View Full Version : Your's Health
Pages :
1
2
3
4
5
[
6]
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
florida80
05-31-2019, 19:19
Thuốc Cai Nghiện Hút Thuốc Lá Liên Quan Đến
Nguy Cơ Tim Mạch, Trầm Cảm và Ư Tưởng Tự Sát
('Quit smoking' drug linked to heart risk )
Lynn Ly phỏng dịch bản tin từ trang web Health của BBC News
http://www.bbc.co.uk/news/health-14015089
Theo BBC New , ngày 4 tháng 7, 2011
Các nhà nghiên cứu cho biết là một loại thuốc được người hút thuốc sử dụng để giúp họ bỏ thuốc lá đang làm tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim (heart attacks) và các vấn đề tim mạch nghiêm trọng khác.
Một nhóm nghiên cứu quốc tế đă cứu xét lại những cuộc nghiên cứu liên quan đến hơn 8.000 người hút thuốc lá, và đă phát hiện người sử dụng thuốc Champix bị phát bệnh nhiều hơn những người dùng loại thuốc ngụy tạo khác (the other dummy drugs)
Việc cứu xét này, được đăng tải trên Tạp chí Hiệp hội Y tế Canada (the Canadian Medical Association Journal, www.cmaj.ca/content/183/12/1359 ), đề nghị người nghiện hút thuốc không nên sử dụng thuốc để cai nghiện .
Tuy nhiên, các nhà sản xuất Pfizer nói rằng thuốc giúp cai nghiện là "một chọn lựa hỗ trợ quan trọng" (important option) để trợ giúp người nghiện bỏ hút thuốc lá, và các chuyên gia đă "nghiêm trọng hóa" việc hút thuốc như đó là 1 yếu tố chính về nguy cơ bệnh tim .
Thuốc Champix (varenicline)được chỉ định trong hơn 955,000 toa thuốc tại Anh Quốc vào năm ngoái (2010). Hoạt tính của thuốc là cắt giảm cơn thèm thuốc, nhưng trong quá khứ thuốc có liên quan đến bệnh trầm cảm và những ư tưởng tự sát.
"NHỮNG LỢI ÍCH SO VỚI NHỮNG HUNG HIỂM RỦI RO"
Việc cứu xét này, được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu tại trung tâm Wake Forest Baptist Medical thuộc Bắc Carolina, trường đại học Y khoa Johns Hopkins - Maryland, và trường Đại học Anh Quốc Eat Anglia (the UK's University of East Anglia) , đă cứu xét 14 cuộc nghiên cứu nhắm vào các vấn đề tim mạch ở những người dùng thuốc cai nghiện
Tất cả đơn vị được loại trừ những người có tiền sử bệnh tim, và được kéo dài từ bảy tuần đến một năm. Phần lớn những người tham gia là nam giới ở độ tuổi dưới 45.
Trong số 4.908 người dùng thuốc Champix (được gọi là Chantix ở Mỹ), 52 người có trải nghiệm về vấn đề tim mạch nghiêm trọng như nhồi máu cơ tim (heart attack) hay chứng loạn nhịp tim / nhịp tim bất thường (arrhythmia) so với 27 người trong số 3308 người dùng các loại thuốc ngụy tạo (dummy drugs).
Cơ quan Quản lư thực phẩm và thuốc men Hoa Kỳ (FDA) đă ra cảnh báo được in ra trên tờ giấy thông tin nho nhỏ về nguy cơ những ư tưởng tự sát và mới gần đây đă bổ xung vào tờ thông tin về nguy cơ tim mạch đối với những người đă có bệnh tim sau khi xem xét một nghiên cứu trên 700 người.
Trên tạp chí, các nhà nghiên cứu cho biết: "Các bác sĩ lâm sàng nên cẩn thận cân bằng giữa những rủi ro nhiêm trọng về tim mạch có liên quan với việc sử dụng thuốc varenicline so với các lợi ích được biết đến của thuốc cai nghiện thuốc lá."
Bác sĩ Yoon Loke của trường đại học East Anglia, người đă thực hiện việc cứu xét, đă đồng ư về các con số liên quan là nhỏ, nhưng nói lên khả năng là các cuộc nghiên cứu đă chỉ xem xét ở những người khỏe mạnh - và ông cho rằng nguy cơ có thể lớn hơn cho những người hút thuốc mà đă có vấn đề về tim mạch .
Ông bổ xung thêm : "Có rất nhiều những chọn lựa khác để trợ giúp người ta cai nghiện thuốc lá mà không đ̣i hỏi dùng thuốc cai nghiện"
HĂY THAM VẤN VỚI BÁC SĨ CỦA BẠN
Doireann Maddock, một y tá nhiều thâm niên về tim mạch tại Tổ Chức Tim Mạch của Anh Quốc (British Heart Foundation), cho biết: "Hút thuốc lá là một trong những yếu tố nguy cơ chính gây ra bệnh tim. Trong thực tế, người hút thuốc đă nhân đôi nguy cơ bị nhồi máu cơ tim (heart attack) so với những người chưa bao giờ hút thuốc, và việc cai bỏ hút thuốc là điều quan trọng duy nhất nhất mà bạn có thể làm để cải thiện sức khỏe tim mạch của bạn."
Bà nói sự phát hiện trong nghiên cứu là "một mối quan ngại cần lưu ư" , nhưng cần thiết có thêm những nghiên cứu tiếp theo sau đó trước khi cho kết luận chắc chắn loại bỏ thuốc cai nghiện hút thuốc.
"Những người đang sử dụng thuốc varenicline để giúp họ bỏ thuốc lá th́ không nên ngừng sử dụng nó bởi v́ tự nghiên cứu một ḿnh, ngược lại nên tṛ chuyện với bác sĩ của họ về việc này và về các biện pháp đă có sẵn để chọn lựa lại."
Một phát ngôn viên của Pfizer, công ty sản xuất thuốc cai nghiện, cho biết công ty không đồng ư với giải thích của các dữ liệu "trong nghiên cứu, cho biết đă có " hạn chế ".
Ông nói thêm là: "Champix là một lựa chọn điều trị quan trọng đối với những người hút thuốc muốn bỏ thuốc lá . Bệnh nhân nên tham khảo ư kiến với các bác sĩ của họ để xác định những loại thuốc thích hợp cho họ."
Cơ Quan Qui Định Về Các Sản Phẩm Chăm Sóc Sức Khoẻ (The Medicines Healthcare products Regulatory Agency = MHRA), cơ quan giám sát an toàn của các loại thuốc được sử dụng ở Anh, tuyên bố là họ đă nhận được 306 báo cáo về các phản ứng phụ của thuốc liên quan đến vấn đề tim mạch do thuốc cai nghiện kể từ khi được đưa ra thị trường trong năm 2006 - và có 17 trường hợp tử vong trong số đó.
Tuy nhiên, họ cũng đă nhấn mạnh rằng các báo cáo đó đă không chứng minh được một liên kết đến thuốc cai nghiện, và các yếu tố cơ bản khác có thể đă dự phần gây ra tác hại.
Quote:
Lynn chú thích:
Cả thảy có hơn 950,000 loại toa thuốc về cai nghiện hút thuốc lá ở Anh Quốc vào năm trước (2010) khi bản tin này đưa ra .
Hiện tại , th́ có khá nhiều liệu pháp trong việc điều trị cai nghiện hút thuốc lá để lựa chọn. Việc dùng thuốc cai nghiện đang được lưu ư v́ luôn cho phản ứng phụ và 1 số tác hại nhưng các cuộc nghiên cứu vẫn chưa cho chứng minh đầy đủ để đi đến khẳng định là nên loại bỏ chất nào trong thuốc, hoặc loại bỏ loại thuốc cai nghiện nào, hay cấm chỉ định dùng loại thuốc cai nghiện trong trường hợp nào
Lynn Ly (04-07-2011)
florida80
05-31-2019, 19:21
LOÀI CHUỘT GERBILS BỊ ĐIẾC ĐĂ NGHE LẠI ĐƯỢC SAU KHI CHỮA TRỊ BẰNG TẾ BÀO GỐC
(DEAF GERBILS 'HEAR AGAIN' AFTER STEM CELL CURE)
Lynn Ly phỏng dịch thông tin từ báo BBC
Theo James Gallagher Health and science reporter, BBC News
12/09/2012
Các nhà nghiên cứu Anh cho biết họ đă thực hiện một bước tiến lớn trong việc điều trị chứng điếc sau khi các tế bào gốc đă được sử dụng để khôi phục lại thính giác ở động vật ngay ở lần đầu thí nghiệm.
Một nghiên cứu trong các báo cáo trên tạp chí Nature (wXw.nature.com/nature/journal/vaop/ncurrent/full/nature11415.html )cho biết : Một phần khả năng thích giác có biểu hiện tiến bộ khi các dây thần kinh trong tai, truyền âm thanh vào trong năo, khi được tái tạo ở loài chuột gerbils
Để có được cùng một sự cải thiện ở những người bị điếc sẽ là một sự thay đổi từ t́nh trạng không thể nghe thấy ǵ đến có thể nghe một cuộc tṛ chuyện. Tuy nhiên, việc điều trị cho con người vẫn c̣n là một viễn cảnh xa xôi.
Nếu bạn muốn nghe radio hoặc có một cuộc tṛ chuyện với một người bạn, tai của bạn phải hoán chuyển các sóng âm thanh trong không khí thành tín hiệu điện từ (electrical signal) mà năo có thể hiểu được tín hiệu đó . Điều này xảy ra ở tại sâu bên trong bộ phận tai trong, nơi những rung động di chuyển những sợi lông nhỏ và sự di chuyển này tạo ra một tín hiệu điện từ.
Tuy nhiên, trong khoảng 1/10 người bị mất thính giác hoàn toàn , tế bào thần kinh tiếp nhận tín hiệu bị hư hại . Việc này cũng giống như thả dùi cui sau chặng đầu tiên của một cuộc chạy đua tiếp sức.
Mục đích của các nhà nghiên cứu tại Đại học Sheffield là thay thế những tế bào thần kinh "baton-dropping" (baton-dropping =spiral ganglion neurons = tế bào thần kinh hạch xoắn ốc ) bằng những tế bào mớị
Họ đă sử dụng tế bào gốc từ một phôi thai người (human embryo), tế bào có khả năng trở thành bất kỳ loại tế bào nào trong cơ thể con người từ dây thần kinh, bắp thịt , da đến thận.
Một hợp chất hóa học được thêm vào các tế bào gốc mà chuyển đổi tế bào gốc thành các tế bào tương tự như các tế bào thần kinh hạch xoắn ốc. Đây là cách tiêm chích tinh vi vào bên trong tai của 18 con chuột gerbils bị điếc. Qua 10 tuần khả năng nghe của các con chuột gerbils được cải thiện. Trung b́nh là 45% khả năng thính giác của chúng đă được phục hồi vào lúc cuộc nghiên cứu kết thức.
Tiến sĩ Marcelo Rivolta nói: "Điều này có nghhĩa là từ t́nh trạng bị điếc, khi bạn không thể nghe thấy một tiếng động của xe cam nhông hoặc xe tải trên đường, đến bạn có thể nghe được một cuộc tṛ chuyện. Việc này chưa phải là cách trị liệu khỏi hẳn bệnh điếc, họ sẽ không có thể nghe được tiếng th́ thầm, nhưng họ chắc chắn sẽ có thể để duy tŕ một cuộc tṛ chuyện trong một căn pḥng."
Khoảng 1/3 trong số những con chuột gerbils đă hồi đáp thực sự tốt về cách điều trị này với con số phục hồi tăng lên đến 90% về khả năng thính giác , trong khi chỉ có dưới 1/3 trong số những con chuột gerbils th́ như không có phản ứng ǵ cả .
Những con chuột Gerbils được sử dụng v́ chúng có thể nghe âm thanh trong một phạm vi tương tự như người, không giống như những loài chuột khác mà có thể nghe âm thanh ở tần số cao hơn.
Các nhà nghiên cứu phát hiện việc cải thiện thính giác bằng cách đo sóng năo (brainwaves). Loài chuột Gerbils cũng đă được thử nghiệm trong ṿng chỉ có 10 tuần. Nếu điều này trở thành một phương pháp điều trị cho người th́ hiệu quả sẽ cần phải được chứng nghiệm trong thời gian dài hơn .
Cũng c̣n có những các câu hỏi xung quanh sự an toàn và đạo đức của các phương pháp điều trị tế bào gốc mà sẽ cần phải được giải quyết.
'RẤT ĐÁNG KHÍCH LỆ'
Giáo sư Dave Moore, giám đốc của Viện Nghiên cứu Y học của Hội đồng Nghe Nghiên cứu ở Nottingham (the Medical Research Council's Institute of Hearing Research in Nottingham), đă nói với BBC: "Thật là một thời điểm quan trọng, phát hiện này thực sự là một bước tiến bộ lớn." Tuy nhiên, ông cảnh báo rằng sẽ có khó khăn trong việc áp dụng thành tích này ở con người . Ông nói: "Vấn đề thực sự lớn nhất là việc đưa tế bào gốc vào bộ phận của tai trong, nơi tê bào gốc sẽ hoạt động tốt. Tế bào gốc cực kỳ nhỏ và rất khó khăn để đưa vào và đó sẽ là một điều cam kết đáng lo ngại "
Tiến sĩ Ralph Holme, người đứng đầu nghiên cứu hóa sinh của cơ quan từ thiện về khiếm thính (the charity Action on Hearing Loss), cho biết: "Nghiên cứu này là rất đáng khích lệ và cung cấp cho chúng tôi hy vọng thực sự rằng việc này sẽ có thể để sửa chữa nguyên nhân thực sự của một số t́nh trạng mất thính giác trong tương lai
Đối với hàng triệu người bị giảm thính lực đang bị bào ṃn chất lượng sống th́ điều này chưa thể đến sớm hơn"
Lynn Ly (12/09/2012)
florida80
05-31-2019, 19:21
BỆNH TIỂU ĐƯỜNG LIÊN KẾT ĐẾN UNG THƯ VÚ Ở PHỤ NỮ SAU MĂN KINH
( Diabetes Link To Breast Cancer In Post-Menopausal Women )
Lynn Ly phỏng dịch thông tin từ báo BBC
Theo Báo BBC , 13 /09/ 2012
Những phụ nữ ở thời kỳ sau khi măn kinh bị bệnh tiểu đường loại 2 cho biểu hiện có nguy cơ ung thư vú cao hơn 27% so với b́nh thường, các chuyên gia tuyên bố.
Một nhóm nghiên cứu quốc tế, viết trên Tạp Chí về Ung Thư của Anh Quốc (the British Journal of Cancer), đă kiểm tra 40 nghiên cứu riêng biệt khi quan sát tiềm năng liên kết giữa ung thư vú và bệnh tiểu đường.
Bị béo ph́ hoặc dư thừa thể trọng (trong lượng cơ thể) có liên quan đến cả hai t́nh trạng (sau khi măn kinh và tiểu đường loại 2).
Tuy nhiên, các chuyên gia về ung thư cũng cho rằng có thể có một kết nối trực tiếp giữa cả hai.
Có hơn 56.000 phụ nữ bị ung thư vú tham gia vào những nghiên cứu này .
Những phụ nữ ở thời kỳ sau khi măn kinh bị bệnh tiểu đường loại 2 đă bị gia tăng 27% hung hiểm về ung thư vú. Tuy nhiên, không có sự liên kết đối với phụ nữ ở thời tiền măn kinh (Pre-Menopause) hoặc những người có bệnh tiểu đường loại 1.
Các nhà nghiên cứu cũng đề nghị rằng chỉ số tỷ lệ về trọng lượng và chiều cao (BMI=body mass index) mà cao , thường liên kết với bệnh tiểu đường, có thể là một yếu tố góp phần cơ bản.
HOẠT ĐỘNG CỦA HORMONE / NỘI TIẾT TỐ
Giáo sư Peter Boyle, chủ tịch Hiệp Hội Quốc tế về Nghiên Cứu Pḥng Ngừa (the International Prevention Research Institute) , trưởng nhóm nghiên cứu, cho biết: "Chúng tôi vẫn chưa biết cơ chế ẩn tàng lư do tại sao bệnh tiểu đường loại 2 có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú . Nói khác đi, ư nghĩ cho rằng bị dư thừa trọng lượng thường liên quan đến bệnh tiểu đường loại 2, và ảnh hưởng do thay đổi hoạt động hormone có thể chịu một phần trách nhiệm đối với tiến tŕnh mà dẫn đến sự phát triển ung thư vú. Tuy nhiên , cũng không thể loại trừ một số yếu tố liên quan đến bệnh tiểu đường mà có thể được tham gia vào quá tŕnh nàỵ."
Martin Ledwick, người y tá trưởng về thông tin tại Viện Nghiên Cứu Ung Thư Anh Quốc ( Cancer Research UK ), đă nói " Nghiên cứu này không chứng minh rơ ràng có mối quan hệ nguyên nhân và kết quả giữa bệnh tiểu đường và nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ sau măn kinh. Tuy nhiên như chúng ta đă biết chỉ số tỷ lệ về trọng lượng và chiều cao (high BMI) cao có thể góp phần tăng nguy cơ của cả hai : bệnh tiểu đường loại 2 và bệnh ung thư vú, điều này có nghĩa là phụ nữ nên cố gắng duy tŕ tốt trọng lượng cơ thể để được khoẻ mạnh "
Lynn Ly (17/09/2012)
florida80
05-31-2019, 19:22
GEN KHUYẾT TẬT LIÊN QUAN ĐẾN CƠN ĐAU THẮT LƯNG
(Gene flaw linked to low back pain)
Lynn Ly phỏng dịch thông tin từ báo BBC
Theo Báo BBC , 21 /09/ 2012
Các nhà khoa học đă xác định một loại khuyết tật gen có liên quan đến những vấn đề của đĩa đệm cột sống là một nguyên nhân phổ biến của đau vùng dưới thắt lưng (low back pain).
Nghiên cứu của Anh Quốc, được công bố trong sách Niêm Giám Những Bệnh Thấp Khớp (the Annals of Rheumatic Diseases), đă quan sát 4.600 người và t́m thấy gen PARK2 có liên quan đến những vấn đề đĩa đệm cột sống do tuổi tác .
A third of middle-aged women have problems with at least one spinal disc - and the condition is known to be inherited in up to 80% of patients.
Một phần ba trong tổng số phụ nữ trung niên có vấn đề vế đĩa đệm cột sống ít nhất một và t́nh trạng được biết đến là được di truyền th́ lên 80% trong số người bệnh.
Các chuyên gia cho biết việc phát hiện loại gen nay có thể dẫn đến các phương pháp điều trị mới mà đang được tiến hành thực hiện.
Chứng bệnh đau lưng làm Anh Quốc phí tổn 7 tỷ Euros hằng năm v́ chi phí nghỉ việc do bệnh và chi phí điều trị, nhưng những nguyên nhân của t́nh trạng này không được hiểu thật trọn vẹn .
Ở chứng thoái hóa đĩa điệm cột sống vùng thắt lưng (Lumbar Disc Degeneration = LDD), đĩa đệm cột sống bị mất nước và mất đi bề dày, và các đốt sống (vertebrae) bên cạnh chúng phát triển tăng trưởng xương được gọi là osteophytes, dẫn đến đau vùng dưới thắt lưng .
Những nhà nghiên cứu của trường cao đẳng King tại London (The King's College London)đă tiến hành Chụp H́nh Cộng Hưởng Từ Trường (MRI scans) tất cả những người trong cuộc nghiên cứu này và quan sát sự khác biệt trong sự thành lập di truyền của chúng.
Họ phát hiện ra các biến thể (variants) của gen PARK2 xuất hiện có hiệu lực ở những người bị thoái hóa đĩa đệm và sự ảnh hưởng đến tốc độ mà t́nh trạng của họ bị xấu đi.
NHỮNG TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG
Các nhà nghiên cứu, được tài trợ bởi Wellcome Trust và Arthritis Research của Anh Quốc, nói rằng hiện nay cần có thêm nhiều nghiên cứu nữa để t́m hiểu làm thế nào gen ảnh hưởng đến t́nh trạng chứng bệnh.
Nhưng họ đề nghị là có thể làm ngừng hoạt động của gen này ở những người bị chứng thoái hóa đĩa điệm cột sống vùng thắt lưng (LDD).
Và họ nói rằng chứng thoái hóa đĩa điệm cột sống vùng thắt lưng có thể là yếu tố môi trường - chẳng hạn như chế độ ăn uống và lối sống có thể tạo ra những ǵ đă được biết như là những biến đổi biểu sinh ( epigenetic changes) đối với gen.
Các nhà nghiên cứu nói rằng một khi cơ chế được hiểu rơ tường tận, phát hiện của họ có thể dẫn đến việc tiến hành những phương pháp điều trị mới cho chứng bệnh đau dưới thắt lưng.
Tiến sĩ Frances Williams, thuộc bộ phận nghiên cứu song sinh và dịch tễ học di truyền (genetic epidemiology) tại trường Cao đẳng King tại London, ông đă làm việc về nghiên cứu này, cho biết: "Chúng tôi biết rằng những người bị ṃn đĩa đệm cột sống là có nguy cơ gia tăng từng phần về chứng đau dưới thắt lưng, nhưng những đĩa đệm cốt sống của người b́nh thường th́ rất khó để có được để nghiên cứu như vậy cho đến bây giờ kiến thức của chúng ta về sinh học của con người b́nh thường dă không đầy đủ.
"Công việc trong tương lai của các nhà nghiên cứu đĩa đệm để xác định vai tṛ của gen PARK2 sẽ phải thực hiện, chúng tôi hy vọng sẽ làm sáng tỏ một trong hầu hết các nguyên nhân quan trọng của chứng đau vùng dưới thắt lưng.
"Đúng là khả thi nếu chúng ta có thể xây dựng trên những phát hiện này và nâng cao kiến thức của chúng ta về t́nh trạng đau lưng, chúng ta một ngày có thể có phát triển mới, phương pháp điều trị hiệu quả hơn cho bệnh đau lưng gây ra bởi t́nh trạng phổ biến này".
Giáo sư Alan Silman, giám đốc y tế tại Arthritis Research của Anh Quốc , cho biết: "Chứng thoái hóa đĩa đệm cột sống vùng thắt lưng là một nguyên nhân phổ biến của đau dưới thắt lưng, và nó đang được biết có tới 80% các trường hợp là do cơ sở di truyền, nhưng đây là những thời điểm đầu của một gen vừa được xác định là có liên quan đến cơn đau thường xuyên và t́nh trạng bị vô hiệu hóa.
"Đúng là một khởi đầu đầy hứa hẹn và cung cấp cho chúng ta với các đầu mối đầu tiên về căn bản di truyền của t́nh trạng này, và với nghiên cứu sâu xa hơn, có khả năng có thể dẫn đến sự phát triển về việc điều trị hiệu quả hơn".
Lynn Ly (21/09/2012)
florida80
05-31-2019, 19:23
TẾ BÀO CHẾT KHƠI LÊN NIỀM HY VỌNG VỀ KHẢ NĂNG SINH SẢN VÀ ĐIỀU TRỊ UNG THƯ
(CELL DEATH OFFERS HOPE ON FERTILITY AND CANCER TREATMENT)
Lynn Ly phỏng dịch thông tin từ báo BBC
Theo Báo BBC , 22 /09/ 2012
Một khám phá về tế bào chết đi như thế nào có thể đă dẫn đến đường lối bảo vệ khả năng sinh sản ở phụ nữ đang được trị liệu ung thư, các nhà nghiên cứu đề nghị góp ư .
Các nhà khoa học Úc đă t́m thấy hai loại protein cụ thể mà đă khiến cho các tế trứng chết sớm ở trong buồng trứng (ovaries). Việc ngăn chận những protein này có nghĩa là những tế bào được sinh tồn sau ảnh hưởng của xạ trị (radiotherapy), theo nghiên cứu công bố trong tạp chí Molecular Cell.
Một chuyên gia của Anh Quốc nói với nhà nghiên cứu là "Một điểm khởi đầu đáng khích lệ".
'BẢO VỆ TỐT HƠN' ('BETTER PROTECTION')
Các nhà nghiên cứu từ Viện Walter và Eliza Hall (Walter and Eliza Hall Institute), từ Đại học Monash và Học Viện của Hoàng tử Henry về Nghiên cứu Y khoa đă quan sát các tế bào trứng được gọi là noăn bào nang trứng non (primordial follicle oocytes), những tế bào này chu cấp cho suốt cuộc đời 1 phụ nữ khả năng sản xuất noăn bào (trứng) .
Họ phát hiện khi DNA của các tế bào bị hư hỏng thông qua hóa trị (chemotherapy) hoặc xạ trị (radiotherapy), hai loại protein được gọi là Puma và Noxa đă khiến cho nơan bào (trứng) bị chết. Điều này khiến cho rất nhiều nữ bệnh nhân ung thư bị trở thành vô sinh. Sự suy giảm số lượng tế bào trứng cũng có thể khiến người phụ nữ tiến đến một thời kỳ măn kinh sớm hơn .
Khi những tế bào này đă được điều chỉnh để chúng không c̣n có protein Puma, chúng sẽ không chết sau khi tiếp xúc với xạ trị.
Giáo sư Jeff Kerr, từ Đại học Monash, người đă làm việc trong cuộc nghiên cứu này cho biết: "Đây có lẽ là căn nguyên để quan tâm lo ngại bởi v́ bạn muốn những tế bào trứng bị hư hỏng bị chết đi như vậy là không sản sinh quái thai (con cái không b́nh thường = offspring) ."
Nhưng ông đă nói thêm: "Để ngạc nhiên chúng tôi, chúng tôi thấy rằng không chỉ các tế bào c̣n sống sót bị bức xạ, các tế bào đă có thể sửa chữa những thiệt hại DNA mà chúng đă gánh chịu và có thể rụng trứng và thụ tinh, sản sinh những đứa con khỏe mạnh.
Khi những tế bào cũng thiếu loại protein Noxa, th́ có sự bảo vệ tốt hơn để chống lại tia bức xạ."
SỰ MẤT TRỨNG CHẬM LẠI ('SLOW EGG LOSS')
Giáo sư Clare Scott,từ Viện Walter và Eliza Hall về Nghiên cứu Y Khoa (the Walter and Eliza Hall Institute of Medical Research), người cũng làm việc trong cuộc động vật tại pḥng thí nghiệm, nói thêm: "Điều này có nghĩa rằng trong tương lai, các loại thuốc ngăn chặn các chức năng của protein Puma có thể được sử dụng để ngăn chặn tế bào trứng bị chết ở những bệnh nhân đang điều trị bằng hóa trị hoặc xạ trị.
"Kết quả của chúng ta cho thấy rằng việc này có thể duy tŕ khả năng sinh sản của những bệnh nhân này."
Các nhà nghiên cứu cho biết rằng sự phát hiện cũng có thể có nghĩa là sẽ có thể làm chậm sự mất mát của các tế bào trứng từ buồng trứng, do đó tŕ hoăn t́nh trạng măn kinh sớm.
Tiến sĩ Jane Stewart của Trung tâm Khả Năng Sinh Sản trong Cuộc Đời Newcastle (Newcastle Fertility Centre at Life = Trung tâm Khoa học đời sống), và phát ngôn viên của Hiệp hội sinh sản Anh (the British Fertility Society), cho biết: "Tiềm năng mất khả năng sinh sản là một vấn đề lo lắng của nhiều phụ nữ trẻ đang trải qua các điều trị ung thư."
Trong khi điều này không phải luôn luôn là một vấn đề , nó có thể không phỏng đoán trước và những khả thi về hiệu quả duy tŕ khả năng sinh sản ở phụ nữ vẫn c̣n hạn chế.
"Việc gia tăng sự hiểu biết về những thiệt hại và những tiềm ẩn để trực tiếp bảo vệ buồng trứng và noăn bào sẽ được hoan nghênh và trong khi đó th́ công việc này có thể có một số đường lối chuyển dần sang thực nghiệm lâm sàng - việc này đang được khuyến khích như là một điểm khởi đầu khả thi (bước khởi đầu của 1 công việc thực hiện được)"
Lynn Ly (22/09/2012)
florida80
05-31-2019, 19:23
LOẠI CORONAVIRUS MỚI GIỐNG SARS CORONAVIRUS ĐƯỢC XÁC ĐỊNH BỞI CÁC QUAN CHỨC ANH
( NEW 'SARS-LIKE' CORONAVIRUS IDENTIFIED BY UK OFFICIALS )
Lynn Ly phỏng dịch thông tin từ báo BBC
Theo Báo BBC , 24 /09/ 2012
Do Michelle Roberts biên tập viên về sức khỏe của báo BBC
Một căn bệnh hô hấp mới tương tự như virus SARS đă lây lan toàn toàn cầu / toàn thế giới trong năm 2003 và đă giết chết hàng trăm người đă được xác định trong một người đàn ông đang được điều trị ở Anh Quốc.
Người đàn ông 49 tuổi, được chuyển tới một bệnh viện ở London bằng máy bay cứu thương từ Qatar, là người thứ hai được xác nhận có loại coronavirus này
Trường hợp đầu tiên là một bệnh nhân ở Ả Rập Saudi đă tử vong
Các giới chức vẫn c̣n đang xác định mối đe dọa do loại virus mới có thể gây ra.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) vẫn chưa có khuyến cáo về hạn chế việc du lịch/ hạn chế đi lại.
Giáo sư John Watson, người đứng đầu khoa các bệnh hô hấp tại Cơ quan Bảo Vệ Sức Khỏe của Anh Quốc (the UK's Health Protection Agency), cho biết: "Dựa trên các kết luận từ mức độ nghiêm trọng về căn bệnh mà đă được xác định trong 2 trường hợp được xác nhận, những bước kế tiếp liền sau đó đă được thực hiện để bảo đảm những người từng tiếp xúc với ca bệnh tại Anh Quốc đă không bị lây nhiễm, và không có bằng chứng cho thấy rằng họ bị nhiễm bệnh.
"Thông tin chi tiết về những ca bệnh đang được khai triển về phía các nhân viên y tế tại Anh Quốc, cũng như việc tư vấn để giúp duy tŕ gia tăng cảnh giác về loại virus này."
Ông cho biết không có bằng chứng cụ thể vế sự lây lan virus này từ người này sang người khác và ông đă chưa có lời khuyên cho các hành khách đi đi lại lại nơi chốn công cộng.
Peter Openshaw, giám đốc của Trung tâm bệnh nhiễm trùng đường hô hấp tại trường Cao Đẳng Imperial London(the Centre for Respiratory Infection at Imperial College London), nói với tờ báo Reuters rằng ở giai đoạn này loại virus mới được phát hiện dường như không minh chứng một mối quan ngại ǵ, và có thể cũng chỉ là được xác định do các kỹ thuật kiểm tra tinh vi.
Coronavirus là những virus có liên quan ṇi giống rộng lớn bao gồm những loại virus gây ra cảm lạnh thông thường và SARS (hội chứng suy hô hấp cấp tính nặng).
Loại virus mới này là khác với từ bất kỳ loại coronavirus đă được xác định trước đó ở người.
Đă có một số ít ca bệnh khác về bệnh hô hấp nghiêm trọng ở Trung Đông trong ba tháng qua, một trong số đó đă được điều trị tại Anh nhưng đă qua đời.
Căn bệnh của người này cũng đang được điều tra, mặc dù không có bằng chứng cho thấy rằng căn bệnh do bởi cùng loại virus gây ra hoặc có liên kết với các ca bệnh hiện tại. Cho đến nay không có những ca bệnh đă được xác định tại Anh Quốc.
SARS là một bệnh nhiễm trùng đường hô hấp nghiêm trọng đă gây ra một đại dịch toàn cầu vào năm 2002, rồi lan rộng từ Hồng Kông đến hơn 30 quốc gia khác nhau trên khắp thế giới, và khiến khoảng 800 người thiệt mạng. Dẫu cho SARS đă không được nhổ tận gốc rễ sự lây lan của nó một cách hoàn toàn vào năm 2003. Giống như các loại coronavirus khác, SARS lây lan qua những giọt chất lỏng của cơ thể sản xuất qua hắt hơi và ho.
Lynn Ly (24/09/2012)
florida80
05-31-2019, 19:24
VIRUS VÔ HẠI TRÊN DA TRỊ MỤN TRỨNG CÁ
("HARMLESS SKIN VIRUS" FIGHTS ACNE )
Lynn Ly phỏng dịch thông tin từ báo BBC
(wXw.bbc.co.uk/news/health-19702511)
Theo Báo BBC , 25 /09/ 2012
MộT loại virus vô hại mà sống trên da của chúng ta có thể được sử dụng như 1 trị liệu cho mụn trứng cá , các nhà khoa học tin tưởng vậy .
Loại virus nay được gọi là thể thực khuẩn (phage) , là một cấu trúc tự nhiên nhằm tiêu diệt vi khuẩn gây mụn trứng cá - Propionibacterium acnes
Quote:
Lynn Ly chú thích:
phage = thể thực khuẩn là 1 loại kư sinh trùng tái tạo từ chính nó ở dạng vi khuẩn .
Propionibacterium acnes là một loại vi khuẩn xâm chiếm nang da và tóc, và là tác nhân chính gây nên mụn trứng cá
Các chuyên gia tại Đại học California, Los Angeles (University of California, Los Angeles = UCLA) và Đại học Pittsburgh đă t́m thấy 11 phiên bản khác nhau của virus trong ḍng họ của thể thực khuẩn này mà có năng lực. Họ lên kế hoạch thực hiện trong pḥng thí nghiệm để xem họ có thể khai thác khả năng của chúng như một liệu pháp.
Những nhà khoa học tại những viện nghiên cứu khác cũng hứng thú quan tâm về việc sử dụng thể thực khuẩn như một cách trị liệu mụn trứng cá.
Nhà khoa học dẫn đầu cuộc nghiên cứu hiện giờ, Giáo sư Robert Modlin, nói :"Mụn trứng cá ảnh hưởng đến hàng triệu người, lúc này chúng tôi có vài phương pháp điều trị an toàn và hiệu quả.
"Việc khai thác khả năng một loại virus tự nhiên làm con mồi ở vi khuẩn mà vi khuẩn là nguyên nhân gây nổi mụn th́ có thể cung cấp một công cụ mới đầy hứa hẹn chống lại những vết thương về vật lư và tâm lư về các vết sẹo do bị mụn trứng cá nặng".
BẢO VỆ TỰ NHIÊN (NATURAL DEFENCE)
Mụn trứng cá gây ra khi nang lông bị bế tắc bởi bă nhờn một chất dầu gọi là sebum, chất này do cơ thể tạo ra để ngăn chặn tóc và da không bị khô.
Một cách phổ thông vi khuẩn vô hại, chẳng hạn như Propionibacterium acnes, sống trên da có thể làm ô nhiễm và lây nhiễm sang các nang lưu giữ chất dầu (plugged follicles) .
Quote:
(Lynn Ly chú thích:
plugged follicles là nang lưu giữ chất dầu cũng như vi khuẩn để làm da tiếp tục sản xuất chất nhờn).
Thể thực khuẩn (phages) xuất hiện trợ giúp làm mất tác dụng (lây nhiễm) này
Khi các nhà khoa học sắp xếp tŕnh tự mật mă DNA của thể thực khuẩn, họ phát hiện ra rằng việc chia sẻ hầu hết các tố chất di truyền của chúng th́ tất cả các virus vô hại này đă có một số đặc tính chính chung.
Tất cả virus này đều mang một gen tạo ra một protein được gọi là endolysin - một loại enzyme để tiêu diệt vi khuẩn bằng cách phá vỡ thành tế bào của vi khuẩn.
Và không giống như các loại thuốc kháng sinh mà tiêu diệt nhiều loại vi khuẩn bao gồm cả những loại vi khuẩn tốt sống trong ruột chúng ta, thể thực khuẩn được thiết lập theo qui tắc để chỉ nhắm đến loại vi khuẩn riêng biệt rơ ràng.
Người cộng tác nghiên cứu, tiến sĩ Jenny Kim, giám đốc bệnh viện UCLA về mụn trứng cá (Acne), mụn trứng cá dạng đỏ (Rosacea) và thẩm mỹ, cho biết: "Thuốc kháng sinh như tetracycline được sử dụng rộng răi mà nhiều chủng loại mụn trứng cá đă dang phát triển sức đề kháng với thuốc này, và các loại thuốc như Accutane, trong khi cho hiệu quả, th́ có thể tạo những phản ứng phụ nguy hiểm, nên đang hạn chế sử dụng những thuốc này. "
Những thể thực khuẩn (phages) có thể có khả năng cung cấp một liệu pháp phù hợp với ít tác dụng phụ hơn, các chuyên gia đă nói với tạp chí của Hiệp Hội Hoa Kỳ chuyên về vi trùng học và Vi Sinh Học ( journal of the American Society for Microbiology, mBio)
Hermione Lawson, thuộc tổ chức Cơ Sở về Da của Anh Quốc (British Skin Foundation), cho biết: "Đây là thông tin rất thú vị hấp dẫn . Mụn trứng cá là một t́nh trạng phổ biến mà ảnh hưởng đến lên đến 8 trong số 10 người ở độ tuổi giữa 11 và 30 ở Anh Quốc, và hiện tại không có cách chữa trị cho căn bệnh về da này.
"Chúng ta am hiểu các triệu chứng của mụn trứng cá có thể làm khổ sở người bị mụn như thế nào, và hoan nghênh bất kỳ sự phát triển nào có thể dẫn đến một cách chữa trị hoặc ít nhất là cho một sự hiểu biết tốt hơn về căn bệnh này."
Lynn ly (25/09/2012)
florida80
06-01-2019, 15:11
PHƯƠNG PHÁP "ĐƠN GIẢN" ĐỂ G̀N GIỮ SỨC KHỎE:
Uống 1 ly Nước Ấm vào Buổi Sáng khi thức dậy
(Nguồn: MyiLife)
ĐIỀU G̀ XẢY RA VỚI CƠ THỂ KHI BẠN "UỐNG NƯỚC ẤM" LÚC ĐÓI VÀO MỖI SÁNG?
Nhiều người thường bắt đầu ngày mới với một tách trà nóng hay cà phê. Nhưng bạn có biết rằng, uống một cốc nước lọc ấm mỗi sáng sẽ rất có lợi cho bạn.
Uống nước ấm khi dạ dày trống rỗng vào mỗi buổi sáng có nhiều tác dụng tích cực đối với cơ thể của bạn, bao gồm cả thúc đẩy tiêu hóa, loại bỏ độc tố khỏi cơ thể, giảm đau, cải thiện lưu thông...
Dưới đây là những ǵ sẽ xảy ra khi bạn uống nước ấm mỗi sáng khi đang đói:
1) Giải độc cho các cơ quan trong cơ thể
Uống một cốc nước nóng vào buổi sáng có thể loại bỏ các độc tố nguy hiểm từ cơ thể của bạn. Nước và các chất lỏng khác có tác phân hủy thức ăn trong dạ dày và thúc đẩy tiêu hóa. Bởi vậy, ngay cả sau bữa ăn, thay v́ uống nước lạnh, bạn hăy uống nước ấm để cải thiện quá tŕnh tiêu hóa.
2) Cải thiện sự trao đổi chất
Nếu bạn bị đau dạ dày, hăy uống một cốc nước ấm vào buổi sáng trước khi ăn sáng. Điều này sẽ cải thiện sự trao đổi chất và cơ thể của bạn sẽ hoạt động đúng cách. Hơn nữa, uống nước ấm lúc này sẽ làm dịu các chứng đau dạ dày và giúp bạn cảm thấy dễ chịu.
3) Giúp giảm đau
Những cơn đau do chuột rút trong thời ḱ kinh nguyệt có thể được xoa dịu bằng cách uống nước ấm. Trên thực tế, đây là một phương thuốc tự nhiên mà vẫn có tác dụng. Nước ấm làm giăn các cơ bắp của dạ dày và giúp làm dịu cơn đau. Uống nước ấm không chỉ tốt cho những cơn đau do chuột rút trong ḱ kinh nguyệt mà c̣n có tác dụng đối với bất ḱ cơn đau do chuột rút ở thời điểm nào v́ nước ấm khi vào cơ thể giúp cải thiện lưu thông mao mạch và làm thư giăn các cơ bắp.
4) Giúp giảm cân
Uống một cốc nước ấm vào buổi sáng có thể giúp bạn giảm cân nhanh hơn. Lư do là bởi v́ nước ấm làm tăng nhiệt độ của cơ thể và các cơ quan bên trong cơ thể. Điều này dẫn đến khả năng đốt cháy nhiều calo hơn. Uống nước ấm cũng có tác dụng tích cực đối với hoạt động thận và các cơ quan bài tiết nên sẽ giảm t́nh trạng tích nước trong cơ thể, dẫn đến tăng cân.
5) Làm chậm quá tŕnh lăo hóa
Không ai thích lăo hóa sớm và nhanh già, đặc biệt là phụ nữ. May mắn thay, nguy cơ này có thể tránh được bằng cách uống nước ấm mỗi sáng. Độc tố trong cơ thể thúc đẩy quá tŕnh lăo hóa, nhưng uống nước ấm mỗi sáng lại giúp loại bỏ độc tố ra ngoài một cách hiệu quả. Nhờ đó, việc làm này cũng có tác dụng làm chậm quá tŕnh lăo hóa. Ngoài ra, uống nước ấm c̣n cải thiện độ đàn hồi của da, giúp bạn luôn có làn da sáng, khỏe mạnh và giảm nếp nhăn.
florida80
06-01-2019, 15:15
THÔNG TIN Y HỌC VỀ CAO HUYẾT ÁP (HYPERTENSION)
Lynn Ly tổng hợp thông tin Y Học về Cao Huyết Áp (Hypertension)
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 24 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 29/4/2007 )
1/ CAO HUYẾT ÁP : NGUYÊN NHÂN NẰM TRONG NĂO BỘ.
Một nhóm nghiên cứu các nhà khoa học người Anh đă nhận diện trong năo bộ một protéine được xem là nguyên nhân của cao huyết áp, trong khi đó nói chung nguyên nhân của chứng cao huyết áp thường được quy cho do thận hoặc các động mạch. Đây là kết quả của một công tŕnh nghiên cứu được đăng tải trên báo Hypertension.Các nhà nghiên cứu của Đại Hoc Bristol đă phân lập protéine JAM-1 trong năo bộ và đă khám phá rằng protéine này giam hăm các bạch cầu, gây phản ứng viêm làm trở ngại tuần hoàn máu và làm giảm tiếp vận oxygène đến năo bộ. Theo các nhà nghiên cứu, cao huyết áp là một bệnh viêm mạch máu của năo bộ, hay nói đúng hơn là một bệnh có nguồn gốc huyết quản.
“ Hiện nay các nghiên cứu cơ bản này sẽ mở ra khả năng điều trị những bệnh nhân cao huyết áp không đáp ứng với các thuốc chống cao áp cổ điển, bằng những thuốc làm giảm viêm huyết quản và làm gia tăng lưu lượng máu đến năo bộ. Giáo sư Julian Paton, người điều khiển dự án, đă giải thích như vậy.” Thách thức mới là cần hiểu loại viêm nào là nguyên nhân để biết cần sử dụng những loại thuốc nào”. Ông nói thêm như thế và nhấn mạnh rằng JAM-1 có thể chỉ ra những hướng mới để điều trị bệnh cao huyết áp.
Giáo sư Jeremy Pearson, phụ trách British Heart Foundation, đă chào đón khám phá này: “Công tŕnh nghiên cứu gây ấn tương này thật là quan trọng bởi v́ đă đưa ra những nguyên nhân bất ngờ của cao huyết áp”.
Tuy nhiên, đối với Giáo sư MacGregar, chủ tịch Hiệp Hội Cao Huyết Áp Anh, th́ những công tŕnh này c̣n rất sơ bộ và cần phải được xác nhận. Cao huyết áp đặc biệt có thể đưa đến nhồi máu cơ tim và gây tổn hại thận. Yếu tố nguy cơ tim mạch này gia tăng với tuổi tác. Ở Pháp cứ 3 người th́ có một người bị cao huyết áp và trên thế giới có hơn 600 triệu người bị chứng bệnh này.
(LE FIGARO 16/4/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 26 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 11/5/2007 )
2/ KHI NÀO PHẢI ĐIỀU TRỊ CAO HUYẾT ÁP ?
Các BS Hoa Kỳ đă gây nên một cuộc luận chiến lúc đề nghị giảm mức giới hạn b́nh thường của huyết áp.
Cao huyết áp đă được công nhận từ lâu như là một yếu tố nguy cơ của các tai biến tim mạch. Trong nhiều năm qua, một điều trị chống cao áp được xem là cần thiết ngay khi các trị số huyết áp bằng hoặc trên 16/9. Từ khoảng 15 năm nay, điều trị chống cao áp suốt đời được chỉ định đối với những trị số huyết ấp trên 14/8.
Cách nay vài tháng các y sĩ Hoa Kỳ đă công bố một nghiên cứu trong New England Journal of Medicine (NEJM) gợi ư rằng nếu điều trị t́nh trạng tiền cao áp (pré-hypertension) (nghĩa là các trị số huyết áp biến thiên từ 13/8 đến 14/9) sẽ có thể giảm dầu chỉ chút ít nguy cơ bị cao huyết áp. Bài báo này đă gây tranh căi trong cộng đồng các thầy thuốc khoa tim Hoa kỳ từ 6 tháng nay.
Công tŕnh nghiên cứu Trophy của NEJM thực hiện trên 809 bệnh nhân có huyết áp biến thiên từ 13/8 và 14/9. Một nửa trong số các bệnh nhân này được điều trị trong 4 năm bởi một placebo( một chất không có tác dụng).Một nửa c̣n lại được điều trị trong 2 năm bởi một thuốc chống cao áp Candesartan và sau đó bởi một placebo. Tất cả đều nhận những lời khuyên về vệ sinh và tiết thực (giảm thể trọng nếu cần thiết, chế độ ăn uống ít muối, giảm uống rượu và tập thể dục).
Sau 4 năm, vào cuối công tŕnh nghiên cứu, người ta thống kê 10% người bị cao huyết áp ít đi trong nhóm đă nhận điều trị trong 2 năm trước đó. Các kết quả này làm nghĩ rằng trong một số nhỏ trường hơp ta có thể loại bỏ nguy cơ trở nên cao huyết áp bằng cách điều trị t́nh trạng tiền huyết áp. Do đó vài chuyên gia muốn đề nghị áp dụng điều trị trong một thời gian giới hạn ngay khi bệnh nhân có những trị số tiền cao huyết áp (13/8 đến 14/9), là những trị số được xem là b́nh thường từ trước đến nay.
Các thầy thuốc phản pháo th́ cho rằng phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu này là hoàn toàn thiên lệch bởi v́ đă không tính đến những biến thiên có tính chất sinh lư mỗi ngày của huyết áp. Một chuyên viên khác cho rằng tất cả công tŕnh này được phân tích lại bởi một nhóm nhà thống kê độc lập có thể dẫn đến những kết quả khác.
B.S Stephen Persell (Feinberg school of medicine, Nortwestern university) trong the Ameri --can Journal of Hypertension nói rằng ở Hoa Kỳ có hàng triệu người bị cao huyết áp thật sự. Những người này đáng lư ra cần một điều trị có hiệu quả thế mà lại chẳng được săn sóc đến.
NHỮNG MỐI LỢI CHỦ YẾU CÓ TÍNH CHẤT THƯƠNG MĂI
Theo B.S Stephen Persell, điều đầu tiên cần làm là cho toa các thuốc chống cao áp cho các bệnh nhân thật sự cần đến » Mặt khác, để đánh giá hiệu quả của một chiến lược điều trị tiền cao áp, cũng cần phải có một đánh giá về lâu về dài nguy cơ xảy ra các biến chứng (nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu năo), thế mà điều này đă không được thực hiện». Một vài chuyên gia đă phàn nàn như thế.
Tạp chí Prescrire, trong một bài báo được đăng cách nay vài tuần cho rằng «việc giảm có tính cách nhân tạo các giới hạn b́nh thường của huyết áp mà không có được một bằng chứng về lợi ích lâm sàng do điều trị mang lại sẽ làm gia tăng số người bị gán cho là có bệnh hay có nguy cơ, chỉ v́ những lợi ích chủ yếu có tính chất thương măi. Thái độ này khả dĩ khiến cho một số lớn người mạnh khỏe bị những phản ứng không mong muốn do thuốc gây nên »
Khoan dung hơn, Giáo sư Xavier Girerd (B.V Pitié-Salpetrière) mới đây trong tạp chí HTA-Info cho rằng: "Các kết quả của công tŕnh thử nghiệm Trophy dầu có đáng quan tâm thế nào chăng nữa, cũng không v́ thế mà làm chúng ta lầm lạc. Các kết quả này không cho phép kết luận rằng sự điều trị bằng thuốc đối với những người có huyết ấp trên 13/9 là cần thiết»
Theo Giáo sư Jean Michel, chủ tịch của Cơ quan nghiên cứu cao huyết áp, những lời dặn ḍ mới đây của Cơ quan cao cấp y tế cho rằng ngoai trừ những trường hợp đặc biệt (đái đường, suy thận) chỉ bắt đầu từ trị số huyết áp 14/9 điều trị bằng thuốc mới được bàn đến.
Công tŕnh nghiên cứu có tính chất lịch sử của Fragminham đă chứng tỏ rằng nguy cơ tai biến mạch máu năo gia tăng theo tuyến tính với tri số của huyết áp »
Theo B.S Yves Benacin, thầy thuốc khoa tim ở Paris, điều trị dĩ nhiên phải được uyển chuyển tùy theo thể trạng. “Khi trị số huyết áp ở mức giới hạn, trong khoảng từ 14 đến 15, mà không có yếu tố nguy cơ quan trọng,chúng ta có thể chờ đợi 3 tháng trước khi quyết định điều trị. Mục đích là tận dụng thời gian này để cố gắng quân b́nh huyết áp, bằng một chế độ ăn uống, luyện tập thể dục, giảm ăn muối uống rượu”
(LE FIGARO 8/5/2007)
florida80
06-01-2019, 15:16
Ở GIỚI TRẺ: CAO HUYẾT ÁP THƯỜNG KHÔNG ĐƯỢC ĐÁNH GIÁ ĐÚNG
Các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ đă chứng nhận rằng cao huyết áp và tiền cao huyết áp (pré-hypertension) nơi các trẻ em thường không được chẩn đoán. Các tác giả đă công bố các kết luận này trên tờ báo JAMA.
Dịch bệnh béo ph́ (obésité) đang đe dọa trẻ em và thiếu niên Hoa Kỳ làm gia tăng tỷ lệ mắc bệnh cao huyết áp trong lứa tuổi này. Thật vậy chẩn đoán cao huyết áp ở trẻ em rất phức tạp v́ lẽ các trị số huyết áp b́nh thường và bất b́nh thường thay đổi tùy theo tuổi tác, giống tính và kích thước của cơ thể.
Matthew Hansen (Ohio, Hoa Kỳ) và các công sự viên đă tập hợp các dữ kiện của 14.187 trẻ em và thiếu niên, tuổi từ 3 đến 18 tuổi để có một ư nghĩ về mức độ thường gặp của cao huyết áp và tiền cao huyết áp không được chẩn đoán.
Huyết áp của các trẻ em tham dự công tŕnh nghiên cứu đă được đo ít nhất 3 lần trong thời gian giữa tháng 6 năm 1999 và tháng 9 năm 2006. Trong nhóm các trẻ em này, 507 trẻ (3,6%) đáp ứng với các tiêu chuẩn chẩn đoán cao huyết áp. Chẩn đoán được ghi chú một cách đầy đủ trong hồ sơ y khoa đối với 131 trong trong số các trẻ em này (26%). Tiền cao huyết áp đă được chẩn đoán trên 485 trẻ em (3,4%).
Từ công tŕnh nghiên cứu này, các tác giả kết luận rằng cao huyết áp và tiền cao huyết áp ở trẻ em thường không được chẩn đoán. Khả năng chẩn đoán được thực hiện một cách đúng đắn tùy thuộc vào tuổi của trẻ em, kích thước của nó, sự hiện diện của chứng béo ph́, cũng như mức độ nghiêm trọng và tần số của những đo lường huyết áp bất thường.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 7/9/2007)
florida80
06-01-2019, 15:17
MỘT VACCIN CHỐNG LẠI BỆNH CAO HUYẾT ÁP ĐANG ĐƯỢC NGHIÊN CỨU
Một thử nghiệm lâm sàng của một vaccin nhằm chống lại bệnh cao huyết áp cho những kết quả hứa hẹn. Các nhà nghiên cứu châu Âu đang trên hướng t́m ra một thuốc chủng, dựa trên một phần tử giống virus, chống lại angiotensine II. Đây là công tŕnh nghiên cứu đầu tiên chứng tỏ rằng sự tiêm chủng chống lại một tác nhân có tác dụng vận mạch nội tại, cho phép làm giảm huyết áp trên người.
Việc nghiên cứu các vaccin chống lại các bệnh lư không nhiễm khuẩn từ nay thuận buồm xuôi gió. Đặc biệt, đó là trường hợp của cao huyết áp. Một thử nghiệm lâm sàng đầu tiên trên người, của một vaccin nhằm chống lại một trong các protéine chịu trách nhiệm rối loạn sinh lư này, angiotensine II, vừa được công bố trong The Lancet bởi nhóm nghiên cứu của Martin Bachmann (Cytos Biotechnology,Thụy Sĩ).
Thật vậy, mặc dầu có các thuốc thuộc thế hệ mới rất hiệu quả chống lại enzyme de conversion de l’angiotensine hoặc có khả năng phong bế các thụ thể của phân tử chủ yếu này trong việc kiểm soát huyết áp, nhưng tất cả mọi điều không phải là đơn giản như thế trong thực tế. Bởi v́ để chống lại căn bệnh giết người thầm lặng, không gây một triệu chứng nào này, bệnh nhân phải uống các viên thuốc mỗi ngày mà không cảm thấy được mối lợi tức thời.
Và chính đó là điều chủ yếu, các nhà nghiên cứu Thụy Sĩ đă lư luận như vậy. « Chỉ 1/3 các bệnh nhân cao huyết áp ở Hoa Ky là có một huyết áp được kiểm soát tốt mà thôi ». Hiểu ngầm : bởi v́ sự tuân thủ điều trị nơi các bệnh nhân là thấp. Hơn nữa các bệnh nhân phàn nàn về các tác dụng phụ do thuốc, trong khi đó họ không cảm thấy một triệu chứng nào do bản thân cao huyết áp gây nên cả. Việc nghiên cứu một vaccin chống cao huyết áp chắc chắn không phải mới có từ hôm qua. Chính Irvine Page, nhà sinh lư học Hoa Kỳ của Cleveland Clinic, vào năm 1958, đă là người đầu tiên nêu lên khả năng tác động lên các phân tử nhỏ có nhiệm vụ kiểm tra huyết áp, bằng một vaccin. Giáo sư Joel Ménard (cựu tổng giám đốc y tế) nhắc lại : « Sự tiêm chuẩn đă bắt đầu với việc tiêm một dạng biến đổi nhẹ của rénine (can dự trong việc kiếm soát huyết áp) nhằm làm phát sinh những kháng thể với mục đích làm giảm huyết áp ».
MỤC TIÊU : ANGIOTENSINE II
Mặt khác, những tài liệu xuất bản đầu tiên đă có từ những năm 1950. Gần chúng ta hơn, một thử nghiệm tiền lâm sàng của vaccin, được thực hiện năm 2007 trên chuột (Journal of Hypertension) đă chứng tỏ rằng vaccin này đúng là gây miễn dịch ( nghĩa là động vật phát triển các kháng thể ), chắc chắn và hiệu quả. Mục tiêu tiêm chủng được lựa chọn là angiotensine II : thật vậy, hormone này gây nên co mạch mạnh, và do đó làm cao huyết áp, cũng như kích thích các tuyến thượng thận và làm gia tăng tiết aldostérone, chất này cũng làm gia tăng áp lực của các động mạch.
Trong công tŕnh nghiên cứu được công bố tuần vừa qua bởi The Lancet, 72 bệnh nhân có cao huyết áp mức độ thấp (nhưng thật sự) và vừa phải đă được phân chia một cách ngẫu nhiên thành 3 nhóm. Các bệnh nhân này đă nhận 3 mũi tiêm 100 hay 300 microgramme của vaccin, hay một liều lượng tương đương của một placebo. Huyết áp đă được đo trong 24 giờ trước khi tiêm rồi 14 tuần sau đó. Các nhà nghiên cứu đă chứng nhận một sự giảm đáng kể huyết áp ban ngày, gần 9 mmHg ( huyết áp thu tâm b́nh thường của một người trưởng thành là 130 mmHg) trong nhóm đă nhận vaccin với liều lượng mạnh nhất.
Không có một tác dụng phụ nghiêm trọng nào xảy ra trong suốt 16 tuần nghiên cứu và thuốc chủng được dung nạp tốt. Hai bệnh nhân đă dừng điều trị trong nhóm 100 microgramme, 3 trong nhóm 300 microgramme, và không có bệnh nhân nào trong nhóm placebo. 5 bệnh nhân đă có những tác dụng phụ nghiêm trọng. Hầu hết các tác dụng phụ là vừa phải, như một phản ứng thoảng qua nơi được tiêm chủng. 3 bệnh nhân có những triệu chứng thuộc loại cảm cúm. Các tác giả kết luận rằng một liều lượng 300 microgramme vaccin, được lập lại 3 lần, cho phép làm giảm huyết áp nơi những bệnh nhân bị cao huyết áp nhẹ và trung b́nh, đặc biệt là vào sáng sớm.
Có nên tiếp tục tiến tới trong lănh vực nghiên cứu này ? « Tôi có cảm tưởng rằng những hiểu biết của chúng ta là quá thấp », Giáo sư Ménard, năm 2007, đă đánh giá như vậy, để đo lường đúng tương quan giữa lợi và hại của một vaccin chồng cao huyết áp, « trong khi đă có một điều trị cao huyết áp mỗi ngày bằng đường miệng, và điều trị này là chắc chắn và được dung nạp tốt. Lư lẽ cho rằng bệnh nhân tuân thủ điều trị kém là nghèo nàn và nông cạn ». Giáo sư Ménard biết rơ điều mà ông ta muốn nói : năm 1985, ông đă trắc nghiệm loại tiêm chủng này nơi động vật ouistiti, và động vật này đă phát triển một bệnh tự miễn dịch (maladie auto-immune) của thận, khiến ông phải dừng lại việc theo đuổi mọi cuộc thí nghiệm sau đó. Sự kích thích liên tiếp hệ miễn dịch cũng có thể gây nên những bệnh lư tự miễn dịch, như chúng ta đă thấy trong một thử nghiệm vaccin chống bệnh Alzheimer. Việc tiêm chủng có lẽ cho phép cải thiện sự tuân thủ của các bệnh nhân nhưng phải chăng họ sẽ vui thích khi phải bị chủng ngừa nhiều lần trong năm với nguy cơ bị một hợp chứng cảm cúm mỗi lần được tiêm chủng ? Một vaccin chống cao huyết áp phải chăng cũng cần khẩn cấp như một vaccin chống lại bệnh sida hay ung thư ? « Ngay cả khi chúng ta có thể rút ra những bài học về cách điều khiển hệ miễn dịch, mặc dầu vậy, các quy tắc an toàn vẫn là ưu tiên. », Joel Ménard đă kết luận như vậy.
(LE FIGARO 14/3/2008 - LE JOURNAL DU MEDECIN 18/3/2008)
florida80
06-01-2019, 15:18
ĐIỀU TRỊ CAO HUYẾT ÁP SAU 80 TUỔI?
Mặc dầu những nghiên cứu trước đây gợi ư rằng điều trị cao huyết áp nơi các người già 80 tuổi hoặc hơn là không có lợi lộc ǵ, nhưng theo một công tŕnh quy mô lớn mới đây th́ dường như việc điều trị chống cao huyết áp mang lại một lợi ích chắc chắn: ít tai biến mạch máu năo hơn, ít suy tim hơn và một tuổi thọ cao hơn.
Cao huyết áp được biết là nguồn gốc của các bệnh tim mạch. Huyết áp tâm thu gia tăng một cách liên tục theo đường thẳng, ở đàn ông cũng như phụ nữ. Các trị số của huyết áp có liên hệ với việc xảy ra một tai biến mạch máu năo, các bệnh tim do thiếu máu cục bộ (cardiopathies ischémiques) và tử vong do nguyên nhân tim mạch. Một công tŕnh quy mô lớn chứng tỏ rằng các bệnh nhân với huyết áp trên 180 mmHg có nguy cơ bị một tai biến mạch máu năo chết người 15 lần nhiều hơn, và có nguy cơ bị một bệnh tim do thiếu máu cục bộ 7 lần nhiều hơn, so sánh với những người có trị số huyết áp b́nh thường. Điều chứng nhận này dường như được áp dụng cho tất cả các loại tuổi, mặc dầu ở các bệnh nhân cao tuổi hơn, nguy cơ rơ rệt thấp hơn: những người từ 50 đến 59 tuổi với cao huyết áp (trị số trên 180 mmHg) có nguy cơ bị tai biến mạch máu năo 16 lần cao hơn, trong khi đó cũng mối nguy cơ này nơi những người trên 80 tuổi với cùng các trị số huyết áp, chỉ 3 lần cao hơn.
KHÔNG BAO GIỜ QUÁ MUỘN
Năm 1937, thầy thuốc bệnh tim lỗi lạc Paul Dudley White đă viết rằng “cao huyết áp trong trường hợp các động mạch vành và các mạch máu năo bị hẹp với mức độ quan trọng, có thể là một cơ chế bù trừ quan trọng và do đó không nên điều trị cao huyết áp trong trường hợp này”... Từ đó biết bao nhiều nước đă chảy qua cầu và các ư kiến đă không ngừng tiến triển. Nhưng vẫn c̣n tồn tại một mối hoài nghi nào đó về sự cần thiết phải nhờ đến các thuốc chống cao áp nơi các người già. Công tŕnh nghiên cứu mới đây HYVET (Hypertension in the Very Elderly Trial) vừa đánh tan mối nghi ngờ này. Công tŕnh nghiên cứu có quy mô lớn này, được thực hiện nơi hơn 3.800 lăo ông 80 tuổi, đă đi đến kết luận rằng việc điều trị tích cực bệnh cao huyết áp cũng hữu ích nơi loại tuổi này. Nguy cơ xảy ra tai biến mạch máu năo thấp hơn 30% và nguy cơ bị suy tim giảm 64%. Kết quả bất ngờ và chưa từng có: tỷ lệ tử vong do tất cả các nguyên nhân cũng được thu giảm 21%.
Các quan sát này mang lại lời đính chính đối với những phỏng đoán của các công tŕnh nghiên cứu trước đây, theo đó các chức năng xấu của thận và tim, sự thương tổn của áp thụ quan (barorécepteur), giảm huyết áp thế đứng (hypotension orthostatique), các rối loạn nhận thức, tất cả các loại tác dụng phụ do việc uống nhiều thuốc và những tương tác thuốc, sẽ làm mất hiệu quả của các lợi ích lâm sàng của việc điều trị cao huyết áp.
Công tŕnh nghiên cứu này chứng tỏ rơ ràng rằng sẽ không bao giờ quá muộn lúc tiến hành một điều trị cao huyết áp. Mặc dầu các lợi ích chắc chắn là ít rơ rệt hơn so với những người trẻ hơn, tuy nhiên vẫn có ư nghĩa.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 15/4/2008)
florida80
06-01-2019, 15:18
CAO HUYẾT ÁP : YẾU TỐ NGUY CƠ QUAN TRỌNG ĐỐI VỚI MỌI LOẠI TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO
Cao huyết áp có làm gia tăng một cách đồng nhất nguy cơ tai biến mạch máu năo hay trái lại chỉ ưu tiên đối với vài loại ? Một công tŕnh nghiên cứu của Nhật Bản đă cho câu trả lời.
Lần này đó là một công tŕnh nghiên cứu quan sát, đă theo dơi, suốt trong 32 năm, diễn biến của 1.624 người già 40 tuổi hoặc hơn, không có tiền sử cá nhân và gia đ́nh về tai biến mạch máu năo. Các kết quả cho thấy rằng, đối với tai biến mạch máu năo, tỷ lệ mắc bệnh gia tăng một cách đáng kể (nguy cơ xuất hiện được nhân lên 3,7 lần) ngay ở giai đoạn 1 của xếp loại cao huyết áp của các hiệp hội tim và cao huyết áp châu Âu (140-159/95-99 mmHg), so với một huyết áp b́nh thường (< 120/80 mmHg). Huyết áp càng gia tăng, th́ nguy cơ mắc bệnh càng được nhân lên. Dữ kiện khác quan trọng của công tŕnh nghiên cứu này : sự gia tăng dần dần của huyết áp kèm theo một sự gia tăng cũng dần dần của tỷ lệ mắc phải các tai biến mạch máu năo, loại tai biến thiếu máu cục bộ tạm thời (accident ischémique transitoire : AIT), tai biến mạch máu năo (AVC) và xuất huyết năo. Trái lại, sự gia tăng nguy cơ tai biến mạch máu năo có nguồn gốc huyết khối nghẽn mạch (thromboembolique) và các xuất huyết dưới màng nhện (hémorragie sous-arachnoidienne) chỉ trở nên đáng kể bắt đầu từ giai đoạn 3 của xếp loại cao huyết áp (nghĩa là > 180/110 mmHg).
(LE GENERALISTE 10/7/2008)
florida80
06-01-2019, 15:19
TIÊM CHỦNG CHỐNG BỆNH CAO HUYẾT ÁP : GIẤC MƠ HAY HIỆN THỰC ?
Tiêm chủng chống lại cao huyết áp, ư tưởng thật là quyến rũ và ngày nay đang vững bước tiến lên. Trong số những lợi ích tiềm tàng, người ta nhắm đến sự cải thiện việc tuân thủ điều trị và do đó vào một sự kiểm tra tốt hơn. Nhưng trên thực tế không phải là đơn giản như vậy. Điểm t́nh h́nh với giáo sư J. Nussberger (Lausanne) (Thụy Sĩ).
Vào năm 2.000, người ta ước tính có 972 triệu người trưởng thành bị cao huyết áp trên thế giới, trong đó 333 triệu người trong các nước công nghiệp hóa. Đối với năm 2.005, người ta dự kiến một gia tăng 60% hay 1,56 tỷ người. Điều này nói lên tầm quan trọng của một vaccin pḥng ngừa hay điều trị và thật ra sự quan tâm không phải mới có từ hôm qua.
Những nghiên cứu đầu tiên, bắt đầu từ năm 1951, nhưng phải đợi những năm 70, rồi 80 để thấy những tiêm chủng đầu tiên trên động vật với các kháng thể chống angiotensine II, phân tử có tác dụng co mạch làm kềm hăm sự tiết rénine. Những kết quả đầu tiên được đánh giá trên cơ sở đo các nồng độ angiotensine II và của rénine, chứng tỏ tính hiệu quả của sự tiêm chủng nhưng với cái giá của những thương tổn thận nghiêm trọng.
Ngày nay, kỹ thuật gây miễn dịch đă tiến triển và một thử nghiệm giai đoạn II, nhiều trung tâm, được khởi đầu theo sáng kiến của một nhóm nghiên cứu Đức-Thụy Sĩ. Vaccin anti-HTA CYT006-AngQb được cấu tạo bởi “ các phần tử giống virus ”, có một đường kính 30 nanomètre, được bao phủ bởi angiotensine II, cho phép kích thích tạo kháng thể.
Công tŕnh bao gồm 72 bệnh nhân từ 18 đến 65 tuổi có cao huyết áp từ nhẹ đến trung b́nh. Các kết quả cho thấy một sự giảm 9 mmHg đối với huyết áp tâm thu và 4 đối với huyết áp tâm trương, với các con số vào buổi sáng sớm lần lượt 25 và 13 mmHg.
Sự kiện đáng chú ư là sự giảm huyết áp xảy ra vào buổi sớm, vào một thời điểm ta biết rằng rất quan trọng để các tai biến tim mạch xảy ra và không luôn luôn được kiểm soát bởi các thuốc chống cao áp v́ những lư do dược lư. Tiếc thay, thời gian bán hủy của các kháng thể là ngắn, được ước tính là 4 tháng, điều này có nghĩa là một hiệu quả điều trị thường trực chỉ có được với nhiều mũi tiêm hàng năm. Điều tra về khả năng chịu thuốc cũng phát hiện những tác dụng phụ không những ở da mà c̣n toàn thân với một hội chứng cúm có thể hồi phục.
Những dữ kiện này là đầy hứa hẹn nhưng để tiến bước, phải thực hiện một công tŕnh nghiên cứu lớn trên một số lượng quan trọng các bệnh nhân.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 23/1/2009)
florida80
06-01-2019, 15:20
NHỮNG NGƯỜI ĂN CHAY ÍT BỊ CAO HUYẾT ÁP VÀ ĐÁI ĐƯỜNG
Nutrion : Những lợi ích được quan sát không những chỉ được gán cho chế độ ăn uống không có thịt, mà nhất là c̣n do một lối sống lành mạnh hơn.
Ở Pháp, theo Trung tâm thông tin về thịt, có 1% đến 2% người ăn chay. Trái với các thành kiến, ăn chay không phải là xấu đối với sức khỏe. Đó là điều được đánh giá bởi Bernard Guy-Grand, phó chủ tịch của viện dinh dưỡng Pháp, và Fernand Lamisse, giáo sư dinh dưỡng. Theo họ sự loại bỏ các thức ăn phát xuất từ thịt của các động vật trên đất dưới biển không có hậu quá về mặt thiếu dinh dưỡng (carence), nếu chúng ta “ liên kết các ngũ cốc với bộ đậu (légumineuses) trong một bữa ăn hay trong một ngày ” .Vào lúc đó, các protéine thực vật có một chất lượng có thể so sánh với các protéine động vật. Thật vậy, trong khung cảnh một chế độ ăn chay (régime végétarien) được theo dơi tốt, chính các ngũ cốc và bộ đậu mang lại phần lớn các protéines.
Về vitamine B12, hiện diện độc nhất trong các thức ăn nguồn gốc động vật, sự tiêu thụ sữa và trứng tránh cho người ăn chay bị thiếu vitamine này. Ngược lại, những người ăn chay không tiêu thụ các sản phẩm sữa và trứng bị nguy cơ thiếu vitamine B12 và thiếu máu. Không kể đến những cung cấp calcium không đầy đủ gây nên bởi loại dinh dưỡng này. Do đó những người ăn chay phải ăn các rau xanh và các trái cây giàu calcium như cải xoong (cresson), rau bi na (épinard), quả hạnh (amande), quả phỉ (noisettes) hay quả đào lạc (pistache).
Mặt khác, về phương diện sức khỏe, những công tŕnh nghiên cứu dịch tễ đă cho thấy rằng những người ăn chay ít bị cao huyết áp và bị bệnh động mạch vành hơn. Theo Fernand Lamisse, đó không những “số lượng và tính chất của các mỡ được ăn vào, nghĩa là ít các axit béo bảo ḥa hơn, mà c̣n là những thói quen đời sống (không hút thuốc, không uống rượu và một hoạt động vật lư có mức độ quan trọng hơn) giải thích những tác dụng có lợi này lên sức khỏe”. Ông cũng nhận xét rằng trong đại tràng, các sợi được ăn vào sinh ra các axit béo chuỗi ngắn, làm kềm hăm sự tổng hợp cholestérol bởi gan.
Về mặt béo ph́ và bệnh đái đường loại 2, những người ăn chay cũng có lợi. Số lượng quan trọng các sợi trong chế độ ăn của người ăn chay có một tác dụng làm no nê hơn, do đó những người ăn chay ăn với số lượng ít hơn. Nếu sự giảm tỷ lệ của vài ung thư đúng là được quan sát nơi những người ăn chay, th́ sự giảm này chủ yếu được giải thích bởi sự tiêu thụ trái cây và rau xanh. Đó là chưa kể đến rằng sự hiện diện trong các cây thực vật nhiều chất chống oxy-hóa có đặc tính chống gây ung thư, ngay cả điều đó đă không bao giờ được chứng minh.
LƯ LẼ MÔI TRƯỜNG.
Nói tóm lại, chính lối sống ảnh hưởng lên sức khỏe hơn là sự việc ăn chay. “ Lợi ích được quan sát không thể được quy cho việc không ăn thịt ” , Fernand Lamise đă đánh giá như vậy. Điều này có nghĩa là những “ động vật ăn tạp ” (omnivores), ăn từ 400 đến 800 gam trái cây và rau xanh mỗi ngày, cũng có thể thu được những lợi ích của một lối sống lành mạnh hơn
Ở Pháp, ăn chay thường thuộc về một lựa chọn ư thức hệ hay triết lư, mặc dầu lư lẽ môi trường thường được đưa ra. Theo một nghiên cứu của Tổ chức lương nông của Liên Hiệp Quốc, sự sản xuất thịt trên thế giới là nguồn gốc của 20% của các khí có effet de serre được phát ra. Sản xuất một ki lô thị ḅ gây nên sự phát ra tương đương 36,4 kg thán khí (C02).
(LE FIGARO 14/1/2009)
florida80
06-01-2019, 15:20
CHỈ MỘT VIÊN THUỐC ĐỂ CHỐNG LẠI CÁC BỆNH TIM MẠCH
PHARMACOLOGIE. Một viên thuốc chứa một chất kháng cholestérol, 3 loại thuốc chống cao huyết áp và aspirine, có thể làm giảm 50% nguy cơ bị nhồi máu cơ tim và đột qụy.
Một viên thuốc duy nhất để ngăn ngừa các bệnh tim mạch đối với những người trên 50 tuổi ? Quan niệm này đă được nêu lên từ nhiều năm nay, bây giờ bắt đầu trở thành hiện thực. Thật vậy, các thầy thuốc Ấn Độ vừa công bố trên site Internet của tạp chí y khoa The Lancet các kết quả của một thử nghiệm, được thực hiện với một polypill chứa 5 chất có hoạt tính chống lại các bệnh tim mạch.
Những trắc nghiệm này xác nhận rằng chỉ một viên thuốc cũng có hiệu quả như 5 loại thuốc được kê toa một cách độc lập. Các tác giả, cũng đă tŕnh bày những công tŕnh này hôm thứ hai, nhân hội nghị thường niên American College of Cardiology ở Orlando (Florida), đánh giá rằng một viên thuốc như thế, được cho để pḥng ngừa, có thể làm giảm gần một nửa các trường hợp tai biến tim và các cơn đột qụy. Những thử nghiệm khác, với quy mô lớn hơn, vẫn phải được tiến hành để xác nhận những kết quả này. Những bệnh tim mạch, hiện đang bùng nổ trong các nước đang phát triển, vẫn là một trong những nguyên nhân chính gây tử vong trong các nước phương Tây, mặc dầu có sự giảm bớt do việc điều trị tốt hơn (cao huyết áp, tăng cholestérol-huyết, chứng nghiện thuốc lá). Sự ngăn ngừa này, được căn cứ trên sự sử dụng nhiều thứ thuốc, đă đặt ra vấn đề tuân thủ điều trị, không hoàn toàn được tôn trọng một cách đúng đắn. Và điều này có thể được cải thiện bằng cách uống một viên thuốc duy nhất. Thử nghiệm điều trị này (được tài trợ bởi Pḥng bào chế Ấn Độ Cadilla Pharmaceuticals) đă được tiến hành ở Ấn Độ, trong 50 trung tâm y tế, trên 2.053 người tham dự, tuổi từ 45 đến 80, đă không bao giờ bị bệnh tim mạch, nhưng chỉ có một yếu tố nguy cơ (cao huyết áp, cholestérol cao…).
THIẾU CÁC CÂU TRẢ LỜI TINH TẾ
Mục đích là để đánh giá sự dung nạp của điều trị phối hợp này và xác định xem viên thuốc phối hợp này có tác dụng lên nguy cơ tim mạch giống như mọi loại thuốc được uống riêng rẻ hay không. Thử nghiệm đă so sánh polypill với 8 protocole điều trị khác (statine dùng đơn độc, aspirine dùng đơn độc, bêta-bloquant dùng đơn đọc) trên huyết áp, trên nồng độ cholestérol hay trên nhịp tim. Viên thuốc chứa những liều lượng thấp của 3 loại thuốc chống cao huyết áp (12,5 mg thiazide, 50 mg atenolol và 5mg ramipril) cũng như 20 mg simvastatin (một thuốc kháng cholesterol), và 100 mg aspirine (với tác dụng kháng đông).
Các kết quả đă cho thấy nồng độ cholestérol giảm với mức độ quan trọng nơi những người được điều trị bởi polypill cũng như nơi những người chỉ dùng statine đơn độc. Cũng như thế đối với huyết áp khi dùng các thuốc chống cao áp đơn độc. Tính chất lưu thông của máu được cải thiện bởi polypill giống như với aspirine dùng riêng rẻ. Các tác dụng phụ của polypill cũng giống với các tác dụng gây nên bởi mỗi thành phần được dùng riêng rẻ. “Chúng tôi ước đoán rằng polypill có lẽ có khả năng làm giảm 60% các bệnh tim và 50% các đột qụy, B.S Salim Yusuf, thuộc Population Health Research Institute của Université McMaster (Canada) đă đánh giá như vậy. Ư tưởng những người có thể chỉ uống một viên thuốc để làm giảm nhiều nguy cơ tim có thể cách mạng hóa sự ngăn ngừa các bệnh tim mạch”.
Hiện nay, thử nghiệm lâm sàng đă chỉ đánh giá sự cải thiện các hằng số sinh học với điều trị phối hợp này. Bây giờ cần phải tiến hành những điều tra quy mô lớn để đánh giá tác dụng lên tỷ lệ mắc bệnh và trên tỷ lệ tử vong.
Trong những nước giàu có, những viên thuốc như thế có thể đơn giản hóa sự pḥng ngừa. “Khái niệm này không phải là không hấp dẫn, G.S Nicolas Danchin thuộc bệnh viện Georges -Pompidou khẳng định như thế. Vấn đề là c̣n phải chứng tỏ rằng thuốc không có các tác dụng phụ lúc dùng lâu dài và rằng điều đó cho phép cải thiện sự tuân thủ điều trị.” Việc pḥng ngừa là một chương tŕnh dài hạn. “Vấn đề của viên thuốc phối hợp này, đó là nó không đáp ứng một cách tinh tế những vấn đề chính xác của mỗi người, B.S Yves Benacin (thầy thuốc chuyên khoa tim, Paris) đă giải thích như vậy. Nhưng có lẽ đó là một giải pháp cho những người có nguy cơ không tuân thủ điều trị một cách đều đặn, và dĩ nhiên đó là một giải pháp cho các nước đang phát triển.” Tuy nhiên đừng quên rằng một chế độ ăn uống lành mạnh và tập thể dục đều đặn 5 lần mỗi tuần, làm giảm một cách không chối cải được cholestérol, huyết áp, đường huyết và tăng sức cho trái tim.
(LE FIGARO 1/4/2009)
florida80
06-01-2019, 15:21
CAO HUYẾT ÁP : ALISKIREN DÙNG CHO NHỮNG TRƯỜNG HỢP CAO HUYẾT ÁP ĐỀ KHÁNG VỚI THUỐC
G.S Xavier Girend, thầy thuốc chuyên khoa tim của Hôpital de la Pitié-Salpêtrière, giải thích tác dụng của một thuốc chống cao áp mới sẽ được thương măi hóa ở Pháp trong vài tháng tới.
Hỏi : Ông có thể nhắc lại cho chúng tôi những đặc điểm của căn bệnh thường xảy ra này : bệnh cao huyết áp ?
G.S Xavier Girend : Đó là một sự hoat động kém của các động mạch, do đó có thuật ngữ “ cao huyết áp ” (hypertension artérielle). Những huyết quản này, đă mất đi tính mềm dẻo, nên có nhiều khó khăn hơn để mở ra. Hậu quả là, tim phải hoạt động nhiều hơn để gia tăng áp lực trong các động mạch. Cơ thể thich nghi dần, nhưng với cái giá là sự mỏi mệt quá mức của cơ tim và của các huyết quản, sẽ “ hao ṃn ” đi nhanh hơn. Và khi các thành động mạch hao ṃn, chúng sẽ dày lên. Sau vài năm không điều trị, một lúc nào đó, các động mạch bị bít lại. Đó là lúc rất nguy kịch bởi v́ là nguồn gốc của một cơn cấp tính : nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu năo hay suy thận..
