
Thuốc Hết Hạn Vẫn C̣n Hữu Dụng - BS Hồ Ngọc Minh

https://i.imgur.com/aGysWoM.jpg




Ngày hết hạn ghi trên lọ thuốc không có nghĩa là thuốc trở thành vô hiệu hay biến thành thuốc độc. (H́nh minh họa: Getty Images)




Trước đây tôi có viết một bài về đề tài thuốc hết hạn. Bài viết này nhằm bổ sung và tiếp nối về chủ đề này.

Tương tự như thức ăn, luật pháp quy định tất cả các loại thuốc đều phải ghi rơ ngày hết hạn trên nhăn hiệu thuốc. Nhiều người vẫn c̣n thắc mắc là có thể dùng thuốc quá hạn bao nhiêu ngày mà vẫn an toàn?

Câu trả lời tóm gọn: trong đa số trường hợp, ngày hết hạn ghi trên lọ thuốc không có nghĩa là thuốc trở thành vô hiệu hay biến thành thuốc độc. Phải hiểu rằng, ngày măn hạn ghi trên lọ thuốc chỉ có nghĩa là, sau ngày ấy, hăng thuốc không bảo đảm hoàn toàn 100% công hiệu của thuốc.




Thật ra để đề pḥng bị thưa kiện và để bán được nhiều thuốc, các hăng thuốc có khuynh hướng ghi ngày hết hạn rất ngắn, ngắn hơn nhiều là ngày thuốc thật sự măn hạn. Tuy rằng thuốc càng để lâu, dược tính sẽ giảm lần v́ thành phần cấu tạo nên thuốc có thể từ từ yếu đi theo thời gian. Nhưng, rất nhiều loại thuốc vẫn giữ được công hiệu nhiều năm sau ngày măn hạn.


Ngay chính cơ quan FDA, một mặt đ̣i hỏi các công ty dược pḥng phải thử nghiệm về độ bền và hiệu năng của thuốc theo thời gian và tùy theo t́nh trạng bảo quản được kể là “mạt rệp” nhất. Mặt khác, FDA lại nhân nhượng cho phép các hăng thuốc gia hạn thêm, nếu cần, như trong trường hợp thuốc bị khan hiếm, chẳng hạn. Như thế ngày hết hạn của thuốc không có nghĩa là tuyệt đối.




Rất nhiều nghiên cứu và ngay cả cơ quan FDA đă công nhận hầu hết thuốc men đều giữ được công hiệu nhiều năm sau ngày hết hạn. Thí dụ, năm 2006, một nghiên cứu đăng trên tờ báo dược khoa, Journal of Clinucal Pharmacology, cho thấy gần 90% thuốc vẫn c̣n hiệu nghiệm sau ngày hết hạn từ 1 đến 5 năm.




Nói chung, ngoại trừ các loại thuốc nước, hầu hết các loại thuốc viên đều an toàn và hữu hiệu. Ví dụ như thuốc trụ sinh Doxycyclin vẫn c̣n 80% dược tính sau hơn 20 năm, hay thuốc Cipro vẫn c̣n tốt sau hơn 12 năm.


Sau đây là một số ví dụ tiêu biểu khác:






Thuốc Ibuprofen (Motrin, Advil) nếu là thuốc viên th́ vẫn c̣n hữu hiêu tối thiểu là 5 năm và c̣n lâu dài hơn nữa. (H́nh minh họa: Getty Images)



1.Thuốc Ibuprofen (Motrin, Advil) nếu là thuốc viên th́ vẫn c̣n hữu hiêu tối thiểu là 5 năm và c̣n lâu dài hơn nữa. Nếu là thuốc nước, “sy-rô”, th́ dễ bị nhiễm chất dơ v́ thế nên giữ trong tủ lạnh. Cho dù vậy, thuốc vẫn an toàn cho dù ngày hết hạn không lâu bằng thuốc viên.
2.Thuốc Tylenol, acetaminiphen cũng c̣n hiệu lực tối thiểu là 5 năm. Nên bảo quản thuốc trong chỗ mát và tránh ánh nắng mặt trời.
3.Thuốc Aspirin, tương tự như các loại thuốc trên, hữu hiệu đến 5 năm và nhiều hơn. Không nên giữ thuốc trong tủ thuốc trong pḥng tắm, v́ hơi nước có thể làm hư thuốc mau chóng.
4.Thuốc trụ sinh, nên dùng ngay và không nên để dành. Tuy nhiên hầu hết thuốc trụ sinh vẫn c̣n công hiệu ít nhất là sau một năm.
5.Thuốc ho. Đa số các loại thuốc ho là thuốc nước, syrup, th́ không nên giữ dài hạn, và nên bảo quản trong tủ lạnh.
6.Thuốc xịt mũi, thuốc hít vào phổi th́ không nên để lâu. Các loại thuốc nầy thường chứa các loại hoá phẫm phụ để bảo quản thuốc. Theo thời gian, các chất nầy dể biến đổi, tăng nguy cơ bị nhiễm độc.
7.Thuốc nhỏ mắt. Các loại thuốc nầy phải dùng ngay và nên loại bỏ sau ngày hết hạn. Đôi mắt rất quư, không nên liều mạng và tiếc của.
8.Thuốc ngủ, thuốc an thần. Hầu hết các loại thuốc ngủ bán không cần toa đều giữ được công hiệu sau nhiều năm. Tuy nhiên, hiệu năng giảm đi khá nhanh so với các loại thuốc khác. Vấn đề ở đây là khi hiệu năng giảm, người dùng thuốc có khuynh hướng sẽ dùng nhiều hơn quá liều lượng, do đó, gây ra phản ứng phụ.
9.Thuốc chống dị ứng, nếu là thuốc viên, đa số có tuổi thọ trên vài chục năm. Ví dụ như thuốc Diphenhydramine (Benadryl) được biết vẫn c̣n công dụng sau 15 năm. Các loại thuốc nước, nên quăng bỏ sau ngày hết hạn.
10.Thuốc Valium là một loại thuốc an thần có toa bác sĩ khá thông dụng. Lời khuyên của các dược sĩ là nên dùng thuốc trước một năm.

Nói chung, hầu hết thuốc men, nếu được bảo quản tốt đều có công hiệu tối thiểu từ 1 đến 5 năm. Tuy nhiên, các loại thuốc trị bệnh tim, bệnh hen suyễn dị ứng cấp kỳ th́ không nên dùng lâu quá ngày hết hạn. Nói như thế cũng không có nghĩa là trong trường hợp khẩn cấp lại nhất định không dùng tạm một vài viên thuốc quá hạn. Và nếu lỡ thiếu thuốc chưa mua kịp thuốc mới th́ dùng tạm một vài viên cũng không hại ǵ. Có c̣n hơn không!




B.S Hồ Ngọc Minh

florida80
05-21-2019, 18:46
Cảm Thấy Khỏe Hoặc Yếu - BS Nguyễn Ý Đức


https://i.imgur.com/81SVGPI.jpg






1- Khỏe Mạnh là thế nào?

Đôi khi chỉ một chữ giản dị ta có thể định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Quư vị có thể dùng cách định nghĩa của World Health Organisation như: “Sức khỏe là trạng thái của cơ thể với sự toàn vẹn về thể chất, tâm thần và toàn hảo về xă hội chứ không phải chỉ không có bệnh và tật nguyền”. Một cách khác để định nghĩa sức khỏe bằng cách dùng những chữ đo được như quư vị thấy ḿnh khỏe mạnh khi thân nhiệt, huyết áp và các chỉ số khác đều b́nh thường. Nhưng các con số này cũng thay đổi tùy theo t́nh trạng sinh học từng người: Cái ǵ có thể b́nh thường với người khác nhưng với quư vị chúng lại không b́nh thường.


Đối với nhiều lư thuyết gia về y học, định nghĩa hợp lư nhất đều có tính cách tương đối. Với họ, sức khỏe đối với một quản thủ thư viện làm việc yên lặng hằng ngày trong khi đó sức khỏe lại có ư nghĩa khác đối với một công nhân kiến trúc. Nói một cách khác, để được khỏe, quư vị không cần theo một tiêu chuẩn nào. Quư vị chỉ cần hoàn tất các nhu cầu của một ngày.




2. Chuyện ǵ sẽ xẩy ra nếu cơ chế kiểm soát cơ thể của quư vị đóng cửa?

Đôi khi triệu chứng của bệnh rất rơ rệt: thân nhiệt lên cao, mửa, ngất xỉu – chắc chắn là cơ thể của quư vị phản ứng lại với vài khẩn cấp. Trong các hoàn cảnh khác, bệnh không rơ rệt lắm. Bác sĩ của quư vị có thể sẽ yêu cầu làm một số thử nghiệm để xem có ǵ bất thường. Thí dụ: mức độ đường trong nước tiểu quá cao đôi khi có thể là chỉ dấu của bệnh tiểu đường. Nói một cách tổng quát, tiến tŕnh sinh lư học bị rối loạn khi quư vị bị bệnh.


Một vài cơ chế kiểm soát không hoàn toàn tốt ở trẻ mới sinh v́ các cháu mới thoát ra từ một môi trường được bảo vệ quá chu đáo cho nên không cần chăm sóc kỹ. Cơ chế bảo vệ sẽ triển khai nhưng trong khi đó giảm nhiệt độ ở trong pḥng có thể làm giảm thân nhiệt của bé một cách đáng kể. Lạnh cũng rất nguy hiểm đối với người cao tuổi.




3- Bệnh Tưởng là ǵ?

Trong lúc đầu, các bác sĩ tương lai có thể tạm thời bị bệnh tưởng, một sự quá lo lắng về sức khỏe của ḿnh mặc dù là ḿnh vẫn b́nh thường. Lần đầu nghe thấy nói về một bệnh nguy hiểm, sinh viên y khoa cho rằng họ có thể bị bệnh đó và họ có thể tưởng tượng đă t́m ra các dấu hiệu của bệnh. Có nhiều người biết chi tiết về một bệnh cũng có thời gian bị bệnh này.




Nhưng trường hợp hiểm nghèo của bệnh tưởng, được định nghĩa như một ám ảnh với các dấu hiệu về cơ thể và các bệnh với nhiều than phiền về thể chất, là một phản ứng thần kinh về những lo âu hoặc khó khăn. Khi có ám ảnh về sức khỏe mà bắt đầu quên các thú vui khác th́ điều khôn ngoan là kiếm lời khuyên của nhà chuyên môn.




Nhưng phải phân biệt bệnh tưởng với sự quan tâm b́nh thường. Đó là điều tự nhiên và có ích để thấy các dấu hiệu của chính ḿnh và cho bác sĩ hay. Ngoại trừ khi quư vị mắc bệnh tưởng, sau khi khám bệnh mà vẫn khỏe mạnh quư vị sẽ yên ḷng. Nhưng người có bệnh tưởng ít khi chấp nhận lời an ủi. Họ tin là bác sĩ đă bỏ qua một bệnh trầm trọng nào đó hoặc đă đánh lừa họ để tránh các sự thực đau ḷng. Một đôi khi người có bệnh tưởng có ḷng tin ở bác sĩ một thời gian ngắn. Sau đó họ tin là bệnh lại xuất hiện đôi khi tập trung vào các sợ hăi bị bệnh và nhiều khi vào một bệnh mới.




4- Rối loạn thần kinh tâm trí psychosomatic là có thực hoặc chỉ do trí tưởng tượng?

Nguồn gốc Hy Lạp của chữ psyche và soma là tâm trí và cơ thể và rối loạn thần kinh tâm trí là bệnh trong đó tâm trí có ảnh hưởng lên cơ thể. Một cách chính xác hơn, đó chính là một đau về thể chất thực gây ra do một phần hoặc toàn phần bởi một cảm xúc mất ư thức bất tỉnh hoặc các yếu tố tâm lư khác. Các bác sĩ cũng chưa hoàn toàn biết là làm sao mà cảm xúc lại có thể gây ra tổn hại cho một bộ phận cơ thể, nhưng chuyện này là có thật. Không giống như trong bệnh tưởng, trong đó bệnh là do tưởng tượng, một người bị bệnh tâm thần cơ thể là có bị bệnh thật. Thường thường bệnh tâm thần cơ thể có thể chữa khỏi bằng cách chữa vấn đề tâm lư gây ra bệnh.

Các bệnh đó là chỗ nứt trên da hay niêm mạc lót đường tiêu hóa, nhức đầu và hồi hộp hoặc đôi khi các bệnh như ung thư…




5- Hội chứng Munchausen là ǵ?

Nếu quư vị giống như nhiều người, họ sợ tới bệnh viện và thích không có bệnh hơn là bị bệnh. Nhưng nhiều người khác thích tới bệnh viện, thích tham khảo các bác sĩ với nhiều lư do không đáng nói. Các bác sĩ thần kinh tâm trí gọi hành vi đó là hội chứng Munchaussen hoặc bệnh giả tạo.

Giả tạo là giả mạo và người với hội chứng Munchaussen là giả vờ và nói dối.




Người mắc hội chứng Munchausen là những người giả vờ ốm đau để được chăm sóc y tế. Họ thường làm cho ḿnh mắc những triệu chứng kinh khủng bằng cách tự gây thương tích cho bản thân hoặc tự tiêm chất độc vào cơ thể để liên tục đến bệnh viện chữa trị. Điều họ muốn chủ yếu là t́m kiếm sự chú ư và chăm sóc.


Thường giả vờ ốm đau, đến các cơ sở y tế khác nhau, các bác sĩ khác nhau để được chăm sóc. Thích gây sự chú ư bằng cách tự gây thương tích cho bản thân.


Điều tra hồ sơ y tế của bệnh nhân sẽ có dấu hiệu thường xuyên đi khám bệnh, bỏ ra rất nhiều chi phí cho xét nghiệm, kiểm tra, điều trị mặc dù bản thân không có bệnh. Bệnh nhân thường được yêu cầu điều trị tâm thần lâu dài.


Bác sĩ Nguyễn Ư Đức

florida80
05-21-2019, 18:48
Xin Đừng Nói Tại Tuổi Già- BS Nguyễn Ư Đức







Sau khi đổ xăng, ông Minh lên xe lái về nhà. Đi được một đoạn, ông nghe thấy tiếng kim khí chạm vào xi măng rồi tiếng loong coong tiếp theo. Đang chạy trên đường phố nhiều xe, ông không ngừng lại để coi xem vật ǵ rơi. Một thoáng nghĩ, ông đoán đó là chiếc nắp b́nh xăng để trên mui xe đă rơi mất tiêu. Lại quên rồi. Ông tự nhủ, với một chút chán nản.



Về đến nhà, ông ngần ngại một lúc rồi than văn với bà vợ là hồi này ḿnh già nên hay quên quá, và kể cho vợ nghe mất cái nắp b́nh xăng.




Vợ mỉm cười, nói: Đây đâu có phải là lần đầu mà ông lo. Ông nhớ khi gia đ́nh ḿnh lái xe về quê cách đây mấy năm, ông quên đến hai lần. Và phải mua nắp khác thay vào.





Cô con gái đứng gần đó, chêm vào: Bố ơi, bố có nhớ hồi xưa khi bố c̣n đi làm, đă bao nhiêu lần trước khi ra khỏi nhà, bố cứ kiếm cặp kính đọc sách của bố, trong khi bố gài nó trên mái tóc. Lúc đó bố đâu đă ở tuổi này.





Ngồi nghĩ lại, ông Minh thấy bà vợ và con gái nói cũng đúng. Đă nhiều lần, cách đây cả chục năm, lâu lâu ông cũng không biết để ch́a khóa xe ở đâu, đi chợ bảo mua vài món đồ rồi cũng quên một món, chứ đâu có phải chỉ từ ngày ông về hưu ở tuổi 60 mới hay quên. Vậy mà mỗi khi nghĩ đến cái tuổi đó, ông cũng mang một thoáng suy tư.




Bước vào cái tuổi mà khi ḿnh làm cái ǵ không giống ai th́ thiên hạ cứ bảo ông bà ấy già rồi.




Gặp người bạn xa vắng đă lâu, ḿnh có vui miệng nói ít nhiều câu chuyện th́ người phối ngẫu lại nhắc khéo để ḿnh ngưng bớt lại, kẻo nói dài ḍng, phiền ḷng người nghe.




Đau nhức xương cánh tay và đầu gối, kể lể với bác sĩ th́ được trả lời: cụ ơi, cụ già rồi th́ nó vậy đó, không sao đâu; hoặc tối ngủ hay thức giấc nửa khuya, không ngủ lại được th́ lương y cũng bảo người già thường hay bị bệnh như vậy.




Trăm dâu đổ đầu tằm, cái ǵ cũng đổ tại già.




Riêng cái vụ “hay quên” th́ vô số người, ngay cả bác sĩ đôi khi cũng phán rằng già th́ nó lăo suy, nói trước quên sau. Và có người cứ canh cánh sợ là già th́ sẽ rơi vào t́nh trạng “lú lẫn, sa sút trí tuệ”.




Mà nói đến bệnh sa sút trí tuệ th́ cũng đáng e ngại thật. Một thăm ḍ ư kiến tại Mỹ coi xem con người sợ ǵ nhất. Sợ đau tim, ung thư, mù ḷa, rớt máy bay, nghèo túng, hoặc thả vào chuồng cọp... Mỗi người có mỗi mối sợ khác nhau, nhưng lo sợ nhất vẫn là mất trí nhớ, lú lẫn, rồi chẳng biết ḿnh là ai, ở đâu, quên ăn quên ngủ, phụ thuộc hoàn toàn vào gia đ́nh.




Có người bảo, quên như vậy càng sướng chứ sao. Chẳng phải lo nghĩ, chẳng cần để ư tới chuyện đời.




Nhưng, một lăo bà vừa mới chôn cất chồng, mà về nhà liên tục kêu tên ông, t́m kiếm ông hết pḥng này qua pḥng khác. Đôi khi hiểu rơ trắng đen th́ vật vă khóc than. Sự việc kéo dài suốt mấy năm trường, cho tới khi bà tạ thế. Bà đă ở trong t́nh trạng mất trí, lú lẫn. Và như vậy th́ sướng nỗi ǵ!




Trở lại với chuyện hay quên th́ cũng có nhiều lư do.




-Một độc giả hỏi thăm là có ông chú 70 tuổi hay bị quên tên người này người khác và ông cụ phải nhờ mọi người nhắc dùm. Khi không thỏa măn th́ ông trở nên hung hăng, đập phá, khó thở, phải uống viên thuốc an thần mới dịu xuống.




Hỏi kỹ th́ được biết ông đă bị tai biến năo, và cơn suy tim. Sở dĩ ông hay quên v́ huyết lên năo giảm. Mà huyết giảm th́ thiếu nuôi dưỡng, tế bào thần kinh kém hoạt động, và ông ta không nhớ tên người, đồng thời tính t́nh trở thành bất thường, đôi khi hoang tưởng.




-Một lăo bà than phiền không biết để cặp kính đọc sách báo ở đâu; vào pḥng tắm rồi không biết để làm ǵ; mới nghe một câu chuyện mà nửa giờ sau đă quên; bạn bè than phiền bà hẹn tới chơi rồi không tới. V́ quên.... Bà hỏi có thuốc ǵ phục hồi trí nhớ cho bà.




Lấy thêm chi tiết th́ được biết chồng bà mới mất cách đây nửa năm, rồi bà quá thương tiếc mà không ăn không ngủ được, buồn chán chẳng thiết làm ǵ, ngay cả những thú vui khi trước.




Bà được thầy thuốc cho uống thuốc chữa bệnh trầm cảm mấy tuần lễ th́ t́nh trạng hay quên thuyên giảm. Bà đă bị bệnh sầu năo, buồn phiền v́ mất người chồng thân yêu.




-Dùng nhiều dược phẩm cũng là rủi ro của kém trí nhớ. do tác dụng phụ của thuốc.




Thuốc lợi tiểu để trị cao huyết áp là một thí dụ. Thuốc làm giảm muối và nước trong máu, hóa chất trong cơ thể thay đổi. Nếu liều lượng quá cao th́ huyết áp xuống quá thấp. Năo bộ người già rất nhậy cảm với những thay đổi này, sẽ trở nên kém hoạt động về ghi nhớ và tập trung. Và hay quên.




Thuốc an thần, thuốc ngủ cũng ảnh hưởng tới trí nhớ. Cho nên thầy thuốc cần lưu ư ở điểm này và bệnh nhân cũng cần cho thầy thuốc hay mọi khác thường xẩy ra khi dùng thuốc.




-Một vài bệnh kinh niên cũng ảnh hưởng tới trí nhớ.




-Sau nhiều ngày đằng vân giá vũ du thuyết liên lục địa, về đến nhà được ít ngày th́ nhà chính khách thấy trong người mỏi mệt, không tập trung tư tưởng được, hay quên và có khó khăn trong giải quyết công việc thường lệ. Nhiều khi nhân viên thấy ông ngồi thẫn thờ như người mất hồn, đi đứng không vững. Thầy thuốc cho là ông bị căng thẳng thần kinh, v́ làm việc quá sức. Và đề nghị ông đi nghỉ dưỡng sức.




Ông làm theo nhưng khó khăn vẫn không bớt.




Một hôm ông té xỉu, đưa vào bệnh viện cấp cứu. Bác sĩ khám bệnh và phát giác nhịp tim ông rất thấp và không đều. Một máy điều ḥa nhịp tim được gắn cho ông và ông trở lại b́nh thường. Ấy là do ông có bệnh tim mà không hay.