Hỏi : Có những yếu tố làm dễ không ?
G.S Xavier Girend : Chúng ta biết có 3 yếu tố chính.
1. Có một thành viên trong gia đ́nh bị cao huyết áp trước 50 tuổi.
2. Sự lăo hóa của các động mạch : 70% các người bị cáo huyết áp hơn 60 tuổi, được làm gia tăng với thuốc lá, thặng dư cholestérol xấu và đái đường.
3. Chứng béo ph́ bụng (obésité abdominale)
Hỏi : Làm sao một stress có thể làm huyết áp lên cao trong chốc lát, làm sao có được một chẩn đoán rất chính xác ?
G.S Xavier Girend : Ngày nay chúng ta có những kỹ thuật rất có hiệu năng. Như là chúng ta có thể phó thác cho bệnh nhân một chiếc máy nhỏ gồm một băng tay (brassard), được nối với một chiếc hộp (boitier) được đặt trên một cái bàn. Huyết áp phải được đo và ghi 3 ngày liên tiếp và vào những lúc chính xác : đo ba lần buổi sáng và ba lần buổi chiều. Chính vào lúc có được toàn bộ các con số này, chúng ta mới có thể thật sự xác lập một chẩn đoán cao huyết áp thường trực (hypertension permanente). Phải biết rằng sau 60 tuổi, ta thường có những đỉnh cao cao huyết áp do stress, mặc dầu không có bệnh động mạch.
Hỏi : Ngày nay, điều trị cổ điển của cao huyết áp là ǵ ?
G.S Xavier Girend :Cách nay 50 năm, những thuốc đầu tiên đă được chế tạo nhằm mang lại cho các động mạch một sự mềm dẻo nào đó. Từ đó, trung b́nh cứ mỗi 10 năm, người ta thấy xuất hiện những họ thuốc mới bởi v́ những thuốc chống cao áp này không tác dụng nơi tất cả các bệnh nhân. Vậy cần phải có một thang khá rộng các điều trị. Hiện nay, 60% những bệnh nhân cao huyết áp nhận một liệu pháp gồm hai thứ thuốc (bithérapie).
Hỏi : Với những thuốc được sử dụng hiện nay, tỷ lệ bệnh nhân mà ông điều trị có hiệu quả là ǵ ?
G.S Xavier Girend : 50% nhưng, cách nay 10 năm, chỉ 35% mới hưởng được một sự cải thiện thật sự.
Hỏi : Do đó, ở Pháp cần một loại thuốc mới. Tác dụng của loại thuốc này là ǵ ?
G.S Xavier Girend :Đó là một loại dược lư được gọi là “ chất ức chế trực tiếp rénine ” (inhibiteur direct de la rénine), nhằm vào một quá tŕnh sinh học đặc hiệu, nguồn gốc của huyết áp (cơ chế quá phức tạp để được tŕnh bày ở đây).
Chất thuốc mới này, aliskiren, ức chế tác dụng của rénine, một chất tham gia vào một chuỗi các biến cố sinh học làm giảm sự mềm dẻo của các động mạch. Thuốc được uống một lần duy nhất mỗi ngày, nhưng tác dụng của nó kéo dài hơn một ngày. Trong vài trường hợp, thuốc này có thể được thêm vào cho một điều trị không đủ hiệu quả.
Hỏi : Thời gian nh́n lại với loại thuốc mới này là ǵ ?
G.S Xavier Girend : Aliskiren đă được nghiên cứu rất tốt trên 10.000 người ở Hoa Kỳ và châu Âu. Những kết quả rất tốt thu được về độ dung nạp và tính hiệu quả đă cho phép thương măi hóa thuốc này ở Hoa Kỳ cách nay 18 tháng. Hôm nay hơn 200.000 người Mỹ đă sử dụng thuốc này ! Và đối với một số lớn những người dùng Aliskiren, chất ức chế rénine này đă tác dụng hiệu quả hơn những thuốc đă được thương măi hóa.
Hỏi : Khi nào th́ Aliskiren sẽ được lưu hành ở Pháp ?
G.S Xavier Girend : Chẳng bao lâu nữa, vào tháng 9 năm 2009.
(PARIS MATCH 26/3-1/4/2009)
florida80
06-01-2019, 15:22
CAO HUYẾT ÁP, SUY THẬN, NHỮNG KẺ GIẾT NGƯỜI THẦM LẶNG.
Néphrologie. Các bệnh thận không được công chúng biết đến và được chẩn đoán chậm. Chúng gây bệnh cho một số người ngày càng tăng, ở Pháp và trên thế giới.
Một vài bệnh phát triển âm thầm và gây nên những thương tổn nhỏ xíu, không tiếng động, không triệu chứng trong nhiều năm trời. Đó là trường hợp cao huyết áp, có khả năng tiến triển trong nhiều chục năm, không được chẩn đoán hay điều trị. Và roi hầu như trong một sớm một chiều, một suy thận giai đoạn cuối xuất hiện : bệnh nhân suy kiệt, bị nhưng rối loạn khác nhau, nhất là thần kinh.
Một bilan sinh học cho phép chẩn đoán suy thận măn giai đoạn cuối. Vào giai đoạn này chẳng có lựa chọn nào khác hơn là thẩm tách (dialyse) và ghép thận. Khoảng 30% những người bị suy thận giai đoạn cuối đă khám phá ra bệnh trong bối cảnh cấp cứu.
Hôm qua, nhân dịp giới thiệu ngày quốc tế của thận 12/3 sắp đến, giáo sư Eric Rondeau (bệnh viện Tenon, Paris) đă nêu rơ vai tṛ quan trọng của cao huyết áp trong sự phát sinh của suy thận. Đặc biệt ông đă xác nhận rằng việc thăm khám đều đặn nhằm phát hiện suy thận nơi những người có nguy cơ (cao huyết áp, đái đường, tiền sử gia đ́nh bị bệnh thận...) liên kết với một điều trị sớm, cho phép tránh được bệnh này của thận hoặc làm chậm sự tiến triển của nó. Ở Pháp, 35.000 người cần thẩm tách thận(dialyse rénale) và 25.000 người khác sống với một quả thận được ghép.
Với bệnh đái đường thường được liên kết, cao huyết áp là một trong những nguyên nhân chính của suy thận. Ở Pháp, có 7 triệu người bị cao huyết áp, chỉ một nửa là theo đuổi điều trị và chỉ 35% trong số những người này có một con số huyết áp được cân bằng một cách đúng đắn. Huyết áp được biết là một yếu tố nguy cơ tim mạch. Những tác dụng của nó lên thận phần lớn không được dân chúng biết đến. Dường như có một sự nhạy cảm cá nhân của thận đối với cao huyết áp. Không phải tất các mọi người cao huyết áp đều bị suy thận.
THĂM D̉ PHÁT HIỆN.
Nơi vài người có một sự nhạy cảm di truyền đặc biệt, cao huyết áp dẫn đến sự tạo thành bệnh xơ cứng mạch máu thận tiến triển từ từ (néphroangiosclérose progressive) : các huyết quản đặc biệt bị liên hệ bởi quá tŕnh xơ cứng (sclérose). Bệnh xơ cứng mạch máu thận thường xảy ra hơn nơi những người già, nhưng đôi khi được quan sát, mặc dầu hiếm, trước tuổi 30. “ Điều trị nội khoa cao huyết áp, nếu được theo dơi tốt và nếu có hiệu quả lên việc kiểm soát huyết áp, sẽ cho phép ngăn ngừa sự xuất hiện các biến chứng năo và tim mạch, nhưng cũng ngăn ngừa những biến chứng măn tính và nhất là suy thận măn ”, GS Eric Rondeau đă đảm bảo như vậy.
Tất cả những yếu tố cho phép kiểm soát huyết áp, cũng làm giảm nguy cơ suy thận. Đó là những loại thuốc. Nhưng không phải chỉ có thuốc men không thôi. Làm giảm trọng lượng 5 kg sẽ làm giảm mức huyết áp, cũng như sự tập thể dục đều đặn và sự giảm tiêu thụ rượu và muối.
Có nên thực hiện thăm ḍ một cách hệ thống nhằm phát hiện suy thận bằng những xét nghiệm sinh học được thực hiện đều đặn hay không ? Có lẽ là không, các chuyên gia đă xác nhận như thế, nhưng phải đặc biệt lưu ư đến những người có nguy cơ cao. Vào tháng 10 năm qua, Fondation du rein, với sự tham gia cùa những pḥng xét nghiệm công và tư, đă phát động một tuần chiến dịch thăm ḍ phát hiện bệnh suy thận. Hơn 9.000 người đă tham dự. Chẳng bao lâu nữa, những kết quả sẽ được công bố.
(LE FIGARO 3/3/2009)
florida80
06-01-2019, 15:22
NHỮNG NGƯỜI NGỦ ÍT DỄ BỊ BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG (17/4/2009)
Những người ngủ dưới 6 giờ mỗi đêm trong tuần hầu như có 5 lần nguy cơ phát triển sự bất dung nạp đối với glucose (intolérancecau glucose) cao hơn so với những người ngủ lâu hơn.
Thời gian ngủ có cho phép tiên đoán nguy cơ phát triển một bất dung nạp đối với glucose hay không ? Lisa Rafalson và nhóm nghiên cứu của đại học Buffalo ở Nữu Ước đă theo dơi trong 6 năm 1.455 người tham dự của công tŕnh nghiên cứu Western New York Study. 91 người trong số những người tham dự đă có nồng độ đường huyết thay đổi từ 100mg/dl vào lúc bắt đầu công tŕnh nghiên cứu năm 1996-2001, lên 100-125 mg/dl vào lúc được thăm khám theo dơi năm 2003-2004. Những nhà nghiên cứu đă xếp loại những bệnh nhân này và 273 người chứng tùy theo thời gian ngủ trong tuần lễ làm việc : những người ngủ ít (dưới 6 giờ), những người ngủ nhiều (trên 8 giờ) và trung b́nh (6-8 giờ). Sau khi điều chỉnh đối với những biến số khác nhau, họ đă nhận thấy một sự gia tăng đáng kể của nguy cơ phát triển sự bất dung nạp glucose (intolerance au glucose) nơi những người ngủ ít (petits dormeurs : dưới 6 giờ) so với những người ngủ trung b́nh (dormeurs moyens : 6-8 giờ). Trái lại, so với những người ngủ trung b́nh, những người ngủ nhiều (gros dormeurs : trên 8 giờ) không cho thấy một sự liên kết nào với sự rối loạn đường huyết lúc đói.
PHỤ NỮ NGỦ ÍT DỄ BỊ CAO HUYẾT ÁP HƠN
Trong một công tŕnh nghiên cứu khác, cũng được tŕnh bày trong Hội nghị của Hiệp Hội Tim Hoa Kỳ, các nhà nghiên cứu đă khám phá một mối liên hệ giữa thời gian ngủ và nguy cơ bị cao huyết áp nơi các phụ nữ. Trong lúc so sánh số giờ ngủ của 3.027 người tuổi trung niên (43,5% đàn ông và 56,5% phụ nữ), họ đă nhận thấy rằng lúc ngủ ít (dưới 6 giờ), các phụ nữ có nguy cơ bị cao huyết áp gia tăng đáng kể so với những phụ nữ ngủ từ 6 đến 8 giờ mỗi đêm. Không có một liên hệ nào thuộc loại này đối với đàn ông. Mặt khác, tác dụng của giấc ngủ rơ nét nơi những phụ nữ trong thời kỳ tiền măn kinh (préménopause) hơn nơi những phụ nữ đă măn kinh. Những công tŕnh nghiên cứu khác sẽ xác nhận những dữ kiện này.
RỐI LOẠN GIẤC NGỦ LÀM GIA TĂNG NGUY CƠ BỊ BÉO PH̀.
Cũng vẫn ở trong vấn đề thiếu ngủ, một công tŕnh nghiên cứu thứ ba, được tŕnh bày ở hội nghị của Hiệp Hội Tim Hoa kỳ và được thực hiện nơi 967 học tṛ (9-14 tuổi), cho thấy rằng chất lượng của giấc ngủ được liên kết với nguy cơ béo ph́ nơi các trẻ em.
Các nhà nghiên cứu đă đo tầm vóc và trọng lượng của những người tham dự và đă thu nhận những dữ kiện về chất lượng của những giấc ngủ của những trẻ này (“ thường ”, “ đôi khi ”, “ không bao giờ ” có những rối loạn giấc ngủ). Theo các kết quả, 22% tăng thể trọng (surpoids) và 10,3% béo ph́ (obèse). 36% đă “ thường ” có những rối loạn giấc ngủ và, so sánh với những trẻ “ không bao giờ ” hay “ đôi khi ” có những rối loạn giấc ngủ, những trẻ “ thường ” có rối loạn giấc ngủ có thêm 62% nguy cơ trở nên bị béo ph́.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 20/3/2009)
florida80
06-01-2019, 15:23
VITAMINE D VÀ NGUY CƠ CAO HUYẾT ÁP.
Nơi các phụ nữ trẻ, sự thiếu hụt vitamine được liên kết với một sự gia tăng nguy bị cao huyết áp về sau này. Đó là điều được giải thích bởi các nhà nghiên cứu trong hội nghị lần thứ 63 về nghiên cứu cao huyết áp, được tổ chức bởi Hiệp Hội Tim Hoa Kỳ (AHA).
Các nhà nghiên cứu đă xem xét các phụ nữ được tuyển mộ trong công tŕnh nghiên cứu Michigan Bone Health and Metabolism Study và đă phân tích các dữ kiện của 559 phụ nữ người Caucase sống ở Tecumseh, (Michigan). Công tŕnh, hiện luôn được tiến hành, đă khởi đầu vào năm 1992 khi những người này tuổi từ 24 đến 44 (trung b́nh 38 tuổi). Huyết áp của họ đă được đo mỗi năm và nồng độ vitamine D, được xác định một lần vào năm 1993, đă được so sánh với huyết áp được đo vào năm 2007.
Những kết quả cho thấy rằng, so với những người tham dự có những nồng độ viatmine D b́nh thường, các phụ nữ bị thiếu hụt (dưới 80 nmol/l) vào năm 1993, có 3 lần nguy cơ cao hơn bị một cao huyết áp tâm thu (hypertension systolique) 15 năm sau đó.
Vào lúc đầu của công tŕnh nghiên cứu, 2% các phụ nữ tham gia đă có cao huyết áp hay được điều trị bởi các thuốc chống cao áp và thêm 4% đă được chẩn đoán cao huyết áp. Nhưng 15 năm sau, những con số này lần lượt là 19% và 6%.
“ Những kết quả của chúng tôi cho thấy rằng một sự thiếu hụt sớm vitamine D có thể làm gia tăng nguy cơ cao huyết áp sau này nơi các phụ nữ trung niên ”, Flojaune Griffin, một trong những nhà nghiên cứu đă xác nhận như vậy.
Theo các chuyên gia thuộc các chuyên môn khác nhau, sự thiếu hụt vitamine D rất phổ biến nơi phụ nữ. Mặt khác, không có sự nhất trí về việc cung cấp tối ưu vitamine D. Theo vài nhà nghiên cứu, cung cấp vitamine được khuyến nghị hiện nay từ 400 đến 600 đơn vị mỗi ngày là không thích đáng và họ chủ trương một nồng độ thay đổi từ 1.000 đến 5.000 đơn vị. Ta cần nhắc lại rằng ngoài vai tṛ được xác lập của vitamine D trên chuyển hóa xương, sự thiếu hụt của vitamine này cũng đóng một vai tṛ trong vài ung thư và độc hại đối với tính miễn dịch và các bệnh viêm.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 2/10/2009)
florida80
06-01-2019, 15:23
CHOCOLAT TỐT CHO TIM VÀ CÁC MẠCH MÁU.
Các nhà nghiên cứu người Đức đă cho thấy rằng những lượng nhỏ chocolat được tiêu thụ mỗi ngày làm hạ huyết áp và làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch.
Nhóm nghiên cứu người Đức đă theo dơi trong khoảng 10 năm những thói quen ăn uống của 19.357 người, tuổi từ 25 đến 65 tuổi. Các tác giả đă có thể chứng thực rằn, những người ăn nhiều chocolat nhất (trung b́nh 7,5 g mỗi ngày) có một huyết áp thấp hơn và một nguy cơ bị nhồi máu cơ tim hay một tai biến mạch máu năo giảm 39%, so với những người chỉ tiêu thụ rất ít (1,7g mỗi ngày). Về mặt nguy cơ tuyệt đối, điều đó có nghĩa là sự việc ăn một miếng vuông nhỏ chocolat khoảng 6g cho phép tránh, nơi 10.000 người, 85 nhồi máu cơ tim và tai biến mạch máu năo trong một khoảng thời gian 10 năm, BS Brian Buijssen, nhà dịch tễ dinh dưỡng, người điều khiển công tŕnh nghiên cứu này, đă giải thích như vậy.
Nhưng không nên v́ thế mà suy diễn ra rằng ta có thể đồng thời tự cho phép ḿnh gia tăng sự tiêu thụ toàn thể calorie và tiêu thụ ít hơn những thức ăn lành mạnh, nhà nghiên cứu cảnh cáo như vậy. “ Những lượng nhỏ chocolat giúp pḥng ngừa sự xuất hiện các bệnh tim mạch, nhưng chỉ khi những lượng này thay thế một nguồn thức ăn giàu calorie khác, để trọng lượng có thể vẫn luôn luôn ổn định. ”
Mặc dầu sự tiếp tục của các nghiên cứu là tỏ ra cần thiết, nhưng nhóm nghiên cứu người Đức đă có thể xác nhận rằng tác dụng có lợi của chocolat được liên kết với sự hiện diện của flavonol trong cacao. Những chất này hiện diện chủ yếu trong chocolat đen. “ Các flavonol cải thiện biodisponibilité của monoxyde d’azote trong các huyết quản. Những chất này làm giăn các mạch máu hơn và điều này góp phần mang lại một huyết áp thấp hơn. Monoxyde d’azote cũng cải thiện chức năng của các tiểu cầu, làm cho máu ít dính hơn ”, Brian Buijsse nói tiếp như vậy.
TRÀ CŨNG THẾ.
Một công tŕnh nghiên cứu mới đây của Ḥa Lan cũng quan tâm đến những tác dụng có lợi của các flavonol. Peter Hollman của đại học Wageningen đă phân tích mối liên hệ giữa sự sử dụng các loại flavonoides khác nhau và sự xuất hiện của các tai biến mạch máu năo. Trong một phân tích méta, ông đă xét đến hơn 100.000 người phát xuất từ 6 công tŕnh nghiên cứu đă được công bố. Các flavonoides đặc hiệu như các flavonol, dường như có một tác dụng lên nguy cơ tai biến mạch máu năo. “ Nếu người ta tiêu thụ một lượng flavonol tương ứng với lượng được t́m thấy trong 3 tách trà, người ta có thể làm giảm 20% nguy cơ
bị một tai biến mạch máu năo ”, nhà nghiên cứu Ḥa Lan đă b́nh luận như vậy.
Chúng ta hăy nhớ rằng các flavonols cũng hiện diện trong rau xanh và các trái cây.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 13/4/2010)
florida80
06-01-2019, 15:25
CAO HUYẾT ÁP : C̉N QUÁ NHIỀU BỆNH NHÂN KHÔNG BIẾT M̀NH BỊ BỆNH ?
NHỮNG ĐIỂM MỐC
HUYẾT ÁP. Cùng với việc bắt mạch (tần số tim) và sự sử dụng ông nghe (để thính chẩn cơ thể và đặc biệt là ngực), huyết áp kế để đo huyết áp là động tác y khoa cơ bản đơn giản thứ ba đối với một lần thăm khám đầu tiên.
CÁC TRẺ EM. Các trẻ em chúng cũng có thể bị cao huyết áp. Đối với một trẻ em được đặt nằm dài, ở trạng thái nghỉ ngơi, với một băng tay (brassard) của huyết áp kế được thích ứng theo tầm vóc của nó, nói chung huyết áp phải là, trước 1 tuổi 8/5, từ 1 đến 2 tuổi 9/6, từ 2 đến 4 tuổi 10/6,5, từ 4 đến 5 tuổi 9/6, từ 5/10 tuổi 10/6 và từ 10 đến 14 tuổi 1/6.
TỰ ĐO. Với máy điện tử thích ứng, có thể tự đo lấy ḿnh huyết áp theo quy tắc 3 (règle de trois) : ba lần buổi sáng, ba lần buổi chiều trong 3 ngày (với những lần đo cách nhau từ 1 đến 2 phút). Như thế những người lo lắng có thể có những bất ngờ đối với những lần đo được thực hiện trong pḥng mạch của người thầy thuốc.
MUỐI. Trong một thời gian lâu, huyết áp đồng nghĩa với chế độ ăn uống không có muối. Hôm nay không c̣n như thế nữa, khác hẳn là đằng khác. Nếu quả đúng là nói chung chúng ta ăn quá nhiều muối (6g mỗi ngày là đủ), nhưng không được nhịn muối hoàn toàn. Cũng cần tránh những thức ăn quá mặn (thí dụ đồ thịt lợn), ưu tiên những món ăn được chế biến tại nhà, ưa thích hơn nước nhạt hơn là nước khoáng có hơi.
THỂ THAO. Một hoạt động thể thao thích ứng với tầm mức của ḿnh là rất được khuyến nghị. Nhưng không nên tập quá nhiều.
ĐIỀU TRỊ. Các loại thuốc chống cao huyết áp có hiệu quả, với điều kiện chung được sử dụng một cách đều đặn và đúng liều lượng. Thế mà nhiều bệnh nhân, v́ nhiều lư do khác nhau quá thường quên theo sát điều trị.
HUYẾT ÁP LÀ G̀ ?
1/ ĐO HUYẾT ÁP
Được thực hiện nhiều nơi trên cơ thể và nhiều lần với một huyết áp kế.
2/ ĐỌC
Huyết áp tâm thu: 12
• Tim co bóp
•Tống máu
•Huyết áp cao nhất
Huyết áp tâm trương : 8
• Tim giăn
•Làm đầy máu
•Huyết áp thấp nhất
3/ GIẢI THÍCH
HUYẾT ÁP TÂM THU
• Tối ưu : 11, 5
•B́nh thường : < 12
•Tiền cao áp : 12- 13, 9
CAO HUYẾT ÁP
• Nhẹ : 14 – 15, 9
•Trung b́nh : 16 – 17, 9
•Nặng : > 18
HUYẾT ÁP TÂM TRƯƠNG
• Tối ưu : 7, 5
•B́nh thường : < 8
•Tiền cao áp : 8 – 8, 9
CAO HUYẾT ÁP
• Nhẹ : 9 – 9, 9
•Trung b́nh : 10 – 10, 9
•Nặng : > 11
4/ NHỮNG HẬU QUẢ CỦA CAO HUYẾT ÁP
• Các động mạch dễ vỡ.
• Nguy cơ xơ mỡ động mạch
• Tai biến mạch máu năo
• Suy tim
• Suy thận
• các thương tổn mắt
Được làm dễ bởi dịch bệnh béo ph́, bệnh cao huyết áp vẫn thường c̣n là “ kẻ giết người thầm lặng ” của các tai biến tim mạch.
florida80
06-01-2019, 15:25
HYPERTENSION ARTERIELLE. Theo một công tŕnh nghiên cứu, được công bố vào tháng hai, cao huyết áp gây nên 7 triệu trường hợp tử vong mỗi năm trên thế giới, và số những người cao huyết áp từ nay đến năm 2025 sẽ đạt đến 1,5 tỷ người ! Ở Pháp, 31% những người từ 18 đến 74 tuổi là cao huyết áp, điều tra ENNS 2007 đă chỉ rơ như vậy. “ Trong số 15 triệu người bị cao huyết áp được biết, 12 triệu được điều trị bằng thuốc, nhưng huyết áp chỉ được kiểm soát nơi một nửa số các bệnh nhân. Và cứ hai người bị cao huyết áp th́ có một không hay biết là ḿnh bị bệnh ”, GS Xavier Girerd, thầy thuốc chuyên khoa tim (CHU Pitié-sa Salpetrière, Paris) đă chỉ rơ như vậy.
Đau đầu, ù tai, “ ruồi bay ” trước mắt …cao huyết áp chỉ được biểu hiện khi nó đă nghiêm trọng, khi huyết áp vượt quá nhiều trị số b́nh thường, hoặc 140/90. Hai con số này biểu hiện áp suất gây nên bởi máu lên các thành động mạch : con số cao nhất khi tim co bóp và phóng máu (huyết áp thu tâm), con số thấp nhất khi tim giăn ra và được làm đầy (huyết áp trương tâm). Huyết áp không được biết đến hay bị lơ là trầm trọng dần. Nó gây nên một sự lăo hóa gia tốc và không hồi phục của các mạch máu, cũng làm tổn hại vài cơ quan : năo bộ, tim, thận và mắt và gây nên các biến chứng : tai biến mạch máu năo, nhồi máu cơ tim, suy tim hay thận, viêm động mạch.
Có cao huyết áp ngay khi huyết áp vượt quá trong nhiều lần 140/90 hay chỉ một trong các con số này. “ Kể từ 40-50 tuổi, huyết áp trương tâm vẫn ổn định và chỉ cần nhớ rằng con số cao nhất không được vượt quá 140 ”, GS Stéphane Laurent, thầy thuốc chuyên khoa tim đă chỉ rơ như vậy. Từ năm 2005, HAS khuyến nghị rằng trước mọi điều trị, sự tự đo ở nhà hay ghi ngoại trú xác nhận cao huyết áp được đo ở pḥng mạch nhằm loại bỏ một tác dụng áo choàng trắng (“ effet blouse blanche ”) gây rối loạn.
DI TRUYỀN
Trong 5 đến 10% các trường hợp, nhất là nơi những người trẻ, cao huyết áp có thể là hậu quả của một bệnh khác như hẹp động mạch thận (rétrécissement de l’artère rénale), phéochromocytome, bệnh Cushing hay hyperaldostéronisme, cần được điều trị để trở lại t́nh trạng b́nh thường. Nhưng 90% các trường hợp cao huyết áp, mà tỷ lệ gia tăng theo tuổi tác, chỉ phát xuất từ những yếu tố môi trường và di truyền. “ Những công tŕnh khảo sát gia đ́nh đă cho thấy rằng huyết áp tùy thuộc khoảng 30% yếu tố di truyền. Nhưng những khảo sát mới đây về toàn bộ génome của hàng chục ngàn người đă không cho phép nhận diện những gène làm dễ sự xuất hiện cao huyết áp ”, GS Xavier Jeunemaitre, chuyên gia về di truyền tim mạch đă giải thích như vậy.
Cao huyết áp chủ yếu được liên kết mạnh với những yếu tố nguy cơ tim mạch khác. Thường ở đàn ông hơn là đàn bà, cao huyết áp thường xuất hiện khoảng lứa tuổi 50, là lứa tuổi mà ta bắt đầu lên cân. “ Bệnh béo ph́ có lẽ là một trong những yếu tố làm gia trọng của cao huyết áp, làm cho nó tiến triển nhanh nhất ”, GS Laurent đă nhấn mạnh như vậy.
Và chuyên gia này xác nhận rằng cao huyết áp là một bộ phận của hội chứng chuyển hóa (syndrome métabolique). Hội chứng này bao gồm một sự gia tăng ṿng bụng (tour de taille abdominale), những bất thường của đường huyết và của bilan lipidique. Những tiêu chuẩn này tăng cường lẫn nhau. Càng nhiều các tiêu chuẩn th́ nguy cơ bị cao huyết áp càng cao. “ Gần 50% những bệnh nhân cao huyết áp bị tăng thể trọng, và 40% được điều trị chống lại cholestérol ”, GS Girerd đă xác nhận như vậy. Sự nhàn rỗi không hoạt động và sự dùng quá nhiều muối cũng làm dễ cao huyết áp.
Vậy thầy thuốc sẽ tính một nguy cơ tim-mạch toàn bộ (risque cardiovasculaire global), xác định điều trị sau khi đă đánh giá thương tổn của các cơ quan đích (organe cible). Trong tất cả các trường hợp, cần thay đổi những thói quen trong đời sống để làm mất cân, tiếp tục một hoạt động vật lư, giảm sự tiêu thụ muối. Khi nguy cơ tim-mạch thấp, những biện pháp vệ sinh-dinh dưỡng này có thể đủ để b́nh thường hóa huyết áp, nhất là nơi những người trẻ tuổi nhất. Nếu nguy cơ này ở mức trung b́nh hay cao, thậm chí rất cao như sau nhồi máu cơ tim, việc nhờ đến các thuốc trở nên cần thiết. “ Được sử dụng đơn độc hay phối hợp, chúng tác động lên một trong ba cơ chế chính của cao huyết áp : sự co mạch quá mức được chống lại bởi các antagonniste calcium, các IEC (inhibiteur de l’enzyme de conversion) và các antagoniste của thụ thể angiotensine 2 (ARA2), sự gia tăng thể tích máu được chống lại bởi các thuốc lợi tiểu, và sự quá mức của trương lực của hệ thần kinh giao cảm được chống lại bởi các bêtabloquant ”, GS Laurent đă giải thích như vậy.
Cũng giống hệt như cholestérol có tác dụng làm dễ nhồi máu cơ tim, th́ cao huyết áp cũng làm dễ các thương tổn năo, dữ dội như các tai biến mạch máu năo, hay âm ỉ như sự ảnh hưởng dần dần của các chức năng cao cấp và của trí nhớ, gây nên bởi các thương tổn huyết quản vi thể, mà về lâu về dài sẽ dẫn đến sa sút trí tuệ tuổi già (démence sénile). Điều trị nó ngay khi được chẩn đoán cũng cho phép ǵn giữ tốt hơn tuổi già.
(LE FIGARO 4/4/2011)
florida80
06-01-2019, 15:26
CAO HUYẾT ÁP : TIÊN ĐOÁN CÁC BIẾN CHỨNG ĐỂ PH̉NG NGỪA CHÚNG TỐT HƠN.
Cao huyết áp có những tác dụng có hại do nhiều cơ chế. Nó làm hỏng tất cả các huyết quản dầu kích thước của chúng như thế nào. “ Thành của các huyết quản nhỏ nhất có thể bị vỡ dưới tác dụng của cao huyết áp, dầu đó là những mao mạch của vơng mạc trong bệnh vơng mạc do cao áp (rétinopathie hypertensive), hay những tiểu động mạch năo trong các xuất huyết vi thể (micro-hémorrgie). Các động mạch lớn hơn không vỡ nhưng chịu một quá tŕnh điều biến (remodelage) : áp suất tăng quá cao gây nên một sự mất đàn hồi do các sợi élastine bị phá hủy, các sợi đàn hồi này được thay thế bằng collagène. Sự xơ hóa (fibrose) gây nên cứng mạch máu, một sự lăo hóa sớm động mạch, bệnh xơ mỡ động mạch (artériosclérose), GS Atul Pathak, thầy thuốc chuyên khoa tim (CHU de Toulouse) đă giải thích như vậy. Sự cao huyết áp này, bằng một tác dụng cơ học trực tiếp, làm dễ sự tiến triển của xơ cứng động mạch và làm gia tăng nguy cơ vỡ các mảng xơ mỡ (plaques d’athérome), do đó gây huyết khối và tai biến thiếu máu cục bộ (accidents ischémiques).”
SỨC CẢN
Cao huyết áp cũng tác động lên những cơ quan bia (organe cible) khác, tim, thận và năo bộ. Ở động mạch chủ, nơi lối ra từ tim, sự tăng cao áp suất này tạo nên một sức cản mà tim phải chống lại vào mỗi lần co bóp. Về lâu về dài, tim ph́ đại, giăn ra và xơ hóa, điều này dẫn đến suy tim. Thận cũng bị ảnh hưởng bởi v́ những thương tổn các tiểu động mạch thận làm giảm sự thông máu cơ quan, do đó nguy cơ suy thận. Cao huyết áp cũng là yếu tố nguy cơ đầu tiên của tai biến mạch máu năo xuất huyết hay thiếu máu cục bộ (AVC hémorragique ou ischémique) tùy theo bản chất cùa thương tổn và kích thước của các mạch máu ”, vị thầy thuốc chuyên khoa tim đă giải thích như vậy. Cao huyết áp cũng kèm theo một sự hoạt hóa vài hệ thống làm khuếch đại những thương tổn này. Sự tăng hoạt hóa của hệ giao cảm (hệ của stress) phóng thích các hormone, adrénaline và noradrénaline, làm dễ sự tăng áp suất (hyperpression) và làm gia tăng sự điều biến động mạch (remodelage artériel), sự ph́ đại và sự xơ hóa tim. Hệ rénine-angiotensine-aldostérone, có nhiệm vụ điều ḥa sự cân bằng nước-muối ở thận, cũng được hoạt hóa. Angiotensine, chất trung gian chính của hệ rénine-angiotensine-aldostérone, có tác dụng làm dễ sự co mạch và sự xơ hóa, và làm gia tăng sự sản xuất aldostérone, đến lượt lại làm dễ sự ứ nước và muối, GS Atul Pathak đă nói thêm như vậy.
Ngoài việc tính toán những điểm số nguy cơ tim mạch (score de risque cardiovasculaire), thầy thuốc có thể có, nhờ sự phát hiện các cơ quan đích (organe cible) bị thương tổn, những tiêu chuẩn chính xác để ước tính những nguy cơ bị các biến chứng tim mạch và thực hiện điều trị thích ứng. Điện tâm đồ hay siêu âm tim cho phép t́m kiếm một ph́ đại tâm thất báo trước suy tim. Thương tổn của các động mạch được đánh giá nhờ đo bề dày của động mạch cảnh (artère carotidienne). Tốc độ của sóng mạch (onde de pouls) cũng cho phép đo độ cứng của động mạch (rigidité artérielle). Thương tổn thận được xác định bằng những xét nghiệm sinh học, nhất créatinémine và albumin-niệu. “ Ngược lại, GS Laurent Stéphane đă xác nhận như thế, chúng ta chưa có những tiêu chuẩn trung gian để đánh giá những thương tổn năo bộ, mặc dầu những bất thường nhỏ của chất trắng được phát hiện nhờ IRM dường như chỉ rơ thương tổn này.”
(LE FIGARO 4/4/2011)
3/ CAO HUYẾT ÁP : TỪ ĐIỀU TRỊ THUỘC ĐẾN CAN THIỆP NGOẠI KHOA.
Những tiến bộ sắp đến trong điều trị cao huyết áp là ǵ ? Ngày nay phải nhờ đến 5 lớp điều trị (classe thérapeutique). Xưa nhất, các thuốc lợi tiểu gia tăng sự bài tiết nước và muối, làm giảm thể tích máu và làm hạ huyết áp. Các betabloquant chống lại các tác dụng co mạch của hệ giao cảm, và các inhibiteur calcique, bằng tác dụng phong bế sự đi vào của calcium trong các tế bào cơ trơn, làm dễ sự giăn huyết quản. Vài betabloquant đặc hiệu làm chậm tần số và lưu lượng tim, như thế làm giảm huyết áp. Những lớp thuốc khác là những chất phong bế của hệ réine-angiotensine-aldostérone (RAA), có vai tṛ chủ yếu trong sự điều ḥa huyết áp, cùng với các inhibiteur de l’enzyme de conversion (IEC), các chất đối kháng của thụ thể angiotensine 2 (ARA2), và mới đây hơn các chất phong bế trực tiếp của rénine.
NGUY CƠ BIẾN CHỨNG.
Lớp khác của nhóm này, các antialdostérone, được dành cho những trường hợp cao huyết áp đề kháng. “ Ta chờ đợi những thuốc mới chống lại các đích khác của hệ RAA, trong đó có một chất ức chế sự tổng hợp aldostérone và một chất ức chế hỗn hợp (inhibiteur mixte) phong bế IEC, đồng thời ngăn cản sự thoái hóa của các peptide có tác dụng lợi tiểu và giăn mạch. Và ta cũng chờ đợi một chất ức chế endothéline, một chất co mạch mạnh ”, GS Pathak đă giải thích như vậy. Khoảng 90% những người cao huyết áp có nguy cơ trung b́nh hoặc cao bị biến chứng nghiêm trọng. Cao huyết áp là bệnh nhiều yếu tố mà sự điều trị được xác lập “ sur mesure ” đối với mỗi bệnh nhân bằng cách t́m kiếm tính hiệu quả tốt nhất và độ dung nap tốt nhất. “ Chỉ 45% các bệnh nhân được kiểm soát bởi một loại thuốc. 25% cần sự kết hợp của 2 loại thuốc và 30% cần 3 loại thuốc để hy vọng b́nh thường hóa huyết áp của ḿnh ”, GS Xaviet Girerd đă ghi nhận như vậy. Đối với những chuyên gia như GS Laurent, “ Việc thực hiện càng sớm càng tốt một liệu pháp hai thứ thuốc (bithérapie) cho phép đạt được sự hiệu quả hơn, nhất là nơi những người ở lứa tuổi 50, mà cứ hai bệnh nhân th́ chưa được một là có huyết áp được kiếm soát ”.
Mặc dầu chẩn đoán dễ dàng, mặc dầu có khoảng 500 biệt dược nhắm vào cao huyết áp, nhưng c̣n cần phải thực hiện nhiều tiền bộ. Cần phải phát hiện tốt hơn những bệnh nhân có nguy cơ. Nhờ di truyền, có lẽ các puce ADN chính xác hơn sẽ cho phép khám phá những biến dị làm dễ sự xuất hiện cao huyết áp thông thường, như puce đă cho phép mới đây nhận diện những gène có liên quan trong phéochromocytome và hyperaldostéronisme, chịu trách nhiệm cao huyết áp thứ phát. Hay với sự sử dụng gia tăng các chỉ dấu mô (marqueur tissulaire) như bề dày của động mạch cảnh hay độ cứng của động mạch, có lẽ có tính chất tiên đoán hơn vài chỉ dấu sinh học (marqueur biologique) bởi v́ chứng tỏ những tổn hại tích lũy với thời gian. “ Trong cao huyết áp đề kháng, một kỹ thuật mới, dénervation rénale, cho phép làm giảm hoạt tính của hệ giao cảm bằng cách làm thương tổn, nhờ tần số phóng xạ (radiofréquence), các phân bố thần kinh của động mạch thận ”, GS Pathak đă đảm bảo như vậy. Kỹ thuật này, mặc dầu cho những kết quả đáng lưu ư nhưng chỉ liên quan đến một số rất ít người bệnh mà thôi.
(LE FIGARO 4/4/2011)
florida80
06-01-2019, 15:27
LÀM THẾ NÀO B̀NH THƯỜNG HÓA TỐT HƠN HUYẾT ÁP CỦA M̀NH ?
CARDIOLOGIE. Ngày nay, 80% những người Pháp được chẩn đoán cao huyết áp đang được điều trị. Tỷ lệ này che dấu một thực tế đáng lo ngại : Từ 30 đến 40% những người cao huyết áp không biết rằng ḿnh bị huyết áp cao và một nửa trong số những người đang được điều trị không có một huyết áp được b́nh thường hóa, GS Faiez Zannad, thầy thuốc chuyên khoa tim (CHU de Nancy) đă chứng thực như vậy. Huyết áp được định nghĩa là quá cao khi trên 140/90 mmHg. Hai con số này biểu hiện áp lực do máu tác động lên các thành động mạch : trị số cao nhất khi tim co bóp và phóng máu (huyết áp thu tâm), trị số thấp nhất khi tim giăn và làm đầy (huyết áp trương tâm).
Cao huyết áp càng đáng sợ khi nó không gây triệu chứng, hay rất muộn. Chóng mặt, đau đầu, ù tai, khó thở khi gắng sức, thậm chí hồi hộp khi gắng sức chỉ xuất hiện khi huyết áp đă rất cao. Thế mà, tỷ lệ tử vong tim mạch tăng gấp đôi đối với mỗi gia tăng 20/10 mmHg của HA thu tâm/HA trương tâm, Jean - Jacques Mourad, thầy thuốc chuyên khoa tim (Bobigny), đă nhắc lại như vậy. Huyết áp làm biến đổi các động mạch, làm gia tốc sự lăo hóa, tấn công vào tim, thận và năo bộ.
NGUY CƠ ĐỘT QUY
Cao huyết áp đặc biết có hại đối với năo bộ. Nó là yếu tố nguy cơ chính của đột qụy và gây nên những thương tổn vi thể huyết quản (microlésions vasculaires), nhiên hậu chịu trách nhiệm démence sénile. “ Một nửa những trường hợp sa sút trí tuệ ở những người trên 80 tuổi là do cao huyết áp ”, BS Bernard Vaisse, chủ tịch của ủy ban chống cao huyết áp Pháp đă nhấn mạnh như vậy. Thế mà, chỉ có kiểm soát cao huyết áp mới có thể bảo vệ những màng năo. Và việc điều trị này phải được thực hiện càng sớm càng tốt. “ Ở tuổi 55, một cao huyết áp không được điều trị làm giảm hy vọng sống (espérance de vie) 7 năm và kéo dài hai năm cuộc sống với một phế tật do nhồi máu cơ tim, suy thận, suy tim, sa sút trí tuệ…”, Jean Jacques Mourad đă nhắc lại như vậy.
Đối với các chuyên gia, dưới mức 140/90 không phải bàn căi (135/85 mmHg trong trường hợp tự đo). Để đạt được điều đó, những quy tắc vệ sinh-tiết thực kết hợp với những điều trị bằng thuốc. “ Giảm tiêu thụ muối, rượu, mất cân, tập thể dục… Đó cũng quan trọng như dùng thuốc ”, Faiez Zannad đă nhấn mạnh như vậy. Mặc dầu biến đổi lối sống không phải luôn luôn dễ dàng, cũng như dùng thuốc mỗi ngày trong nhiều năm trong khi ta không cảm thấy bị bệnh.Chính v́ vậy những người cao huyết áp không luôn luôn tuân thủ điều trị. “ Phải mang lại một ư nghĩa đối với việc kê đơn một loại thuốc pḥng ngừa, Jean-Jacques Mourad đă công nhận như thế. Phải làm thế nào để thông lệ hóa việc uống thuốc, ở một giờ cố định, để bệnh nhân không bị quên ”, Bernard Vaisse tán đồng. “ Chúng ta phải lắng nghe các bệnh nhân về những tác dụng phụ. Chất lượng sống của họ phải được tôn trọng để họ chấp nhận các điều trị , GS Claire Mounier-Vehier, phó chủ tịch Liên đoàn Tim học của Pháp đă nhấn mạnh như vậy. Thầy thuốc có sự lựa chọn giữa 5 họ thuốc : những thuốc lợi tiểu, những thuốc chẹn beta giao cảm (betabloquant), những thuốc chẹn kênh canxi (inhibiteur calcique), các thuốc ức chế men chuyển (IEC : inhibiteur de lenzyme de conversion) và những sartan. Viện kê đơn được cá thể hóa tùy theo profil của mỗi bệnh nhân, những yếu tố nguy cơ liên kết. Trong trường hợp không kiểm soát được huyết áp, có thể phối hợp nhiều loại thuốc.
Những người Pháp không phải là những người duy nhất chịu trách nhiệm sự kiểm soát huyết áp tồi. Các chuyên gia trỏ vào sự tŕ trệ của các thầy thuốc Pháp. Số những bệnh nhân cần điều trị trong thăm khám càng cao, thầy thuốc càng ít t́m cách thích ứng điều trị cao huyết áp. BS Guillaume Bobrie, chuyên gia cao huyết áp của bệnh viện châu Âu Georges-Pompidou đă chứng thực như vậy. Thế mà rất thường, huyết áp không xảy ra riêng rẻ, nó kèm theo những yếu tố nguy cơ khác như bệnh đái đường và cholestérol.” Theo những dữ kiện đầu tiên của điều tra Flash 2012, 40% những người cao huyết áp có một cholestérol quá cao và từ 15 đến 20% bị bệnh đái đường, BS Benard Vaisse đă tiết lộ như vậy.
(LE FIGARO 17/9/2012)
florida80
06-01-2019, 20:33
THÔNG TIN Y HỌC VỀ CÁC BỆNH LÂY LAN QUA ĐƯỜNG SINH DỤC
Lynn Ly tổng hợp thông tin về Các Bệnh Lây Lan Qua Đường Sinh Dục
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh
HPV VACCINE MAY HELP TO PREVENT ANAL CANCER.
Thuốc chủng mới chống human papillomavirus,đă xuất hiện trên thị truờng mùa hè năm qua, có thể có tiềm năng ngăn ngừa hàng ngàn trường hợp ung thư cổ tử cung.Nhưng các BS hy vọng thuộc chủng cung sẽ có thể ngăn ngừa một bệnh ít được biết đến hơn nhưng có tiềm năng gây tử vong,xảy ra ở những người đồng tính luyến ái,đó là ung thư hậu môn.HPV cùng loại có thể gây nên cả hai loại ung thư(ung thư cổ tử cung và ung thu hau mon)
Mặc dầu ung thư hậu môn có thể xảy đến cho bất cứ ai;nhung thường xảy ra nhất trên những người có bệnh sử giao hợp bằng hậu môn.Tỷ lệ xảy ra hàng năm khoảng 35 trường hợp trên 100.000 người,có lẽ gấp hai lần tỷ lệ xảy ra trên những người bị nhiễm HIV,bệnh làm suy giảm hệ miễn dịch.
Năm vừa qua,Food and Drug Administration đă chấp thuận sử dụng thuốc chủng HPV được, dành cho các nữ giới tuổi từ 9 đến 26 tuổi sau khi các nghiên cứu đă chỉ rơ rằng thuốc chủng có hiệu quả lớn chống lại những nhiễm trùng gây nên bởi 4 trong số 12 loai HPV,bao gồm những loại là nguyên nhân của hầu hết các trường hợp ung thư cổ tử cung và hậu môn.
"Về mặt sinh học,cổ tử cung tương tự với hậu môn,v́ thế có nhiều hy vọng rằng vaccin có hiệu quả với ung thư cổ tử cung cũng sẽ có hiệu quả đối với ung thư hậu môn".BS Joel Palefsky,một GS Y Khoa của Đaị Học California,San Francisco,đă phát biểu như thế.Nhưng ông lưu ư rằng,hiệu quả của vaccin đối với ung thư hậu môn vẫn cần phải được chứng minh.
Tỷ lệ ung thư hậu môn trên nhung người đồng tính luyến ái cũng tương tự với tỷ lệ của ung thư cổ tử cung,trước khi xuất hiện Pap smear,xét nghiệm cho phép phát hiện các bất thường tế bào tiền ung thư.Trong những năm gần đây,vài BS điều trị các bệnh nhân đồng tính luyến ái khuyên bệnh nhân của ḿnh làm xét nghiệm Pap smears hậu môn,như là một bộ phận điều trị pḥng ngừa thường lệ.
HPV là nhiễm trùng lây truyền bằng đường sinh dục thông thường nhất ở Hoa Kỳ,với 6,2 triệu người bị nhiễm trùng mỗi năm,theo thống kê của Centers for Disease Control and Prevention,mặc dầu ở nhiều người virus biến mất mà không có triệu chứng nào và cũng không biết là ḿnh đă bị nhiễm bệnh.Và nhiều người đồng t́nh luyến ái không nhận thức rằng họ có một nguy cơ cao mắc bệnh ung thư hậu môn.
Các nhà điều phối ở Úc và Liên hiệp Châu Âu đă chấp thuận dung vaccin gọi là Gardasil và được bào chế bởi hăng Merck,cho các em trai tuổi từ 9 đến 15.Họ nêu lên các dữ kiện chứng tỏ rằng vaccin sinh ra một phản ứng miễn dịch ở các em trai này,mặc dầu tính hiệu quả đă không được chứng tỏ.
Cũng nhu đối với các thuốc cần toa bác sĩ,cac BS ở Hoa Kỳ có thể cho toa vaccin "không nhăn hiệu" (off label) cho bất cứ ai."Sự chấp thuận cần cho thương măi hoá và phân phối thuốc,nhưng các thầy thuốc có thể sử dụng theo cách họ cảm thấy thích hợp".BS Jeffrey Klausner,Giám Đốc Pḥng Ngừa Bệnh Nhiễm trùng bằng đường sinh dục,thuộc khoa y Tế công cộng,đă nói như vậy.
BS Eliav Barr,một giám đốc nghiên cứu lâm sàng của công ty dược phẩm Merck,nói rằng một số người đă nhận vaccin,nhưng công ty bị cản phân phối thuốc trừ phi Food and Drug Administartion chấp thuận cho sử dụng vaccin.Merck dang bảo trợ một thử nghiệm lâm sàng vaccin Gardasil trên 4000 đàn ông,trong đó có 500 người bị đồng tính luyến ái.Các kết quả đầu tiên được dự kiến vào cuối năm đến.
Việc tuyển mộ các người đồng tính luyến ái để thử nghiệm là một thách thức,các nhà nghiên cứu đă phát biểu như thế.Vaccin được sử dụng để ngăn ngừa một nhiễm trùng tiên khởi do virus,nhưng nhiều người trở nên bị nhiễm trùng chẳng bao lâu sau khi bắt đầu hoạt động sinh dục.Merck đă tuyển mộ các người bên nam giới ở lứa tuổi từ 16 đến 26 và những người này đă không có nhiều hơn năm người bạn đường phối ngẫu.
(INTERNAL HERALD TRIBUNE 1/2/2007)
florida80
06-01-2019, 20:34
TÁC DỤNG HIỆP ĐỒNG ÂM TÍNH
Bệnh SIDA và bệnh SỐT RÉT sống không hoà thuận với nhau. Một nhóm nghiên cứu Hoa Kỳ vừa chứng minh rằng có một tác dụng lẫn nhau giữa hai bệnh này nơi các người bệnh bị nhiễm đồng thời cả hai bệnh này. Các bệnh nhân bị nhiễm virus SIDA ,do sự suy giảm miễn dịch nên có nhiều nguy cơ hơn bị mắc bệnh sốt rét.Trái lại,các cơn sốt rét gây sự tăng sinh gấp mười lần lượng HIV trong máu ! Thế mà khả năng truyền bệnh SIDA tỷ lệ với nồng độ virus trong máu.
(LA RECHERCHE 2/2007)
florida80
06-01-2019, 20:34
CẮT BAO QUY ĐẦU LÀM GIA TĂNG NGUY CƠ NHIỄM TRÙNG ĐỐI VỚI PHỤ NỮ.
Người ta biết rằng cắt bao quy đầu(circoncision ) có thể làm giảm 60% nguy cơ bị nhiễm siêu vi SIDA đối với nam giới. Ngược lại,theo các kết quả sơ khởi của một công tŕnh nghiên cứu phối hợp của Hoa Ky và Ouganda,th́ việc cắt bao quy đầu sẽ làm gia tăng ở các phụ nữ nguy cơ bị nhiễm HIV. Nếu các ông có huyết thanh dương tính(séropositif) đối với SIDA,không chịu kiêng cử mà lại giao hợp trong lúc sẹo giải phẫu đanh thành h́nh,th́ các bà phối ngẫu sẽ có nguy cơ nhiều hơn bị gây nhiễm.Tuy nhiên,theo các chuyên gia,đây không phải là kết quả cuối cùng và các kết quả này rất có thể bị ảnh hưởng bởi những yếu tố như sự sử dụng biện pháp ngừa thai.
(METRO 29/3/2007)
florida80
06-01-2019, 20:35
TRÀ XANH BẢO VỆ CHỐNG BỆNH SIDA ?
Các nhà khoa học đă nhân diện một cấu chất trong trà xanh có khả năng đua tranh với siêu vi khuẩn HIV bằng cách ngăn cản tác dụng của siêu vi khuẩn này lên hệ miễn dịch.Chất cấu thành của trà xanh nêu trên là épigallocatéchine gallate (EGCG).EGCG đến tọa vị trước các thụ thể (récepteurs) CD4 của các T4 và như vậy ngăn cản virus HIV liên kết với hệ miễn dịch.Theo M.Willamson,sự việc uống trà xanh có thể làm giảm nguy cơ bị nhiễm trùng bởi HIV và giới hạn sự khuếch tán của siêu vi khuẩn.Tuy nhiên các nhà nghiên cứu cho biết rằng nước trà xanh không phải là một điều trị chống bệnh Sida và dầu sao đó cũng không phải là một phương cách chắc chắn đề pḥng ngừa nhiễm trùng HIV.
Đúng hơn nếu trà xanh kết hợp với các thuốc điều trị thường dùng có thể góp phần tạo cho các bệnh nhân có huyết thanh dương tính một cuộc sống có chất lượng hơn. Các nhà nghiên cứu nhấn mạnh rằng nghiên cứu của họ đang c̣n ở trong một giai đoạn rất sớm sủa: c̣n cần phải thực hiện các nghiên cứu trên động vật trước khi có thể rút ra những kết luận về một hiệu quả bảo vệ khả dĩ của trà xanh.Các nhà nghiên cứu cũng nhắc lại rằng các nghiên cứu chỉ quan tâm đến khả năng in vitro của một thành phần hóa học của trà xanh trong việc phong tỏa sự nối kết giữa HIV với những CD4 của người. Nhưng đă nhiều lần được chứng tỏ rằng các chất có khá năng in vitro ngăn cản một nhiễm trùng do HIV lại không có thể như vậy trong t́nh huống thực tế.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 17/4/2007)
florida80
06-01-2019, 20:36
BỆNH LẬU VÀ UNG THƯ BÀNG QUANG
Bệnh lậu (gonococcie hay blennorragie), là một nhiễm trùng được lây truyền bằng đường sinh dục, có tần số gây bệnh gia tăng từ vài năm nay, với số giống gốc (souches) lậu cậu đề kháng với kháng sinh gia tăng. Theo một công tŕnh nghiên cứu trên 51.000 người đàn ông, nguy cơ bi ung thư bàng quang sẽ 2 lần cao hơn trong trường hợp có tiền sử bệnh lậu.
Phản ứng viêm tại chỗ và sự tồn lưu của cặn nước tiểu sau khi tiểu tiện giải thích sự liên kết giữa nhiễm trùng thường gây đau đớn này và nguy cơ xuất hiện u bàng quang.
(SCIENCES ET AVENIR 5/2007)
florida80
06-01-2019, 20:36
BỆNH GIANG MAI ĐƯỢC MANG ĐẾN CHÂU ÂU BỞI CHRISTOPHE COLOMB
Một công tŕnh nghiên cứu về tiến triển di truyền của vi khuẩn gây bệnh giang mai đă công nhận là đúng giả thuyết về một tác nhân nhiễm khuẩn được mang từ Châu Mỹ về Châu Âu bởi đoàn thám hiểm của Christophe Colomb. Một nhóm nghiên cứu Hoa Kỳ, Anh và Canada đă công bố hôm thứ hai 14/1, trên site của tạp chí on-line PloS Neglected Tropical Diseases, một bài báo có khuynh hướng xác nhận rằng bệnh giang mai đă được mang vào châu Âu bởi Christophe Colomb, như thế chấm dứt một cuộc tranh căi từ 500 năm nay về nguồn gốc của bệnh này. Các nhà di truyền học đă tái tạo cây phả hệ của những giống gốc vi khuẩn (souches bactériennes) nguồn gốc của bệnh giang mai.
Vào năm 1495, thành Naples thất thủ rơi vào tay của vua nước Pháp, Charles VIII, và của đạo quân chiếm đóng gồm những lính đánh thuế. Đạo quân này, được chỉ huy bởi Louis d’Orléans và hiệp sĩ Bayard, lúc đó đang là nạn nhân của một trận dịch kinh hoàng của một loại bệnh dịch hạch (peste) mới. Một căn bệnh được lây truyền bằng đường sinh dục, được đặt tên là bệnh thành Naples (maladie de Naples). Đó là trận dịch giang mai đầu tiên ở châu Âu. Dịch bệnh lan tràn nhanh chóng qua trung gian của các lính đánh thuê trở lại quê nhà.
Sự việc bệnh giang mai xuất hiện một ít lâu sau khi Christophe Colomb và binh sĩ trở về từ Tân Thế Giới (chỉ 3 năm sau khi khám phá châu Mỹ), khiến người ta nghĩ rằng căn bệnh này xuất phát từ châu Mỹ và được mang về châu Âu từ Tân Thế Giới, bởi các thủy thủ phục vụ vua Tây Bạn Nha, v́ lẽ những trường hợp bệnh giang mai đă được mô tả trong số các thủy thủ này.
Giả thuyết này, trước đây gây nhiều tranh căi, ngày nay đă được xác nhận nhờ di truyền học (PloS Neglected Tropical Diseases, 15/1/2008). Các nhà nghiên cứu của Emory University (Atlanta,Georgie) đă so sánh các séquence của các bộ di truyền (génome) của các thành viên khác nhau của họ các tréponème, những vi khuẩn gây nhiều bệnh, trong đó có bệnh giang mai. Như thế, các nhà nghiên cứu đă có thể tái tạo cây phả hệ xác lập nguồn gốc châu Mỹ của bệnh giang mai (“grande vérole”).
MŨI TÊN TẨM THUỐC ĐỘC CỦA CUPIDON
Từ thời thượng cổ, các người Amérindiens đă bị một căn bệnh tương tự với bệnh giang mai. Và vài người trong các thành viên của đoàn thám hiểm của Colomb đă có những triệu chứng đặc hiệu, điển h́nh của bệnh nhiễm trùng này: các hạch sưng tấy lên, sốt tăng cao và “mũi tên tẩm thuốc độc của Cupidon” làm biến dạng thân thể. Một giả thuyết khác, nảy sinh vào thế kỷ XX, cho rằng người ta đă lẫn lộn bệnh giang mai với các bệnh khác, như bệnh hủi (lèpre). Đối với các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ, sự việc không có các dấu vết thương tổn xương (đặc điểm của bệnh giang mai) trên các bộ xương của những người châu Âu và Bắc Phi trước cuối thế kỷ thứ XV, là chứng cớ xác nhận nguồn gốc châu Mỹ của căn bệnh này.
Trong cùng công tŕnh nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đă tái tạo phả hệ của các tréponèmes khác gây bệnh chủ yếu ở trẻ em và được lan truyền bởi sự tiếp xúc qua da hoặc bằng nước miếng. Đó là các bệnh pian, bejel và pinta.
(LE FIGARO 15/1/2008)
florida80
06-01-2019, 20:37
6/ BỆNH LÂY TRUYỀN BẰNG ĐƯỜNG SINH DỤC LẠI BÙNG NỔ Ở PHÁP.
Việc gia tăng trở lại những nhiễm trùng bởi lậu cầu, bởi chlamydia và của bệnh giang mai là hậu quả của sự tái tục các hành vi tính dục có nguy cơ (comportements sexuels à risques).
Chính sách ngăn ngừa các bệnh nhiễm trùng được lây truyền bằng đường sinh dục (MST : maladies sexuellement transmissibles) đang bị nguy ngập. Tất cả các yếu tố chỉ báo cho thấy có một sự gia tăng trở lại các bệnh nhiễm trùng (lậu cầu, chlamydia, giang mai), được lây truyền lúc giao hợp (dù cho đó là giao hợp đồng tính hay dị tính). Thật vậy, bảng thông báo dịch tễ hàng tuần của Viện theo dơi y tế đă công bố tuần này các con số xác nhận về sự gia tăng các bệnh lây truyền bằng đường sinh dục ở Pháp. Ngoài các hậu quả về mặt y tế riêng cho các nhiễm trùng này (các bệnh măn tính nơi người, nguy cơ vô sinh nơi phụ nữ), các dữ kiện này thể hiện sự tái tục những hành vi tính dục có nguy cơ, nói lên việc sử dụng phương tiện bảo vệ ít hơn và do đó mang lại một nguy cơ truyền virus bệnh Sida gia tăng.
Các nhiễm trùng do lậu cầu có đặc điểm là có một thời gian tiềm phục ngắn và cho những triệu chứng “ ồn ào ” nơi đàn ông. Do đó những nhiễm trùng này là một chứng tỏ rất rơ về các hành vi tính dục có nguy cơ (comportements sexuels à risques).
Một mạng lưới 200 pḥng xét nghiệm phân tích mỗi năm số giống gốc các lậu cầu được phân lập. Suốt trong 3 năm qua, sự gia tăng số trường hợp xảy ra một cách thường xuyên, với 50% được thêm vào trong năm 2006 so sánh với năm 2005. Với một sự gia tăng rất rơ rệt nơi các phụ nữ (thêm 264%) và ở tỉnh (thêm 94%). Tuổi trung b́nh của các bệnh nhân này là 30 tuổi đối với đàn ông và 23 tuổi đối với phụ nữ. Sau cùng phải ghi nhận một sự tiến triển của các giống gốc đề kháng với ciprofloxacine, một trong những kháng sinh chuẩn trong điều trị bệnh này.
Nhiễm trùng do chlamydia trachomatis thường xảy ra nhất ở phụ nữ. Nhiễm trùng này chỉ gây ít triệu chứng nhưng nếu không được điều trị, có thể gây nên những thương tổn nơi các ṿi trứng, nguyên nhân của vô sinh hoặc có thai ngoài tử cung. Từ đầu những năm 2000, một sự gia tăng các nhiễm trùng do chlamidia được quan sát ở Pháp, cũng như trong tất cả các nước công nghiệp hóa khác.Thí dụ ở Anh, sự gia tăng này có thể được quy cho công tác điều tra phát hiện được thực hiện một cách có hệ thống trong chiến dịch chống vô sinh nơi những người dưới 25 tuổi. Phải nhấn mạnh rằng ở Pháp, từ năm 2003 đến 2006, số các trường hợp nhiễm trùng do chlamydia đă gia tăng 55% nơi đàn ông và 62% nơi phụ nữ. Nhưng c̣n cần phải biết xem một sự gia tăng như thế là do sự tiến triển của bệnh hay chỉ do sự cải thiện của công tác điều tra phát hiện và của chẩn đoán.
ĐẨY MẠNH TRỞ LẠI CÔNG TÁC PH̉NG NGỪA
Bệnh giang mai gần như đă biến mất ở nước Pháp trong những năm 1990 để rồi lại xuất hiện trở lại vào đầu những năm 2000, hầu như chỉ xảy ra ở những người đồng tính (homosexuel) hay lưỡng tính (bisexuel), đặc biệt là ở những người bị nhiễm đồng thời bởi virus sida. Mặc dầu những chiến dịch thông tin và pḥng ngừa được phát động, bệnh có tiềm năng nghiêm trọng này vẫn không tỏ dấu hiệu lùi bước.Từ năm 2000 đến 2006, có 2.305 trường hợp giang mai đă được chẩn đoán ở Pháp. Sau một đợt giảm nhẹ vào năm 2005, số các trường hợp lại tăng lên năm 2006, đặc biệt là ở Ile-de-France và trong vùng Bắc Pas-de-Calais. Số các trường hợp giang mai bắt đầu xuất hiện ở những người dị tính (hétérosexuel) mà măi đến nay phần lớn không bị nhiễm bệnh. Việc công bố những dữ kiện này hẳn phải khiến chính quyền cần phải phát động trở lại những chiến dịch pḥng ngừa nhằm vào các hành vi tính dục có nguy cơ.
(LE FIGARO 6/2/2008)
florida80
06-01-2019, 20:38
NHỮNG LỜI KHUYẾN NGHỊ CỦA THỤY SĨ VỀ BỆNH SIDA GÂY NÊN CUỘC TRANH CĂI
Các cặp ổn định, trong đó một trong hai người phối ngẫu có huyết thanh dương tính (séropositif), nhưng nhờ điều trị, không c̣n virus gây bệnh sida (VIH) có thể được phát hiện trong máu, như vậy họ có thể không cần đến các phương tiện pḥng ngừa nữa hay không ? Vâng, các chuyên viên Thụy Sĩ của Uỷ Ban Liên bang về các vấn đề liên quan đến Sida (CFS) đă trả lời như vậy trong một văn kiện được công bố hôm thứ tư 30 tháng giêng. Một lập trường bị cho là c̣n quá sớm bởi Tổ Chức Y Tế Thế Giới (OMS) và Onusida hay ở Pháp bởi Hội đồng sida quốc gia.
Các chuyên gia Thụy Sĩ phát xuất từ một điều chứng nhận đă được nhất trí : từ năm 1996, việc áp dụng điều trị những phối hợp thuốc antirétroviraux không những đă biến đổi tiến triển của bệnh Sida nơi những người bị nhiễm trùng, mà c̣n làm giảm sự lan truyền của VIH. Nguy cơ lan truyền càng quan trọng khi số các bản sao (exemplaires) của virus trong máu (c̣n được gọi là charge virale) được tăng cao. Nếu được theo đuổi tốt, điều trị antirétroviral sẽ làm cho charge virale không thể phát hiện được trong máu (dưới 40 bản sao của VIH cho mỗi ml) máu. Trong trường hợp như thế, liệu những giao hợp có c̣n cần phải được bảo vệ nữa hay không?
Các chuyên gia Thụy Sĩ dựa trên 3 công tŕnh nghiên cứu quy tụ tổng cộng 548 cặp dị tính (hétérosexuel), với huyết thanh dương tính nơi một trong hai người phối ngẫu. Các nghiên cứu không cho thấy một trường hợp truyền bệnh nào với một điều trị được theo đuổi tốt và một charge virale không thể phát hiện được trong máu. CFS kết luận rằng « sự áp dụng nhất quán một điều trị antirétroviral cho phép loại bỏ mọi nguy cơ lan truyền quan trọng ».
Ba điều kiện cần phải hội đủ để không khỏi phải dùng biện pháp bảo vệ lúc giao hợp: tuân thủ «sát» điều trị có bác sĩ gia đ́nh theo dơi, một charge virale không thể phát hiện được trong máu từ ít nhất 6 tháng và người có huyết thanh dương tính không bị một bệnh lây nhiễm bằng đường sinh dục nào khác. Do đó quyết định không dùng biện pháp pḥng ngừa nữa là thuộc vào nguời có huyết thanh âm tính, ủy ban đă nói như vậy.
« VẪN LUÔN THẬN TRỌNG »
Trong một thông báo chung, Onusida và OMS nhắc lại rằng sự việc một charge virale không thể phát hiện được trong máu “ loại bỏ hoàn toàn nguy cơ truyền virus ” là điều không được chứng minh và nhấn mạnh tầm quan trọng của “ những phương pháp pḥng ngừa có hiệu quả và đă được thử thách chống lại VIH”.
(LE MONDE 7/2/2008)
florida80
06-01-2019, 20:39
THUỐC MỚI CHỐNG BỆNH SIDA
Raltégravir, chất ức chế intégrase, enzyme cần thiết cho qua tŕnh tăng đôi (réplication) của virus bệnh Sida, vừa được cho phép bán trên thị trường ở Hoa Kỳ và Châu Âu. Thuốc này ngăn cản virus tăng sinh trong các tế bào lành mạnh. Hiện nay thuốc được sử dụng bởi 7.600 người có huyết thanh dương tính (séropositif) trên thế giới, trong đó 1.300 ở Pháp. Thuốc được chỉ định trong các trường hợp đề kháng với một trong 3 thuốc được dùng trong trithérapie (điều trị chuẩn chống bệnh Sida).
(PARIS MATCH 20/2-27/2/2008)
florida80
06-01-2019, 20:40
BỆNH SỐT RÉT, NGƯỜI BẠN ĐỒNG MINH TỐT NHẤT CỦA BỆNH SIDA
Ở phụ nữ có thai, nhiễm trùng bởi kư sinh trùng sốt rét làm gia tăng nguy cơ truyền virus bệnh sida vào phôi thai. Các nhà nghiên cứu Pháp và Cameroun vừa chứng tỏ một trong các cơ chế của hiện tượng này. Elisabeth Menu là nhà nghiên cứu nữ trong đơn vị điều ḥa các bệnh nhiễm trùng bởi rétrovirus ở Viện Pasteur Paris và phụ trách nghiên cứu ở Inserm.
Hỏi : Làm sao bà đă quan tâm đến mối liên hệ giữa bệnh sốt rét và bệnh sida ?
Elisabeth Menu : Đó một quan sát khác thường được thực hiện ở Cameroun trong lúc tiến hành một công tŕnh nghiên cứu về pḥng ngừa sự truyền virus sida từ bà mẹ sang trẻ em vào lúc sinh. Chúng tôi đă chứng nhận rằng số các phụ nữ truyền virus sida cho đứa con là quan trọng hơn vào một vài mùa trong năm. Mặt khác, điểm cao của sự truyền này có cùng tính chu kỳ với các đỉnh cao của lượng nước mưa được đo, với một chênh lệch ba tháng. Như vậy, một cái ǵ đó, do mưa mang lại, đă làm gia tăng sự truyền HIV từ người mẹ sang đứa con. Chúng tôi đă nghĩ đến bệnh sốt rét. Mặt khác, nhiều công tŕnh nghiên cứu đă xác lập rằng nhiễm trùng bởi kư sinh trùng sốt rét làm gia tăng lượng HIV trong máu của những người huyết thanh dương tính.
Hỏi : Hậu quả của mối tương tác giữa kư sinh trùng sốt rét và virus sida ?
Elisabeth Menu : Chúng tôi đă chứng tỏ in vitro rằng kư sinh trùng sốt rét có thể làm phát khởi một sự tăng sinh mạnh mẽ virus sida trong các tế bào nhau (placenta).Thế mà sự việc có nhiều virus hơn trong nhau dẫn đến nguy cơ gia tăng nhiễm trùng thai nhi bởi virus.
Hỏi : Bà đă làm thế nào để chứng tỏ điều đó ?
Elisabeth Menu : Chúng tôi đă làm nhiễm trùng in vitro các tế bào của nhau (các lá nuôi, trophoblastes) với virus sida. Rồi chúng tôi đă đặt các tế bào nhau bị nhiễm trùng này tiếp xúc với một protéine của kư sinh trùng sốt rét. Protéine này có thể được biểu hiện ở bề mặt của những hồng cầu bị nhiễm kư sinh trùng. Sau đó protéine này cho phép các hồng cầu bám vào các lá nuôi của nhau. In vitro, chúng tôi đă chứng tỏ rằng protéine của kư sinh trùng này, lúc liên kết với các lá nuôi bị nhiễm bởi virus sida, làm gia tăng sự tăng sinh của HIV trong các tế bào này.
Hỏi : Bằng cơ chế nào ?
Elisabeth Menu : Chúng tôi nghĩ rằng việc gắn protéine này của kư sinh trùng làm phát khởi sự sản xuất bởi các tế bào của nhau, một chất được gọi là TNF-alpha.Thật vậy, chúng tôi đă t́m thấy nhiều chất này chung quanh các tế bào của chúng tôi . Thế mà TNF-alpha được biết là làm gia tăng sự tăng sinh của virus sida.
Nguồn : LA RECHERCHE (5/2008)
florida80
06-01-2019, 20:40
CÁC GIÁO SƯ GALLO VA MONTAGNIER MONG MUỐN CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG BỆNH SIDA ĐƯỢC TĂNG CƯỜNG
Từ khi khám phá ra virus bệnh sida, cách nay 25 năm, căn bệnh này đă gây nên 25 triệu nạn nhân trên thế giới. Các Giáo sư Luc Montagnier và Robert Gallo, các nhà khám phá virus sida chỉ cách nhau vài tháng, hôm qua, vào lúc khai mạc của cuộc hội thảo ở Paris nhân lễ kỷ niệm năm thứ 25 của việc khám phá virus này, đă phàn nàn về sự chậm chạp của các tiến bộ trước trận dịch bệnh sida. Lễ kỹ niệm này không phải là một “lễ ca ngợi” (célébration) mà là một “lễ tưởng niệm” (commémoration), bởi v́ virus vẫn luôn luôn c̣n đó, giáo sư người Pháp Luc Montagnier đă lấy làm tiếc khi phát biểu như vậy. Ông và nhóm nghiên cứu của ông của Viện Pasteur đă thực hiện những mô tả đầu tiên về virus sida trong tạp chí Science, ngày 20 tháng 5 năm 1983.
“Đúng ra tôi ước mong cử hành với qúy vị việc kết thúc bệnh Sida, hơn là lễ kỷ niệm lần thứ 25 khám phá virus này”, ông đă tuyên bố như vậy trước nhiều trăm chuyên gia họp ở Viện Pasteur. Nhà sinh học nổi tiếng sau đó truớc báo chí, đă lấy làm tiếc rằng “ sự việc không tiến triển nhanh hơn” và rằng các nhà nghiên cứu không có tinh thần “đổi mới hơn”. “Chúng tôi không thỏa măn”, và hy vọng trong một thời gian không lâu nữa một vaccin điều trị nhằm phục hồi hệ miễn dịch sẽ được khám phá.
Giáo sư người Mỹ Robert Gallo, người đă xác nhận, cùng với nhóm nghiên cứu của ông thuộc National Cancer Institute để Bethesda, sự phân lập virus vào năm 1984, về phần ḿnh, đă lấy làm tiếc cho các thử nghiệm quy mô lớn của vaccin. “Đă có những tiến bộ lớn, nhưng cũng có những sai lầm lớn, và c̣n có nhiều việc để làm”.
Cả hai cũng đă nhấn mạnh rằng các căng thẳng ngày xưa, và những tranh căi quanh quyền tác giả của công cuộc khám phá virus bệnh sida là đă thuộc về dĩ văng xa xăm. “Chúng tôi hiện nay là đồng nghiệp và là bạn”, BS Gallo đă đảm bảo như vậy, cho rằng “sự ganh đua dẫn đến sự sáng tạo”.
Bộ trưởng y tế Pháp, Roselyne Bachelot, về phần ḿnh, đă lấy làm tiếc rằng “hôm nay, vào giờ phút trận dịch đă đốn ngă 25 triệu người, vẫn c̣n có bài diễn văn vạch mặt chỉ tên”
ƯU TIÊN LỚN
Theo bà bộ trưởng, công cuộc nghiên cứu bệnh sida “ mang những hy vọng lớn ” vẫn là “ ưu tiên lớn ” của Bộ y tế. Bà cũng đă ghi nhận rằng cần phải huy động để săn sóc bệnh nhân và bảo vệ những quyền lợi của họ. Về phần ḿnh, Jean-François Delfraissy, giám đốc Cơ quan quốc gia nghiên cứu bệnh sida (ANRS) đă tiên đoán rằng căn bệnh này sẽ vẫn là trận dịch của thế kỷ XXI và ông đă lợi dụng lễ tưởng niệm này để kêu gọi chính quyền tiếp tục duy tŕ các kinh phí về nghiên cứu bệnh Sida.
Nguồn : LE FIGARO (20/5/2008)
florida80
06-01-2019, 20:41
NĂM 2007 CÓ 3 TRIỆU NGƯỜI ĐĂ ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ CHỐNG BỆNH SIDA TRONG THẾ GIỚI THỨ BA
Cuối năm 2007, trong các nước “có lợi tức thấp hoặc trung b́nh”, các bệnh nhân nhận được điều trị chống lại virus của sida (VIH) là gần 1 triệu trường hợp nhiều hơn vào cuối năm 2006, một bản báo cáo của OMS và của Onusida đă chỉ rơ như vậy. Điều này mang số bệnh nhân được điều trị lên khoảng 3 triệu, hoặc 7 lần nhiều hơn cách nay 4 năm. Mục tiêu của sáng kiến “ 3 triệu từ nay đến năm 2005 ”, nhằm vào các nước của thế giới thứ ba, đă đạt được nhưng với 2 năm bị chậm trễ.
Các cơ quan của Liên Hiệp Quốc nhấn mạnh sự gia tốc toàn bộ các mũi tiến, kể cả trong những lănh vực pḥng ngừa và phát hiện. “ Vào cuối năm 2007, người ta ước tính rằng 200.000 trẻ em theo một điều trị kháng rétroviral, so với 127.000 năm 2006 và 75.000 năm 2005 ”, văn kiện nói rơ như vậy. Vào năm 2007, 33% các phụ nữ có thai với huyết thanh dương tính đă nhận các antirétroviraux để ngăn ngừa sự lây truyền VIH cho các con của họ, so với 10% năm 2004. Số các phụ nữ có thai được xét nghiệm t́m VIH đă lên 18% trên thế giới, so với 16% năm 2006 và 10% năm 2005.
Năm 2007, với 2,5 triệu các lây nhiễm mới, t́nh h́nh c̣n lâu mới chế ngự được.
TĂNG CƯỜNG PH̉NG NGỪA.
Theo OMS và Onusida, “ chỉ 31% những người cần được điều trị trong các nước có lợi tức thấp hay trung b́nh, là được hưởng một điều trị như thế vào năm 2007 ” . Ngoài ra, đa số những người sống với VIH/sida mà không hay biết về t́nh trạng của họ và không tiếp cận với những dịch vụ pḥng ngừa và điều trị.
Bảng báo cáo chủ trương tăng cường vai tṛ của lănh vực y tế trong pḥng ngừa VIH, bằng cách làm gia tốc “ sự thực thi những can thiệp đă có hiệu quả như cắt bao quy đầu, các chiến lược làm giảm các nguy cơ, sự sử dụng túi dương vật, sự phát hiện t́m VIH trong các sản phẩm máu và sự kết hợp vai tṛ pḥng ngừa trong các chương tŕnh có liên quan đến bệnh lao phổi, và đến sức khỏe bà mẹ và sinh sản ”. Về việc cắt bao quy đầu, một công tŕnh được công bố ngày 2/ 6 , trong tạp chí Plos Medicine, thực hiện tại một quận ở Ouganda, chứng tỏ rằng việc cắt bao quy đầu không dẫn đến những biến chứng phụ trên những người có huyết thanh dương tính.
Nguồn : LE MONDE
florida80
06-01-2019, 20:42
SIÊU VI TRÙNG BỆNH SIDA SẼ CÓ THỂ ĐƯỢC PHÁT HIỆN BẰNG MỘT TRẮC NGHIỆM NƯỚC BỌT ĐƠN GIẢN
Đặt một ít nước miếng lên một chiếc que nhỏ, rồi đưa vào trong một ống nghiệm, và chờ từ 20 đến 40 phút …Nếu người được trắc nghiệm mang HIV, một đường tím sẽ hiện ra trên đỉnh của chiếc que nhỏ này. Là một công cụ phát hiện nhanh chóng hơn nhiều so với một xét nghiệm lấy máu thông thường, OraQuick sử dụng các kháng thể để phát hiện sự hiện diện của virus HIV (immunochromatograph ie). Sự đánh giá được thực hiện ở Ấn Độ bởi các nhà khoa học (đại học McGill, Montréal), cho thấy một sự phù hợp 100% với các xét nghiệm máu.
Nguồn : SCIENCE ET VIE (7/2008)
florida80
06-01-2019, 20:42
CÁC BỆNH NHÂN BỊ SIDA ĐĂ GIÀNH THÊM ĐƯỢC 13 NĂM TUỔI THỌ
Trong ṿng 10 năm, nhờ phép trị liệu gồm 3 thứ thuốc (trithérapie), bệnh Sida trong các nước phát triển đă đi từ t́nh trạng bệnh chết người (maladie mortelle) sang thành bệnh lư măn tính (pathologie chronique).
Trong các nước phát triển, hy vọng sống (espérance de vie) của những người bị nhiễm bởi siêu vi trùng sida, hay VIH, từ năm 1996, đă gia tăng 13,3 năm. Năm 1996 là năm các thầy thuốc đă bắt đầu kê toa những phối hợp antirétroviraux, được biết hơn dưới tên “trị liệu pháp gồm 3 thứ thuốc” (trithérapie). Trong một công tŕnh nghiên cứu được xuất bản hôm qua bởi tạp chí Anh The Lancet, một nhóm các nhà nghiên cứu quốc tế, trong đó có nhiều người Pháp, được lănh đạo bởi Giáo Sư Robert Hogg của trung tâm nghiên cứu về bệnh Sida của Vancouver (Canada), đă so sánh các tỷ lệ tử vong của những người bệnh trong các thời kỳ 1996-1999, 2000-2002 và 2003-2005.
Theo sự đánh giá này (thu thập những kết quả của 14 công tŕnh nghiên cứu, được thực hiện trên một tổng số 43.085 bệnh nhân sống ở Bắc Mỹ và châu Âu), tỷ lệ tử vong đă hạ gần 40%. Nhất là hy vọng sống toàn bộ (espérance de vie totale) của những bệnh nhân tuổi 20, được điều trị bằng ba thứ thuốc, đă từ 56,1 tuổi tăng lên 69,4 tuổi. Hoặc một sự gia tăng đáng kể 13 năm, từ năm 1996 đến 2005.