Hay quên trong những trường hợp kể trên đâu có phải là v́ tuổi hạc, tuổi cao. Nhưng nếu được xác định là bị bệnh Alzheimer, sa sút trí tuệ, lú lẫn th́ quả là bệnh của một số người tuổi cao, người già. V́ thống kê cho hay, 4% người cao tuổi có thể bị bệnh nàỵ.




Trong bệnh Alzheimer, năo bộ bị thoái hóa, hóa chất năo suy giảm, máu huyết nuôi năo cũng ít đi, mà nguyên nhân chưa được t́m ra. Hậu quả của các thay đổi này đưa tới một căn bệnh của thế kỷ. Bác sĩ Lewis Thomas, Khoa Trưởng Đại Học Y Yale coi đây là một bệnh xấu xa nhất trong các bệnh.




Bệnh không những tàn phá bệnh nhân mà c̣n gây hậu quả tai hại cho gia đ́nh, bạn bè người bệnh. Nó bắt đầu với sự mất khả năng học hỏi, tính toán, suy nghĩ để rồi đưa đến sự khép kín hoàn toàn về tâm trí. Bệnh nhân tiếp tục sống không hồn cho tới ngày nào đó một bội nhiễm sưng phổi, những suy nhược tổng quát giải thoát cho họ.




Kết luận




Óc ghi nhận dữ kiện như một cái máy thu âm, bộ phận hải mă như là một cái nút kiểm soát. B́nh thường, nút bấm này tắt, và chỉ mở để ghi khi nào dữ kiện được coi là quan trọng.
https://i.imgur.com/qgEW3mB.jpg



Một dữ kiện không quan trọng thường lởn vởn trong đầu một lúc rồi tan biến đi. Cho nên nếu ta có quên tên một người nào đó trong tiệc cưới cũng là chuyện b́nh thường, giống như là lâu lâu ta quên, không biết ch́a khóa xe, ch́a khóa nhà để ở đâu.




Nhưng lái xe đi làm mỗi ngày trên cùng con đường mà lạc lối; quên những hẹn quan trọng; kể đi kể lại cùng câu chuyện trong một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với bạn bè, th́ là điều đáng ngại.




Những thắc mắc, lo âu, tự hỏi: Ta già rồi chăng? Hay ta đang mắc chứng năo suy trầm trọng?




Liệu trí nhớ có bỏ ta ra đi như những con chuột t́m đường chạy trốn khỏi con tầu sắp ch́m đắm dưới biển cả mênh mông!




Bác sĩ Nguyễn Ư-Đức

florida80
05-21-2019, 18:49
Hóa Ra Môi Khô Nứt Nẻ Không Phải Vì Lười Uống Nước Mà Là Do Những Điều Này



https://i.imgur.com/Ossmv8u.jpg





Thời tiết thu đông, môi bạn bắt đầu khô và nứt nẻ, thậm chí nứt đến chảy máu.


Đa số chúng ta khi gặp phải vấn đề này th́ nghĩ rằng do ḿnh ít uống nước, và sau đó bắt đầu cố gắng bổ sung nước, nhưng vẫn không thể giải quyết vấn đề một cách triệt để. Thực ra nguyên nhân của môi khô nẻ, hoặc một số vấn đề khác trên cơ thể, bắt nguồn từ việc chúng ta bị thiếu hụt vitamin. Bây giờ chúng ta cùng nhau xem thử ḿnh đang bị thiếu loại vitamin nào, và đâu là cách bổ sung vitamin hiệu quả thông qua thực phẩm, để tránh phải sử dụng đến thuốc.




1. Lở miệng, viêm miệng: Thiếu vitamin B2


Mỗi ngày chúng ta nên hấp thụ lượng vitamin B2 khoảng 1.3 mg đối với nam, khoảng 1.1 mg đối với nữ.

Nếu thấy xung quanh vùng miệng có t́nh trạng nứt nẻ, hoặc viêm nhiễm, loét lở, th́ có thể là do trong cơ thể thiếu vitamin B2. Bổ sung vitamin B2, có thể giúp chữa lành tế bào tổn thương một cách nhanh chóng. Ngoài ra vitamin B2 cũng đóng vai tṛ quan trọng đối với sức khỏe của da và tóc. Thiếu vitamin B2, da sẽ khô, tóc xơ rối và dễ găy rụng. Bạn cần bổ sung vitamin B2 từ trong thức ăn hoặc thực phẩm chức năng.

Nguồn bổ sung: Mỗi ngày uống 250 ml sữa sẽ giúp bổ sung vitamin B2 cho cơ thể. Các loại thức ăn như nấm hương, nấm mèo, đậu phộng, mè đen, hạnh nhân… cũng chứa nhiều vitamin B2.




2. Ăn không ngon miệng, giảm vị giác: Thiếu kẽm

Mỗi ngày, bác sĩ khuyên nên hấp thụ 5.5-9.5 mg kẽm đối với nam, 4-7 mg kẽm đối với nữ. Cơ thể người khi thiếu nguyên tố kẽm, sẽ giảm thiểu sức đề kháng, biếng ăn, chậm phát triển, rụng tóc, chức năng vị giác thoái hóa…V́ vậy nếu như cảm thấy ăn không ngon miệng, vị giác giảm, lại có t́nh trạng vết thương lành chậm, th́ cần cẩn thận, v́ đây có thể là triệu chứng cơ thể đang thiếu kẽm.

Nguồn bổ sung: Trong thịt ḅ, thịt dê… chứa nhiều kẽm. Bạn nên bổ sung chúng trong bữa ăn hàng ngày, nhưng chú ư không ăn quá nhiều.




3. Dạ dày không khỏe: Thiếu vitamin A

Nhu cầu cần thiết hàng ngày là 0.7 mg vitamin A đối với nam, 0.6 mg đối với nữ. Vitamin A không chỉ là nguyên tố quan trọng bảo vệ của sổ linh hồn, mà nó cũng có thể giúp cho đường hô hấp và dạ dày h́nh thành 1 lớp màng bảo vệ một cách tự nhiên, pḥng tránh vi khuẩn hoặc chất độc xâm hại cơ thể.

V́ vậy nếu không cung cấp đủ vitamin A, không chỉ không tốt đối với mắt, mà c̣n không tốt cho đường hô hấp và dạ dày.

Nguồn bổ sung: Mỗi ngày ăn chút cà rốt, hoặc là mỗi tuần ăn 1-2 lần nội tạng của động vật cũng là cách bổ sung vitamin A.




4. Dễ tức giận, tính cộc cằn: Thiếu sắt

Mỗi ngày nam cần hấp thụ 8.7 mg, nữ cần 14.8 mg lượng sắt mới đủ. Sắt là nguyên tố quan trọng, giúp cho cơ thể tạo ra tế bào hồng huyết cầu. Đối với phụ nữ mỗi tháng phải trải qua thời điểm mất máu, th́ chất sắt càng quan trọng hơn, nếu không dễ dàng gặp t́nh trạng tinh thần không tốt, tâm trạng dễ dàng buồn bă, chán nản.

Nguồn ăn uống: Thịt đỏ, trứng gà, rau cải màu xanh đậm… đều là thức ăn có chứa chất sắt, và nhớ là bổ sung nhiều vitamin C để tăng cường việc hấp thụ sắt.




5. Gót chân sưng phồng: Thiếu kiềm (kali)

Kiềm là nguyên tố quan trọng điều tiết sự cân bằng giữa axit kiềm của lượng máu và dịch thể trong cơ thể, duy tŕ sự cân bằng lượng nước và sự ổn định của áp lực thẩm thấu. Thiếu kali trong thời gian dài sẽ dẫn đến t́nh trạng nhịp tim không ổn, dễ mất nước, hay đổ mồ hôi, dễ bị chuột rút… Thiếu hụt kali trong thời gian dài, cơ thể sẽ trở nên sưng phồng, đặc biệt vùng gót chân thể hiện rơ rệt nhất.

Nguồn bổ sung: Tập thể dục xong có thể ăn chuối để bổ sung lượng kali bị thiếu hụt, pḥng tránh được t́nh trạng chuột rút. Mỗi ngày ăn một lượng trái cây, rau củ quả nhất định, sẽ giúp bổ sung được lượng kali cần thiết.




6. Đau mỏi khắp người: Thiếu vitamin D

Người nào ít phơi nắng, không đủ lượng vitamin D, sẽ dễ dẫn đến đau mỏi măn tính. Vitamin D là chất dinh dưỡng không tự động tổng hợp trong cơ thể người, nên việc bổ sung lại càng quan trọng. Vitamin D cũng là chất quan trọng đối với sức khỏe xương khớp, và răng miệng.

Nguồn bổ sung: Mỗi tuần ăn ít nhất 2 bữa cá như cá hồi, cá ṃi cơm… kết hợp với việc phơi nắng vào sáng sớm hoặc chiều muộn, sẽ đảm bảo cung cấp vitamin D cho cơ thể.




7. Những bệnh thường gặp khác

– Khô mắt: thiếu vitamin A, carotene.

– Hôi miệng: thiếu vitamin B6, kẽm.

– Răng không chắc khoẻ: thiếu vitamin A, canxi, sắt.

– Môi khô, bong tróc: thiếu vitamin A, B2.

– Thiếu máu, tay và chân lạnh: thiếu vitamin B6, acid folic, sắt.

– Mệt mỏi, thiếu năng lượng: thiếu vitamin B1, B2, B6.

– Rụng tóc quá nhiều, nhiều gàu: thiếu vitamin A, B6, kẽm, canxi.



Nguồn: kienthuckhoahocvesuc khoe.com



at 8:58 PM

florida80
05-21-2019, 18:50
V́ Sao Nhiều Người Thích Ăn Cay Dù Có Hại?









Nhiều người nhạy cảm với vị cay, một số khác ăn cay từ nhỏ nên h́nh thành thói quen này.



Khảo sát năm 2017 của tiến sĩ Kalsec cho thấy đến 90% người Mỹ thích ăn đồ cay nóng. Thực phẩm cay ngày càng tăng để đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng, tuy nhiên gây ra các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng.




Khi ăn đồ cay, chứng ợ nóng xảy ra do axit dạ dày trào ngược vào ống thức ăn, gây cảm giác nóng rát ở ngực. Một số loại ớt cay, cà ri... tác động mạnh hơn cả. Nhiều loại thực phẩm cay nóng có chứa hợp chất capsaicin, làm chậm lại quá tŕnh tiêu hóa. Khi đó, thức ăn cay ở trong dạ dày lâu hơn, kích thích nước bọt và dịch dạ dày, làm tăng nguy cơ ợ nóng, gây khó chịu. Nguy hiểm hơn c̣n có thể viêm dạ dày.




Muốn giảm tác dụng của capaicin, bạn có thể uống sữa, ăn bánh ḿ, bơ gạo. Trên thực tế, bất kỳ món ăn từ sữa kết hợp với thực phẩm cay có thể làm dịu mát khẩu vị. Nước uống không giúp làm mất tác dụng của gia vị cay như nhiều người vẫn nghĩ. Ngược lại, nó c̣n làm lây lan các phân tử ớt trong miệng.




Bác sĩ da liễu ở La Grange Park cho biết, thành phần cay c̣n là chất gây kích ứng da nghiêm trọng. Sau khi ăn cay, nhiệt độ cơ thể tăng lên và kích thích tuyến mồ hôi tiết ra, khiến da đổ dầu nhiều hơn. Bụi bẩn và vi khuẩn dễ bám lại trên dầu ở da gây mụn, thậm chí là tạo thành vết chàm.




Các nghiên cứu cũng cho thấy ăn cay gây chứng hôi miệng. Khi bạn ợ nóng, thức ăn trong dạ dày trào ngược lên thực quản, điều này có thể gây ra mùi hôi phát ra từ miệng. Một số trường hợp dây thanh âm bị viêm, khiến bạn khàn giọng. Đặc biệt khi bạn vừa ăn cay đă nằm ngủ, các axit trong dạ dày trào ngược trở lại, đốt cháy niêm mạc thực quản gây khó ngủ.




Một số nghiên cứu phát hiện thực phẩm cay có thể hạn chế sự thèm ăn. Với một số người muốn giảm cân, đây có thể là một cách hữu hiệu. Tuy nhiên, các nhà khoa học không ủng hộ ăn cay hàng ngày, bởi nó làm mất cảm giác ngon miệng và có thể khiến sự chán ăn trở thành vấn đề nghiêm trọng.

Trên thế giới, nhiều trường hợp đă được ghi nhận tử vong v́ ăn quá nhiều ớt ma, loại ớt cay nhất thế giới.




Tại sao mọi người lại thích ăn cay?

Bất chấp tất cả, nhiều người thực sự thích đồ ăn cay, họ có thể chịu đựng được sự cay nóng hơn những người khác gấp nhiều lần. Tiến sĩ Maya Feller giải thích, cơ thể mỗi người có sự nhận thức cảm tính khác nhau. Ăn thức ăn có độ cay khác nhau dựa trên chỉ số nhiệt vị giác cá nhân. Một số người cực kỳ nhạy cảm với khẩu vị này. Một số người có xu hướng tăng dần cấp độ cay của ḿnh lên.




Kèm theo đó, ảnh hưởng văn hóa cũng đóng một vai tṛ quan trọng. Nhiều người có cơ hội tiếp cận và thưởng thức những thực phẩm cay nóng thường xuyên từ khi c̣n trẻ, nên sớm h́nh thành thói quen ăn cay. Nghiên cứu cho thấy chỉ số vị giác cay được h́nh thành ngay từ khi c̣n trong bụng mẹ, biểu hiện bằng việc mẹ bầu ăn cay khi đang mang thai và cho con bú, từ đó trẻ nhỏ và trẻ sơ sinh bị ảnh hưởng.




Thúy Quỳnh (Theo Thisisnsider)

*********.net

florida80
05-22-2019, 18:25
Máu mẹ tiết lộ bí mật thai nhi



Trăn trở về thủ thuật chọc ối nguy hiểm có thể tiềm ẩn nguy cơ sảy thai, một giáo sư người Hong Kong đă phát triển phương pháp thử máu chẩn đoán hội chứng di truyền tiền sản qua ADN của thai nhi trong huyết tương mẹ.

Đồng hồ điểm quá nửa đêm một tối mùa thu năm 1996 là lúc giáo sư Yuk Ming Dennis Lo t́m ra bước đột phá hứa hẹn thay đổi nền y học hiện đại. Phát hiện được ví như báu vật của Lo chính là một ADN di chuyển tự do trong máu, có thể giúp thực hiện những xét nghiệm tiền sản cho bào thai về hội chứng di truyền, tạo lập bộ gene hoàn chỉnh, thậm chí tầm soát ung thư ở giai đoạn sớm.
Tất cả chỉ nằm trong một xét nghiệm máu đơn giản.

Bí ẩn trong máu

ADN của bào thai di chuyển tự do trong huyết tương người mẹ là phát hiện đầu tiên của giáo sư Lo. ADN này chính là cửa sổ giúp chẩn đoán sức khỏe thai nhi trong hiện tại và cả tương lai. Tuy nhiên, phát hiện quan trọng lúc đó không làm giới y khoa hứng thú.
"Họ nghĩ rằng nó chỉ được dùng cho mục đích chọn lựa giới tính", giáo sư Lo, hiện là Giám đốc Viện khoa học sức khỏe Li Ka Shing, Hong Kong, nhớ lại.
Định kiến cho rằng đây chỉ là một ứng dụng hẹp và vấp phải các vấn đề đạo đức đă khiến giới khoa học bỏ lỡ một trong những đột phá lớn nhất thế kỷ 21. Thế nhưng, khó khăn này không ngăn cản Lo tiếp tục công tŕnh đầy tâm huyết.

Khởi đầu của tham vọng vượt thời đại

Lo bắt tay truy t́m ADN của thai nhi trong máu mẹ tại đại học Oxford, Anh, nơi ông có cơ hội gặp nhà khoa học hàng đầu, giáo sư John Bell.

"Tôi được nghe giáo sư giảng về phản ứng chuỗi Polymerase (PCR), kỹ thuật khuếch đại một đoạn ADN thành hàng ngh́n, thậm chí hàng triệu bản sao. Ông ấy nói kỹ thuật này sẽ thay đổi thế giới", nhà khoa học 52 tuổi hồi tưởng.
Sau khi học cách thực hiện PCR, Lo nhanh chóng lao vào nghiên cứu một ứng dụng hiệu quả cho kỹ thuật này. Đích đến là một kiểm tra an toàn và không xâm lấn nhằm phát hiện hội chứng Down thay cho phương pháp truyền thống chọc ḍ màng ối, thủ tục sản khoa phát hiện các bất thường như hội chứng Down thông qua kiểm tra tế bào của thai nhi trong dịch ối.
"Một cây kim lớn sẽ chọc xuyên qua bụng người mẹ tới tử cung", Lo mô tả thủ thuật có thể gây sảy thai với tỷ lệ ước tính 1%, theo thống kê của Cơ quan dịch vụ sức khỏe quốc gia Anh.
"Tôi tự hỏi v́ sao các bác sĩ phải thực hiện thủ thuật nguy hiểm như vậy? Tại sao chúng ta không lấy một mẫu máu từ người mẹ để kiểm tra?" Ông nhớ lại những trăn trở thôi thúc ông t́m ra phương pháp chẩn đoán mới.



Mô tả ADN tế bào tự do của thai nhi trong huyết tương mẹ. (Ảnh: CNN).
Tuy nhiên, kiến thức khoa học thời bấy giờ lại chậm một bước so với tham vọng của Lo. Những năm 1980 khi ông c̣n là sinh viên, giới chuyên gia vẫn tin rằng máu của thai nhi và người mẹ là hoàn toàn độc lập.

Công cuộc t́m kiếm ADN bào thai trong máu mẹ của Dennis Lo kéo dài ṛng ră suốt 8 năm nhưng không mang lại kết quả. Tế bào thai nhi đi vào máu mẹ có số lượng quá ít ỏi, nghiên cứu v́ vậy phải tạm ngưng.

Ch́a khóa từ các phân tử

Năm 1997 là thời điểm bước ngoặt khi giáo sư Lo trở về Hong Kong. 3 tháng trước đó, ông biết tới thông tin những bệnh nhân ung thư được phát hiện có các ADN từ khối u trôi khổi trong huyết tương (plasma).
Các nhà khoa học nhận thấy các tế bào ung thư chết đi có thể giải phóng vật liệu di truyền vào máu người bệnh, được biết với tên ADN tự do có nguồn gốc từ các tế bào khối u chết (ctADN).

"Tôi nghĩ một đứa trẻ lớn lên bên trong người mẹ cũng giống như ung thư phát triển trong cơ thể, ngoại trừ một điều tôi chưa từng thấy khối u nào nặng hơn 3,6kg. Như vậy, nếu một khối u nhỏ có thể giải phóng đủ ADN cho chúng ta quan sát th́ một bào thai cũng có thể làm điều tương tự", Lo giải thích.

Kiên tŕ với mục tiêu, Lo buộc phải t́m được cách trích xuất ADN từ huyết tương. Ông bất ngờ t́m ra lối thoát từ một phạm trù tưởng như không liên quan.

"Khi c̣n ở Anh, tôi thường nấu mỳ ăn liền, đun sôi nước dùng rồi cho ḿ vào. Tôi chợt nghĩ cách đơn giản nhất để xử lư huyết tương chính là đun sôi nó lên", Lo chia sẻ.
Cách thức đơn giản mang tới hiệu quả không ngờ. Khi đun nóng, protein trong huyết tương, thành phần có thể phá hủy AND bị triệt tiêu, trong khi đó, ADN cần cho nghiên cứu vẫn c̣n nguyên vẹn.
Tuân theo quy tŕnh này, Lo bắt đầu kiểm tra huyết tương của thai phụ t́m kiếm ADN của thai nhi và hoàn toàn bất ngờ khi nh́n thấy kết quả đầu tiên.
"Tôi không thể tin vào mắt ḿnh, ADN của bào thai t́m kiếm lâu nay tồn tại trong chính phần mà chúng tôi đă bỏ lỡ suốt 8 năm qua".
Từ khám phá tới ứng dụng

Nhiều năm sau phát hiện ADN mang tính đột phá, giáo sư Lo vẫn không t́m được người ủng hộ hay ứng dụng nào.
"Khám phá sẽ là một giải thưởng lớn nếu có thể trở thành xét nghiệm chẩn đoán hội chứng Down", ông nhớ lại lời khuyên từ giới chuyên gia.
Hội chứng Down là bệnh di truyền, xảy ra khi thai nhi đột biến dư một nhiễm sắc thể thứ 21. Thông thường, hội chứng được chẩn đoán bằng kiểm tra các tế bào thai nhi và đếm số lượng nhiễm sắc thể. Các nhà khoa học không tin ADN tế bào tự do có thể làm được điều này. Song, giáo sư Lo đă chứng minh điều ngược lại.
Trải qua một thập kỷ nghiên cứu, năm 2007, nhóm của giáo sư Lo phát hiện v́ thừa một nhiễm sắc thể thứ 21, số lượng các phân tử sản xuất từ nhiễm sắc thể này sẽ gia tăng trong huyết tương mẹ nếu thai phụ đang mang bào thai mắc chứng Down.
"Mọi người nghĩ chúng tôi điên v́ phương pháp này đồng nghĩa với việc phải thực hiện nhiều kỹ thuật phản ứng chuỗi trùng lặp (PCR)", Lo nói.
ADN của bào thai trong huyết tương, theo vị giáo sư, là rất nhỏ. Do đó, cần thực hiện PCR khuếch đại để tạo ra đủ dữ liệu cho phân tích. Chi phí đắt đỏ lúc ấy khiến phương pháp này trở nên phi thực tế nếu ứng dụng hàng loạt. Tuy nhiên, may mắn mỉm cười với giáo sư Lo vào năm 2008 nhờ sự ra đời của kỹ thuật chuỗi tŕnh tự ADN thế hệ mới có thể tạo ra hàng triệu đoạn ADN chỉ trong thời gian ngắn.
Năm 2011, xét nghiệm máu kiểm tra hội chứng Down được triển khai hàng loạt, tới nay được hơn 90 quốc gia áp dụng. Theo thống kê mới nhất, hơn hai triệu phụ nữ mang thai đă sử dụng phương pháp mới không xâm lấn này trong xét nghiệm tiền sản.
Song song với lợi ích không thể bàn căi là vấn đề chọn lựa giới tính bị lợi dụng từ xét nghiệm ADN thai nhi. Lo cho biết, ông rất lo lắng về những rủi ro đạo đức này và đă xây dựng nên những quy định nghiêm ngặt cấm sử dụng cho mục đích chọn lựa giới tính từ khi xét nghiệm được cấp phép.