Theo The Lancet, những tiến bộ ly ky này là do liệu pháp 3 thứ thuốc (trithérapie), trong ṿng chưa được 10 năm, đă trở nên “hiệu quả hơn, được dung nạp tốt hơn và dễ định liều lượng hơn”. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu ghi nhận những chênh lệch quan trọng giữa vài nhóm bệnh nhân. Ví dụ, những người bị nhiễm bệnh sau khi chích thuốc ma túy có một hy vọng sống rơ rệt thấp hơn so với những người khác (52,6 tuổi so với 64,7 tuổi). Mức chênh lệch đạt đến 18 tuổi tùy theo các bệnh nhân đă được điều trị sớm hay chậm chống lại bệnh sida: 70,4 tuổi đối với những người được điều trị sớm, so với 52,4 tuổi đối với những người được điều trị muộn. Sau cùng, phụ nữ có một hy vọng sống hơi cao hơn đàn ông (64,2 đối với 62,8), sự khác nhau này có thể được giải thích là các phụ nữ thường bắt đầu điều trị sớm hơn.
“Điều tạo nên sức mạnh của các kết quả này, đó là do chúng thu được từ một số lượng rất lớn các bệnh nhân, giáo sư Jean-François Delfraissy, giảm đốc Cơ quan quốc gia nghiên cứu chống bệnh sida và các bệnh viêm gan (ANRS) đă nhấn mạnh như vậy. Công tŕnh nghiên xác nhận một lần nữa rằng sida, khởi thủy là một bệnh gây chết người, nhờ liệu pháp 3 thứ thuốc, đă trở thành một bệnh măn tính kéo dài”.
TIẾN HÀNH PHÁT HIỆN SỚM HƠN
Mặc dầu bảng tổng kê là đáng phấn khởi, nhưng c̣n nhiều chặn đường phải đi qua. “Hy vọng sống của những bệnh nhân bị sida vẫn dưới hy vọng sống của người dân nói chung”. Giáo sư Delfrassy đề nghị cứu chữa t́nh trạng này bằng một phát hiện sớm hơn VIH và phục hồi tỷ lệ các tế bào miễn dịch CD4+, là những mục tiêu chính của virus. “Ở Pháp, gần một nửa các bệnh nhân có tỷ lệ CD4+ thấp hơn b́nh thường. ANRS dang hiệu chính những phương thức mới kết hợp liệu pháp 3 thứ thuốc với những điều trị có khả năng khôi phục CD4+ để làm giảm thêm nữa và ngay cả loại bỏ tỷ lệ tử vong cao hơn (surmortalité) liên kết với bệnh sida”. Sau cùng, The Lancet chứng nhận rằng không có các dữ kiện đối với những bệnh nhân trên 30 tuổi, cũng như đối với các bệnh nhân của các nước nghèo. Trong các nước nghèo, sự xuất hiện mới đây của liệu pháp 3 thứ thuốc, hiệu quả hơn những liệu pháp cách nay 10 năm, hẳn mang lại được nhiều hơn hy vọng sống cho những người bị bệnh sida.
(LE FIGARO 26/7-27/7/2008)
florida80
06-01-2019, 20:43
HỘI NGHỊ QUỐC TẾ VỀ SIDA NHẤN MẠNH VAI TR̉ CHỦ YẾU CỦA SỰ PH̉NG NGỪA.
Tháng 8 vừa qua, khoảng 23.000 người tập hợp ở Mexico để nghe kết quả của những nghiên cứu về HIV và về các điều trị chống sida. Gia tăng cố gắng để pḥng ngừa và chống lại sự phân biệt (discrimination), nguyên nhân làm duy tŕ dịch bệnh, là hai đề tài mạnh của Hội nghị quốc tế về sida XVII, khai mạc hôm 3/8 ở Mexico.
Được công bố cách nay hai tuần, các con số mới nhất về t́nh trạng đại dịch do virus HIV, chứng tỏ số các trường hợp nhiễm trùng mới và tử vong năm 2007 đă giảm nhẹ, có thể cho cảm giác trấn an giả tạo. “Việc chấm dứt bệnh sida không ở trong tầm tay, Peter Piot, giám đốc ban chấp hành của Onusida đă cảnh cáo như vậy. Mỗi ngày có những người mới bị nhiễm trùng, gần 3 lần nhiều hơn là những bệnh nhân được điều trị bởi antirétroviral.
V́ vậy, Ban Ki-moon, tổng thư kư Liên Hiệp Quốc đă biểu lộ sự lo lắng: “Hầu hết các nước vẫn c̣n nhiều việc phải làm để đạt mục tiêu mà họ đă đề ra cách nay 2 năm vào lúc Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, đó là mục tiêu mọi người đều có thể tiếp cận được các phương tiện pḥng ngừa, điều trị, săn sóc và hổ trợ chống lại HIV vào năm 2010. Do đó, họ sẽ có những khó khăn lớn trong việc đạt được mục tiêu của Thiên niên kỷ cho sự phát triển (Millénaire pour le développement), đó là ngăn chận và làm đảo ngược sự lan tràn của bệnh sida từ nay đến 2015”.
Những cố gắng nghiên cứu đă mở rộng số các loại thuốc chống HIV có sẵn để sử dụng và, nhất là , những cố gắng để thay đổi nấc thang trong sự tiếp cận các điều trị của những nước nghèo, đă cho phép vượt qua, mặc dầu với 2 năm chậm trễ, cái mốc 3 triệu người được điều trị với antirétroviraux trong những nước này. Peter Piot kêu gọi “một sự pḥng ngừa phối hợp” (une prévention combinée). Trong một bối cảnh được đánh dấu bởi những thất bại mới đây trong thử nghiệm vaccin pḥng ngừa và của những thử nghiệm mới với các chất diệt trùng, sự pḥng ngừa kết hợp này nhằm kết hợp những dạng thức khác nhau : túi dương vật (préservatif), giảm số bạn đường phối ngẫu, cắt bao quy đầu ….
Trong phiên họp khoáng đại, cựu Bộ trưởng Y tế Mexico, Jaime Sepulveda, đă nhấn mạnh về sự phát triển những nghiên cứu khoa học nhằm đánh giá những loại pḥng ngừa khác nhau : “Chúng ta có một tư tưởng tốt về điều trị cần phải có và về những bệnh nhân nào cần phải điều trị. Nhưng đây không phải là trường hợp đối với pḥng ngừa ”.
Cuộc đấu tranh chống lại sự phân biệt (discrimination) là hệ luận của sự pḥng ngừa. Như Ban Ki-moon đă giải thích, “ Trong những đất nước không có luật lệ để bảo vệ các gái măi dâm, những người dùng ma túy và những người đồng t́nh luyến ái, chỉ có một bộ phận dân chúng là tiếp cận được với pḥng ngừa ”. Ông Tổng thư kư Liên Hiệp Quốc nói thêm: “Không bảo vệ những nhóm người này, đó không chỉ trái với đạo đức ; điều đó không có một ư nghĩa ǵ trên phương diện y tế.”
Vị tổng thống Mexico, Filipe Calderon, nhắc lại rằng phải “đương đầu không chỉ virus gây ra căn bệnh khủng khiếp này, mà c̣n các huyền thoại, các thành kiến, sự phân biệt, gây nên biết bao thiệt hại cho xă hội, cũng như chính virus vậy”.
(LE MONDE 6/8/2008)
florida80
06-01-2019, 20:44
GIẢI THƯỞNG NOBEL DÀNH CHO CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG LẠI VIRUS
Giải thưởng Nobel cho các nhà khám phá các siêu vi trùng gây bệnh sida và papillome người. Giải thưởng Nobel về y học năm 2008 đă được trao cho các người Pháp Luc Montagnier và Françoise Barré-Sinoussi của Viện Pasteur v́ đă khám phá ra virus gây bệnh sida năm 1983 và cho người Đức Harald zur Hausen v́ những công tŕnh của ông về ung thư của cổ tử cung
Người ta đâu có nạp đơn ứng viên để xin được giải thưởng Nobel về y học. Chính v́ thế Françoise Barré-Sinoussi, sau khi đă hay tin hôm sáng thứ hai rằng bà đă được giải thưởng Nobel về y học, trong khi bà đang làm việc trong văn pḥng của viện Pasteur Phnom Penh, bà đă không thể che dấu được sự ngạc nhiên và xúc động. Bà chia sẻ giải thưởng này với Luc Montagnier (được biết nhiều hơn), v́ đă có công khám phá ra virus gây bệnh sida vào năm 1983. Hai nhà nghiên cứu người Pháp chia nhau một nửa của giải 1,02 triệu euros. Harald zur Hausen nhận nửa kia của giải. Đây là lần đầu tiên các nhà nghiên cứu người Pháp nhận giải Nobel về y học từ năm 1980, là năm giải được trao cho giáo sư Jean Dausset. Việc trao giải thưởng này cho nhóm nghiên cứu của Viện Pasteur, mà không có các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ, cho phép kết thúc vĩnh viễn cuộc tranh căi giữa Montagnier và Gallo. Hai nhà nghiên cứu này đă đấu tranh trong những năm dài, trước khi những công tŕnh nghiên cứu trong việc khám phá virus gây bệnh sida của nhóm nghiên cứu người Pháp được công nhận là xảy ra trước nhóm nghiên cứu của Hoa Kỳ.
Ngày 20 tháng 5 năm 1983, trong một bài báo được công bố trong Science, một nhóm nghiên cứu của Viện Pasteur Paris, được điều khiển bởi giáo sư Luc Montagnier, đă mô tả một virus mới, bị nghi là nguyên nhân của hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (SIDA : syndrome d’immunodéficien ce acquise, hay AIDS : acquired immunodeficiency syndrome). Được phân lập từ một bệnh nhân với huyết thanh dương tính (séropositif), virus này đă được đặt tên là LAV v́ siêu vi trùng này liên kết với bệnh hạch bạch huyết (lymphadénopathie). Công cuộc khám phá của Barré-Simoussi, 61 tuổi, và của giáo sư Luc Montagnier, 76 tuổi, “đă là thiết yếu cho sự thông hiểu hiện nay về sinh học và trị liệu kháng rétrovirus của bệnh này”, các chuyên gia của ủy ban Nobel đă ghi nhận như thế.
MỘT QUYỀN TÁC GIẢ ĐƯỢC CÔNG NHẬN
Quyền tác giả được công nhận là một quyết định dứt khoát trong mối tranh chấp giữa nhóm nghiên cứu của Montagnier với nhóm nghiên cứu của người Mỹ Gallo ; ông này được công nhận như là người cùng khám phá ra virus, nhưng ủy ban Nobel lại không nêu tên ông này trong bảng thông báo. Vào tháng 4 năm 1984, Gallo đă loan báo là đă phân lập được một virus giống với virus do Viện Pasteur khám phá. Sau khi những tài liệu nội bộ được tiết lộ, Gallo đă được công nhận, là có “cách cư xử khoa học xấu” .
“Người ta biết rằng đó là một khám phá quan trọng nhưng người ta đă không đo lường được quy mô của trận dịch như người ta biết hiện nay” , Françoise Barré-Sinoussi đă nhớ lại như thế. “Người ta đă không đo lường được tác động của trận dịch lên lục địa châu Phi. Vào thời kỳ đó, người ta nói về căn bệnh của những người đồng tính luyến ái, của những người bị bệnh ưa chảy máu (hémophiles), của những người nghiện ma túy và người ta chưa có ư niệm rằng đó là một bệnh được lây truyền bằng đường sinh dục (maladie sexuellement transmisible).”
Chúng ta hăy nhắc lại rằng tác nhân gây bệnh sida phá hủy vài bạch cầu, điều này khiến cho bệnh nhân dễ bị những nhiễm trùng được gọi là cơ hội (infections opportunistes) như lao, viêm phổi do pneumocystis carinii (pneumocytose), bệnh toxoplasma (toxoplasmose) hay một vài khối u ung thư (thường nhất là sarcome de Kaposi).
Được truyền bằng đường sinh dục, máu, hay từ mẹ sang con lúc thai nghén hay lúc cho bú sửa, virus sinh sản bằng cách sống kư sinh trên các lympho bào T4 hay CD4, của những bạch cầu đóng vai tṛ nhạc trưởng của hệ miễn dịch.
Sau quá tŕnh tăng sinh, các virus mới phá hủy tế bào mà chúng làm tổ và đến gây nhiễm các tế bào khác. Sự phá hủy này gây nên một sự suy yếu của hệ miễn dịch. “ Tầm quan trọng của các công tŕnh của Barré-Sinoussi và Montagnier phải được xét đến trong khung cảnh của trận dịch ảnh hưởng lên gần 1% dân số thế giới ”, ủy ban Nobel đă ghi nhận như thế. “Sự thành công của liệu pháp rétrovirus đă cho phép làm gia tăng hy vọng sống (espérance de vie) của những người bị nhiễm bởi HIV, ngày nay tương tự với hy vọng sống của những người lành mạnh”.
(LE SOIR 7/10/2008)
florida80
06-01-2019, 20:45
SIDA ĐĂ XUẤT HIỆN NGAY THẾ KỶ THỨ XIX
Bệnh Sida xuất hiện 50 năm sớm hơn người ta tưởng và virus đă biến dị nhiều lần trước khi tăng sinh. Virus chịu trách nhiệm 95% những lây nhiễm hiện nay có thể đă chào đời giữa năm 1884 và 1924. Virus, nguyên nhân của trận đại dịch sida trên thế giới ngày nay, được khám phá năm 1981 và đă làm lây nhiễm 55 triệu người vào cuối năm 2007, đă đến từ đâu ? Một công tŕnh nghiên cứu mới, được thực hiện bởi những nhà nghiên cứu Hoa Kỳ, Congo, Pháp và Bỉ và được công bố bởi tạp chí Nature, mang lại một ánh sáng mới về nguồn gốc của HIV
Măi đến ngày nay, người ta nghĩ rằng HIV, siêu vi trùng gây suy giảm miễn dịch nơi người, đă xuất hiện vào khoảng năm 1930, ở châu Phi, do sự truyền giữa các loài (transmission interespèce) của một biến thể của virus dạng khỉ, từ con tinh tinh (chimpanzé) qua người, có thể xảy ra trong lúc săn bắn hay lúc ăn phải thịt bị nhiễm trùng. Một công tŕnh nghiên cứu di truyền “ khảo cổ học ”, mà các kết quả được công bố trong tạp chí Nature, đặt thời điểm truyền bệnh này ít nhất nửa thế kỷ trước đó, hoặc một thế kỷ trước khi virus trở nên một vấn để y tế công cộng quan trọng, vào năm 1981, tức hai năm trước khi Montagnier và Gallo nhận diện được virus.
Các nhà nghiên cứu đă tiến hành như thế nào để đạt được kết luận này ? Họ đă phân tích một mẫu nghiệm virus HIV, trích từ một bệnh phẩm của hạch bạch huyết được bảo quản trong paraffine và rất mới đây vừa được làm cập nhật. Bệnh phẩm này, được bảo quản ở khoa cơ thể bệnh học của Đại học Kinshasa, rồi được chuyển về Đại học Arizona, vốn đă được lấy từ một phụ nữ 48 tuổi ở Kinshasa vào năm 1960. Michael Worobey (đại học Tucson, Arizona) đă phân tích bệnh phẩm này và đă khám phá, trong một mẫu nghiệm sinh thiết của một hạch bạch huyết của người phụ nữ này, dấu vết của virus bệnh sida. Đó là các acide nucléique, hay nói một cách khác, là các mảnh của các gène của ADN, đă được bảo quản như thế trong 48 năm. Thế mà, măi đến ngày nay, chỉ có một mẫu nghiệm duy nhất khác, có từ trước năm 1976, được khám phá vào năm 1959, cũng ở Kinshasa.
Các nhà nghiên cứu sau đó đă phân tích di truyền hai giống gốc 1959 và 1960 (ZR59 và DRC60), và đă so sánh chúng với một trăm mẫu nghiệm mới đây, để quan sát những biến dị đă xảy ra. Kết quả ? Sự so sánh cho thấy rằng hai virus đă rất khác nhau, khiến có thể suy đoán rằng tổ tiên chung của virus này đă xuất hiện sớm hơn nhiều điều mà người ta đă nghĩ trước đây.
ADN của virus HIV biến dị một triệu lần nhanh hơn ADN của một loài động vật, BS Paul Sharp đă ước tính như thế trong một bài báo của Nature. Trong vài thập niên, một số không phải là ít những biến dị của virus bệnh sida đă được quan sát.
Theo các nhà nghiên cứu, nếu người ta tính đến tốc độ biến dị của virus bệnh sida, th́ tổ tiên nguồn gốc của trận đại dịch thế giới ngày nay, ắt hẳn phải cổ hơn nhiều.Trong lịch sử của trận dịch nơi người, tổ tiên virus của HIV là một virus của sự giảm miễn dịch của khỉ (SIV). Virus cổ đại này đă gây nhiễm tự nhiên các con tinh tinh ở vùng Trung và Tây phi.
Những nghiên cứu khảo cổ học về một virus có ích lợi ǵ? “ Như đối với virus cúm năm 1918, một sự hiểu biết sâu rộng hơn về tiến triển của virus và phương cách mà nó biến dị từ những trường hợp đầu tiên ở châu Phi, có thể cho một cái nh́n chính xác hơn về độc lực và về tiến triển của những giống gốc hiện nay. Điều này có thể cho những hướng để ngăn ngừa trận dịch”, các nhà nghiên cứu đă nhấn mạnh như thế. 33 triệu người sống với virus HIV và 28 triệu người đă chết v́ nó từ năm 1981.
(LE SOIR 3/10/2008)
(LE FIGARO 2/10/2008)
florida80
06-01-2019, 20:46
NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ NHỮNG HẠN CHẾ CỦA CẮT BAO QUY ĐẤU CHỐNG SIDA
Vào lúc mà hiệu quả của sự cắt bao quy đầu như là phương tiện pḥng ngừa đang gây tranh căi, những dữ kiện mới trên hiện trường vừa được tŕnh bày ở Hội Nghị Quốc tế về sida lần thứ XVII, diễn ra ở Mexico. Chúng ta hăy nhớ rằng 33 triệu người bị nhiễm trùng bởi VIH vào cuối năm 2007 .
Từ tháng 12/ 2006, người ta biết rằng sự cắt bao quy đầu nơi nam giới làm giảm 60%. các nguy cơ truyền VIH. Thật vậy bao quy đầu được cấu tạo bởi những tế bào đặc biệt rất dễ bị thương tổn bởi virus. Đó cũng là một vùng mảnh dẻ, nơi các thương tổn vi thể có thể xuất hiện lúc giao hợp. Sau cùng, môi trường nóng và ẩm của nó làm dễ sự tồn tại của VIH sau khi bị lây nhiễm. Do đó, cắt bỏ bao quy đầu làm giảm những cửa đi vào của virus. Da của dương vật cứng lại, trở nên một hàng rào chắn tốt hơn. Vấn đề duy nhất : cắt bao quy đầu làm giảm nguy cơ, nhưng không có tác dụng bảo vệ.
Làm sao tránh những cảm giác an toàn giả tạo và nhiều hành v́ nguy cơ hơn?.Một công tŕnh nghiên cứu của Pháp, của cơ quan nghiên cứu quốc gia về bệnh sida, thực hiện trên 1.201 người đàn ông và 1.399 phụ nữ của quận Orange Farm ở Nam Phi, cho thấy rằng 55% đàn ông đă tuyên bố là đă được cắt bao quy đầu nhưng thực ra không phải là như vậy. Sự không hiểu biết này tăng cường ư tưởng rằng, để được chấp nhận và có hiệu quả, sự cắt bao quy đầu phải được thực hiện miễn phí và kết hợp với một mức cao về thông tin.
(SCIENCES ET AVENIR 9/2008)
florida80
06-01-2019, 20:47
THÔNG TIN Y HỌC VỀ CÁC BỆNH LÂY LAN QUA ĐƯỜNG SINH DỤC
Lynn Ly tổng hợp thông tin về Các Bệnh Lây Lan Qua Đường Sinh Dục
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh
30 PHÚT ĐỂ CHẤN ĐOÁN BỆNH SIDA
Đây là một đầu tiên ở Pháp. Tại Montpellier, những xét nghiệm phát hiện nhanh bệnh sida từ nay được đưa vào sử dụng. Trong ṿng 30 phút và chỉ với một giọt máu lấy nơi đầu của ngón tay và được đặt trên một dải phản ứng (bandelette réactive), những trắc nghiệm này, cũng như những trắc nghiệm được dùng bởi những bệnh nhân đái đường, sẽ cho phép biết được t́nh trạng huyết thanh của một người, 3 tháng sau một giao hợp có khả năng bị lây nhiễm. Một trường hợp huyết thanh dương tính phải được xác nhận bởi một xét nghiệm máu cổ điển, được thực hiện trong môi trường bệnh viện. Hiện nay, ở Pháp, 36.000 người không hay biết rằng ḿnh có huyết thanh dương tính và do đó không được theo dơi về mặt y tế.
(SCIENCES ET AVENIR 1/2009)
florida80
06-01-2019, 20:48
CHÈ XANH ĐƯỢC DÙNG NHƯ RÀO CHẮN CHỐNG LẠI SIDA.
Một dung dịch polyphénol ức chế một protéine của tinh dịch, vecteur của nhiễm trùng.
Một thành phần của chè xanh có thể tỏ ra hiệu quả để tránh sự lây nhiễm bởi virus của sida trong lúc giao hợp, một công tŕnh nghiên cứu được công bố trong Proceedings of the National Academy of Sciences đă xác nhận như vậy.
Công tŕnh nghiên cứu này của đại học Heibelberg và của Viện virus học thực nghiệm của Hamburg đă cho thấy rằng gallate d’epigallocatech in (EGCG), một polyphénol hay tanin thực vật của chè xanh, có khả năng ức chế một protéine của tinh dịch có khuynh hướng dùng làm vecteur và tác nhân làm lan truyền của virus của sida.
“ Một phần của peptide, được chứa trong tinh dịch người, làm tăng cường sự nhiễm trùng bởi HIV một cách hằng định. Các sợi nhỏ làm lan truyền (fibrilles propagatrices) nhiễm trùng của virus HIV bởi tinh dịch, bắt giữ các yếu tố của virus và móc chúng và các tế bào bia của chúng, làm lan tràn sự hợp nhất của virus trong những tế bào này ”, các nhà nghiên cứu của Heinrich-Pette-Institute de Hambourg đă viết như vậy.
“ V́ những lư do này, chúng tôi đă cho rằng việc đưa vào một chất ức chế các sợi nhỏ này, như là chất diệt trùng , có thể ngăn ngừa sự lan truyền của bệnh sida qua những giao hợp ”, các nhà nghiên cứu chứng ḿnh rằng nơi các phụ nữ, việc sử dụng tại chỗ một dung dịch có liều lượng thấp polyphénol của chè xanh có thể “ hủy bỏ một cách hiệu quả những tính chất phát triển của nhiễm trùng.”.
ĐƠN GIẢN VÀ ÍT TỐN KÉM
Trong khi đại đa số trong số 33 triệu người có huyết thanh dương tính trên thế giới đă bị nhiễm trùng bởi HIV trong lúc giao hợp dị tính (relations hétérosexuelles) và trong lúc 96% những lây nhiễm mới đều xảy ra trong những nước nghèo, các nhà nghiên cứu cho rằng việc khám phá những tính chất ức chế của thành phần của chè xanh là “ đầy hứa hẹn ”. “ Điều đó có thể mang lại một phương pháp pḥng ngừa đơn giản và ít tốn kém, đặc biệt là trong những giới nghèo khổ.” EGCG của chè xanh đă được công nhận do những tính chất chống ung thư, kháng oxy hóa, chống vi khuẩn và kháng virus.
(LE SOIR 27/5/2009)
florida80
06-01-2019, 20:49
NHỮNG NHIỄM TRÙNG BỊ LÂY TRUYỀN BỞI CÁC NHA SĨ.
HEPATITE. Một báo cáo ở Pháp chỉ rơ nguy cơ, tuy rất thấp, nhưng không phải là ít, của sự lây nhiễm bởi virus viêm gan B hay C, thậm chí của Sida, nơi các pḥng khám của các nha sĩ.
Những trường hợp chữa răng b́nh thường phải chăng có thể là nguồn gốc của những nhiễm trùng nặng bởi virus ? Đối với một cá thể, nguy cơ mắc phải HIV, virus của viêm gan B (VHB) hay virus của viêm gan C (VHC) nơi một pḥng mạch nha sĩ là rất thấp, một báo cáo của Viện theo dơi y tế (IVS : Institut de veille sanitaire), vừa được công bố, đă đánh giá như vậy. Tuy nhiên nguy cơ này không hẳn là không đáng kể ở quy mô đại chúng, nếu xét đến số lượng cao của các động tác giải phẫu răng và những khiếm khuyết trong sự khử trùng dụng cụ, được chứng thực nơi các nha sĩ hành nghề.
Ở Pháp, theo những tính toán của IVS, mỗi năm khoảng 200 trường hợp bị lây nhiễm bởi virus của viêm gan B, có thể là do sự khử trùng không được đầy đủ của các các giá mang dụng cụ quay (PIR : porte-instruments rotatifs : toàn bộ các turbines và những pièces à mains khác, truyền một chuyển động quay đến các dụng cụ, như fraises, tiếp xúc trực tiếp với các răng được điều trị), được sử dụng rộng răi bởi các nha sĩ để điều trị bảo tồn và làm răng giả. Như thế, những khiếm khuyết vệ sinh trong lănh vực này, trên lư thuyết, có thể gây nên những lây nhiễm bởi virus của viêm gan C (dưới 2 trường hợp mỗi năm) hay bởi HIV (dưới 1 mỗi năm).
Trên thực tế, rất ít các trường hợp được chứng minh trong tư liệu y học. Trong hầu hết các trường hợp, những virus có thể được lây truyền bởi máu này bị nhiễm phải trong những bối cảnh khác (giao hợp, nghiện ma túy, những tai nạn do tiếp xúc với máu...). Trường hợp đầu tiên được xác nhận của sự truyền virus viêm gan B từ bệnh nhân này đến bệnh nhân khác vào lúc chữa răng, đă được báo cáo ở Hoa Kỳ vào năm 2007. “ Ở Pháp một trường hợp đang trong ṿng điều tra, nhưng chưa có ǵ được chứng minh, BS Bruno Poignard của IVS đă xác nhận như vậy. Thường khó chứng minh trách nhiệm của việc chữa răng (là những động tác rất thông thường) trong sự lan truyền của một bệnh sida hay viêm gan. Nói chung, đó là giả thuyết cuối cùng được thăm ḍ và đó là một chẩn đoán loại trừ.”
Cách nay vài năm, Tổng giám đốc y tế đă phân phát một hướng dẫn các khuyến nghị dành cho những nhà chuyên nghiệp, nhằm tăng cường sự pḥng ngừa những nhiễm trùng do việc chữa răng. Nhưng mới đây, giới hữu trách y tế đă được báo động bởi các cuộc thanh tra trong các pḥng mạch của các nha sĩ trong môi trường nhà tù. Những khuyến nghị tiệt trùng các giá mang dụng cụ quay (PIR : porte-instruments rotatif) giữa mỗi bệnh nhân vẫn không hẳn luôn luôn được tôn trọng. Điều chứng nhận này cũng tương tự đối với các pḥng khám tư. “ Mặc dầu những tiến bộ quan trọng đă được chứng thực trong việc tôn trọng những quy tắc vệ sinh bởi các nha sĩ trong những năm qua, nhưng nhiều cuộc điều tra cũng cho thấy rằng những khiếm khuyết có thể tồn tại về vấn đề này nơi vài nha sĩ ”, bảng tường tŕnh của IVS đă ghi nhận như vậy.
Theo IVS, nguy cơ cá nhân mắc phải một virus do khiếm khuyết trong khử trùng các giá mang dụng cụ quay (PIR) là thấp nhất đối với HIV, 1/420 triệu, và cao nhất đối với virus của viêm gan B, 1/516.000. Xác suất là 1/67 triệu đối với viêm gan C. Các nguy cơ sẽ là 8 lần cao hơi trong môi trường nhà tù.Thật vậy, sự mang virus sida và viêm gan đúng là thường xảy ra hơn trong nhóm dân này, do những hành vi có nguy cơ như nghiện ma túy.
Tổng cộng, theo đánh giá của IVS, việc chữa răng có thể chịu trách nhiệm 200 trường hợp nhiễm virus viêm gan B mỗi năm.
(LE FIGARO 29/5/2009)
florida80
06-01-2019, 20:50
VACCIN CHỐNG BỆNH SIDA : SAU CÙNG CÁC KẾT QUẢ DƯƠNG TÍNH !
Cuộc thử nghiệm vaccin với quy mô rộng lớn nhất được tiến hành cho đến ngày hôm nay đă cho phép làm giảm 1/3 nguy cơ nhiễm trùng bởi virus HIV. Nhưng c̣n nhiều điều cần phải làm.
Mặc dầu vaccin chống bệnh sida chưa có cho ngày mai, nhưng đây là lần đầu tiên trong lịch sử của dịch bệnh mà một thử nghiệm lâm sàng cho hé thấy khả năng pḥng ngừa sự lây nhiễm bởi virus HIV. Nguy cơ bị nhiễm trùng sida giảm 31% nơi những người được tiêm chủng so với những người đă nhận một placebo, hôm thứ năm 24/9, các nhà tổ chức cuộc thử nghiệm tiêm chủng đă loan báo như vậy. “ Đó là một bước tiến quan trọng, giáo sư Jean –François Delfraissy, giám đốc ANRS (Cơ quan quốc gia nghiên cứu về bệnh si da và các bệnh viêm gan virus) đă chào mừng.Tuy nhiên vẫn c̣n khiêm tốn và không đủ. Chúng ta chưa có một vaccin chống sida.” Được trắc nghiệm nơi 16.000 người t́nh nguyện ở Thái Lan có huyết thanh âm tính (séronégatif), thử nghiệm kết hợp hai vaccin khác nhau (un cocktail de deux vaccins) được chế tạo cách nay 10 năm. Vaccin đầu tiên được tiêm là Alvac, được bào chế bởi Sanofi Pasteur và vaccin thứ hai Aidsvax B/E VaxGen. Hai vaccin, nhằm vào các chủng gốc lưu hành ở Thái Lan, được tiêm cách nhau một khoảng thời gian 6 tháng, vaccin thứ hai tăng cường tác dụng của vaccin thứ nhất, theo chiến lược primovaccination, tiếp theo bởi một tiêm chủng nhắc lại (“ prime boost ”). Những người t́nh nguyện được khám lại mỗi 6 tháng trong ṿng 3 năm sau khi tiêm chủng, đồng thời mỗi lần khám bệnh họ nhận “ những lời khuyên về phương cách pḥng ngừa nhiễm trùng bởi HIV ”. Những kết quả thô sơ của thử nghiệm giai đoạn III này, được gọi là RV 144, đă được tŕnh bày hôm qua nhân một cuộc họp báo được tổ chức bởi Sanofi-Pasteur, là hăng bào chế Alvac-HIV, một trong hai vaccin. Mặc dầu họ không ngớt đưa ra những lời tuyên bố phấn khởi, nhưng các phát ngôn viên của quân đội Hoa Kỳ và Bộ y tế Thái Lan (đă tiến hành nghiên cứu), đă không chi tiết bao nhiêu về các dữ kiện. Những dữ kiện này sẽ được phát triển vào hội nghị quốc tế về các vaccin sẽ diễn ra ở Paris từ 19 đến 22 tháng 10.
Hai thử nghiệm quy mô lớn đầu tiên, được tiến hành với các vaccin thế hệ thứ nhất, đă thất bại. Để gia tăng các cơ may thành công, các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ đă nhờ đến chiến lược “ prime-boost ” (primovaccination rappel), nhằm tiêm một vaccin đầu tiên để khơi mào đáp ứng miễn dịch, rồi một vaccin thứ hai, tính chất khác, để khuếch đại sự sản xuất các kháng thể.Vaccin đầu tiên, Alvac-HIV, được sản xuất từ một virus gây nhiễm trùng chim hoàng yến (canari) (canarypox) bị biến đổi về mặt di truyền. Virus này không có thể sống sót trong các tế bào người nhưng cho phép đưa vào các gène mật mă cho các protéine miễn dịch của HIV. Vaccin thứ hai, AIDSVAX là một dạng tổng hợp của một protéine thuộc lớp vỏ của virus, gpl120.
Được trắc nghiệm riêng rẽ, hai vaccin này đă không mang lại một sự bảo vệ miễn dịch nào. Trong thử nghiệm Thái Lan, được bắt đầu vào năm 2003, 16.000 người t́nh nguyện, tuổi từ 18 đến 30 và được xem như có nguy cơ“ trung b́nh ” bị lây nhiễm bởi HIV, đă được chia thành hai nhóm : 8.000 người đă nhận cocktail vaccin, 8.000 người nhận các placebo. Vào thời kỳ đó, một bộ phận của cộng đồng y khoa đă đứng lên chống lại công tŕnh nghiên cứu này, được cho là cần phải bàn căi về mặt đạo đức. 3 năm sau khi chấm dứt các tiêm chủng, các vaccin đă xác nhận tính dung nạp tốt của chúng. Nhất là, các nhà nghiên cứu nhấn mạnh, sau cùng chúng đă chứng tỏ một hiệu quả : 74 trường hợp sida đă xảy ra trong nhóm placebo, 51 trong số những người được tiêm chủng, hoặc một sự giảm 31%, có ư nghĩa về mặt thống kê. “ Những kết quả của công tŕnh nghiên cứu , thể hiện một sự tiến bộ khoa học đáng kể, là điều chứng minh đầu tiên rằng một vaccin có thể ngăn ngừa nhiễm trùng bởi HIV trong dân chúng trưởng thành và có một tầm quan trọng lớn ”, OMS và Onusida đă tuyên bố như vậy. “ Rất là đáng phấn khởi. Những kết quả này cũng cho thay chiến lược “ prime-boost ” đáng được nghiên cứu sâu ” , BS Catherine Hankins, trưởng cố vấn khoa học của Onusida đă chỉ rơ như vậy. “ Những kết quả này là khiêm tốn, nhưng đây là lần đầu tiên người ta có một dấu hiệu dương tính đối với một vaccin ”, GS Anthony Fauci thuộc Viện quốc gia dị ứng và các bệnh nhiễm trùng (Hoa Kỳ) đă nhấn mạnh như vậy. Tuy nhiên ông nhấn mạnh rằng vẫn c̣n nhiều câu hỏi phải giải quyết trước khi dự kiến đưa ra thị trường.“ Người ta không biết thời gian bảo vệ do vaccin mang lại là bao nhiêu, cũng như không biết là vaccin này sẽ có hiệu quả trong những loại dân chúng khác hay không, chẳng hạn những người đồng tính luyến ái hay nghiện ma túy ”, Anthony Faucy đă ghi nhận như thế. Các chuyên gia Pháp khác lại c̣n thận trọng hơn. “ Phải tiết chế bớt niềm phấn khởi của chúng ta, đó chỉ là một sự giảm 31%, và chúng ta không biết tại sao những người này lại được bảo vệ ”, GS Françoise Barré-Sinoussi, Giải Nobel Y Học 2008 do đă tham gia vào việc khám phá virus HIV, đă phản ứng như vậy.
“ Tin vui đầu tiên, đó là sự thông tin về những biện pháp pḥng ngừa đă rất là có hiệu quả, bởi v́ đă chỉ có 125 trường hợp lây nhiệm trên 16.000 người ", giám đốc Cơ quan quốc gia nghiên cứu về sida (ANRS) Jean François Delfraissy đă phát biểu như vậy.
Tuy nhiên, GS Yves Levy, phụ trách về những thử nghiệm vaccin ở ANRS nhắc lại rằng “ sau 30 ứng viên vaccin trong 20 năm, ít nhất chúng ta có được một dấu hiệu cho thấy rằng có thể làm giảm các nguy cơ ”. “ Một vaccin có hiệu quả trong 30% hay 50% các trường hợp sẽ có thể đóng một vai tṛ quan trọng nếu vaccin này nằm trong một hệ thống pḥng ngừa được tăng cường. Chưa có giải pháp độc nhất để chống lại sida ”, Michel Sidibé, giám đốc của Onusida đă đánh giá như vậy.
(LE FIGARO 25/9/2009)
(LE MONDE 26/9/2009)
florida80
06-01-2019, 20:50
TA CÓ PHẢI THỰC HIỆN MỘT XÉT NGHIỆM PHÁT HIỆN BỆNH SIDA ?
Professeur Yazdan Yazdanpanah
Service universitaire des maladies
infectieuses et du voyageur.
Centre hospitalier de Tourcoing.
Chính sách phát hiện HIV ở Pháp và trong nhiều nước phát triển dựa trên đề nghị, bởi những người điều trị, xét nghiệm cho nhóm người có nguy cơ : những người đàn ông đồng tính luyến ái, những người sử dụng thuốc ma túy bằng đường tĩnh mạch và những người dị tính luyến ái (hétérosexuels) có nhiều bạn đường phối ngẫu. Chính sách này, được thiết lập vào cuối những năm 1980, ngày nay không c̣n thích ứng với dịch tễ học cũng như tiến triển của bệnh ở kỷ nguyên của các điều trị antirétroviraux.
Ngày nay, ở Pháp, số những người bị nhiễm bởi HIV nhưng không biết là ḿnh bị nhiễm trùng, được ước tính là 40.000. Giữa ¼ đến 1/3 các bệnh nhân phát hiện căn bệnh ḿnh vào một giai đoạn muộn. Những người dị tính luyến ái có nguy cơ hai lần nhiều hơn, và những người trên 60 tuổi có bốn lần nguy cơ cao hơn, không được phát hiện và điều trị. Một mặt, bởi v́ họ tự xem là không phải diện có nguy cơ và mặt khác bởi v́ nhiều thầy thuốc không xếp loại họ trong nhóm người bị tiếp xúc HIV.
Thế mà, sự điều tra phát hiện, có thể cho phép thiết đặt sớm một điều trị, sẽ làm giảm một cách đáng kể những nguy cơ bệnh tật và tử vong. Mặt khác, sự điều trị sớm có một tác dụng hữu ích đối với cộng đồng. Thật vậy, do làm giảm lượng virus trong cơ thể, các antirétroviraux làm giảm nguy cơ truyền cho những người khác. Sau cùng, việc biết được t́nh trạng huyết thanh (statut sérologique) của ḿnh mang lại một sự biến đổi của những hành vi sinh dục có nguy cơ (comportememnt sexuel à risque).
Trong khi phải duy tŕ và tăng cường sự phát hiện nhắm đích và đều đặn những nhóm người có nguy cơ, giờ đây ta phải mở rộng công tác phát hiện bệnh. Đó là điều được khuyến nghị bởi Haute Autorité de Santé, vào tháng 10 năm 2009, đối với toàn bộ những người tuổi từ 15 đến 70. Một cách cụ thể, mỗi người sẽ được đề nghị một xét nghiệm hay yêu cầu được hưởng xét nghiệm này trong một cơ sở y tế. Ngoài ra, việc đề nghị phát hiện mở rộng (dépistage généralisé) sẽ là cơ hội để minh định rơ rằng, mỗi cá nhân, dầu thuộc cộng đồng nào, đều có khả năng bị nhiễm bởi HIV.
Tuy nhiên, xét nghiệm chỉ được thực hiện bởi những người điều trị trong bối cảnh này không đủ. Nhất là để phát hiện những người trong t́nh trạng bấp bênh không hay ít thường xuyên lui tới các cơ sở điều trị, hay vài nhóm “ cộng đồng ”. Phải đi đón lấy những nhóm người này ! Sự sử dụng mới đây các xét nghiệm phát hiện có kết quả nhanh, được thực hiện chỉ với một giọt máu lấy nơi đầu ngón tay, mang lại cho chúng ta một khả năng đổi mới tuyệt vời. Ngày nay, với những trắc nghiệm này, việc phát hiện bệnh có thể được thực hiện ở nơi khác với pḥng xét nghiệm.
Dầu cho chiến lược phát hiện bệnh là ǵ, médicalisé hay không, chúng ta hăy nhắc lại rằng công tác phát hiện này vẫn là một phương pháp tiến hành tự nguyện. Điều chủ yếu là các quyền của con người, đặc biệt là tính cách kín mật phải được tôn trọng. Chính trên những nguyên tắc này mà nền dân chủ y tế hoạt động. Hay dân chủ nói chung.
(LE FIGARO 5/7/2010)
florida80
06-01-2019, 20:51
SIDA : TIẾN ĐẾN SỰ THANH TOÁN VIRUS VÀO NĂM 2050 ?
Liệu pháp ba loại thuốc (trithérapie) điều trị các bệnh nhân, nhưng cũng làm giảm khả năng gây nhiễm. Từ đó nảy ra ư tưởng điều trị để pḥng ngừa.
EPIDEMIE. Nếu như tất cả những người bị nhiễm bởi virus sida được phát hiện và nhận các thuốc kháng virus, có lẽ dịch bệnh có thể biến mất trong vài thập niên. Thật vậy, mặc dầu các thuốc hiện nay không cho phép tiêu hủy virus, nhưng, đối với bệnh nhân được điều trị, chúng làm giảm nhiều nguy cơ truyền virus cho một đệ tam nhân, bằng đường sinh dục hay bằng tiêm chích.
“ Phát hiện và điều trị ” (Test and treat). Từ nay, đó là triết lư hành động của các cơ quan lớn chống bệnh sida và đặc biệt là Onusida, xác định cho ḿnh mục tiêu điều trị các bệnh nhân, đồng thời ngăn cản những lây nhiễm mới. Trong khi Hội nghị quốc tế lần thứ 18 về bệnh sida đă khai mạc hôm qua với hơn 20.000 người tham dự (các nhà nghiên cứu, các thầy thuốc, các hiệp hội), càng ngày càng có nhiều chuyên gia ủng hộ một chiến lược như thế. Ngay cả Tổ chức y tế thế giới nghĩ đến, ở chân trời năm 2050, sự triệt căn của virus VIH, chịu trách nhiệm 25 triệu trường hợp tử vong kể từ đầu đại dịch, vào năm 1892.
“ Chiến lược này dựa trên sự kiện là, khi ta làm giảm trọng tải virus (charge virale) của các bệnh nhân bằng điều trị, th́ nguy cơ truyền bệnh có vẻ thấp hơn, GS Jean-François Delfraissy (giám đốc của Cơ quan quốc gia nghiên cứu về bệnh sida, Paris) đă giải thích như vậy. “ Người ta cho rằng việc đảm bảo một sự tiếp cận điều trị cho tất cả những ai cần đến, có thể cho phép làm giảm 1/3 những trường hợp lây nhiễm mới mỗi năm ”, bản báo báo mới nhất của Onusida, được công bố cách nay vài ngày, đă xác nhận như vậy.
Cho măi đến nay, đó chủ yếu là những mô h́nh, liên kết với những công tŕnh nghiên cứu quán sát, cho phép dự kiến, nhờ một phương pháp như thế, một khả năng thanh toán virus sida. Hôm qua, nhân Hội nghị quốc tế thế giới về sida, tạp chí Anh The Lancet đă công bố những kết quả của công tŕnh nghiên cứu Canada ít nhất cũng phù hợp phần nào những giả thuyết này. Công tŕnh chứng minh rằng chỉ cần điều trị những người huyết thanh dương tính (séropositifs) cũng cho phép chia đôi số những trường hợp mới nhiễm trùng bởi VIH.
NHỮNG CÔNG TR̀NH NGHIÊN CỨU KHÁC ĐANG ĐƯỢC TIẾN HÀNH.
Nhóm nghiên cứu của GS Julio Montaner (giám đốc của Trung tâm chống bệnh sida ở Vancouver và chủ tịch của International Aids Society, tổ chức hội nghị quốc tế ở Vienne) đă tập trung vào tỉnh Colombie-Britanique (Canada), nơi đây, từ năm 1996, tất các các bệnh nhân bị nhiễm bởi virus sida đều được hưởng một sự tiếp cận điều trị miễn phí. Nhóm nghiên cứu đă có thể quan sát thấy rằng giữa năm 1996 (lúc bắt đầu liệu pháp 3 thứ thuốc, trithérapie) và 2009, số những người được điều trị trong vùng này đă chuyển từ 837 lên 5.413. Trong cùng thời gian, suốt trong 13 năm này, số những trường hợp chẩn đoán huyết thanh dương tính mới mỗi năm đă chuyển từ 702 xuống c̣n 338, hoặc một sự giảm 52%. “ Cứ thêm 100 người được điều trị bởi liệu pháp 3 thứ thuốc, số những trường hợp mới hạ 3% ”, các tác giả đă tóm tắt như vậy.
Ngược lại, các tỷ lệ các bệnh nhiễm trùng được lây truyền bằng đường sinh dục đă gia tăng trong suốt thời gian thực hiện nghiên cứu, điều này chứng tỏ rằng những kết quả của nó không phải là do một sự giảm các hành vi sinh dục có nguy cơ (conduite sexuelle à risque), mà đúng là do hiệu quả pḥng ngừa của các điều trị. Sự giảm số các nhiễm trùng mới đă có thể nhận thấy đối với các cách lây nhiễm và đặc biệt là đối với những người tiêu thụ thuốc ma túy bằng đường tiêm chích. “ Những kết quả nghiên cứu của chúng tôi xác nhận lợi ích thứ hai của các điều trị, đó là làm giảm sự lan truyền của VIH. Những kết quả này khiến phải xem xét lại sự lưỡng phân được xác lập giữa sự pḥng ngừa và sự điều trị của VIH ”, các tác giả đă kết luận như thế. Nhiều công tŕnh nghiên cứu khác đang được tiến hành để đánh giá tốt hơn ảnh hưởng của điều trị lên sự pḥng ngừa. “ C̣n có nhiều nghi vấn, GS Delfraissy đă xác nhận như vậy. Trước hết phải cố đạt được sự chấp thuận để được phát hiện bệnh và sự tuân thủ các điều trị. Cũng cần phải theo dơi những đề kháng của virus đối với các loại thuốc. Sau cùng, vấn đề phí tổn của một điều trị đối với tất cả không thể không được nói đến. Hiện nay, trên 33 triệu người bị nhiễm trùng trên thế giới, chỉ 12 triệu được phát hiện và 5 triệu được điều trị. ”
Trong lúc chờ đợi một sự triệt căn khả dĩ của virus VIH trong 40 năm đến, những chiến dịch pḥng ngừa bệnh sida bằng bao dương vật được tiếp tục khắp nơi trên thế giới. Các chuyên viên đang nôn nóng chờ đợi những kết quả của một công tŕnh nghiên cứu, được tŕnh bày ngày mai, nhằm đánh giá hiệu quả của một gel âm đạo chứa một chất kháng virus, để pḥng ngừa sự lây nhiễm đối với các phụ nữ.
(LE FIGARO 19/7/2010)
florida80
06-01-2019, 20:52
THUỐC CHỦNG CHỐNG BỆNH SIDA (VACCIN ANTI-VIH) : SỰ LẠC QUAN CỦA GIÁM ĐỐC VIỆN CÁC BỆNH NHIỄM TRÙNG HOA KỲ.
Sau 20 năm thất bại, công cuộc t́m kiếm một vaccin chống bệnh sida đă trải qua những bước tiến quan trọng, làm tin tưởng hơn nhiều khả năng thắng bệnh nhiễm trùng, Anthony Fauci, giám đốc Viện các bệnh nhiễm trùng Hoa Kỳ, đă đánh giá như vậy.
“ Tôi nghĩ rằng, chúng ta có thể nói một cách thành thật rằng, những tiến bộ đáng kể đă được thực hiện trong sự phát triển của một vaccin ”, Anthony Fauci đă tuyên bố như vậy, nêu lên sự khám phá mới đây của hai kháng thế mới chống lại virus sida (anticorps anti-VIH), bởi những nhà nghiên cứu của cơ quan ông, Viện quốc gia Hoa Kỳ về các dị ứng và những bệnh nhiễm trùng (Niaid), đang ở hàng đầu trong công cuộc đấu tranh chống lại bệnh sida. “ Măi cho đến gần đây, không những các cố gắng để sản xuất một vaccin đă không thu được kết quả, mà chúng ta c̣n không có chỉ dấu ít ỏi nào cho thấy rằng chúng ta đă đi trên con đường đúng đắn ” ông nói tiếp như vậy. Chúng ta tiến bước hầu như một người mù, với hy vọng gặp được cơ may.”
Tất cả đă bắt đầu thay đổi với những kết quả của một thử nghiệm lâm sàng của một vaccin thí nghiệm ở Thái Lan, vào năm 2009, trên 16.000 người. Những kết quả đă cho thấy một hiệu quả dương tính rất khiêm tốn để ngăn ngừa nhiễm trùng bởi VIH (virus de l’immunodéficien ce). “ Mặc đầu hiệu quả không đầy đủ, vaccin này đă đánh dấu một bước tiến về quan niệm (une avancée conceptuelle), đă cho chúng ta thấy rằng có thể sản xuất một vaccin có khả năng ức chế VIH, BS Fauci nói thêm như vậy. Tất cả sự khó khăn để sản xuất một vaccin là ở chỗ virus này biến dị một cách nhanh chóng ”.
Tuần vừa qua, các nhà nghiên cứu của Niaid đă loan báo trong tạp chí Science cua Hoa Kỳ là đă thành công nhận diện hai kháng thể (VRCQ1,VRCO2) nơi một người bị nhiễm trùng. Những kháng thể này trong pḥng thí nghiệm cũng phong bế hơn 90% những giống gốc VIH được biết trên thế giới. “ Khám phá này đă cho phép chúng tôi phân lập một bộ phận của VIH, mà chúng tôi có thể sử dụng như vaccin, bởi v́ chúng tôi biết rằng những kháng thể này luôn luôn tấn công vào đó và phong bế virus ”, ông đă xác nhận như vậy. Mục tiêu sắp đến là thử tiêm nơi người, một trích chất của bộ phận này của virus dưới dạng vaccin, để gây nên một đáp ứng miễn dịch bảo vệ chống lại nhiễm trùng. Tất cả những diễn biến này chỉ mới xảy ra rất gần đây. Vậy th́, mặc dầu không có thể biết khi nào chúng ta sẽ có một vaccin, nhưng chúng ta tin tưởng hơn nhiều so với chỉ cách nay vài năm, khi đó không có ǵ chỉ cho thấy rằng việc khám phá một vaccin là có thể thực hiện được.”
T́m ra những kháng thể, có khả năng làm vô hiệu các giống gốc của VIH hiện diện khắp nơi trên thế giới, cho đến nay, đă tỏ ra rất là gay go, bởi v́ virus thay đổi protéine bề mặt một cách thường xuyên để thoát khỏi sự phát hiện bởi hệ miễn dịch. Những khám phá như thế tạo nên một điểm khởi đầu lư thú nhưng dầu sao vào giai đoạn này, điều đó dường như không đủ để hiệu chính một vaccin pḥng ngừa, GS Jean-François Delfraissy (giám đốc của Cơ quan quốc gia nghiên cứu bệnh sida, Paris) đă phát biểu như vậy.
(LE FIGARO 19/7/2010)
florida80
06-01-2019, 20:52
VIRUS CỦA BỆNH SIDA CHẲNG BAO LÂU NỮA SẼ CÓ LIỆU PHÁP GENE.
Các thuốc kháng siêu vi trùng (antiviraux) chống lại virus của bệnh sida phải chăng một ngày nào đó sẽ được thay thế bởi một liệu pháp gène (thérapie génique ? Đó là hy vọng được dấy lên bởi một công tŕnh nghiên cứu của Hoa Kỳ. Các nhà nghiên cứu đă lấy các tế bào máu trên 4 người bị nhiễm bởi VIH và bị một ung thư máu, hay lymphome, liên kết với bệnh sida. Sau đó họ đă biến đổi một phần nhỏ của những tế bào này bằng cách đưa vào đó những gène ngăn cản sự phát triển của VIH. Sau cùng, các nhà nghiên cứu đă đưa các tế bào này vào lại trong máu của các bệnh nhân. Sau đó, các nhà nghiên cứu đă chứng thực rằng, các triệu chứng của tất cả các bệnh nhân đă được cải thiện và rằng, nơi hai trong số các bệnh nhân này, các tế bào chữa lành bệnh (cellulues guérisseuses) đă tăng sinh. Ngược lại, không có sự bảo đảm về tính hiệu quả của các gène“ thuốc ” này về lâu về dài.
(SCIENCE ET VIE 8/2010)
florida80
06-01-2019, 20:53
NGUỒN GỐC CỦA BỆNH TÂM THẦN PHÂN LIỆT.
Sống trong môi trường đô thị, di dân, tiêu thụ cannabis...Những t́nh huống này có phải là những yếu tố nguy cơ đối với bệnh tâm thần phân liệt, căn bệnh tâm thần gây bệnh cho 1% dân số thế giới ? Lần đầu tiên, một công tŕnh nghiên cứu, được phát động bởi Fondation FondaMental (mạng lưới hợp tác khoa học về sức khỏe tâm thần), sẽ mang lại câu trả lời ở Pháp. Bệnh tâm thần phân liệt, xuất hiện giữa 15 và 20 tuổi, gây nên những ảo giác (hallucination), thường nhất là thính giác, và những ư tưởng mê sảng (idées délirantes), dẫn đến một sự cắt đứt tiếp xúc xă hội (rupture du contact social) và một một sự giảm khả năng xúc cảm (une baisse de l’affect). Theo các nghiên cứu dịch tễ học, “ có một yếu tố di truyền làm dễ (un facteur génétique de prédisposition), mà người ta đă chưa có thể nhận diện được các biến dị ”, BS Andrei Szoke, thuộc bệnh viện Albert-Chenevier (Créteil) và là người đồng phụ trách công tŕnh nghiên cứu, đă giải thích như vậy. Một tính chất dễ bị thương tổn di truyền (vulnérabilité génétique) được biểu hiện trong vài điều kiện môi trường. “ Một đứa trẻ đă lớn lên trong thành phố, sẽ có một nguy cơ hai lần cao hơn phát triển một bệnh tâm thần phân liệt, so với một trẻ của môi trường nông thôn ”, vị thầy thuốc nói tiếp như vậy. Cũng vậy, các dân di tản cũng sẽ bị ảnh hưởng hơn “ có lẽ là do stress gây nên bởi sự đối xử phân biệt ”. Sau cùng, sự tiêu thụ cannabis sẽ nhân lên gấp 2,5 lần nguy cơ xuất hiện của hợp chứng.
Có bao nhiêu lư thuyết, có bấy nhiêu công tŕnh muốn kiểm chứng.“ Chúng tôi sẽ so sánh 150 trường hợp mới trong các thành phố của Val-de-Marne và trong một vùng nông thôn của Puy-de-Dome, với 100 trong số các anh hay chị của họ, ở trong cùng một môi trường và một phần của các gène của họ và với 150 người chứng.Tất cả sẽ trả lời những bảng câu hỏi, và một xét nghiệm máu sẽ xác định những yếu tố di truyền hay nhiễm trùng.” Cũng cuộc điều tra sẽ được tiến hành ở Tây ban Nha, ở Ư, Anh và ở Hoà lan, tất cả được tài trợ bởi Liên Hiệp Châu Âu. Mục tiêu cuối cùng ? “ Hiểu biết tốt hơn nguồn gốc của những bệnh lư này, thiết đặt những biện pháp pḥng ngừa và báo động các nhóm dân và những vùng có nguy cơ.” Cac kết quả sẽ có trong 3 năm nữa.
(SCIENCES ET AVENIR 8/2010)
florida80
06-01-2019, 20:54
SIDA : CÓ THỂ THẮNG ĐƯỢC DỊCH BỆNH NÀY TỪ NAY ĐẾN 20 NĂM NỮA.
Chúng ta đang ở vào năm 2030.Vẫn không có vaccin, nhưng dịch bệnh sida được trừ diệt. Dưới 40 triệu người, trên một dân số thế giới 7 hay 8 tỷ người, sống với VIH, điều này hơi nhiều hơn năm 2010. Và người ta hầu như không c̣n đếm thêm một nhiễm trùng mới nào nữa : nhiễm trùng (bệnh sida) này đă trở thành một bệnh măn tính và dưới vài chục ngàn người chết mỗi năm. Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, trận dịch gây chết người nhất trên thế giới sau cùng có vẻ đă bị đánh bại ! Bằng phép diệu kỳ nào ? Một sự thay đổi triệt căn chiến lược pḥng ngừa, trong ṿng 20 năm, đă hoàn toàn làm thay đổi dữ kiện..
V́ chúng ta chưa phải ở vào năm 2030 nên kịch bản này vẫn là giả tưởng. Nhưng có lẽ không phải là phi hiện thực ! V́ một lư do đúng đắn : thập niên 2000 chấm dứt và chưa bao giờ khả năng một coup d’arrêt đối với dịch bệnh lại gần kề đến thế. Bởi v́, từ ba năm qua tất cả đă thay đổi.
Ta đang chứng kiến một thay đổi paradigme thật sự. Sự thay đổi này có thể được tóm tắt bằng 4 chữ : TASP (Treatment as prevention), nghĩa là điều trị để pḥng ngừa. Một cách rơ nét, điều trị được theo đuổi bởi những người bị nhiễm trùng có một tác dụng pḥng ngừa chống lại sự lan truyền của VIH…và điều đó mở cửa cho một sự kiểm soát dịch bệnh. Trong khi đó, măi cho đến nay, ta vẫn nghĩ rằng chỉ có sự xuất hiện của một vaccin mới có thể dứt điểm căn bệnh và rằng chiến dịch duy nhất chống lại sự bành trướng của dịch bệnh dựa trên túi dương vật (préservatif). Vậy với TASP, đó là một bài diễn văn được nghe rất mới. Đến độ nhân Hội nghị quốc tế tháng 7vừa qua về bệnh sida, quy tụ khoảng 20.000 chuyên gia ở Vienne, người ta đă chỉ nói về điều đó ! Và nhất là, các chuyên gia dịch tễ học và các thầy thuốc hôm nay không e ngại khi xác nhận rằng : từ nay họ có những phương tiện kỹ thuật để dứt điểm virus bằng cách phối hợp những kỹ thuật pḥng ngừa cổ điển với phương pháp mới của TASP. Theo họ, chỉ c̣n việc thực hiện chúng, với điều kiện là phải vượt qua vài chướng ngại vật, đặc biệt là tài chánh.
Cũng như điều thường xảy ra trong khoa học, các tư tưởng mới phải đi qua một chặn đường trong một thời gian nào đó trước khi được công nhận và ư tưởng “ điều trị để pḥng ngừa ” (traitement comme prévention) cũng không ra ngoài quy luật đó. Bởi v́, chính vào đầu năm 2008 mà quan niệm này đă xuất hiện, qua một bài báo được công bố trong một tập sách y học khó hiểu, Le Bulletin des médecins suisses, được công bố bởi một nhóm nhỏ các chuyên gia về VIH, được kính nễ, nhưng không được công chúng biết đến. Thế mà, điều mà bài báo này đưa ra lại hoàn toàn chưa từng có. “ Những người huyết thanh dương tính không bị một bệnh nhiễm trùng bằng đường sinh dục nào khác, nếu theo một điều trị antirétroviral hiệu quả, sẽ không truyền VIH bằng đường sinhdục ”. 3 năm sau, sau khi đă gây nên một cuộc tranh luận kéo dài, cái ng̣i nhỏ được đốt cháy này không ngừng khích động niềm hy vọng : ngày nay, tất cả các chuyên gia trên thế giới đều nhất trí về sự khẩn trương xem xét lại những chiến lược chống lại bệnh sida dưới ánh sáng của TASP.
Phải nói rằng các con số thật hùng hồn. “ Nguy cơ lây truyền tùy thuộc vào lượng virus (charge virale) lưu hành trong cơ thể. Các ARV (antirétroviraux), bởi v́ chúng kiểm soát sự tăng sinh (réplication) của virus đến độ làm cho charge virale không c̣n có thể phát hiện được, sẽ làm giảm một cách đáng kể nguy cơ lây truyền. Trong các kết quả của một công tŕnh nghiên cứu mới đây, sự điều trị gây nên một sự thu giảm 92% nguy cơ lây truyền trong các cặp huyết thanh khác nhau (couple sérodifférent). Một mức độ hiệu quả tương tự với mức độ hiệu quả khi dùng bao dương vật (préservatif) ! ”, Willy Rozenbaum, thầy thuốc chuyên bệnh truyền nhiễm thuộc bệnh viện Saint-Louis (Paris) và chủ tịch của Conseil national du sida đă mô tả như vậy. Hội đồng này, vào tháng tư năm 2009, đă công bố một ư kiến thuận lợi đối với việc sử dụng những điều trị như là một công cụ “doi mới ”. Như thế chiến lược mới nhằm điều trị một số lượng rất lớn những người bị nhiễm trùng để làm giảm lượng virus lưu hành trong cộng đồng, cũng được gọi là “charge virale communitaire” và do đó hạn chế, thậm chí dập tắt hoàn toàn những lây nhiễm mới. Bernard Hirschel, thành viên của nhóm Thụy Sĩ nổi tiếng này, nói thêm : “ Vào năm 1996, việc đưa những thuốc antirétroviraux vào điều trị trùng hợp với một sự hạ những lây nhiễm mới. Nếu không có những điều trị này, sẽ có 50 đến 100% các lây nhiễm nhiều hơn trên thế giới vào năm 2000 ”. Theo ông ta, sự bành trướng của điều trị bởi những thuốc antirétroviraux và tính hiệu quả gia tăng của nó như thế đă làm giảm số những người có khả năng gây lây nhiễm. Và điều này, mặc dầu khoảng chỉ 5 triệu người bị nhiễm trùng trên 33 triệu người trên thế giới thật sự được hưởng điều trị bởi các thuốc antirétroviraux.
florida80
06-01-2019, 20:54
SỰ CẦN THIẾT PHÁT HIỆN NHANH VÀ TỐT.
Và đúng như vậy : để thật sự có hiệu quả, chiến lược TASP phải liên hệ đến tối đa những người bị nhiễm trùng. Điều này hàm ư phải phát hiện họ ! Điều đó xảy ra đúng lúc : những công cụ phát hiện mới hiện có sẵn. Đặc biệt, những trắc nghiệm nhanh cho những kết quả trong không đầy 30 phút. Một trong những xét nghiệm mới nhất, được trắc nghiệm từ một năm nay trong nhiều khoa cấp cứu, cho phép ngay cả thu được một kết quả đáng tin cậy trong một phút ! Tuy nhiên một bémol nhỏ, những xét nghiệm nhanh này chỉ phát hiện những kháng thể xuất hiện trung b́nh 3 tuần sau khi bị lây nhiễm, chứ không phải những kháng nguyên p24, chúng mới thể hiện sự hiện diện của virus ngay vào tuần lễ thứ hai. Thế mà, chính trong thời kỳ nhiễm trùng sơ cấp (primo-infection) này, ngay tuần lễ thứ hai và cho đến tuần lễ thứ tám, trong đó VIH, lợi dụng sự vắng mặt của đáp ứng miễn dịch, đă tăng sinh một cách dễ dàng nhất và do đó nguy cơ lây truyền cao nhất. Trong khi người ta nói chung c̣n không hay biết t́nh trạng huyết thanh của ḿnh... “ Người ta nghĩ rằng trung b́nh, chỉ riêng thời kỳ ngắn ngủi này chịu trách nhiệm 30% các lây nhiễm ”, Geoffrey Garnett, thuộc Imperial College (Luân Đôn) đă đánh giá như vậy. Một con số, theo nhiều công tŕnh nghiên cứu, sẽ lên hơn 50% trong những nhóm người có dịch bệnh rất năng động : nơi những người đồng tính luyến ái hay trong vài nước Châu Phi dưới Sahara, nơi đây tỷ lệ những người trưởng thành bị nhiễm trùng (tỷ lệ lưu hành) xoay quanh 20 đến 25%. “ Các pḥng thí nghiệm do đó làm việc cật lực để chế tạo những xét nghiệm nhanh hiệu năng hơn trong việc phát hiện các primo-infection, François Simon, giám đốc của pḥng xét nghiệm virus học thuộc bệnh viện Saint-Louis đă giải thích như vậy. Và những xét nghiệm này sẽ được thương măi hóa trong những năm rất gần đây ”.
Cuối cùng, việc xuất hiện những phương pháp phát hiện mới này hẳn cho phép phổ cập chiến lược “ trắc nghiệm và điều trị ” (test and treat). Đó là một sự phát hiện được đề nghị một cách hệ thống và những điều trị được cấp càng sớm chừng nào tốt chừng đó cho một số tối đa những người bị nhiễm trùng. Theo Tổ chức y tế thế giới, chiến lược “ phát hiện và điều trị ” này làm giảm rất tích cực số những lây nhiễm mới, thậm chí làm chúng biến mất hoàn toàn.
ĐIỀU TRỊ NGAY CẢ NHỮNG NGƯỜI KHÔNG BỊ NHIỄM TRÙNG !
Vâng, nhưng việc phổ cập các điều trị này liệu thật sự có thể dự kiến khi chúng có tiếng là nặng nề về mặt các tác dụng phụ (bệnh thần kinh, các rối loạn phân bố mỡ) ? Đừng quên là “ từ 3 hay 4 năm nay, những điều trị antirétroviraux đă trở nên đơn giản hơn, hiệu quả hơn và, nhất là, chúng được dung nạp tốt hơn nhiều, chuyên gia virus học Christine Rouziuox đă nhấn mạnh như vậy. Vậy không những có lợi ích tập thể mà c̣n cả cá nhân khi được điều trị rất sớm ”. Trong những nước phát triển, những điều trị mới này đă có sẵn, đó là liệu pháp đầu tiên ba thứ thuốc trong một viên thuốc mỗi ngày, Atripla, được thương măi hóa từ năm 2009 ở Pháp. C̣n hơn thế, chất lượng của các điều trị được cải thiện đến độ một ư nghĩ cách mạng đang nảy mầm nơi các chuyên gia về bệnh sida : không những chỉ cho những thuốc điều trị này cho những người bị lây nhiễm, mà cũng cho chúng nơi những người không bị nhiễm trùng nhưng có nguy cơ bị lây nhiễm nhằm tránh cho họ khỏi bị nhiễm trùng ! Ở đây, các antirétroviraux trở nên những “ boucliers anti-contamination ” (khiên chống lây nhiễm). Chỉ cần uống chúng dưới dạng viên hay sử dụng chúng qua một gel đặt tại chỗ.
Gel này ngày nay là phương pháp tiên tiến nhất. Với sự loan báo tác dụng bảo vệ một phần bằng một gel được đặt trong âm đạo, vào tháng 7 vừa qua, sau hơn 15 năm nghiên cứu không có kết quả. Sản phẩm chứa một antirétroviral, ténofovir, và phải được đặt, tối đa 12 giờ trước đó, rồi 12 giờ sau khi giao hợp. “ Tỷ lệ bảo vệ trung b́nh là 39%, nhưng tỷ lệ này lên đến 54% khi gel được sử dụng : hơn 8 trên 10 ”, những tác giả chính của công tŕnh nghiên cứu, Quarrhaisha và Salim Abdool, thuộc Centre pour le programme de recherche sida ở Nam Phi, đă giải thích như vậy. Tuy nhiên, trước khi được đưa ra cho dân chúng sử dụng, gel sẽ phải được cải thiện, nhất là bằng cách làm gia tăng nồng độ antirétroviral được sử dụng (ở đây 1%) hay bằng cách sử dụng một coctail các thứ thuốc. Một sự cải thiện khả đĩ khác nhằm sử dụng các “ ṿng khuếch tán ” (anneaux diffusants), mà sự thương măi hóa được dự kiến vào năm 2015. Những ṿng này sử dụng một antirétroviral thí nghiệm, dapivitrine, và ưu điểm của chúng là một khi được đặt trong một tháng, chúng sẽ tránh việc quên thuốc.
Về viên thuốc uống mỗi ngày để tránh nhiễm trùng, hay chiến lược “Prep” (prophylaxie pré-exposition : dự pḥng trước khi bị tiếp xúc với virus bệnh Sida), những kết quả đầu tiên hiện có là những kết quả của thử nghiệm quốc tế iPrex. Trong thực tiễn ? Những người có nguy cơ cao tiếp xúc với VIH, nhưng không bị lây nhiễm, uống mỗi ngày một viên thuốc Truvada, phối hợp ténofovir và một thuốc antirétroviral thông thường khác, emtricitabine. Thử nghiệm được thực hiện trên 3000 người đồng tính luyến ái, ở Brésil, ở Equateur, ở Pérou, ở Nam Phi, ở Thái lan và ở Hoa Kỳ. Những phân tích đầu tiên là đáng phấn khởi, với một khả năng bảo vệ gần 40 đến 60%. Vấn đề c̣n lại là phải làm rơi hàng rào ngăn cản về mặt tâm lư trước khi có thể thấy những người huyết thanh âm tính chấp nhận dùng các antirétroviral như aspirine hay thuốc ngừa thai.
Bằng một cách nào đó hàng rào tâm lư này có thể vượt qua nhờ ư tưởng một Prep orale “ đoạn hồi ” (prophylaxie intermittente : uống thuốc pḥng bệnh không phải mỗi ngày mà chỉ vào lúc cần đến), được phát triển bởi vài nhà nghiên cứu. Hoặc uống một viên thuốc vào lúc các giao hợp, ngay trước và ngay sau đó. Jean-Michel Molina, trưởng khoa các bệnh truyền nhiễm của bệnh viện Saint-Louis, Paris, đang chuẩn bị một thử nghiệm sẽ bao gồm nhiều trăm người đồng tính luyến ái nam người Pháp và người Québec. “ Prep đoạn hồi tương ứng tốt hơn với các nhu cầu của người ta, nó có thể làm dễ sự tuân thủ điều trị, được dung nạp c̣n tốt hơn và có một phí tổn thấp. Thử nghiệm sẽ được bắt đầu chẳng bao lâu nữa. ”
florida80
06-01-2019, 20:55
MỘT KỶ NGUYÊN MỚI TRONG ĐẤU TRANH CHỒNG BỆNH SIDA ”
Tất cả những chiến lược này phải chăng một ngày nào đó sẽ được áp dụng khắp nơi trên thế giới ? Vâng, “ có thể bảo đảm một sự tiếp cận điều trị bệnh sida cho toàn thể trong các nước có lợi tức thấp hay trung gian ”, theo báo cáo hàng năm mới đây của Tổ chức y tế thế giới, của Onusida và của Unicef, được công bố ngày 28 tháng 9 vừa qua. 8 nước (Botswana, Cambodge, Croatie, Cuba, Guyanan, Oman, Roumanie và Rwanda), đă đạt được sự tiếp cận điều trị cho toàn thể dân chúng, trong khi 21 nước khác tiến gần đến khả năng này, với một tỷ lệ bảo vệ đi từ 50% đến 80%. Sự gia tăng mạnh nhất được ghi nhận đối với Châu Phi dưới Sahara, với gần 1 triệu bệnh nhân bổ sung được điều trị trong một năm, hoặc một sự gia tăng 1/3. Ngoài ra, một trong những cách lan truyền của VIH hầu như được loại bỏ : sự truyền virus VIH từ mẹ sang con, nhờ điều trị người mẹ. Trong những nước mà sự pḥng ngừa này đă được thực thi, tỷ lệ trẻ em huyết thanh dương tính được làm giảm xuống chỉ c̣n 1%.
Đối với chủ tịch của hiệp hội Aides, Bruno Spire, “ ta có tất cả các phương tiện để làm ngừng dịch bệnh. Cách nay 10 năm, không ai nghĩ được rằng việc cho phép tiếp cận với điều trị ở các nước Phương Nam là có thể dự kiến được. Thế mà từ nay, hon 5 triệu người nhận được điều trị antirétroviral này. ” Đối với Michell Warren, giám đốc của Liên minh thế giới pḥng ngừa VIH, chúng ta “ đang dứt khoát ở trong một kỷ nguyên mới chống lại bệnh sida ”. Dịch bệnh sẽ chấm dứt trong 20 năm nữa ? Tất cả chỉ c̣n là một vấn đề ư chí chính trị và tài chánh. Điều này không phải là không có nghĩa ǵ.
(SCIENCE ET VIE 12/2010)
florida80
06-02-2019, 22:39
THÔNG TIN Y HỌC VỀ BỆNH THOÁI HÓA HOÀNG ĐIỂM DO TUỔI TÁC
(AGE-RELATED MACULAR DEGENERATION (AMD) )
Lynn Ly Tổng Hợp Thông Tin Về Bệnh Thoái Hóa Hoàng Điểm do Tuổi Tác
(Age-Related Macular Degeneration (AMD) )
1/ CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC DƯỢC PHẨM CHỐNG MÙ L̉A
2 dược phẩm tương tự nhau có tác dụng cải thiện thị lực trong bệnh thoái hóa hoàng điểm do tuổi tác (DMLA=dégénérescence maculaire liée à l’age). AVASTIN giá 30 euros mỗi liều. LUCENTIS (thuốc duy nhất được cho phép sử dụng) giá 1200 Euro mỗi liều.
Các nhà nhăn khoa trên toàn thế giới đang đương đầu với một nghịch lư khó tin,đặt ra những vấn để về đạo đức,kinh tế,khoa học trong điều trị bệnh thoái hoá điểm vàng do tuổi tác này.
Hăng bào chế Novartis đă sáng chế một dược phẩm, LUCENTIS,được phép lưu hành ở Pháp từ tháng giêng vừa qua.Thuốc này có khả năng cải thiện thị lực nơi những người bi bệnh thoái hóa hoàng điểm do tuổi tác dạng « ướt »(forme « humide »).Thuốc giá 1200 Euros mỗi liều, cứ mỗi 6 tuần tiêm thuốc vào trong nhăn cầu một lần.AVASTIN ,một dược phẩm của hăng bào chế Roche,lúc đầu được sử dụng cho ung thư đại tràng và được các y sĩ Hoa Kỳ thử nghiệm trong bệnh thoái hóa hoàng điểm do tuổi tác và thuốc được nhận thấy có cùng hiệu quả trong điều trị DMLA lúc được tiêm vào trong nhăn cầu.Từ vài tháng nay Avastin đă được sử dụng rất rộng răi bởi các nhà nhăn khoa trên toàn thế giới để điều trị bệnh thoái hoá điểm vàng,với giá 30 Euros mỗi liều mặc dầu thuốc không được giấy phép lưu hành để điều trị bệnh này và có thể sẽ không bao giờ được phép cả.
Phải chăng là đạo đức khi phải kê toa một thuốc rất tốn kém trong khi đă có sẵn một thuốc khác 40 lần giá rẽ hơn nhưng lại không được cho phép lưu hành? Phải chăng là đúng luật khi phải cấp một thuốc giá rẻ nhưng không được phép lưu hành trong khi thuốc kia lại được phép bán ra thị trường nhưng giá lại rất mắc ? Ở Pháp, Cơ quan an toàn các sản phẩm y tế vừa nhóm họp một nhóm công tác về chủ đề này, được chủ tŕ bởi giáo sư Bahram Bodaghi (Pitié-Salpetrière, Paris). Ở Hoa Kỳ, Cơ quan quản lư thực phẩm và dược phẩm cũng đă phát động một công trinh nghiên cứu để so sanh 2 dược phẩm này.
Ở Pháp,bệnh thoái hoá điểm vàng do tuổi tác gây bệnh cho một triệu người với những mức độ nặng nhẹ khác nhau.Người ta phân biệt hai dạng : dạng teo (forme atrophique) không điều trị được và dạng ướt (forme humide) với đặc điểm tăng sinh các tân huyết quản sau vơng mạc,là nguyên nhân của xuất huyết và mù loà.Dạng này gây bệnh cho 30.000 đến 50.000 người.
Để chống lại sự tăng sinh các tấn huyết quản,cách nay vài năm,hai phương pháp điều trị đă được sử dụng để điều trị bệnh DMLA, đặc biệt là bởi nhóm của G.S Gabriel Coscas (Centre Hospitalier intercommunal de Créteil) : photocoagulation các huyết quản bởi laserrồi photothérapie dynamique với Visudyne, cho phép ổn định thị giác hơn .
CẤU TRÚC TƯƠNG TỰ :
Trong những năm 1990,một nhà nghiên cứu Hoa kỳ Judah Folkman đă đưa ra ư tưởng rằng bằng cách tấn công vào các VEGF(các yếu tố tăng trưởng kích thích các huyết quản),có thể phá hủy sự phân bố mạch (vascularisation) của một khối u và do đó phá hủy ngay chính khối u đó. Khi đó Hăng Bào Chế Genetech hiệu chính các kháng thể chống VEGF và bán 2 bằng sáng chế.Một cho Hăng Roche sản xuất Avastin, một phân tử chống sinh mạch máu (molécule antiangiogénique) chống ung thư ruột già,c̣n bằng kia th́ bán cho Hăng Novartis thương măi hoá cho châu Âu dược phẩm Lucentis, một phân tử chống sinh mạch máu chống DMLA. Cả hai thuốc đều có cấu trúc tương tự.
Vào tháng 10 năm 2006,một thử nghiệm trên 500 bệnh nhân được công bố trong New England Journal of Medicine đă kết luận rằng Lucentis,tiêm vào trong nhăn cầu cứ mỗi 6 tuần sẽ ngăn cản sự hủy hoại thị giác và cải thiện thị lực.Năm ngoái thuốc này đă được cho phép sử dụng ở Hoa Kỳ với giá 2000 dollars mỗi liều lượng,rồi ở Châu Âu tháng giêng 2007 với giá 1200 Euro.Một thuốc thứ ba,Macugen (Fitzer),một thuốc chống sinh mạch máu khác xuất hiện trên thị trường Pháp tự 2006 với giá 687 Euro.
Cách nay hai năm, một nhà nhăn khoa Hoa Kỳ bị bệnh DMLA đă nhận thấy sự cải thiện rất rơ thị giác của ḿnh sau khi điều trị ung thư trực tràng với Avastin bằng đường tĩnh mạch.Thông tin này được lưu hành mau chóng và Avastin chich vào nhăn cầu tức thời được sử dụng một cách “ hoang dă ” tại Hoa Kỳ trên những bệnh nhân đang bị mất thị giác,vào luc đó Lucentis chưa được lưu hành.Hàng chục nghiên cứu tiền phong thực hiện trên hàng trăm bệnh nhận đă được công bố với những kết quả đáng phấn khởi như đối với Lucentis..
florida80
06-02-2019, 22:41
SỰ TIÊU THỤ CÁ NGĂN NGỪA VÀI BỆNH MÙ L̉A.
Những người tiêu thụ các oméga-3 sẽ giảm nguy cơ bị thoái hóa hoàng điểm do tuổi tác (DMLA : dégénérescence maculaire liée à l’âge)
Ở Pháp, sự thoái hóa hoàng điểm do tuổi tác gây bệnh, ở những mức độ khác nhau, cho hơn 500.000 người. Sự thoái hóa của vùng trung tâm vơng mạc này được thể hiện bởi một sự giảm thị lực trung tâm, có thể dẫn đến mù ḷa sau nhiều năm tiến triển. Mặc dầu các nguyên nhân của căn bệnh nghiêm trọng và thường xảy ra này vẫn không được biết đến, nhưng rơ ràng rằng một vài yếu tố làm dễ căn bệnh này như tuổi tác và thuốc lá. Sự tiếp xúc quá mức với ánh sáng cũng được cho là có liên hệ, nhưng không có chứng cớ tuyệt đối.
Vậy người ta có thể bảo vệ chống lại căn bệnh này hay không ? Các nhà nghiên cứu Úc đại lợi vừa khảo sát vấn đề này, và kết luận trong một công tŕnh nghiên cứu được công bố tuần này trong Archives of Ophtalmology, rằng những người có một chế độ ăn uống giàu cá hay ăn bổ sung những thức ăn có oméga 3 sẽ có một nguy cơ bị DMLA ít hơn.
Các oméga-3 là những chuỗi acide béo không bảo hoà mà người ta t́m thấy nhiều nhất trong cá mỡ : cá hồi (saumon), cá thu (maquereau), cá trích (hareng)…, trong cây cai dầu (colza), các quả hồ đào. Vào đầu những năm 1990, các chất mỡ này được gán cho nhiều tác dụng tốt, không phân biệt đúng hay giả.