Mô tả xét nghiệm máu chẩn đoán hội chứng Down cho thai nhi trong bụng mẹ. (Ảnh: CNN).

Những khả năng vô hạn

Bí mật trong máu có thể ẩn chứa những khả năng vô hạn trong tương lai, theo giáo sư Lo. Xác lập tŕnh tự bộ gene trước khi sinh là tiền đề kiểm tra những hội chứng có thể mắc phải sau này, trong đó có ung thứ vú do đột biến gene BRCA1, ứng dụng trong dự đoán màu tóc hay tuổi thọ.
Vị giáo sư lưu ư chi phí cực đắt đỏ khiến những xét nghiệm này chưa thể thực hiện phổ biến hiện nay. Tuy nhiên, "về cơ bản, chúng ta đă mở được cửa sổ không xâm lấn để t́m hiểu về cơ thể người".
T́m kiếm ung thư

Giáo sư Lo đang tập trung nghiên cứu một xét nghiệm máu cho người trưởng thành nhằm chẩn đoán ung thư gan, mũi và ṿm họng ngay từ giai đoạn đầu mà các phương pháp tầm soát khác không thể phát hiện.

Được mệnh danh là kỹ thuật "sinh thiết lỏng", phương pháp này truy t́m trong huyết tương những ctDNA giải phóng bởi các tế bào ung thư, qua đó xác định loại ung thư và giai đoạn mà một người đang mắc phải.
Xét nghiệm này đă được triển khai trên 10.000 nam giới trung niên ở Hong Kong và có khả năng cứu sống hàng trăm ngh́n người trên thế giới nếu được áp dụng rộng răi.
Bên cạnh đó, Lo c̣n sử dụng "sinh thiết lỏng" trong giám sát phản ứng thải loại khi ghép tạng và sức khỏe của bệnh nhân sau tai nạn giao thông.
Tham vọng tiếp theo

Giáo sư Lo đặt mục tiêu tiếp theo cho ḿnh là một xét nghiệm ADN ít xâm lấn hơn, bằng cách sử dụng nước tiểu người mẹ.
"Hai giờ sau khi sinh, ADN của bào thai biến mất trong máu mẹ. Vậy ADN đó đă đi đâu? Chúng tôi đoán là trong nước tiểu", giáo sư nhận định.
Ông cho rằng nước tiểu có thể ẩn chứa một cửa sổ khác mở ra sức khỏe của người mẹ và em bé trong tương lai.
"Do đó, tôi nghĩ đây sẽ là 'kho báu' tiếp theo mà chúng tôi hướng tới", ông nói.

Theo *********

florida80
05-22-2019, 18:26
Sự Bất Tử Của Linh Hồn

Được Các Nhà Khoa Học Chứng Minh Bằng Cơ Học Lượng Tử







Gần đây, một luận thuật hoàn toàn mới dựa trên cơ học lượng tử đă chứng minh sự bất tử của linh hồn do nhà khoa học Mỹ – Giáo sư Robert Lanza đưa ra đă được các phương tiện truyền thông toàn cầu thông báo rộng răi, và thu hút được nhiều sự quan tâm, đồng thời cũng gián tiếp chứng thực những nhận thức vốn có về sinh mệnh của giới tu luyện. (Fotolia)

[Đại Kỷ Nguyên ngày 26 tháng năm 2014]
(Phóng viên Đại Kỷ Nguyên – Kỷ Tiểu Minh báo cáo tổng hợp)

Cái chết đối với mọi người có dư vị ǵ? Một lần là kết thúc hết chăng? Hay là sinh mệnh bắt đầu một cuộc hành tŕnh mới? Mặc dù dân gian và giới tu luyện đều cho rằng linh hồn là bất diệt, con người có luân hồi chuyển thế, nhưng giới khoa học từ trước tới nay vẫn không thể t́m thấy bằng chứng để phủ nhận điều này. Gần đây, một luận thuật hoàn toàn mới dựa trên cơ học lượng tử đă chứng minh sự bất tử của linh hồn do nhà khoa học Mỹ – Giáo sư Robert Lanza đưa ra đă được các phương tiện truyền thông toàn cầu thông báo rộng răi, và thu hút được nhiều sự quan tâm, đồng thời cũng gián tiếp chứng thực những nhận thức vốn có về sinh mệnh của giới tu luyện.






Giáo sư Robert Lanza tại đại học y Wake Forest North Carolina
từ quan điểm của cơ học lượng tử đă chứng minh “linh hồn là bất diệt”
(Alex Wong / Getty Images)



Sự hiểu biết hoàn toàn mới của giới khoa học “linh hồn là bất diệt”Giáo sư Robert Lanza tại đại học y Wake Forest North Carolina, thông qua nghiên cứu đă phát hiện, trong cơ học lượng tử có đủ bằng chứng cho thấy con người không hề biến mất, tử vong chỉ là ảo ảnh được tạo thành bởi ư thức của con người.

Lanza nói:

“Khi tim người ngừng đập, máu ngừng chảy, khi các nguyên tố vật chất ở trong trạng thái ngừng lại, th́ ư thức con người vẫn tiếp tục hoạt động, ngoài sự hoạt động của thân thể xác thịt này, c̣n có những “thông tin lượng tử” khác siêu việt trên cả thân thể xác thịt, hoặc có thể nói một cách thô tục là “linh hồn”.

Lanza cũng đưa ra những luận thuật về trung tâm sinh vật (biocentrism) mà đă ủng hộ các quan điểm của ông : sinh mệnh sáng tạo ra vũ trụ, có ư thức cá nhân rồi mới có sự tồn tại của vũ trụ, thực chất về sinh mệnh và các sinh vật là trung tâm thực sự của thế giới, sau đó mới có vũ trụ, vũ trụ bản thân nó không thể tạo ra sinh mệnh; ư thức sẽ làm cho thế giới biến đổi một cách có ư nghĩa, thời gian và không gian chỉ là công cụ của ư thức nhân loại. Cách nh́n về vũ trụ này là rất gần với nhận thức về vũ trụ của tôn giáo và giới tu luyện, mà trong đó ư thức của Sáng Thế Chủ đă tạo ra vũ trụ và sinh mệnh.

Phát hiện của Lanza khiến cho sự tranh luận trong thời gian dài giữa “duy vật luận” và “duy tâm luận” trở nên vô nghĩa, từ một phương diện khác nó đă chứng minh tính chính xác của pháp lư “vật chất và tinh thần là nhất tính” trong giới tu luyện.

Người có tín ngưỡng đều tin rằng linh hồn (nguyên thần) là bất diệt, tin tưởng vào luân hồi chuyển thế, và không ít người đă từng trải qua kinh nghiệm cận tử. Hai năm trước, nhà vật lư học nổi tiếng người Anh Roger Penrose, phó chủ nhiệm trung tâm nghiên cứu ư thức đại học Arizona của Mỹ – tiến sĩ Stuart Hameroff đă khẳng định tính xác thực của kinh nghiệm cận tử. Họ cho biết, khi người ta chết đi, các vật chất lượng tử cấu tạo nên linh hồn rời khỏi hệ thống thần kinh và sau đó tiến nhập vào vũ trụ, lúc ấy sẽ xuất hiện trải nghiệm cận tử. Khi các bệnh nhân xuất hiện kinh nghiệm cận tử, linh hồn rời khỏi cơ thể, trở lại vũ trụ, nếu bệnh nhân tỉnh lại, linh hồn sẽ lại một lần nữa quay trở về thân thể.

Tiến sĩ Hamer Rove tiến thêm một bước về nhận thức, linh hồn được cấu thành từ vật chất cơ bản nhất của vũ trụ, có thể là xuất hiện đồng thời với thời gian. Bộ năo con người chỉ là bộ máy tiếp nhận và khuếch đại các ư thức nguyên lai (cấu trúc bên trong vốn có trong không gian). Nhận thức này của Hamer Rove cũng là tương đối gần với cách nói của giới tu luyện. Giới tu luyện cho rằng, bộ năo chỉ là một nhà máy gia công, bản thân nó không thể tự tạo ra ư thức tư tưởng, chức năng chủ yếu của nó là tiếp nhận những tín tức từ vũ trụ và gia công thành ngôn ngữ, rồi biểu đạt ra ngoài.

Như thế rốt cuộc linh hồn tồn tại ở đâu? Giáo sư Lanza cho rằng, linh hồn không chỉ tồn tại trong vũ trụ của chúng ta, mà nó c̣n có thể tồn tại trong một vũ trụ khác. Năng lượng của ư thức linh hồn tại mỗi điểm có thể được chiêu hồi trở lại và đưa vào một thân thể khác. Cùng với sự việc này, nó tồn tại trong thế giới chân thực bên ngoài cơ thể vật lư, nhưng lại rất có thể sẽ là một vũ trụ khác. Cách nói này từ góc độ lập luận khoa học đă chứng minh tính chân thực của luân hồi chuyển thế.





Nhà vật lư nổi tiếng người Anh Roger Penrose chỉ ra, khi người ta chết đi, các vật chất lượng tử cấu tạo nên linh hồn
rời khỏi hệ thống thần kinh và sau đó tiến nhập vào vũ trụ, lúc ấy sẽ xuất hiện trải nghiệm cận tử.
(Ảnh cắt ra từ clip)






Phó chủ nhiệm trung tâm nghiên cứu ư thức đại học Arizona của Mỹ – tiến sĩ Stuart Hameroff cho rằng,
linh hồn được cấu thành từ vật chất cơ bản nhất của vũ trụ, có thể là xuất hiện đồng thời với thời gian.
Mà năo người chỉ là bộ máy tiếp nhận và khuếch đại các ư thức nguyên lai (Ảnh cắt ra từ clip)

Giới tu luyện từ lâu đă có luận định “Nguyên thần bất diệt”

Cái mà người phương Tây gọi là linh hồn, trong giới tu luyện ở phương Đông gọi là “nguyên thần”. Trong giới tu luyện, bất luận là Phật gia hay Đạo gia, đều nhận thức rằng nguyên thần là bất diệt. Một sinh mệnh chết đi, chỉ là sự tử vong của xác thịt bề mặt, linh hồn của nó sẽ lại tiếp tục chuyển sinh, tiến nhập vào sinh mệnh của một cuộc hành tŕnh khác. Và không chỉ con người có nguyên thần, mà vạn vật đều có linh (nguyên thần). Điểm này cũng đă sớm được chứng thực bởi những phát hiện khoa học.