Mặc dầu nhiều nghiên cứu đă phát hiện một nguy cơ bị tai biến tim mạch ít hơn nơi những người tiêu thụ nhiều cá, nhưng những thử nghiệm pḥng ngừa cơn đau tim bằng oméga-3 đă hơi gây thất vọng hơn. Chính trong bối cảnh này mà các thầy thuốc Úc đại lợi ở Melbourne đă quyết định xem xét một cách hoàn toàn, mối liên hệ giữa một chế độ ăn uống giàu cá hay oméga-3 và nguy cơ bị bệnh thoái hóa hoàng điểm do tuổi tác (DMLA). Để thực hiện điều này, họ đă xem lại 9 công cuộc điều tra được công bố trong 20 năm qua về chủ đề này, và đă sưu tập thành một phân tích méta trên 88.974 người.
Những kết quả của công tŕnh nghiên cứu này chứng tỏ rằng những người tiêu thụ nhiều oméga-3 nhất, dầu đó là cá hay các bổ sung thực phẩm, có 38% nguy cơ bị một thoái hóa hoàng điểm do tuổi tác (DMLA) ít hơn, so sánh với những người tiêu thụ ít nhất. Như vậy, sự việc ăn cá hai lần mỗi tuần liên kết với một nguy cơ bị DMLA thấp hơn.
CẦN NHỮNG THỬ NGHIỆM ĐIỀU TRỊ
“Phân tích của chúng tôi gợi ư rằng sự tiêu thụ cá và các thức ăn giàu oméga-3 được liên kết với một nguy cơ bị DMLA ít hơn”, các tác giả của công tŕnh nghiên cứu đă kết luận như vậy. Như vậy có phải ăn cá hay dùng oméga-3, ngay cả khi chúng ta vẫn khỏe mạnh, để ngăn ngừa hoặc kềm hăm sự thoái hóa này hay không?
Các tác giả tỏ ra thận trọng không muốn bước thêm bước nữa, đánh giá rằng trước khi có những khuyến nghị chính thức, th́ bây giờ phải thực hiện, không phải là những điều tra quan sát như đă làm cho từ trước cho đến nay, mà phải thực hiện những thử nghiệm điều trị quy mô lớn. Các thử nghiệm này nhằm so sánh tiến triển của thị lực của những người dùng oméga-3 so với những người không dùng chất bổ sung này.
Bằng cách nào các oméga-3 làm giảm nguy cơ bị DMLA? Theo Elaine Chong, tác giả chính của công tŕnh nghiên cứu, các acides béo này là một thành phần sinh tử của vơng mạc và một sự thiếu hụt có thể sẽ đóng một vai tṛ trong việc gây ra bệnh này. Cũng phải biết rằng vào tháng 2 năm 2008, các thầy thuốc Úc Đại Lợi của đại học Sidney đă chứng tỏ rằng những người bị DMLA cũng có một nguy cơ tim mạch gia tăng. Điều này khiến các nhà nghiên cứu nghĩ rằng cùng những yếu tố ảnh hưởng lên tim (huyết áp cao, cholestérol máu cao, nghiện thuốc lá...) cũng gây thương tổn ở mắt và có liên hệ trong sự phát sinh bệnh DMLA. Như thế, tác dụng thuận lợi do oméga-3 lên tim cũng có thể được giải thích ở mắt.
Hiện nay, đó chỉ là một giả thuyết.Trong tất cả mọi trường hợp, không ǵ có thể ngăn cản chúng ta ăn cá hai lần mỗi tuần, hoặc nhiều hơn nếu trái tim của chúng ta muốn như vậy, ngoại trừ các phụ nữ có thai.
(LE FIGARO 11/6/2008)
florida80
06-02-2019, 22:42
VITAMIN B CÓ THỂ LÀM HẠ THẤP NGUY CƠ BỊ BỆNH MẮT
Cho vitamin B bổ sung có thể làm giảm nguy cơ bị bệnh thoái hóa hoàng điểm do tuổi tác (age-related macular degeneration), ít nhất nơi các phụ nữ bị bệnh tim mạch hay có nguy cơ bị bệnh này. thoái hóa hoàng điểm, một bệnh phá hủy vùng trung tâm của vơng mạc, là nguyên nhân dẫn đầu của sự mất thị giác nghiêm trọng nơi những người trên 50 tuổi.
Trong một công tŕnh nghiên cứu, được công bố ngày 23/2 trong The Archive of Internal Medicine American, các nhà nghiên cứu đă theo dơi 5.205 người phụ nữ hoạt động trong ngành y tế, có bệnh tim mạch hay 3 hoặc nhiều hơn các yếu tố nguy cơ tim mạch. Các phụ nữ này được chia thành hai nhóm : nhóm nhận một placebo và một nhóm nhận một phối hợp acide folique và các vitamine B6 và B12. Sau một thời gian theo dơi trung b́nh 7,3 năm, các nhà nghiên cứu đă nhận thấy rằng những phụ nữ uống vitamin B có nguy cơ bị thoái hóa hoàng điểm mức độ quan trọng được thu giảm. Điều này có thể là do các vitamins B làm giảm nồng độ homocysteine (một acide aminé) trong máu ; chất này có can dự trong sự mất thị giác.
Những tác giả lănh đạo công tŕnh, B.S William G.Christen, một phó giáo sư y khoa của Havard, đă từ chối khuyến nghị sử dụng vitamin B. Ông nói cần phải có những công tŕnh nghiên cứu khác nữa.
(INTERNATIONAL HERALD TRIBUNE 5/3/2009)
florida80
06-02-2019, 22:42
CÁ, HỒ ĐÀO VÀ OLIVE CHỐNG BỆNH THOÁI HÓA ĐIỂM VÀNG DO TUỔI TÁC (DMLA).
Việc ǵn giữ một thị giác tốt cũng có thể phụ thuộc vào chế độ ăn uống. Trong les Archives d’Ophtalmologie, một tạp chí của Hoa Kỳ, được công bố hôm nay, các thầy thuốc người Úc của đại hoc Sidney cho thấy rằng một chế độ ăn uống giàu hồ đào (noix), cá hay dầu olive, làm giảm nguy cơ bị thoái hóa điểm vàng do tuổi tác (DMLA : dégénérescence maculaire liée à l’âge). Hiện nay, ở Pháp, sự biến đổi thị giác trung tâm này cùa vơng mạc tác động lên 500.000 người, ở những mức độ khác nhau. Ngược lại, những axít béo được gọi là trans (những chất béo thực vật được bảo ḥa bởi một phương thức công nghiệp để cải thiện sự tiêu thụ chúng) có một tác dụng có hại lên thị giác. Hiện nay, ở Pháp cũng như trong những nước kỹ nghệ hóa khác, DMLA là nguyên nhân chính của thị lực kém (malvoyance) nơi những người trên 65 tuổi. Những yếu tố nguy cơ dĩ nhiên là tuổi tác, cũng như tố bẩm di truyền (prédisposition génétique) và hút thuốc lá.
Để đánh giá mối liên hệ giữa chế độ ăn uống và DMLA, các nhà nghiên cứu người Úc đă quan tâm đến chế độ ăn uống, và đặc biệt là sự tiêu thụ mỡ, của 2454 người tuổi hơn 65, từ năm 1992 đến 1994 và đă chụp h́nh vơng mạc. 10 năm sau, các kết quả cho thấy rằng những người ăn cá, ít nhất một lần mỗi tuần (nhưng cũng ăn hồ đào và dầu olive) có tỷ lệ bị DMLA 30% thấp hơn. Sự tiêu thụ càng quan trọng th́ nguy cơ càng ít cao.
Một công tŕnh nghiên cứu thứ hai, được công bố trong cùng tạp chí, đă kết luận rằng một sự tiêu thụ quá mức axít trans (hiện diện trong viennoiserie công nghiệp, biscuit và vài món ăn tiền chế khác) làm gia tăng nguy cơ bị DMLA.
Những công tŕnh nghiên cứu này, nếu được xác nhận, chứng tỏ một cách rơ ràng một mối liên hệ giữa chế độ ăn uống và sự biến đổi vơng mạc do bệnh DMLA.
(LE FIGARO 12/5/2009)
florida80
06-02-2019, 22:43
ACIDE FOLIQUE VÀ VITAMINE B VÀ SỰ THOÁI HÓA ĐIỂM VÀNG.
Cho bổ sung hàng ngày acide folique, pyridoxine và cyanocobalamine có thể làm giảm nguy cơ bị thoái hóa điểm vàng do tuổi tác (DMLA : dégérérescence maculaire liée à l’âge).
Ngoài việc ngưng thuốc lá, người thầy thuốc đến nay ít có lời khuyên để cho bệnh nhân nhằm ngăn ngừa chứng thoái hóa điểm vàng do tuổi tác (DMLA). Những dữ kiện dịch tễ học đă cho thấy một mối liên hệ trực tiếp giữa những nồng độ homocystéine và nguy cơ bị DMLA, tuy nhiên không chứng minh được rằng sự giảm của nồng độ của homocystéine có thể có một tác dụng thuận lợi.
William G. Christen và các cộng sự viên (Brigham và Women’s Hospital, Boston) đă thực hiện, về chủ đề này, một công tŕnh nghiên cứu nơi những phụ nữ có nguy cơ tim mạch cao. 5.205 người tham dự, có tuổi 45 hoặc hơn, và bị một bệnh tim mạch vốn đă có trước đây hay mang hai hoặc ba yếu tố nguy cơ.
Sự theo dơi đă kéo dài 7,3 năm. Trong suốt thời kỳ này, 55 trường hợp DMLA đă được chẩn đoán trong nhóm can thiệp (nhận các vitamine), so với 82 trong nhóm placebo. Vậy, việc sử dụng những chất bổ sung dường như mang lại một bảo vệ chống lại sự xuất hiện của căn bệnh có liên quan với tuổi tác này. Tuy nhiên, người ta chưa thể xác nhận rằng khả năng bảo vệ này đúng là do sự hạ của các nồng độ homocystéine.
(LE GENERALISTE 16/4/2009)
florida80
06-02-2019, 22:44
BỆNH THOÁI HÓA ĐIỂM VÀNG : 3 GENES LÀ NGUYÊN NHÂN CỦA BỆNH.
Tiến bộ lớn và mới nhất trong bệnh thoái hóa điểm vàng liên quan với tuổi tác (DMLA : dégénérescence maculaire liée à l’âge) là khám phá 3 gène có liên quan trong sự xuất hiện của bệnh này. “ Bây giờ chúng ta biết được vai tṛ quan trọng của tố bẩm di truyền (prédisposition génétique), GS José-Alain Sahel đă xác nhận như vậy. Từ nay đến vài năm nữa, bằng một xét nghiệm máu ta sẽ có thể xác định một nguy cơ gia tăng, thiết đặt một sự theo dơi sớm và một biện pháp pḥng ngừa bằng những quy tắc chế độ ăn uống. Nhất là, sự giáo dục bệnh nhân có nguy cơ sẽ tạo khả năng điều trị rất sớm ! ”. Bệnh thoái hóa điểm vàng do tuổi tác (DMLA) khởi đầu bằng một sự tích tụ các mảnh và những tế bào chết trong các cơ quan nhận cảm ánh sáng (photorécepteurs) của vơng mạc và các mô nâng đỡ. Vào một giai đoạn tiến triển, sự đổi mới của những cơ quan cảm thụ ánh sáng không c̣n thực hiện được nữa và bệnh nhân mất thị giác trung ương (vision centrale). Ở Pháp, đó là một vấn đề y tế công cộng thật sự : 1,5 triệu người bị bệnh này và hơn 200.000 người bị tật nguyền nặng. Điều đáng sợ nhất của các bệnh nhân là t́nh trạng phụ thuộc (dépendance), bởi v́ DMLA có thể xảy ra cả hai bên mắt. “ Chúng tôi trấn an các bệnh nhân của chúng tôi bằng cách nói với họ rằng họ sẽ luôn luôn vẫn c̣n thị giác ngoại biên (vision périphérique), mặc dầu trung tâm của vơng mạc bị thương tổn, và rằng họ sẽ phải học sử dụng thị giác ngoại biên này để bù trừ phần nào phế tật ”, GS José-Alain Sahel đă giải thích như thế. Có hai dạng tiến triển : dạng ướt (forme humide), có thể xảy ra rất đột ngột, được đặc trưng bởi sự tạo thành những mạch máu mới (néovaisseaux), và dạng khô (forme sèche), trong đó những cơ quan nhận cảm ánh sáng bị teo di và biến mất dần dần. “ Tần số mắc bệnh trung b́nh là 1% vào lúc 55 tuổi, 10% vào lúc 65 tuổi, 25% vào lúc 75 tuổi và 60% vào lúc 90 tuổi, GS José-Alain Sahel đă xác nhận như vậy. Với sự kéo dài tuổi thọ, người ta dự kiến tăng gấp đôi những con số này vào năm 2050. ” Những triệu chứng đầu tiên được biểu hiện bởi những vấn đề thích nghi đối với sự thay đổi ánh sáng. Hai dấu hiệu phải khiến đi thăm khám càng sớm càng tốt : một vết cố định (une tache fixe), ổn định trong thị trường, hay một sự biến dạng các h́nh ảnh.
MỘT THĂM KHÁM VƠNG MẠC, TỪNG TẾ BAO MỘT
Ở Quize-Vingts, nhóm của GS Sahel thuộc một trong những nhóm có hiệu năng nhất trong lănh vực chẩn đoán DMLA : “ Từ tháng giêng năm 2009, chúng tôi sử dụng một kỹ thuật thiên văn (technique d’astronomie) cho phép nh́n thấy từng tế bào nhận cảm ánh sáng (cellule photoréceptrice) của vơng mạc.Nhờ kỹ thuật này và nhờ những tiến bộ của các hệ thống như chụp lớp quang học (tomographie optique), các chuyên gia chẳng bao lâu nữa sẽ có thể quyết định điều trị theo các tiêu chuẩn khách quan và rất là chính xác. Những tiêu chuẩn này cũng sẽ cho phép họ đánh giá tính hiệu quả của điều trị với một chất lượng chưa từng có. Hăy tưởng tượng xem các thầy thuốc ngoại thần kinh sẽ hạnh phúc biết bao nếu họ có thể quan sát từng tế bào thần kinh một ! ”. Trước giai đoạn đặc biệt này, các kỹ thuật chẩn đoán đă hưởng rộng răi các tiến bộ công nghệ học. Thí dụ từ 3 năm qua, các bệnh nhân có thể được phát hiện nhờ các h́nh chụp đơn giản của đáy mắt.
ĐIỀU TRỊ DẠNG ƯỚT (FORME HUMIDE) : MỘT SỰ CẢI THIỆN NGOẠN MỤC.
Một giai đoạn quan trọng đă được vượt qua trong những năm qua với sự xuất hiện của các anti-VEGF, các tác nhân chống sinh mạch (antiangiogénique), ngăn cản sự tạo thành các huyết quản mới trong vơng mạc và giới hạn sự phù nề. Các loại thuốc này (mà đầu đàn là ranibizumab) là rất có hiệu quả khi chúng được tiêm sớm vào trong mắt mỗi tháng. “ Trong 90% các trường hợp, ta quan sát thấy một sự ổn định của căn bệnh, và trong hơn 10%, một sự cải thiện nhỏ, GS Sahel đă xác nhận như vậy. Kỹ thuật này đă là có tính cách mạng bởi v́, trước đây, với các kỹ thuật bằng laser và quang động (techniques au laser et photodynamiques), chỉ dưới 20% các bệnh nhân được ổn định mà thôi. Những bệnh nhân khác đánh mất thị giác trung ương. Không c̣n có thể đọc cũng như nhận diện các gương mặt nữa, bị cản trở không thể đi ra đường, họ chịu một phế tật khủng khiếp ! Sự thay đổi tiên lượng này tuyệt vời.” Những nghiên cứu đang được tiến hành để cải thiện thêm nữa chất lượng của các bệnh nhân : người ta đang nghiên cứu chế tạo các loại thuốc giọt có tác dụng kéo dài (được sử dụng mỗi 6 tháng).
NHỮNG THỬ NGHIỆM ĐÁNG PHẤN KHỞI ĐỐI VỚI DẠNG KHÔ.
“ Tiến bộ lớn, GS Sahel đă giải thích như vậy, có liên quan đến các giai đoạn sớm mà ta có thể làm chậm tiến triển của bệnh lại nhờ một cocktail các chất chống oxy hóa (oxydants), làm tăng cường sự hóa sắc tố của vơng mạc. Nhưng các nghiên cứu đang tiến triển : các nhóm nghiên cứu, trong đó có nhóm của chúng tôi, đang trắc nghiệm hai loại thuốc mới. Một vài loại thuốc nhằm giới hạn sự tích tụ của các chất đọng (dépôts) trong vơng mạc (kháng vitamine A), những chất khác phong bế phản ứng viêm (các chất điều biến của các complément). Những thử nghiệm này, ở giai đoạn 2, là đáng phấn khởi. Sẽ c̣n phải chờ đợi những kết quả của giai đoạn 3 rồi mới phát biểu được.”
Đối với những người mà bệnh ở một giai đoạn tiến triển và rất bị trở ngại do mất thị giác trung ương, chúng tôi phát triển société Essilor des lunettes mang các caméra nhỏ xíu cho phép lúc nh́n chiếu các h́nh ảnh được phóng đại trong những vùng ngoại biên mà bệnh nhân c̣n thấy được. Những prototype đầu tiên đă gần như sẵn sàng. Các trung tâm cải tạo đă được thành lập để dạy cho những bệnh nhân phế tật sử dụng tốt hơn đôi mắt của họ. Ở Viện thị giác, chúng tôi đang hiệu chính đủ loại công nghệ học nhằm cải thiện chất lượng sống, ví dụ một GPS sẽ chỉ rơ rất chính xác cho người sử dụng vị trí, môi trường của ḿnh.
(PARIS MATCH 5/1-1/1/2009).
florida80
06-02-2019, 22:44
BỆNH THOÁI HÓA ĐIỂM VÀNG DO TUỔI TÁC : NHỮNG PHƯƠNG TIỆN PH̉NG NGỪA BỆNH.
Tất cả chúng ta không b́nh đằng trước bệnh bệnh thoái hóa điểm vàng do tuổi tác (DMLA : dégénérescence maculaire liée à l’âge). Một vài người có nguy cơ hơn phát triển bệnh này v́ có những yếu tố tố bẩm (facteurs de prédisposition). Kiến thức chỉ có lợi ích nếu ta có thể tác động ở thượng nguồn và đây chính là trường hợp như vậy.
Có các gène tố bẩm của bệnh thoái hóa điểm vàng do tuổi tác (DMLA), trong đó gène thứ ba vừa được nhận diện ở CHU de Créteil, và vài gia đ́nh có nhiều thành viên bị bệnh. Có một người anh/em hay chị/em bị bệnh, nhân gấp 4 lần nguy cơ, một ngày nào đó, bị bệnh thoái hóa điểm vàng do tuổi tác này. Tuy vậy, sự phát triển các trắc nghiệm di truyền (test génétique) không là một ưu tiên, bởi v́ các thầy thuốc nhăn khoa đă biết rằng một người sẽ có nguy cơ mắc phải bệnh DMLA, nếu người này có những tiền sử gia đ́nh, một con mắt đầu tiên bị bệnh, nếu người này hút thuốc (nguy cơ được nhân lên gấp 4), nếu béo ph́ (nguy cơ nhân lên gấp đôi), hay lại nữa, nếu thăm khám đáy mắt vào lúc 55 tuổi đă cho phép phát hiện sự hiện diện của những dấu hiệu báo trước.
“ Như vậy, một hoàng điểm (macula) hoàn toàn b́nh thường ở lứa tuổi này được thể hiện bởi một nguy cơ rất thấp (0,5%) phát triển một DMLA trong 5 năm đến, trong khi nếu hoàng điểm đă có những dấu hiệu báo trước, nguy cơ sẽ chuyển lên 50% sau 5 năm và ngay cả 75% sau 10 năm, GS Souied đă xác nhận như vậy.
TẦM QUAN TRỌNG CỦA CHẾ ĐỘ ĂN UỐNG.
Khi người ta có một profil nguy cơ, điều đó không muốn nói rằng nhất thiết là ta sẽ phát triển bệnh. Nhưng ta có thể làm giảm nguy cơ này nhờ những biện pháp pḥng ngừa, bắt đầu bằng chào vĩnh biệt thuốc lá và sự làm mất các kilo bị dư thừa. “ Chế độ ăn uống của chúng ta cũng có ảnh hưởng nhiều. Như là một công tŕnh nghiên cứu đă cho thấy rằng vài chất chống oxy hóa làm giảm 25% xác suất, đối với những người có nguy cơ cao, phát triển một DMLA trong 5 năm. Một ảnh hưởng không phải là nhỏ ”, BS Benzacken đă nhận xét như vậy. Đó chủ yếu là lutéine và zéaxanthine, hai caroténoide tập trung ở vơng mạc để bảo vệ nó. Để có kết quả tốt, ta phải có 6mg mỗi ngày. Các nhu cầu hàng ngày của chúng ta có thể được đảm bảo bằng cách tiêu thụ 5 suất trái cây và rau xanh, nhưng với điều kiện lựa chọn chúng trong số những trái cây và rau xanh chứa nhiều các chất này nhất : các rau xanh có lá xanh đậm, chou hay épinard, nhưng cũng brocolis, các petits pois, các poivrons màu da cam, bắp, kiwis hay nho.
Chất dinh dưỡng khác hữu ích : các axít béo oméga 3, rất có can dự trong sự vận hành chức năng tốt của các tế bào của vơng mạc. Người ta t́m thấy chúng trong các loài cá béo của những vùng biển lạnh : saumon, sardine, maquereaux, harengs. “ Tiêu thụ những con cá này 3 đến 4 lần mỗi tuần có thể làm giảm 1/3 nguy cơ bị DMLA ”, BS Benzacken đă nhấn mạnh như vậy.
Sau cùng, các chất chống oxy hóa (vitamine C, E, kẽm) cũng là những ứng viên tốt bởi v́ chúng ngăn cản những phản ứng oxy hóa dẫn đến sự lăo hóa sớm của những tế bào của vơng mạc. Thế có nên sử dụng tất cả bằng cấp bổ sung ? Một câu hỏi hay. Một cơng tŕnh nghiên cứu đang được tiến hành, nhưng kết quả sẽ chỉ được biết trong vài năm.
(LE FIGARO 8/3/2010)
florida80
06-02-2019, 22:45
SỰ MÙ L̉A : HƯỚNG VỀ NHỮNG ĐIỀU TRỊ MỚI CHỐNG SỰ THOÁI HÓA ĐIỂM VÀNG.
Các loại thuốc dễ sử dụng hơn được dự kiến từ nay đến dưới 5 năm.
OPHTALMOLOGIE. Là nguyên nhân dẫn đầu của kém thị lực (malvoyance) của các lăo niên, bệnh thoái hóa điểm vàng do tuổi tác (DMLA : dégérérescence maculaire liée à l’âge) gây bệnh cho hơn 1 triệu người Pháp. Và con số này sẽ tăng gấp đôi từ nay đến 2030. Trong căn bệnh này, vùng trung tâm của vơng mạc (macula : hoàng điểm) là nơi của một quá tŕnh viêm, với những phản ứng nối tiếp nhau (réaction en cascade). Có bao nhiêu phân tử khác nhau liên hệ vào trong căn bệnh này, th́ có bấy nhiêu mục tiêu tiềm tàng cho những điều trị của ngày mai.
Có thể có hai loại tiến triển. Loại tiến triển đầu tiên dẫn đến một sự phá hủy rất chậm của những tế bào vơng mạc (thể khô của bệnh, thường gặp nhất). Và loại tiến triển thứ hai, dẫn đến sự tăng sinh hỗn loạn của các mạch máu mới (néovaisseaux) (thể ướt), do sự sản xuất của các yếu tố tăng trưởng (VEGF). Khi những tân huyết quản này phát triển ngay trước hoàng điểm, sự đánh mất thị lực trung tâm (vision centrale) có thể xảy ra nhanh chóng. Vậy đó là một cấp cứu nhăn khoa. Vấn đề : DMLA vẫn không có triệu chứng trong một thời gian lâu và khi những triệu chứng điển h́nh của bệnh xuất hiện (các đường thẳng dường như lượn sóng) th́ các tân huyết quản đă thắng thế.
“ Chính v́ thế mà người ta khuyên thăm khám thầy thuốc nhăn khoa ngay ở tuổi 50 để thực hiện một thăm khám đáy mắt phát hiện bệnh (un fond’oeil de dépistage), GS Eric Souied (trưởng khoa mắt, CHI Créteil) và BS Laurent Benzacken (trưởng khoa mắt, CHU Aulnay-sous-Bois) đă nhấn mạnh như vậy. Trong trường hợp có những dấu hiệu thương tổn ở hoàng điểm, khám đáy mắt được bổ sung bởi chụp mạch (angiographie) để xem các tân mạch máu có thể xảy ra và nhất là bởi một tomographie par cohérence optique (OCT). Thăm khám này, v́ cho phép thấy tất cả các lớp của vơng mạc, nên có thể phát hiện những thương tổn sớm. Như thế có thể hành động trước khi thị giác bị ảnh hưởng.”
Những điều trị hiện nay (anti-VEGF) ức chế sự tiết của các yếu tố tăng trưởng (VEGF) và do đó ức chế sự tăng sinh của các tân mạch máu không được mong muốn. Các thuốc này rất có hiệu quả với điều kiện can thiệp trước khi các tế bào vơng mạc bị chết. Dầu chúng có tính chất cách mạng như thế nào đi nữa, tuy nhiên các anti-VEGF đặt ra hai vấn đề. Một mặt, chúng phải được tiêm vào bên trong nhăn cầu, với một nguy cơ nhiễm trùng nặng nhưng hiếm xảy ra. Và, mặt khác, chúng rất đắc (1290 Euro đối với mũi tiêm Lucentis, thuốc điều trị chuẩn). Thế mà, cần phải tiêm nhiều lần mỗi năm.
Để làm giảm phí tổn mà không đánh mất tính hiệu quả, khuynh hướng hiện nay là gia tăng các kiểm tra (một lần mỗi tháng) nhằm chỉ tiêm thuốc khi điều đó tỏ ra cần thiết. Phương thức này đă cho phép làm giảm số các mũi tiêm toàn bộ được thực hiện đồng thời giữ một tính hiệu quả rất tốt của điều trị. Mặt khác, theo yêu cầu của Bộ y tế và Afssaps (Agence française de sécurité sanitaire des produits de santé), nhóm nghiên cứu của GS Souied tham gia vào một công tŕnh nghiên cứu so sánh tính hiệu quả của Avastin với tính hiệu quả của Lucentis. B́nh thường, Avastin là một thuốc để điều trị ung thư đại tràng, nhưng người ta nhận thấy rằng nó cũng cho những kết quả tốt trong DMLA : vả lại, chinh trong lúc điều trị các bệnh nhân bị đồng thời hai bệnh lư này mà các thầy thuốc đă nhận thấy như vậy. Thế mà phí tổn của Avastin chỉ khoảng 30 Euro một mũi tiêm. Tuy nhiên hiện nay Aventis không có được giấy phép bán ra thị trường đối với chỉ định này, v́ vậy công tŕnh nghiên cứu đang được thực hiện mà những kết quả sẽ được biết trong 3 năm nữa.
Tất cả đầu tư hiện nay là t́m thêm những loại thuốc khác có khả năng tác dụng ở những mức khác và dễ cho thuốc hơn. Khoảng gần một chục loại thuốc hiện được đưa vào trong các công tŕnh nghiên cứu. Vậy từ nay đến năm 2015, sẽ xuất hiện nhiều loại thuốc, trước hết dưới dạng tiêm, rồi có lẽ dưới dạng thuốc nhỏ mắt hay implant nhăn cầu, có khả năng cấp chừng ít một liều lượng của hoạt chất. Những thuốc này có thể được liên kết với các anti-VRGF đă hiện hữu và như thế tăng gấp mười tính hiệu quả của chúng. “ Chúng ta cũng đă t́m thấy những chất chỉ dấu di truyền (marqueurs génétiques) tiên đoán mức độ nghiêm trọng của bệnh. Vậy, trước mắt, chúng ta sẽ có khả năng nói trước bệnh nhân nào sẽ là những người đáp ứng tốt hay xấu đối với các điều trị và do đó thích ứng thái độ điều trị của chúng ta ”, BS Souied đă xác nhận như vậy.
C̣n lại dạng khô (forme sèche) của bệnh này, măi đến nay là người bà con nghèo của DMLA v́ lẽ vào lúc này không có một điều trị nào để ngăn chặn nó. Lại nữa, các loại thuốc c̣n đang được đánh giá. Nhằm mục đích ngăn cản sự chết sớm của các tế bào vơng mạc, các thuốc loại này là một đường hướng nghiên cứu đầy hứa hẹn, với những thuốc đầu tiên sẽ xuất hiện trong khoảng một chục năm nữa.
(LE FIGARO 8/3/2010)
florida80
06-02-2019, 22:45
NHỮNG CHẤT BỔ SUNG THỨC ĂN CÓ GIÚP NGĂN NGỪA VÀ ĐIỀU TRỊ BỆNH THOÁI HÓA ĐIỂM VÀNG DO TUỔI TÁC (DMLA) ?
GS Catherine Creuzot-Garcher
Chef du service d’ophtalmologie CHU Dijon
et Laboratoire Œil et Nutrition Inra-Dijon.
Vơng mạc, và đặc biệt là vùng trung tâm của nó, hoàng điểm (macula), không được tha miễn bởi những tác dụng có hại của sự lăo hóa. Bệnh thoái hóa điểm vàng do tuổi tác (DMLA : dégénérescence maculaire liée à l’âge) là một bệnh lư nhiều yếu tố, trong đó thuốc lá, bệnh béo ph́, ánh nắng mặt trời, sự dinh dưỡng, tương tác với những yếu tố nguy cơ di truyền. Căn bệnh này, nguồn gốc của một phế tật thị giác nghiêm trọng, ảnh hưởng lên hơn 1 triệu người ở Pháp. Sau hết người ta biết rằng một bệnh nhân bị DMLA của con mắt bên này, sẽ có 50% nguy cơ thấy xuất hiện một dạng tiến triển của con mắt bên kia trong ṿng 5 năm tiếp theo sau đó. Tiên lượng khá u tối này đă biện minh cho nhiều công tŕnh nghiên cứu, được thực hiện để hạn chế sự tiến triển của DMLA.
Mặc dầu nhiều nghiên cứu trước đây biện minh cho những thói quen thường dựa trên kinh nghiệm, nhưng ảnh hưởng của các chất bổ sung thức ăn (complément alimentaire) và nói chung của sự dinh dưỡng lên vơng mạc, dựa trên những kết quả không hoàn toàn, thậm khí đôi khi mâu thuẫn nhau. Bước thực hiện thường gồm hai th́ : những công tŕnh nghiên cứu dịch tễ học quy mô lớn (études épidémiologiques à grande échelle) cho phép chúng ta chọn lọc vài yếu tố dinh dưỡng nhằm làm kềm hăm sự xuất hiện của DMLA. Sau đó, những công tŕnh nghiên cứu can thiệp (études d’intervention) (trong đó người ta kiểm soát chặt chẽ sự cung cấp các vi chất dinh dưỡng, micronutriments) sẽ cố gắng xác nhận giả thuyết này.
ƯU TIÊN RAU XANH.
Những công tŕnh nghiên cứu lâm sàng, xác nhận lợi ích của các chất bổ sung thức ăn để ngăn ngừa những dấu hiệu của sự lăo hóa, tương đối mới xuất hiện gần đây : tính hợp lư, biện minh cho việc sử dụng các chất bổ sung thức ăn để làm chậm lại tiến triển của DMLA, chủ yếu dựa trên công tŕnh Areds 1 (Age Related Eye Diesease Study). Công tŕnh nghiên cứu quy mô lớn, được tiến hành trong hơn 6 năm ở Hoa Kỳ, đă cho thấy rằng những chất bổ sung thức ăn, với chất cơ bản là vitamine C và E, bêta-carotène, kẽm và đồng, cho phép hạn chế những nguy cơ tiến triển thành DMLA nặng. Công tŕnh nghiên cứu này, mặc dầu có cách nay hơn 10 năm, vẫn có nhiều khuyết điểm, nhất là những liều lượng được đề nghị rất là cao hơn những liều lượng được khuyến nghị ở Châu Âu, và việc sử dụng bêta-carotène, có tiềm năng nguy hiểm cho người hút thuốc.
Những công tŕnh nghiên cứu khác đă gợi ư vai tṛ của các sắc tố điểm vàng (pigments maculaires) (lutéine và zéaxanthine), thay thế một cách có lợi bêta-carotène. Cũng vậy, một chế độ ăn uống giàu oméga-3 giới hạn sự tiến triển của DMLA, cũng như vitamine B nơi phụ nữ. Toàn bộ những giả thuyết này chẳng bao lâu nữa sẽ được đánh giá trong công tŕnh Areds 2, mà các kết quả sẽ sẵn sàng từ nay đến vài năm nữa.
Những kết quả này đă cho phép xác định những khuyến nghị đối với những bệnh nhân, tùy theo nguy cơ bị DMLA của họ. Đối với những bệnh nhân đă bị DMLA một bên hay có những dấu hiệu tiến triển của sự lăo hóa điểm vàng, người ta chủ trương làm chậm lại tiến triển của bệnh bằng sự tiêu thụ các chất bổ sung thức ăn. Tuy nhiên phải nhắc lại cho các bệnh nhân rằng việc cải thiện chế độ ăn uống mỗi ngày là dễ thực hiện và có lợi ích. Cần làm hiểu rơ thế nào là việc “ ăn tốt ” (bien manger) ! Ăn sardine (đóng hộp) hay cá mỡ hai lần mỗi tuần, trộn dầu colza vào salade, nhai vài quả hồ đào (cerneau de noix) trong tuần, ưu tiên dành cho rau xanh (chính ở đó chứa lutéine) là những sự việc dễ thực hiện đối với tất cả mọi người.
Sau hết, phải rất cảnh giác đối với sự tiêu thụ bừa băi các chất bổ sung thức ăn, đặc biệt là các sản phẩm bán trên internet, bởi v́ chúng không có một bảo đảm nào trong việc chế tạo.
Hiện nay chúng tôi cố gắng hạn chế tiến triển của bệnh một khi các dấu hiệu đầu tiên xuất hiện. Có lẽ từ nay đến vài năm nữa ta sẽ xác định c̣n tốt hơn “ profil ” của một bệnh nhân trước khi bệnh xuất hiện, nhằm xác định bệnh nhân nào sẽ được hưởng tốt nhất một sự pḥng ngừa bằng các chất bổ sung thức ăn.
(LE FIGARO 27/9/2010)
florida80
06-02-2019, 22:48
CÁC VƠNG MẠC NHÂN TẠO VƯỢT QUA MỘT CHẶNG ĐƯỜNG MỚI.
Một implant mới đă cho phép một người mù đọc được những mẫu tự và những chữ.
OPHTALMOLOGIE. Cho phép những người mù t́m lại một thị giác đủ để nhận biết những vật thông thường và đọc những chữ lớn. Đó là kết quả từ nay có thể thu được với những implant vơng mạc thuộc thế hệ mới nhất. Nhóm của Eberhart Zrenner (đại học Tubingen, Đức) một trong những nhóm tiên tiến nhất thế giới trong lănh vực này, công bố hôm nay những dữ kiện ngoạn mục trong Proceedings of the Royal Society B.
Vơng mạc chứa một lớp tế bào cảm thụ ánh sáng (cellules photoréceptrices), bắt các tín hiệu ánh sáng và biến hóa chúng thành những xung động điện. Những xung động này sau đó được truyền qua dây thân kinh thị giác cho đến tận các vùng thị giác của năo bộ. Khi những tế bào vơng mạc rất biệt hóa này bị hủy hoại, khi bị một bệnh thoái hóa như viêm vơng mạc sắc tố (rétinite pigmentaire) hay DMLA (thoái hóa điểm vàng do tuổi tác), th́ sự mất thị giác không c̣n có thể sửa chữa được nữa. Ư tưởng thay thế chúng bằng một vơng mạc nhân tạo đă nẩy mầm cách nay nhiều thập niên. Từ đó, nhiều nhóm nghiên cứu đă bắt tay vào thách thức công nghệ học này với những phương cách khác nhau.
Nhờ những tiến bộ của điện tử học, những vơng mạc mới gồm hàng trăm điểm kích thích, điều này cho phép hoàn lại một thị giác tinh tế hơn nhiều. Nhóm của Tubingen đă chế tạo một implant có cạnh 3 mm với 1500 diode, điều này tương ứng với một h́nh ảnh 38x40 điểm hay pixel. Theo các công tŕnh nghiên cứu, cần ít nhất 600 pixel để cho phép đọc được, 1.000 để nhận diện một gương mặt.
5 TRẮC NGHIỆM THỊ GIÁC.
Vơng mạc nhân tạo (rétine artificielle) này đă được ghép vào dưới vơng mạc, ở chỗ của các tế bào cảm thụ ánh sáng (photorécepteurs), cho 3 bệnh nhân ở tuổi 40, bị mù từ lâu v́ bệnh viêm vơng mạc sắc tố. Sau đó những bệnh nhân được ghép vơng mạc nhân tạo này đă chịu 5 trắc nghiệm thị giác. Tất cả đă có thể thấy những vật sáng được đặt trên một chiếc bàn sẫm màu. Các hiệu năng đă rơ rệt cao hơn nơi một trong những người t́nh nguyện, đă thành công nhận biết một cách chính xác các đồ vật, và sau khi được huấn luyện, đă thành công ngay cả đọc được các mẫu tự và các chữ.
“ Mặc dầu những thách thức c̣n tồn tại về mặt sinh học và kỹ thuật, những kết quả của chúng tôi cho thấy rằng các prothèse vơng mạc điện tử có thể là một thay thế để phục hồi thị giác cho những người mù không có thể hưởng được những phương pháp khác như liệu pháp gène hay các thuốc bảo vệ thần kinh (médicaments neuroprotecteurs) ”, các tác giả của bài báo đă ghi nhận như vậy. “Khi những kết quả này được tŕnh bày cách nay vài tháng nhân một hội nghị, chúng đă có tác dụng như một trái bom nhỏ, Serge Pocaud, nhà nghiên cứu của Viện thị giác (Paris) đă kể lại như vậy. Từ đó, một loại implant khác, được phát triển bởi công ty Hoa Kỳ Second Sight và được trắc nghiệm đặc biệt ở Pháp, đă thu được những hiệu năng tương đương ”.
Các nhà nghiên cứu người Đức đă đặt implant vơng mạc cho khoảng một chục bệnh nhân khác, mà không bị vấn đề dung nạp. Và hệ thống dây và b́nh điện đă trở nên kín đáo hơn. Về phần ḿnh, nhóm nghiên cứu của Serge Picaud đang nghiên cứu một prototype de prothèse trên cơ sở các nanoparticule kim cương.
“ Vật liệu này đáng lưu ư bởi những tính chất điện tử và tính sinh tương hợp (biocomptabilité) ”, nhà nghiên cứu đă nhấn mạnh như vậy. Những thử nghiệm đang được tiến hành nơi động vật, nhưng sự phát triển bị làm chậm lại do thiếu nguồn tài trợ.
(LE FIGARO 3/11/2010)
florida80
06-02-2019, 22:48
VƠNG MẠC NHÂN TẠO : THÀNH CÔNG CỦA NHỮNG IMPLANT MỚI NƠI NHỮNG NGƯỜI MÙ.
GS José-Alain Sahel, giám đốc Viện thị giác, trưởng khoa mắt Hôpital des Quinze-Vingts, giải thích những công tŕnh của nhóm nghiên cứu của ông, đă cho phép 4 người mù nhận biết lại môi trường của họ.
Hỏi : Những bệnh nào có nguy cơ dẫn đến sự mù ḷa một phần hay hoàn toàn ?
GS José-Alain Sahel : Thường xảy ra nhất là thoái hóa điểm vàng do tuổi tác (DMLA : dégénérescence maculaire liée à l’âge). Đó là một rối loạn trong sự đổi mới của các tế bào cảm thụ ánh sáng (cellules photoréceptrices) với sự tích tụ của những mảnh vỡ tế bào dưới vơng mạc. Sau đó phải kể đến hai bệnh :
•bệnh tăng nhăn áp (glaucome) (800.000 người) làm gia tăng áp suất của nhăn cầu và cuối cùng làm thương tổn dây thần kinh thị giác.
•bệnh đái đường (400.000 đến 500.000 trường hợp) làm thương tổn các huyết quản của vơng mạc.
Tiếp theo sau đó là vài bệnh lư nguồn gốc di truyền như bệnh viêm vơng mạc sắc tố (rétinite pigmentaire) (40.000 trường hợp).
Hỏi : Trong những trường hợp nào ta có thể tránh sự mất thị giác nhờ một điều trị ?
GS José-Alain Sahel : Về bệnh đái đường và bệnh tăng nhăn áp, nếu ta chẩn đoán chúng sớm, ta có thể tránh được những biến chứng mắt nơi vơng mạc cũng như sự phá hủy của dây thần kính thị giác. Để điều trị vài dạng của DMLA , ta có những thuốc chống sinh mạch máu (anti-angiogénique), ức chế sự tăng sinh của các huyết quản của vơng mạc, nguyên nhân của sự giảm thị lực. Về những bệnh di truyền, một liệu pháp gène đang được thử nghiệm. Đối với những bệnh nhân đă mất hoàn toàn thị giác, ngày nay hy vọng quan trọng là ghép những vơng mạc giả (prothèse rétinienne).
Hỏi : Để hiểu cách tác dụng của những vơng mạc giả này, xin ông có thể giải thích cho chúng tôi vai tṛ của vơng mạc ?
GS José-Alain Sahel : Vơng mạc gồm có một lớp tế bào nhận cảm (cellules réceptrices) bắt các tín hiệu ánh sáng và biến đổi chúng thành những xung động điện (impulsions électriques). Sau đó những xung động điện này được truyền đến các vùng thị giác (aire visuelle) của năo bộ bởi dây thần kinh thị giác. Khi những tế bào cảm quan (cellules photoréceptrices) của vơng mạc bị tiêu hủy, sự mất thị giác là hoàn toàn.
Hỏi : Protocole ghép (implantation) được thực hiện bởi nhóm nghiên cứu của ông ở Viện Mắt là ǵ ?
GS José-Alain Sahel : Trước hết, vào lúc một can thiệp ngoại khoa, ta đặt trên vơng mạc một puce điện tử (một implant) bao gồm một loạt các điện cực bằng kim loại thay thế những tế bào cảm quang bị phá hủy. Một caméra nhỏ xíu được gắn trên kính đeo bắt h́nh ảnh và xử lư nó nhờ microprocesseur được đặt trong một chiếc bọc. Microprocesseur này truyền các thông tin nhận được đến implant vơng mạc, rồi implant này truyền chúng đến các vùng thị giác của năo bộ qua dây thần kinh thị giác. Vậy để thực hiện kỹ thuật này, dây thần kinh thị giác không được bị phá hủy.
Hỏi : Những kết quả nào đă thu được với sự tái tạo vơng mạc này ?
GS José-Alain Sahel : Từ hai năm rưỡi nay, 4 bệnh nhân bị mù ḷa do viêm vơng mạc sắc tố đă được mổ (30 trường hợp trên thế giới). Ngày nay 4 người đàn ông này có thể di chuyển, thấy các cánh cửa, các cửa sổ và các đồ vật. 3 trong 4 các bệnh nhân này có thể đọc cả những chữ gồm 3 hay 4 mẫu tự !
Hỏi : Nhóm của ông hiện đang nghiên cứu công tŕnh nghiên cứu khác nào ?
GS José-Alain Sahel : Chúng tôi đang phát triển trong pḥng thí nghiệm hai loại điện cực, lần này được bọc bởi kim cương. Những vật liệu tương hợp sinh học (matériaux biosensibles) này cho phép hạn chế những phản ứng mô.
Hỏi : Sự hồi phục một phần thị giác này có thể có được nơi những người bị mù khi sinh ra đời hay không ?
GS José-Alain Sahel : Chúng ta chưa biết bởi v́ để được như vậy năo bộ “ đă phải học thấy ” trong những năm đầu của đời sống.
Hỏi : Giai đoạn kế tiếp sẽ là ǵ ?
GS José-Alain Sahel : Để cải thiện những kết quả thu được, chúng tôi sẽ mổ một loạt những bệnh nhân khác với những protocole được tập trung hơn vào những khả năng nhận biết chính xác. Nhưng ta sẽ không bao giờ thay thế một cách hoàn hảo hàng triệu các tế bào cảm quan của vơng mạc lành mạnh, nghĩa là cho trở lại một thị giác b́nh thường. Trong hai năm nữa, chúng tôi dự định vượt qua một chặng đường mới bằng cách gia tăng số các điện cực trên implant, lần này được bọc bằng kim cương.
(PARIS-MATCH 16/12-22/12/2010)
florida80
06-03-2019, 20:46
Stress during early pregnancy is linked to reduced reproductive function in male offspring
European Society of Human Reproduction and Embryology
Share
Print E-Mail
Men whose mothers were exposed to stressful life events while they were in the first 18 weeks of pregnancy may have reduced sperm counts when they become adults, according to a study published today (Thursday) in Human Reproduction [1], one of the world's leading reproductive medicine journals.
Research has shown that the first few months of pregnancy is when male reproductive organs are at their most vulnerable stage of development. This current study of 643 young men aged 20 found that those who were exposed to at least one stressful life event during early gestation (0-18 weeks) had worse sperm quality and lower testosterone concentrations than those who were not exposed, or who were exposed during later gestation, between 18-34 weeks.
The findings come from the Western Australia's Raine Study [2], a multi-generational study that recruited nearly 3000 women in their 18th week of pregnancy in the period between May 1989 and November 1991. The mothers completed questionnaires at 18 and 34 weeks' gestation, and each survey included questions about stressful life events during the preceding four months of pregnancy. These events included death of a close relative or friend, separation or divorce or marital problems, problems with children, mother's or partner's involuntary job loss, money problems, pregnancy concerns, moving home or other problems.
A total of 2868 children (1454 boys) were born to 2804 mothers and were followed by the researchers, making this the first study to investigate prospectively the links between exposure to stressful life events in early and late gestation and male reproductive function in young adult men. When they reached 20 years old, up to 643 young men underwent a testicular ultrasound examination and provided semen and blood samples for analysis.
The researchers found that 63% of the men had been exposed to at least one stressful life event in early gestation, while fewer stressful life events occurred in late gestation. Those who were exposed to stressful life events in early gestation had lower total sperm counts, fewer sperm that could swim well and lower concentrations of testosterone than those exposed to no events. The researchers adjusted their analyses to take account of factors that could affect their calculations, such as the mothers' body mass index, socio-economic status and whether or not the mothers had given birth previously.
The senior author of the study, Roger Hart, Professor of Reproductive Medicine at the University of Western Australia and medical director of the Fertility Specialists of Western Australia IVF unit, said: "We found that men who had been exposed to three or more stressful life events during early gestation had an average of 36% reduction in the number of sperm in their ejaculate, a 12% reduction in sperm motility and an 11% reduction in testosterone levels compared to those men who were not exposed to any stressful life event during that period.
"This suggests that maternal exposure to stressful life events during early pregnancy, a vulnerable period for the development of male reproductive organs, may have important life-long adverse effects on men's fertility. This contrasts with the absence of any significant effect of exposure to maternal stressful life events in late gestation."
In their Human Reproduction paper, the authors write: "These potential associations could provide important insight into the decline of total sperm count in Western men, which has been, apart from genetic and direct spermatogenic damage, largely unexplained."
Prof Hart said that exposure to stressful life events during early pregnancy was unlikely to cause a man to be infertile by itself, but when added to other factors, it could contribute to an increased risk of infertility.
"Like most things in life, if exposure to stressful life events in early gestation is added to other things that are known to affect men's fertility, it may contribute to an increased risk of male infertility. These other, predominantly lifestyle exposures include being overweight, central obesity, smoking, excessive alcohol intake, high blood pressure, high cholesterol, sugar, or fat levels in the blood, a varicocele in the scrotum, or possibly exposure to chemicals in the environment that interfere with natural hormones, both before birth and in adulthood," he said.
The researchers point out that they have found only an association between stressful life events in early pregnancy and reduced sperm quality and testosterone concentrations in offspring, not that one definitely causes the other.
First author of the study, Dr Elvira Bräuner, a senior scientist in reproductive epidemiology at the Department of Growth and Reproduction, Rigshospitalet in Copenhagen, Denmark, said: "It is likely that women have always been exposed to stressful life events during pregnancy. However, the World Health Organization has described a general upward trend in stress over time. So, the additional effect of a stressful life event during pregnancy might be more pronounced in women who are already stressed."
One of the main limitations of the study is that it was not possible to measure how stressful life events affected women's experiences and their perceptions of stress, and their resilience in coping with such events.
Prof Hart said: "Our findings suggest that improved support for women, both before and during pregnancy, but particularly during the first trimester, may improve the reproductive health of their male offspring. Men should also be made aware that their general health is also related to testicular health, so they should try to be as healthy as possible to ensure that not only do they have the best chance of maintaining fertility, but also of remaining healthy in later life.
"To provide some perspective, the association between exposure to stressful life events and reduction in sperm counts was not as strong as the association between maternal smoking and subsequent sperm counts, as this was associated with a 50% reduction in sperm number."
###
[1] "The association between in utero
florida80
06-03-2019, 20:47
Stress during early pregnancy is linked to reduced reproductive function in male offspring
European Society of Human Reproduction and Embryology
Men whose mothers were exposed to stressful life events while they were in the first 18 weeks of pregnancy may have reduced sperm counts when they become adults, according to a study published today (Thursday) in Human Reproduction [1], one of the world's leading reproductive medicine journals.
Research has shown that the first few months of pregnancy is when male reproductive organs are at their most vulnerable stage of development. This current study of 643 young men aged 20 found that those who were exposed to at least one stressful life event during early gestation (0-18 weeks) had worse sperm quality and lower testosterone concentrations than those who were not exposed, or who were exposed during later gestation, between 18-34 weeks.
The findings come from the Western Australia's Raine Study [2], a multi-generational study that recruited nearly 3000 women in their 18th week of pregnancy in the period between May 1989 and November 1991. The mothers completed questionnaires at 18 and 34 weeks' gestation, and each survey included questions about stressful life events during the preceding four months of pregnancy. These events included death of a close relative or friend, separation or divorce or marital problems, problems with children, mother's or partner's involuntary job loss, money problems, pregnancy concerns, moving home or other problems.
A total of 2868 children (1454 boys) were born to 2804 mothers and were followed by the researchers, making this the first study to investigate prospectively the links between exposure to stressful life events in early and late gestation and male reproductive function in young adult men. When they reached 20 years old, up to 643 young men underwent a testicular ultrasound examination and provided semen and blood samples for analysis.
The researchers found that 63% of the men had been exposed to at least one stressful life event in early gestation, while fewer stressful life events occurred in late gestation. Those who were exposed to stressful life events in early gestation had lower total sperm counts, fewer sperm that could swim well and lower concentrations of testosterone than those exposed to no events. The researchers adjusted their analyses to take account of factors that could affect their calculations, such as the mothers' body mass index, socio-economic status and whether or not the mothers had given birth previously.
The senior author of the study, Roger Hart, Professor of Reproductive Medicine at the University of Western Australia and medical director of the Fertility Specialists of Western Australia IVF unit, said: "We found that men who had been exposed to three or more stressful life events during early gestation had an average of 36% reduction in the number of sperm in their ejaculate, a 12% reduction in sperm motility and an 11% reduction in testosterone levels compared to those men who were not exposed to any stressful life event during that period.
"This suggests that maternal exposure to stressful life events during early pregnancy, a vulnerable period for the development of male reproductive organs, may have important life-long adverse effects on men's fertility. This contrasts with the absence of any significant effect of exposure to maternal stressful life events in late gestation."
In their Human Reproduction paper, the authors write: "These potential associations could provide important insight into the decline of total sperm count in Western men, which has been, apart from genetic and direct spermatogenic damage, largely unexplained."
Prof Hart said that exposure to stressful life events during early pregnancy was unlikely to cause a man to be infertile by itself, but when added to other factors, it could contribute to an increased risk of infertility.
"Like most things in life, if exposure to stressful life events in early gestation is added to other things that are known to affect men's fertility, it may contribute to an increased risk of male infertility. These other, predominantly lifestyle exposures include being overweight, central obesity, smoking, excessive alcohol intake, high blood pressure, high cholesterol, sugar, or fat levels in the blood, a varicocele in the scrotum, or possibly exposure to chemicals in the environment that interfere with natural hormones, both before birth and in adulthood," he said.
The researchers point out that they have found only an association between stressful life events in early pregnancy and reduced sperm quality and testosterone concentrations in offspring, not that one definitely causes the other.
First author of the study, Dr Elvira Bräuner, a senior scientist in reproductive epidemiology at the Department of Growth and Reproduction, Rigshospitalet in Copenhagen, Denmark, said: "It is likely that women have always been exposed to stressful life events during pregnancy. However, the World Health Organization has described a general upward trend in stress over time. So, the additional effect of a stressful life event during pregnancy might be more pronounced in women who are already stressed."
One of the main limitations of the study is that it was not possible to measure how stressful life events affected women's experiences and their perceptions of stress, and their resilience in coping with such events.
Prof Hart said: "Our findings suggest that improved support for women, both before and during pregnancy, but particularly during the first trimester, may improve the reproductive health of their male offspring. Men should also be made aware that their general health is also related to testicular health, so they should try to be as healthy as possible to ensure that not only do they have the best chance of maintaining fertility, but also of remaining healthy in later life.
"To provide some perspective, the association between exposure to stressful life events and reduction in sperm counts was not as strong as the association between maternal smoking and subsequent sperm counts, as this was associated with a 50% reduction in sperm number."
###
florida80
06-03-2019, 20:47
3-Jun-2019
For many, friends and family, not doctors, serve as a gateway to opioid misuse
Penn State
Share
Print E-Mail
In a common narrative of the path to opioid misuse, people become addicted to painkillers after a doctor prescribed them pills to treat an injury and then, later, switch to harder drugs, such as heroin. However, nonmedical opioid users were more likely to say they began abusing opioids after friends and family members offered them the drugs, according to researchers.
In a series of in-depth interviews with 30 opioid users from southwestern Pennsylvania, about 56 percent of the interviewees said they began using the painkillers recreationally first, said Ashton Verdery, assistant professor of sociology, demography and social data analytics, and an affiliate of the Institute for CyberScience, Penn State.
According to Verdery, the national narrative often portrayed in the media is that heroin abuse occurred after people were prescribed opioid pills by their doctors and became addicted to them. This narrative holds that when the government cracked down on prescription opioids and drug manufacturers began making pills more difficult to abuse in the late 2000s, these people then transitioned to heroin because of its lower price and higher relative availability.
"There's a lot about that narrative that I think is an overly simplistic way of thinking about this," said Verdery. "What emerged from our study -- and really emerged because we decided to do these qualitative interviews in addition to a survey component -- was a pretty different narrative than the national one. We found that most people initiated through a pattern of recreational use because of people around them. They got them from either siblings, friends or romantic partners."
He added that some study participants did say that they later engaged in "doctor shopping" to locate new sources of prescription pills when acquiring pills from those initial sources became more difficult.
The researchers, who report their findings in a recent issue of the Journal of Addictive Studies, said that understanding this pathway may help improve interventions and treatment options.
"It's not just that people were prescribed painkillers from a doctor for a legitimate reason and, if we just crack down on the doctors who are prescribing in these borderline cases we can reduce the epidemic," said Verdery. "Our results really don't speak to that framework. They speak more to the need of educating people how dangerous these pills are and warning them about getting the pills from friends and family, because that's the way a lot of people are getting addicted."
The researchers first recruited 125 participants to complete a survey that sought information on their demographics, substance use, social networks and risk factors. A total of 30 survey participants accepted an invitation to then take part in semi-structured, in-depth interviews that lasted about an hour.
The researchers conducted interviews with nonmedical opioid users from southwestern Pennsylvania because the region has been hit particularly hard by the opioid epidemic and features both rural and urban users.
Verdery suggests that the researchers would find similar results in other areas hit by the epidemic, but future research may explore addiction pathways in other communities and consider how other substance use may play a role in opioid addiction.
"We think that understanding this mechanism as a potential pathway is worth further consideration," said Verdery. "At the same time, friends and family are critical resources that people who use opioids can draw on for support and help in seeking treatment, which is all the more reason to pay attention to how drug use affects and is affected by social relationships."
florida80
06-03-2019, 20:50
BS NGUYỄN VĂN THỊNH
CƠN CAO HUYẾT ÁP
(POUSSEE HYPERTENSIVE)
Dr Bertrand François
Chef de service de médecine générale d'urgence
Hôpital Saint-Roch. CHU de Nice
Dr Pras Pierre
Chef du service de gérontologie clinique
Hôpital Cimiez. CHU de Nice.
Dr Tardieux Pierre-Marie
Hôpital Cimiez. CHU de Nice.
Dầu cho đó là dấu hiệu khởi đầu của một cao huyết áp hay dầu cho đó là biến chứng của tiến triển của cao huyết áp, cơn cao huyết áp (accès hypertensif) phải được phát hiện và điều trị một cách nhanh chóng để tránh sự xuất hiện những biến chứng nghiêm trọng
I. NHỮNG TRƯỜNG HỢP XUẤT HIỆN
Cơn cao huyết áp không biến chứng có thể được thể hiện bởi đau đầu, chóng mặt, ù tai (acouphènes), chảy máu cam, suy nhược.
Sự tăng cao huyết áp có thể được chứng thực một cách t́nh cờ khi không có một triệu chứng nào.
Cơn cao huyết áp có thể được phát hiện bởi một biến chứng :
• một suy tâm thất trái, được thể hiện hoặc bởi khó thở gắng sức hoặc bởi một phù phổi cấp ;
• một suy động mạch vành cấp tính ;
• một xuất huyết dưới kết mạc hay vơng mạc ;
• một cơn lú lẫn do phù năo ;
• một thiếu máu cục bộ năo chịu trách nhiệm một thiếu sót thần kinh quan trọng ít hay nhiều và đôi khi thoái lui ;
• một xuất huyết màng năo hay năo-màng năo.
II. CHẨN ĐOÁN
Chẩn đoán dựa trên đo huyết áp. Đo huyết áp phải được thực hiện ở hai tay, với những thận trọng sử dụng.
Ở người già, chính sự tăng cao đột ngột và bất thường của huyết áp phải được chẩn đoán là cơn cao huyết áp (poussée hypertensive). Nói chung trên 180 mmHg đối với huyết áp tối đa, và 110 mmHg đối với huyết áp tối thiểu. Ta nói là urgence hypertensive nếu những triệu chứng thương tổn tạng (signes de souffrance viscérale) được liên kết, và ta gọi là HA maligne nếu những con số huyết áp rất cao (nói chung >/=250 mmHg đối với tối đa và >/=130 mmHg đối với tối thiếu), với sự hiện diện của đau đầu, trạng thái lú lẫn hay co giật.
Phải nhấn mạnh rằng không có sự tương quan giữa cường độ của các con số huyết áp và mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng.
III. NHỮNG TRƯỜNG HỢP XUẤT HIỆN CỦA CƠN CAO HUYẾT ÁP
Trong đại đa số các trường hợp, cơn cao huyết áp (accès hypertensif) là biến chứng của một cao huyết áp cũ được điều trị không đủ, thậm chí cân bằng, nhưng mất bù do một yếu tố gian phát, nguồn gốc thức ăn hay thuốc : cung cấp muối không đúng lúc hay sai lầm hồi sức gây nên quá tải thể tích, choáng t́nh cảm.
Ngoài ra, cơn cao huyết áp xảy ra khi có sự thay đổi hay ngừng bất ngờ một điều trị cao áp, nhất là khi đó là clonidine hay những thuốc chẹn beta giao cảm.
IV. CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT
Đứng trước một cao huyết áp không giải thích được, trước hết phải loại bỏ một cơn cao huyết áp sinh lư (poussée hypertensive physiologique), phản ứng lại với một sự tấn công bất ngờ : stress, đau tạng, co mạch của giai đoạn khởi đầu của một choáng (xuất huyết, giảm thể tích dưới tác dụng thuốc lợi tiểu), nhưng trong trường hợp này, thăm khám lâm sàng cẩn thận có thể phát hiện những marbrures, nhiễm trùng cấp tính, bí tiểu cấp tính.
V. ĐIỀU TRỊ
Cơn cao huyết áp (poussée hypertensive) có thể được điều trị tại nhà nếu ta có thể loại bỏ một biến chứng sẽ xảy ra. Điều này giả định rằng ta đă ở bên bệnh nhân một thời gian đủ và các con số huyết áp đă được điều chỉnh đúng đắn bởi điều trị.
UserPostedImage
1. CƠN CAO HUYẾT ÁP KHÔNG BIẾN CHỨNG.
Trước hết phải trấn an bệnh nhân, đặt bệnh nhân nằm dài, yên tĩnh, kiểm soát lại các con số huyết áp để loại bỏ “ tác dụng của áo khoác trắng ", ở hai cánh tay, sau khi kiểm tra mọi sai lầm phương pháp và kiểm tra lại huyết áp vài giờ sau đó.
Trong trường hợp các con số vẫn cao, điều trị ưu tiên một cần đến nicardipine (Loxen, Rydène), hay urapidil (Eupressyl, Mediatensyl).
2. CƠN CAO HUYẾT ÁP TRIỆU CHỨNG HAY CÓ BIẾN CHỨNG
Trước sự hiện diện diện của những triệu chứng cơ năng không đe dọa (đau đầu, suy nhược, chóng mặt) và khi không có những biến chứng bệnh lư, điều trị tức thời nhờ đến một thuốc chẹn kênh canxi (inhibiteur calcique).
Chảy máu cam biện minh cho phương pháp nhét bấc vào các hố mũi (méchage des fosses nasales), tùy trường hợp, phương pháp nhét bấc mũi sau (tamponnement postérieur) hay phương pháp đốt điểm chảy máu (électro-coagulation). Trước một xuất huyết nặng và không cầm được bằng phương pháp nhét bấc, một ống thông tiểu có bóng bơm (sonde urinaire à ballonnet) có thể được sử dụng nếu không có một sonde de tamponnement đặc hiệu.
Nifédipine dưới lưỡi không được dùng nữa bởi v́ gây nên hạ huyết áp đột ngột có hại.
Đứng trước một urgence hypertensive thật sự, liên kết với một biến chứng, cần phải nhập viện. Tùy theo t́nh huống, những điều trị khác được liên kết với điều trị ban đầu với thuốc chẹn kênh canxi của cơn cao huyết.
• xuất huyết vơng mạc cần trong một thời hạn ngắn nhất một điều trị đặc hiệu liên kết với điều trị cơn cao huyết áp.
• Phù phổi cấp được điều trị bởi những thuốc lợi tiểu có tác dụng nhanh (Furosémide injectable), các dẫn xuất nitrat (Natispray, Lénitral spray) dưới dạng thuốc xịt hay bằng đường tĩnh mạch, đặc biệt là nếu phù phổi cấp được liên kết với một nhồi máu cơ tim
• Trong trường hợp đau ngực, ta sẽ kê đơn một dẫn xuất nitrat bằng đường dưới lưỡi hay tĩnh mạch, và ta sẽ làm một điện tâm đồ.
• Trong trường hợp tai biến mạch máu năo, cao huyết áp phải được tôn trọng nếu chụp cắt lớp vi tính năo hướng về một nguồn gốc thiếu máu cục bộ, và dẫu sao chừng nào scanner không được thực hiện ;
• Xuất huyết năo-màng năo do vỡ một ph́nh động mạch có thể được điều trị với nimodipine (Nimotop), inhibiteur calcique tiêm cho phép ngăn ngừa co thắt mạch.
VI. KẾT LUẬN
Cần phân biệt rơ một t́nh trạng bất ổn huyết áp đơn thuần với một cơn cao huyết áp. Chỉ một cơn cao huyết áp mới cần một điều trị cấp cứu bởi v́ những hậu quả có thể là nghiêm trọng. Những thuốc điều trị huyết áp hiện nay có đủ để cho phép đáp ứng cơn cao huyết áp này một cách hiệu quả.
Quote:
Những cạm bẫy và những đặc điểm ở người già
Trong cao huyết áp của người già có một sự mất của tính dẻo động mạch (compliance artérielle) : điều này ảnh hưởng chủ yếu lên những trị số của HA thu tâm.
Hăy loại bỏ một cơn cao huyết áp triệu chứng của một bệnh tạng cấp tính : sốc t́nh cảm, đau, bí tiểu cấp tính, t́nh trạng choáng giai đoạn đầu.
Nifédipine (Adalat) dưới lưỡi không được sử dụng nữa, bởi v́ đôi khi nó có thể gây hạ huyết áp đột ngột.
Mỗi cơn cao áp biến chứng (poussée hypertensive compliquée) cần được nhập viện.
Ở người già được điều trị, ta chấp nhận những con số HA lên đến 160 mmHg đối với tối đa, 90 mmHg đối với tối thiểu.
florida80
06-03-2019, 20:52
XỬ TRÍ SỚM TIỀN BỆNH VIỆN
BỆNH NHÂN BỊ CHẤN THƯƠNG NẶNG
BS NGUYỄN VĂN THỊNH
CHƯƠNG 1: CÁC CƠ CHẾ CHẤN THƯƠNG
I. NGUYÊN TẮC CĂN BẢN.
Một sự giải thích đúng đắn những thông tin nhận được lúc xảy ra một tai nạn cho phép một thầy thuốc SMUR tiên đoán 90% những thương tổn mà anh ta sẽ gặp ngay cả trước khi đến gần bệnh nhân.
II. KHÁI NIỆM CRASH.
Thuật ngữ “ crash ” không chỉ có nghĩa là một tai nạn xe hơi (vehicular crash) nhưng cũng là một tai nạn vận tải (accident de roulage), một sự té ngă (nhảy qua cửa sổ), một vết thương do đạn (balle) hay do bạch khí (arme blanche) hay do nổ (explosion).
Người ta phân biệt :
• Précash : những biến cố đi trước tai nạn hay những tiền sử của bệnh nhân (bệnh măn tính, thuốc men..). Giai đoạn precash bao gồm tất cả các biến cố đi trước tai nạn, như việc uống rượu hay thuốc. Những t́nh trạng đi trước tai nạn cũng là một bộ phận của precash phase, như những t́nh trạng nội khoa cấp tính hay có trước (và những thuốc để điều trị những t́nh trạng này) hay trạng thái tâm thần của một bệnh nhân. Trong trường hợp điển h́nh, những bệnh nhân chấn thương trẻ không có các bệnh măn tính.Tuy nhiên, với những bệnh nhân già, những t́nh trạng nội khoa hiện diện trước khi chấn thương xảy ra có thể gây nên những biến chứng nghiêm trọng trong việc xử trí tiền bệnh viện của bệnh nhân và có thể ảnh hưởng một cách đáng kể lên tiên lượng. Thí dụ, người lái xe già đụng phải một cây cột có thể có đau ngực chỉ một nhồi máu cơ tim (heart attack). Phải chăng người lái xe đụng cột và bị một cơn nhồi máu tim, hay người lái xe này đă bị nhồi máu tim và sau đó mới đụng cột ?
• Crash : bắt đầu vào lúc va chạm và chấm dứt khi tất cả các đồ vật ngừng lại.
• Post-cash : bắt đầu công tác hiểu những cơ chế gây thương tổn (mécanismes lésionnels) bởi thầy thuốc SMUR.
III. ĐỒNG HỌC (CINETIQUE).
Khảo sát động học cho phép đánh giá những biến cố đă xảy ra khi đụng nhau (collision) :
• Ai đă đụng cái ǵ ? Với tốc độ nào ? Thời gian phanh lại là bao nhiêu ?
• Các nạn nhân có được giữ lại bởi một dây an toàn hay không được buộc ? Các nạn nhân có bị bật hắt ra (éjecté) hay không ?
• Các nạn nhân có va vào các đồ vật hay không ? Nếu có, bao nhiêu ?
Việc đem đến một phim vidéo ngắn hay vài photo rất hữu ích cho thầy thuốc bệnh viện tiếp đón bệnh nhân bị đa chấn thương.
IV. ĐỊNH LUẬT VỀ NĂNG LƯỢNG VÀ CHUYỂN ĐỘNG.
Hai định luật vật lư cho phép hiểu những cơ chế trao đổi năng lượng lúc xảy ra một crash.
1/ ĐỊNH LUẬT THỨ NHẤT CỦA NEWTON.
Một vật đứng im vẫn bất động và một vật chuyển động vẫn chuyển động trừ phi nó chịu một ngoại lực.
Thí dụ một người ngồi phía trước xe hơi. Xe đụng phải một cái cây và dừng lại. Người không mang dây an toàn tiếp tục chuyển động cho đến khi đụng phải tay lái (steering column), bảng đồng hồ (tableau de bord, dashboard) hay kính che gió (pare-brise, windshield). Sự va chạm với vật làm ngừng chuyển động về phía trước của nửa ḿnh trên hay đầu. Các cơ quan nội tạng vẫn chuyển động cho đến khi chúng đụng thành ngực hay thành bụng, làm dừng lại chuyển động về phía trước.
Điều này cũng đúng với chuyển động chuyển ngang (mouvement de translation horizontale) như tai nạn giao thông hay thẳng đứng, như té từ một nơi cao.
2/ ĐỊNH LUẬT NĂNG LƯỢNG VÀ CHUYỂN ĐỘNG.
Tại sao sự bắt đầu hay ngừng lại một cách đột ngột đưa đến chấn thương và thương tổn nơi một cá thể ? Định luật bảo tồn năng lượng phát biểu rằng năng lượng không có thể được tạo ra hay phá hủy nhưng có thể được thay đổi h́nh dáng. Sự chuyển động của một chiếc xe hơi là một dạng năng lượng. Khi chuyển động bắt đầu hay ngừng lại, năng lượng biến đổi thành một dạng khác. Nó có thể lấy dạng năng lượng cơ học, nhiệt, điện hay hóa học.
Trong thí dụ trước, khi xe hơi dừng lại, năng lượng phải được biến đổi thành một năng lượng khác (cơ học, nhiệt, điện hay hóa học).
Một thí dụ năng lượng thay đổi dạng khi chuyển động ngừng lại là khi một người lái xe phanh lại và xe hơi giảm tốc (decelerate). Năng lượng chuyển động được biến đổi thành nhiệt ma sát (heat of friction) (năng lượng nhiệt) bởi bàn đạp phanh (brake pad) lên tăng hăm (brake drum, tambour de frein). Tương tự, năng lượng cơ học của một chiếc xe hơi đụng phải một bức tường được làm tiêu tan do sự uống của khung hay những bộ phận của xe. Năng lượng c̣n lại được truyền cho những người ngồi trong xe và các cơ quan nội tạng của họ.
Năng lượng động (énergie cinétique) tỷ lệ với trọng lượng và tốc độ :
E (năng lượng động) = M/2 (một nửa khối lượng) x V2 (tốc độ b́nh phương).
Ta thấy rơ rằng trọng lượng của những người ngồi trên xe không phải là yếu tố quyết định nhưng đúng là tốc độ của vật chuyển động.
V. TRAO ĐỔI NĂNG LƯỢNG
Mật độ năng lượng (densité d’énergie) được trao đổi trong một va chạm tùy thuộc lượng các hạt (particules) mô bị ảnh hưởng. Các mô càng dày, th́ sẽ có nhiều hạt bị va chạm bởi một vật đang chuyển động. Một cú đấm vào trong một chiếc gối sẽ sinh ít thương tổn hơn khi đấm vào tường...Một người có thể sống sót sau một té ngă khi người đó té vào một mặt phẳng có thể đè ép được (compressible) (bụi tuyết, nước, thực vật, trampoline) nhưng sẽ không có cơ may sống c̣n nếu té ngă trên một mặt phẳng cứng.
VI. HIỆN TƯỢNG KHÍ XÂM THỰC (CAVITATION).
Việc đánh vào một ḥn billard truyền năng lượng cho những ḥn billard khác. Ḥn billard được đánh vào từ bỏ năng lượng của nó, chạy chậm lại và kể cả dừng lại khi những ḥn billard khác xa điểm va chạm. Trong thân thể con người, hiện tượng này gây nên một xoang (lỗ hổng) (cavité) và được gọi là hiện tượng khí xâm thực (cavitation).
Như vậy hai dạng xoang được tạo nên :
1. Một xoang tạm thời (cavité temporaire) được tạo nên trong lúc va chạm, các mô lấy lại vị trí ban đầu, làm người quan sát bị lầm.
2. Một xoang thường trực (cavité permanente) gây nên bởi sự đè ép hay sự xé rách các mô.
VII. CHẤN THƯƠNG ĐỤNG DẬP VÀ CHẤN THƯƠNG XUYÊN (BLUNT TRAUMA VÀ TRAUMA PENETRANT)
Hiện tượng khí xâm thực (cavitation) này cho phép phân biệt “ chấn thương đụng dập ” (blunt trauma hay trauma mousse) (sự đè nát, sự giảm tốc hay tăng tốc) với chấn thương chọc thủng (trauma pénétrant) (sự đè nát của mô và sự tách chúng dọc theo đường vào của vật xuyên qua).
Trong một chấn thương đụng dập :
• Hộp sọ có thể bị nén ép, găy, đẩy các mảnh vỡ vào trong năo bộ. Năo bộ tiếp tục chuyển động về phía trước gây nên chấn động năo (commotion), đụng dập (contusion) hay rách (lacération). Các mạch máu có thể bị xé rách, gây nên xuất huyết ngoài màng cứng (hémorragie épidurale), dưới màng cứng (sous durale) hay màng nhện (arachnoidienne). Một thương tổn h́nh mắt ḅ (lésion en forme d’œil de bœuf) trên kính chắn gió là đặc trưng.
• Một sự tăng duỗi (hyperextension) hay tăng gấp (hyperflexion) sinh ra những gập góc nghiêm trọng, gây nên các găy xương và trật các đốt sống. Những nén ép theo đường thẳng có thể gây nên các lún đốt sống (tassements vertébraux). Sự va chạm bên (impact latéral) khiến cổ bị gập và xoay.
• Các găy xương chậu có thể chịu trách nhiệm một sự mất máu quan trọng. 10% những thương tổn này được kèm theo bởi những thương tổn sinh dục.
• Những cơ quan bị đè ép bởi cột sống vào tay lái hay bảng đồng hồ (tableau de bord) như một cái búa đánh trên một cái đe, có thể gây nên rách các cơ quan nội tạng (tụy tạng, lá lách, gan và thận).
• Những cơ quan bụng có thể đi vào trong ngực và làm giảm thể tích phổi, có thể bị thiếu máu cục bộ do đè ép. Nếu có một xuất huyết trong bụng, nó có thể gây nên tràn máu ngực (hémothorax).
• Sự kéo giăn của động mạch chủ có thể xảy ra gây vỡ tức thời và hoàn toàn. Thường hơn sự kéo giăn chỉ một phần và tạo nên một ph́nh động mạch có thể vỡ trong nhiều phút, giờ hoặc ngày tiếp theo sau.
• Sự đụng dập thành ngực có thể gây nên một hiện tương được gọi là“ sac de papier ” nguyên nhân của tràn khí màng phổi. Bệnh nhân thấy tai nạn xảy đến thở sâu vào, nín thở (đóng nắp thanh môn). Các lá phổi khi đó “ bị đóng lại ” và khi va chạm bị xé rách.
• Sự đè bẹp ngực có thể gây nên găy các xương sườn, dẫn đến tràn khí màng phổi, mảng sườn hay cả hai.
• Sự đụng dập các cơ quan bên trong ngực có thể gây nên một đụng dập cơ tim với loạn nhịp tim.
• Những vết rách của các cơ quan có thể xảy ra ở những điểm cắm vào thành bụng. Nếu cơ quan có cuống, một sự giật đứt (arrachement) hay cắt đứt (cisaillement) có thể xảy ra (thận, ruột non, ruột già, lá lách). Khi đó là một cơ chế “ phía thấp và xuống dưới ”, gan có thể đi xuống, gây nên vỡ dây chằng treo.
• Một cơ chế cuối cùng cần phải biết trong trường hợp đè ép bụng (va chạm với một tay lái) : sự gia tăng nhanh chóng của đè ép bụng gây nên một sự gia tăng áp suất động mạch chủ. Máu bị dồn về phía van động mạch chủ gây nên vỡ ṿng van (anneau valvulaire).
VIII. ACCIDENTOLOGIE.
Vào lúc xảy ra một tai nạn, 3 đụng chạm (collision) xảy ra :
• Chiếc xe đụng phải một vật.
• Hành khách không có dây an toàn đụng bên trong xe.
• Các cơ quan nội tạng của người ngồi trong xe va chạm nhau hay đụng vào thành của xoang chứa chúng.
Các đụng xe hơi (collision de voiture) có thể được chia thành 5 loại :
• va chạm trực diện (impact frontal)
• va chạm ở phía sau (impact par l’arrière)
• chạm bên hông (impact latéral)
• va chạm xoay (impact rotatoire)
• tonneau.
florida80
06-03-2019, 20:53
1/ Va chạm trực diện (impact frontal) :
Bệnh nhân có thể theo hai con đường :
a/ The Down-and-Under Path (hướng xuống dưới và bên dưới)
• Đầu gối có hai điểm va chạm với bảng đồng hồ (tableau de bord) : xương đùi và xương chày.
Trong khi xương chày đụng bảng đồng hồ và dừng lại, xương đùi tiếp tục chuyển động và chevaucher xương chày này. Đầu gối có thể bị trật, với rách các dây chằng và dây gân. Một thương tổn của động mạch kheo có thể được liên kết.
Nếu chính xương đùi chạm với bảng đồng hồ, xương có thể găy cũng như làm tổn hại ổ cối (acétabulum).
• Bàn chân có thể bị quẹo nếu được đặt trên sàn xe hay trên pédale de frein với một cẳng chân duỗi thẳng với hậu quả găy khớp.
Phải luôn luôn t́m kiếm empreinte của đầu gối trong tableau de bord.
b/ The Up-and-Over Path
Nói chung đầu đập vào kính che gió (pare-brise) hay khung của nó. Ngực và bụng bị đè vào tay lái. Những thương tổn quan trọng của lồng ngực (găy xương sườn, mảng sườn), của các mô (đụng dập phổi, đụng dập cơ tim) hay các cơ quan có thể xảy ra (gan, lá lách).
2/ Va chạm phía sau, emboutissage
• Năng lượng va chạm biến đổi thành sự giảm tốc (décélération)
• Sự dị biệt vận tốc (vitesse) giữa hai xe càng lớn, th́ lực va chạm ban đầu càng lớn và, do đó, năng lượng để gây thiệt hại càng lớn.
• Tốc lực (vélocité) là hiệu số của hai tốc độ này.
• Vào lúc va chạm, xe hơi phía trước bị phóng ra phía trước. Nếu cái dựa đầu (appui-tête) không được đặt để tránh mọi cử động tăng duỗi của cổ, các dây chằng có có thể bị rách (whiplash injury).
• Nhưng nếu xe hơi đụng phải một chiếc khác hay một vật hay nếu người lái phanh xe lại và dừng lại đột ngột, các hành khách bị phóng về phía trước, như lúc bị đụng xe trực diện (collision frontale).
• Tai nạn khi đó gây nên hai va chạm : phía sau và phía trước với gia tăng xác suất các thương tổn.
3/ Va chạm bên hông (impact latéral)
Hành khách có thể bị thương do chuyển động của xe và do cửa bị phóng vào trong habitacle. Những lực đè ép bên có thể xảy ra gây găy xương (mảng sườn, giập phổi, găy xương đ̣n, xương chậu, xương đùi). Người lái xe sẽ bị các thương tổn lách hơn, c̣n người hành khách th́ bị các thương tổn ở gan. Sự va một bên đầu vào một trong những montant của xe có thể gây vết thương da đầu, chấn động năo và cả xuất huyết năo. Các thương tổn đốt sống thường xảy ra hơn. Có thể xảy ra một sự va đụng giữa các nạn nhân, nguồn gốc của những thương tổn bổ sung.
Sự hiện diện của một người bị chết xác nhận mức độ nghiêm trọng của va chạm mà những người khác trong xe đă bị.
4/ Va chạm xoay
Xảy ra một sự phối hợp của những thương tổn được gây nên bởi những va chạm trực diện và bên.
5/ Tonneau :
Xe có thể chịu những va chạm ở những nơi khác nhau. Gần như không thể nói trước các thương tổn của các nạn nhân.
Ghi chú : sự hấp thụ động năng (énergie cinétique) thay đổi giải thích sự khác nhau về các thương tổn tùy theo tuổi tác : mảng sườn (volet thoracique) sẽ thường gặp hơn ở bệnh nhân già có lồng ngực cứng ; Một đụng dập phổi hay vỡ cơ hoành sẽ được quan sát nhiều hơn ở bệnh nhân trẻ với lồng ngực mềm dẻo.
florida80
06-03-2019, 20:53
. DÂY AN TOÀN (CEINTURE DE SECURITE) VÀ TÚI KHÍ (AIRBAG)
1/ DÂY AN TOÀN
Việc mang dây an toàn đă làm thu giảm mức độ nghiêm trọng của vài thương tổn và đă tránh cho những người ngồi trong xe khỏi bị bắn hắt ra. Hiệu quả của nó đặc biệt được liên kết với một cấu tạo 3 điểm (une architecture à 3 points) cũng như với việc sử dụng tốt của các đai (sangle) ; nếu những đai này không được đặt đúng vị trí, có thể gây nên những thưởng tổn đặc hiệu.
Một dây nịt bụng (ceinture ventrale), được căng kém hay được đặt trên các gai chậu trước-trên (épines iliaques antéro-supérieures) có thể gây nên những thương tổn do sự ép nén của các cơ quan bụng nằm giữa dây nịt và thành sau ; những thương tổn tạng có thể xảy ra cũng như các thoát vị hoành (hernie diaphragmatique) do tăng áp lực.
Người ta khuyến nghị xem xét mặt trước của ngực và của bụng để t́m kiếm các khối máu tụ hay những đốm xuất huyết trên đường đi của dây nịt, thậm chí vị trí của boucle de fermeture.
2/ TÚI KHÍ (AIR-BAGS)
Air bags nên luôn luôn được sử dụng phối hợp với dây an toàn để bảo vệ tối đa. Nguyên thủy, các hệ thống túi khí người lái và hành khách ngồi trước nhằm làm yếu đi chuyển động ra phía trước của người ngồi trước mà thôi. Chúng hấp thụ năng lượng một cách chầm chậm bằng cách gia tăng khoảng cách dừng (stopping distance). Chúng vô cùng hữu hiệu trong lần va chạm trực diện hay gần như trực diện đầu tiên (từ 65% đến 70% các trường hợp dừng xe xảy ra trong ṿng 30 độ các đèn pha). Bởi v́ nhiều túi khí xẹp ngay sau khi đụng chạm, nên chúng không hữu hiệu trong những va chạm nhiều lần hay những va chạm phía sau.
Một số các thương tổn có thể được quy cho sự va chạm của người trên xe với vật đệm (coussin) đang được thổi phồng lên ; những thương tổn này liên quan đến găy xương cổ tay, những vết chợt da mặt và những đụng dập của nhăn cầu (cũng do kính va đập).
Một trong những vấn đề được đặt ra và có liên hệ với kỹ thuật học của thiết bị này và với sự cấp điện của chất nổ cho phép thổi phồng vật đệm : nếu túi khí không được mở ra sau lúc va chạm, nó có có thể được khởi động do sự cắt đoạn colonne de direction tạo các mạch điện. Do đó những người cứu thương phải chú ư đừng để là nạn nhân của điều này và đừng giữ vị trí giữa tay lái (hay tableau de bord) và nạn nhân.
X. NGƯỜI ĐI XE GẮN MÁY (MOTOCYCLISTES)
Trung tâm trọng lực của cặp “ moto/conducteur ” nằm ở trên và sau của trục trước của xe.
Lực va chạm trực diện (head-on impact), trục xe đóng vai tṛ pivot ; các thương tổn do sốc của người lái xe vào tay lái (các chấn thương liên kết với khúc đoạn đụng vào tay lái : khung chậu, bụng, ngực, thậm chí đầu). Nếu các bàn chân vẫn bị giữ ở bàn đạp, sự va chạm có thể liên hệ một hoặc hai thân xương đùi.
Trong trường hợp bị bắn hất ra, cũng như đối với những người ngồi trong xe hơi, các thương tổn là do đoạn thân thể đầu tiên đụng phải chướng ngại vật (trong đó có đất). Người ta cho rằng sự bị bắn hất ra khỏi xe nhân lên 6 lần những nguy cơ tử vong hay bệnh tật ; một người bị bắn hắt ra (éjecté) trên 13 người mang một găy xương cột sống.
XI. NGƯỜI BỘ HÀNH
Typologie là của người bộ hành bị đụng bởi một chiếc xe hơi. Khách bộ hành người lớn bị đụng bất ngờ quay đi khỏi chiếc xe và sự tiếp xúc diễn ra thành 3 giai đoạn : các chi dưới bị va phải thanh đỡ va (pare-chocs), như vậy nạn nhân bị phóng vào capot (hay vào kính chắn gió) rồi trượt dọc theo capot để rơi xuống đất “ đầu trước tiên ”.
Về đứa bé, nó thường đối diện với chiếc xe và do kích thước của ḿnh, bị đụng nơi đùi và khung chậu ; va chạm thứ hai liên hệ phần trên của cơ thể (ngực) và đứa trẻ bị phóng lên cao, đập vào capot rồi trượt xuống dưới xe hoặc dưới bánh xe.
XII. TÉ NGĂ
Vấn đề được xét đến ở đây là vấn đề của những té ngă từ một độ cao mà kích thước lớn hơn kích thước của nạn nhân ; khoảng cách rơi gây nên những thương tổn giảm tốc (lésions de décélération) lúc va chạm (định luật Newton). Người ta chấp nhận rằng một chiều cao rơi đo 3 lần kích thước của nạn nhân (trưởng thành) được liên kết với một mức độ nghiêm trọng quan trọng một cách đáng kể. Tính chất của bề mặt tiếp nhận, phần thân thể va đụng là bấy nhiêu những yếu tố gây nên chỗ định vị của các chấn thương.
Các thương tổn sọ-năo và những thương tổn ngực chế ngự những bệnh cảnh nghiêm trọng (khoảng 50% các trường hợp) : không nên không nhận rơ những thương tổn hậu phúc mạc. Trên b́nh diện các thương tổn xương-khớp người ta ghi nhận rằng những thương tổn thông thường nhất liên hệ các chi dưới, khung chậu và cột sống ngực-thắt lưng. Những té ngă về phía trước với sự tiếp nhận (cẳng tay duỗi thẳng) trên các gót bàn tay, gây nên các găy Pouteau-Colles.
florida80
06-03-2019, 20:56
THÔNG TIN Y HỌC VỀ RUNG THẤT (VENTRICULAR FIBRILLATION)
Lynn Ly tổng hợp thông tin về Rung Thất (Ventricular Fibrillation)
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 60 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 21/1/2008 )
10/ SỰ KHỬ RUNG Ở BỆNH VIỆN CÓ THỂ ĐƯỢC LÀM TỐT HƠN
Theo các chuyên gia, thời hạn giữa một ngừng tuần hoàn (arret circulatoire) thứ phát một asystolie hoặc loạn nhịp, và một khử rung (défibrillation) không được vượt quá 2 phút ở bệnh viện. P.Chan (Hoa kỳ) và các cộng sự viên đă nhận diện 6789 bệnh nhân, nạn nhân của một ngừng tuần hoàn do rung thất (fibrillation ventriculaire) hoặc tim đập nhanh thất (tachycardie ventriculaire) trong 369 bệnh viện tham gia vào National Registry of Cardiopulmonary Resuscitation. Họ đă ghi nhận những đặc điểm được liên kết với việc khử rung chậm, cũng như những hậu quả lên sự sống sót của các bệnh nhân. Thời gian khử rung trung b́nh là 1 phút và 30% các trường hợp được khử rung chậm. Đó thường là những bệnh nhân da đen, các bệnh nhân được nhập viện bởi những bệnh lư không phải do tim, trong một trung tâm điều trị dưới 250 giường, trong một khoa pḥng không có monitoring, hoặc những bệnh nhân có cơn loạn nhịp ngoài giờ làm việc (17 giờ chiều đến 8 giờ sáng). Một khử rung chậm làm giảm một cách đáng kể tỷ lệ sống sót (22% so với 39,3% trong trường hợp khử rung trong ṿng 2 phút) và điều này tỷ lệ với khoảng thời hạn can thiệp.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 18/1/2008)
florida80
06-03-2019, 20:56
CHẾT ĐỘT NGỘT DO RUNG THẤT : MỘT ĐIỀU TRỊ PH̉NG NGỪA NHẮM ĐÍCH.
GS Jean-Michel Haissaguerre, trưởng khoa tim, CHU de Bordeaux, ủy viên Viện hàn lâm khoa học, giải thích phương thức mới nhất dùng tần số phóng xạ (radiofréquence) nhằm tránh sự xuất hiện của những trường hợp chết đột ngột.
Hỏi : Trong một cơ tim lành mạnh, các tâm thất hoạt động như thế nào ?
GS Jean-Michel Haissaguerre : Cơ học của tim được thực hiện nhờ sự co bóp của các tâm nhĩ gởi máu vào trong các tâm thất, các tâm thất phóng máu (qua động mạch chủ) vào trong cơ thể. Các tam thất là những yếu tố thiết yếu nhất của cơ tim.
Hỏi : Trong trường hợp rung thất (fibrillation ventriculaire), điều ǵ xảy ra ?
GS Jean-Michel Haissaguerre : Các tâm thất bị kích thích một cách quá nhanh bởi một cơn băo điện (300 đến 400 đập mỗi phút), điều này làm cho chúng không c̣n có khả năng co bóp để làm tṛn chức năng của chúng.
Hỏi : Những hậu quả là ǵ ?
GS Jean-Michel Haissaguerre : Rối loạn nhịp tim có cùng hậu quả của một phát súng lục ! Chính v́ vậy có 50.000 tử vong mỗi năm ở Pháp. Tai ương này phần lớn không được công chúng biết đến, thường gán những tai biến này do một sự ngừng tim vĩnh viễn, mà ta chẳng làm ǵ được. Khi một người bị ngă qụy, phải nghĩ đến các rung thất một cách hệ thống bởi v́ nạn nhân có thể cứu được nhờ một sốc điện (choc électrique) của một máy khử rung (défibrillateur). Trong lúc chờ đợi cấp cứu, cần phải xoa bóp tim. Ở Pháp, ta thống kê chỉ 2% những người sống sót, trong đó vài người c̣n giữ các di chứng.
Hỏi : Ta biết được các nguyên nhân của những rung thất này hay không ?
GS Jean-Michel Haissaguerre : Có thể do là những hậu quả của một nhồi máu cơ tim hay một bệnh tim. Trong những trường hợp khác, đó là một rối loạn thuần điện của tim mặc dầu một cơ tim lành mạnh. Ngày nay ta biết nhiều hơn những tế bào chịu trách nhiệm. Những tế bào này tạo thành một mô thần kinh được mệnh danh là “ Purkinje ” (phần rất nhỏ của khối cơ tim), có khả năng sinh ra những xung động nhanh một cách bất thường, những tia chớp thật sự, và là nguồn gốc của những cơn băo điện này. Trong 10% các trường hợp, một yếu tố di truyền giải thích sự xuất hiện của nhiều trường hợp chết đột ngột xảy ra trong gia đ́nh.
Hỏi : Những thăm khám cho phép phát hiện những rối loạn tâm thất này là ǵ?
GS Jean-Michel Haissaguerre : Hiện nay ta chỉ có thể tiên đoán sự xảy ra của những rung thất này trong một thiểu số các trường hợp (30%) mỗi năm, bằng một điện tâm đồ hay một siêu âm. Những xét nghiệm này thường được thực hiện nơi những bệnh nhân được theo dơi v́ những vấn đề tim. Và ta khuyến nghị những thăm khám này cho những người đă từng là các nạn nhân của những trường hợp ngất xỉu không thể giải thích, hay có những tiền sử gia đ́nh chết đột ngột.
Hỏi : Nói chung ta điều trị những người bị đe dọa bởi những rung thất này như thế nào ?
GS Jean-Michel Haissaguerre : Một máy khử rung tim (défibrillateur cardiaque) được đặt vào hay những thuốc chống loạn nhịp được kê đơn, với những kết quả tốt, nhưng nơi vài bệnh nhân có một sự đề kháng đối với điều trị chống loạn nhịp.
Hỏi : Tiến bộ mới nhất để điều trị những bệnh nhân nguy cơ này với một can thiệp ít nặng nề hơn việc đặt máy khử rung tim là ǵ ?
GS Jean-Michel Haissaguerre : Kíp của chúng tôi ở CHU de Bordeaux đă hiệu chính một kỹ thuật mới nhằm vô hiệu hóa những tế bào dễ bị kích thích, nguồn gốc của những cơn băo điện. Phương thức nhằm đưa vào trong các tâm thất những cathéter mang các điện cực, rồi phát hiện những tế bào nguy hiểm và hủy diệt chúng bằng một ḍng điện tần số phóng xạ (un courant de radiofréquence). Tùy theo các trường hợp buổi điều trị kéo dài từ 1 đến 4 giờ, với gây mê tổng quát.
Hỏi : Công tŕnh nghiên cứu nào đă chứng minh tính hiệu quả của phương thức dùng tần số phóng xạ này ?
GS Jean-Michel Haissaguerre : Chúng tôi đă áp dụng kỹ thuật này nơi 45 bệnh nhân, rồi chúng tôi đă theo dơi họ trong nhiều năm trời. Hôm nay, các kết quả xác nhận tính hiệu quả của điều trị. Nhưng dầu sao đó vẫn là một phương thức xâm nhập (un procédé invasif) nên hy vọng của chúng tôi là phát triển những loại thuốc nhắm đích (médicaments ciblés) nhằm vô hiệu hóa một cách trực tiếp tính kích thích của những tế bào phát sinh rung thất. Những công tŕnh nghiên cứu đang được tiến hành.
(PARIS MATCH 24/3 – 30/3/2011)
florida80
06-03-2019, 20:57
LOẠN NHỊP TIM CÓ THẾ ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ MỘT CÁCH NHẸ NHÀNG.
“ Rung nhĩ. Tích điện 300 joules. Phát sốc điện ! ” Trở thành thông thường qua các séries télévisées, câu nói này chẳng bao lâu có thể biến mất khỏi những thành ngữ thường được sử dụng bởi các thầy thuốc. Ít nhất là đối với điều trị rung nhĩ (fibrillation auriculaire), một trong những rối loạn nhịp tim thường gặp nhất, được đặc trưng bởi một co bóp nhanh và không đều của các xoang tim, nhận máu để chuyển vào các tâm thất. Thay v́ chỉ cần cho một sốc điện có cường độ mạnh, một nhóm nghiên cứu Đức-Mỹ vừa chứng tỏ, ở động vật, rằng rung nhĩ cũng có thể được làm ngừng lại bởi một loạt các sốc điện có cường độ thấp hơn.“ Nhiên hậu, mặc dầu năng lượng toàn thể được phát ra y hệt với năng lượng của một máy khử rung chuẩn (défibrillateur standard), sự việc làm giảm 84% cường độ của mỗi sốc điện có tác dụng hạn chế những tác dụng phụ, mà hàng đầu là sự đau đớn ”, Flavio Fenton, một trong những nhà nghiên cứu của đại học Cornell (Nữu Ước) tham gia vào trong công tŕnh nghiên cứu này, đă giải thích như vậy. Một viễn ảnh đáng phấn khởi đối với những bệnh nhân buộc phải chịu một cách đều đặn những khử rung điện (défibrillations électriques). Được đặt tên là LEAP (“low-energy antifibrillation pacing”), phương pháp mới này, c̣n cần phải được chứng minh ở người, cũng có thể được áp dụng để điều trị rung thất (fibrillation ventriculaire), nguyên nhân chính gây ngừng tim.“ Những thí nghiệm được tiến hành in vitro cho thấy rằng phương pháp mới này có hiệu quả đối với rung nhĩ cũng như đối với rung thất. Những trắc nghiệm sơ bộ cũng đi theo chiều hường này, nhưng chúng tôi c̣n phải thu thập các dữ kiện ”, Flavio Fenton đă xác nhận như vậy.
(SCIENCE ET VIE 10/2011)
florida80
06-03-2019, 20:57
HỌC SỬ DỤNG CÁC MÁY KHỬ RUNG TỰ ĐỘNG TRONG TRƯỜNG HỢP NGỪNG TIM.
Một đạo luật dự kiến đào tạo ngắn ngày để biết sử dụng máy khử rung (défibrillateur) trên công lộ.
SANTE. Hiện nay, ở Pháp, khoảng 35.000 máy khử rung ngoài tim (défibrillateur cardiaque externe) từ nay được thiết đặt. Một con số đă bùng nổ, nếu ta so sánh nó với 9.000 máy chỉ có sử dụng trong năm 2005. Những máy khử rung này, từ nay được thiết đặt trong những nơi chiến lược của các thành phố (bưu điện, toà thị chính, nhà ga, viện bảo tàng, các cơ sở thể thao, hay các xí nghiệp...), cho phép tất cả mọi người, lúc đứng trước một người bất tỉnh sau một cơn đau tim (crise cardiaque), thực hiện một sốc điện (choc électrique) có khả năng hồi sinh bệnh nhân. Mặc dầu các cố gắng c̣n cần phải thực hiện về các thiết bị và sự phân bố trên lănh thổ, câu hỏi thật sự từ nay liên quan đến sự đào tạo. Ai có khả năng nhận diện một ngừng tim nơi một người đột ngột bị quật ngă bởi một sự khó ở và khi đó, ai có thể dám, trong trường hợp cần thiết, sử dụng một máy khử rung ? Mặc dầu những máy khử rung này được động hóa (défibrillateur automatique), với một commande vocale mô tả, cho mỗi giai đoạn, 3 hay 4 động tác phải hoàn thành, nhưng một chương tŕnh đào tạo, ngay cả ngắn ngày, không phải là vô ích, dầu đó chỉ để làm nhận thức được tính cách đơn giản của thủ thuật.
Trong khung cảnh này, một nghị quyết của Bộ Nội vụ, được công bố hôm qua trong Journal officiel, chấp thuận sự thiết đặt một nhập môn “ xử trí ngừng tim và sử dụng các máy khử rung ngoài tự động (défibrillateur externe automatisé) ”. Sự nhập môn này sẽ được tổ chức trong khung cảnh “ làm nhạy cảm dân chúng với những động tác sơ cứu ”. Sự khai tâm này nhằm mục đích làm cho dân chúng thụ đắc những kiến thức cần thiết để nhận diện những dấu hiệu cho phép nhận biết một ngừng tim và thực hiện, nơi một nạn nhân ngừng tim, những động tác cho phép làm gia tăng những cơ may sống sót ”. Lớp nhập môn này, không bắt buộc, được đảm nhận, trong một thời gian tối đa một giờ, bởi những người đào tạo sơ cứu của những cơ quan có thẩm quyền hay bởi những hiệp hội được công nhận trong sự giảng dạy cứu thương. Từ khi có nghị quyết tháng năm 2007, mọi người đều được phép sử dụng một máy khử rung tự động.
NGAY LỚP 6 ”
“ Sự thiết đặt các máy khử rung ở những nơi công cộng, trong những vùng được nhiều người lui tới (nhà ga, chợ búa, các pḥng chiếu bóng, các sân vận động, các tàu hỏa), đă cho phép vài nước chứng tỏ rằng họ có thể cứu được rất nhiều mạng người, GS Alexandre Mignon (thầy thuốc gây mê-hồi sức, bệnh viện Cochin, Paris) đă giải thích như vậy. Thí dụ, Nhật Bản vừa công bố một công tŕnh nghiên cứu tŕnh độ rất cao trong New England Journal of Medicine (thánh kinh của các tạp chí y học) vào tháng ba năm 2010, báo cáo kinh nghiệm của ḿnh ở quy mô toàn cả nước.” Từ tháng giêng năm 2005 đến tháng 12 năm 2007, hơn 300.000 trường hợp ngừng tim ở nơi công cộng đă được ghi nhận ở Nhật Bản, đối với một dân số khoảng 125 triệu người. Trong thời kỳ nghiên cứu, số các máy khử rung ở nơi công cộng đă bùng nổ, chuyển từ 9000 lên gần 90.000 máy, hoặc từ 1 trên 1 cây số vuông đến hơn 4 mỗi cây số vuông. Trong cùng thời gian, tỷ lệ sống sót không có di chứng thần kinh đă được nhân lên 2 lần nơi những bệnh nhân, chuyển từ 15% lên hơn 30%. Thời hạn trung b́nh để cho các sốc điện cũng đă được giảm gần một nửa, đặc biệt sự thực hiện sốc điện không c̣n do các đội cứu thương, mà bởi những nhân chứng ngừng tim đầu tiên.
Hiệp hội RMC BFM, được chủ tŕ bởi Isabelle Weill từ hai năm nay, đă tranh đấu từ nhiều năm nay để phát triển một băi các máy khử rung (parc de défibrillateurs) nơi công cộng, để xác định những nơi thiết đặt tối ưu và thành lập những chương tŕnh đào tạo nhanh chóng để dạy cho dân chúng sử dụng những máy này. Một chương tŕnh đào tạo ngắn ngày là đủ, GS Alexandre Mignon đă đảm bảo như vậy. Rất đơn giản trong việc sử dụng những máy khử rung này. Sự vận dụng chúng có thể được dạy ở trường ngay lớp 6, với một đào tạo 60 phút về những động tác cứu mạng, có thể được dạy lúc thi bằng lái xe, vào ngày nhập ngủ, trong các xí nghiệp..”
(LE FIGARO 5/8/2010)
florida80
06-03-2019, 20:59
CÁC MÁY KHỬ RUNG TIM : KỸ THUẬT MỚI ĐỂ CÁC SỐC ĐIỆN NHẸ NHÀNG HƠN.
GS Xavier Jouven, thầy thuốc chuyên khoa tim thuốc bệnh viện châu Âu Georges-Pompidou, chuyên gia về các rối loạn nhịp, b́nh luận những kết quả thỏa măn của một phương pháp cải tiến để b́nh thường hóa những rối loạn nhịp.
Hỏi : Trong số nhưng rối loạn nhịp tim, những rối loạn nào thường xảy ra nhất ?
GS Xavier Jouven : Đó là những rung nhĩ (fibrillation auriculaire) do một sự co bóp hỗn loạn của các tâm nhĩ. Khi đó tim đập nhanh hơn và không đều. Máu ứ động trong các tâm nhĩ, với sự đe dọa tạo thành cục máu đông cao hơn nhiều. 1% dân số ở Pháp bị liên hệ một cách tạm thời hay măn tính. Không điều trị, biến chứng đáng sợ nhất là tai biến mạch máu năo. Các rung thất, ít gặp hơn, nhưng trầm trọng hơn nhiều. Không được cấp cứu, chúng gây nên chết đột ngột trong vài phút.
Hỏi : Tất cả chúng ta, vào một lúc nào đó, bị hồi hộp. Làm sao ta đảm bảo chẩn đoán chính xác.
GS Xavier Jouven : Vài trường hợp rung nhĩ không có triệu chứng, nhưng thường nhất, chúng được thể hiện bởi triệu chứng hồi hộp với thời gian kéo dài lâu hay mau, đôi khi được liên kết với một sự khó thở. Để xác lập chẩn đoán, nếu điện tâm đồ cổ điển không đủ, ta sử dụng một Holter (máy được bệnh nhân mang theo trên người), ghi tim đập trong 24 giờ. Khi những đợt hồi hộp tạm thời nhưng xảy ra liên tiếp, cần ghi nhiều lần để có thể bắt gặp một đợt rung nhĩ. Trong vài trường hợp, ngay cả cần phải cắm dưới da ở vai một máy ghi nhỏ, sẽ ở tại chỗ trong nhiều tháng.
Hỏi : Hiện nay đối với rung nhĩ ta có điều trị nào ?
GS Xavier Jouven : Có hai phương thức. 1. Điều trị bằng thuốc với những thuốc chống loạn nhịp phối hợp với những thuốc làm loăng máu (fluidifiant) để tránh tai biến mạch máu năo. 2. Phát một sốc điện ngoài (choc éléctrique externe) (cần gây mê tổng quát thời gian ngắn). Phương thức nhằm đặt 2 patch trên ngực để “ kẹp tim giữa hai gọng kềm ” (prendre le cœur en tenailles). Các patch này được nối với một máy khử rung ngoài (défibrillateur externe), gởi một ḍng điện có cường độ mạnh hơn. Phương cách này gây nên sự co thắt của tất cả các tế bào của tim, “ bẽ găy ” loạn nhịp. Trong 90 đến 95% các trường hợp, đồng hồ của tim khởi đầu lại với nhịp b́nh thường. Nhưng phương pháp này có những bất tiện : sốc điện có thể làm thương tổn các mô da (với những vết bỏng).
Hỏi : Lần này làm sao ta ngăn cản các rung thất đe dọa tính mạng ?
GS Xavier Jouven : Để được như thế, ta cắm một máy khử rung dưới da, nối với tim bằng những sonde điện. Trong trường hợp cần, chúng phát ra một sốc điện rất đau đớn. Chấn thương thô bạo này gây cho các bệnh nhân sự lo âu về một tái phát. Nhưng hệ thống này hiệu quả hơn nhiều so với các loại thuốc.
Hỏi : Để giảm đau do sốc điện, phương thức mới là ǵ ?
GS Xavier Jouven : Một công tŕnh nghiên cứu quốc tế rất đầy hứa hẹn vừa được thực hiện bởi những kíp quốc tế : các nhà nghiên cứu (của CNRS de Lyon), Đức và Hoa Kỳ. Thử nghiệm này đă được tiến hành đối với những trường hợp rung nhĩ. Kỹ thuật mới này, được mệnh danh là LEAP (Low-Energy Anti-Fibrillation Pacing), hoạt động theo cùng nguyên tắc của các máy khử rung cổ điển. Nhưng bằng cách phóng ra một loạt 5 sốc điện kế tiếp nhau có cường độ thấp thay v́ một sốc điện với một cường độ mạnh. Kết quả : hoạt động vô tổ chức bị ngưng lại. Tim dần dần đập lại b́nh thường. Nhưng các sốc điện được sử dụng, 7 lần yếu hơn, gây đau đớn ít hơn nhiều và ít gây tổn hại hơn đối với các mô tim. Những công tŕnh nghiên cứu đầu tiên trên động vật đă tỏ ra rất thỏa măn. Vào giai đoạn kế tiếp, ta sẽ trắc nghiệm máy khử rung mới này nơi người.
Hỏi : Phương thức mới này cũng sẽ được áp dụng đối với các máy khử rung thất (défibrillateur ventriculaire) ?
GS Xavier Jouven : Có thể. Các công tŕnh nghiên cứu tiếp theo sẽ xác nhận điều đó. Một ưu điểm khác của những công tŕnh nghiên cứu này là chúng cho phép hiểu rơ hơn cơ chế của sốc điện. Một bước tiến sẽ đưa đến sự hiệu chính những điều trị mới có hiệu quả.
(PARIS MATCH 23/2-29/2/2012)
florida80
06-03-2019, 20:59
NHỮNG RỐI LOẠN NHỊP TIM : CÓ NHIỀU PHƯƠNG PHÁP VÀ ĐIỀU TRỊ ĐỂ XỬ TRÍ TỐT NHỮNG LOẠN NHỊP
CARDIOLOGIE. “ Cái khó khăn chủ yếu là làm sao có thể quan sát rối loạn nhịp vào lúc mà nó xảy ra ”, GS Jean-Luc Pasquié, thầy thuốc chuyên khoa về nhịp tim (rythmologue) thuộc CHU de Montpellier đă nhấn mạnh như vậy. Một điện tâm đồ đơn giản cho phép nhận diện phần lớn các loạn nhịp, nhưng những loạn nhịp này thường nhất xảy ra một cách đoạn hồi. Vài kỹ thuật, như holter tim, ghi nhịp tim trong nhiều ngày hoặc nhiều tháng. Những trắc nghiệm lúc gắng sức (test d’effort) trong vài trường hợp cho phép làm phát khởi loạn nhịp. Điện tâm đồ có thể được bổ sung bởi một siêu âm tim để nhận diện nguồn gốc của vấn đề hay để loại bỏ khả năng của một bệnh lư tim.
Những rối loạn nhịp tim thường gặp thường nhất là hiền tính và không luôn luôn gây nên những triệu chứng. Chúng được phân chia thành hai lớp lớn tùy theo tim đập quá chậm (bradycardie) hay quá nhanh (tachycardie). Tầm quan trọng của các triệu chứng không tương quan với mức độ nghiêm trọng của loạn nhịp, nhưng chúng có thể, ngay cả khi loạn nhịp này không có nguy cơ, làm biến đổi chất lượng sống của các bệnh nhân. “ Các bệnh nhân bị rối loạn nhịp thường nhất kêu van hồi hộp, một thuật ngữ thật ra tập hợp nhiều loại cảm giác”, GS Pasquié đă nhắc lại như vậy. Tim đập quá nhanh, một cách không đều, gây nên những “coups” trong ngực và những triệu chứng này có thể kèm theo khó thở, đôi khi ngay cả khó ở (malaise) hay ngất xỉu.
Những loạn nhịp do một khiếm khuyến chức năng của tâm nhĩ là thường gặp nhất, đặc biệt là rung nhĩ (fibrillation auriculaire). Liên quan với tuổi tác, rung nhĩ bắt đầu sau 50 tuổi, đạt 5-10% những người từ 60 đến 70 tuổi và đến 20% những người trên 80 tuổi. Những phần bị thương tổn của tâm nhĩ gây nên những co bóp nhanh nhưng không hoàn toàn, điều này làm mệt tim nếu rung nhĩ kéo dài.
CHẾT ĐỘT NGỘT KHÔNG GIẢI THÍCH ĐƯỢC
Mặt khác, máu có thể ứ đọng trong các tâm nhĩ và tạo thành những cục máu đông có thể gây nên những tai biến mạch máu, nhất là trong năo. Đối với những bệnh nhân có nguy cơ, nhất là những người già, một điều trị kháng đông khi đó phải được thực hiện.
Những thuốc chống loạn nhịp có thể làm giảm những triệu chứng trong phần lớn các trường hợp. Trong vài trường hợp, có thể phá hủy những vùng bị thương tổn của tâm nhĩ bằng đốt điện.“ Can thiệp này với kết quả không luôn luôn khẳng định, là nặng nề và trong 3 đến 5% các trường hợp, gây nên những biến chứng đôi khi trầm trọng, GS Antoine Leenhardt, thầy thuốc chuyên khoa nhịp tim (cardiologue rythmologue) thuộc bệnh viện Bichat (Paris) đă xác nhận như vậy. Can thiệp này chỉ được thực hiện trong những trung tâm chuyên khoa.”
Loại can thiệp này cũng được xét đến đứng trước tim nhịp nhanh bộ nối (tachycardie jonctionnelle), khi những triệu chứng gây khó chịu và không được kiểm soát tốt bởi những phương thức khác. Một khiếm khuyết dẫn truyền giữa các tâm nhĩ và tâm thất làm tim gia tốc đột ngột và mạnh. Tim nhịp nhanh cũng biến mất một cách đột ngột như khi xuất hiện mà không gây hậu quả.
Các tâm thất cũng là nguồn gốc của những rối loạn nhịp. Các ngoại tâm thu (extrasystoles), tương ứng với một co bóp sớm hay bổ sung của một tâm thất, là thường gặp nhất. Các ngoại tâm thu cho cảm giác rằng tim đă “ manqué le coup ” và có tính chất hiền tính nếu không có bệnh tim kèm theo. Tim nhịp nhanh thất (tachycardie ventriculaire) và rung thất (fibrillation ventriculaire) là hai rối loạn nhịp nghiêm trọng nhất. Khi các tâm thất co bóp quá nhanh hay khi các xung động thất thường (impulsions erratiques) ngăn cản chúng co bóp một cách hoàn toàn, chúng không c̣n có thể đảm bảo sự lưu thông máu, điều này có thể gây tử vong.
Những loạn nhịp này thường kèm theo một nhồi máu cơ tim và nói chung liên kết với bệnh động mạch vành sau tuổi 40 nhưng cũng có thể xảy ra ở những người trẻ tuổi hơn, gây chết đột ngột, thường vẫn không giải thích được và nguồn gốc có thể là gia đ́nh. Tim nhịp nhanh thất có thể được điều trị bằng thuốc, bằng triệt phá những vùng bị thương tổn hay bằng thiết đặt một implant. Rung thất (fibrillation ventriculaire), gây tử vong nếu không được làm dừng lại bằng một sốc điện. Sốc điện (choc électrique) này buộc các tế bào tim lấy lại một nhịp đập đồng bộ (un battement synchronisé), có thể được pḥng ngừa bằng một implant tim.
Các nhịp tim dầu có tiềm năng nghiêm trọng hay chỉ gây khó chịu đều có thể điều trị. Vậy điều hữu ích là cần phải thăm khám ngay khi những cảm giác hồi hộp, đập quá nhanh hay không đều kéo dài nhiều phút và xảy ra một cách đều đặn.
(LE FIGARO 17/12/2012)
florida80
06-03-2019, 21:00
NHỮNG IMPLANT TIM CÀNG NGÀY CÀNG KỸ THUẬT
Vào năm 2011, 60.000 máy tạo nhịp tim (stimulateur cardiaque) đă được cấy để kiểm soát những trái tim đập quá chậm, xảy ra ngày càng nhiều bởi v́ tim nhịp chậm là một dấu hiệu lăo hóa của tim. Những implant này đă có từ những năm 1950 và cho phép gia tốc nhịp tim khi nhịp xuống quá thấp, điều này có thể gây ngất (syncope).
Từ những năm 1980, cũng có những défibrillateur implantable gây sốc điện để khởi phát trở lại những nhịp đập b́nh thường khi nhịp tim trở nên quá nhanh hay bắt đầu trở thành rung thất (fibrillation ventriculaire), nhờ thế tránh chết đột ngột. Năm qua, 9000 máy phá rung (défibrillateur) được cấy (implanté) ở Pháp. Vài trong số những implant này, những máy tạo nhịp (stimulateur) hay máy phá rung (défibrillateur) từ nay cũng có khả năng tái đồng bộ (resynchroniser) sự kết hợp (enchainement) của những xung động điện khác nhau giữa các buồng tim để đảm bảo một sự co bóp có hiệu quả trong vài trường hợp suy tim.
BATTERIE NON RECHARGEABLE
Các implant tim gồm có một hay nhiều sonde được đặt trong tim và một boitier để dẫn đường các xung động điện. Boitier này, từ nay được thu nhỏ lại, chứa một batterie, những yếu tố đo nhịp tim và những thành phần điện tử có thể định chương tŕnh (programmable), có khả năng quản lư những xung động điện cần được phát ra. Càng ngày càng có nhiều modèle có những yếu tố khác để ghi nhịp tim và truyền những thông tin đi xa, xuyên qua da. Batterie không rechargeable và boitier phải được thay sau 6 đến 10 năm. Đó cũng thường là cơ hội để kiểm tra xem các sonde có cũng cần phải thay đổi hay không.
“ Sự thiết đặt pacemaker được thực hiện dưới gây mê tổng quát, và, xuyên qua một đường xẻ dưới xương đ̣n, các sonde được đưa vào qua tĩnh mạch đến tận tim, GS Philippe Mabo, thầy thuốc chuyên khoa tim của CHU de Rennes đă giải thích như vậy. C̣n boitier được đặt dưới da hay dưới cơ khi bệnh nhân hơi gầy.” Sự điều chỉnh các tham số được thực hiện trong những lần kiểm tra đầu tiên trong hai tháng sau khi đặt. Thực hiện kiểm tra mỗi sáu tháng đối với các máy phá rung (défibrillateur) và mỗi năm đối với các máy tạo nhịp (stimulateur).
Can thiệp bao hàm nhũng nguy cơ và những biến chứng có thể xảy ra. Thí dụ có thể rằng các vi khuẩn được mang bởi ḍng máu đến bám vào các sonde trong tim và buộc thầy thuốc khoa ngoại phải lấy chúng đi, điều này đặc biệt khó khăn nếu các sonde đă được đặt lâu trước đó.
“Điều rất quan trọng là bệnh nhân phải hiểu rơ vai tṛ của máy tạo nhịp của ḿnh và học sống tốt với nó, v́ trong đa số các trường hợp, bệnh nhân sẽ giữ nó suốt đời ḿnh, GS Mabo đă nhấn mạnh như vậy. Cần một sự theo dơi tối thiểu để kiểm tra rằng máy tạo nhịp làm tṛn những chức năng của nó. Đó là không quên sự hiện diện của nó. ” Mặt khác, vài implant mới đây cho phép các bệnh nhân truyền một cách đều đặn cho thầy thuốc của ḿnh những thông tin thu được từ boitier, với những kết quả đầy hứa hẹn theo một công tŕnh nghiên cứu được thực hiện bởi kíp của GS Mabo.
(LE FIGARO17/12/2012)
florida80
06-03-2019, 21:02
học: Trúng gió - cảm lạnh
UserPostedImage
Chuyên gia phụ trách giải đáp thắc mắc y học kỳ này là Bác sĩ Hồ Văn Hiền, chuyên khoa nhi và y khoa tổng quát, có pḥng mạch và đang làm việc cho các bệnh viện ở Bắc Virginia.
Thính giả Kiệt Nguyễn, ở New Orleans, bang Louisiana, gởi email đến câu hỏi như sau:
“Kính thưa bác sĩ
Khi tôi c̣n ở Việt Nam trước đây, mỗi khi ớn lạnh, khó chịu trong người th́ người lớn nói là ‘trúng gió’ và mang ra ‘cạo gió’, ngủ qua đêm rồi hôm sau thức dậy, phần lớn là thấy khỏe khoắn trở lại.
Nay tôi ở Mỹ, mỗi khi nói bị ‘trúng gió’ th́ bị bọn trẻ cười, cho là nhà quê, có đứa c̣n nói ‘lần sau thấy gió th́ nhớ né đừng để trúng gió’. Nhưng cũng có lúc tôi thấy bọn trẻ bị cảm lạnh và nói bằng tiếng Anh là ‘catch a cold’, nếu dịch từ theo từ th́ tôi hiểu có nghĩa là ‘bắt phải cảm lạnh’, và đứa khác đùa là ‘told you – not to catch a cold’ và tôi cũng hiểu đại khái là ‘đă bảo rồi -- đừng có bắt cảm lạnh mà.’
Xin hỏi Bác sĩ:
Cảm lạnh (cold) đó có phải người ḿnh vẫn gọi là ‘trúng gió’ đó không?
Kính nhờ Bác sĩ giải thích cho."
UserPostedImage
Bác sĩ Hồ Văn Hiền giải thích:
(Cold, catching a cold and syncope)
Trúng gió
Chúng ta nói ” trúng gió”, giống như người Trung Hoa giải thích lắm chuyện bệnh tật bằng chữ "phong". Phong là gió, và trong chữ "phong" (với nghĩa là “ bệnh phong, bệnh điên cuồng” theo Đào Duy Anh) cũng có chữ 'phong" là gió trong đó. Một từ chúng ta thường nghe "thượng mă phong" ( death during sex) cũng có thể nói nôm na là "trúng gió lúc trên lưng ngựa".
Có lẽ gần với khái niệm gió gây ra bệnh của chúng ta, người tây phương cũng nghi trong không khí có ǵ đem đến gây ra bệnh. Ví dụ chúng ta biết là bệnh sốt rét do muỗi cắn chích vào cơ thể kư sinh trùng Plasmodium nhiễm vào máu rồi sinh sôi nẩy nở, phá huỷ các tế bào hồng cầu trong máu chúng ta. Nhưng đó là nhờ các khám phá mới đây. Hippocrates (460-370 TTC), ông thầy của tây y, mô tả “miasma” như là những khí độc bay từ dưới đất lên, gây ra bệnh nóng sốt, lạnh run, bệnh mà chúng ta bây giờ gọi là bệnh sốt rét mà tiếng Anh gọi là malaria. Malaria do gốc tiếng Ư có nghĩa là "không khí xấu" (mal+aria), tương tự như khi chúng ta nói "sơn lam chướng khí".
Nó như vậy để thấy, đông với tây cũng có nhiều chỗ gặp nhau trong y khoa.
‘Catch a cold” or “catch cold”.
Từ tiếng Anh "to catch a cold" do tin tưởng rằng ra lạnh làm chúng ta bệnh cảm mạo, bị cúm ("flu"). Y khoa căn cứ trên thực chứng (evidence based medicine ) hiện nay cho rằng nghĩ như vậy là sai. Người ta từng cho một đám thanh niên khoẻ mạnh t́nh nguyện ra ngoài trời băng giá và thấy so sánh với nhóm control, chẳng bị cảm cúm ǵ nhiều hơn nhóm kia.
Theo y khoa chính thống (mainstream) th́ chỉ có các siêu vi bệnh cúm, bệnh cảm (rhinovirus, influenza virus) mới làm cho bạn cảm, cúm. Đi mưa bị ướt đầu, gội đầu không làm cho bạn cảm cúm. Cho nên, lúc phụ huynh đem em bé khám bệnh v́ sốt cao, bác sĩ bảo đem nó tắm nước ấm đi cho bớt nóng sốt, th́ ông nội ông ngoại tức th́ cản lại, sợ trúng gió, trúng nước.
Tuy nhiên, tôi nghĩ thực tế không đơn giản như vậy. Nếu chúng ta đang khoẻ mạnh, nhưng trong mũi chúng ta mang sẵn virus cảm cúm, nếu chúng ta ra lạnh, các mạch máu trong mũi, trong họng chúng ta co lại, nhiệt độ trong đường hô hấp giảm xuống làm virus (đang ở sẳn trong đó) sinh sôi nẩy nở lẹ hơn và gây bệnh thật sự.
Bởi vậy, trong một thí nghiệm ở Cardiff, Anh, người ta cho một số người nhúng chân vào nước đá 20 phút và những người này bị cảm nhiều gấp đôi so với người khong nhúng chân vào nước lạnh. Một ví dụ khác, người mắc bệnh suyễn có phế quản nhạy cảm với nhiệt độ không khí hít vào. Nếu ra lạnh, không quấn khăn quàng cổ, mặc áo ấm đầy đủ, có thể lên cơn suyễn (cold- induced asthma), khó thở, ho.. giống như bị cảm.
UserPostedImage
Nguyên nhân có thể gây "trúng gió"
Về vấn đề "trúng gió" th́ cũng phức tạp như vậy. Thường chúng ta gặp một người bề ngoài đang mạnh khoẻ đột nhiên chóng mặt, "xây xẩm", méo mặt, hay té xỉu, bất tỉnh nhân sự, th́ chúng ta nói "trúng gió".
Tất nhiên, có thể là
- Tim đập loạn nhịp (arrhythmia) làm máu không lên kịp tới đầu, cơn đau tim đột ngột (heart attack), tai biến mạch máu năo
- Thường hơn cả là chỉ v́ bệnh nhân bị syncope, ngất xỉu tạm thời vài giây, do hệ thần kinh đối giao cảm hoạt động quá nhiều, tim đập chậm lại, mạch máu dăn nở ra, áp huyết hạ xuống. Nằm xuống, máu lên đầu lại đầy đủ, khoẻ lại như thường.
Tuy nhiên có nhiều trường hợp mà người ta chứng minh là "gió" là thủ phạm đích thực. Ví dụ có trường hợp bệnh nhân dị ứng với protein con ngựa, bệnh nhân chỉ đến gần con ngựa, hay trong gió có "mùi” của nó, và bị phản vệ (anaphylactic reaction), ngất xỉu, shock. Cũng như vậy, người dị ứng với đậu phộng có thể phản ứng chỉ v́ người bên cạnh mở gói đậu phộng ra ăn, gió bay "hơi" đậu phộng qua. Cho nên trên máy bay, người ta không dọn món ăn có đậu phộng nữa.
Mề đay do lạnh (cold urticaria)
Ngoài ra, một số người bị ứng mề đay với lạnh (cold urticaria). Những người này có thể bị mề đay ngứa lúc ra ngoài thời tiết lạnh, gió lạnh, lúc chảy mồ hôi, gió thổi bốc hơi nước mồ hôi làm da lạnh, lúc ăn nước đá, cà rem. Mở tủ lạnh, ngăn đóng đá cũng có thể gây triệu chứng. Nguy hiểm nhất là, nếu nhảy vào hồ tắm lạnh đột ngột, họ có thể bị shock phản vệ (tụt huyết áp, hypotension) và chết nếu không cứu kịp thời.
Định bệnh: đặt nước đá trên một vùng da nhỏ, để 4-5 phút. Lấy ra, đợi 10 phút xem mề đay có nổi lên hay không.
Chữa trị: chất kháng histamin cyproheptadin (*trước đây hay dùng để trẻ em ăn ngon miệng, lên cân).
florida80
06-03-2019, 21:03
Tăng Chất Potassium (Kali) Và Cắt Giảm Muối Ăn
Để Giảm Nguy Cơ Đột Quỵ
(Increase potassium and cut salt to reduce stroke risk)
Lynn Ly phỏng dịch theo Nhật Báo BBC
(htXp://www.bbc.co.uk/news/health-22025341)
UserPostedImage
Trái cây, như chuối, và hầu hết các loại rau cải và các loại đậu (pulses) có nhiều chất potassium (kali)
Nghiên cứu đăng trên Tạp chí Y học Anh đưa đề nghị là tăng chất potassium (kali) trong chế độ ăn uống của chúng ta cũng như cắt giảm lượng muối sẽ làm giảm huyết áp và nguy cơ đột quỵ.
Một nghiên cứu cho thấy là ăn thêm 2-3 bữa ăn tráng miệng bằng trái cây hoặc rau quả mỗi ngày th́ có lợi là có nhiều chất potassium (chất kali).
Dung nạp một lượng muối thấp hơn sẽ làm gia tăng lợi ích hơn nữa, các nhà nghiên cứu cho biết.
Một tổ chức từ thiện về đột quỵ nói: một chế độ ăn uống lành mạnh là ch́a khóa để giảm bớt nguy cơ đột quỵ.
Trong khi sự gia tăng lượng potassium (kali) trong chế độ ăn uống đă được phát hiện là có tác động tích cực đối với huyết áp, nó cũng đă được phát hiện không có ảnh hưởng xấu đến chức năng thận hoặc nồng độ hormone, cuộc nghiên cứu đă cho kết luận vậy.
Kết quả là, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đă ban hành bản qui định đầu tiên về việc dung nạp liều lượng potassium (kali), đề nghị người lớn nên tiêu thụ hơn 4g potassium /kali (hoặc 90 100mmol) mỗi ngày.
Nghiên cứu của BMJ về tác động của liều lượng potassium/kali, được thực hiện bởi các nhà khoa học thuộc Chương Tŕnh Thực Phẩm Thế Giới của Liên Hợp Quốc, Trường Cao Đẳng Imperial tại London và trường Y Khoa Warwick , cùng một số những các trường khác / cơ quan khác, đă xem xét 22 thử nghiệm và 11 nghiên cứu mà có 128.000 người khỏe mạnh tham gia .
Quote:
Lynn chú thích
BMJ là tổ chức nguyên cứu Y Khoa - Khoa học chuyên về hỗ trợ các bác sĩ cho ra quyết định trị liệu tốt hơn cho bệnh nhân
Những kết quả cho thấy là việc gia tăng chất potassium (kali) trong chế độ ăn uống từ 3-4g một ngày đă làm giảm huyết áp ở người lớn.
Việc dung nạp chất potassium (kali) cao lên cũng được liên kết đến nguy cơ đột quỵ được hạ thấp xuống 24% ở những người lớn.
Các nhà nghiên cứu cho biết chất potassium (kali) có thể cũng có những lợi ích về huyết áp cho trẻ em, nhưng cần có thêm nhiều dữ liệu nghiên cứu tiếp nữa.
DUNG DỊCH MUỐI ĂN .
Một nghiên cứu riêng về việc dung nạp lượng muối vào cơ thể, được dẫn đầu bởi các nhà nghiên cứu tại Viện Y tế dự pḥng Wolfson, Queen Mary, Đại học London, đă phân tích những kết quả của 34 cuộc nghiên cứu trước đây mà liên quan đến hơn 3.000 người.
Nguyên cứu đă phát hiện việc giảm dung nạp muối trong ṿng bốn tuần hoặc nhiều tuần đă khiến cho huyết áp giảm xuống đáng kể ở cả người bị cao huyết áp hay người b́nh thường. Điều này xảy ra cho cả nam giới và phụ nữ, không phân biệt chủnng tộc.
Những mức độ giảm huyết áp được biết đến để giảm nguy cơ đột quỵ và bệnh tim.
Graham MacGregor, giáo sư y khoa tim mạch tại Queen Mary, người dẫn đầu cuộc nghiên cứu, cho biết việm giảm dung nạp muối 1 cách "khiêm tốn" tương đương với giảm một nửa lượng muối chúng ta tiêu thụ mỗi ngày.
"Tại Anh Quốc, trung b́nh lượng muối trong chế độ ăn uống của chúng ta là 9.5g, do đó, chúng ta đang nói về việc xuống thành 6g, hoặc nếu bạn rất cẩn thận, bạn có thể giảm xuống đến 5g như đă đề nghị, nhưng việc này rất khó khăn v́ số lượng muối cũng đă có trong thực phẩm khi chúng ta mua.
"Bánh ḿ là nguồn muối lớn nhất trong chế độ ăn uống của chúng ta."
MỤC TIÊU LÂU DÀI
Ông đă nói thêm rằng việc tiếp tục giảm dung nạp muối ăn thành 3g mỗi ngày sẽ có ảnh hưởng lớn hơn trên huyết áp và nên trở thành mục tiêu dài hạn cho việc dung nạp muối vào cơ thể.
Việc khuyến cáo mọi người ăn nhiều trái cây và rau cải có chứa chất potassium /kali cũng quan trọng không kém, ông nói.
"Muối và chất potassium hoạt động có tính cách đối lập nhau . V́ vậy, một sự kết hợp việc dùng ít muối thấp và gia tăng chất potassium /kali cao lên trong chế độ ăn uống của chúng ta có ảnh hưởng lớn hơn hơn là chỉ thay đổi một trong 2 những yếu tố vừa đề cập."
Clare Walton, nhân viên nghiên cứu thông tin của Hiệp hội Tai biến mạch máu năo (Stroke Association), nói rằng huyết áp cao là yếu tố nguy cơ lớn nhất gây đột quỵ.
"Chúng tôi biết rằng việc thay đổi chế độ ăn uống của bạn có thể đi một chặng đường dài để ǵn giữ huyết áp của bạn dưới tầm kiểm soát.
"Nghiên cứu này cho thấy rằng việc giảm lượng muối ăn và ăn nhiều thực phẩm giàu chất potassium (kali) như chuối, rau đậu có thể hạ huyết áp và giảm nguy cơ đột quỵ".
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) khuyến cáo rằng người lớn không nên tiêu thụ nhiều hơn 5g muối một ngày (khoảng một th́a cà phê).
Viện Y tế và Chăm Sóc quốc gia Anh (The UK National Institute for Health and Care Excellence=NICE) khuyến cáo rằng việc dung nạp lượng muối ăn nên được giảm đến 3g một ngày ở người lớn trở nên b́nh thường phổ biến hơn vào năm 2025.
Lynn Ly (05/04/2013)
florida80
06-03-2019, 21:04
Những Ảnh Hưởng Của Bưởi Và Nước Ép Trái Bưởi Trên Một Số Thuốc
(The Effects of Grapefruit and its Juice on Certain Drugs)
Lynn Ly phỏng dịch thông tin của bộ Y Tế Canada (Health Canada)
( ww.hc-sc.gc.ca/hl-vs/iyh-vsv/food-aliment/grapefruit-pamplemousse-eng.php )
VẤN ĐỀ (ISSUE)
Một số loại thuốc có thể gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng hoặc đôi khi đe dọa tính mạng nếu sử dụng thuốc kết hợp với trái bưởi hoặc nước ép trái bưởi
BỐI CẢNH / TRƯỜNG HỢP (BACKGROUND)
Ăn trái bưởi hoặc uống nước ép trái bưởi (bưởi tươi hay bưởi đông lạnh) có thể gia tăng, hoặc làm suy giảm (dù tính cách làm suy giảm ít xảy ra), tác dụng của một số loại thuốc. Có một số chất trong trái bưởi gây trở ngại chiều hướng cơ thể tiếp nhận một số loại thuốc.
Những ảnh hưởng này được biết là do gây ra bởi sự kết hợp giữa trái bưởi hay nước ép trái bưởi với một số loại thuốc và các sản phẩm y tế được sử dụng trong việc điều trị những t́nh huống được liệt kê như sau :
•Đau thắt lồng ngực (Angina)
•Chứng bồn chồn, lo âu ( Anxiety)
•Ung thư (Cancer)
•Động Kinh ,co giật (Convulsions)
•Bệnh trầm cảm (Depression)
•Nam giới bị rối loạn cương dương (Erectile dysfunction)
•Trào ngược tiêu hóa , trào ngược dạ dày (Gastrointestinal reflux)
•Cao huyết áp (High blood pressure)
•Cao mỡ trong máu ( High lipid (cholesterol) levels )
•Bệnh HIV / AIDS (HIV/AIDS)
•Những bệnh Nhiễm trùng (Infections)
•Loạn nhịp tim (Irregular heart rhythms)
•Đào thải cơ quan nội tạng được gán ghép vào cơ thể ( Organ graft rejections)
•Những vấn đề về tâm thần (Psychotic problems)
Loại cam chua chẳng hạn như trái Seville, hay nước ép của nó, có thể có ảnh hưởng tương tự như trái bưởi hay nước ép trái bưởi . Hầu hết các loại trái cây thuộc gịng họ cam quưt, chẳng hạn như chanh vỏ xanh , chanh vỏ vàng, những loại cam ngọt tự nhiên và quưt th́ lại không có ảnh hưởng nhu trái bưởi. Tuy nhiên, tangellos, loại bưởi lai , cũng có thể gây ảnh hưởng trở ngại dược tính của thuốc.
TRÁI BƯỞI VÀ NƯỚC ÉP TRÁI BƯỞI CÓ PHẢN ỨNG VỚI MỘT SỐ LOẠI THUỐC RA SAO ?
Trái bưởi có những chất mà có thể gây ảnh hưởng / gây trở ngại đến phương cách cơ thể hấp thụ và chuyển hóa một số loại thuốc . Sự ảnh hưởng này gia tăng dược tính thuốc cao hơn b́nh thường khi lưu chuyển trong ḍng máu của bạn, mà đôi khi có thể cho kết quả nghiêm trọng hay những phản hồi bất lợi đe dọa đến tính mạng.
Tối thiểu một ly nước ép trái bưởi ( khoảng 8 oz = 250 ml) có thể gia tăng mức độ thuốc trong máu và những ảnh hưởng có thể kéo dài trong ba ngày hoặc lâu hơn. V́ vậy, ngay cả khi bạn uống nước ép trái bưởi vào buổi sáng và đến tối trước khi đi ngủ mới uống thuốc, th́ mức độ của thuốc trong máu của bạn vẫn có thể bị ảnh hưởng .
Những ảnh hưởng này có khác biệt giữa người này và người kia, loại thuốc này với thuốc kia, và giữa các cách tạo ra nước ép trái bưởi. Điều này dẫn đến sự gia tăng không thể phỏng đoán về mức độ thuốc trong máu, mà trong một số trường hợp có thể gây ra ảnh hưởng hết sức nghiêm trọng.
HĂY GIẢM THIỂU TỐI ĐA HUNG HIỂM CHO BẠN (MINIMIZING YOUR RISK)
Hăy thực hiện các biện pháp pḥng ngừa sau đây để giảm thiểu nguy cơ tác dụng phụ khi ăn trái bưởi hay uống nước ép trái bưởi:
•Nếu bạn đang uống thuốc để trị liệu bất kỳ căn bệnh nào liệt kê ở trên , đừng uống nước ép trái bưởi hoặc ăn bưởi dưới bất kỳ h́nh thức pha chộn nào cho đến khi bạn tham vấn với bác sĩ và dược sĩ của bạn về tiềm năng những phản ứng bất lợi đối với loại thuốc bạn uống
•Tránh dùng bất cứ thuốc cùng chung với nước bưởi, trái bưởi cho đến khi bạn đă tham vấn với bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn.
•Hăy đọc nhăn hiệu dán trên thực phẩm và dán trên các sản phẩm thiên nhiên về sức khỏe để đảm bảo là chúng không chứa tính chất của trái bưởi hoặc nước ép trái bưởi , hoặc loại cam Seville.
•Luôn luôn tường thuật bất kỳ phản ứng phụ của thuốc cho bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn biết ngay lập tức.
CHÍNH PHỦ CANADA BẢO VỆ SỨC KHỎE CỦA BẠN THẾ NÀO ?
Bộ Y Tế Canada (Health Canada) đă ban hành một số tài liệu truyền thông để nhắc nhở các bác sĩ , nhân viên Y tế về những tương tác có thể xảy ra giữa trái bưởi và các loại thuốc. Ngoài ra, Bộ Y Tế Canada đang làm việc với các nhà sản xuất dược phẩm mà có dược phẩm bị ảnh hưởng bất lợi với trái bưởi, để đảm bảo rằng các thông tin cần thiết được ghi chú rơ ràng trên nhăn hiệu dược phẩm. Một tư vấn công cộng đă được ban hành về trái bưởi và ảnh hưởng của nó trên một số loại thuốc.
CẦN THÊM THÔNG TIN ?
Hăy liên lạc với bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn nếu bạn có bất kỳ nghi vấn ǵ về sự tương tác có thể xảy ra giữa các loại thuốc bạn đang dùng đối với trái bưởi.
Tường thuật , báo cáo tất cả các phản ứng phụ hoặc tương tác thuốc với bưởi xin liên lạc:
Adverse Reaction Information Unit
Marketed Health Products Directorate
Health Products and Food Branch
Health Canada, Tunney's Pasture, Locator 0201C1
Ottawa, Ontario, K1A 1B9
Telephone: (613) 957-0337 or Toll-free: 1-866-234-2345
Facsimile: (613) 957-0335 or 1-866-678-6789
or visit our website at Drugs and Health Products
(All information below will be available in the Web version only)
Phản ứng phụ hoặc tương tác thuốc với bưởi cũng có thể được báo cáo cho Trung tâm ADR khu vực sau đây:
British Columbia
BC Regional ADR Centre
c/o BC Drug and Poison
Information Centre
1081 Burrard St.
Vancouver BC V6Z 1Y6
Telephone: 604-806-8625
Fax: 604-806-8262
adr@dpic.bc.ca
Ontario
Ontario Regional ADR Centre
LonDIS Drug Information Centre
London Health Sciences Centre
339 Windermere Rd.
London ON N6A 5A5
Telephone: 519-663-8801
Fax: 519-663-2968
adr@lhsc.on.ca
New Brunswick, Nova Scotia, Prince Edward Island and Newfoundland
Atlantic Regional ADR Centre
Queen Elizabeth II Health
Sciences Centre
Drug Information Centre
Rm. 2421, 1796 Summer St.
Halifax NS B3H 3A7
Telephone: 902-473-7171
Fax: 902-473-8612
rxkls1@qe2-hsc.ns.ca
Saskatchewan
Sask ADR Regional Centre
Dial Access Drug Information Service
College of Pharmacy and Nutrition
University of Saskatchewan
110 Science Place
Saskatoon SK S7N 5C9
Telephone: 306-966-6340 or 800-667-3425
Fax: 306-966-6377
vogt@duke.usask.ca
Québec
Québec Regional ADR Centre
Drug Information Centre
Hôpital du Sacré-Coeur de Montréal
5400, boul. Gouin ouest
Montréal QC, H4J 1C5
Telephone: 514-338-2961 or 888-265-7692
Fax: 514-338-3670
cip.hscm@sympatico.c a
Những nguồn thông tin cho các Bác Sĩ, Dược Sĩ và Nhân Viên Y Tế:
The Compendium of Pharmaceuticals and specialities (CPS). Lilac Section: Clin Info-Drug Administration and Grapefruit Juice.
Lynn Ly (11-04-2012)
florida80
06-03-2019, 21:05
Thuốc Cai Nghiện Hút Thuốc Lá Liên Quan Đến
Nguy Cơ Tim Mạch, Trầm Cảm và Ư Tưởng Tự Sát
('Quit smoking' drug linked to heart risk )
Lynn Ly phỏng dịch bản tin từ trang web Health của BBC News
http://www.bbc.co.uk/news/health-14015089
Theo BBC New , ngày 4 tháng 7, 2011
Các nhà nghiên cứu cho biết là một loại thuốc được người hút thuốc sử dụng để giúp họ bỏ thuốc lá đang làm tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim (heart attacks) và các vấn đề tim mạch nghiêm trọng khác.
Một nhóm nghiên cứu quốc tế đă cứu xét lại những cuộc nghiên cứu liên quan đến hơn 8.000 người hút thuốc lá, và đă phát hiện người sử dụng thuốc Champix bị phát bệnh nhiều hơn những người dùng loại thuốc ngụy tạo khác (the other dummy drugs)
Việc cứu xét này, được đăng tải trên Tạp chí Hiệp hội Y tế Canada (the Canadian Medical Association Journal, www.cmaj.ca/content/183/12/1359 ), đề nghị người nghiện hút thuốc không nên sử dụng thuốc để cai nghiện .
Tuy nhiên, các nhà sản xuất Pfizer nói rằng thuốc giúp cai nghiện là "một chọn lựa hỗ trợ quan trọng" (important option) để trợ giúp người nghiện bỏ hút thuốc lá, và các chuyên gia đă "nghiêm trọng hóa" việc hút thuốc như đó là 1 yếu tố chính về nguy cơ bệnh tim .
Thuốc Champix (varenicline)được chỉ định trong hơn 955,000 toa thuốc tại Anh Quốc vào năm ngoái (2010). Hoạt tính của thuốc là cắt giảm cơn thèm thuốc, nhưng trong quá khứ thuốc có liên quan đến bệnh trầm cảm và những ư tưởng tự sát.
"NHỮNG LỢI ÍCH SO VỚI NHỮNG HUNG HIỂM RỦI RO"
Việc cứu xét này, được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu tại trung tâm Wake Forest Baptist Medical thuộc Bắc Carolina, trường đại học Y khoa Johns Hopkins - Maryland, và trường Đại học Anh Quốc Eat Anglia (the UK's University of East Anglia) , đă cứu xét 14 cuộc nghiên cứu nhắm vào các vấn đề tim mạch ở những người dùng thuốc cai nghiện
Tất cả đơn vị được loại trừ những người có tiền sử bệnh tim, và được kéo dài từ bảy tuần đến một năm. Phần lớn những người tham gia là nam giới ở độ tuổi dưới 45.
Trong số 4.908 người dùng thuốc Champix (được gọi là Chantix ở Mỹ), 52 người có trải nghiệm về vấn đề tim mạch nghiêm trọng như nhồi máu cơ tim (heart attack) hay chứng loạn nhịp tim / nhịp tim bất thường (arrhythmia) so với 27 người trong số 3308 người dùng các loại thuốc ngụy tạo (dummy drugs).
Cơ quan Quản lư thực phẩm và thuốc men Hoa Kỳ (FDA) đă ra cảnh báo được in ra trên tờ giấy thông tin nho nhỏ về nguy cơ những ư tưởng tự sát và mới gần đây đă bổ xung vào tờ thông tin về nguy cơ tim mạch đối với những người đă có bệnh tim sau khi xem xét một nghiên cứu trên 700 người.
Trên tạp chí, các nhà nghiên cứu cho biết: "Các bác sĩ lâm sàng nên cẩn thận cân bằng giữa những rủi ro nhiêm trọng về tim mạch có liên quan với việc sử dụng thuốc varenicline so với các lợi ích được biết đến của thuốc cai nghiện thuốc lá."
Bác sĩ Yoon Loke của trường đại học East Anglia, người đă thực hiện việc cứu xét, đă đồng ư về các con số liên quan là nhỏ, nhưng nói lên khả năng là các cuộc nghiên cứu đă chỉ xem xét ở những người khỏe mạnh - và ông cho rằng nguy cơ có thể lớn hơn cho những người hút thuốc mà đă có vấn đề về tim mạch .
Ông bổ xung thêm : "Có rất nhiều những chọn lựa khác để trợ giúp người ta cai nghiện thuốc lá mà không đ̣i hỏi dùng thuốc cai nghiện"
HĂY THAM VẤN VỚI BÁC SĨ CỦA BẠN
Doireann Maddock, một y tá nhiều thâm niên về tim mạch tại Tổ Chức Tim Mạch của Anh Quốc (British Heart Foundation), cho biết: "Hút thuốc lá là một trong những yếu tố nguy cơ chính gây ra bệnh tim. Trong thực tế, người hút thuốc đă nhân đôi nguy cơ bị nhồi máu cơ tim (heart attack) so với những người chưa bao giờ hút thuốc, và việc cai bỏ hút thuốc là điều quan trọng duy nhất nhất mà bạn có thể làm để cải thiện sức khỏe tim mạch của bạn."
Bà nói sự phát hiện trong nghiên cứu là "một mối quan ngại cần lưu ư" , nhưng cần thiết có thêm những nghiên cứu tiếp theo sau đó trước khi cho kết luận chắc chắn loại bỏ thuốc cai nghiện hút thuốc.
"Những người đang sử dụng thuốc varenicline để giúp họ bỏ thuốc lá th́ không nên ngừng sử dụng nó bởi v́ tự nghiên cứu một ḿnh, ngược lại nên tṛ chuyện với bác sĩ của họ về việc này và về các biện pháp đă có sẵn để chọn lựa lại."
Một phát ngôn viên của Pfizer, công ty sản xuất thuốc cai nghiện, cho biết công ty không đồng ư với giải thích của các dữ liệu "trong nghiên cứu, cho biết đă có " hạn chế ".
Ông nói thêm là: "Champix là một lựa chọn điều trị quan trọng đối với những người hút thuốc muốn bỏ thuốc lá . Bệnh nhân nên tham khảo ư kiến với các bác sĩ của họ để xác định những loại thuốc thích hợp cho họ."
Cơ Quan Qui Định Về Các Sản Phẩm Chăm Sóc Sức Khoẻ (The Medicines Healthcare products Regulatory Agency = MHRA), cơ quan giám sát an toàn của các loại thuốc được sử dụng ở Anh, tuyên bố là họ đă nhận được 306 báo cáo về các phản ứng phụ của thuốc liên quan đến vấn đề tim mạch do thuốc cai nghiện kể từ khi được đưa ra thị trường trong năm 2006 - và có 17 trường hợp tử vong trong số đó.
Tuy nhiên, họ cũng đă nhấn mạnh rằng các báo cáo đó đă không chứng minh được một liên kết đến thuốc cai nghiện, và các yếu tố cơ bản khác có thể đă dự phần gây ra tác hại.
Quote:
Lynn chú thích:
Cả thảy có hơn 950,000 loại toa thuốc về cai nghiện hút thuốc lá ở Anh Quốc vào năm trước (2010) khi bản tin này đưa ra .
Hiện tại , th́ có khá nhiều liệu pháp trong việc điều trị cai nghiện hút thuốc lá để lựa chọn. Việc dùng thuốc cai nghiện đang được lưu ư v́ luôn cho phản ứng phụ và 1 số tác hại nhưng các cuộc nghiên cứu vẫn chưa cho chứng minh đầy đủ để đi đến khẳng định là nên loại bỏ chất nào trong thuốc, hoặc loại bỏ loại thuốc cai nghiện nào, hay cấm chỉ định dùng loại thuốc cai nghiện trong trường hợp nào
Lynn Ly (04-07-2011)
florida80
06-03-2019, 21:06
TẬP THỂ DỤC GÂY HEN SUYỄN
(EXERCISE INDUCED ASTHMA)
Lynn Ly Phỏng Dịch theo thông tin Đại Học Y OHIO-Hoa Kỳ
Kiểu tập thể dục gây Hen Suyễn (Asthma) c̣n được gọi là thể dục thúc đẩy sự co thắt phế quản (EIB = bronchospasm). Sự co thắt phế quản là một trong những loại bệnh hen suyễn gây ra các vấn đề hô hấp như ho, thở kḥ khè (wheezing) hay co thắt lồng ngực (chest tightness) trong khi hoặc sau khi tập thể dục.
Những người bị loại hen suyễn này có những đường ống khí rất nhạy cảm. Thở nhanh / thở gấp / sự tăng thông khí (fastbreathing = hyperventilation) trong khi tập thể dục khiến cho các đường dẫn khí vào phổi hạ nhiệt và khô đị . Sự thay đổi nhanh chóng ở nhiệt độ không khí và độ ẩm khiến cho các ống khí thắt chặt lại và trở nên nhỏ hơn. Những ống khí nhỏ làm cho hô hấp khó khăn hơn. Ô nhiễm không khí, phấn hoa, hay bào tử nấm mốc (mold spores) được hít vào phổi trong khi tập thể dục cũng có thể gây ra các vấn đề về hô hấp.
Nếu bạn bị bệnh hen suyễn măn tính, dị ứng, các vấn đề về xoang mũi (sinus) hoặc có tiền sử gia đ́nh bị dị ứng, bạn có thể có nguy cơ bị t́nh trạng nàỵ .
NHỮNG DẤU HIỆU (SIGNS)
Những vấn đề về hô hấp khởi phát sau khi bạn bắt đầu tập thể dục hoặc 5 đến 20 phút sau khi ngừng tập thể dục. Các dấu hiệu thường gặp nhất là:
•Kḥ khè (Wheezing)
•Ho (Coughing)
•Mệt mỏi (Tiredness)
•Thở hổn hển , khó thở (Shortness of Breath)
•Co thắt lồng ngực / Lồng ngực như bị bó chặt (Chest Tightness)
THỬ NGHIỆM (TESTING)
Bác sĩ sẽ hỏi bạn về khả năng hô hấp của bạn và làm xét nghiệm, như kiểm tra tim mạch và hơi thở của bạn. Các xét nghiệm sau đây này cũng có thể được sử dụng:
•Thử nghiệm thực hiện các kiểu thể dục có tính cách thử thách va` đo hơi thở của bạn trong khi bạn đi bộ hoặc chạy trên máy chạy bộ (treadmill), hoặc ddang dda.p loa.i xe đạp thể dục.
• Thử nghiệm sự chủ động gia tăng thông khí Eucapnic ( Eucapnic voluntary hyperventilation test = EVH) được thực hiện băng cách hít thở nhanh vào trong một ống đo lường lượng không khí đi vào và đi ra khỏi phổi.
ĐIỀU TRỊ (TREATMENT)
Sự co thắt phế quản (EIB) có thể được điều trị bằng thuốc trước khi tập thể dục. Thuốc đặt trong một ống hít hơi được hít vào phổi 15 phút trước khi tập thể dục. Thuốc này nhanh chóng mở rộng các đường ống dẫn khí và giữ cho chúng mở rộng ra khoảng từ 4 đến 6 giờ. Nếu thuốc hít trước khi tập thể dục không hiệu guả hoặc nếu vấn đề hô hấp trở nên trầm trọng hơn, hăy nói chuyện với bác sĩ của bạn. Bạn có thể cần thay đổi loại thuốc.
KIỂM SOÁT CÁC DẤU HIỆU CỦA BẠN (CONTROLLING YOUR SIGNS)
Không nên để loại bệnh hen suyễn này ngăn cản các hoạt động mà bạn thích hoặc việc luyện tập thể dục. Một số bài tập và thể thao có thời gian nghỉ giữa chừng sẽ ít gây ra những vấn đề hô hấp hơn, như bóng chày (baseball), bóng rổ / bóng chuyền (volleyball), tennis, trượt tuyết xuống đồi dốc , và golf, có thể dễ dàng hơn để thực hiện. Dưới đây là những cách khác làm giảm thiểu các dấu hiệu hen suyễn của bạn:
•Hăy làm nóng người bằng cách thực hiện các động tác co giăn (stretching) hoặc đi bộ chậm chậm từ 5 đến 10 phút trước khi tập thể dục ở mức độ trung b́nh (moderate exercise = thể dục ở mức độ không đ̣i hỏi tận dụng sức lực quá mức) .
•Tự cho ḿnh một khoảng thời gian nghỉ ngơi 5 phút khi có dấu hiệu hen suyễn phát khởi .
•Tập thể dục trong nhà khi thời tiết bên ngoài lạnh và khô, hoặc nếu có cảnh báo về sự ô nhiễm không khí hay ô nhiễm bầu khí quyển, hoặc có cảnh báo về số lượng phấn hoa tăng cao.
•Hô hấp bằng mũi trong khi luyện tập thể dục nhẹ nhàng. Mũi làm ấm và bổ sung thêm độ ẩm cho không khí hơn thở bằng miệng.
•Dùng khăn quàng hoặc mặt nạ che mũi và miệng của bạn để làm ấm không khí trước khi không khí đi vào phổi.
•Nói chuyện với bác sĩ của bạn về phương cách kiểm soát các dấu hiệu bị dị ứng như nghẹt mũi, hắt hơi, ngứa mắt. Dị ứng có thể làm cho dấu hiệu hẹn suyễn trở nên tồi tệ hơn.
Lynn Ly (18/09/2012)
florida80
06-03-2019, 21:07
XUẤT HIỆN MỘT DẠNG KƯ SINH TRÙNG SỐT RÉT KHÁNG THUỐC ARTEMISININ
Theo Nhật Báo BBC , Rebecca Morelle tường thuật (02-05-2013).
Lynn Ly phỏng dịch
Loại thuốc chính dùng chữa trị sốt rét (artemisinin) dường như không có tác dụng đối với một dạng kư sinh trùng sốt rét mới.
Artemisinin là một loại thuốc hàng đầu trong cuộc chiến chống lại bệnh sốt rét. Nó được sử dụng trên toàn thế giới, và có thể loại trừ căn bệnh lây nhiễm này chỉ trong vài ngày.
Tuy nhiên những báo cáo về sự kháng thuốc bắt đầu xuất hiện trong khu vực phía Tây nước Cambodia vào năm 2008, và sự kháng thuốc này hiện giờ lan tràn đến những vùng khác trong khu vực phía Đông Nam Châu Á .
Để điều tra, các nhà khoa học đă xắp xếp trật tự các gien của hơn 800 kư sinh trùng gây bệnh sốt rét được thu thập từ khắp nơi trên thế giới .
Họ đă nhận thấy rằng một số chủng loại hiện diện tại Cambodia có sự khác biệt đáng kể so với những chủng loại hiện có, và những chủng loại mới này đă có thể chịu đựng được sự điều trị bằng thuốc Artemisinin .
Những nhà nghiên cứu vẫn chưa biết các kư sinh trùng đang đề kháng những thuốc này ra sao .
Tuy nhiên họ cho biết rằng sự am hiểu về đặc điểm cấu trúc di truyền của kư sinh trùng sẽ giúp họ nhanh chóng phát hiện và lần theo dấu vết các chủng loại này nếu chúng tiếp tục lây lan.
Lynn Ly (02-05-2013)
florida80
06-03-2019, 21:07
XUẤT HIỆN MỘT DẠNG KƯ SINH TRÙNG SỐT RÉT KHÁNG THUỐC ARTEMISININ
Theo Nhật Báo BBC , Rebecca Morelle tường thuật (02-05-2013).
Lynn Ly phỏng dịch
Loại thuốc chính dùng chữa trị sốt rét (artemisinin) dường như không có tác dụng đối với một dạng kư sinh trùng sốt rét mới.
Artemisinin là một loại thuốc hàng đầu trong cuộc chiến chống lại bệnh sốt rét. Nó được sử dụng trên toàn thế giới, và có thể loại trừ căn bệnh lây nhiễm này chỉ trong vài ngày.
Tuy nhiên những báo cáo về sự kháng thuốc bắt đầu xuất hiện trong khu vực phía Tây nước Cambodia vào năm 2008, và sự kháng thuốc này hiện giờ lan tràn đến những vùng khác trong khu vực phía Đông Nam Châu Á .
Để điều tra, các nhà khoa học đă xắp xếp trật tự các gien của hơn 800 kư sinh trùng gây bệnh sốt rét được thu thập từ khắp nơi trên thế giới .
Họ đă nhận thấy rằng một số chủng loại hiện diện tại Cambodia có sự khác biệt đáng kể so với những chủng loại hiện có, và những chủng loại mới này đă có thể chịu đựng được sự điều trị bằng thuốc Artemisinin .
Những nhà nghiên cứu vẫn chưa biết các kư sinh trùng đang đề kháng những thuốc này ra sao .
Tuy nhiên họ cho biết rằng sự am hiểu về đặc điểm cấu trúc di truyền của kư sinh trùng sẽ giúp họ nhanh chóng phát hiện và lần theo dấu vết các chủng loại này nếu chúng tiếp tục lây lan.
Lynn Ly (02-05-2013)
florida80
06-03-2019, 21:09
LOÀI CHUỘT GERBILS BỊ ĐIẾC ĐĂ NGHE LẠI ĐƯỢC SAU KHI CHỮA TRỊ BẰNG TẾ BÀO GỐC
(DEAF GERBILS 'HEAR AGAIN' AFTER STEM CELL CURE)
Lynn Ly phỏng dịch thông tin từ báo BBC
Theo James Gallagher Health and science reporter, BBC News
12/09/2012
Các nhà nghiên cứu Anh cho biết họ đă thực hiện một bước tiến lớn trong việc điều trị chứng điếc sau khi các tế bào gốc đă được sử dụng để khôi phục lại thính giác ở động vật ngay ở lần đầu thí nghiệm.
Một nghiên cứu trong các báo cáo trên tạp chí Nature (wXw.nature.com/nature/journal/vaop/ncurrent/full/nature11415.html )cho biết : Một phần khả năng thích giác có biểu hiện tiến bộ khi các dây thần kinh trong tai, truyền âm thanh vào trong năo, khi được tái tạo ở loài chuột gerbils
Để có được cùng một sự cải thiện ở những người bị điếc sẽ là một sự thay đổi từ t́nh trạng không thể nghe thấy ǵ đến có thể nghe một cuộc tṛ chuyện. Tuy nhiên, việc điều trị cho con người vẫn c̣n là một viễn cảnh xa xôi.
Nếu bạn muốn nghe radio hoặc có một cuộc tṛ chuyện với một người bạn, tai của bạn phải hoán chuyển các sóng âm thanh trong không khí thành tín hiệu điện từ (electrical signal) mà năo có thể hiểu được tín hiệu đó . Điều này xảy ra ở tại sâu bên trong bộ phận tai trong, nơi những rung động di chuyển những sợi lông nhỏ và sự di chuyển này tạo ra một tín hiệu điện từ.
Tuy nhiên, trong khoảng 1/10 người bị mất thính giác hoàn toàn , tế bào thần kinh tiếp nhận tín hiệu bị hư hại . Việc này cũng giống như thả dùi cui sau chặng đầu tiên của một cuộc chạy đua tiếp sức.
Mục đích của các nhà nghiên cứu tại Đại học Sheffield là thay thế những tế bào thần kinh "baton-dropping" (baton-dropping =spiral ganglion neurons = tế bào thần kinh hạch xoắn ốc ) bằng những tế bào mớị
Họ đă sử dụng tế bào gốc từ một phôi thai người (human embryo), tế bào có khả năng trở thành bất kỳ loại tế bào nào trong cơ thể con người từ dây thần kinh, bắp thịt , da đến thận.
Một hợp chất hóa học được thêm vào các tế bào gốc mà chuyển đổi tế bào gốc thành các tế bào tương tự như các tế bào thần kinh hạch xoắn ốc. Đây là cách tiêm chích tinh vi vào bên trong tai của 18 con chuột gerbils bị điếc. Qua 10 tuần khả năng nghe của các con chuột gerbils được cải thiện. Trung b́nh là 45% khả năng thính giác của chúng đă được phục hồi vào lúc cuộc nghiên cứu kết thức.