Ngay từ năm 1966, tại cục t́nh báo trung ương Mỹ, chuyên gia Cleve Backster đă sử dụng máy phát hiện nói dối để tiến hành một loạt các thí nghiệm khoa học trên thực vật, và đă xác nhận rằng thực vật không những có ư thức, mà c̣n có hoạt động t́nh cảm cao cấp, có thể phân biệt được người, ngoài ra c̣n có công năng siêu cảm. Thí nghiệm của Backster làm chấn động toàn thế giới, rất nhiều các quốc gia trên thế giới đă lặp đi lặp lại các thí nghiệm của Backster để xác nhận tính chân thực trong các thí nghiệm của ông.

Sự khác nhau lớn nhất trong các thảo luận về sinh mệnh của giới tu luyện và các nhà khoa học chính là ở chỗ: giới tu luyện là nh́n vũ trụ từ vi quan cho tới hoành quan, xem xét nó trên cả một diện, chứ không phải chỉ một điểm. C̣n các phương pháp lư luận khoa học th́ bắt đầu từ một điểm (ví dụ: phân tử), rồi tiếp tục đi sâu vào nghiên cứu (phân tử, nguyên tử, hạt nhân nguyên tử, proton, ….).

V́ thế, giới tu luyện cho rằng, cả một tầng các phân tử chính là một không gian, các nguyên tử tổ hợp thành phân tử lại là một không gian c̣n lớn hơn, vi quan hơn. V́ vậy, khi một sinh mệnh chết đi, chỉ là cấu trúc phân tử bề mặt này của cơ thể bị giải thể, tầng vi quan hơn của cơ thể (do các nguyên tử cấu thành) trong không gian nguyên tử th́ vẫn c̣n tồn tại.

C̣n về nguyên thần (linh hồn), giới tu luyện cho rằng nó mới chính là sinh mệnh chân chính vĩnh hằng, thân thể người hoặc động vật hay thực vật chỉ đóng vai tṛ tải thể của nguyên thần (linh hồn), là nơi để hoàn thành các quá tŕnh sống của sinh mệnh. Đây là những ǵ mà mọi người thường gọi là luân hồi chuyển thế. Giới tu luyện cho rằng, một nguyên thần (linh hồn) phải xuống địa ngục chịu tội trả nợ, hay là chuyển sinh thành động vật hoặc thực vật, đều là do các sinh mệnh cao cấp hơn dựa trên những biểu hiện thiện và ác trong các kiếp sống trước của sinh mệnh ấy mà quyết định.

Về vấn đề này, ông Gia Cát Minh Dương, một nhà văn độc lập cho biết: “linh hồn bất diệt” là một chủ đề rất lớn, nó liên quan đến sinh mệnh, vũ trụ và luân lư đạo đức v.v… nó vượt qua lĩnh vực nhận thức của nền khoa học nhân loại. Mặc dù các luận chứng chứng minh “linh hồn bất diệt” của Robert Lanza và các nhà khoa học khác không chắc đă hoàn toàn chính xác, nhưng lại có một ư nghĩa rất đặc biệt, nó đă phá vỡ những điều cấm kỵ của khoa học, khiến mọi người phải suy nghĩ lại về cội nguồn của ư thức tư tưởng, nguồn gốc và ư nghĩa thực sự của sinh mệnh, mối quan hệ giữa con người và vũ trụ, và những hậu quả của hành thiện và làm ác .v.v… “


Tác giả: Kỷ Tiểu Minh, Dajiyuan
Dịch giả: Việt Nguyên
28 Tháng Năm , 2014
(Chịu trách nhiệm biên tập: Lư Hiểu Thanh)

florida80
05-22-2019, 18:27
Ngoài ảnh hưởng năo, người bệnh có thể bị liệt do vi rút Zika



Khi mắc virus Zika, người bệnh có thể bị biến chứng Guillain-Barre, biểu hiện của biến chứng này là liệt từ chân, lan lên bụng rồi đến cơ hô hấp, dẫn tới người bệnh không thể thở được và tử vong.

Lâu nay, bệnh do virus Zika.vẫn được các nhà khoa học cảnh báo không mấy nguy hiểm, thậm chí chưa ghi nhận ca tử vong trực tiếp nào liên quan đến loại virus này. Có chăng chỉ là biến chứng dị tật đầu nhỏ ở thai nhi đối với những bà mẹ thai thai dưới 3 tháng.

Tuy nhiên, trong ngày 10/4 các nhà khoa học Brazil và Mỹ đă công bố nghiên cứu khiến cả thế giới bàng hoàng đó là virus Zika c̣n tấn công vào hệ thống thần kinh trung ương ở cả người lớn, gây ra căn bệnh viêm năo tủy cấp lan tỏa, hay c̣n gọi là ADEM.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), ADEM thường xảy ra do hậu quả của một căn bệnh nhiễm trùng nào đó, gây sưng dữ dội trong năo và tủy sống, làm thiệt hại myelin, các lớp phủ bảo vệ màu trắng xung quanh sợi thần kinh. Kết quả khiến cơ thể mệt mỏi, tê, mất thăng bằng, tầm nh́n và một số triệu chứng tương tự như bệnh đa xơ cứng.

Theo các chuyên gia, mặc dù nghiên cứu nhỏ nhưng có thể cung cấp bằng chứng khẳng định việc virus Zika có tác động lên năo nhiều hơn so với các nghiên cứu trước đó.


Biến chứng Guillain-Barre có thể khiến cơ thể bị liệt, thậm chí là tử vong.

Trước nghiên cứu này, nhiều người Việt Nam không khỏi lo lắng khi nước ta đă phát hiện virus Zika ở Khánh Ḥa và Thành phố Hồ Chính Minh, đáng nói hơn các chuyên gia c̣n nhận định virus Zika rất dễ bùng phát trên diện rộng v́ nước ta lưu hành sẵn vét tơ truyền bệnh đó là loại muỗi vằn.

Không chỉ có vậy, cũng trong ngày 10/4, trong chương tŕnh Truyền h́nh trực tuyến: Cảnh giác cao độ với virus Zika và Sốt xuất huyết, Ths.BS Nguyễn Quốc Thái (Khoa Truyền nhiễm – Bệnh viện Bạch Mai) cho biết, bệnh do virus Zika cũng có những biến chứng nặng, trên thế giới hiện nay cũng đă có 1 số trường hợp tử vong do bệnh nhiễm virus zika, chứ bệnh này không phải lành tính tuyệt đối.

BS Thái cho biết, biến chứng nặng có thể làm cho người bệnh tử vong đó chính là biến chứng Guillain-Barre, hay chúng ta c̣n gọi là viêm đa dây rễ thần kinh. Biểu hiện của biến chứng này là người bệnh bị liệt, liệt từ chân, lan lên bụng rồi đến cơ hô hấp, dẫn tới người bệnh không thể thở được, dẫn tới tử vong.

Mặc dù tỉ lệ gặp biến chứng này rất là thấp nhưng không phải là không có, v́ thế chúng ta cần phải cảnh giác. Chúng tôi khuyên rằng, dù người bệnh có biểu hiện bệnh nhẹ vẫn cần phải đến cơ sở y tế để được tư vấn, để được khẳng định xem ḿnh có bị bệnh virus zika hay không và kế hoạch theo dơi bệnh phù hợp, đề pḥng các biến chứng bệnh nặng.

Để pḥng bệnh do virus Zika, Bộ Y tế khuyến cáo phụ nữ có thai hoặc đang có kế hoạch mang thai không nên đến các quốc gia đang có dịch bệnh. Người dân cần đậy kín tất cả các dụng cụ chứa nước để muỗi không vào đẻ trứng.

Thực hiện các biện pháp diệt loăng quăng, bọ gậy bằng cách lật úp các dụng cụ chứa nước không cần thiết, thả cá vào dụng cụ chứa nước lớn, thau rửa dụng cụ chứa nước vừa và nhỏ, thay nước b́nh hoa/b́nh bông, bỏ muối hoặc dầu vào bát nước kê chân chạn.

Loại bỏ các vật liệu phế thải, các hốc nước tự nhiên không cho muỗi đẻ trứng như chai, lọ, mảnh chai, vỏ dừa, mảnh lu vỡ, lốp/vỏ xe cũ, hốc tre, bẹ lá... Ngủ màn, mặc quần áo dài pḥng muỗi đốt ngay cả ban ngày.

Tích cực phối hợp với ngành y tế trong các đợt phun hóa chất diệt muỗi để pḥng, chống dịch. Người nhập cảnh về từ các quốc gia có lưu hành vi rút Zika chủ động tự theo dơi sức khỏe trong ṿng 14 ngày, nếu có biểu hiện sốt đến ngay cơ sở y tế để được khám và tư vấn điều trị, không tự ư điều trị tại nhà.

Những trường hợp phải xét nghiệm phát hiện virus Zika.

Vi rút Zika có ảnh hưởng không lớn đến sức khỏe của người dân b́nh thường; tuy nhiên trước nguy tiềm ẩn tác động của vi rút Zika gây chứng đầu nhỏ đối với trẻ sơ sinh, Bộ Y tế khuyến cáo:

1. Người dân nếu có dấu hiệu sốt hoặc phát ban và có ít nhất một trong số các triệu chứng như đau mỏi cơ, khớp, viêm kết mạc cần đến cơ quan y tế để được khám, tư vấn và chẩn đoán xác định bệnh.

2. Người dân không nên tự xét nghiệm xác định vi rút Zika khi chưa có ư kiến tư vấn của cán bộ y tế. Việc xét nghiệm các trường hợp nghi ngờ nhiễm vi rút Zika chỉ tiến hành khi có chỉ định của cơ quan y tế.

3. Phụ nữ đang mang thai trong 3 tháng đầu, sống trong vùng có dịch hoặc đă từng đến vùng có dịch nếu có dấu hiệu sốt hoặc phát ban và có ít nhất một trong số các triệu chứng như đau mỏi cơ, khớp, viêm kết mạc nên đi xét nghiệm xác định vi rút Zika.

4. Phụ nữ đang mang thai trong 3 tháng đầu có chồng hoặc bạn t́nh có xét nghiệm vi rút Zika dương tính nếu có dấu hiệu sốt hoặc phát ban và có ít nhất một trong số các triệu chứng như đau mỏi cơ, khớp, viêm kết mạc nên đi xét nghiệm xác định vi rút Zika.