Tiến sĩ Marcelo Rivolta nói: "Điều này có nghhĩa là từ t́nh trạng bị điếc, khi bạn không thể nghe thấy một tiếng động của xe cam nhông hoặc xe tải trên đường, đến bạn có thể nghe được một cuộc tṛ chuyện. Việc này chưa phải là cách trị liệu khỏi hẳn bệnh điếc, họ sẽ không có thể nghe được tiếng th́ thầm, nhưng họ chắc chắn sẽ có thể để duy tŕ một cuộc tṛ chuyện trong một căn pḥng."
Khoảng 1/3 trong số những con chuột gerbils đă hồi đáp thực sự tốt về cách điều trị này với con số phục hồi tăng lên đến 90% về khả năng thính giác , trong khi chỉ có dưới 1/3 trong số những con chuột gerbils th́ như không có phản ứng ǵ cả .
Những con chuột Gerbils được sử dụng v́ chúng có thể nghe âm thanh trong một phạm vi tương tự như người, không giống như những loài chuột khác mà có thể nghe âm thanh ở tần số cao hơn.
Các nhà nghiên cứu phát hiện việc cải thiện thính giác bằng cách đo sóng năo (brainwaves). Loài chuột Gerbils cũng đă được thử nghiệm trong ṿng chỉ có 10 tuần. Nếu điều này trở thành một phương pháp điều trị cho người th́ hiệu quả sẽ cần phải được chứng nghiệm trong thời gian dài hơn .
Cũng c̣n có những các câu hỏi xung quanh sự an toàn và đạo đức của các phương pháp điều trị tế bào gốc mà sẽ cần phải được giải quyết.
'RẤT ĐÁNG KHÍCH LỆ'
Giáo sư Dave Moore, giám đốc của Viện Nghiên cứu Y học của Hội đồng Nghe Nghiên cứu ở Nottingham (the Medical Research Council's Institute of Hearing Research in Nottingham), đă nói với BBC: "Thật là một thời điểm quan trọng, phát hiện này thực sự là một bước tiến bộ lớn." Tuy nhiên, ông cảnh báo rằng sẽ có khó khăn trong việc áp dụng thành tích này ở con người . Ông nói: "Vấn đề thực sự lớn nhất là việc đưa tế bào gốc vào bộ phận của tai trong, nơi tê bào gốc sẽ hoạt động tốt. Tế bào gốc cực kỳ nhỏ và rất khó khăn để đưa vào và đó sẽ là một điều cam kết đáng lo ngại "
Tiến sĩ Ralph Holme, người đứng đầu nghiên cứu hóa sinh của cơ quan từ thiện về khiếm thính (the charity Action on Hearing Loss), cho biết: "Nghiên cứu này là rất đáng khích lệ và cung cấp cho chúng tôi hy vọng thực sự rằng việc này sẽ có thể để sửa chữa nguyên nhân thực sự của một số t́nh trạng mất thính giác trong tương lai
Đối với hàng triệu người bị giảm thính lực đang bị bào ṃn chất lượng sống th́ điều này chưa thể đến sớm hơn"
Lynn Ly (12/09/2012)
florida80
06-03-2019, 21:10
BỆNH TIỂU ĐƯỜNG LIÊN KẾT ĐẾN UNG THƯ VÚ Ở PHỤ NỮ SAU MĂN KINH
( Diabetes Link To Breast Cancer In Post-Menopausal Women )
Lynn Ly phỏng dịch thông tin từ báo BBC
Theo Báo BBC , 13 /09/ 2012
Những phụ nữ ở thời kỳ sau khi măn kinh bị bệnh tiểu đường loại 2 cho biểu hiện có nguy cơ ung thư vú cao hơn 27% so với b́nh thường, các chuyên gia tuyên bố.
Một nhóm nghiên cứu quốc tế, viết trên Tạp Chí về Ung Thư của Anh Quốc (the British Journal of Cancer), đă kiểm tra 40 nghiên cứu riêng biệt khi quan sát tiềm năng liên kết giữa ung thư vú và bệnh tiểu đường.
Bị béo ph́ hoặc dư thừa thể trọng (trong lượng cơ thể) có liên quan đến cả hai t́nh trạng (sau khi măn kinh và tiểu đường loại 2).
Tuy nhiên, các chuyên gia về ung thư cũng cho rằng có thể có một kết nối trực tiếp giữa cả hai.
Có hơn 56.000 phụ nữ bị ung thư vú tham gia vào những nghiên cứu này .
Những phụ nữ ở thời kỳ sau khi măn kinh bị bệnh tiểu đường loại 2 đă bị gia tăng 27% hung hiểm về ung thư vú. Tuy nhiên, không có sự liên kết đối với phụ nữ ở thời tiền măn kinh (Pre-Menopause) hoặc những người có bệnh tiểu đường loại 1.
Các nhà nghiên cứu cũng đề nghị rằng chỉ số tỷ lệ về trọng lượng và chiều cao (BMI=body mass index) mà cao , thường liên kết với bệnh tiểu đường, có thể là một yếu tố góp phần cơ bản.
HOẠT ĐỘNG CỦA HORMONE / NỘI TIẾT TỐ
Giáo sư Peter Boyle, chủ tịch Hiệp Hội Quốc tế về Nghiên Cứu Pḥng Ngừa (the International Prevention Research Institute) , trưởng nhóm nghiên cứu, cho biết: "Chúng tôi vẫn chưa biết cơ chế ẩn tàng lư do tại sao bệnh tiểu đường loại 2 có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú . Nói khác đi, ư nghĩ cho rằng bị dư thừa trọng lượng thường liên quan đến bệnh tiểu đường loại 2, và ảnh hưởng do thay đổi hoạt động hormone có thể chịu một phần trách nhiệm đối với tiến tŕnh mà dẫn đến sự phát triển ung thư vú. Tuy nhiên , cũng không thể loại trừ một số yếu tố liên quan đến bệnh tiểu đường mà có thể được tham gia vào quá tŕnh nàỵ."
Martin Ledwick, người y tá trưởng về thông tin tại Viện Nghiên Cứu Ung Thư Anh Quốc ( Cancer Research UK ), đă nói " Nghiên cứu này không chứng minh rơ ràng có mối quan hệ nguyên nhân và kết quả giữa bệnh tiểu đường và nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ sau măn kinh. Tuy nhiên như chúng ta đă biết chỉ số tỷ lệ về trọng lượng và chiều cao (high BMI) cao có thể góp phần tăng nguy cơ của cả hai : bệnh tiểu đường loại 2 và bệnh ung thư vú, điều này có nghĩa là phụ nữ nên cố gắng duy tŕ tốt trọng lượng cơ thể để được khoẻ mạnh "
Lynn Ly (17/09/2012)
florida80
06-03-2019, 21:10
GEN KHUYẾT TẬT LIÊN QUAN ĐẾN CƠN ĐAU THẮT LƯNG
(Gene flaw linked to low back pain)
Lynn Ly phỏng dịch thông tin từ báo BBC
Theo Báo BBC , 21 /09/ 2012
Các nhà khoa học đă xác định một loại khuyết tật gen có liên quan đến những vấn đề của đĩa đệm cột sống là một nguyên nhân phổ biến của đau vùng dưới thắt lưng (low back pain).
Nghiên cứu của Anh Quốc, được công bố trong sách Niêm Giám Những Bệnh Thấp Khớp (the Annals of Rheumatic Diseases), đă quan sát 4.600 người và t́m thấy gen PARK2 có liên quan đến những vấn đề đĩa đệm cột sống do tuổi tác .
A third of middle-aged women have problems with at least one spinal disc - and the condition is known to be inherited in up to 80% of patients.
Một phần ba trong tổng số phụ nữ trung niên có vấn đề vế đĩa đệm cột sống ít nhất một và t́nh trạng được biết đến là được di truyền th́ lên 80% trong số người bệnh.
Các chuyên gia cho biết việc phát hiện loại gen nay có thể dẫn đến các phương pháp điều trị mới mà đang được tiến hành thực hiện.
Chứng bệnh đau lưng làm Anh Quốc phí tổn 7 tỷ Euros hằng năm v́ chi phí nghỉ việc do bệnh và chi phí điều trị, nhưng những nguyên nhân của t́nh trạng này không được hiểu thật trọn vẹn .
Ở chứng thoái hóa đĩa điệm cột sống vùng thắt lưng (Lumbar Disc Degeneration = LDD), đĩa đệm cột sống bị mất nước và mất đi bề dày, và các đốt sống (vertebrae) bên cạnh chúng phát triển tăng trưởng xương được gọi là osteophytes, dẫn đến đau vùng dưới thắt lưng .
Những nhà nghiên cứu của trường cao đẳng King tại London (The King's College London)đă tiến hành Chụp H́nh Cộng Hưởng Từ Trường (MRI scans) tất cả những người trong cuộc nghiên cứu này và quan sát sự khác biệt trong sự thành lập di truyền của chúng.
Họ phát hiện ra các biến thể (variants) của gen PARK2 xuất hiện có hiệu lực ở những người bị thoái hóa đĩa đệm và sự ảnh hưởng đến tốc độ mà t́nh trạng của họ bị xấu đi.
NHỮNG TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG
Các nhà nghiên cứu, được tài trợ bởi Wellcome Trust và Arthritis Research của Anh Quốc, nói rằng hiện nay cần có thêm nhiều nghiên cứu nữa để t́m hiểu làm thế nào gen ảnh hưởng đến t́nh trạng chứng bệnh.
Nhưng họ đề nghị là có thể làm ngừng hoạt động của gen này ở những người bị chứng thoái hóa đĩa điệm cột sống vùng thắt lưng (LDD).
Và họ nói rằng chứng thoái hóa đĩa điệm cột sống vùng thắt lưng có thể là yếu tố môi trường - chẳng hạn như chế độ ăn uống và lối sống có thể tạo ra những ǵ đă được biết như là những biến đổi biểu sinh ( epigenetic changes) đối với gen.
Các nhà nghiên cứu nói rằng một khi cơ chế được hiểu rơ tường tận, phát hiện của họ có thể dẫn đến việc tiến hành những phương pháp điều trị mới cho chứng bệnh đau dưới thắt lưng.
Tiến sĩ Frances Williams, thuộc bộ phận nghiên cứu song sinh và dịch tễ học di truyền (genetic epidemiology) tại trường Cao đẳng King tại London, ông đă làm việc về nghiên cứu này, cho biết: "Chúng tôi biết rằng những người bị ṃn đĩa đệm cột sống là có nguy cơ gia tăng từng phần về chứng đau dưới thắt lưng, nhưng những đĩa đệm cốt sống của người b́nh thường th́ rất khó để có được để nghiên cứu như vậy cho đến bây giờ kiến thức của chúng ta về sinh học của con người b́nh thường dă không đầy đủ.
"Công việc trong tương lai của các nhà nghiên cứu đĩa đệm để xác định vai tṛ của gen PARK2 sẽ phải thực hiện, chúng tôi hy vọng sẽ làm sáng tỏ một trong hầu hết các nguyên nhân quan trọng của chứng đau vùng dưới thắt lưng.
"Đúng là khả thi nếu chúng ta có thể xây dựng trên những phát hiện này và nâng cao kiến thức của chúng ta về t́nh trạng đau lưng, chúng ta một ngày có thể có phát triển mới, phương pháp điều trị hiệu quả hơn cho bệnh đau lưng gây ra bởi t́nh trạng phổ biến này".
Giáo sư Alan Silman, giám đốc y tế tại Arthritis Research của Anh Quốc , cho biết: "Chứng thoái hóa đĩa đệm cột sống vùng thắt lưng là một nguyên nhân phổ biến của đau dưới thắt lưng, và nó đang được biết có tới 80% các trường hợp là do cơ sở di truyền, nhưng đây là những thời điểm đầu của một gen vừa được xác định là có liên quan đến cơn đau thường xuyên và t́nh trạng bị vô hiệu hóa.
"Đúng là một khởi đầu đầy hứa hẹn và cung cấp cho chúng ta với các đầu mối đầu tiên về căn bản di truyền của t́nh trạng này, và với nghiên cứu sâu xa hơn, có khả năng có thể dẫn đến sự phát triển về việc điều trị hiệu quả hơn".
Lynn Ly (21/09/2012)
florida80
06-03-2019, 21:13
PHƯƠNG PHÁP "ĐƠN GIẢN" ĐỂ G̀N GIỮ SỨC KHỎE:
Uống 1 ly Nước Ấm vào Buổi Sáng khi thức dậy
(Nguồn: MyiLife)
ĐIỀU G̀ XẢY RA VỚI CƠ THỂ KHI BẠN "UỐNG NƯỚC ẤM" LÚC ĐÓI VÀO MỖI SÁNG?
Nhiều người thường bắt đầu ngày mới với một tách trà nóng hay cà phê. Nhưng bạn có biết rằng, uống một cốc nước lọc ấm mỗi sáng sẽ rất có lợi cho bạn.
Uống nước ấm khi dạ dày trống rỗng vào mỗi buổi sáng có nhiều tác dụng tích cực đối với cơ thể của bạn, bao gồm cả thúc đẩy tiêu hóa, loại bỏ độc tố khỏi cơ thể, giảm đau, cải thiện lưu thông...
Dưới đây là những ǵ sẽ xảy ra khi bạn uống nước ấm mỗi sáng khi đang đói:
1) Giải độc cho các cơ quan trong cơ thể
Uống một cốc nước nóng vào buổi sáng có thể loại bỏ các độc tố nguy hiểm từ cơ thể của bạn. Nước và các chất lỏng khác có tác phân hủy thức ăn trong dạ dày và thúc đẩy tiêu hóa. Bởi vậy, ngay cả sau bữa ăn, thay v́ uống nước lạnh, bạn hăy uống nước ấm để cải thiện quá tŕnh tiêu hóa.
2) Cải thiện sự trao đổi chất
Nếu bạn bị đau dạ dày, hăy uống một cốc nước ấm vào buổi sáng trước khi ăn sáng. Điều này sẽ cải thiện sự trao đổi chất và cơ thể của bạn sẽ hoạt động đúng cách. Hơn nữa, uống nước ấm lúc này sẽ làm dịu các chứng đau dạ dày và giúp bạn cảm thấy dễ chịu.
3) Giúp giảm đau
Những cơn đau do chuột rút trong thời ḱ kinh nguyệt có thể được xoa dịu bằng cách uống nước ấm. Trên thực tế, đây là một phương thuốc tự nhiên mà vẫn có tác dụng. Nước ấm làm giăn các cơ bắp của dạ dày và giúp làm dịu cơn đau. Uống nước ấm không chỉ tốt cho những cơn đau do chuột rút trong ḱ kinh nguyệt mà c̣n có tác dụng đối với bất ḱ cơn đau do chuột rút ở thời điểm nào v́ nước ấm khi vào cơ thể giúp cải thiện lưu thông mao mạch và làm thư giăn các cơ bắp.
4) Giúp giảm cân
Uống một cốc nước ấm vào buổi sáng có thể giúp bạn giảm cân nhanh hơn. Lư do là bởi v́ nước ấm làm tăng nhiệt độ của cơ thể và các cơ quan bên trong cơ thể. Điều này dẫn đến khả năng đốt cháy nhiều calo hơn. Uống nước ấm cũng có tác dụng tích cực đối với hoạt động thận và các cơ quan bài tiết nên sẽ giảm t́nh trạng tích nước trong cơ thể, dẫn đến tăng cân.
5) Làm chậm quá tŕnh lăo hóa
Không ai thích lăo hóa sớm và nhanh già, đặc biệt là phụ nữ. May mắn thay, nguy cơ này có thể tránh được bằng cách uống nước ấm mỗi sáng. Độc tố trong cơ thể thúc đẩy quá tŕnh lăo hóa, nhưng uống nước ấm mỗi sáng lại giúp loại bỏ độc tố ra ngoài một cách hiệu quả. Nhờ đó, việc làm này cũng có tác dụng làm chậm quá tŕnh lăo hóa. Ngoài ra, uống nước ấm c̣n cải thiện độ đàn hồi của da, giúp bạn luôn có làn da sáng, khỏe mạnh và giảm nếp nhăn.
florida80
06-03-2019, 21:14
THUỐC ĐIỀU TRỊ NHỒI MÁU CƠ TIM CÓ THỂ LÀM GIẢM TỔN THƯƠNG MÔ TIM
(HEART ATTACK DRUG MAY REDUCE TISSUE DAMAGE)
Lynn Ly phỏng dịch bài viết wXw.bbc.co.uk/news/health-22655582
Theo Nhật Báo BBC ngày 27, tháng 5, 2013 .
Một loại thuốc mới có thể giúp giảm sự tổn thương cho cơ thể sau một cơn đau tim / nhồi máu cơ tim (heart attack), đột quỵ (stroke) hoặc một phẫu thuật lớn (major surgery) đă được triển khai bởi các nhà khoa học Anh.
Những thử nghiệm trên các con chuột cho thấy hợp chất bảo vệ tim khi lưu lượng máu đột ngột được phục hồi sau một khoảng thời gian mà các mô (tissue) đă đang bị thiếu dưỡng khí oxygen.
MitoSNO vẫn chưa được thử nghiệm trên người, nhưng có thể dẫn đến một loại thuốc hoàn toàn mới.
Các nhà nguyên cứu đă công bố kết quả thử nghiệm trên tạp chí Nature Medicine.
Một trong những vấn đề sau một cơn đau tim / nhồi máu cơ tim là sự tổn thương gây ra cho các mô tim khi lưu lượng máu được phục hồi đột ngột sau một thời gian dài thiếu vắng dưỡng khí oxygen.
Sự lưu chuyển máu chảy trở lại vào các mô tim thường kích hoạt việc sản xuất của các phân tử có hại (harmful molecules), được gọi là các gốc tự do (free radicals), những phân tử này được tạo ra bên trong ti thể (mitochondrion) - nguồn năng lượng của tế bào.
Quote:
Chú thích theo định nghĩa Y Khoa tiếng Việt :
mitochondrion = "Ti Thể" là bào quan phổ biến ở các tế bào nhân chuẩn có lớp màng kép và hệ gene riêng . Ti thể được xem là trung tâm năng lượng của tế bào v́ là nơi chuyển hóa các chất hữu cơ thành năng lượng tế bào có thể sử dụng được là ATP (ATP = Adenosine Triphosphate như là nguồn năng lượng tự nhiên (nature's energizer)
Các loại thuốc mới có tác dụng như "1 công tắc điện làm ngưng" tạm thời các ti thể (mitochondria) trong một vài phút để ngăn chặn một sư gia tăng các gốc tự do.
Trong nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đă thử nghiệm hợp chất trên một con chuột mẫu bị nhồi máu cơ tim.
Đă có những suy giảm rơ rệt trong tổng diện tích về mô tim bị tổn thương ở chuột mà được áp dụng hợp chất thuốc so với với các phương pháp kiềm chế khác .
Các nhà nghiên cứu hy vọng sẽ kiểm nghiệm hợp chất thuốc mới này của họ trong thử nghiệm trên sơ khởi ở người.
"MitoSNO như một công tắc điện làm ngừng một cách hiệu quả ở các ti thể, nó làm chậm lại sự kích hoạt trong những phút quan trọng đầu tiên khi lưu lượng máu chảy lại và bảo vệ mô tim từ những tổn thương tiếp theo sau đó", tiến sĩ Mike Murphy thuộc Đơn vị thuộc Hội đồng Nghiên cứu Sinh học Ti Thể Y Khoa (Medical Research Council Mitochondrial Biology Unit), là trưởng nhóm cuộc nghiên cứu đă nói vậy.
Chúng tôi nghĩ rằng một tiến tŕnh tương tự xảy ra trong các t́nh huống khác mà mô tim bị thiếu oxygen trong một thời gian kéo dài, ví dụ như sau một cơn đột quỵ hoặc trong quá tŕnh phẫu thuật lớn, nơi động mạch chính bị kẹp để tránh bị mất máu.
Chúng tôi hy vọng rằng nếu thử nghiệm MitoSNO trên người thành công th́ cuối cùng có thể được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác của y học."
Bàn thảo và ư kiến về nghiên cứu này từ Tổ chức Tim Mạch của Anh Quốc (the British Heart Foundation), tổ chức tài trợ một phần tài trợ nghiên cứu, cho biết loại thuốc này xuất hiện đầy hứa hẹn.
"Thuốc này có khả năng điều trị người ngay lập tức sau khi một cơn đau tim / nhồi máu cơ tim ngay lúc lưu lượng máu chảy về tim được khôi phục như là một phần trong phác đồ điều trị thông thường, " cố vấn nghiên cứu Shannon Amoils đă nói vậy.
Điều này có thể có nghĩa là người sống sót sau cơn đau tim / nhồi máu cơ tim được giảm thiểu gánh nặng về suy tim (heart failure) t́nh huống mà đối với nhiều người là một t́nh trạng suy nhược và đau buồn."
Lynn Ly (27/05/2013)
florida80
06-04-2019, 18:58
CHOLESTEROL
TỎI VÀ CHOLESTEROL
Mặc dầu tỏi được quảng cáo rộng răi như là tác nhân làm giảm cholesterol, nhưng một nghiên cứu được công bố tuần này đă không t́m thấy bằng chứng cho thấy rằng tỏi có tác dụng tốt hơn một placebo trong việc giảm nồng độ lipid trong máu.
Công trinh nghiên cứu 6 tháng trên 192 người trưởng thành với nồng độ cholesterol tăng nhe,đă trắc nghiệm tỏi sồng và các chất bổ sung có tỏi.Công tŕnh nghiên cứu được công bố trong The Archives of Internal Medicine .Các nhà nghiên cứu đă chia những người tham gia thành 4 nhóm để tiêu thụ hoặc tỏi sống,hoặc tỏi trong thuốc dưới dạng bột goi là Garlicin, hoặc tỏi trong nhăn hiệu b́nh dân Kyolic 100,hoặc một placebo.Liều lượng tương đương với một củ tỏi uống một ngày một lần,sáu ngày mỗi tuần trong ṿng 6 tháng.
Các nhà nghiên cứu đă xét nghiệm LDL cholesterol,HDL cholesterol, triglycerides, và tỷ số cholesterol toàn thể-HDL,nhưng đă không t́m thấy sự khác nhau đáng kể về mặt lâm sàng và thống kê giữa những người sử dụng tỏi và những người nhận một placebo
(INTERNAL HERALD TRIBUNE 1/3/2007)
florida80
06-04-2019, 18:58
DẦU OLIVE CÓ TÁC DỤNG TỐT ĐỐI VỚI CHOLESTEROL
Một công tŕnh nghiên cứu từ nhiều trung tâm nghiên cứu ở châu Âu được tiến hành trên 200 người t́nh nguyện. Những người này được cho uống trong 3 tuần lễ 25 millilitres dầu olive mỗi ngày (một muỗng canh gồm 3 loại dầu, loại trừ những chất béo khác.) Nghiên cứu đă mang lại một kết luận lư thú : tất cả các dầu olive deu có khả năng làm gia tăng nhanh chóng nồng độ HDL (cholestérol tốt) nhưng hiệu quả nhất là các dầu olive có nồng độ polyphénol (chất chống oxi hóa có tác dụng bảo vệ tim) cao nhất. Về mặt này, mức độ tinh lọc của dầu có tính chất quyết định: cần những dầu olive tinh chất hảo hạng.
(LA LIBRE MATCH 14/6-20/6/2007)
florida80
06-04-2019, 19:02
CHOLESTEROL TĂNG CAO VÀ CHẾT V̀ BỆNH TIM DO THIẾU MÁU CỤC BỘ
Tăng cholestérol-huyết được liên kết với tử vong v́ bệnh tim do thiếu máu cục bộ (maladie ischémique du cœur), ở người già cũng như ở những người thuộc lứa tuổi trung b́nh, và điều này độc lập với huyết áp. Đó là kết luận của một phân tích méta trên 61 công tŕnh nghiên cứu với tổng cộng 55.000 trường hợp tử vong do bệnh huyết quản (34.000 v́ bệnh tim do thiếu máu cục bộ, 12.000 do tai biến mạch máu năo và 10.000 do những nguyên nhân khác), chủ yếu ở Tây Âu và Bắc Mỹ.
Các tác giả đă đi đến kết luận là cholestérol toàn thể được liên kết một cách dương tính với tử vong v́ bệnh tim do thiếu máu cục bộ, ở đàn ông và phụ nữ, ở lứa tuổi trung b́nh hoặc cao, dầu huyết áp là bao nhiêu. Tỷ số cholestérol toàn thể/HDL dường như là chỉ dấu tiên đoán quan trọng nhất của tử vong v́ bệnh tim do thiếu máu cục bộ. Việc không có mối liên hệ độc lập giữa cholestérol và tử vong do tai biến mạch máu năo, nhất là ở lứa tuổi cao hay ở một mức huyết áp cao, nên là đối tượng của những nghiên cứu sâu rộng hơn, các tác giả đă đánh giá như vậy. Dầu thế nào đi nữa, các công tŕnh nghiên cứu gợi ư rằng các statines không những chỉ làm giảm số các biến cố động mạch vành mà c̣n làm giảm cả số tai biến mạch máu năo nơi các bệnh nhân thuộc mọi lứa tuổi có những trị số huyết áp khác nhau.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 14/12/2009)
florida80
06-04-2019, 19:02
CÔNG TR̀NH NGHIÊN CỨU MỚI VỀ BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG LÀM SỮNG SỐT CÁC THẦY THUỐC
Trong nhiều thập niên nay, các nhà nghiên cứu đă tin rằng nếu bệnh nhân đái đường hạ thấp nồng độ đường huyết xuống mức b́nh thường, họ sẽ không c̣n bị nguy cơ cao chết v́ bệnh tim nữa. Nhưng một công tŕnh nghiên cứu của Hoa Kỳ nơi 10.000 bệnh nhân đái đường loại 2, với tuổi trung niên hoặc cao hơn, đă nhận thấy rằng việc hạ thấp nồng độ đường huyết thật ra làm gia tăng nguy cơ tử vong, các nhà nghiên cứu đă báo cáo như vậy.
Các nhà nghiên cứu đă loan báo rằng họ đă đột ngột ngừng phần nghiên cứu mà các kết quả gây ngạc nhiên đang đặt lại vấn đề phải xử trí làm sao căn bệnh hiện đang tác động lên 21 triệu người Mỹ. Các nhà nghiên cứu của công tŕnh đă nhấn mạnh rằng các bệnh nhân vẫn nên tiếp tục thăm khám các thầy thuốc của họ trước khi xét đến việc thay đổi thuốc men.
Trong số các người tham gia công tŕnh nghiên cứu thuộc nhóm mà nồng độ đường huyết được hạ xuống mức gần b́nh thường, có 54 trường hợp tử vong nhiều hơn là nhóm trong đó có nồng độ đường được kiểm soát ít nghiêm ngặt hơn. Các bệnh nhân đă tham gia công tŕnh nghiên cứu với thời gian trung b́nh được 4 năm th́ các nhà nghiên cứu đă ra lệnh ngừng chế độ hạ đường huyết tích cực và áp dụng nơi các bệnh nhân này một chế độ hạ đường huyết ít nghiêm ngặt hơn.
Các kết quả không muốn nói là đường huyết là không có ư nghĩa. Việc hạ đường huyết có thể bảo vệ chống lại bệnh thận, sự đui mù và việc cắt cụt các chi. Nhưng những điều vừa được t́m thấy mang lại một yếu tố hoài nghi về cái đă từng là một giáo điều : rằng hạ đường huyết càng thấp th́ càng tốt hơn, và rằng hạ nồng độ đường xuống mức b́nh thường cứu được mạng người. Các chuyên viên y tế đă sửng sốt.
«Những điều vừa được t́m thấy gây bối rối và xôn xao”, James Dove, chủ tịch của American College of Cardiology đă nói như vậy. “Trong 50 năm, chúng ta đă nói về việc làm giảm nồng độ đường huyết xuống rất thấp. Mọi điều trong tài liệu y học đều gợi ư rằng đây là điều đúng đắn cần phải làm”
Irl Hirsch, một nhà nghiên cứu bệnh đái đường thuộc đại học Washington, đă nói rằng những kết quả của công tŕnh nghiên cứu sẽ khó mà giải thích cho vài bệnh nhân đă trải qua không biết bao nhiêu năm và đă thực hiện những cố gắng lớn lao qua chế độ ăn uống và thuốc men, nhằm làm hạ và duy tŕ nồng độ đường huyết xuống. Những bệnh nhân này sẽ không muốn nới lỏng cảnh giác, nhà nghiên cứu đă nói như vậy.
“Điều này sẽ tương tự như những ǵ mà các phụ nữ đă cảm thấy khi họ nghe những tin tức về estrogens», Hirsch đă nói như vậy. “Bảo những bệnh nhân này làm cho nồng độ đường huyết tăng lên sẽ rất là khó khăn”. Ông đă nói thêm rằng những tổ chức như American Diabetes Association và American Association of Clinical Endocrinologists sẽ ở vào trong t́nh trạng lúng túng khó xử. Những chỉ dẫn của các Hiệp hội này yêu cầu các nồng độ đường huyết càng gần với b́nh thường chừng nào th́ tốt chừng đó. Và vài công ty bảo hiểm trả cho các bác sĩ tiền phụ trội nếu các bệnh nhân đái đường của họ giữ được nồng độ đường huyết ở mức rất thấp.
Lư thuyết nồng độ đường huyết thấp đă ăn sâu đến độ khi Viện Tim, Phổi, Huyết Quốc Gia và Viện Quốc Gia Đái Đường và Các Bệnh Tiêu Hóa và Thận đề nghị công tŕnh nghiên cứu vào những năm 1990, họ đă giải thích rằng đó là vấn đề đạo đức. Mặc dầu hầu hết đều cho rằng nồng độ đường huyết thấp hơn là tốt hơn, nhưng không ai đă nghiêm chỉnh trắc nghiệm ư tưởng này. V́ vậy công tŕnh nghiên cứu sẽ nêu nghi vấn xem những nồng đường huyết rất thấp nơi những bệnh nhân với đái đường loại 2 (dạng bệnh gây bệnh cho 95% những người bị bệnh đái đường), sẽ có tác dụng bảo vệ chống lại bệnh tim và cứu sống sinh mạng hay không. Vài người đă nói rằng, dầu cho công tŕnh nghiên cứu có ư nghĩa đạo đức, sẽ không thể thực hiện được. Họ nghi ngờ rằng những người tham gia (tuổi trung b́nh 62, đă bị đái đường trong khoảng 10 năm, đă có nồng độ đường huyết cao hơn b́nh thường, và đă có bệnh tim hay những bệnh lư khác, như cao huyết áp và cholesterol cao, khiến những người này có thêm nguy cơ bị bệnh tim) sẽ có thể đạt được những nồng độ đường huyết thấp như thế.
Công tŕnh nghiên cứu đă trắc nghiệm đồng thời 3 loại điều trị : kiểm soát đường huyết tích cực hay ít tích cực hơn, kiểm soát cholesterol tích cực hay ít tích cực hơn và kiểm soát huyết áp tích cực hay ít tích cực hơn. Phần cholesterol và huyết áp của công tŕnh nghiên cứu đang được tiếp tục. Các nhà nghiên cứu đă đặt câu hỏi không biết đă có thứ thuốc nào hay những phối hợp thuốc nào đă là nguyên nhân của tỷ lệ tử vong cao. Họ đă không t́m thấy ǵ hết. Cũng đă không có một nguyên nhân khác thường gây tử vong trong nhóm được điều trị tích cực. Hầu hết các trường hợp tử vong trong hai nhóm là do nhồi máu cơ tim.
Măi đến nay, các lư do giải thích tỷ lệ tử vong cao hơn là phỏng đoán. Rơ ràng là những người không bị bệnh đái đường khác với những người bị bệnh đái đường và cố làm hạ đường huyết xuống. Có thể là các bệnh nhân bị những hậu quả không chủ ư do dùng quá nhiều thuốc có thể tương tác một cách bất ngờ, Steve Nissen, trưởng khoa tim mạch của Cleveland Clinic đă nói như vậy.
Hoặc là, cũng có thể rằng các người tham gia đă làm giảm quá nhanh đường huyết của họ. Cách nay nhiều năm, các nhà nghiên cứu đă khám phá rằng việc giảm đường huyết quá nhanh nơi các bệnh nhân đái đường thật sự có thể làm trầm trọng các bệnh huyết quản ở mắt, ông đă phát biểu như vậy. Nhưng việc làm giảm các nồng độ chậm hơn đă bảo vệ các huyết quản này.
(INTERNATIONAL HERALD TRIBUNE 8/2/2008)
florida80
06-04-2019, 19:03
MỘT LOẠI VI KHUẨN ĂN CHOLESTEROL
Hiện diện trong ruột già, vi trùng này làm cho cholestérol không thể hấp thụ được bởi cơ thể con người.
Ruột già của chúng ta là một canh cấy thật sự. Có khoảng 100 tỉ vi khuẩn cùng nhau sinh sống trong mỗi gam phân, hoặc khoảng cùng số lượng neurone trong năo bộ của chúng ta.
Quần thể vi khuẩn dồi dào này trong ruột, được tạo thành suốt trong hai năm đầu của đời sống, là cần thiết cho sự vận hành tốt của cơ thể. “Người ta có thể nói rằng đó là một cơ quan nói riêng, mà thành phần là chuyên biệt cho mỗi cá nhân”, Philippe Gérard thuộc pḥng thí nghiệm sinh thái và sinh lư học của hệ tiêu hóa ở trung tâm Inra, đă nhấn mạnh như vậy.
Nhà vi trùng học này đă tiết lộ hôm qua, nhân một cuộc họp báo, rằng một vài trong số các vi khuẩn này, có tính chất lạ lùng là làm hủy hoại cholestérol (mà sự thặng dư gây đọng mỡ trong các động mạch) thành coprostanol, một chất mà cơ thể không thể hấp thụ được và do đó được thải ra trong phân. “Sự kiện này đă được biết từ lâu, nhưng đến măi ngày nay, không ai đă thành công nhận diện ra loài hay các loài vi khuẩn có liên quan trong quá tŕnh sinh hóa học này ở người”, Philippe Gérard đă nói tiếp như vậy.
Cái trở ngại chính là các vi khuẩn của ống tiêu hóa không có thể tồn tại trong một môi trường giàu oxygène. Các vi khuẩn sẽ chết ngay khi được đem ra khỏi ruột non của kư chủ và chỉ có 20% các vi khuẩn này là có thể cấy được trong pḥng thí nghiệm.
MỘT TỶ VI KHUẨN CHO MỖI GAM PHÂN.
Trong một bài báo được công bố mới đây trong tạp chí Applied and Environmental Microbiology, nhóm nghiên cứu được điều khiển bởi Philippe Gérard đă giải thích làm sao họ đă cô lập được một trong các vi khuẩn “giết cholestérol” này, bằng cách cấy trong phân được làm phong phú với óc bê được làm đông lạnh. Đó là giống D8 của loài Bacteroides Dorei, (chiếm 20% quần thể vi khuẩn ruột). “ Sự kiện loài vi khuẩn này rất khác với giống Eubacterium đă được nhận diện ở chuột, heo và babouin, dường như chỉ rơ rằng nhiều họ vi khuẩn có liên hệ trong việc làm thoái hóa cholestérol của ruột người”, nhà nghiên cứu phát biểu như vậy.
Khám phá này phải chăng sẽ dẫn đến việc hiệu chính một thuốc mới chống lại cholestérol ? Điều này ít có thể xảy ra vào ngay lúc này. Thật vậy, hầu hết cholestérol nguồn gốc thức ăn đều được hấp thụ ở ruột non. Cholestérol dầu có được thoái biến thành coprostanol bởi vi khuẩn hay không, phần cholestérol đi đến đại tràng dầu sao cũng được thải ra theo phân.
Tuy nhiên, trong những năm 1980, một công tŕnh nghiên cứu của Nhật Bản đă chứng tỏ rằng một nồng độ coprostanol cao trong phân liên kết với một nồng độ cholestérol thấp hơn trong máu.
Theo Philippe Gérard, “người ta không thể loại trừ rằng một phần cholestérol được thoái biến trong phần dưới của ruột non, nơi đây người ta đếm được 1 tỷ vi khuẩn trong 1 gam phân. Đó là 100 lần ít hơn trong ruột già, nhưng điều đó có thể cũng đủ để giải thích các kết quả của công tŕnh nghiên cứu Nhật Bản”.
LE FIGARO 13/3/2008
florida80
06-04-2019, 19:04
CHOLESTEROL “TỐT” CÓ LỢI CHO TRÍ NHỚ
Những nồng độ cholesterol “tốt” quá thấp được liên kết với một sự thiếu hụt hay sa sút nhận thức vào tuổi 60, theo một công tŕnh được công bố bởi các nhà nghiên cứu, chủ trương một đời sống lành mạnh hơn.
Một nồng độ bất b́nh thường cholestérol có thể là một yếu tố nguy cơ của bệnh Alzheimer không? Nếu câu trả lời chưa được rơ ràng, một công tŕnh nghiên cứu của Pháp, được công bố ngày 30 tháng 6, trong tạp chí chuyên khoa Arteriosclerosis, Thrombosis and Vascular Biology, vừa cho thấy rằng một nồng độ cao cholestérol “tốt” (c̣n được gọi là HDL-cholestérol) sẽ là một đồng minh cần thiết của chất lượng trí nhớ nơi những người trên 60 tuổi
Nhiều công tŕnh nghiên cứu đă đề xuất một mối liên kết giữa sự kiện có một nguy cơ tim mạch và sự biến đổi của các chức năng nhận thức (fonctions cognitives) (ở mức trí nhớ) với tuổi tác, như thế tạo nên một nguy cơ bị bệnh Alzheimer. Cũng cùng cách như vậy, theo những công tŕnh nghiên cứu khác, bệnh đái đường và chứng béo ph́ sẽ làm dễ sự xuất hiện của một chứng sa sút trí tuệ như thế. Tuy nhiên, khó xác lập một mối liên hệ đặc biệt giữa các bất thường của nồng độ các chất mỡ trong máu và nguy cơ bị chứng sa sút trí tuệ bởi v́ “profil lipidique” của các bệnh nhân thường bị biến đổi bởi nhiều yếu tố, trong đó có chính căn bệnh.
Ước muốn làm sáng tỏ vấn đề, nhóm nghiên cứu của Archana Singh-Manoux đă quyết định theo dơi từ năm 1999 và 2004 một nhóm 3.700 các viên chức người Anh ở lứa tuổi 60, tất cả đều có khả năng về trí tuệ. Mục đích là đánh giá một cách song hành tiến triển của profil lipidique (cholestérol toàn thể, HDL và LDL, triglycérides) và hoạt động của trí nhớ. Để thực hiện điều này, những phân tích máu đă được thực hiện hai lần cách nhau 5 năm. Những trắc nghiệm về trí nhớ cũng được thực hiện : những người t́nh nguyện phải nêu lên tối đa các chữ trong số 20 chữ được tŕnh bày vài giây phút trước đó. Người không có khả năng nêu lên hơn 4 chữ được cho là thiếu hụt chức năng nhận thức (déficit cognitif). Quên thêm hơn hai chữ giữa hai câu thể hiện một suy đồi nhận thức thật sự (déclin cognitif).
CÓ MỘT HOẠT ĐỘNG VẬT LƯ ĐỀU ĐẶN
Sau cùng, những kết quả là không chối căi được. Đối với những người có một nồng độ cholestérol “ tốt ” thấp (dưới 0,4 g/L), nguy cơ thiếu hụt trí lực (déficit intellectuel) gia tăng 27%, so với những người có một nồng độ trên 0,6g/L. 5 năm sau, sự liên kết này lại càng rơ hơn. Các viên chức với một nồng độ cholestérol “ tốt ” ít cao vẫn c̣n có nhiều nguy cơ bị thiếu hụt năng lực trí lực hơn. Cũng giống hệt những người mà nồng độ đă giảm trong 5 năm. Những người này có một nguy cơ gia tăng bị suy thoái trí tuệ so với những người bảo tồn những nồng độ cao HDL (trên 0,6g/L).
Như thế nhóm nghiên cứu của Archana Singh-Manoux, nữ giám đốc nghiên cứu của Inserm (đơn vị 687) đă phát hiện sự hiện hữu của một sự thiếu hụt, thậm chí một sự suy sụp nhận thức nơi những người 60 tuổi khi nồng độ cholestérol “ tốt ”, HDL (lipoprotéine de haute densité), là quá thấp trong máu, với trị số dưới 0,4 g/L (b́nh thường, đối với đàn ông 0,4 đến 0,65g/L và đối với đàn bà, từ 0,5 đến 0,8g/L). “ Công tŕnh nhiên cứu này phát hiện mối liên hệ rơ rệt giữa những nồng độ thấp của cholestérol “ tốt ” và sự xuất hiện một sự sa sút nhận thức, kể cả có tính đến những yếu tố khác khả dĩ dẫn đến một sự sa sút trí tuệ (démence) (các biến cố tim mạch, tiêu thụ rượu) ”, Archana Singh-Manoux đă b́nh luận như vậy.
Sự suy thoái nhận thức (déclin cognitif) là giai đoạn đầu tiên hướng về chứng sa sút trí tuệ (démence), mặc dầu không phải tất cả những người có các rối loạn về trí nhớ đều rơi vào bệnh Alzheimer. Công tŕnh này tán đồng những lời khuyến nghị về các chế độ ăn uống đơn giản nhằm làm dễ những nồng độ cao hơn cholestérol “ tốt ”. Ăn ít thịt mỡ và thịt lợn, ăn nhiều cá hơn, thay thế các chất béo bảo ḥa nguồn gốc động vật (bơ, ḷng đỏ trứng gà, phó mát) bằng những chất mỡ không bảo ḥa, có nguồn gốc thực vật như vài loại dầu. Loại bỏ các acide béo trans được t́m thấy trong các sản phẩm kỹ nghệ (món ăn được làm sẵn, fastfood, bánh quy...). Và có một hoạt động vật lư đều đặn. Để duy tŕ một trí nhớ có chất lượng tốt.
Nguồn : LE FIGARO (2/7/2008)
florida80
06-04-2019, 19:04
CÀ PHÊ VÀ CHOLESTEROL
Cà phê bị gán cho một vai tṛ trong việc làm gia tăng nồng độ của cholestérol. Cần phải uyển chuyển hơn điều khẳng định này và xác định rơ rằng điều đó tùy thuộc vào cách pha chế. Hai diterpène hiện diện trong dầu cà phê (huile de café), cafestol và kahweol, có thể là nguyên nhân của sự gia tăng này. Nhiều công tŕnh nghiên cứu đă cho thấy rằng sự tiêu thụ cafestol hàng ngày làm gia tăng nồng độ cholestérol trong máu, nhưng sự gia tăng này ít hơn trong trường hợp tiêu thụ lâu dài. Do đó những công tŕnh nghiên cứu ngắn hạn có thể dẫn đến việc đánh giá quá cao về tác động của cà phê lên nồng độ của cholestérol. Về kahweol, vai tṛ của nó trong hiện tượng này không được rơ ràng lắm. Sự liên kết của cafestol với kahweol có tác động lên nồng độ cholestérol hơn là kahweol đơn độc .
Một cà phê, trong đó bột cà phê được cho tiếp xúc lâu dài với nước sôi và không được lọc (như trong trường hợp cà phê Thổ hay Hy lạp), chứa những diterpènes này với nồng độ cao, trái với cà phê được lọc hay một “espresso”. Vậy v́ lư do thận trọng, đối với những bệnh nhân bị cao huyết áp và tăng cholestérol-huyết, tốt hơn là nên tránh những cách pha chế đầu và theo cách pha chế sau.
(LE MAGAZINE DES GLEMS 4/2008)
Thời Sự Y Học Số 94 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 26/9/2008
florida80
06-04-2019, 19:05
THUỐC CHỒNG CHOLESTEROL: MỘT GÈNE CÓ LIÊN QUAN TRONG SỰ PHÁT SINH CÁC BIẾN CHỨNG
Đau cơ sau khi sử dụng statines có thể được làm dễ bởi một biến thể di truyền (un variant génétique).
Những nhà nghiên cứu Pháp và Anh đă nhận diện một biến thể di truyền có liên hệ trong sự xuất hiện các thương tổn cơ, trong trường hợp điều trị bởi các liều lượng cao statines (New England Journal of Medicine, 21/8/2008). Các statines được cho để chống lại sự thặng dư “ cholestérol xấu ” (LDL) trong máu, một trong những yếu tố nguy cơ của các tai biến mạch máu năo và nhồi máu cơ tim. Statines phong bế sự tạo thành cholestérol trong gan bởi cơ thể.
Các Statines rất được ưa chuộng bởi các thầy thuốc người Pháp, đă cho toa 5 triệu người trong năm 2.005. Nhưng trong những trường hợp hiếm hoi (1 bệnh nhân trên 10.000) , khi statines được cho với liều lượng chuẩn (20-40 mg simvastatine mỗi ngày), thuốc có thể gây nên các bệnh cơ (myopathie), đó là các đau nhức cơ, và chứng co rút (crampe), với sự gia tăng một vài loại men. Những tác dụng không được mong muốn này gia tăng với những liều lượng cao hơn.
Nghi là có một thành phần di truyền trong hiện tượng này, nhóm nghiên cứu của centre national de génotypage được điều khiển bởi Mark Lathrop và nhóm của đại học Oxford ở Anh đă so sánh hai nhóm các bệnh nhân được điều trị : nhóm 85 người gồm những nạn nhân bị thương tổn cơ do điều trị bởi statines, một nhóm khác 90 người không bị chứng bệnh cơ này. Họ đă phát hiện một biến thể di truyền (un variant génétique) trên nhiễm sắc thế 12, liên kết với những biến chứng này. Biến thể di truyền này hiện diện nơi 15% dân số.
Những bệnh nhân mang biến thể di tuyền và được điều trị với các liều mạnh thuốc statines có nguy cơ phát triển bệnh cơ 4 lần cao hơn so với những người không mang biến thể di truyền này.
(LE FIGARO 27/8/2008)
florida80
06-04-2019, 19:05
CHỈ MỘT VIÊN THUỐC ĐỂ CHỐNG LẠI CÁC BỆNH TIM MẠCH
PHARMACOLOGIE. Một viên thuốc chứa một chất kháng cholestérol, 3 loại thuốc chống cao huyết áp và aspirine, có thể làm giảm 50% nguy cơ bị nhồi máu cơ tim và đột qụy.
Một viên thuốc duy nhất để ngăn ngừa các bệnh tim mạch đối với những người trên 50 tuổi ? Quan niệm này đă được nêu lên từ nhiều năm nay, bây giờ bắt đầu trở thành hiện thực. Thật vậy, các thầy thuốc Ấn Độ vừa công bố trên site Internet của tạp chí y khoa The Lancet các kết quả của một thử nghiệm, được thực hiện với một polypill chứa 5 chất có hoạt tính chống lại các bệnh tim mạch.
Những trắc nghiệm này xác nhận rằng chỉ một viên thuốc cũng có hiệu quả như 5 loại thuốc được kê toa một cách độc lập. Các tác giả, cũng đă tŕnh bày những công tŕnh này hôm thứ hai, nhân hội nghị thường niên American College of Cardiology ở Orlando (Florida), đánh giá rằng một viên thuốc như thế, được cho để pḥng ngừa, có thể làm giảm gần một nửa các trường hợp tai biến tim và các cơn đột qụy. Những thử nghiệm khác, với quy mô lớn hơn, vẫn phải được tiến hành để xác nhận những kết quả này. Những bệnh tim mạch, hiện đang bùng nổ trong các nước đang phát triển, vẫn là một trong những nguyên nhân chính gây tử vong trong các nước phương Tây, mặc dầu có sự giảm bớt do việc điều trị tốt hơn (cao huyết áp, tăng cholestérol-huyết, chứng nghiện thuốc lá). Sự ngăn ngừa này, được căn cứ trên sự sử dụng nhiều thứ thuốc, đă đặt ra vấn đề tuân thủ điều trị, không hoàn toàn được tôn trọng một cách đúng đắn. Và điều này có thể được cải thiện bằng cách uống một viên thuốc duy nhất. Thử nghiệm điều trị này (được tài trợ bởi Pḥng bào chế Ấn Độ Cadilla Pharmaceuticals) đă được tiến hành ở Ấn Độ, trong 50 trung tâm y tế, trên 2.053 người tham dự, tuổi từ 45 đến 80, đă không bao giờ bị bệnh tim mạch, nhưng chỉ có một yếu tố nguy cơ (cao huyết áp, cholestérol cao…).
THIẾU CÁC CÂU TRẢ LỜI TINH TẾ
Mục đích là để đánh giá sự dung nạp của điều trị phối hợp này và xác định xem viên thuốc phối hợp này có tác dụng lên nguy cơ tim mạch giống như mọi loại thuốc được uống riêng rẻ hay không. Thử nghiệm đă so sánh polypill với 8 protocole điều trị khác (statine dùng đơn độc, aspirine dùng đơn độc, bêta-bloquant dùng đơn đọc) trên huyết áp, trên nồng độ cholestérol hay trên nhịp tim. Viên thuốc chứa những liều lượng thấp của 3 loại thuốc chống cao huyết áp (12,5 mg thiazide, 50 mg atenolol và 5mg ramipril) cũng như 20 mg simvastatin (một thuốc kháng cholesterol), và 100 mg aspirine (với tác dụng kháng đông).
Các kết quả đă cho thấy nồng độ cholestérol giảm với mức độ quan trọng nơi những người được điều trị bởi polypill cũng như nơi những người chỉ dùng statine đơn độc. Cũng như thế đối với huyết áp khi dùng các thuốc chống cao áp đơn độc. Tính chất lưu thông của máu được cải thiện bởi polypill giống như với aspirine dùng riêng rẻ. Các tác dụng phụ của polypill cũng giống với các tác dụng gây nên bởi mỗi thành phần được dùng riêng rẻ. “Chúng tôi ước đoán rằng polypill có lẽ có khả năng làm giảm 60% các bệnh tim và 50% các đột qụy, B.S Salim Yusuf, thuộc Population Health Research Institute của Université McMaster (Canada) đă đánh giá như vậy. Ư tưởng những người có thể chỉ uống một viên thuốc để làm giảm nhiều nguy cơ tim có thể cách mạng hóa sự ngăn ngừa các bệnh tim mạch”.
Hiện nay, thử nghiệm lâm sàng đă chỉ đánh giá sự cải thiện các hằng số sinh học với điều trị phối hợp này. Bây giờ cần phải tiến hành những điều tra quy mô lớn để đánh giá tác dụng lên tỷ lệ mắc bệnh và trên tỷ lệ tử vong.
Trong những nước giàu có, những viên thuốc như thế có thể đơn giản hóa sự pḥng ngừa. “Khái niệm này không phải là không hấp dẫn, G.S Nicolas Danchin thuộc bệnh viện Georges -Pompidou khẳng định như thế. Vấn đề là c̣n phải chứng tỏ rằng thuốc không có các tác dụng phụ lúc dùng lâu dài và rằng điều đó cho phép cải thiện sự tuân thủ điều trị.” Việc pḥng ngừa là một chương tŕnh dài hạn. “Vấn đề của viên thuốc phối hợp này, đó là nó không đáp ứng một cách tinh tế những vấn đề chính xác của mỗi người, B.S Yves Benacin (thầy thuốc chuyên khoa tim, Paris) đă giải thích như vậy. Nhưng có lẽ đó là một giải pháp cho những người có nguy cơ không tuân thủ điều trị một cách đều đặn, và dĩ nhiên đó là một giải pháp cho các nước đang phát triển.” Tuy nhiên đừng quên rằng một chế độ ăn uống lành mạnh và tập thể dục đều đặn 5 lần mỗi tuần, làm giảm một cách không chối cải được cholestérol, huyết áp, đường huyết và tăng sức cho trái tim.
(LE FIGARO 1/4/2009)
florida80
06-04-2019, 19:06
VÀO LỨA TUỔI NÀO CẦN PHẢI ĐỊNH LƯỢNG CHOLESTEROL ?
Chính vào cuối thế kỷ XIX mà các nhà bảo hiểm Hoa Kỳ đă phát minh ra y khoa tiên liệu (médecine prédictive). Trong lúc gom góp những dữ kiện của những người được bảo hiểm, các nhà dịch tễ học và các nhà thống kê của các công ty bảo hiểm lớn này đă xác lập những mô h́nh tiên đoán tử vong (modèle de prédiction du décès). Những mô h́nh tiên đoán này nhanh chóng trở nên tinh tế hơn để được áp dụng cho bệnh tim mạch. Chính như thế mà ư niệm về yếu tố nguy cơ (facteur de risque) của bệnh tim mạch đă được tạo ra.
Ở Pháp cũng như ở những nơi khác, chính 4 yếu tố nguy cơ chủ yếu giải thích hơn ¾ các biến cố động mạch vành cấp tính ; đó là thuốc lá, các dyslipidémie, cao huyết áp và bệnh đái đường. Sự tăng cholestérol-huyết thường xảy ra v́ lẽ khoảng ¾ các bệnh nhân được nhập viện v́ hội chứng động mạch vành cấp tính ở Pháp có một sự gia tăng của cholestérol xấu của họ.
HAI T̀NH HUỐNG PHÁT HIỆN
Vấn đề phát hiện những yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch là xưa rồi và b́nh thường phải được áp dụng cho toàn thể những yếu tố nguy cơ có một mối liên hệ nhân quả với chứng xơ mỡ động mạch huyết quản. Sự định lượng của cholestérol và các fractions của nó được căn cứ trên một kỹ thuật sinh học đơn giản để thực hiện trên một mẫu nghiệm máu được lấy lúc nhịn đói. Hai t́nh huống quan trọng phát hiện cholestérol được thực hiện ở Pháp. Một mặt, thầy thuốc có thể gặp một bệnh nhiễm sắc thể thường tính trội (maladie autosomique dominante), bệnh tăng cholestérol-huyết gia đ́nh dị hợp tử (hypercholestérolémi e familiale hétérozygote). Bất thường sinh học lipit này hiện diện nơi một trên 500 trường hợp sinh ở Pháp. Sự gia tăng cholestérol-huyết hiện diện ngay lúc sinh và các trị số của cholestérol-huyết tăng cao dần dần với tuổi tác của các bệnh nhân. Đó là một bệnh di truyền hung dữ đối với các động mạch và điều trị vệ sinh-ăn uống và/hoặc thuốc men phải bắt đầu càng sớm càng tốt. Do đó, trong bệnh tăng cholestérol-huyết gia đ́nh, sự định lượng phải được thực hiện càng sớm càng tốt nơi trẻ em, ngay khi có một cơ hội để thực hiện sự lấy máu. Việc t́m kiếm những bệnh nhân trẻ này trong dân chúng là dễ dàng v́ lẽ đó là những gia đ́nh đă có những tai biến tim mạch xảy ra sớm và có những tăng cao quan trọng của cholestérol trong huyết tương. Những trị số cholestérol toàn thể 1,80 g/l nơi trẻ em 10 tuổi được xem như là bệnh lư. Nơi những gia đ́nh này, sự định lượng của cholestérol sẽ được thực hiện đều đặn và sự theo dơi sẽ chú y t́m kiếm một sự gia trọng của các trị số và những định vị của bệnh tim mạch.
Cũng như đối với những yếu tố nguy cơ khác, sự xác định của cholestérol nơi người trưởng thành là một bộ phận cơ bản của sự pḥng ngừa tim mạch. Mỗi người trưởng thành hơn 18 tuổi phải được hưởng vào một lúc nào đó một bilan sinh học lipit toàn bộ. Xét nghiệm máu này sẽ gồm có cholestérol xấu, cholestérol tốt và các triglycéride. Sự định lượng này sẽ được lập lại mỗi năm năm nếu không có một bất thường hay nhanh hơn nếu những yếu tố nguy cơ khác xuất hiện hay nếu một bệnh đến làm phức tạp sự điều trị. Những trị số cholestérol toàn thể 2,20g/l nơi người trưởng thành buộc phải theo dơi đều đặn nơi thầy thuốc gia đ́nh. Nơi bệnh nhân đă có một biến cố tim mạch, chính thường trong lúc nhập viện mà chẩn đoán tăng cholestérol-huyết được thực hiện. Đó là một t́nh huống rất tai hại đối với tiên lượng v́ lẽ sự điều trị tăng cholestérol-huyết vài năm trước có lẽ đă cho phép tránh được biến cố tim mạch cấp tính này.
Những bệnh nhân người Pháp có được may mắn được tiếp cận tương đối dễ dàng với những thầy thuốc gia đ́nh và với các dịch vụ pḥng ngừa trong khung cảnh y khoa lao động hay chiến dịch phát hiện đại chúng. Tai biến tim mạch không phải là một định mệnh an bài và toàn bộ những người can thiệp y và cận y sẵn sàng phục vụ cho các công dân đề pḥng ngừa, phát hiện và điều trị các yếu tố nguy cơ để tránh một cách tối đa các biến có tim mạch.
(LE FIGARO 26/4/2010)
florida80
06-04-2019, 19:07
CHOLESTEROL : CHÚ Ư CÁC ĐƯỜNG CÓ TÁC DỤNG NHANH.
Khác với những loại đường có tác dụng chậm (các thức ăn có bột và bánh ḿ toàn phần) có lợi cho sức khỏe, các loại đường có tác dụng nhanh dùng quá mức, kẹo, kem... đă được nhận diện như là những yếu tố làm dễ sự xuất hiện của một bệnh đái đường. Các nhà dịch tễ Hoa Kỳ vừa chứng minh rằng chúng cũng chịu trách nhiệm một profil lipide xấu liên kết với nguy cơ xơ mỡ động mạch. Được chỉ đạo bởi GS Jean Welsh của đại học Emory (Atlanta), một công tŕnh nghiên cứu, được tiến hành giữa năm 1999 và 2006, đă theo dơi hơn 6000 người trưởng thành thuộc hai giới tính. Những kết quả cho thấy rằng sự tiêu thụ đường có tác dụng nhanh càng cao, th́ HDL-cholestérol, “ cholestérol tốt ” càng giảm. Ngược lại, các triglycéride và LDL-cholestérol, “cholestérol xấu ” càng gia tăng. Từ 30 năm nay và mặc dầu không có lợi ích dinh dưỡng, thành phần các loại đường được thêm vào các thực phẩm không ngừng gia tăng. Đứng trước điều chứng thực này, các giới hữu trách Hoa Kỳ đă lên tiếng báo động. OMS khuyến nghị giới hạn phần đường có tác dụng nhanh tối đa là 10% của cung cấp toàn bộ calo mỗi ngày.
(PARIS MATCH 8/7-14/7/2010)
florida80
06-04-2019, 19:07
CHOLESTEROL : LỢI ÍCH ĐƯỢC BÁO TRƯỚC CỦA MỘT STATINE.
Quote:
Điều thiết yếu :
Không nên chờ đợi đă bị một tai biến tim mạch rồi mới hưởng một thuốc làm giảm cholestérol.
Rosuvastatine (Crestor) làm giảm 43% nguy cơ trong hai năm.
Dịch bệnh tim mạch (épidémie cardiovasculaire), bởi v́ nó vẫn hoàn toàn thầm lặng rất dài lâu, là một thách thức đối với y khoa. “ Trong suốt quá tŕnh nghiên cứu, chúng tôi hiểu tốt hơn rằng mảng xơ mỡ (plaque d’athérome) bắt đầu được tạo thành ngay lúc ta c̣n rất trẻ. Nhưng tiến triển này có thể vẫn hoàn toàn không thấy được trong nhiều chục năm. Khi dấu hiệu đầu tiên xuất hiện, đôi khi đă quá muộn màng bởi v́ đó là nhồi máu cơ tim hay một cục máu đông gây nên một tai biến mạch máu năo ”, GS Ernst Rietzschel, thuộc Đại học Gand (Bỉ), đă giải thích như thế.
Chữ dịch bệnh (épidémie) phải chăng làm cho các bạn choáng ? Nhưng làm sao gọi cách nào khác, một tập hợp các bệnh mà các nguyên nhân đều thông thường và giết chết 54% các phụ nữ châu Âu (và 42% những trường hợp chết sớm, trước tuổi 75) và 43% các người đàn ông, ngay trước cả ung thư, các tai nạn và những nguyên nhân tử vong khác ? Chỉ riêng ở châu Âu, cứ mỗi phút có 8 người chết v́ nguyên nhân tim mạch. Đó là một gánh nặng to lớn đối với xă hội. Chính những người thường hoạt động lại ra đi một cách đột ngột. Nhưng cũng có phí tổn to lớn trong việc điều trị bệnh nhân, ở Bỉ hơn 4 tỉ, và gần 200 tỉ trên b́nh diện châu Âu.
TRÁNH SỰ VỠ CỦA MẢNG XƠ MỠ.
Tuy vậy, sự nghiên cứu và y khoa t́m ra được các giải pháp : như là, từ những năm 70, tỷ lệ tử vong đă sụt giảm một nửa. Nhờ những biện pháp cải thiện chế độ ăn uống, ngừng thuốc lá và những biến đổi lối sống khác, nhưng cũng nhờ tác dụng thuốc lên cholestérol. Thật vậy 3/4 những người đàn ông từ 51 đến 55 tuổi bị, ở những mức độ khác nhau, chứng xơ mỡ động mạch (athérosclérose), tiến triển bên trong của các động mạch do sự tích tụ dần dần lipide, glucide phức hợp, máu và những sản phẩm máu, các mô mỡ, những lắng đọng vôi và những chất khoáng khác. Thiết diện của các động mạch do đó bị thu hẹp lại từ bên trong, nhưng nhất là, một mảng xơ mỡ được tạo thành chứa những chất phế thải này. Mảng xơ mỡ này, mà thành càng ngày càng trở nên mảnh khảnh, có thể vỡ đột ngột. Các chất bên trong mảng đột ngột được phóng thích vào trong tuần hoàn máu, có thể gây nên một cục máu đông, và chính cục máu đông này có thể gây nên một nhồi máu cơ tim, một tai biến mạch máu năo hoặc...không ǵ cả.
Khi những bệnh nhân, đă bị một tai biến mạch máu, được xử trí kịp thời và đă sống sót, ta chống lại sự trầm trọng hóa của mảng xơ mỡ, nhất là nhờ các thuốc của lớp các statines. Nhưng người ta ngày càng mở rộng sự sử dụng của những loại thuốc statine này trước khi xảy ra tai biến mạch máu, để tai biến xảy ra muộn hơn và kể cả không xảy ra bao giờ. Đó là trường hợp với rosuvastatine (Crestor), một loại thuốc vừa chứng tỏ tính hiệu quả của nó lên một profil ít thông thường của các bệnh nhân : những bệnh nhân có một nồng độ LDL (cholestérol xấu) b́nh thường nhưng lại có một profil nguy cơ tim mạch cao (tuổi, giới tính, tính di truyền, cao huyết áp, bệnh đái đường, chứng nghiện thuốc lá, chứng béo ph́) làm cho những bệnh nhân này có một nguy cơ 5% bị tai biến chết người trong 10 năm. Do đó đă thúc đẫy cơ quan dược phẩm châu Âu mở rộng sự sử dụng của rosuvastatine đối với loại bệnh nhân đặc biệt này.
(LE SOIR 7/9/2010)
florida80
06-04-2019, 19:08
CHOLESTEROL : KHI NÀO PHẢI ĐIỀU TRỊ ?
Quote:
NHỮNG ĐIỂM MỐC
MỠ. Cholestérol, từ chữ Hy lạp cổ chole-(“mật ”) và stereos (“ rắn”), có tên này là do nó đă được khám phá dưới dạng rắn trong những sỏi mật vào năm 1758 bởi thầy thuốc và nhà hóa học Pháp François Poulletier de la Salle.
HÓA HỌC. Phân tử khá phức tạp về phương diện hóa học này, mà công tŕnh nghiên cứu đă mang lại 3 giải Nobel cho các nhà nghiên cứu đă quan tâm đến nó, là một lipide (do đó nó được xếp vào trong số các chất mỡ) tuyệt đối cần thiết cho cơ thể. Cholestérol là một trong những chất ciment thiết yếu của các màng tế bào và cũng là chất cơ bản của nhiều vitamine và hormone. Và nó không phải là chất mỡ duy nhất lưu thông trong máu của chúng ta. Sự thặng dư của nó có thể tỏ ra có hại. Nhưng tính độc hại của cholestérol là do các chất chuyên chở (véhicule) hơn là do chính bản thân cholestérol.
L VA LDL. Đó là những chữ viết tắt của các “ công ty vận tải ” của cholestérol trong máu. Không có những protéine này, cholestérol, v́ không tan trong nước, nên không thể đi vào trong những tế bào để được sử dụng ở đó. LDL có nhiệm vụ giao cholestérol vào trong các cơ quan và các mô từ gan và ruột, là những nơi nó được sản xuất. HDL quét sạch cholestréol dư thừa và mang nó đến gan để làm thoái biến.
CÂN BẰNG. Khi sự quân b́nh giữa hai cách này, phân bố và loại bỏ, bị phá vỡ, các chất ứ đọng có thể được tạo thành bên trong các thành động mạch. Mối liên hệ giữa nồng độ cholestérol trong máu và sự gia tăng nguy cơ tim-mạch dường như ngày nay được xác lập rơ.
STATINES. Một trong những tranh căi hiện nay có liên quan đến vai tṛ của các thuốc được gọi là statines. Những chất làm giảm lipide trong máu (hypolipidémiant) này được sử dụng để làm giảm nồng độ cholestérol trong máu. Việc sử dụng và các chỉ định không tạo được sự nhất trí.
Có thể tác động một cách hiệu quả để pḥng ngừa những tai biến tim-mạch.
ARTERES. Sự thặng dư cholestérol là nguyên nhân đầu tiên của chứng xơ mỡ động mạch (athérosclérose), chịu trách nhiệm mỗi năm ở Pháp 200.000 bệnh tim do thiếu máu cục bộ (nhồi máu cơ tim hay các hội chứng động mạch vành) và 80.000 tai biến mạch máu năo. Cần thiết cho cơ thể, cholestérol được vận chuyển trong máu dưới dạng lipoprotéine phức hợp : LDL, hay “ cholestérol xấu ”, có nhiệm vụ vận chuyển cholestérol từ gan đến các mô, và HDL, hay “ cholestréol tốt ”, có nhiệm vụ mang cholestérol từ các mô về gan, ở đây cholestérol được dùng trở lại hay bị loại bỏ. Khí quá mức, LDL đọng lại trên các động mạch, trong khi HDL tăng cao lại bảo vệ chống lại chứng xơ mỡ động mạch. Các phần tử khác, VLDL, vận chuyển các triglycéride nhưng cũng chuyên chở một ít cholestérol.
LDL là tác nhân quan trọng của sự tạo thành các mảng xơ mỡ (plaque d’athérome), một quá tŕnh liên tục suốt cả cuộc đời. “ Những động mạch của những người trẻ tuổi chết vào năm 20 hay 30 tuổi đă cho thấy những đường rạch mỡ (stries graisseuses). Trừ phi theo chế độ ăn chay một cách nghiêm ngặt ngay tuổi ấu thơ, dường như khó thoát được các đường rạch mỡ này ”, GS Jean Ferrières, thầy thuốc chuyên khoa tim, CHU de Toulouse, đă nhấn mạnh như vậy. Ta hiểu càng ngày càng rơ ràng các mảng xơ mỡ này được cấu tạo như thế nào. Các phần tử LDL tích tụ trong lớp nông của các thành động mạch, ở đây được oxy hóa dần dần và bị ăn bởi các đại thực bào ; những đại thực bào này được biến đổi thành những tế bào bọt (cellule spumeuse) chứa đầy cholestérol. Mảng được tạo thành như thế trở nên hóa sợi và viêm. “ Lúc lớn lên, mảng làm tắc động mạch và hạn chế sự cung cấp máu vùng hạ lưu, điều này gây nên cơn đau thắt ngực hay viêm động mạch. Nếu mảng không vững và vỡ, một huyết khối (thrombus) được tạo thành lúc tiếp xúc với máu và có thể bít động mạch, gây nên nhồi máu hay một tai biến mạch máu năo ”, GS Michel Krempf, thầy thuốc chuyên khoa nội tiết thuộc CHU de Nantes đă tóm tắt như vậy.
“ V́ mối liên hệ giữa nguy cơ tim-mạch và nồng độ LDL trong máu liên tục, nên phải giảm nồng độ LDL khi nguy cơ tim mạch càng cao. Nguy cơ này được tính bằng cách xét đến tuổi tác, giới tính, huyết áp, các tiền sử t́m-mạch, chứng nghiện thuốc lá và bệnh đái đường của bệnh nhân, GS Eric Bruckert, thầy thuốc chuyên khoa nội tiết thuộc CHU Pitié-Salpetrière (Paris) đă giải thích như vậy. Có một sự nhất trí tuyệt đồi về sự cần thiết phải làm hạ cholestérol của những người có nguy cơ tim mạch cao. Và không có lư do phải điều trị những người có nguy cơ thấp mà xác suất tai biến tim-mạch trong mười năm là dưới 10%. Quyết định tế nhị hơn đối với những người có nguy cơ ở mức trung gian. Như vậy, có vẻ dường như hợp lư khi điều trị một người đàn ông 60 tuổi bị bệnh đái đường, mặc dầu cholestérol của ông ta không cao lắm, và không điều trị một phụ nữ 30 tuổi nhưng không có yếu tố nguy cơ nào khác một nồng độ cholestérol hơi cao ”, ông ta nói tiếp như vậy. Trong thực hành, ta xem như là có thể chấp nhận được một nồng độ cholestérol toàn thể quanh 2g/L và LDL quanh 1,3g/L. Nhưng nơi một người có nguy cơ cao, ta t́m cách để có được một LDL dưới 1g/l , và 0,70g/l trong pḥng ngừa thứ cấp sau một nhồi máu cơ tim hay một tai biến mạch máu năo.
Mới đây, tạp chí y khoa độc lập Cochrane kêu gọi thận trọng trong việc kê đơn statines, thuốc làm giảm lipide trong máu (hypolipidémiant), nơi những người có nguy cơ tim-mạch thấp, nhấn mạnh những hạn chế của các công tŕnh nghiên cứu được thực hiện trong 10 năm về sự đóng góp của các thuốc chống cholestérol quan trọng này trong sự pḥng ngừa nguyên phát các tai biến tim mạch. Điều này làm phát động trở lại cuộc tranh luận, mặc dầu, GS Bruckert đánh giá, “ công tŕnh nghiên cứu này chỉ nói lại điều mà tất cả chúng ta đă nói : trong pḥng ngừa nguyên phát, nơi những người có nguy cơ thấp, tỷ suất lợi ích/nguy cơ của statine không được tốt ”. Nơi những người có nguy cơ cao, statine, do làm hạ thấp nồng độ LDL, làm giảm 30% nguy cơ tai biến tim mạch, nhưng đôi khi với cái giá bị đau cơ. Statine làm giảm sự tổng hợp cholestérol, nhưng việc khám phá những tác dụng kháng viêm cũng gợi ư những cách tác dụng khác.
THAY ĐỔI CHẾ ĐỘ ĂN UỐNG.
C̣n về HDL, các công tŕnh nghiên cứu dịch tễ học cho thấy rằng một nồng độ tăng cao có một tác dụng bảo vệ, nhưng chuyển hóa của nó là phức hợp hơn nhiều so với chuyển hóa của LDL. Những kết quả đầu tiên của anacetrapib, một thứ thuốc đang được thử nghiệm có tác dụng làm gia tăng HDL do ức chế sự biến đổi nó thành VLDL, dường như đầy hứa hẹn.
Tuy nhiên sự biến đổi các thói quen ăn uống vẫn là cơ sở của điều trị đối với những người có nguy cơ ở mức độ vừa phải. Sự biến đổi này nhằm giảm các thức ăn giàu mỡ bảo ḥa (graisses saturées), nhất là nguồn gốc động vật, như bơ, phó mát, thịt mỡ (ngoại trừ cá).. và sử dụng dầu thực vật giàu mỡ không bảo ḥa (graisses insaturées). “ Đó thật sự là một chiến lược quan trọng, được bắt đầu ngay thời kỳ ấu thơ, nhằm tránh một phần lớn những vấn đề liên quan đến sự thặng dư cholestérol ”, GS Bruckert đă nhấn mạnh như vậy. Những dịch bệnh béo ph́ hiện nay, do làm gia tăng các triglycéride, cũng làm gia tăng LDL trong máu và báo hiệu một dịch bệnh đái đường, nguy cơ chống lại những tiến bộ đă đạt được và hẳn đưa đến một chính sách pḥng ngừa tích cực hơn.
(LE FIGARO 14/3/2011)
florida80
06-04-2019, 19:09
BƯỚC ĐỀU PHẢI CHĂNG CÓ THỂ CẢI THIỆN HY VỌNG SỐNG ?
Pesseur André Vacheron
Président honoraire de l’Académie nationale de médecine
Quote:
15 phút hoạt động vật lư mức độ nhẹ mỗi ngày làm gia tăng hy vọng sống 3 năm, theo một công tŕnh nghiên cứu của Đài Loan được công bố năm 2011.
150 phút bước mỗi tuần được khuyến nghị đề pḥng ngừa những nguy cơ tim mạch.
T́nh trạng bất hoạt vật lư, thường đi đôi với một chế độ ăn uống quá nhiều calorie, làm dễ sự tăng thể trọng, chứng béo ph́, cao huyết áp, những bất quân b́nh lipide và bệnh đái đường.
Sự nhàn rỗi không hoạt động (sédentarité : từ chữa latin “ sedere ” nghĩa là ngồi) là một trong những tai ương của thế giới ngày nay. Thời gian trôi qua trước một màn ảnh ordinateur hay máy truyền h́nh đă trở thành một chỉ dấu cổ điển của t́nh trạng không hoạt động này. Đối với Tổ chức y tế thế giới, những người thực hiện dưới 30 phút mỗi ngày hoạt động vật lư ở mức trung b́nh có thể được xem như bất hoạt về mặt vật lư. T́nh trạng bất hoạt vật lư (inactivité physique) gia tăng với tuổi tác, bị làm trầm trọng bởi những yếu tố xă hội học và tâm lư học. Con người hiện đại không biết bước, chỉ biết xê dịch bằng xe hơi, các cầu thang cơ học và các thang máy.
T́nh trạng không hoạt động vật lư, thường đi đôi với một chế độ ăn uống quá giàu calories, làm dễ sự gia tăng thể trọng (surpoids), chứng béo ph́, cao huyết áp, những t́nh trạng bất quân b́nh lipide và bệnh đái đường. Đó là một yếu tố độc lập của tỷ lệ bệnh tật và tỷ lệ tử vong tim mạch. Ở những người bị bệnh đái đường, hoạt động vật lư cải thiện sự bắt giữ glucose bởi các tế bào cơ, gia tăng tính nhạy cảm đối với insuline và làm dễ sự kiểm soát đường huyết. Đó là một yếu tố quan trọng của điều trị. Ngày nay ta biết rằng những hiện tượng viêm làm dễ sự phát triển chứng xơ mỡ động mạch (athérosclérose).
SỰ TĂNG CAO CỦA CHOLESTEROL TỐT.
Một hoạt động vật lư đều đặn làm giảm những chỉ dấu (marqueur) của hiện tượng viêm. Nó cũng làm giảm sự ngưng kết của các tiểu cầu (agrégation des plaquettes) máu và nguy cơ bị huyết khối (thrombose). Hoạt động vật lư làm gia tăng “ cholestérol tốt ” HDL, có tác dụng bảo vệ thành mạch máu. Nó tạo điều kiện để làm giảm t́nh trạng tăng thể trọng, bệnh béo ph́ và sự nhàn rổi không hoạt động, cũng là những yếu tố nguy cơ làm xuất hiện các ung thư.
Câu trả lời xác định cho câu hỏi ban đầu một lần nữa vừa được xác nhận bởi những kết quả của một công tŕnh nghiên cứu của Đài Loan được công bố trong Lancet ngày 1 tháng 10 năm 2011.
Các tác giả (Chi Pang Wen và các cộng sự viên) đă theo dơi hàng năm từ năm 1996 đến 2008 (trung b́nh 8 năm) một tập hợp 416.175 người (199.265 đàn ông và 216.910 phụ nữ) tuổi tối thiểu 20. Bảng câu hỏi ban đầu liên quan đến lối sống và hoạt động vật lư của những người được tuyển mộ. Hoạt động được đánh giá theo cường độ liên quan với những tương đương chuyển hóa : nhẹ như bước thông thường, vừa phải như chạy jogging, trung b́nh như bước nhanh, mạnh như chạy bộ, và theo lượng, số phút mỗi tuần.
Trong 8 năm, so sánh với những người không hoạt động, tỷ lệ tử vong toàn thể của những người có một hoạt động vật lư nhẹ (đi bộ b́nh thường) đă giảm 14%, tỷ lệ tử vong tim mạch giảm 19%, tỷ lệ tử vong động mạch vành 25%, tỷ lệ tử vong do tai biến mạch máu năo giảm 12%, tỷ lệ tử vong do bệnh đái đường 1%, tỷ lệ tử vong do ung thư 10%.
Sự giảm tử vong toàn bộ tỷ lệ với thời gian hoạt động vật lư hàng ngày và cường độ của nó : 15 phút hoạt động vật lư nhẹ mỗi ngày làm gia tăng hy vọng sống 3 năm, lợi ích gia tăng với thời gian và cường độ của hoạt động mỗi ngày.
Công tŕnh nghiên cứu của Đài Loan đă có tính đến nhiều yếu tố có khả năng gây nhầm lẫn, những chỉ dấu của một t́nh trạng sức khỏe cơ bản tốt và những kết quả của nó đă không khác nhau tùy theo tuổi tác, giới tính, trọng lượng, sự hiện diện của một cao huyết áp hay bệnh đái đường.
Nhiều công tŕnh nghiên cứu đă chứng minh lợi ích, trong pḥng ngừa tim mạch, của việc bước ít nhất 30 phút mỗi ngày hay 150 phút mỗi tuần. Công tŕnh nghiên cứu của Wen và các cộng sự viên chứng tỏ rằng hoạt động vật lư hàng ngày, ngay cả nhẹ, cũng có lợi ích. Thế mà hoạt động như thế không khó thực hiện cũng chẳng tốn kém ǵ...
(LE FIGARO 2/4/2012)
florida80
06-04-2019, 19:13
CÁC LOẠI THUỐC CHỐNG CHOLESTEROL LÀM GIẢM BỆNH TRẦM CẢM.
Một công tŕnh nghiên cứu, vẫn c̣n cần được xác nhận, cho thấy rằng các statines làm giảm nguy cơ bị bệnh trầm cảm.
SANTE. Các statines, họ các loại thuốc nhằm làm giảm nồng độ cholestérol, đều đặn được gán cho những lợi ích khác với những lợi ích mà ta quan sát thấy trên hệ tim mạch. Một công tŕnh nghiên cứu mới, được công bố hôm 21/2 vừa qua trong The Journal of Clinical Psychiatry đă kết luận rằng các statines cũng làm giảm nguy cơ bị bệnh trầm cảm.
Một nhóm nghiên cứu của Hoa Kỳ đă theo dơi trong 6 năm một nhóm 965 bệnh nhân có một bệnh về tim và được tuyển mộ trong nhiều bệnh viện khác nhau của Californie. Trong số những bệnh nhân này, 65% đă dùng statines để điều trị bệnh. Những thuốc này cho phép làm giảm nồng độ cholestérol xấu và cải thiện tiên lượng ở những bệnh nhân có nhiều yếu tố nguy cơ tim mạch. Thật vậy, đó là những loại thuốc được kê đơn nhiều nhất trên thế giới.
Những dữ kiện trước đây gợi ư một sự giảm nguy cơ bị bệnh trầm cảm khi sử dụng statines. Tuy nhiên, các kết quả của vài công tŕnh nghiên cứu lại mâu thuẫn nhau. Do đó để biết rơ hơn, các tác giả đă đánh giá mối liên hệ giữa statines và những rối loạn khí chất (trouble de l’humeur) ở 965 bệnh nhân này theo tiến triển của thời gian. Các triệu chứng trầm cảm được đánh giá mỗi năm nhờ Patient Health Questionnaire, một bảng câu hỏi (auto-questionnaire) cho phép đo lường những triệu chứng khác nhau trong hai tuần trước đó : sự rầu rĩ, mệt, giảm ḷng tự tin, những ư nghĩ tự tử...