5. Để chủ động pḥng ngừa bị nhiễm vi rút Zika, người dân chủ động áp dụng các biện pháp tránh bị muỗi đốt và tích cực tham gia diệt muỗi, loăng quăng (bọ gậy).


VietBao.vn (Theo Khám phá >>>/khamphavn)



Reply With Quote Reply With Quote .

--------------------------------------------------------------------------------

florida80
05-22-2019, 18:28
Dấu hiệu cảnh báo nồng độ axit trong cơ thể quá cao


Nồng độ axit trong cơ thể quá cao có thể gây ra nhiều vấn đề sức khỏe; giá trị pH của máu giảm xuống dưới 7 có nghĩa cơ thể bạn đang tích tụ nhiều axit.
Dưới đây là một số dấu hiệu đơn giản để nhận biết nồng độ axit cao trong cơ thể, theo Boldsky.
Xương yếu




Lượng canxi trong xương của bạn sẽ được sử dụng làm cho xương yếu hơn. (Ảnh: Boldsky).



Khi nồng độ axit quá cao, cơ thể sẽ cố gắng để trung ḥa chúng bằng cách sử dụng các khoáng chất nhất định từ các khu vực khác như xương. V́ vậy, lượng canxi trong xương của bạn sẽ được sử dụng làm cho xương yếu hơn.

Mệt mỏi mọi lúc

Các vi sinh vật trong cơ thể của bạn sẽ sinh sôi và phát triển ở trong môi trường axit thuận lợi khiến hệ thống miễn dịch gặp rắc rối, bạn trở nên mệt mỏi mọi lúc mọi nơi.

Cân nặng tăng

Nồng độ axit vượt quá mức phản ánh trọng lượng cơ thể của bạn. Thận và ruột già sẽ đấu tranh để thoát khỏi các axit và khi bất lực, các mô mỡ sẽ tích lũy axit.

Vấn đề về răng




Các loại thực phẩm có tính axit cũng có thể gây hại cho răng. (Ảnh: Boldsky).



Nếu bạn gặp các vấn đề về răng miệng hăy nghĩ ngay đến nồng độ axit trong cơ thể. Axit làm tổn hại đến nồng độ canxi trong răng. Các loại thực phẩm có tính axit cũng có thể gây hại cho răng.

Da nhợt nhạt

Mức độ axit cao cũng có thể gây ra vấn đề về da và chất lượng của làn da. Mụn trứng cá và phát ban xuất hiện khi cơ thể đang cố gắng thải độc tố qua da.

Mất ngủ

Cơ thể trở nên bồn chồn trong giấc ngủ khi có nồng độ axit quá cao. Thiếu ngủ khiến bạn mệt mỏi và ốm yếu.

Đau nhức cơ

Khi nồng độ axit trong cơ thể quá cao, cơ bắp có xu hướng co lại và gây đau nhức bắp thịt.


Theo *********

florida80
05-22-2019, 18:29
Cẩm nang cho những thói quen lành mạnh trên web
Doug Bernard - VOA



(Hay, "Tôi đă bắt đầu lo lắng và bảo vệ sự riêng tư của ḿnh trên mạng ra sao")







Minh họa bởi Steve Fuchs

Ở mặt lợi nhất, Internet có thể biến máy tính hoặc thiết bị di động của bạn thành một thư viện nghiên cứu, rạp chiếu phim, một công cụ y tế hoặc một phương tiện để kết nối với bất cứ ai khác trên hành tinh. Đó là một nơi an toàn, rộng mở để bạn là chính ḿnh và phát triển bản thân.

Ở mặt hại nhất, Internet có thể trở thành một nơi tối tăm và đầy mối đe dọa - một công cụ để những kẻ trộm đánh cắp, để những công ty theo dơi và để những chính phủ đàn áp.

Như người ta vẫn nói, chúng ta biến Internet thành thế nào th́ nó ra thế ấy.

Thông tin có thể lưu thông tự do, nhưng có rất nhiều thế lực muốn chặn ḍng chảy thông tin trên Internet và trừng phạt những người t́m cách kháng cự.

Đặc biệt, một số chính phủ đang ra sức dựng tường ngăn cách một số nơi trên Internet bằng cách lọc và chặn những ǵ người ta có thể nh́n thấy. Những chính phủ khác th́ đang lợi dụng tính chất rộng mở của Internet để theo dơi những cá nhân và trừng phạt họ về những ǵ họ làm trên mạng.

Khi những công nghệ theo dơi và kiểm duyệt trở nên tân tiến th́ những công cụ mới dành cho máy tính hoặc thiết bị di động của bạn cũng vậy, giúp bảo vệ sự riêng tư của bạn và vượt qua sự kiểm duyệt Internet.

Hăy suy nghĩ về công tŕnh này như một cẩm nang giúp tránh kiểm duyệt Internet và ẩn danh.

Đây là phần tổng quan cơ bản về những thách thức và cách thức để kháng cự, nhấn mạnh đến tính chất "cơ bản." Đây không phải là bộ quy tắc hoàn chỉnh, bất di bất dịch, và bất biến. Thay vào đó, hăy xem đây là một chỉ dẫn khái quát bàn về một số khái niệm chủ chốt và giới thiệu một số công cụ có thể giúp bạn giữ cho Internet tương đối tự do và an toàn.

Hăy nhớ

Tránh kiểm duyệt không phải là ẩn danh:

Vượt tường lửa không đồng nghĩa với ẩn danh trên mạng. Một số trong những công cụ mà chúng ta sẽ tập trung bàn tới sẽ giúp bạn vừa tránh được những biện pháp ngăn chặn vừa bảo vệ được danh tính của ḿnh khi lên mạng. Một số công cụ có xu hướng hữu hiệu ở mặt này hay mặt kia, nhưng không phải cả hai.

Mỗi quốc gia, giống như mỗi người sử dụng, đều khác nhau:

Nếu bạn đang định tải nhiều thứ lên mạng, hoặc sống trong một đất nước mà chính phủ tích cực theo dơi người dùng đang làm ǵ trên Internet, có thể bạn muốn chọn một công cụ có tính ẩn danh cao. Nếu bạn chủ yếu chỉ muốn truy cập những website mà chính phủ của bạn chặn, bạn có thể sử dụng những công cụ chỉ giúp bạn làm điều đó thôi là được. Và hăy nhớ, không có một công cụ nào có thể làm tất cả mọi thứ, v́ vậy bạn có thể muốn thử kết hợp tính năng bảo mật và tránh kiểm duyệt của riêng ḿnh.

Đôi khi chính phủ không phải là vấn đề:

Vào đầu những năm 2000, hai nhà bất đồng chính kiến người Trung Quốc, Vương Tiểu Ninh và Sư Đào, bị Trung Quốc bỏ tù v́ những hoạt động trực tuyến của họ. Điều mà thời đó không nhiều biết là Yahoo đă tự nguyện giao những email của hai người này cho chính quyền Trung Quốc, sau đó những email này được các công tố viên sử dụng. Điều quan trọng cần nhớ là những công ty tư nhân điều hành những website và những nhà cung cấp dịch vụ Internet thường xuyên thu thập mọi loại dữ liệu về bạn, đôi khi v́ lợi nhuận của riêng họ, và đôi khi theo lệnh của chính phủ.







Một số công cụ tốt hơn những công cụ khác:

Vào năm 2009 trong sự kiện được gọi là cuộc "Cách mạng Twitter," người dân Iran đă xuống đường để phản đối cuộc bầu cử gần đây và sử dụng những website, mạng xă hội và những công cụ trực tuyến khác để tổ chức, cho đến khi chính phủ ra tay trấn áp. Và rồi xuất hiện một công cụ mới được gọi là "Haystack" giúp người dân Iran tránh kiểm duyệt của chính phủ. Tuy nhiên, v́ một lỗi lập tŕnh, "Haystack" cũng có thể đă để lộ danh tính của nhiều người sử dụng cho nhà chức trách Iran trước khi nó bị dẹp bỏ. Bài học rút ra: mới không hẳn là tốt.

Thực hành giữ ‘vệ sinh’ trên mạng:

Cũng giống như bạn cần một chút kỷ luật trong cuộc sống cá nhân của ḿnh, bạn nên luôn luôn thực hành một số thói quen cơ bản khi lên mạng. Cố gắng không sử dụng mạng WiFi công cộng, v́ bất cứ ai cũng có thể dễ dàng theo dơi những ǵ bạn đang làm và đánh cắp thông tin cá nhân của bạn. Nếu bạn sử dụng một tŕnh duyệt web, hăy cố gắng sử dụng mă hóa HTTPS thường xuyên nhất có thể. Đừng mở email từ những người mà bạn không quen biết, hoặc đừng mở những file đính kèm mà bạn không yêu cầu. Xóa lịch sử tŕnh duyệt của bạn và những file cookies thường xuyên nhất có thể. Bạn không cần phải lo sợ về việc sử dụng Internet, nhưng một chút ngờ vực sẽ đỡ rủi ro cho bạn rất nhiều.

Không có ǵ là hoàn hảo:

Nếu có điều ǵ đó có thể nói một cách hết sức chắc chắn th́ đó là: không có sự bảo đảm tuyệt đối 100 phần trăm tính ẩn danh và tự do truy cập Internet. Nếu một chính phủ đă muốn phải kiểm soát bằng được những ǵ bạn làm trên mạng th́ có lẽ họ sẽ t́m ra cách

florida80
05-22-2019, 18:30
Tảo biển giúp chữa khỏi ung thư ác tính .



Các nhà khoa học vừa phát hiện một hợp chất mới trong tảo tiềm ẩn các tính năng chống ung thư hiệu quả.

Theo nhóm nghiên cứu đến từ Đại học Oregon (Mỹ), hợp chất có tên gọi coibamide A trong tảo có thể chống lại 2 trong số các dạng ung thư nặng nhất là u năo và ung thư vú âm tính với 3 thụ thể nội tiết (triple negative breast cancer). Coibamide A đă cắt đứt khả năng kết nối với các mạch máu và những tế bào khác của các tế bào ung thư, kích hoạt cái chết của các tế bào bị bệnh.


Hợp chất coibamide A trong tảo được phát hiện có thể chống lại 2 trong số các dạng ung thư nặng nhất là u năo và ung thư vú ác tính.

Khám phá trên có thể dẫn tới các loại thuốc mới, giúp chữa trị những căn bệnh ung thư ác tính.

Tiến sĩ Jane Ishmael, người đứng đầu nhóm nghiên cứu, tuyên bố: "Cho đến nay, chưa có loại thuốc nào trong sử dụng lâm sàng hoặc trong bất kỳ thử nghiệm lâm sàng nào hoạt động theo cách này. Chúng tôi đang sử dụng nó để thử t́m ra một con đường mới nhằm kích hoạt cái chết tế bào trong những tế bào ung thư, vốn vẫn được coi là có sức đề kháng rất cao trước cái chết của tế bào".