Các tác giả đă chứng thực rằng vào lúc tuyển mộ, các bệnh nhân sử dụng statines có một điểm số trầm cảm (score de dépression) trung b́nh thấp hơn những người không sử dụng, và sự khác biệt này được xác nhận, thậm chí gia tăng, suốt trong thời kỳ theo dơi. Những người dùng statines càng ngày càng ít bị trầm cảm trong khi những người không sử dụng thấy nguy cơ này gia tăng. Sau 6 năm, 28% những người được điều trị bởi statines sau cùng ít nhất đă bị một đợt trầm cảm nhẹ hay trầm trọng hơn, so với 40% những người không sử dụng. Ngoài ra, ở 776 bệnh nhân không có những triệu chứng trầm cảm vào lúc bắt đầu công tŕnh nghiên cứu, nguy cơ trầm cảm đă giảm 38% trong trường hợp dùng statines so với những bệnh nhân không bị trầm cảm lúc khởi đầu và không sử dụng statines. Dĩ nhiên, các tác giả đă tính đến những dị biệt về profil được quan sát giữa những bệnh nhân được điều trị hay không, đó là giới tính, chứng nghiện thuốc lá, sự hiện diện của những bệnh lư khác hay tŕnh độ học vấn.
Đối với các tác giả, những kết quả đáng phấn khởi này ăn khớp với những kết quả của những công tŕnh nghiên cứu quan sát trước đây. Thế mà những bệnh nhân bị những bệnh tim mạch có nguy cơ bị một bệnh trầm cảm hơn dân chúng nói chung. Nếu mối liên hệ này được xác nhận, những hậu quả có thể quan trọng trên phương diện y tế công cộng.
“ NHIỀU SAI LỆCH ”
GS Mary Whooley, đồng tác giả của các công tŕnh nghiên cứu ở Đại học San Francisco, đánh giá rằng “ hiệu quả này có thể được giải thích bởi tác dụng của statines chống lại chứng xơ mỡ động mạch ở năo bộ, dường như làm gia tăng nguy cơ bị trầm cảm ”. Tuy nhiên GS Mary nhắc lại rằng đó chỉ là những dữ kiện quan sát. “ Những dữ kiện này không cho phép xác lập một mối liên hệ nhân quả và dĩ nhiên đ̣i hỏi được xác nhận bởi những công tŕnh khác. Thế mà cho đến nay, những thử nghiệm này đă không cho thấy lợi ích tâm lư của các statines ở những người sử dụng ”, bà đă công nhận như vậy.
BS Philippe Giral, thuộc khoa nội tiết của hôpital de la Pitié-Salpetrière (Paris) về phần ông tỏ ra dè dặt hơn nhiều về những kết quả này. “ Trong công tŕnh nghiên cứu này có nhiều sai lệch mà nhiều điều chỉnh của phân tích thống kê không thể xóa bỏ, như việc thiếu tirage au sort các bệnh nhân. Trong cùng loại công tŕnh nghiên cứu, các statine đă cho thấy rằng chúng làm giảm nguy cơ găy cổ xương đùi hay cả nguy cơ xuất hiện ung thư. Tất cả những kết quả này đă bị phủ nhận bởi những công tŕnh nghiên cứu khác ! ” ông ta đă minh định như vậy. Những công tŕnh nghiên cứu khác với quy mô lớn hơn là cần thiết để xác nhận hay phủ nhận những dữ kiện này.
(LE FIGARO 27/3/2012)
florida80
06-04-2019, 19:17
UNG THƯ BÀNG QUANG (BLADDER CANCER)
Lynn Ly tổng hợp thông tin về Thư Ung Thư Bàng Quang
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 25 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (6/5/2007)
7/ BỆNH LẬU VÀ UNG THƯ BÀNG QUANG
Bệnh lậu (gonococcie hay blennorragie), là một nhiễm trùng được lây truyền bằng đường sinh dục, có tần số gây bệnh gia tăng từ vài năm nay, với số giống gốc (souches) lậu cậu đề kháng với kháng sinh gia tăng. Theo một công tŕnh nghiên cứu trên 51.000 người đàn ông, nguy cơ bi ung thư bàng quang sẽ 2 lần cao hơn trong trường hợp có tiền sử bệnh lậu.
Phản ứng viêm tại chỗ và sự tồn lưu của cặn nước tiểu sau khi tiểu tiện giải thích sự liên kết giữa nhiễm trùng thường gây đau đớn này và nguy cơ xuất hiện u bàng quang.
(SCIENCES ET AVENIR 5/2007)
florida80
06-04-2019, 19:18
UNG THƯ BÀNG QUANG : MỘT CHẨN ĐOÁN MỚI BẰNG NH̀N HUỲNH QUANG
Giáo Sư Thierry Lebret, thầy thuốc chuyên khoa tiết niệu của bệnh viện Foch de Suresnes, b́nh luận những tiến bộ về ung thư bàng quang, được tŕnh bày nhân hội nghị chuyên đề mới đây về các ung thư niệu-sinh dục ở San Francisco.
Hỏi: Người ta ít nói về ung thư bàng quang. Có phải loại ung thư này hiếm xảy ra chăng?
Giáo sư Thierry Lebret : Trái lại là khác ! Về mức độ thường xảy, th́ đó là ung thư đứng hàng thứ 4 ở đàn ông và đứng hàng thứ 7 ở phụ nữ.Tính tổng cộng, người ta thống kê được 10.000 trường hợp ung thư bàng quang mới mỗi năm ở Pháp.
Hỏi: Có những người có bẩm chất bị ung thư bàng quang và có những yếu tố nguy cơ đặc biệt không?
Giáo sư Th.L : Không có khuynh hướng gia đ́nh trong sự phát sinh ung thư này.Thuốc lá là nguyên nhân chính của sự phát triển các khối u bàng quang. Bàng quang là một cơ quan đặc biệt dễ bị gây thương tổn bởi các hợp chất hóa học. Thuốc lá giải thích sự khác nhau về tần số mắc bệnh giữa hai giới tính. Nhiễm độc thuốc lá ở đàn ông phổ biến hơn đàn bà. Cũng không nên quên vài độc chất nghề nghiệp, như thuốc nhuộm (thí dụ aniline) và vài dẫn xuất hóa học được dùng trong chế tạo cao su và các chất cách nhiệt (isolants de chauffage)
Hỏi: Nếu được phát hiện kịp thời, đó có phải là một ung thư mà ta thuờng chữa lành?
Giáo sư Th.L: Nh́n toàn bộ, ung thư bàng quang được chữa lành trong 80% các trường hợp. Nhưng điều chủ yếu là sự phát hiện sớm và chất lượng của chẩn đoán.
Hỏi: Những triệu chứng thường thấy nhất của ung thư bàng quang là ǵ?
Giáo sư Th.L : Hầu như luôn luôn chính sự xuất hiện của máu trong nước tiểu báo động bệnh nhân. Bất thường này không nhất thiết phải tương quan với một khối u bàng quang và cũng có thể chỉ do một nhiễm trùng đường tiết niệu, sỏi hay một thương tổn của thận. Dầu sao đi nữa, việc chứng nhận nước tiểu hồng hay đỏ, có hay không có cục máu đông, đều cần phải được thăm ḍ. Những triệu chứng khác có thể được biểu hiện, như muốn đi tiểu không cưỡng được hoặc đi tiểu quá nhiều lần, đôi khi đau bụng.
Hỏi: Ung thư bàng quang được chẩn đoán như thế nào?
G.S Th.L : Bắt đầu bằng t́m kiếm trong nước tiểu những tế bào bất thường (frottis urinaire) nhưng xét nghiệm duy nhất cho phép dẫn đến chẩn đoán cuối cùng là nội sợi soi bàng quang (fibroscopie vésicale).
Hỏi : Thăm ḍ này được tiến hành như thế nào?
G.S Th.L: công cuộc thăm ḍ này chỉ cần 5 phút, được thực hiện ở pḥng khám và chủ yếu là đưa vào đường tiết niệu những vi sợi quang học (microfibres optiques), được đẩy ngược ḍng cho đến bàng quang để thăm ḍ. Việc làm nhỏ dụng cụ quang học đă cho phép làm cho khám nghiệm này rất ít đau đớn và chịu đựng được tốt bởi các ông cũng như các bà. Trong bàng quang, khi có một khối u, khối u này thường xuất hiện dưới dạng một polype màu dâu tây, phải được lấy đi vài ngày sau đó.
Hỏi : Cho đến nay, những kết quả nào đă thu được với phương cách cổ điển này và những điều bất lợi nào đă buộc phải hiệu chính một trắc nghiệm mới ?
G.S Th.L : Vào lúc cắt bỏ, chúng tôi có thể loại bỏ hoàn toàn 70% các khối u bàng quang. Sau đó, sự phân tích dưới kính hiển vi mô được lấy ra sẽ hướng dẫn bước tiếp theo của điều trị. Nếu khối u ở nông, trường hợp thông thường nhất, th́ động tác giải phẫu sẽ dừng lại ở đó. Người ta sẽ hoàn tất cuộc giải phẫu bằng cách tiêm vào bàng quang các chất chống ung thư, mỗi tuần một lần, trong 6 tuần. Nghi thức điều trị này cho phép chữa lành bệnh, không tái phát 2 trên 3 trường hợp. Nhưng tiếc thay, và rất thường xảy ra với loại ung thư này, các vi thương tổn (microlésions) không nh́n thấy được, vẫn hiện diện trong những nơi khác của bàng quang, và về sau sẽ là mầm mống của tái phát và của sự phát triển ung thư không được để ư đến. Một phần lớn của tiên lượng của ung thư này là trong khả năng lấy đi toàn bộ các thương tổn ngay trong lần giải phẫu bằng nội soi đầu tiên.
Hỏi: Kỹ thuật mới này là ǵ và được thực hiện như thế nào?
G.S Th.L: Một giờ trước khi thủ thuật, người ta sẽ tiêm vào bàng quang một chất không gây đau. Chất này sẽ gắn một cách đặc hiệu vào tất cả các thương tổn hiện diện, dầu cho bé nhỏ thế nào đi nữa. Sau đó, dưới cái nh́n của nhà ngoại khoa, các thương tổn này sẽ xuất hiện dưới dạng huỳnh quang, nếu phẫu thuật viên nh́n bàng quang bằng ánh sáng màu xanh. Trắc nghiệm này là một cuộc cách mạng thật sự trong chẩn đoán sớm bệnh ung thư bàng quang bởi v́ ung thư càng khám phá sớm, th́ cơ may chữa lành càng lớn.
Hỏi: Những công tŕnh nghiên cứu nào đă chứng tỏ hiệu quả của trắc nghiệm mới này?
G.S Th.L: Nhiều công tŕnh nghiên cứu đă xác nhận kỹ thuật này, vừa nhận được sự chấp thuận sử dụng của 27 nước châu Âu. Trong những thể ung thư hung hăn nhất và khó nh́n thấy nhất (các ung thư tại chỗ : carcinomes in situ), tỷ lệ được phát hiện, trước khi có trắc nghiệm này là dưới 50%. Từ nay tỷ lệ này tăng lên 95% dưới ánh sáng xanh ! Điều này cũng muốn nói rằng tỷ lệ chữa lành của những ung thư bàng quang hẳn phải c̣n gia tăng và số các trường hợp tái phát sẽ giảm rất rơ rệt.
Hỏi: Nếu các thương tổn ung thư bàng quang tiến triển hơn (20-25% các trường hợp), có những tiến bộ trong điều trị không?
G.S Th.L: Khi ung thư thâm nhiễm sâu hơn vào thành bàng quang, phải dự kiến cắt bỏ toàn bộ cơ quan và thay thế bằng một đoạn ruột được khuôn theo. Một tiến bộ quan trọng: ngày nay các kỹ thuật thay thế, mà trước kia dành cho đàn ông, từ nay cũng được đề nghị cho phụ nữ. Kỹ thuật này cho phép đảm bảo cho bệnh nhân không bị chứng són đái (incontinence urinaire) sau khi mổ, phù hợp với một hoạt động xă hội b́nh thường, mà không làm biến đổi sơ đồ của cơ thể. Nguồn: PARIS MATCH 20/3 - 26/3/2008
florida80
06-04-2019, 19:19
CÁC THỢ HỚT TÓC CÓ NGUY CƠ GIA TĂNG BỊ UNG THƯ BÀNG QUANG
Việc sử dụng các chất nhuộm (colorants) và những sản phẩm hoá học khác sẽ gây nên một nguy cơ gia tăng cho các thợ hớt tóc, theo Trung tâm quốc tế nghiên cứu về ung thư, có cơ sở ở Lyon. Các công tŕnh nghiên cứu được thực hiện bởi cơ quan này của OMS đă được báo cáo bởi tạp chí The Lancet Oncology trong số tháng 4. Một nguy cơ đặc biệt bị ung thư bàng quang, mặc dầu thấp nhưng có thật, đă được nêu lên trong báo cáo. Nguy cơ này dường như ở phụ nữ ít rơ rệt hơn. Các chất hoá học được sử dụng bởi các thợ hớt tóc đă được phân tích. Trong số các chất này, có những chất như ortho-toluidine, được sử dụng trong việc chế tạo các sắc tố và được xếp loại là chất gây ung thư.
Ngược lại, các chuyên gia không xác lập mối liên hệ với các nguy cơ mắc phải ung thư khả dĩ xảy ra nơi những người tự nhuộm tóc. Ở Châu Âu, Nhật Bản và Hoa Kỳ, có khoảng 35% các phụ nữ và 10% các ông tự nhuộm lấy tóc của ḿnh.
(LE MONDE 27/3/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 153 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (21/12 /2009)
10/ UNG THƯ BÀNG QUANG : COI CHỪNG THUỐC LÁ.
Một công tŕnh nghiên cứu của Hoa Kỳ, được tiến hành ở New Hampshire trong 20 năm, nơi hơn 2000 bệnh nhân, chỉ rơ rằng ung thư bàng quang tiến triển hằng định, chủ yếu là do thuốc lá. Thuốc lá nhân nguy cơ mắc phải ung thư bàng quang lên 5 lần nơi người hút thuốc, so với những người không hút thuốc. Nguy cơ vẫn tồn tại dài lâu sau khi đă ngừng hút thuốc. Nguy cơ giảm rơ rệt trong 5 năm đầu sau khi ngừng hút thuốc nhưng vẫn trên mức chuẩn cho đến 20 năm sau khi ngừng hút.
(PARIS MATCH 10/12-16/12 /2009)
florida80
06-04-2019, 19:20
BỆNH ĐỘNG KINH (EPILEPSIE)
Lynn Ly tổng hợp thông tin về Bệnh Động Kinh (Epilepsie)
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 62 - BS NGUY NGUYỄN VĂN THỊNH ( 4/2/2008 )
4/ NHỮNG THƯƠNG TỔN KHÔNG THẤY ĐƯỢC DO SỨC NỔ CỦA BOM ĐẠN LÊN NĂO BỘ
Suốt trong trận chiến vùng Balkan năm 1990, Ibolja Cernak, BS chuyên khoa thần kinh thuộc bệnh viện quân sự Belgrade, đă phải đối diện với một bí ẩn: Bà thấy các quân nhân bị các rối loạn về trí nhớ, bị chóng mặt, bị những vấn đề về diễn đạt, nhưng lại không mang dấu vết của một vết thương nào. Một trong các người lính này, tuổi 19, đă đến một cửa hàng gia vị rồi bật khóc nức nở, v́ không biết làm thế nào để t́m đường trở về lại nhà. Khi bà mẹ của anh ta dẫn anh ta đến bệnh viện vài ngày sau đó, Ibolja Cernak đă khám phá một điểm chung cho tất cả các trường hợp thuộc loại này: Cậu thanh niên này, cũng như những người khác đều đă sống sót sau một trận nổ có cường độ mạnh trong lúc giao tranh. Và điều lạ lùng là hầu hết không ai bị thương ở đầu cả.
Tuy vậy, khi bà thực hiện chụp h́nh ảnh bằng tomographie hoặc bằng IRM, bà đă thấy được những dấu hiệu của các thương tổn.Trong vài trường hợp, các năo thất (ventricules) của năo bộ trở nên lớn ra hoặc có dấu vết của một xuất huyết nhẹ. Trong các tài liệu y học được tham khảo, Cernak đă không t́m thấy được một bài viết nào về chủ đề này cả. Người ta chỉ nói rơ rằng các làn sóng va chạm (ondes de choc) của một vụ nổ có thể gây tổn hại lên các cơ quan rỗng chứa đầy không khí như phổi và ruột, chứ không phải là năo bộ.
Nếu bà là thầy thuốc của Đệ Nhất Thế Chiến, Cernak đă tâm sự như vậy, th́ có lẽ bà sẽ nhận biết loại chấn thương này nơi hàng ngàn binh lính bị cái điều mà hồi đó đă gọi là shellshock hay choc d’obus (sốc do đạn súng cối). Các bác sĩ và các sĩ quan lúc đó đă xem hiện tượng này như là một hiện tượng tâm lư tạm thời, theo họ, chỉ có tác động lên các binh sĩ có trạng thái tâm thần vốn yếu ớt hơn. Nhưng thực tế được khám phá bởi nữ bác sĩ chuyên khoa thần kinh này lại khác hẳn : những hiện tượng tâm lư này dường như là do những biến đổi vật lư dài lâu trong năo bộ.
Để chứng tỏ điều đó, năm 1999 bà đă tiến hành một công tŕnh nghiên cứu nơi 1.300 binh lính bị thương ở phần thấp của cơ thể, nhưng không phải ở đầu. Một nửa trong số các binh sĩ này đă bị thương vào lúc xảy ra một trận nổ (une explosion), c̣n những người khác th́ bị thương do đạn bắn (un projectile). Trong số những người thuộc nhóm đầu, nhiều người bị mất ngủ, chóng mặt và mất trí nhớ. Cũng trong nhóm này, 36% trong số các nạn nhân đă cho thấy một điện năo đồ (électroencéphalogra mme) không b́nh thuờng trong 3 ngày theo sau chấn thương, so với 12% trong nhóm thứ hai. Một năm sau, điện năo đồ không b́nh thường vẫn c̣n nơi 30% trong số các nạn nhân thuộc nhóm thứ nhất, so với chỉ 4% thuộc nhóm thứ hai.
Cùng với những nhóm nghiên cứu khác ở Belgrade, ở Trung Quốc và Thụy Điển, Cernak đă thực hiện những nghiên cứu trên động vật: các công tŕnh nghiên cứu này xác nhận rằng các làn sóng nổ (onde de déflagration) có thể gây thương tổn lên các tế bào thần kinh. Các công tŕnh này vẫn không được chú ư đến cho măi đến năm 2006, là lúc hàng trăm binh lính Hoa Kỳ và Anh Quốc đă trở về từ Irak với những triệu chứng tương tự như những triệu chứng của các bệnh nhân của bà Cernak. Các bẫy ḿn được đặt trên các đường lộ đă trở nên thường xuyên hơn và các bác sĩ quân y đă nghĩ rằng những triệu chứng này là do một chấn thương nhẹ của năo bộ. Cernak, từ nay làm việc ở Johns Hopkins University ở tiểu bang Maryland, đă thấy rằng những quan sát của bà từ nay đă được công nhận .
Theo bà, các làn sóng va chạm (ondes de choc) sau trận nổ được lan truyền xuyên qua các mạch máu của lồng ngực lên năo bộ và đă để lại ở đấy những dấu vết thương tổn thần kinh; các thương tổn này cần đến thời gian dài lâu mới xuất hiện.Trong trường hợp này, việc đội mũ sắt sẽ chẳng có ích lợi ǵ nhiều. Các công tŕnh nghiên cứu trên chuột được cho tiếp xúc với các sóng va chạm, đă gợi cho bà kịch bản này: mặc dầu được bảo vệ bởi các lá thép, các làn sóng va chạm vẫn gây những biến đổi của mô năo bên trong. “Bà Cernak đă là một người tiền phong trong lănh vực này, John Povlishock thuộc Virginia Commonwealth University ở Richmond đă đánh giá như vậy. Chủ đề này có một ư nghĩa rất to lớn về kinh tế, quân sự và xă hội, nhưng măi đến hôm nay vẫn rất ít được nghiên cứu đến”.
CHIẾC HỘP PANDORE
Từ đó, vấn đề t́m biết các làn sóng nổ ảnh hưởng như thế nào lên năo bộ dần dần trở thành ưu tiên trong quân y. Mùa hè năm qua, Quốc Hội Hoa Kỳ đă cấp 150 triệu dollars cho Bộ Quốc Pḥng, dành cho năm đầu nghiên cứu về chủ đề này. Một chương tŕnh để t́m hiểu chấn thương gây nên bởi các làn sóng va chạm, nhiệt và bức xạ điện từ phát sinh do các trận nổ, đă được khởi động bởi Defense Advanced Research Projects Agency. Một cơ quan nghiên cứu khác, chuyên môn trong các chấn thương nhẹ của năo bộ, DVBIC, đă nhận một tài trợ 14 triệu dollars mỗi năm. Theo cơ quan này, 10 đến 20% các binh sĩ phục vụ ở Irak và ở Afganistan đă bị các chấn thương thuộc loại này, dưới dạng này hoặc dạng khác. Bảng thống kê vừa qua cho thấy rằng gần 25.000 trong số các binh sĩ này đă là nạn nhân của những chấn thương thuộc loại này. Đă có chỉ thị cho tất cả các bệnh viện dành cho các cựu chiến binh là phải t́m kiếm một cách có hệ thống các chấn thương nhẹ của năo bộ nơi những người đến bệnh viện khám.
Sự việc do tiếp xúc một trận nổ mà có thể gây nên những tổn hại dài lâu nơi năo bộ đă mở chiếc hộp Pandore, đặc biệt là đối với các cựu chiến binh lớn tuổi hơn. Bởi v́ điều này hàm ư rằng một vài người có thể bị các thương tổn thần kinh đă không được chẩn đoán hoặc đă bị lẫn lộn với một hợp chứng căng thẳng sau chấn thương (syndrome de stress posttraumatique). Thật vậy, từ khi chính phủ bắt đầu đưa ra các thông tin về loại chấn thương này, các cựu chiến binh t́m kiếm một điều trị cho những vấn đề tâm thần mà vài người đă có từ nhiều thập niên qua. “Có thể các chấn thương gây nên do các trận nổ sẽ tiếp nối “chất độc màu da cam” hoặc “hợp chứng chiến tranh vùng vịnh”, David Trudeau, một bác sĩ chuyên khoa tâm thần phụ trách các cựu chiến binh, đă chỉ rơ như vậy.
Cernak đă nhận được nhiều thư và điện thoại của các cựu chiến binh cám ơn bà về công tŕnh mà bà đă thực hiện. “Các binh lính là một trong những nhóm người dễ bị tổn thương nhất trên thế giới, và giúp đỡ họ là một nghĩa vụ đạo đức”, bà Cerna đă phát biểu như thế.
(LE FIGARO 28/1/2008)
florida80
06-04-2019, 19:21
BỆNH ĐỘNG KINH (EPILEPSIE)
Lynn Ly tổng hợp thông tin về Bệnh Động Kinh (Epilepsie)
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 62 - BS NGUY NGUYỄN VĂN THỊNH ( 4/2/2008 )
4/ NHỮNG THƯƠNG TỔN KHÔNG THẤY ĐƯỢC DO SỨC NỔ CỦA BOM ĐẠN LÊN NĂO BỘ
Suốt trong trận chiến vùng Balkan năm 1990, Ibolja Cernak, BS chuyên khoa thần kinh thuộc bệnh viện quân sự Belgrade, đă phải đối diện với một bí ẩn: Bà thấy các quân nhân bị các rối loạn về trí nhớ, bị chóng mặt, bị những vấn đề về diễn đạt, nhưng lại không mang dấu vết của một vết thương nào. Một trong các người lính này, tuổi 19, đă đến một cửa hàng gia vị rồi bật khóc nức nở, v́ không biết làm thế nào để t́m đường trở về lại nhà. Khi bà mẹ của anh ta dẫn anh ta đến bệnh viện vài ngày sau đó, Ibolja Cernak đă khám phá một điểm chung cho tất cả các trường hợp thuộc loại này: Cậu thanh niên này, cũng như những người khác đều đă sống sót sau một trận nổ có cường độ mạnh trong lúc giao tranh. Và điều lạ lùng là hầu hết không ai bị thương ở đầu cả.
Tuy vậy, khi bà thực hiện chụp h́nh ảnh bằng tomographie hoặc bằng IRM, bà đă thấy được những dấu hiệu của các thương tổn.Trong vài trường hợp, các năo thất (ventricules) của năo bộ trở nên lớn ra hoặc có dấu vết của một xuất huyết nhẹ. Trong các tài liệu y học được tham khảo, Cernak đă không t́m thấy được một bài viết nào về chủ đề này cả. Người ta chỉ nói rơ rằng các làn sóng va chạm (ondes de choc) của một vụ nổ có thể gây tổn hại lên các cơ quan rỗng chứa đầy không khí như phổi và ruột, chứ không phải là năo bộ.
Nếu bà là thầy thuốc của Đệ Nhất Thế Chiến, Cernak đă tâm sự như vậy, th́ có lẽ bà sẽ nhận biết loại chấn thương này nơi hàng ngàn binh lính bị cái điều mà hồi đó đă gọi là shellshock hay choc d’obus (sốc do đạn súng cối). Các bác sĩ và các sĩ quan lúc đó đă xem hiện tượng này như là một hiện tượng tâm lư tạm thời, theo họ, chỉ có tác động lên các binh sĩ có trạng thái tâm thần vốn yếu ớt hơn. Nhưng thực tế được khám phá bởi nữ bác sĩ chuyên khoa thần kinh này lại khác hẳn : những hiện tượng tâm lư này dường như là do những biến đổi vật lư dài lâu trong năo bộ.
Để chứng tỏ điều đó, năm 1999 bà đă tiến hành một công tŕnh nghiên cứu nơi 1.300 binh lính bị thương ở phần thấp của cơ thể, nhưng không phải ở đầu. Một nửa trong số các binh sĩ này đă bị thương vào lúc xảy ra một trận nổ (une explosion), c̣n những người khác th́ bị thương do đạn bắn (un projectile). Trong số những người thuộc nhóm đầu, nhiều người bị mất ngủ, chóng mặt và mất trí nhớ. Cũng trong nhóm này, 36% trong số các nạn nhân đă cho thấy một điện năo đồ (électroencéphalogra mme) không b́nh thuờng trong 3 ngày theo sau chấn thương, so với 12% trong nhóm thứ hai. Một năm sau, điện năo đồ không b́nh thường vẫn c̣n nơi 30% trong số các nạn nhân thuộc nhóm thứ nhất, so với chỉ 4% thuộc nhóm thứ hai.
Cùng với những nhóm nghiên cứu khác ở Belgrade, ở Trung Quốc và Thụy Điển, Cernak đă thực hiện những nghiên cứu trên động vật: các công tŕnh nghiên cứu này xác nhận rằng các làn sóng nổ (onde de déflagration) có thể gây thương tổn lên các tế bào thần kinh. Các công tŕnh này vẫn không được chú ư đến cho măi đến năm 2006, là lúc hàng trăm binh lính Hoa Kỳ và Anh Quốc đă trở về từ Irak với những triệu chứng tương tự như những triệu chứng của các bệnh nhân của bà Cernak. Các bẫy ḿn được đặt trên các đường lộ đă trở nên thường xuyên hơn và các bác sĩ quân y đă nghĩ rằng những triệu chứng này là do một chấn thương nhẹ của năo bộ. Cernak, từ nay làm việc ở Johns Hopkins University ở tiểu bang Maryland, đă thấy rằng những quan sát của bà từ nay đă được công nhận .
Theo bà, các làn sóng va chạm (ondes de choc) sau trận nổ được lan truyền xuyên qua các mạch máu của lồng ngực lên năo bộ và đă để lại ở đấy những dấu vết thương tổn thần kinh; các thương tổn này cần đến thời gian dài lâu mới xuất hiện.Trong trường hợp này, việc đội mũ sắt sẽ chẳng có ích lợi ǵ nhiều. Các công tŕnh nghiên cứu trên chuột được cho tiếp xúc với các sóng va chạm, đă gợi cho bà kịch bản này: mặc dầu được bảo vệ bởi các lá thép, các làn sóng va chạm vẫn gây những biến đổi của mô năo bên trong. “Bà Cernak đă là một người tiền phong trong lănh vực này, John Povlishock thuộc Virginia Commonwealth University ở Richmond đă đánh giá như vậy. Chủ đề này có một ư nghĩa rất to lớn về kinh tế, quân sự và xă hội, nhưng măi đến hôm nay vẫn rất ít được nghiên cứu đến”.
CHIẾC HỘP PANDORE
Từ đó, vấn đề t́m biết các làn sóng nổ ảnh hưởng như thế nào lên năo bộ dần dần trở thành ưu tiên trong quân y. Mùa hè năm qua, Quốc Hội Hoa Kỳ đă cấp 150 triệu dollars cho Bộ Quốc Pḥng, dành cho năm đầu nghiên cứu về chủ đề này. Một chương tŕnh để t́m hiểu chấn thương gây nên bởi các làn sóng va chạm, nhiệt và bức xạ điện từ phát sinh do các trận nổ, đă được khởi động bởi Defense Advanced Research Projects Agency. Một cơ quan nghiên cứu khác, chuyên môn trong các chấn thương nhẹ của năo bộ, DVBIC, đă nhận một tài trợ 14 triệu dollars mỗi năm. Theo cơ quan này, 10 đến 20% các binh sĩ phục vụ ở Irak và ở Afganistan đă bị các chấn thương thuộc loại này, dưới dạng này hoặc dạng khác. Bảng thống kê vừa qua cho thấy rằng gần 25.000 trong số các binh sĩ này đă là nạn nhân của những chấn thương thuộc loại này. Đă có chỉ thị cho tất cả các bệnh viện dành cho các cựu chiến binh là phải t́m kiếm một cách có hệ thống các chấn thương nhẹ của năo bộ nơi những người đến bệnh viện khám.
Sự việc do tiếp xúc một trận nổ mà có thể gây nên những tổn hại dài lâu nơi năo bộ đă mở chiếc hộp Pandore, đặc biệt là đối với các cựu chiến binh lớn tuổi hơn. Bởi v́ điều này hàm ư rằng một vài người có thể bị các thương tổn thần kinh đă không được chẩn đoán hoặc đă bị lẫn lộn với một hợp chứng căng thẳng sau chấn thương (syndrome de stress posttraumatique). Thật vậy, từ khi chính phủ bắt đầu đưa ra các thông tin về loại chấn thương này, các cựu chiến binh t́m kiếm một điều trị cho những vấn đề tâm thần mà vài người đă có từ nhiều thập niên qua. “Có thể các chấn thương gây nên do các trận nổ sẽ tiếp nối “chất độc màu da cam” hoặc “hợp chứng chiến tranh vùng vịnh”, David Trudeau, một bác sĩ chuyên khoa tâm thần phụ trách các cựu chiến binh, đă chỉ rơ như vậy.
Cernak đă nhận được nhiều thư và điện thoại của các cựu chiến binh cám ơn bà về công tŕnh mà bà đă thực hiện. “Các binh lính là một trong những nhóm người dễ bị tổn thương nhất trên thế giới, và giúp đỡ họ là một nghĩa vụ đạo đức”, bà Cerna đă phát biểu như thế.
(LE FIGARO 28/1/2008)
florida80
06-04-2019, 19:21
VIỆC UỐNG THUỐC ĐỀU ĐẶN NƠI NHỮNG NGƯỜI BỊ BỆNH ĐỘNG KINH
Việc tuân thủ kém trong việc uống thuốc chống động kinh phải chăng liên kết với một sự gia tăng tỷ lệ tử vong và làm gia tăng nguy cơ những biến cố lâm sàng nghiêm trọng (thăm khám pḥng cấp cứu, nhập viện, tai nạn lưu thông, găy xương và bị thương tích ở đầu) ? Một nhóm nghiên cứu người Anh, E. Faught và các cộng sự viên, đă thực hiện một công tŕnh nghiên cứu ở Florida, Iowa và New Jersey, từ tháng giêng năm 1997 đến tháng 6 năm 2006. Các bệnh nhân 18 tuổi hoặc hơn đă được tuyển chọn, được chẩn đoán bởi một thầy thuốc thần kinh và sử dụng 2 thuốc chống động kinh hoặc hơn. Các bệnh nhân dùng 80% (hoặc hơn) liều lượng được cho, được xem là tuân thủ điều trị (compliant).
Các kết quả cho thấy rằng ¼ các bệnh nhân đă được xếp loại là không tuân thủ điều trị (non compliant). Việc kém tuân thủ trong điều trị được liên kết với một sự gia tăng nguy cơ tử vong, được nhân lê gấp ba lần, so sánh với những người tuân thủ tốt điều trị. Những thời kỳ không tuân thủ cũng đặc trưng bởi một tỷ lệ gia tăng một cách đáng kể những lần đến pḥng cấp cứu, nhập viện, tai nạn lưu thông và găy xương, so với những thời kỳ tuân thủ điều trị. Đối với các tác giả, những dữ kiện này gợi ư rằng, nơi những bệnh nhân bị động kinh, việc tuân thủ kém trong việc uống thuốc chống động kinh có thể có những hậu quả nghiêm trọng và làm gia tăng nguy cơ bị những biến cố lâm sàng nghiêm trọng.
LE JOURNAL DU MEDECIN (27/6/2008)
florida80
06-04-2019, 19:22
VIỆC UỐNG THUỐC ĐỀU ĐẶN NƠI NHỮNG NGƯỜI BỊ BỆNH ĐỘNG KINH
Việc tuân thủ kém trong việc uống thuốc chống động kinh phải chăng liên kết với một sự gia tăng tỷ lệ tử vong và làm gia tăng nguy cơ những biến cố lâm sàng nghiêm trọng (thăm khám pḥng cấp cứu, nhập viện, tai nạn lưu thông, găy xương và bị thương tích ở đầu) ? Một nhóm nghiên cứu người Anh, E. Faught và các cộng sự viên, đă thực hiện một công tŕnh nghiên cứu ở Florida, Iowa và New Jersey, từ tháng giêng năm 1997 đến tháng 6 năm 2006. Các bệnh nhân 18 tuổi hoặc hơn đă được tuyển chọn, được chẩn đoán bởi một thầy thuốc thần kinh và sử dụng 2 thuốc chống động kinh hoặc hơn. Các bệnh nhân dùng 80% (hoặc hơn) liều lượng được cho, được xem là tuân thủ điều trị (compliant).
Các kết quả cho thấy rằng ¼ các bệnh nhân đă được xếp loại là không tuân thủ điều trị (non compliant). Việc kém tuân thủ trong điều trị được liên kết với một sự gia tăng nguy cơ tử vong, được nhân lê gấp ba lần, so sánh với những người tuân thủ tốt điều trị. Những thời kỳ không tuân thủ cũng đặc trưng bởi một tỷ lệ gia tăng một cách đáng kể những lần đến pḥng cấp cứu, nhập viện, tai nạn lưu thông và găy xương, so với những thời kỳ tuân thủ điều trị. Đối với các tác giả, những dữ kiện này gợi ư rằng, nơi những bệnh nhân bị động kinh, việc tuân thủ kém trong việc uống thuốc chống động kinh có thể có những hậu quả nghiêm trọng và làm gia tăng nguy cơ bị những biến cố lâm sàng nghiêm trọng.
LE JOURNAL DU MEDECIN (27/6/2008)
florida80
06-04-2019, 19:23
MỘT CHẾ ĐỘ ĂN UỐNG NHIỀU MỠ CHỐNG BỆNH ĐỘNG KINH
2/3 chất mỡ và 1/3 chất đạm và đường : chế độ ăn uống tăng mỡ (régime hypergras) này điều trị các bệnh nhân động kinh không đáp ứng với thuốc. Được nghĩ ra cách nay gần 100 năm bởi Russel Wilder, một nhà nghiên cứu Hoa Kỳ, nhưng đây là lần đầu tiên chế độ ăn uống tăng mỡ này được nghiên cứu một cách nghiêm chỉnh như vậy. Nhóm nghiên cứu được lănh đạo bởi Elizabeth Neal ở Luân Đôn, chứng tỏ tính hiệu quả của chế độ ăn uống tăng mỡ: sau 3 tháng tuân theo chế độ ăn uống này, 38% các trẻ thấy hơn một nửa các cơn động kinh biến mất, và ở vài trẻ tỷ lệ này lên đến 90%. Chế độ ăn uống sinh cétone (régime cétogène) tạo một tác dụng tương tự với sự nhịn đói : việc thiếu glucose buộc cơ thể phải thoái biến các lipide và như thế sản sinh một lượng quan trọng chất cétone (trong đó có acétone). Theo các nhà khoa học, chính các chất cétone này làm giảm các hiện tượng động kinh. Chúng tác động như thế nào ? Đó vẫn c̣n là một bí ẩn.
SCIENCE ET VIE (7/2008)
florida80
06-04-2019, 19:23
ĐỘNG KINH : NHỮNG PHUƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ MỚI
Giáo sư Michel Baulac, thầy thuốc chuyên khoa thần kinh của bệnh viện La Pitié-Salpêtrière, Paris, giải thích từ nay điều trị như thế nào 40% những bệnh nhân động kinh đề kháng với các liệu pháp cổ điển.
Hỏi : người ta thường che dấu là bị một bệnh động kinh, căn bệnh c̣n bị kiêng kỵ về mặt xă hội. Thật ra, định nghĩa của động kinh là thế nào ?
G.S Michel Baulac : Đó là một bệnh lư thường xảy ra, ở châu Âu cứ 1000 người th́ có một người bị bệnh, trong đó cứ hai bệnh nhân th́ một là trẻ em. Người ta chỉ thật sự chẩn đoán động kinh khi các cơn tái diễn. Các cơn này tương ứng với một đợt phóng điện (une décharge électrique) bất b́nh thường của các nơ ron nằm trên trên một bề mặt rộng ít hay nhiều của vỏ năo. Các triệu chứng thay đổi tùy theo vị trí và mặt rộng của vùng bị ảnh hưởng. Nhiều nguyên nhân có thể là nguồn gốc của những cơn động kinh này : khối u, sẹo sau chấn thương, dị dạng đủ loại, nhưng cũng có tố bẩm di truyền.
Hỏi : Những dạng khác nhau của cơn động kinh là ǵ ?
G.S Michel Baulac : Vâng. Có hai dạng chính. 1. Cơn động kinh toàn thể (crise convulsive généralisée) trong đó sự phóng điện nơ ron tỏa lan. Cơn được phát khởi bằng một sự mất tri giác tức thời kéo dài vài phút, bệnh nhân té đột ngột, cứng toàn bộ thân thể, tăng tiết nước bọt và những rung giật ở các chi : cơn rất gây ấn tượng đối với những người chung quanh! Những cơn động kinh toàn thể khác, ít gây thương tổn hơn, chỉ đưa đến vắng ư thức (absence) vài giây hay những rung giật ngắn ngủi của các chi. 2. Những cơn động kinh cục bộ (crises partielles), có những triệu chứng tương ứng với vùng bị ảnh hưởng : những rối loạn thị giác, các ảo giác (hallucinations), những cử động không tự ư và vắng ư thức kéo dài vài phút đối với vài bệnh nhân, với mất toàn bộ sự làm chủ hành vi, do đó t́nh trạng mất năng lực quan trọng khi các cơn xảy ra thường xuyên.
Hỏi : Những người động kinh sống trong lo sợ sẽ xảy ra một cơn động kinh mới… Những dấu hiệu báo trước là những dấu hiệu nào ?
G.S M.B : Có khi vài người phát khởi một cơn nhỏ (minicrise) vài chốc lát trước khi cơn trở nên nghiêm trọng hơn. Nếu có đủ thời gian (khoảng 10 phút), một thuốc có tác dụng nhanh đôi khi có thể tránh được cơn xảy ra. Nhưng hầu hết các bệnh nhân không có một dấu hiệu báo trước nào, do đó cần có một điều trị thường trực.
Hỏi: Cho đến nay, những điều trị cổ điển là những điều trị nào, và những chỉ định của chúng?
G.S M.B : Một tiến bộ mới đây là khả năng điều trị các bệnh nhân “à la carte“. Có nhiều thuốc chống động kinh với cách tác dụng khác nhau nhưng mục đích đều giống nhau: ngăn cản sự biểu hiện các triệu chứng. Không có một loại thuốc nào có thể chữa lành được bệnh. Đối với các cơn động kinh toàn thể, valproate (Dépakine), lamotrigine (LAmictal) là được sử dụng nhiều nhất nhưng không phải là không có những tác dụng phụ, do đó cần theo dơi đều đặn. Đối với những cơn động kinh cục bộ, thuốc thường được cho là carbamazépine (Tégrétol) vẫn có thế cho những tác dụng phụ; lévétiracétam (Keppra) là một lựa chọn khác.
Hỏi : Với những phương thức điều trị thuốc bằng đường miệng, những kết quả thu được là những kết quả nào ?
G.S M.B : Chúng cho phép kiểm soát các cơn nơi 60% các bệnh nhân.
Hỏi : Như vậy đối với 40% những bệnh nhân c̣n lại, cần những điều trị hiệu quả hơn. Điều trị mới được hiệu chính gần đây đối với những bệnh nhân đề kháng này là gi ?
G.S M.B : Trước hết, vài bệnh nhân được gọi là đề kháng dược liệu (pharmacorésistant) có thể là những ứng viên của một can thiệp ngoại khoa, nhằm lấy đi vùng năo bộ gây nên các cơn động kinh. Về mặt thuốc men, chúng ta có những thuốc mới chống động kinh, được cho bằng đường miệng. Trong số những thuốc mới nhất, zonisamide và lacosamide đă được trắc nghiệm trong nhiều công tŕnh nghiên cứu quốc tế, trong đó chúng đă chứng tỏ một hiệu quả thật sự trong việc làm giảm tần số xảy ra các cơn. Những thuốc này có ưu điểm là có hoạt tính nơi những bệnh nhân đề kháng nhất.
Hỏi : Người ta có nhận thấy những tác dụng phụ không ?
G.S M.B : Người ta đă ghi nhận những cảm giác chóng mặt, chứng ngủ gà, t́nh trạng dễ mệt mỏi và vài rối loạn tính khí.
Hỏi : Khi nào các bệnh nhân động kinh mới có thể hưởng liệu phát rất mới này ?
G.S M.B : Zonisamide đă được chấp thuận bởi các giới hữu trách Châu Âu và đă được thương măi hóa ở Pháp từ nhiều tháng nay. Lacosamide vừa mới được sự chấp thuận của châu Âu và chẳng bao lâu sẽ có để sử dụng ở Pháp. Những điều trị các bệnh nhân đề kháng bằng những thuốc mới này là một bước tiến quan trọng.
Hỏi : Có chống chỉ định đối với những thuốc mới này không ?
G.S M.B : Mọi dự định thai nghén phải được chuẩn bị trước một cách cẩn thận và vài loại thuốc cần phải tránh. FDA, cơ quan y tế tối cao của Hoa Kỳ, vừa gợi ư rằng tất cả các thuốc chống động kinh mới có thể làm dễ các ư nghĩ tự tử (idées suicidaires). Do đó cần áp dụng mọi biện pháp thận trọng nơi những bệnh nhân trầm cảm có nguy cơ bị động kinh hơn.
Hỏi : Những thuốc mới này đă được thương măi hóa trong các nước khác chưa ?
G.S M.B : zonisamide khởi đầu đă được phát triển ở Nhật Bản trong những năm 90, sau đó được đưa vào Hoa Kỳ năm 2000.Vậy chúng ta hưởng được một kinh nghiệm rộng răi.Thời gian nh́n lại ngắn hơn đối với lacosamide.
Sau cùng, phải nhấn mạnh những tiến bộ mới đây đối với vài dạng động kinh tàn phá của trẻ em, với sự hiệu chính những thuốc rất trọng điểm, gọi là orphelins. Những tiến bộ này thể hiện đúng tất cả những cố gắng hiện nay của nghiên cứu chống lại bệnh động kinh trong tất cả các dạng thức.
(PARIS MATCH 25/9-1/10/2008)
florida80
06-04-2019, 19:24
ĐỘNG KINH : NHỮNG PHUƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ MỚI
Giáo sư Michel Baulac, thầy thuốc chuyên khoa thần kinh của bệnh viện La Pitié-Salpêtrière, Paris, giải thích từ nay điều trị như thế nào 40% những bệnh nhân động kinh đề kháng với các liệu pháp cổ điển.
Hỏi : người ta thường che dấu là bị một bệnh động kinh, căn bệnh c̣n bị kiêng kỵ về mặt xă hội. Thật ra, định nghĩa của động kinh là thế nào ?
G.S Michel Baulac : Đó là một bệnh lư thường xảy ra, ở châu Âu cứ 1000 người th́ có một người bị bệnh, trong đó cứ hai bệnh nhân th́ một là trẻ em. Người ta chỉ thật sự chẩn đoán động kinh khi các cơn tái diễn. Các cơn này tương ứng với một đợt phóng điện (une décharge électrique) bất b́nh thường của các nơ ron nằm trên trên một bề mặt rộng ít hay nhiều của vỏ năo. Các triệu chứng thay đổi tùy theo vị trí và mặt rộng của vùng bị ảnh hưởng. Nhiều nguyên nhân có thể là nguồn gốc của những cơn động kinh này : khối u, sẹo sau chấn thương, dị dạng đủ loại, nhưng cũng có tố bẩm di truyền.
Hỏi : Những dạng khác nhau của cơn động kinh là ǵ ?
G.S Michel Baulac : Vâng. Có hai dạng chính. 1. Cơn động kinh toàn thể (crise convulsive généralisée) trong đó sự phóng điện nơ ron tỏa lan. Cơn được phát khởi bằng một sự mất tri giác tức thời kéo dài vài phút, bệnh nhân té đột ngột, cứng toàn bộ thân thể, tăng tiết nước bọt và những rung giật ở các chi : cơn rất gây ấn tượng đối với những người chung quanh! Những cơn động kinh toàn thể khác, ít gây thương tổn hơn, chỉ đưa đến vắng ư thức (absence) vài giây hay những rung giật ngắn ngủi của các chi. 2. Những cơn động kinh cục bộ (crises partielles), có những triệu chứng tương ứng với vùng bị ảnh hưởng : những rối loạn thị giác, các ảo giác (hallucinations), những cử động không tự ư và vắng ư thức kéo dài vài phút đối với vài bệnh nhân, với mất toàn bộ sự làm chủ hành vi, do đó t́nh trạng mất năng lực quan trọng khi các cơn xảy ra thường xuyên.
Hỏi : Những người động kinh sống trong lo sợ sẽ xảy ra một cơn động kinh mới… Những dấu hiệu báo trước là những dấu hiệu nào ?
G.S M.B : Có khi vài người phát khởi một cơn nhỏ (minicrise) vài chốc lát trước khi cơn trở nên nghiêm trọng hơn. Nếu có đủ thời gian (khoảng 10 phút), một thuốc có tác dụng nhanh đôi khi có thể tránh được cơn xảy ra. Nhưng hầu hết các bệnh nhân không có một dấu hiệu báo trước nào, do đó cần có một điều trị thường trực.
Hỏi: Cho đến nay, những điều trị cổ điển là những điều trị nào, và những chỉ định của chúng?
G.S M.B : Một tiến bộ mới đây là khả năng điều trị các bệnh nhân “à la carte“. Có nhiều thuốc chống động kinh với cách tác dụng khác nhau nhưng mục đích đều giống nhau: ngăn cản sự biểu hiện các triệu chứng. Không có một loại thuốc nào có thể chữa lành được bệnh. Đối với các cơn động kinh toàn thể, valproate (Dépakine), lamotrigine (LAmictal) là được sử dụng nhiều nhất nhưng không phải là không có những tác dụng phụ, do đó cần theo dơi đều đặn. Đối với những cơn động kinh cục bộ, thuốc thường được cho là carbamazépine (Tégrétol) vẫn có thế cho những tác dụng phụ; lévétiracétam (Keppra) là một lựa chọn khác.
Hỏi : Với những phương thức điều trị thuốc bằng đường miệng, những kết quả thu được là những kết quả nào ?
G.S M.B : Chúng cho phép kiểm soát các cơn nơi 60% các bệnh nhân.
Hỏi : Như vậy đối với 40% những bệnh nhân c̣n lại, cần những điều trị hiệu quả hơn. Điều trị mới được hiệu chính gần đây đối với những bệnh nhân đề kháng này là gi ?
G.S M.B : Trước hết, vài bệnh nhân được gọi là đề kháng dược liệu (pharmacorésistant) có thể là những ứng viên của một can thiệp ngoại khoa, nhằm lấy đi vùng năo bộ gây nên các cơn động kinh. Về mặt thuốc men, chúng ta có những thuốc mới chống động kinh, được cho bằng đường miệng. Trong số những thuốc mới nhất, zonisamide và lacosamide đă được trắc nghiệm trong nhiều công tŕnh nghiên cứu quốc tế, trong đó chúng đă chứng tỏ một hiệu quả thật sự trong việc làm giảm tần số xảy ra các cơn. Những thuốc này có ưu điểm là có hoạt tính nơi những bệnh nhân đề kháng nhất.
Hỏi : Người ta có nhận thấy những tác dụng phụ không ?
G.S M.B : Người ta đă ghi nhận những cảm giác chóng mặt, chứng ngủ gà, t́nh trạng dễ mệt mỏi và vài rối loạn tính khí.
Hỏi : Khi nào các bệnh nhân động kinh mới có thể hưởng liệu phát rất mới này ?
G.S M.B : Zonisamide đă được chấp thuận bởi các giới hữu trách Châu Âu và đă được thương măi hóa ở Pháp từ nhiều tháng nay. Lacosamide vừa mới được sự chấp thuận của châu Âu và chẳng bao lâu sẽ có để sử dụng ở Pháp. Những điều trị các bệnh nhân đề kháng bằng những thuốc mới này là một bước tiến quan trọng.
Hỏi : Có chống chỉ định đối với những thuốc mới này không ?
G.S M.B : Mọi dự định thai nghén phải được chuẩn bị trước một cách cẩn thận và vài loại thuốc cần phải tránh. FDA, cơ quan y tế tối cao của Hoa Kỳ, vừa gợi ư rằng tất cả các thuốc chống động kinh mới có thể làm dễ các ư nghĩ tự tử (idées suicidaires). Do đó cần áp dụng mọi biện pháp thận trọng nơi những bệnh nhân trầm cảm có nguy cơ bị động kinh hơn.
Hỏi : Những thuốc mới này đă được thương măi hóa trong các nước khác chưa ?
G.S M.B : zonisamide khởi đầu đă được phát triển ở Nhật Bản trong những năm 90, sau đó được đưa vào Hoa Kỳ năm 2000.Vậy chúng ta hưởng được một kinh nghiệm rộng răi.Thời gian nh́n lại ngắn hơn đối với lacosamide.
Sau cùng, phải nhấn mạnh những tiến bộ mới đây đối với vài dạng động kinh tàn phá của trẻ em, với sự hiệu chính những thuốc rất trọng điểm, gọi là orphelins. Những tiến bộ này thể hiện đúng tất cả những cố gắng hiện nay của nghiên cứu chống lại bệnh động kinh trong tất cả các dạng thức.
(PARIS MATCH 25/9-1/10/2008)
florida80
06-04-2019, 19:25
TIỀN SẢN GIẬT VÀ NGUY CƠ BỊ BỆNH ĐỘNG KINH NƠI TRẺ EM
Các nhà nghiên cứu Đan mạch đă xác lập mối liên hệ giữa tiền sản giật (peééclampsie) nơi người mẹ và một nguy cơ bị động kinh lớn hơn nơi trẻ được sinh ra sau 37 tuần thai nghén.
Những nghiên cứu trước đă phát hiện mối liên hệ giữa sự xảy ra một cơn sản giật nơi người mẹ và một nguy cơ cao bị bệnh động kinh nơi đứa trẻ. Nhưng một tiền sản giật (pré-éclampsie) nơi một người mẹ có thai có liên kết với cùng loại nguy cơ này hay không ?
Đó là điều mà Chun Sen Wu và các đồng nghiệp thuộc đại học Aarhus (Đan Mạch) đă muốn biết. Nhóm nghiên cứu đă khảo sát các dữ kiện từ Danish National Register, liên quan đến 1,5 triệu trẻ em được sinh từ 1978 đến 2003. Trong nhóm này, họ đă có thể nhận diện 45.288 trẻ em (2,9%) đă chịu bệnh tiền sản giật của người mẹ trong thời kỳ tiền sinh và 654 em (0,04%) mà mẹ đă bị một đợt sản kinh trong thời kỳ thai nghén. Mặt khác họ đă nhận diện trong nhóm được khảo sát này 20.620 người đă có những cơn động kinh suốt trong một thời kỳ theo dơi kéo dài 27 năm.
Sự phân tich các dữ kiện cho thấy rằng sự tiếp xúc với một đợt tiền sản giật được liên kết với một nguy cơ bị động kinh gia tăng nơi các trẻ em mà tuổi thai nghén lúc sinh là ít nhất 37 tuần. Khi tiền sản giật ở mức độ trung b́nh, nguy cơ là 1,16 lần cao hơn nơi những trẻ sinh đủ tháng và 1,68 cao hơn nơi những trẻ sinh quá tháng ; trong trường hợp tiền sản giật nặng, nguy cơ lần lượt là 1,41 và 2,57 lần cao hơn. Không có sự liên kết nào được t́m thấy giữa tiền sản giật và động kinh nơi trẻ em sinh không đủ tháng. C̣n về sản giật, bệnh lư này được liên kết với một nguy cơ bị động kính cao hơn.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 21/11/2008)
florida80
06-04-2019, 19:26
ĐỘNG KINH : NGOẠI KHOA RẤT HIỆU QUẢ NHƯNG KHÔNG ĐƯỢC THỰC HIỆN NHIỀU
Neurologie : Trong các trường hợp mà thuốc men không hiệu quả, việc nhờ đến con dao mổ cho phép những tỷ lệ chữa lành quan trọng và những di chứng hiếm khi xảy ra.
Quá ít, quá muộn. Mặc dầu có thể cải thiện một cách đáng kể đời sống và ngay cả hy vọng sống thêm (espérance de vie) của một vài người bị bệnh động kinh, ngoại khoa vẫn ít được sử dụng và được thực hiện quá chậm, các thầy thuốc Hoa Kỳ trong ấn bản vừa qua của Jama, tờ báo của Hiệp hội y sĩ Hoa Kỳ, đă phàn nàn như vậy. Một điều chứng thực hoàn toàn được chia sẻ bởi các chuyên viên người Pháp. “Phải thôi cho rằng điều trị ngoại khoa bệnh động kinh là một điều trị của cơ may cuối cùng. Trái lại có thể đó là điều trị có khả năng tốt nhất không được bỏ qua”, G.S Bertrand Devaux, thầy thuốc ngoại thần kinh của bệnh viện Sainte-Anne (Paris) đă tóm tắt như vậy trong báo cáo mới đây về những điều trị ngoại khoa của bệnh động kinh ở Pháp.
Là bệnh măn tính gây phế tật, có thể bắt đầu từ tuổi ấu thơ, động kinh có liên quan từ 0,5 đến 1% dân số thế giới, hoặc gần 500.000 người ở Pháp. Những nguyên nhân gây nên những phóng điện bất thường ở các tế bào thần kinh này rất là nhiều. Cũng như các triệu chứng của các cơn động kinh cũng vậy, tùy thuộc vào vị trí của các thương tổn.
Trong hầu hết các trường hợp, bệnh được kiểm soát bởi một điều trị nội khoa, nhưng các loại thuốc vẫn không có hiệu quả nơi 20 đến 30% các bệnh nhân. Chính những người được gọi là “đề kháng với dược” (pharmaco-résistant) này, đôi khi rất tàn phế trong cuộc sống hàng ngày, là đối tượng mà phẫu thuật có khả năng nhằm đến. Tuy nhiên không phải tất cả mọi trường hợp đều có thể mổ được. Phẫu thuật chỉ có thể được đề nghị khi thương tổn năo, nguồn gốc của các cơn động kinh, được khu trú trong một vùng mà sự cắt bỏ ít có nguy cơ đưa đến các di chứng trên b́nh diện chức năng.
BILAN TIỀN PHẪU NẶNG NỀ
Công tŕnh nghiên cứu được công bố trong Jama bởi B.S Hyunmi Choi (thầy thuốc thần kinh của Đại Học Columbia, Nữu Ước), được thực hiện trên bệnh động kinh của thùy thái dương (épilepsie du lobe temporal), thể thông thường nhất của bệnh nơi người trưởng thành, và là một trong những thể thường đề kháng nhất đối với các thuốc chống động kinh. Các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ cho thấy rằng nơi những bệnh nhân ở lứa tuổi trung b́nh (35 tuổi), giải phẫu cho phép làm gia tăng 5 năm hy vọng sống thêm (espérance de vie) so với điều trị nội khoa. Thật vậy, BS Choi nhắc lại, bệnh động kinh đề kháng với thuốc làm gia tăng tỷ lệ tử vong do những tai nạn chết người xảy ra sau các cơn, do các cơn nặng (cơn động kinh liên tục), do tự tử hay chết đột ngột.
C̣n các kết quả về chất lượng sống, theo cùng công tŕnh nghiên cứu, chúng biện minh cho ưu thế của điều trị ngoại khoa nơi 96% các bệnh nhân. Những lợi ích của phẫu thuật (cải thiện rơ rệt các cơn, hoặc kể cả chữa lành) vượt xa hơn nhiều những nguy cơ của can thiệp ngoại khoa. Tuy vậy, như chủ bút của tờ Jama xác nhận, “ không những phần lớn các ứng viên của phẫu thuật đă không bao giờ được giới thiệu đến một phẫu thuật viên, mà những bệnh nhân được mổ thường quá chậm để có thể ngăn ngừa những phế tật sinh lư và xă hội của bệnh động kinh. ”
Trung b́nh, ở Hoa Kỳ, can thiệp ngoại khoa được thực hiện sau hơn 20 năm tiến triển của bệnh. Một t́nh trạng có thể được so sánh với Pháp. Khoảng 400 bệnh nhân bị động kinh (trong đó 100 là trẻ em) được mổ mỗi năm trong một trong 17 trung tâm của Pháp, hoặc khoảng một nửa của các nhu cầu. “Quá nhiều bệnh nhân vẫn được theo dơi rất lâu bởi những thầy thuốc không biết rơ ngoại khoa hoặc không có một cái nh́n dương tính về phẫu thuật”, G.S Devaux đă nhấn mạnh như thế.
Tính toàn bộ, từ lúc bắt đầu đến cuối những năm 1950, ở bệnh viện Sainte-Anne, phẫu thuật của bệnh động kinh đă được thực hiện nơi 5.000 bệnh nhân ở Pháp. Những kết quả, được phân tích nơi 2000 bệnh nhân được mổ trong số này, là một trong những kết quả tốt nhất, ở tŕnh độ quốc tế. Trái với một thành kiến, những di chứng thần kinh là khá hiếm (2,5% các trường hợp), và tỷ lệ tử vong là ngoại lệ (0,15%). Tỷ lệ chữa lành là khoảng 80% trong trường hợp các động kinh vùng thái dương (épilepsie temporale). Những kết quả c̣n tốt hơn nhiều trong nhi khoa, đối với vài khối u bẩm sinh và những dị tật phát triển của năo bộ. Theo GS Devaux, nhiên hậu, phẫu thuật này hẳn phải được thực hiện càng ngày càng nhiều nơi các trẻ em, và một phần trong số các trẻ em này có thể được mổ “để pḥng ngừa”, ngay khi thương tổn gây động kinh được khám phá. Mới đây, nhóm phẫu thuật Sainte-Anne đă can thiệp để điều trị một dị tật năo nơi một bé gái chỉ bị một cơn động kinh. Tuy vậy, bilan tiền phẫu là nặng nề đối với các bệnh nhân. Bilan có thể đặc biệt cần những xét nghiệm xâm nhập như SEEG (stéréoélectroencéph alographie), trong đó những điện cực được cắm trực tiếp trong năo bộ để định vị thương tổn gây động kinh. Những phương pháp này càng ngày càng được thay thế bởi những kỹ thuật chụp h́nh hiện đại, thí dụ TEP (tomographie à émission de positons), kết hợp với IRM (imagerie par résonance magnétique). Sự kết hợp của hai xét nghiệm này cho phép chẩn đoán và do đó mổ các thương tổn, đặc biệt là những dị tật (malformations) trước đây không được phát hiện.
Về các kỹ thuật mổ, chúng hiện đang trên đà tiến triển. Cắt bỏ vùng bị bệnh vẫn là cổ điển nhất. Càng ngày càng có những phương pháp thay thế ít xâm nhập hơn : kích thích dây thần kinh phế vị, ngoại quang tuyến (radiochirurgie), đốt điện (electrocoagulation) hay déconnexion.
(LE JOURNAL DU FIGARO 8/12/2008)
florida80
06-04-2019, 19:26
30 NĂM SAU CHẤN ĐỘNG NĂO
Những công tŕnh nghiên cứu trước đây đă cho thấy rằng những tác dụng có hại của các chấn động năo (commotion cérébrale) lên các chức năng nhận thức và vận động có thể kéo dài nhiêu năm sau tai nạn. Một nhóm nghiên cứu Canada đă thực hiện một công tŕnh nghiên cứu nơi 19 cựu vận động viên điền kinh (tuổi trung b́nh 60) từng bị một chấn động năo vào khoảng năm 25 tuổi. Các nhà nghiên cứu đă so sánh các lực sĩ này với một nhóm vận động viên điền kinh đă về hưu nhưng không có tiền sử chấn động năo.
Các kết quả cho thấy rằng những người đă bị chấn động năo một hay hai lần trong lứa tuổi 20 có khả năng chú ư và trí nhớ bị suy đồi và vài người trong số họ có những cử động bị chậm lại, so với nhóm kiểm tra. “Công tŕnh nghiên cứu này chứng tỏ rằng những hậu quả của các chấn động năo do thể thao vào lúc bắt đầu tuổi trưởng thành vẫn c̣n kéo dài 30 năm sau và rằng những chấn động năo này có thể gây nên những biến đổi của các chức năng nhận thức và vận động khi các vận động viên già đi. Do đó các vận động viên phải được thông tin tốt hơn về những hậu quả tích lũy và kéo dài của các chấn động năo lên các quá tŕnh tâm thần và vật lư, Louis D Beaumont, một trong những tác giả đă giải thích như vậy.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 13/2/2009)
florida80
06-04-2019, 19:27
ĐIỀU TRỊ NGOẠI KHOA CỦA BỆNH ĐỘNG KINH : THÊM MỘT CƠ MAY
B.S Francine Chassoux (thầy thuốc thần kinh) và G.S Bertrand Devaux (thầy thuốc ngoại thần kinh), bệnh viện Sainte-Anne, đă giải thích những lợi ích của phương pháp ngoại khoa, được công bố trong tạp chí “ Neurochirurgie ”.
Hỏi : Ông có thể nhắc lại cho chúng tôi những đặc điểm của bệnh động kinh ?
B.S Francine Chassoux : Bệnh lư này được thể hiện bởi các cơn lặp lại, có thể được biểu hiện bởi những triệu chứng gây bất hoạt khác nhau. Khi bệnh kéo dài, các bệnh nhân bị gây phế tật nghiêm trọng trong đời sống gia đ́nh, xă hội và nghề nghiệp của họ. Mỗi cơn động kinh tương ứng với một loại phóng điện quá mức, được phát ra trong năo bộ bởi một nhóm neurone. Sự phóng điện này có thể vẫn khu trú (gây nên những rối loạn thần kinh xảy ra ngắn hạn và thay đổi), và khi đó người ta nói là động kinh bán phần (épilepsie partielle) (60% các trường hợp), hay lan ra toàn thể năo bộ và khi đó gọi là động kinh toàn thể (épilepsie généralisée) (40% các trường hợp), được thể hiện một cách nghiêm trọng, thí dụ với các co giật, tăng tiết nước bọt và hôn mê kéo dài vài phút.
Hỏi : Thường thường làm sao điều trị hai dạng động kinh này ?
B.S Francine Chassoux : Đối với những bệnh nhân bị các cơn động kinh toàn thể, người ta kê đơn một điều trị chống động kinh bằng đường miệng.Với điều trị này, hiện nay người ta thu được 80% những kết quả tốt với sự biến mất của các cơn. Những bệnh nhân phát triển những cơn bán phần (crises partielles), có thể được điều trị với cùng những thứ thuốc hay những thuốc của một loại khác. Trong trường hợp này, những kết quả tốt thường không vượt quá 60%. Nơi những người động kinh đề kháng với điều trị, người ta thường khám phá thấy một thương tổn năo bộ như là một bất thường bẩm sinh, một khối u hiền tính hay một vết sẹo
Hỏi : Thế th́ trong trường hợp nào người ta có thể giải phẫu.
B.S Francine Chassoux : Người ta chỉ có thể mổ những bệnh nhân động kinh có những cơn bán phần (crises partielles). Và trước khi giải phẫu, cần thực hiện một bilan toàn bộ, gồm có điện năo đồ kết hợp với vidéo, IRM, TEP (tomographie par émission de positons) để định vị vùng phát sinh động kinh khởi đầu các cơn. Để có thể lấy đi bằng phẫu thuật vùng gây động kinh này, phải có 3 tiêu chuẩn không thể thiếu được. 1. Sự hiện diện chỉ một ổ gây động kinh. 2. Một vùng vỏ năo được khu trú và tuơng đối nhỏ. 3. một định vị có thể tiếp cận, được phân biệt với một vùng năo bộ rất có chức năng.
Hỏi : Những kỹ thuật khác nhau nào được sử dụng đối với những bệnh nhân đề kháng với thuốc ?
B.S Francine Chassoux : Có 4 kỹ thuật chính. 1. Ngoại khoa cổ điển cắt bỏ bằng mở sọ (chirurgie de résection “à crâne ouvert”) (cortectomie), là thông thường nhất. 2. Ngoại khoa phá hủy nhắm đích (chirurgie de destruction ciblée) bằng ngoại quang tuyến (radiochirurgie) hay nhiệt đông (thermocoagulation), đối với những thương tổn nhỏ nằm ở trung tâm năo bộ và đối với những bệnh nhân không muốn chịu ngoại khoa cổ điển. 3. Ngoại khoa tách nối (chirurgie de déconnection), nhằm cô lập vùng bị thương tổn với phần c̣n lại của năo bộ. Phương pháp này được áp dụng cho các ổ gây động kinh quá rộng nên không thể lấy ra được. 4. Ngoại khoa điều biến (chirurgie de modulation), được thực hiện trong trường hợp chống chỉ định của những phương pháp trước. Phương pháp này nhằm chống lại sự phát sinh các phóng điện (décharges électriques) chịu trách nhiệm các cơn (bằng cách cắm một điện cực nơi cổ, nối với một bộ phận dẫn nhịp).
Hỏi: Những kết quả thu được với tất cả những kỹ thuật khác nhau này là những kết quả nào?
B.S Francine Chassoux : Những kết quả được đặt tương quan với các định vị và các nguyên nhân. Với kỹ thuật cắt bỏ cổ điển, người ta đă thành công hủy bỏ các cơn trong 60 đến 90% các trường hợp. Với sự phá hủy nhắm đích (destruction ciblée) bằng ngoại quang tuyến (radiochirurgie), những kết quả có vẻ tương đương. Kỹ thuật nhiệt đông (thermocoagulation) đang được đánh giá. Những kết quả của ngoại khoa tách nối (chirurgie de déconnection) th́ thay đổi : nơi vài bệnh nhân người ta hủy bỏ được các cơn trong 70% các trường hợp. Kỹ thuật điều biến (technique de modulation) làm giảm 50-90% các triệu chứng nhưng không chữa lành bệnh.Theo ư tôi, c̣n quá ít các bệnh nhân được gởi đến các kíp chuyên môn ngoại khoa này, và nhất là quá chậm. Ở Pháp, trên 12.000 ứng viên lư thuyết, người ta chỉ mổ 400 trường hợp mỗi năm, trong đó khoảng 100 trẻ em !
(PARIS MATCH 19-25/2/2009)
florida80
06-04-2019, 19:32
ĐỘNG KINH : MỘT SỰ NGHIỆP HIỂN HÁCH KHẢ DĨ NHƯ AGATHA CHRISTIE HAY MOLIERE.
Con tôi bị động kinh không biết rồi sẽ ra sao ? Câu hỏi này, rất là chính đáng, sớm hay muộn cũng được đặt ra. Agatha Christie đă bị bệnh động kinh cũng như Molière, nhưng điều này đă không ngăn cản họ bắt các màng năo của hàng triệu độc giả phải làm việc. Như thế, người ta có thể bị bệnh động kinh và vẫn có một đời sống b́nh thường. Bởi v́ trong số 40 dạng động kinh hiện có, phần lớn không đặt ra vấn đề quan trọng : 2/3 các động kinh này là những động kinh riêng rẽ và có tiên lượng tốt, mặc dầu vài dạng kèm theo một cách tạm thời những giai đoạn trầm trọng hóa. Vậy đúng là lúc cần có cái nh́n thay đổi đối với những kẻ khác. Vâng, động kinh là một bệnh thần kinh, thường có thể kiểm soát được. Không, khi ta có phương tiện điều trị, bệnh này không phải là không thích hợp, trong đại đa số các trường hợp, với một sự hội nhập tốt. Mặt khác, các cơn động kinh biến mất (gần ½) trước tuổi trưởng thành.
Không phải tất cả các học sinh bị bệnh động kinh đều theo đuổi cấp một trung học một cách b́nh thường mặc dầu trí thông minh toàn bộ không bị ảnh hưởng đối với đại đa số những học sinh này. Nguyên nhân : vài rối loạn của sự chú ư hay của ngôn ngữ, chưa kể đến đôi khi ảnh hưởng có hại của điều trị chống động kinh. Lại càng đáng tiếc khi phần lớn những vấn đề này đang lư ra có thể được cải thiện bằng sự theo dơi của một thầy thuốc thần kinh-tâm lư (neuropsychologue) và bởi sự hiện diện của một sự hỗ trợ đời sống học đường, ít nhất là trong những giai đoạn trầm trọng tạm thời. Đó là một trong những con ngựa chiến của Viện của các bệnh động kinh của trẻ em và của thiếu niên, mà trung tâm sẽ có thiên chức theo sát gia đ́nh...Đó là điều chủ yếu bởi v́ chỉ sự việc tiếp xúc với giáo viên giảng dạy của một em bé động kinh để giải thích với ông ta làm sao giúp đỡ em bé cũng có thể đủ cứu vớt t́nh trạng học vấn của em này ”, GS Arzimanoglou đă nhấn mạnh như vậy.
Thể thao cũng cần cho sự phát triển của đứa trẻ. Chỉ có những hoạt động trong đó một sự bất tỉnh có thể làm nguy hiểm người bệnh (leo núi, lặn, nhảy dù...) là bị cấm chỉ. Ngoài những ngoại lệ này, hoạt động vật lư làm dễ sự hội nhập và có thể gợi lên nhiều thiên hướng : mặc dầu bị bệnh động kinh, Marion Clignet đă giành được 6 danh hiệu thế giới và hai huy chương bạc thế vận hội đua xe đạp : một thắng lợi vang dội.
Từ khi có nghị định 21/12/2005, những bệnh nhân động kinh nhận giấy chứng nhận khả năng tạm thời lái xe trong một năm sau khi có ư kiến của một thầy thuốc thần kinh. Không có một lư do nào khiến các người bị động kinh bị tước mất việc thực hiện vài loại nghề nghiệp không có nguy cơ, như trong lănh vực dịch vụ. Những chuyến du lịch vui chơi giải trí hay công tác cũng không phải là một vấn đề với điều kiện mang theo đủ thuốc men. Ngay cả thai nghén đă trở thành khả dĩ. V́ không phải tất các các thuốc chống động kinh đều có thể tương hợp, nên một sự thích ứng (trước khi có thai) có thể cần thiết. Một sự theo dơi sát và sự sinh đẻ trong môi trường bệnh viện là những bước c̣n lại.
(LE FIGARO 1/3/2010)
florida80
06-04-2019, 19:33
NGOẠI KHOA CỨU BỆNH ĐỘNG KINH.
NEUROLOGIE. 500.000 : đó là con số những người Pháp bị bệnh động kinh (épilepsie), nghĩa là các nạn nhân của các cơn bất ngờ do một sự loạn năng của hoạt động điện của năo bộ. Vào lúc bắt đầu phóng điện (décharges électriques), vài bệnh nhân bất tỉnh và co giật, trong khi những người khác chỉ có các “ cơn vắng ” (absences) hay những rối loạn rất khu trú (các cơn bán phần, crises partielles). Thông thường nhất, động kinh xảy ra nhưng năo bộ không bị thương tổn hay, ít nhất không có một thương tổn nào được nhận diện. Nhưng trong 1/3 các trường hợp, động kinh được liên kết với một dị tật (malformation) hay một thương tổn trong năo bộ.
2/3 các bệnh nhân động kinh đáp ứng tốt với các thuốc chống động kinh và như thế hẳn phải có một cuộc sống b́nh thường, ngoại trừ là đối tượng của những phân biệt đối xử. “ C̣n lại 1/3 các bệnh nhân động kinh mà khoảng 20 loại thuốc chống động kinh không ngăn cản được các cơn. Không cần phải thử tất cả các thuốc để tin chắc điều đó : 48% các bệnh nhân động kinh được kiểm soát ngay bởi vị thuốc đầu tiên, nếu được chọn lựa tốt. Nhưng trong trường hợp thất bại, chỉ 13% được kiểm soát với một thuốc chống động kinh khác. Và sau hai lần thất bại, các cơ may t́m được một điều trị thích hợp, rơi xuống c̣n 1%, GS Alexis Arzimanoglou, thầy thuốc chuyên khoa thần kinh nhi đồng, trưởng đơn vị điều trị của Viện các bệnh động kinh của trẻ em và thiếu niên và chủ tịch của Liên đoàn chống bệnh động kinh của Pháp, đă xác nhận như vậy. Như thế, vào lúc đó đă đặt ra câu hỏi là không biết ta có thể mổ được hay không ”.
Ngày nay, ngoại khoa của bệnh động kinh là đối tượng của nhiều nghiên cứu. Thế mà không được mất một giây phút nào.Thật vậy, nơi những bệnh nhân đề kháng với các điều trị, tính chất không thể tiên đoán được của các cơn thường là nguồn gốc của phế tật, không kể đến một nguy cơ gia tăng bị các biến chứng trong khi các cơn co giật diễn ra. Do đó, các bệnh nhân động kinh đề kháng với các điều trị, hưởng được những tiến bộ mới nhất của ngoại khoa, nhưng họ c̣n phải là những bệnh nhân có thể mổ được. V́ ngoại khoa nhằm lấy đi phần năo bộ bé xíu chịu các phóng điện, nên vùng bị thương tổn phải được nhận diện tốt và có thể tiếp cận mà không đụng phải những vùng quan trọng như các vùng của ngôn ngữ hay của những chức năng sinh tồn khác
CẤP CỨU ĐỐI VỚI CÁC TRẺ EM.
Trái với một định kiến, không phải phẫu thuật đặt ra vấn đề (các thầy thuốc ngoại thần kinh làm chủ được các kỹ thuật !) mà bilan trước khi mổ mới là vấn đề. Mặt khác, không phải là một sự t́nh cờ khi bilan thường cần đến 6 tháng và các danh sách chờ đợi có thể lên đến 18 tháng, nhất là nơi trẻ em. V́ phải đảm bảo rằng các cơn động kinh phát xuất từ một ổ duy nhất và phải xác định một cách rất chính xác vùng cần phải lấy đi, nên các xét nghiệm thông thường (điện năo đồ với ghi các cơn, IRM…) là cần thiết, nhưng không phải luôn luôn đủ. Ngoài ra phải thường thực hiện một xét nghiệm được gọi là “ stéréo ECG ”. Thủ thuật này nhằm cắm các điện cực vào trong năo bộ, ở mức hay chung quanh vùng bị nghi ngờ, rồi ghi hoạt động điện trong nhiều ngày hay nhiều tuần, trong khoa động kinh (service d’épileptologie) . Sau đó, sự phân tích của các biểu đồ ghi này cho phép biết được, với độ chính xác từng millimètre, những vùng nào cần phải lấy đi, mà không được quên một vùng bị nghi ngờ nào cả, nếu không sẽ thất bại.
Thế mà, đó mới là điểm chính yếu bởi v́ có nhiều bệnh nhân phải chờ xét nghiệm này và có ít chỗ có khả năng thực hiện nó : khoảng một chục nơi dành cho những người lớn, nhưng chỉ có hai nơi dành cho các trẻ em. Tuy vậy chính các trẻ em mới cần mổ cấp cứu hơn nếu ta muốn hy vọng cứu được sự phát triển tâm thần-vận động và sự học vấn của chúng.
Can thiệp phẫu thuật được thực hiện một cách cổ điển bằng cách cắt bỏ ngoại khoa ổ gây động kinh. Những thử nghiệm đang được tiến hành để phá hủy những thương tổn rất nhỏ với một liệu pháp phóng xạ rất khu trú, theo một thủ thuật được gọi là “ con dao gamma ” (gamma-knife).
Trong bối cảnh này, trên 3000 bệnh nhân động kinh là ứng viên của giải phẫu, chỉ có 400 là được mổ, trong đó chỉ có 100 trẻ em. Và mặc dầu tổn phí trung b́nh của bilan và phẫu thuật là cao ( gần 20.000 euro cho mỗi bệnh nhân), nhưng phí tổn này được giảm đi ngay năm thứ 8 và ngay cả sớm hơn nếu ta xét đến những phí tổn gián tiếp gây nên bởi một bệnh động kinh được kiểm soát kém (une épilepsie mal équilibrée) (thất nghiệp, tự tử, nghỉ học nghỉ việc của người bệnh hay nghỉ việc của bố mẹ.). Với một tỷ lệ chữa lành 40% nơi những người được mổ và hơn 50% sau cùng trở nên nhạy cảm với các loại thuốc chống động kinh, th́ đó là một điều hứa hẹn cho một sự trở lại cuộc sống b́nh thường, với điều kiện là không được quá muộn.
(LE FIGARO 1/3/2010)
florida80
06-04-2019, 19:34
CÁC THUỐC LỢI TIỂU CHỐNG LẠI CÁC CƠN ĐỘNG KINH.
Điều trị bệnh động kinh trẻ em với các thuộc lợi tiểu. Đó là hướng điều trị làm ngạc nhiên, được theo đuổi bởi các nhà nghiên cứu của Viện thần kinh sinh học của Địa trung hải (Marseille). Một cách cổ điển, bệnh động kinh được điều trị bởi phénobarbital, làm tăng cường tác dụng ức chế neurone của gaba, một trong những chất trung gian thần kinh (neuromédiateur) chính của năo bộ. Thế mà điều trị này trở nên ít hiệu quả hơn với thời gian, mà ta không biết tại sao. Các nhà nghiên cứu đă làm sáng tỏ bí ẩn này.
Công tŕnh nghiên cứu của họ trên động vật, được công bố trong Brain, chứng minh rằng các cơn động kinh càng lập lại th́ nồng độ của chlore càng gia tăng trong năo bộ, điều này giải thích tại sao thuốc động kinh đánh mất hiệu quả. Vậy họ đă chọn lọc một cách hợp lư một thuốc lợi tiểu, bumétanide, được biết có tác dụng làm giảm nồng độ của chlore ở thận và đă thử nghiệm thuốc lợi tiểu này một cách thành công ở năo bộ. Thật ra, thuốc lợi tiểu không thay thế phénobarbital nhưng, nếu được cho phối hợp với phénobarbital, nó sẽ cho phép làm giảm mức độ nghiêm trọng của các cơn. Một nghiên cứu châu Âu, Nemo, hiện đang được tiến hành để kiểm chứng tính hiệu quả của phương pháp điều trị này trên các nhũ nhi. Các kết quả được dự kiến vào năm 2012. Bệnh động kinh ảnh hưởng lên hơn 500.000 người ở Pháp và cứ mỗi 100.000 trẻ em có 120 trẻ em dưới 1 tuổi bị động kinh.
(SCIENCES ET AVENIR 5/2011)
florida80
06-04-2019, 19:35
CHỨNG ĐỘNG KINH ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ TẬN NGUỒN.