Hợp chất Coibamide A được tiến sĩ Kerry McPhail thuộc Đại học Oregon phát hiện đầu tiên trong khi đi lặn ở công viên quốc gia Coiba của Panama cách đây 8 năm. Nhà khoa học này đă thu thập các mẫu tảo xanh dương - xanh lục có tên gọi là cyanobacteria và khám phá ra rằng, chúng là sản phẩm lai ghép của ít nhất 3 loài tảo cùng sinh trưởng trên đá tại những khu vực có nước chảy nhanh. Các cộng đồng tảo tương tự cũng được t́m thấy ở biển Đỏ và ngoài khơi bờ biển Nam Phi.

Tiến sĩ McPhail đă phân lập coibamide A khỏi những mẫu vật gốc và cho nó chạy qua hệ thống soi kiểm để t́m kiếm hoạt động chống ung thư. Hợp chất đă cho thấy một kiểu hoạt động không giống bất kỳ chất nào khác, ám chỉ nó có thể chống lại ung thư thông qua một cơ chế chưa từng quan sát được ở các loại dược phẩm hiện hành.

Quá tŕnh soi kiểm cũng hé lộ, coibamide A có khả năng tiêu diệt nhiều loại tế bào ung thư, đặc biệt là các tế bào ung thư vú và ung thư năo ác tính - u nguyên bào thần kinh đệm (glioblastoma).

U nguyên bào thần kinh đệm hiện rất khó chữa trị v́ các khối u thường phát triển rất nhanh và không đáp ứng tốt trước các loại thuốc hóa trị. Tuy nhiên, với các mẫu u năo trên động vật, việc chữa trị bằng coibamide A đă làm giảm đáng kể kích thước của khối u.


Theo Tuấn Anh (**********)
khamphavn.

florida80
05-22-2019, 18:31
WHO: Lây truyền virus Zika qua đường t́nh dục ngày càng phổ biến .



Tổ chức y tế thế giới (WHO) vừa đưa ra thông báo trích dẫn từ báo cáo của một số quốc gia về t́nh trạng lây nhiễm virus Zika qua đường t́nh dục đang ngày càng trở nên phổ biến hơn các nhà khoa học dự đoán.

Sau cuộc họp khẩn cấp vào ngày 8/3/2016, cơ quan y tế của WHO cho biết, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy một có một sự tăng lên bất thường trong các căn bệnh liên quan đến dị tật bẩm sinh và các vấn đề thần kinh do virus zika gây ra, chủ yếu do muỗi đốt.



Khi WHO tuyên bố dịch Zika bùng nổ ở Châu Mỹ là một trường hợp khẩn cấp toàn cầu vào tháng trước th́ virus Zika được cho là chỉ lây truyền gián tiếp qua muỗi.

Tổng giám đốc WHO, tiến sĩ Margaret Chan phát biểu: “Các báo cáo và nhiều cuộc điều tra ở một số nước đă khẳng định việc lây truyền virus Zika qua đường t́nh dục là phổ biến hơn các dự đoán trước đây”. Riêng tại Mỹ, giới chức nước này cũng đang tiến hành điều tra hơn 10 trường hợp nghi nhiễm Zika qua đường t́nh dục.

Tiến sĩ Bruce Aylward, người đang chịu trách nhiệm trực tiếp về những phản ứng của WHO với vấn nạn Zika cho biết, cho đến nay các trường hợp nhiễm Zika do quan hệ t́nh dục là từ nam sang nữ. Những người đàn ông có nghi ngờ quan hệ t́nh dục chịu trách nhiệm lớn trong việc phát tán căn bệnh và muỗi vẫn là loài trung gian truyền bệnh chính.

Chan cho biết, 9 quốc gia vừa báo cáo về việc tăng các trường hợp về hội chứng Guillain-Barre, một căn bệnh hiếm gặp có mối liên hệ với virus Zika và có thể gây nên tê liệt tạm thời hoặc tử vong ở người thuộc mọi lứa tuổi.

Bà cũng nói thêm, các căn bệnh có mối liên hệ với virus Zika bao gồm hội chứng Guillain-Barre hiện đang được thấy không chỉ trên phụ nữ trong độ tuổi sinh sản mà c̣n cả ở trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành.

WHO nhận định, virus Zika hiện nay đă xuất hiện ở hơn 30 nước và vùng lănh thổ trên thế giới. Trong đó, số ca nhiễm bệnh nhiều nhất ở các nước Mỹ Latin và vùng Caribe. “Tất cả những tin tức này đang là hồi chuông báo động với chúng ta”, Chan quả quyết.

Mặc dù hiện nay chưa có bằng chứng chắc chắn rằng Zika gây nên dị tật bẩm sinh và các vấn đề về thần kinh, các quốc gia cũng không nên chờ đợi những bằng chứng khoa học mà nên sớm đưa ra các khuyến nghị kịp thời.

“Bệnh đầu nhỏ ở trẻ chỉ là một trong số những dị tật bẩm sinh liên quan đến nhiễm Zika trong khi mang thai, Zika c̣n có thể gây ra những vấn đề về tăng trưởng, tổn thương hệ thần kinh trung ương và thai chết lưu”, Chan nói.

Ủy ban khẩn cấp của WHO kêu gọi các nghiên cứu chuyên sâu về mối liên hệ giữa nhóm những đứa trẻ mới sinh với triệu chứng đầu nhỏ và các rối loạn về hệ thần kinh, đặc biệt dành sự quan tâm đến việc nghiên cứu sự di truyền của các chủng virus Zika khác nhau. Sau đó thiết lập cácnghiên cứu nhằm xác định xem có mối quan hệ nhân quả hay không.

Tính đến nay, các trường hợp trẻ sơ sinh bị dị tật đầu nhỏ hoặc biến dạng liên quan đến Zika mới chỉ được ghi nhận tại Brazil và vùng Polynesia, Pháp. Dù vậy WHO cũng đang chờ đợi báo cáo đến từ các quốc gia khác, nơi virus Zika đă lan truyền đủ lâu để có thể gây nên ảnh hưởng đến phụ nữ có thai. Colombia cũng vừa báo cáo một vài trường hợp nghi ngờ bị chứng đầu nhỏ.

Chan cũng cảnh báo: “Phụ nữ có thai trong vùng nhiễm bênh hoặc đang di chuyển đến các quốc gia này phải thực sự cẩn trọng”.

WHO khuyến cáo phụ nữ mang thai tránh đi vào vùng đang bùng phát Zika, trong trường hợp người thân của họ đi vào các quốc gia này, họ nên đặc biệt lưu ư đến việc quan hệ t́nh dục an toàn hoặc tránh quan hệ trong thời gian mang thai.


Long Lê (ABC News)/khampha.

florida80
05-22-2019, 18:32
Phát hiện loài muỗi thứ hai mang virus Zika .



Sự xuất hiện của loại muỗi mới khiến cho t́nh h́nh trở nên khó kiểm soát.

Virus Zika (ZIKV) là một virus RNA (arbovirus) thuộc chi Flavivirus, họ Flaviviridae, được lây truyền chủ yếu qua vết cắn của muỗi Aedes bị nhiễm. Tên của virus lấy tên của khu rừng Zika, gần hồ Victoria ở Uganda, nơi loài muỗi này được t́m thấy lần đầu tiên vào năm 1947.


Bản đồ dự đoán khu vực ảnh hưởng của virus Zika trên toàn thế giới trong mùa hè này. Nguồn ảnh: Đại học Texas (Hoa Kỳ).

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) vừa công bố những bằng chứng cho thấy có mối liên hệ giữa virus Zika với hai hội chứng rối loạn thần kinh. Đó là gây teo năo ở trẻ sơ sinh và hội chứng làm tê liệt hệ thần kinh ở người lớn (thường gọi là Hội chứng tự miễn dịch Guillain-Barré).

Các nhà khoa học dự đoán rằng trong mùa hè này, dịch bệnh Zika sẽ tràn đến cả những thành phố lớn ở Hoa Kỳ như Miami và Houston.

Sahotra Sarkar, một giảng viên tại Khoa sinh học lây nhiễm và các đồng nghiệp tại Đại học Texas (Hoa Kỳ) đă đưa ra những dự báo rơ ràng về khả năng lây lan của Zika đến hơn 100 thành phố lớn trên toàn thế giới. Hai yếu tố chủ chốt đứng đằng sau sự lan tràn quá mức của Zika là hoạt động du lịch bằng đường hàng không và sự sinh sôi của hai loài muỗi phổ biến có khả năng mang bệnh.

Mặc dù hiện nay, các nhà khoa học mới chỉ chứng minh được có duy nhất một loài muỗi có khả năng mang virus Zika, nhưng các nhà nghiên cứu hiện đă t́m thấy các dấu hiệu rất rơ ràng rằng tồn tại một loài muỗi thứ hai cũng có khả năng mang bệnh. Nếu điều này là sự thật th́ Zika sẽ có khả năng lan tràn đến cả Hoa Kỳ cũng như phần lớn châu Âu và châu Á.

Các quan chức của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và các cơ quan khác cho rằng, có quá ít thông tin về số lượng loài muỗi có khả năng mang bệnh trong thực tế. Điều này đă khiến cho công tác dự báo đánh giá thấp mối nguy hiểm thật sự của Zika. Trong mô h́nh mô phỏng trên máy tính áp dụng điều kiện chỉ có loài muỗi Aedes aegypti có khả năng lây bệnh th́ tại Hoa Kỳ, chỉ có bang Florida, Texas và Louisiana có thể xuất hiện bệnh.

Trong số các khu đô thị đông dân tại Hoa Kỳ, Miami và Houston là hai thành phố có nguy cơ lớn nhất.

Theo kịch bản thứ hai, nếu một loài muỗi khác là Aedes albopictus cũng được chứng minh là thật sự có khả năng mang bệnh th́ những quốc gia như Canada, Chile và nhiều quốc gia khác ở châu Âu, châu Á cũng sẽ bị lây nhiễm Zika ở phạm vi rất lớn.

Các nhà khoa học hiện đang hợp tác chặt chẽ với các quan chức quản lư y tế công cộng của các nước nằm trong khu vực nguy hiểm nhằm đề ra kế hoạch đối phó thích hợp.

Họ cũng cảnh báo rằng các thành phố lớn như Miami, Orlando, Houston, Tampa và New Orleans cần phải tăng cường nỗ lực để lấy các mẫu thử và giám sát quần thể muỗi sinh sống ở địa phương. Đồng thời cần phải sử dụng các biện pháp kiểm soát muỗi quyết liệt nếu thấy bất ḱ dấu hiệu bất thường nào xảy ra.

Thêm vào đó, dịp thế vận hội mùa hè 2016 sắp được tổ chức tại Rio de Janeiro, Brazil, sẽ khiến nơi đây có nguy cơ lớn trở thành một ổ dịch Zika khổng lồ.

Phan Thanh (Sciencedaily)/khampha.



Reply With Quote Reply With Quote .

--------------------------------------------------------------------------------