Xuất phát từ đâu bệnh động kinh, rối loạn của sự vận hành chức năng năo bộ làm tê liệt trầm trọng, do các cơn xảy ra bất ngờ, cuộc sống của gần 1/100 những người Pháp ? Một hướng mới vừa được mở ra bởi BS Christophe Bernard và nhóm nghiên cứu Inserm của ông ở Marseille, cùng với những đồng nghiệp Hoa kỳ của đại học Californie ở Irvine. Để cố trừ khử tận gốc cơn băo điện (orage électrique) giáng vào cả một vùng năo bộ, các nhà nghiên cứu đă nhắm vào một protéine được gọi là NRSF, can dự vào trong sự phát triển của năo bộ. “ Chúng tôi đă t́m cách phong bế facteur de transcription này, Christophe Bernard đă xác nhận như vậy, bởi v́ nó được hoạt hóa trong năo bộ khi bị chấn thương ban đầu và sau đó có khả năng kiểm soát sự biểu hiện của nhiều trăm gène khác.” Các nhà nghiên cứu đă tiêm vào trong năo bộ của các con chuột bị động kinh một chất ức chế của NRSF và làm sụt giảm 70% số các cơn động kinh, bằng cớ cho thấy rằng một yếu tố chủ chốt làm phát khởi cơn động kinh đă được t́m thấy. C̣n hơn thế nữa, các sóng theta, vốn chứng tỏ sự hoạt động b́nh thường của các mạng thần kinh, sau đó đă tái xuất hiện trong hồi hải mă (hippocampe), nơi xuất phát của bệnh động kinh được khảo sát.
Kết quả này, được công bố trong Annals of Neurology, gợi ư rằng bệnh động kinh có thể xuất hiện với sự hoạt hóa không thích hợp vào giai đoạn đầu trong sự phát triển của những tế bào thần kinh, qua NRSF, sau một chấn thương vật lư hay nhiễm tùng. Kết quả này cũng mang lại hy vọng điều trị cho 30% các bệnh nhân đề kháng với tất cả các điều trị dược học, một tỷ lệ bất hạnh thay đă không thay đổi từ 60 năm qua.
(SCIENCES ET AVENIR 9/2011)
florida80
06-04-2019, 19:35
MỘT GENE “ NGẮT ”(INTERRUPTEUR) HOẠT HÓA BỆNH ĐỘNG KINH THÙY THÁI DƯƠNG (EPILEPSIE TEMPORALE)
Trong bệnh động kinh phát xuất từ thùy thái dương (épilepsie temporale), xảy ra sau một viêm màng năo hay một chấn thương sọ, một gène trở nên hoạt động trong khi nó vẫn yên lặng vào lúc b́nh thường. “ Gène interrupteur ” này, được nhận diện bởi Christophe Bernard (Inserm, đại học Aix-Marseille) và được mệnh danh là NRSF (Neuron-Restrictive Silence factor), biến đổi sự biểu hiện của 1800 gène. Phong bế tác dụng của nó ở chuột làm kềm hăm bệnh động kinh và làm giảm số các cơn động kinh. Như thế ta hy vọng có được một điều trị phóng ngừa ở người.
(SCIENCE ET VIE 9/2011)
florida80
06-04-2019, 19:36
SIÊU ÂM ĐỂ QUAN SÁT HOẠT ĐỘNG NĂO BỘ.
Philippe Ryvlin là giáo sư của bệnh viện thần kinh học Lyon và là giám đốc của nhóm nghiên cứu Inserm và CNRS Tiger, chuyên môn trong điều trị bệnh động kinh.
Hỏi : Một kỹ thuật chụp h́nh ảnh năo bộ (imagerie cérébrale) vừa được hiệu chính. Nó cho phép thực hiện điều ǵ ?
Philippe Ryvlin : Nó cho phép phát hiện điều xảy ra trong năo bộ (hiện nay là của chuột) với một độ chính xac chưa từng có và với một échelle de temps 200 mili giây. Điều này cho phép kỹ thuật mới này trở thành một kỹ thuật nhanh hơn nhiều so với chụp h́nh ảnh bằng cộng hưởng từ chức năng (IRMf : imagerie par résonance magnétique fonctionnelle), hiện nay là référence để nghiên cứu sự vận hành chức năng của năo bộ. Với sự gia tăng lưu lượng máu như là chứng cớ của hoạt động năo, kỹ thuật mới này cho phép thăm ḍ sự vận hành chức năng của năo.
Hỏi : Nguyên tắc của nó là ǵ?
Philippe Ryvlin : Ta sử dụng một sonde phát ra trong năo bộ những làn sóng siêu âm đặc biệt. Những làn sóng này “ nảy lên ” trên các tế bào máu và được thu hồi bởi ống thăm ḍ. Phân tích cho phép tạo một h́nh ảnh các huyết quản và đo lưu lượng máu với một thang tỷ lệ gần như bé xíu (100 micromètre). Đó là một sự cải thiện rất đáng kể của siêu âm doppler, đă được sử dụng từ nhiều năm qua để thăm ḍ các huyết quản lớn nơi người.
Hỏi : Những hạn chế của kỹ thuật này là ǵ ?
Philippe Ryvlin : Các trắc nghiệm trên chuột là đáng phấn khởi nhưng năo bộ người lớn hơn và nằm sâu hơn. Sẽ phải chế tạo những công cụ mạnh hơn. Nhất là, ta vấp phải cùng vấn đề như đối với siêu âm doppler cổ điển : các siêu âm gặp khó khăn khi phải đi xuyên qua xương, quá dày đặc.
Hỏi : Thế th́ ta sẽ có thể sử dụng kỹ thuật này trong y khoa không ?
Philippe Ryvlin : Sự kiện năo bộ bi khép kín trong một hộp sọ là một trở ngại. Nhưng hai áp dụng y khoa có thể được dự kiến ngay khi dụng cụ được thích ứng với con người. Trước hết là sự sử dụng trong ngoại thần kinh. Thí dụ các cơn động kinh là do những phóng điện bất thường sinh ra một cách ngẫu nhiên và lan tràn trong năo bộ. Đôi khi việc lấy đi vùng phát xuất của các phóng điện này là cách duy nhất để làm ngừng các cơn. Ta càng giới hạn vùng này th́ ta càng ít tạo bại liệt lúc làm thương tổn một vùng chức năng nằm kế cận. Lúc phẫu thuật, thầy thuốc ngoại khoa mở một cửa sổ nhỏ vào trong hộp sọ. Nhờ cửa sổ này, ông ta sẽ có thể đặt sonde tiếp xúc trực tiếp với năo bộ và xác định những vùng của năo bộ gây các cơn động kinh. Ta cũng dự kiến sử dụng kỹ thuật này ở các nhũ nhi bằng cách đặt sonde lên thóp (fontanelle) để xem năo bộ làm việc. Nhưng phải khảo sát sự vận hành chức năng b́nh thường của năo bộ trước khi phân tích các loạn năng (dysfonctionnements) . Việc thăm ḍ ở nhũ nhi hiện nay có thể được thực hiện bằng IRMf, nhưng trong những điều kiện khó khăn, bởi v́ sự thăm khám gây căng thẳng, và cần phải nằm bất động.
(LA RECHERCHE 9/2011)
florida80
06-04-2019, 19:37
BỆNH ĐỘNG KINH : GENE CHỦ CHỐT ĐƯỢC KHÁM PHÁ.
GS Christophe Bernard, Giám đốc nghiên cứu của Inserm (Marseille), giải thích tiến bộ quan trọng này (được tài trợ bởi Neurodon và Fondation française pour la recherche sur l’ épilepsie) mở đường cho những điều trị pḥng ngừa.
Hỏi : Ông hăy nhắc lại cho chúng tôi những dạng động kinh khác nhau.
GS Christophe Bernard: Sau bệnh migraine, căn bệnh năo này thường xảy ra nhất. Ở Pháp, có từ 500.000 đến 750.000 người bị bệnh, trong đó đa số là trẻ em. Có hai dạng lớn : động kinh toàn thể (épilepsie généralisée) (được gọi là động kinh lớn, “ grand mal ”), xâm chiếm toàn thể năo bộ, là dạng thường gặp nhất (70% các trường hợp) ; động kinh một phần (épilepsie partielle) được giới hạn vào vài vùng tế bào thần kinh. Nhưng ta cũng có thể lên cơn mà không bị động kinh : cứ mười bảy người th́ có một lên cơn động kinh một lần trong suốt đời ḿnh.
Hỏi : Những triệu chứng nào làm bệnh nhân tàn tật ?
GS Christophe Bernard: Các triệu chứng phụ thuộc vào vị trí của ổ động kinh (foyer épileptique). Nếu vùng năo bị thương tổn kiểm soát vận động của các chi, cơn động kinh gây nên những cử động co giật bất thường. Nếu vùng bị thương tổn liên quan đến cơ chế thị giác, bệnh nhân có những ảo giác thị giác (hallucinations visuelles). Cơn động kinh toàn thể (crise généralisée) gây nên sự mất tri giác.
Hỏi : Ta có biết những nguyên nhân của sự rối loạn năo bộ này không ?
GS Christophe Bernard: Có thể có nhiều nguyên nhân : một chấn thương sọ, những di chứng của một tai biến mạch máu năo, của một bệnh viêm màng năo, viêm năo, của một tai biến lúc sinh. Cũng có thể có một thành phần di truyền.
Hỏi : Cơ chế nào làm phát khởi một cơn động kinh ?
GS Christophe Bernard: Một tập hợp rất nhiều tế bào thần kinh sẽ cùng nhau phát ra một tần số quá cao các tín hiệu điện. Đó là lư do ta gọi là “ cơn giông tố điện trong năo bộ ” (orage électrique dans le cerveau), mà vài yếu tố như stress, sự lo âu, làm dễ sự xuất hiện.
Hỏi : Hiện nay ta có những thuốc điều trị nào ?
GS Christophe Bernard: Ta kê đơn vài loại thuốc nhằm ngăn cản sự xuất hiện của các cơn. Đó là những loại thuốc làm giảm t́nh trạng tăng hưng phấn (hyperexcitabilité) của các tế bào thần kinh nhưng không chữa lành căn bệnh. Số lượng những loại thuốc chống động kinh không ngừng gia tăng từ những năm 1950.
Hỏi : những kết quả thu được là ǵ ?
GS Christophe Bernard: Trong 70% các trường hợp, bệnh động kinh được kiểm soát. Các cơn trở nên rất hiếm hay biến mất. Nhưng mặc dầu các loại thuốc chống động kinh mới, nhưng tỷ lệ đề kháng vẫn không thay đổi : ở 30% các bệnh nhân, các thầy thuốc vấp phải một sự thất bại. Họ không thể ngăn ngừa được các cơn.
Hỏi : Đối với những bệnh nhân đề kháng với thuốc này, ta phải làm ǵ ?
GS Christophe Bernard: Một phẫu thuật ngoại thần kinh nhằm lấy đi vùng năo trách nhiệm động kinh. Tỷ lệ thành công quan trọng : từ 70% đến 80% các bệnh nhân được chữa lành. Nhưng có một chống chỉ định không thể tránh được : khi ổ gây động kinh chứa một vùng chức năng chủ yếu, thí dụ kiểm soát ngôn ngữ.
Hỏi : Kíp nghiên cứu của ông đă đạt được một bước tiến quan trọng trong pḥng ngừa các cơn giông năo bộ này. Chiến lược mới là ǵ ?
GS Christophe Bernard: Các nhóm nghiên cứu đều đă biết rằng sự tấn công ban đầu trong năo bộ (ngay trước khi xuất hiện những triệu chứng đầu tiên) làm biến đổi sự vận hành chức năng (“sự biểu hiện ”) của hàng ngàn gène trong các tế bào. Sự rối loạn gène (désorganisation génétique) này sẽ dẫn đến, đôi khi sau nhiều năm trời, sự tạo thành những ổ gây nên các cơn động kinh. Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi, người ta đă tự nếu nghi vấn : tại sao lại có sự loạn năng (dysfonctionnement) như thế ? Những cơ chế nào là nguồn gốc của những loạn năng này ? Các công tŕnh nghiên cứu của chúng tôi đă đưa đến sự khám phá một “ gène ch́a khóa ” (gène clé), một loại ngắt điện (interrupteur) (NRSF), có nhiệm vụ thắp sáng vài gène và làm tắt những gène khác, tạo nên những loại court-circuit quan trọng.
Hỏi : Công cuộc khám phá này có dẫn đến việc hiệu chính một điều trị pḥng ngừa mới không ?
GS Christophe Bernard: Vâng. Ta đă t́m cách vô hiệu hóa tác dụng có hại của gène NRSF bằng những phân tử nhỏ (ODN), giống như những leurres chimiques bắt giữ gène này. Những thử nghiệm đầu tiên của chúng tôi đă được thực hiện ở động vật : một công tŕnh nghiên cứu được tiến hành trên 12 con chuột, trong đó 6 con đă được điều trị. Ở những con chuột sau cùng này, chiến thuật phóng ngừa mới đă giảm 2/3 số các con. Những kết luận đầu tiên này, rất thỏa măn, mang nhiều hy vọng
Hỏi : Ông có dự định nghiên cứu trên người hay không ?
GS Christophe Bernard: Hiện nay, protocole đ̣i hỏi tiêm thuốc trực tiếp vào trong năo bộ, điều này, ở người, hàm chứa nhiều nguy cơ. Vậy sẽ phải hiệu chính một liệu pháp bằng đường miệng. Từ nay chúng tôi có một phương hướng nghiên cứu sẽ cho phép loại bỏ được bệnh động kinh.
(PARIS MATCH 8/9-14/9/2011)
florida80
06-04-2019, 19:39
TA CÓ THỂ TIÊN ĐOÁN CÁC CƠN ĐỘNG KINH ?
Gilles Huberfeld
Neurologue
Centre de recherche en neurosciences
de la Pitié-Salpêtrière
Động kinh là thương tổn thần kinh măn tính của năo bộ, thường gặp nhất sau migraine. Động kinh gây bệnh cho gần 500.000 người ở Pháp và ta đếm được khoảng 50 triệu người bị bệnh động kinh trên toàn thế giới. Là những cơn giông điện thật sự, gây nên bởi một sự mất tổ chức
tái tổ chức (déorganisation-réorganisation) của các mạng neurone của năo bộ, các cơn động kinh được đặc trưng bởi những biểu hiện vô cùng thay đổi, nhưng không phải luôn luôn gây ấn tượng, gồm những cử động không tự ư, những rối loạn tiếp xúc, những tri giác“ nội tại ” phức tạp và đôi khi kỳ lạ. Nhưng năo bộ tăng hưng phấn bị kích động như thế nào để gây nên một cơn động kinh ? và trong bầu trời nào cơn giông này bùng nổ ?
Giữa các cơn, năo sinh ra những đợt phóng điện ngắn thể hiện tính tăng hưng phấn (hyperexcitabilité) của nó và được sử dụng để chẩn đoán động kinh bằng điện năo đồ (EEG). Cơn động kinh nói riêng là một hiện tượng hiếm hơn, phức tạp và nhất là gây nên những triệu chứng (thay đổi tùy theo vùng năo bộ bị ảnh hưởng). Sự xuất hiện của cơn động kinh là đột ngột, bất ngờ, do đó cần phát hiện một giai đoạn dẫn đến cơn. Nhận diện và hiểu sự chuyển tiếp cho phép dự kiến sự xuất hiện của cơn và nhất là xét đến những điều trị đặc hiệu.
NHỮNG PHÓNG ĐIỆN TRƯỚC CƠN ĐỘNG KINH
Việc dự kiến các cơn động kinh là tế nhị và không thể thực hiện chỉ với phân tích bằng mắt điện năo đồ. Nhưng từ 15 năm nay, một quá tŕnh xử lư toán học phức tạp điện năo đồ có thể cho phép nhận diện một giai đoạn chuyển tiếp dẫn đến cơn động kinh. Đó là những tính toán nặng nề, khó tiến hành en temps réel, và hiện nầy chưa có cho các bệnh nhân. Nhiều chục kỹ thuật đă được mô tả. Một dự án châu Âu hiện đang được tiến hành để chọn lọc những kỹ thuật dự đoán tốt nhất và để áp dụng chúng trong một máy có thể dùng được bởi bệnh nhân.
Tuy nhiên, những kỹ thuật này không cho biết sinh học của sự phát khởi các cơn : điều ǵ thật sự xảy ra trong năo bộ và những neurone gây ra một cơn động kinh như vậy ? Trong pḥng thí nghiệm của chúng tôi, chúng tôi theo hướng nghiên cứu này. Chúng tôi nghiên cứu bệnh động kinh từ những mẫu nghiệm hậu phẫu phát xuất từ những bệnh nhân được mô để điều trị bệnh động kinh của họ trong trường hợp đề kháng với thuốc. Những mô này, được duy tŕ sống, tiếp tục sinh ra những hoạt động động kinh tương tự với những phóng điện ngắn được mô tả trên đây. Chúng tôi đă cho thấy rằng những phóng điện này được phát khởi một cách bất thường bởi những tế bào ức chế (cellules inhibitrices) của năo bộ, các interneuronne có những tác dụng kích thích bất ngờ.
Mới đây, chúng tôi đă tạo lại trong pḥng thí nghiệm cơn động kinh và những thời điểm đi trước nó và đă nhận diện một giai đoạn chuyển tiếp, kéo dài trong nhiều chục phút. Thời kỳ này được đánh dấu bởi sự xuất hiện của một loại biến cố động kinh mới : những phóng điện trước cơn vật (décharges pré-ictales) (đi trước cơn). Giai đoạn chuyển tiếp này tương ứng với một sự tăng cường dần dần hoat dong của các mạng những tê bào thần kinh hưng phấn (neurones excitateurs). Một khi trưởng thành, những phóng điện này phát khởi cơn bằng cách tuyển mộ đồng thời những neurone hưng phấn những đồng thời cũng làm hỏng thêm những interneurone b́nh thường có tác dụng ức chế, như thế làm gia tăng tác dụng hưng phấn của chúng.
Vậy nhưng thời điểm đi trước cơn động kinh có thể nhận diện được trong những vùng đặc biệt của năo bộ, nhưng những phóng điện trước cơn vật (décharge pré-ictale), là dấu hiệu xác nhận giai đoạn chuyển tiếp này, dường như không thể ghi được trên bề mặt của sọ. Tuy nhiên những phóng điện trước cơn vật này, nếu nhắm vào những cơ chế đặc hiệu của nó, mang lại nhưng cơ hội điều trị.
Cuối cùng, những công tŕnh nghiên cứu này xác nhận một quy luật của tự nhiên : những cơn giông (ở đây là những con động kinh) được báo trước bởi một sự che mờ của bầu trời, sự gia tăng của tính hưng phấn của năo bộ, và được báo trước bởi những làn chớp, những phóng điện trước cơn vật.
(LE FIGARO 20/8/2011)
florida80
06-04-2019, 19:39
ĐỘNG KINH ĐỀ KHÁNG : MỘT NGOẠI KHOA CÁ THỂ HÓA ĐỂ ĐƯỢC NHIỀU TRƯỜNG HỢP CHỮA LÀNH HƠN.
GS Parick Chauvel, trưởng khoa sinh lư thần kinh lâm sàng của bệnh viện Timone (Marseille) giải thích kỹ thuật mới stéréo-électro-encéphalographie, cho phép điều trị nhiều bệnh nhân hơn.
Hỏi : Ông hay mô tả cho chúng tôi những bất thường chịu trách nhiệm căn bệnh này của năo bộ.
GS Patrick Chauvel: Đó không phải là một bệnh lư đơn độc mà là nhiều bệnh lư, với điểm chung là gây nên những cơn động kinh, do một kích thích bất thường và do một một sự đồng bộ hóa quá mức (hypersynchronisatio n) của một quần thể các tế bào thần kinh.
Hỏi : Những dạng khác nhau của những bệnh lư năo bộ này là ǵ ?
GS Patrick Chauvel: Ta có thể chia thành hai loại lớn. 1. Những cơn động kinh được gọi là không hoàn toàn (crises partielles), khi những ṿng điện (courts-circuits électriques) thật sự này chỉ ảnh hưởng một vùng rất giới hạn của vỏ năo. 2. Những cơn toàn thể (crises généralisées), khi chúng xuất hiện trong nhiều vùng, cả hai bên cùng một lúc. Các triệu chứng thay đổi thùy theo sự định vị của vùng sinh động kinh (zone épileptogène). Trong những cơn bán phần, một sự phóng điện của vùng vận động có thể gây nên, thí dụ, những rung chuyển của một hay nhiều chi. Trong vùng thị giác hay thính giác, sự phóng điện này gây nên những ảo giác (hallucination). Cũng có những trường hợp trong đó sự phóng điện bất thường gây nên một t́nh trạng vắng ư thức (absence) tạm thời. Những cơn toàn thể gây nên mất tri giác, trong vài trường hợp, đe dọa tính mạng bệnh nhân.
Hỏi : Ta có biết rơ những nguyên nhân của các động kinh này không ?
GS Patrick Chauvel: Ở khoảng 30% các bệnh nhân ta không nhận diện được nguyên nhân. Trong những trường hợp khác, các nguyên nhân ngày nay được xác định rơ : một yếu tố di truyền, một chấn thương sọ năo, những di chứng ngoại khoa, một u năo … Về chẩn đoán, 3 trắc nghiệm cơ bản vẫn là thăm khám lâm sàng, điện năo đồ và IRM. Nhưng những thủ thuật này đă tiến bộ nhiều và vài thủ thuật đă tạo những bước tiến rất quan trọng để hoạch định và thực hiện một phẫu thuật
Hỏi : Những điều trị cổ điển là ǵ ?
GS Patrick Chauvel: Chúng ta có khoảng 20 loại thuốc chống động kinh. Một vài loại thuốc được kê đơn trong những trường hợp các cơn không hoàn toàn, những thuốc chống động kinh khác trong những cơn toàn thể, những loại khác nữa có một tác dụng lên cả hai thể bệnh. Nói chung ta bắt đầu một đơn liệu pháp (monothérapie), nhưng thường phải kết hợp một thuốc chống động kinh khác để có được một hiệu quả đầy đủ. Các protocole trong đó nh́n toàn bộ ta thành công hủy bỏ các cơn ở 60 đến 80% các bệnh nhân (tất cả các dạng tính đổ đồng). Những loại thuốc chống động kinh này không chữa lành bệnh mà chỉ pḥng ngừa các cơn.
Hỏi : Điều trị nào đă được hiệu chính để điều trị những bệnh nhân đề kháng thuốc ?
GS Patrick Chauvel: Một phẫu thuật ngoại khoa (chỉ đối với những cơn không hoàn toàn) . Những vùng sinh động kinh không được nằm trong một vùng mà sự loại bỏ dẫn đến những di chứng gây phế tật.
Hỏi : Bước tiến ngoại khoa nào ngày nay cho phép điều trị nhiều bệnh nhân hơn ?
GS Patrick Chauvel: Ta can thiệp một cách chính xác hơn nhờ những kỹ thuật mới sử dụng stéréo-électro-encéphalographie mà mục đích là đưa những điện cực vào trong năo bộ để định vị trí một cách trực tiếp vùng sinh động kinh (zone épileptogène). Điều đó cho phép phẫu thuật viên thực hiện một can thiệp “ tùy theo từng trường hợp ” (une intervention sur mesure). Nhờ những phương thức mới xử lư tín hiệu điện năo, từ nay với IRM ta có thể thấy thương tổn, đôi khi rất bé nhỏ. Ưu điểm khác : nhờ thực hiện những kích thích điện (stimulation électrique), ta làm gia tăng rất nhiều mức độ chính xác trong sự định vị những vùng chức năng (zones fonctionnelles) khả dĩ bị biến đổi bởi động kinh. Từ ít lâu nay, khi một vùng sinh động kinh rất là nhỏ, ta loại bỏ nó bằng ngoại quang tuyến (radiochirurgie), với Gama Knife, mà không phải mở hộp sọ.
Hỏi : Những kết quả và những nguy cơ của ngoại khoa nặng nề này là ǵ ?
GS Patrick Chauvel: Đối với những bệnh nhân mà vùng sinh động kinh nằm trong vùng của thùy thái dương (60% các trường hợp), tỷ lệ chữa lành khoảng 80%. Khi vùng này nằm ở nơi khác, 60% đến 70% các bệnh nhân được chữa lành hay có một sự cải thiện rất rơ rệt. Những bệnh nhân khác bất hạnh thay vẫn đề kháng thuốc. Những nguy cơ hậu phẫu (những biến chứng chức năng hay thần kinh tâm thần) khoảng 5%.
Hỏi : Đối với những bệnh nhân không thể dùng thuốc hay phẫu thuật, biện pháp cuối cùng là ǵ ?
GS Patrick Chauvel: Mới đây ta đă hiệu chính những kỹ thuật kích thích điện vùng sâu (technique palliative de stimulation profonde) : một điện cực trong sọ kích thích một nhân của đồi thị (thalamus) hay vùng sinh động kinh. Những công tŕnh nghiên cứu đang được tiến hành trong Institut de neuroscience của chúng tôi với những modèle informatique de cerveaux virtuels épileptogènes.
(PARIS MATCH 27/9-3/10/2012)
florida80
06-04-2019, 19:40
ĐIỀU TRA GIA Đ̀NH ĐỂ CỨU MẠNG
“ Nhiều trường hợp tử vong có thể tránh được chỉ nhờ một cuộc điều tra gia đ́nh đứng trước mỗi trường hợp chết đột ngột không thể giải thích trước 40 tuổi ”, GS Vincent Probst, trưởng centre de référence của những bệnh nhịp tim thuộc CHU de Nantes, đă nhắc lại như vậy.
Ở Pháp, phần lớn trong số 60.000 trường hợp chết đột ngột hàng năm vẫn không giải thích được. Lư do được nêu lên thường là vỡ ph́nh mạch năo (anévrysme cérébral), không thể được xác nhận nếu không giải phẫu tử thi. Trong nhiều trường hợp, khi chết xảy ra trước 40 tuổi, có thể đó là một rối loạn nhịp di truyền. “ Nhưng tôi c̣n thấy rất thường những rối loạn như vậy được phát hiện sau nhiều trường hợp chết đột ngột trong gia đ́nh, GS Probst lấy làm tiếc như vậy. Một điều tra gia đ́nh phải được thực hiện đối với mọi trường hợp chết đột ngột không giải thích được ở một người trẻ.” Mặt khác, kíp của ông vừa phát động một thử nghiệm chương tŕnh, cộng tác với Samu, nhằm tiếp xúc một cách hệ thống các gia đ́nh để đề nghị với họ một phân tích di truyền (analyse génétique). “ Biện pháp không phải luôn dễ dàng được chấp nhận đối với các người thân v́ họ cảm thấy khỏe mạnh và có thể cảm thấy lội lỗi là đă truyền một bệnh lư như vậy, nhưng các mạng người có thể được của sống ”, ông đă nhấn mạnh như vậy. Khi không được điều trị, hội chứng QT dài gây nên tử vong trong 20% các trường hợp trước 20 tuổi, nhưng nếu được điều trị đúng đắn, tỷ lệ tử vong sụt xuống dưới 1%. Phần lớn các loạn nhịp di truyền có thể được điều trị bằng thuốc hay nhờ một implant tim. “ Dĩ nhiên, rất hiếm khi một défibrillateur implantable khởi động ở một trong những bệnh nhân này, nhưng nếu khởi động nó làm cho bệnh nhân sống 40 năm ”, GS Probst đă lấy làm phấn khởi như vậy.
Những rối loạn nhịp di truyền thường gặp nhất là hội chứng QT dài (một trên 2500 người), hội chứng Brugada, dysplasie arythmogène du ventricule droit (một trên 5000 người). Tachycardie ventriculaire catécholergique và hội chứng khử cực sớm (syndrome de repolarisation précoce) hiếm gặp hơn. Những loạn nhịp này thường được chẩn đoán trong thời thơ ấu hay hầu như luôn luôn trước 40 tuổi, hoặc nhân một tai biến nghiêm trọng, hoặc khi đọc một điện tâm đồ thường quy cho một kết quả bất thường hoặc sau một điều tra gia đ́nh. 3 centre de référence, Lyon, Nantes, Paris chuyên môn trong việc nhận diện những loạn nhịp hiếm hoi này. “ Điện tâm đồ thường cho phép chẩn đoán, nhưng, trong vài trường hợp, điện tâm đồ hoàn toàn b́nh thường hay có những bất thường khó phân biệt được ”, GS Probst đă nhấn mạnh như vậy.
[color=purpleNhiều trường hợp động kinh ở các trẻ em và các thiếu niên thật ra là những rối loạn nhịp gây nên ngất xỉu, với những cử động đột ngột của các chi. Động kinh chỉ có thể phát hiện bằng điện năo đồ vào lúc cơn co giật và điện năo đồ có thể b́nh thường đối với thầy thuốc thần kinh. Chỉ có sự không hữu hiệu của điều trị chống động kinh hay sự giám định của một thầy thuốc chuyên về nhịp tim sau đó mới có thể dẫn đến chẩn đoán đúng đắn. Cũng vậy, đứng trước một trường hợp ngất lúc gắng sức của một bệnh nhân trẻ, cần phải thăm khám thầy thuốc chuyên về tim và cần thực hiện một épreuve d’effort.[/color]
(LE FIGARO 17/12/2012)
florida80
06-05-2019, 18:06
Khắc Phục Găy Xương Đùi Ở Người Già
Găy cổ xương đùi là kiểu găy nội khớp của xương lớn nhất cơ thể. Đối với trẻ em và người lớn trẻ tuổi, găy cổ xương đùi thường xảy ra sau một chấn thương mạnh. Nhưng ở người cao tuổi, loại găy này có thể xảy ra chỉ do một chấn thương nhẹ như trượt chân, ngă đập vùng chậu hông xuống nền cứng, đây là loại găy xương nặng có thể dẫn đến tử vong.
V́ sao hay bị găy cổ xương đùi?
Cấu tạo các bè xương vùng cổ xương đùi chia hai bè cung nhọn và nan quạt, tiếp giáp giữa hai bè này là điểm yếu gọi là cổ phẫu thuật, v́ vậy mọi trường hợp găy cổ xương đùi thường xảy ra ở điểm yếu này. Do cấu tạo của mạch máu nuôi dưỡng nhiều ít khác nhau, nên khi găy xương càng sát chỏm th́ nguy cơ hoại tử chỏm càng lớn, v́ ở đây ít mạch máu nuôi dưỡng.
Ngược lại, găy ở xa chỏm, nhờ dinh dưỡng tốt hơn bởi có nhiều mạch máu nên ít bị hoại tử. Găy cổ xương đùi là găy xương phạm khớp, làm máu từ ổ găy chảy vào khớp, v́ vậy nếu bất động lâu sẽ dẫn đến thoái hóa và dính khớp, do khớp được nuôi bởi dịch khớp nhờ thẩm thấu, khi máu tràn vào khớp làm thay đổi dịch khớp, nên việc nuôi dưỡng kém và gây dính khớp. Cho nên các trường hợp găy cổ xương đùi cần điều trị sớm, phẫu thuật sớm, cố định tốt, vận động sớm để tránh dính khớp.
Có 2 nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp làm găy cổ xương đùi: trực tiếp do chấn thương đập mạnh vùng mấu chuyển lớn và cổ xương đùi gây ra găy dạng; gián tiếp do bị ngă mà bàn chân, đầu gối đập xuống nền cứng, trọng lượng cơ thể dồn từ trên xuống và phản lực từ dưới lên gây nên cơ chế “cắt kéo” làm găy cổ xương đùi. Mặt khác loăng xương cũng làm tăng tỷ lệ găy cổ xương đùi.
Phát hiện găy cổ xương đùi
Nhiều thống kê cho thấy: đa số trường hợp găy cổ xương đùi là người già, nữ nhiều hơn nam. Các dấu hiệu cần chú ư để phát hiện găy cổ xương đùi là: sau một chấn thương, bệnh nhân thấy đau chói tại khớp háng, đau vùng nếp bẹn; Nếu bất lực vận động một phần: bệnh nhân c̣n cử động được một số động tác của khớp háng, khớp gối, có khi c̣n tự đứng dậy và đi được vài bước.
Nếu bất lực vận động hoàn toàn: bệnh nhân hoàn toàn không cử động được. Trường hợp điển h́nh thấy chi bị biến dạng, sưng nề, nếu đo chu vi vùng đùi nghi ngờ thấy lớn hơn bên lành là có găy; đo chiều dài chi bên găy ngắn hơn bên lành; trục chi găy thay đổi; cổ và bàn chân bên găy xoay ngoài, ngả xuống mặt giường; để chân găy duỗi thẳng tác động nhẹ vào gót chân bệnh nhân thấy đau ở khớp háng.
Ấn vào trên cung đùi vùng mạch máu, bệnh nhân kêu đau chói ở ổ găy. Dấu hiệu đặc trưng là bàn chân xoay ngoài chừng 60 độ, trong khi bên lành bàn chân chỉ xoay ngoài được khoảng 30 độ. Nếu ổ găy nội khớp th́ gốc chi không sưng nề, không có máu tụ bầm tím. Trường hợp găy ngoại khớp th́ gốc chi sưng nề to, máu tụ bầm tím lan tỏa. Chụp Xquang có thể thấy rơ đường găy.
Cách chữa trị khi bị găy cổ xương đùi
- Sơ cứu: giảm đau cho bệnh nhân bằng thuốc uống hay tiêm; cố định xương dùng nẹp cố định của y tế (nẹp Cramer) hay nẹp tự tạo; vận chuyển bệnh nhân về cơ sở y tế trên ván cứng.
- Điều trị: hiện nay không dùng bảo tồn bằng nắn chỉnh bó bột do nặng nề, nhiều biến chứng. Phẫu thuật kết hợp xương bằng những chùm đinh nhỏ; các vít xương xốp tự do có ép hoặc không ép; các phương tiện kết hợp xương vững chắc như nẹp một khối, nẹp hai khối; kết xương bằng nẹp DHS (Dynamic hip sereust) vít vùng khớp háng có sức ép là biện pháp tốt nhất hiện nay nhờ các ưu điểm như sức ép tốt, chống xoay tốt, kết xương xong tập vận động được ngay. Phương pháp thay chỏm xương, thay ổ khớp cũng là cách điều trị tiên tiến.
Nếu điều trị bảo tồn, bất động nằm lâu có thể gặp các biến chứng: viêm phổi, viêm tiết niệu, loét do tỳ đè, suy kiệt, hoại tử chỏm, khớp giả, liền lệch trục, thoái hóa khớp háng, teo cơ cứng khớp háng...
Pḥng chống loăng xương ở người già
Chống loăng xương bằng cách dùng thực phẩm tốt cho xương như sữa và các chế phẩm từ sữa; ăn cá thay cho thịt mỗi ngày, ăn các loại rau xanh đậm màu như: cải xoăn, súp lơ xanh, cà rốt, củ cải, ḷng đỏ trứng gà, nước cam tươi, nước dâu tây, sữa tươi ít béo...
Pḥng tránh ngă cho người già bằng cách điều trị tích cực các bệnh viêm phổi, nhồi máu cơ tim, các bệnh gây kém mắt, kém tai, đeo kính và dùng máy trợ thính để cải thiện thị lực và thính lực. Khắc phục các yếu tố dễ gây ngă bằng cách san phẳng những chỗ mấp mô, lấp hố sâu trên lối đi, mắc thêm đèn ở những chỗ tối, làm thêm lan can vịn tay ở những chỗ cần thiết; bỏ bớt bàn ghế và những thứ không cần thiết trong nhà để việc đi lại được dễ dàng; dùng thảm không trơn trượt trong sàn nhà, sàn pḥng vệ sinh; dùng giầy dép có đế vững chắc, không trơn trượt, không đi guốc cao gót.
ThS. Bs. Trần Ngọc Hương
at 12:45 AM
florida80
06-05-2019, 18:08
Soi Ruột Cứu Người
Bác sĩ Nguyễn Văn Đức
Tôi có tất cả 12 người bệnh ung thư ruột già (colon cancer). Vài vị đă qua đời.
Một vị trên 50 tuổi không có bảo hiểm, Medi-Cal, nhiều năm lần lữa không đi soi ruột già, đến khi đi cầu ra máu, tôi gửi đi soi, ra ung thư ruột già, phải mổ cắt rộng chỗ ung thư, đoạn ruột già trên chỗ ung thư không nối lại với khúc dưới được, vị này nay phải đeo bọc phân ở bụng (colostomy), săn sóc bọc phân mỗi ngày. Rồi ung thư chuyển di đến phổi, lại mổ phổi, chuyển di đến gan, lại mổ gan. Hiện vị này c̣n đang trị liệu với hóa chất (chemotherapy).
Một vị khác nghe lời bạn bè, “Chị không có triệu chứng ǵ, đi soi ruột già làm chi”, cứ nhất định từ chối lời khuyên soi ruột già của tôi, đến khi thử phân, ba mẫu phân đều thấy có máu, lúc đó vị này mới chịu đi soi, ra ung thư ruột già, phải mổ, mổ xong tắc ruột, lại vào nhà thương lần nữa chữa tắc ruột. Con cái phải nghỉ việc nhiều ngày trông coi mẹ trong bệnh viện, rồi khi ra viện, chở đi bác sĩ ung thư và thông dịch.
Mỗi năm, có 11 triệu trường hợp ung thư ruột già mới xảy ra trên toàn thế giới. Riêng tại Mỹ, ung thư ruột già nhiều chỉ sau ung thư phổi, mỗi năm có thêm 150.000 trường hợp, làm thiệt mạng khoảng 50.000 người.
- Bác trên 50, nên đi soi ruột già. Bác để trễ chuyện này 16 năm rồi.
- Không bác sĩ ạ, tôi không đi soi, tôi muốn tiết kiệm tiền cho chính phủ.
- Nếu thương chính phủ, bác càng nên đi soi sớm. V́ chữa ung thư ruột già rất tốn kém trường hợp nó nặng, kể từ lúc khám phá ra ung thư ruột già, đến khi bác qua đời v́ căn bệnh, chính phủ phải bỏ ra mấy trăm ngàn đô-la để cố cứu bác. Tiền mổ, có khi nhiều lần, tiền chữa bằng hóa chất, tiền săn sóc bọc phân đeo ở bụng. Khổ cho bác, cho con cái bác, mà cho cả chính phủ.
Trong các tổ hợp y tế HMO (Health Maintenance Organizations, Tổ Chức Duy Tŕ Sức Khỏe) chăm sóc sức khỏe cho các vị cao niên, theo lệnh của Medi-Cal, Medicare, bác sĩ phải làm việc nghiêm túc, chú trọng việc pḥng ngừa bệnh cho các vị cao niên. Một trong những việc quan trọng này là nhắc nhở các vị đi soi ruột già để truy t́m ung thư ruột già (colon cancer screening) đúng hạn kỳ, bắt đầu từ tuổi 50, dù người bệnh không có triệu chứng ǵ cả.
Ba phương pháp truy t́m ung thư ruột già Medi-Cal, Medicare, qua tổ hợp y tế HMO, muốn các bác sĩ phải làm cho người bệnh 50 tuổi trở lên của ḿnh: soi toàn ruột già (colonoscopy) mỗi 10 năm, hoặc soi đoạn cuối của ruột già (sigmoidoscopy) mỗi 5 năm, hoặc thử phân hàng năm.
Soi toàn ruột già
Tốt nhất, chúng ta nên soi toàn ruột già (colonoscopy) mỗi 10 năm để truy t́m và ngừa ung thư ruột già.
Soi toàn ruột già giúp bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa nh́n trực tiếp niêm mạc lót ḷng của toàn thể ruột già, khám phá hầu hết các bướu thịt và ung thư nếu có.
Chiều hôm trước khi soi, người bệnh ăn lỏng (clear liquid diet), uống thuốc xổ để xúc sạch ruột. Khi soi, bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa cho người bệnh ngủ, và đưa một ống soi vào hậu môn người bệnh, đẩy dần lên để coi, cho đến khi đi hết ruột già từ trái sang phải. Thấy có chỗ nào trông bất thường, qua ống soi bác sĩ có thể cắt đi đem thử thịt.
Soi toàn ruột già có thể gây chảy máu hoặc làm rách ḷng ruột già với tỉ lệ 1/1000. V́ được cho ngủ, hôm đi soi, người bệnh cần có người chở về, và không thể đi làm trong cùng ngày. Trả tiền mặt, soi toàn ruột già tốn khoảng 900-1000 Mỹ kim; trong các tổ hợp y tế HMO, các vị cao niên không phải trả tiền.
Sigmoidoscopy
Đây là phương pháp soi đoạn cuối của ruột già (phần ruột già bên trái) gần về phía hậu môn (ống soi chỉ vào sâu 60 cm), và nếu b́nh thường, sẽ làm lại mỗi 5 năm.
Chiều trước ngày soi sigmoidoscopy, người bệnh ăn thức ăn lỏng, và chỉ cần được bơm thuốc vào hậu môn để đi cầu cho sạch hết phân ngày hôm sau trước khi soi. Thường khi soi, người bệnh không phải ngủ và có thể trở lại làm việc trong ngày.
Soi sigmoidoscopy có thể khám phá các bướu thịt hoặc ung thư trong phạm vi các vùng được soi. Việc soi rất ít nguy hiểm, hiếm khi xảy ra chảy máu hoặc rách ḷng ruột già.
Sigmoidoscopy rẻ hơn colonoscopy, ít nguy hiểm hơn, song điểm bất lợi nhất của sigmoidoscopy là không t́m được những bướu thịt hoặc ung thư ở phía bên phải của ruột già. Ngoài ra, khi t́m thấy bướu thịt hoặc ung thư tại những vùng soi, sau đó cũng sẽ phải làm colonoscopy (tức tốn thêm lần tiền nữa) để soi toàn ruột già, v́ bướu thịt hoặc ung thư có thể xuất hiện luôn tại cả những vùng ruột già bên phải.
Thử phân
Ung thư ruột già hay gây chảy máu ít một, mắt chúng ta thường không nh́n thấy, song thử phân có thể khám phá thấy máu trong phân.
Vị nào không thích truy t́m ung thư ruột già bằng hai phương pháp kể trên, có thể thử t́m máu trong phân hàng năm. Thử thấy có máu trong phân, cần soi toàn ruột già t́m ung thư.
Tuy nhiên, phương pháp truy t́m bằng thử phân kém nhất, không mấy chính xác, do các bướu thịt trong ḷng ruột già hiếm khi chảy máu nên trắc nghiệm hay ra âm tính (không thấy có máu), ngược lại, nhiều trường hợp trắc nghiệm dương tính (thấy có máu), nhưng thực ra v́ những nguyên nhân khác không phải ung thư, chẳng hạn như trĩ.
Trên là ba phương pháp truy t́m ung thư ruột già từ tuổi 50 cho người b́nh thường, không có triệu chứng, thực hiện trong các tổ hợp y tế HMO theo lệnh của Medi-Cal, Medicare. Với các vị có những yếu tố quan trọng dễ đưa đến ung thư ruột già (có người thân trong gia đ́nh bị ung thư ruột già, bệnh viêm ruột, …) tùy trường hợp, bác sĩ sẽ đề nghị truy t́m sớm hơn so với người thường.
Đầu năm 2014 tới, tất cả các vị Medi-Medi sẽ lần lượt phải gia nhập một tổ hợp y tế, và vào cuối năm nay, sẽ nhận được thư thông báo, yêu cầu chọn bác sĩ chính (primary care doctor) và tổ hợp y tế, nếu không, sẽ bị chỉ định bác sĩ và tổ hợp. V́ trong tổ hợp, các vị sẽ được chăm sóc kỹ càng hơn với những chỉ thị trực tiếp của Medi-Cal, Medicare các bác sĩ trong tổ hợp phải thi hành, c̣n như bây giờ, người có Medi-Medi muốn đi đâu th́ đi, dễ sa vào tay những bác sĩ chỉ muốn kiếm tiền bằng những phương cách bất chính gây tốn kém công quĩ, mà không khuyên người bệnh những việc cần làm. Với mô thức tổ hợp y tế, chính phủ biết chắc những chỉ thị đưa xuống các bác sĩ sẽ phải thi hành, đồng thời nắm vững được đồng tiền chi ra để chăm sóc sức khỏe cho các vị Medi-Medi, của công không c̣n bị lọt vào tay những kẻ gian giảo.
Soi ruột già vừa cứu mạng chúng ta, vừa tiết kiệm tiền cho hệ thống y tế chúng ta đang hưởng. Mà cũng chẳng phải tiền ǵ của hệ thống y tế, nhưng chính tiền của những người công dân Mỹ cần cù đi làm đóng thuế.
Cũng xin nhớ, trong lănh vực sức khỏe, một lời khuyên vô ư thức có thể gây hại, thậm chí ảnh hưởng đến tính mạng của người thân chúng ta. Chớ nên khuyên người kiểu, “Chị không có triệu chứng ǵ, đi soi ruột già làm chi, bác sĩ chỉ vẽ chuyện”, song nên khuyên, “Chuyện sức khỏe, chị hỏi ư kiến bác sĩ, c̣n chị hỏi chuyện bếp núc, làm vườn, mua hột xoàn, tui chỉ chị”.
Lời nói chúng ta nên thận trọng, nhất là trong những địa hạt chuyên môn ḿnh không rành.
Sưu tầm
florida80
06-05-2019, 18:11
https://i.imgur.com/rLRx8o7.jpg
Trụ Sinh Không Chữa Được Cảm Cúm
Bác sĩ Nguyễn Văn Đức
Những ngày nắng nóng chắc đă qua, hôm nay trời mát nhiều rồi, thu đă ngoài ngơ. Tháng 10, 11 chúng ta nhắc nhau đi ngừa cúm.
Mùa lạnh là mùa của bộ hô hấp, trong đó có cảm (cold), cúm (flu). Nhiều vị trong chúng ta vẫn nghĩ cảm, cúm cần có trụ sinh mới mau hết.
Sự sử dụng trụ sinh ở Mỹ c̣n quá lung tung, và hiện tượng vi trùng kháng thuốc trụ sinh đang là mối lo ngại, nên Trung Tâm Kiểm Soát và Pḥng Ngừa Bệnh (CDC) thiết lập website www.cdc.gov/getsmart để giáo dục việc sử dụng trụ sinh, đồng thời gửi đến văn pḥng các bác sĩ tài liệu “Cold or Flu, Antibiotics Don’t Work for You” (Cảm hay cúm, các trụ sinh không giúp bạn đâu) để bác sĩ hướng dẫn những bệnh nhân của ḿnh về vấn đề này.
Xin dịch tài liệu “Cold or Flu, Antibiotics Don’t Work for You” của CDC, chúng ta cùng đọc:
Khi bạn bệnh, bạn muốn mau khỏe. Nhưng trụ sinh không phải là câu trả lời cho mọi thứ bệnh tật. Tập sách nhỏ này giúp bạn biết khi nào trụ sinh có tác dụng và khi nào không. Muốn t́m hiểu thêm, bạn hỏi bác sĩ bạn hoặc viếng website cdc.gov/drugresistance/community.
Nguy hiểm: Vi trùng sẽ kháng thuốc
Nếu bạn dùng trụ sinh hoài, sẽ có tai hại ǵ? Dùng trụ sinh lúc không cần thiết có thể làm các vi trùng trở thành kháng thuốc.
Các vi trùng kháng thuốc trụ sinh sẽ mạnh hơn và khó tiêu diệt. Các vi trùng này có thể tiếp tục ở trong cơ thể bạn và gây những bệnh hiểm nghèo không c̣n trị được với trụ sinh. Muốn trị được bệnh, chúng ta phải dùng những thuốc mạnh hơn, và có thể bạn phải vào nhà thương để chữa.
Để tránh t́nh trạng các bệnh nhiễm trùng kháng trụ sinh, Trung Tâm Kiểm Soát và Pḥng Ngừa Bệnh khuyên bạn nên tránh dùng trụ sinh khi không cần thiết.
Trụ sinh không phải là câu trả lời trong mọi trường hợp
Hầu hết các bệnh nhiễm trùng gây do hai loại trùng: vi trùng (bacteria) và siêu vi (virus). Trụ sinh chỉ chữa được bệnh do vi trùng, không chữa được bệnh do siêu vi.
Vi trùng gây bệnh viêm họng “strep throat” (viêm họng do vi trùng Streptococcus), vài bệnh sưng phổi (pneumonia) và nhiễm trùng xoang (sinus infections). Trụ sinh có tác dụng trong các bệnh này.
Siêu vi gây bệnh cảm (cold), cúm (flu), và hầu hết các trường hợp ho, chảy mũi, đau họng. Trụ sinh không có tác dụng trong các trường hợp này.
Dùng trụ sinh để chữa bệnh do siêu vi:
- Sẽ KHÔNG chữa được bệnh
- Sẽ KHÔNG giúp bạn mau khỏe hơn
- Sẽ KHÔNG ngừa được việc lây bệnh cho người nhà.
Câu hỏi hay được đặt ra
* Làm sao tôi biết được tôi bị bệnh do vi trùng hay siêu vi?
Bạn hăy hỏi bác sĩ bạn và nghe theo lời khuyên của bác sĩ.
Nên nhớ, nếu bạn bị cảm hay cúm, đây là bệnh siêu vi và trụ sinh không chữa được.
* Khi bị cảm hay cúm, trụ sinh không giúp tôi mau khỏe hơn sao? Không, trụ sinh hoàn toàn không có tác dụng ǵ với bệnh gây do siêu vi. Trụ sinh không hề giúp bạn mau khỏi bệnh.
Bạn hăy hỏi bác sĩ bạn về những cách chữa giúp bạn dễ chịu trong lúc chờ căn bệnh qua đi.
Hăy thông minh (Get smart)
- Trụ sinh là các thuốc mạnh, nhưng không phải bệnh nào chúng cũng chữa.
- Dùng không đúng, trụ sinh có thể gây hại cho sức khỏe của bạn.
- Trụ sinh chữa được hầu hết các bệnh vi trùng, nhưng không chữa được các bệnh siêu vi.
- Trụ sinh giết vi trùng, không giết được siêu vi; v́ vậy, trụ sinh không có tác dụng ǵ khi dùng để chữa cảm, cúm, chảy mũi, đau họng không do vi trùng Streptococcus, hầu hết các trường hợp ho và viêm ống phổi (bronchitis).
- Khi bạn bịnh, trụ sinh không phải lúc nào cũng là câu trả lời cho vấn đề sức khỏe của bạn.
Tự bảo vệ với sự chăm sóc tốt nhất Bạn không nên dùng trụ sinh để trị cảm thường (common cold) hay cúm (flu). Nếu bác sĩ biên toa trụ sinh cho bạn để chữa một bệnh nhiễm vi trùng (bacterial infection), chẳng hạn như bệnh “strep throat” (viêm họng do vi trùng Streptococcus), bạn nên dùng hết số lượng thuốc trong chai thuốc. Mới uống vài ngày thấy bớt đă ngưng thuốc, bệnh chỉ mới trị một phần, vi trùng chưa bị tiêu diệt hết có thể sẽ tấn công bạn trở lại, và nguy hiểm hơn, lúc đó chúng có thể đă trở thành kháng thuốc trụ sinh. Điều này cũng áp dụng cho cả trẻ em, chúng ta cần cho các em uống hết thuốc như chỉ dẫn của bác sĩ, dù thấy các em đă mau chóng bớt nhiều, khỏe hơn.
Thuốc trụ sinh nếu uống không hết (như trường hợp thuốc gây tác dụng phụ, bác sĩ khuyên bạn ngưng thuốc, đổi sang thuốc khác) nên vất đi, bạn không nên trữ lại ở nhà, và tự ư đưa cho người khác dùng thuốc trụ sinh của ḿnh.
Sưu tầm
florida80
06-05-2019, 18:13
Bệnh Khớp Thoái Biến
Khớp (joint) là các chỗ những đầu xương nối với nhau. Trong khớp có nhiều cơ cấu rất tinh vi, phối hợp hoạt động để khớp vừa vững chắc vừa linh động. Sụn khớp (articular cartilage), phần quan trọng của khớp, bao bọc các đầu xương như một lớp đệm, giúp các đầu xương trong khớp nhẹ nhàng trượt lên nhau khi khớp chuyển động.
Ở Mỹ đă lâu, chúng ta cần ḥa nhập vào ḍng y khoa Mỹ, dùng những từ y khoa Mỹ họ dùng: đau cổ (neck pain), đau vai (shoulder pain), đau khuỷu tay (elbow pain), đau cổ tay (wrist pain), đau lưng (back pain), đau lưng dưới (low back pain), đau hông (hip pain), đau gối (knee pain), đau cổ chân (ankle pain), đau khớp (joint pain), viêm khớp (arthritis: khớp vừa đau, vừa sưng to, nóng đỏ). Nên bỏ hai chữ “phong thấp” vào sọt rác quá khứ, v́ những chữ này mơ hồ, không biết dịch sang tiếng Anh thế nào. Xin nhớ, vào nhà thương, các bác sĩ, y tá họ nói tiếng Anh, chúng ta cần dùng đúng chữ để họ hiểu (nếu cần thông dịch, người thông dịch cũng dịch được dễ dàng). Các thuốc Ibuprofen, Motrin, Aleve, Celebrex, ..., thuần túy, chỉ là thuốc chống đau như Tylenol, Aspirin, không nên gọi chúng là “thuốc phong thấp”.
Bệnh khớp nhiều lắm. Ba bệnh khớp làm khổ chúng ta nhiều nhất: “osteoarthritis ”, (bệnh viêm xương-khớp), “rheumatoid arthritis” (bệnh viêm khớp rheumatoid) và “gout” (thống phong). Hôm nay, chúng ta t́m hiểu bệnh “osteoarthritis ”, tên khác dễ hiểu hơn: “degenerative joint disease” (bệnh khớp thoái biến).
Bệnh khớp thoái biến xảy ra nhiều nhất trong các loại bệnh khớp. Ở Mỹ, đến 12% dân số mang bệnh khớp thoái biến, và với các vị trên 70 tuổi, tỉ lệ gần 35% (tức cứ 3 người, 1 người bị). Rất nhiều vị, đi từ pḥng ngủ sang pḥng tắm cũng khó khăn, v́ khớp gối, khớp hông đau nhức quá.
Đời người chúng ta ví như chiếc xe hơi, chập chững chạy đầu đời, bon bon chạy giữa đời, rồi chậm dần vào cuối đời. Do máy đă rêm, bánh đă ṃn. Các khớp của ta giống những bánh xe hơi, dùng lâu tất ṃn. Bệnh khớp thoái biến gây do sự ṃn lở của sụn khớp (articular cartilage), nhất là ở những vùng sụn phải trực tiếp nâng đỡ sức nặng của cơ thể. Do thế, bệnh thường tấn công các khớp mang sức nặng (hông, gối, lưng dưới, ...), hoặc khớp sử dụng nhiều trong công việc hàng ngày (các khớp ngón tay, khớp nơi gốc ngón tay cái).
Dưới tuổi 55, các khớp ṃn giống nhau ở cả nam lẫn nữ. Tuổi cao hơn, khớp hông bị nhiều hơn ở đàn ông, c̣n phụ nữ hay có bệnh ở các khớp ngón tay và gốc ngón cái. Phụ nữ cũng đau khớp gối nhiều hơn đàn ông.
Ai dễ bị bệnh khớp thoái biến?
Nhiều yếu tố đưa ta đến với bệnh khớp thoái biến:
- Tuổi tác: yếu tố quan trọng nhất. Càng cao tuổi, các khớp ta càng dễ hao ṃn.
- Phái tính: phụ nữ dễ mang bệnh hơn đàn ông. (Phải chăng, so ra, nữ giới vẫn phải làm việc nhiều hơn nam giới, việc sở, việc nhà?).
- Chấn thương: những khớp trước từng bị chấn thương hoặc sử dụng nhiều quá dễ mang bệnh. Chẳng hạn, người vũ ballet hay có bệnh ở khớp cổ chân. Ngược lại, các vơ sĩ boxing hay mang bệnh ở khớp nối bàn tay và ngón tay. Người làm những nghề nghiệp cần qú gối dễ mang bệnh ở khớp gối.
- Nặng cân: xe nặng, bánh tất mau ṃn. Người nặng, khớp mau hư, nhất là khớp gối.
- Bệnh bẩm sinh: khiến khớp bất thường ngay từ lúc mới sanh.
- Bệnh nội tiết: tiểu đường, suy tuyến giáp trạng, ...
Định bệnh
Ta đă biết, trong khớp có sụn khớp (articular cartilage), bao bọc các đầu xương như một lớp đệm, giúp các đầu xương nhẹ nhàng trượt lên nhau khi khớp chuyển động. Bệnh khớp thoái biến gây do sự ṃn lở của sụn khớp. Khi sụn ṃn hoặc lở vỡ, các đầu xương không c̣n uyển chuyển trượt lên nhau, nên gây đau nhức, cứng khớp, ...
Tuy vậy, rất nhiều trường hợp bệnh không gây đau ǵ cả. Có người chẳng bao giờ đau, t́nh cờ chụp phim, phim chụp cho thấy khớp đă ṃn.
Đau khớp, nếu xảy ra, trong giai đoạn đầu, thường là cái đau âm ỉ, cảm thấy sâu trong khớp bệnh: khớp lưng, hoặc khớp hông, khớp gối, khớp ngón tay, ... Người bệnh thấy đau nhiều hơn khi đi lại, sử dụng khớp, và bớt đau lúc nghỉ ngơi. Khi bệnh tiến triển đến giai đoạn nặng hơn, cái đau thành liên tục, làm khổ cả vào ban đêm.
“Công chúa đứt tay, ăn mày đổ ruột”. Mỗi người chúng ta cảm nhận cái đau một khác. Cùng một mức độ bệnh lư của khớp, phụ nữ than đau nhiều hơn đàn ông, người hưởng trợ cấp than đau nhiều hơn người đi làm, và người ly dị than nhiều hơn người có gia đ́nh hạnh phúc. Người ta cho rằng trong bệnh khớp thoái biến, như chứng đau lưng, như nhiều bệnh khác, những yếu tố tâm lư và xă hội có ảnh hưởng quan trọng, khiến người bệnh cảm thấy đau nhiều hay ít.
Triệu chứng quan trọng khác là cứng khớp (stiffness). Khớp thường cứng vào buổi sáng mới ngủ dậy hoặc sau lúc nghỉ ngơi một thời gian ngắn trong ngày. Cứng khớp không kéo dài lâu, chỉ khoảng 20 phút.
Đến giai đoạn nặng, khớp mất h́nh dạng b́nh thường, méo mó, to lên, và không c̣n gập, duỗi được hết mức. Có khi, đang đi, khớp khựng lại. Khớp sờ thấy đau, hoặc sưng và hơi nóng. Khi khớp chuyển động, sờ như thấy các đầu xương trong khớp chạm vào nhau, kêu “lục cục lạc cạc”.
Sự định bệnh dựa vào bệnh sử (triệu chứng do người bệnh kể), sự thăm khám, và phim chụp. Phim chụp cho thấy hai đầu xương trong khớp sát vào nhau ở chỗ sụn bị ṃn, có khi thấy những chồi xương mọc ra bất thường. Khi sụn khớp ṃn nhiều, trên phim, khớp lệch lạc thấy rơ (subluxation), mất h́nh dạng b́nh thường.
Điểm đáng chú ư là triệu chứng và mức độ tàn tật do bệnh gây nên, nặng hay nhẹ, thường không ăn khớp với phim chụp. Nếu đem 100 người trên 40 tuổi ra chụp phim, theo phim chụp, 90 người sẽ có những thay đổi bất thường ở các khớp nâng đỡ sức nặng cơ thể (lưng dưới, hông, gối, ...), tuy vậy, chỉ 30 người có triệu chứng đau nhức. Đau dữ hay ít, như đă bàn, c̣n tùy thuộc nhiều yếu tố, đặc biệt những yếu tố tâm lư và xă hội.
Chữa Trị:
Sự trị liệu nhắm mục đích giảm đau, giúp các khớp duy tŕ được cơ năng, và hoạt động b́nh thường. Những trường hợp bệnh nhẹ, người bệnh chỉ cần được trấn an, chỉ dẫn cách vận động, thu xếp công việc hàng ngày để tránh những hoạt động khiến khớp dễ tổn thương thêm, và thỉnh thoảng uống thuốc giảm đau nếu cần. Với những trường hợp nặng hơn, có thể phải phối hợp nhiều phương pháp chữa trị khác nhau:
1. Vận động:
Bắp thịt và xương, khớp như anh em ruột thịt, phối hợp, giúp đỡ nhau trong lúc hoạt động. Bắp thịt quanh khớp nếu dẻo dai, vững chắc sẽ giúp khớp bớt làm việc, hoặc làm việc hữu hiệu hơn, và cái đau sẽ nhẹ đi.
Các vận động nhẹ nhàng, không đặt nhiều sức nặng trên khớp (low-impact, nonweight-bearing) rất tốt. Bơi lội tuyệt nhất. Không th́ những thể dục năng động nhẹ (low-impact aerobics exercises), hoặc các cách tập đặc biệt dùng cho người mang bệnh khớp. Đạp xe đạp đều có thể làm bớt đau khớp gối bị bệnh. Một chuyên viên thấu đáo về việc tập luyện cho người mang bệnh khớp (physical therapist) có thể giúp ta rất nhiều, chỉ dẫn cho ta những cách tập đúng với nhu cầu của tật bệnh ta.
Kiên nhẫn là mẹ thành công. Tập 4-5 lần mỗi tuần, đều như vậy, sau hai tháng, thường sẽ bắt đầu thấy có tiến triển tốt.
2. Đắp, thoa tại chỗ:
- Ấp nhiệt (khăn, b́nh nước nóng, heating pad, ...) vào khớp đau có thể giúp khớp bớt đau và cứng. Cách giản dị và rẻ tiền là tắm nước ấm vào buổi sáng lúc khớp hay bị cứng. Có vị thấy bớt đau khi dùng nước đá thay v́ dùng nhiệt.
- Một loại kem được xem có tác dụng giảm đau, mua bên ngoài không cần toa bác sĩ là capsaicin cream. Thoa kem capsaicin ngày vài lần trên khớp, có khi bạn không cần uống thuốc giảm đau nữa. Kem capsaicin rất hữu hiệu cho các khớp gối và bàn tay. Khi mới dùng, có thể thấy nóng ở chỗ thoa thuốc, song tiếp tục dùng, phản ứng khó chịu này sẽ bớt dần.
3. Tránh bắt khớp bệnh làm việc quá sức:
- Luôn giữ cơ thể trong tư thế thẳng thắn. Khi nghỉ ngơi, học hành, làm việc, lái xe, bạn nên ngồi ghế có lưng tựa thoải mái (thêm tay dựa càng tốt), sát người vào lưng ghế, để lưng ghế nâng đỡ cơ thể bạn cho thẳng, giúp các khớp xương, bắp thịt lưng và cổ không mỏi.
- Trong công việc hàng ngày, bạn xếp đặt công việc và dụng cụ làm việc hợp lư, thuận tầm tay, vừa tầm mắt, hầu khỏi cong cúi nhiều trong lúc làm việc. Đồng thời, ứng dụng tinh thần “chị ngă em nâng”, sử dụng càng nhiều khớp càng tốt trong lúc làm việc. Chẳng hạn, bưng tách cà phê với cả hai tay, nâng b́nh cà phê bằng cách đỡ cả trên lẫn dưới (một tay đỡ đáy b́nh, một tay xách quai xách phía trên), ... Với cách này, lực tác động sẽ lan tỏa, không khớp nào phải làm việc quá sức.
Cũng nhớ, khi nhặt vật ǵ dưới đất, thay v́ cúi lưng, bạn cong hai gối trong lúc giữ lưng cho thẳng. Khi bưng bê vật nặng, bạn đưa sát vào người, từ từ đứng lên, trong lúc vẫn thẳng lưng. Nếu vật quá nặng, cách tốt nhất là nhờ thêm người khác giúp sức.
- Người bị bệnh ṃn khớp hông hay khớp gối nên tránh đứng, qú, ngồi chồm hổm (squatting) lâu.
- Xe nặng, bánh mau ṃn. Nên xuống cân nếu béo mập.
- Giữ sự cân bằng giữa hoạt động và nghỉ ngơi. Những dịp nghỉ ngắn (10-20 phút) trong ngày giúp các khớp nghỉ ngơi sau những lúc hoạt động.
- Người bị bệnh ṃn khớp gối hay khớp hông một bên, có thể dùng gậy chống (cầm bằng tay bên không đau) để nâng đỡ cơ thể trong lúc đi lại, giúp các khớp đau đỡ làm việc trong lúc đi lại.
- Giày thể thao loại tốt, hấp thu bớt các sức tác động (impact-absorbing shoes), giúp giảm sức nặng đè trên các khớp ở chân, có thể khiến bớt đau khi đi lại, và có lẽ cũng làm chậm đà tiến triển của căn bệnh. Khổ nỗi, các cụ ta ít quen đi giày thể thao, thích đi dép cao su, dép Nhật cho nhẹ, thoáng, và chỉ... vài đồng một đôi.
4. Chữa trị bằng thuốc:
Thuốc giúp bớt đau. Những trường hợp đau nhẹ hoặc vừa, ta dùng Tylenol là đủ, rẻ, lại an toàn. Không mang bệnh gan hay thận, ta có thể dùng đến 8 viên Tylenol 500 mg mỗi ngày (2 viên ngày 4 lần). Những thuốc giảm đau chứa chất nha phiến như Tylenol số 2, số 3, Vicodin, ... thường không cần thiết, v́ tác dụng không dài. Hơn nữa, dùng liên tục, lâu ngày, thuốc có thể sẽ mất tác dụng và gây nghiện.
Các thuốc chống viêm không chứa chất steroid (non-steroid anti-inflammatory drugs, viết tắt NSAID) như Advil, Nuprin, Motrin, ... làm bớt đau và cứng khớp. Dùng Tylenol không bớt đau, ta có thể dùng đến những thuốc loại này. Cái bất lợi là, dùng lâu ngày, chúng có thể gây khó chịu, lở bao tử, chảy máu đường tiêu hóa, và hại cho thận, ... Dùng những thuốc này, ta nên uống lúc bụng no (đang ăn hoặc sau khi ăn). Thấy khó chịu vùng bụng trên, hoặc đi cầu ra phân đen, bạn nên ngưng thuốc và cho bác sĩ biết ngay. Một thuốc giảm đau khác có tên Ultram, cũng giúp nhiều người bớt đau, nhưng không gây những tác dụng độc hại như các thuốc trên. Tất nhiên, nó có thể gây những tác dụng phụ khác.
Gần đây, một số tài liệu đề cập đến việc dùng chất glucosamine và chất chondroitin để chữa bệnh khớp thoái biến, cho rằng hai chất này có khả năng giúp sửa chữa, tái tạo sụn khớp, và bổ khuyết lượng chất nhờn cần có trong khớp. Chúng tác dụng chậm, ít nhất 4 tuần mới công hiệu, và cũng có thể gây một số tác dụng phụ. Sự an toàn và hiệu quả về lâu về dài của thuốc chưa được biết rơ. Thuốc mua bên ngoài không cần toa, bạn có thể thử, song nên cho bác sĩ biết.
Ngoài các thuốc uống, trong nhiều trường hợp, bác sĩ cũng chích thuốc chứa chất steroid hoặc thuốc Synvisc thẳng vào khớp giúp khớp bớt đau.
5. Giải phẫu:
Giải phẫu dùng cho những trường hợp bệnh quá nặng gây đau nhức liên tục, chữa trị hết mức bằng những phương pháp nội thương song không kết quả. Có nhiều phương pháp giải phẫu khác nhau:
- Thay hẳn một khớp: khớp hông, khớp gối nay có thể thay.
- Gọt bớt xương (osteotomy).
- Mài bớt sụn (chondroplasty, abrasion arthroplasty).
- Đưa ống soi vào khớp, dọn dẹp những chỗ bị hư hoại trong khớp.
Sau cùng, ta cũng đừng quên vai tṛ của tinh thần trong sự chữa trị bệnh khớp thoái biến. Tinh thần và thể xác tuy hai nhưng là một. Trong điều kiện sức khỏe cho phép, nên thường xuyên vận động, hầu giúp cơ thể khỏe mạnh. Thể xác khỏe khoắn, ta thấy yêu đời, yêu người, đỡ căng thẳng tinh thần, và cảm nhận cái đau ít hơn. Một thể xác khỏe mạnh, một tinh thần lạc quan, một lư tưởng hoặc triết lư sống trong sáng, đấy là những viên thuốc bổ của đời sống. Xin biên toa để bạn dùng hàng ngày.
Bác sĩ Nguyễn Văn Đức
https://i.imgur.com/4X1Hl4t.gif
florida80
06-05-2019, 18:16
https://i.imgur.com/z0WWC7N.jpg
V́ Sao Hư Bộ Nhớ
Nếu tưởng người già mới lẫn th́ chưa đủ. T́nh trạng sa sút trí nhớ đến độ "vừa nghe đă quên" của người trẻ từ lâu đă vượt xa mức báo động.
Ai chưa tin xin thử xem có bao nhiêu người nhớ nổi số... driver license ! Nhiều người quên tuốt luốt, quên giờ vào sở, quên luôn công việc, quên cả vợ con, đến độ sau giờ làm việc phải ngồi hàng giờ ở bàn nhậu để cố nhớ nẻo về nhà, thậm chí quên hết đến độ chỉ c̣n nhớ có mỗi ngày... lănh lương!
Chuyện ǵ cũng có lư do. Bộ nhớ mau hư thường v́ nạn nhân chính là thủ phạm do thiếu nhiều thứ cùng lúc lại thừa vài món trong cuộc sống thường ngày. Đó là:
* Thiếu ngủ: Không kể người lỡ chọn nghề trực đêm, thiếu ngủ v́ thức quá khuya dường như là "mốt" của nhiều cư dân trong các thành phố. Kẹt một điểm là chất lượng của trí nhớ gắn liền với độ sâu của giấc ngủ, theo kết quả nghiên cứu ở Đại học Schleiweg- Holstein. Nhưng nếu tưởng như thế chỉ cần dùng thuốc ngủ để ngủ cho được nhằm tăng cường trí nhớ th́ lầm. Thuốc an thần tuy tạo được giấc ngủ nhưng năo bộ đồng thời cũng mê một lèo khiến bộ nhớ quên luôn công việc.
* Thiếu nước: Năo lúc nào cũng tiêu thụ không dưới 20% năng lượng của cơ thể riêng cho chức năng tư duy. Năo v́ thế rất cần nước và chất đường sinh năng. Theo chuyên gia ở Đại học Erlangen, uống không đủ nước trong ngày lại thêm bữa ăn chiều thiếu chất ngọt là một trong các lư do khi tín hiệu thần kinh vừa nhập vào lại ra ngay, cứ như nước đổ đầu vịt.
* Thiếu dầu mỡ: Chất béo loại cần thiết cho cấu trúc của tế bào thần kinh như 3-Omega, Acid Linoleic... là món ăn chính của năo bộ. Đừng tưởng kiêng cử là béo tốt cho năo. Trái lại là khác. Tất nhiên đừng để tăng chất mỡ máu v́ đó là yếu tố bất lợi cho hoạt động của bộ năo. Nhưng thiếu mỡ cũng tai hại tương tự.
* Thiếu dưỡng khí: Thêm vào đó, năo không thể dán tín hiệu thần kinh, dù là h́nh ảnh hay âm thanh vào bộ nhớ nếu tế bào thiếu dưỡng khí v́ thiếu máu. Chính v́ thế mà nhiều thầy thuốc khuyên dùng cây thuốc có công năng cải thiện hàm lượng dưỡng khí trong năo bộ ngay cả cho người chưa phát hiện triệu chứng "đụng đâu quên đó”.
* Thiếu vận động: Nhiều công tŕnh nghiên cứu cho thấy người cao tuổi nếu vận động thể dục thể thao trong ngày th́ ít quên hơn người không vận động. Theo các nhà nghiên cứu về lăo khoa ở Hoa Kỳ, vận động trong ngày là điều kiện để bộ năo không thiếu dưỡng khí trong đêm. Cũng không cần h́nh thức thái quá, nhẹ nhàng thôi, như đi bộ, bơi, chạy xe, khí công..., miễn là ngày nào cũng có.
* Thiếu tập luyện: Muốn năo "bén nhọn" như xưa mà không tập luyện chẳng khác nào chưa học bài. Chơi ô chữ, sudoku, học ngoại ngữ, vẽ tranh..., kiểu nào cũng tốt, càng nhiều cách giải trí càng hay, miễn là đừng ngồi yên mỗi ngày nhiều giờ trước máy truyền h́nh v́ đó là h́nh thức tai hại cho bộ năo.
* Thừa Stress: Bôi sạch bộ nhớ là một trong các phản ứng phụ của nội tiết tố nẩy sinh trong t́nh huống Stress. Biết vậy nên t́m cách pha loăng Stress bằng thể dục thể thao, thiền định, kiểu nào cũng được, miễn vui là chính. Thêm vào đó, đừng tự đầu độc cơ thể và bộ năo bằng thuốc lá, rượu bia, thịt mỡ... Với bộ năo "ngập rác" th́ quên là cái chắc v́ đâu c̣n chỗ nào để nhớ!
* Thừa chất oxy-hóa: Hàm lượng chất gây rỉ sét tế bào sản sinh từ rối loạn biến dưỡng, độc chất trong môi trường ô nhiễm, khói thuốc lá, độ cồn, phụ gia trong thực phẩm công nghệ, hóa chất trong dược phẩm... càng cao, tế bào năo càng mau già trước tuổi. Cầm chân chất oxy-hóa bằng hoạt chất kháng oxy-hóa v́ thế là biện pháp chủ động để bộ nhớ đừng mau "hết đát".
Hăy đừng "đem năo bỏ chợ" qua lối sống chẳng khác nào có thù sâu với năo bộ. Nếu đối xử với năo bạc bẻo th́ đừng trách có lúc "có vay có trả”
BS. LƯƠNG LỄ HOÀNG
florida80
06-05-2019, 18:20
Bạn Có Đang Bị Căng Thẳng Thần Kinh Không?
https://i.imgur.com/aMv0dbb.png
florida80
06-05-2019, 18:22
Không Phải Đồ Ngọt, Đây Mới Là Những Thói Quen Tăng Nguy Cơ Tiểu Đường
Ngoài những yếu tố do tuổi tác, di truyền và tiền sử gia đ́nh th́ những thói quen ăn uống lại chính là yếu tố nguy cơ hàng đầu dẫn tới bệnh tiểu đường. Tuy nhiên thói quen ăn nhiều đồ ngọt lại không nằm trong những lư do này.
Vậy đâu chính là nguyên nhân khiến bạn nhanh chóng mắc tiểu đường.
Các thói quen không tốt trong ăn uống
Bỏ bữa sáng
Ảnh: Scooper.news
Bữa sáng là bữa ăn quan trọng nhất trong ngày, việc nhịn đói đến trưa làm tăng những phản ứng phá hủy lượng insulin và khả năng kiểm soát đường huyết. Để kiểm soát đường huyết và giảm cân, bạn hăy dành một ít thời gian ăn sáng với các món như trứng, bơ đậu phộng, trái cây tươi, sữa chua, bánh ḿ hoặc sandwich…
Ăn ít rau
Ngoài việc hỗ trợ hệ tiêu hóa, hàm lượng chất xơ trong rau có tác dụng rất tốt trong việc làm chậm sự hấp thụ đường vào máu và giảm sự sản sinh insulin của tuyến tụy. Thường xuyên ăn các loại rau củ (loại không có tinh bột) như rau chân vịt, bí đỏ, cà chua và bông cải xanh xen kẽ các bữa phụ là các loại trái cây giàu chất chống ôxy hóa như dâu tây, việt quất, Nam việt quất…
Những thực phẩm này giúp giảm huyết áp, giảm tổn thương do viêm nhiễm và cải thiện t́nh trạng kháng insulin nên có thể kiểm soát đường huyết tốt.
Ăn bánh ngọt vào bữa sáng và tiêu thụ quá nhiều đồ ăn nhanh
Những loại tinh bột đă được tinh chế (như bánh ḿ trắng, bánh quy, khoai tây chiên) đă được chỉ ra trong một số nghiên cứu có liên quan đến sự tăng tỷ lệ kháng insulin. Để ngăn ngừa nguy cơ mắc đái tháo đường hăy ăn sáng bằng ngũ cốc nguyên hạt, cam, sữa chua, bơ đậu phộng…
Thức uống giàu calorie
Có nhiều người hiểu lầm rằng nước ép từ trái cây khá an tà và không có quá nhiều đường. Tuy nhiên, chúng lại không chỉ rất nhiều đường mà c̣n chứa nhiều calorie rỗng và không có giá trị dinh dưỡng nào. Chúng tưởng chừng như vô hại, nhưng chúng lại chứa hàm lượng calorie cao tương đương với soda. Một số nghiên cứu cho thấy những người uống một thứ nước ngọt có đường tăng 25% nguy cơ bị tiểu đường.
Uống rượu và hút thuốc lá
Uống quá nhiều rượu dẫn tới sự biến động mạnh mẽ lượng đường trong máu. Ngoài carbohydrate, cả bia và rượu đều có chứa calo làm cho việc giảm cân trở nên khó khăn hơn và dễ mắc hội chứng chuyển hóa.
Hút thuốc lá làm giảm lưu lượng máu tới cơ và tăng mức độ căng thẳng, từ đó tăng nguy cơ kháng insulin. Hơn nữa, nicotine trong thuốc lá có thể làm tăng nồng độ hemoglobin A1C trong máu của những người tham gia lên đến 34%. Hemoglobin A1C là một chỉ số xét nghiệm máu giúp nhận biết mức đường huyết trung b́nh trong khoảng 2-3 tháng. Nếu chỉ số quá cao, nó có nghĩa là lượng đường trong máu của bạn không được kiểm soát tốt trong thời gian này.
Ăn khuya
Ảnh: Arrival Guides
Những thói quen ăn khuya có thể làm tăng đường huyết và làm gián đoạn bài tiết insulin, gây nguy cơ mắc đái tháo đường tưp 2.
Ngoài ra ăn khuya có thể làm tăng nồng độ đường trong máu vào sáng hôm sau, có thể là vấn đề nếu nó ở trên mức đường huyết mục tiêu (thường là 80-130mg / dL theo hướng dẫn của Hiệp hội tiểu đường Mỹ).
Những thói quen khác
Ngủ quá ít và thức khuya
Các nghiên cứu đă chỉ ra rằng, giấc ngủ rất quan trọng với sức khỏe. Cách thức chúng ta ngủ có thể ảnh hưởng đến lượng đường trong máu, các hormon kiểm soát sự thèm ăn và thậm chí ảnh hưởng đến khả năng nhận thức của năo đối với các loại thực phẩm. Hơn thế nữa, việc thiếu ngủ c̣n làm suy yếu khả năng đáp ứng của các tế bào mỡ với insulin.
Việc không ngủ đủ 6-8 giờ mỗi đêm, quá tŕnh chuyển hóa chất béo của cơ thể sẽ bị xáo trộn. Bên cạnh đó, khi ngủ muộn bạn cần phải ăn thêm, nên lượng thức ăn không được tiêu hóa hết. Lâu dần, điều này sẽ tạo ra mô mỡ tích lũy trong cơ thể, gây tăng cân, béo ph́.
Stress và thừa cân
Sự phiền muộn, chán nản, lo lắng trong một thời gian dài sẽ làm tăng nguy cơ mắc đái tháo đường. Nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường sẽ càng tăng lên ở những người “sở hữu” cả hai yếu tố: stress và thừa cân. Chất epinephrine (sinh ra khi thần kinh bị kích động, stress) sẽ có tác dụng đánh tan mỡ thừa trong cơ thể, dẫn đến việc dư thừa axit béo. Khi cơ thể hoạt động, các axit béo này sẽ tiêu hao, như vậy glucose trong cơ thể sẽ bị dồn lại, không được đốt cháy. Glucose không bị đốt cháy sẽ dư thừa, dẫn đến lượng đường trong máu tăng, lâu dần thành bệnh đái tháo đường.
Minh Nguyên
https://www.dkn.tv
at 1:32 AM
No comments:
florida80
06-05-2019, 18:23
40 Lời Khuyên Cho Sống Lành
1- Uống nhiều nước.
2- Ăn sáng như Vua, anh trưa như Ông hoàng và ăn tối như Kẻ ăn xin (ăn ít).
3- Ăn nhiều thức ăn mọc trên cây và ăn ít thức ăn được chế tạo trong nhà máy.
4- Sống với 3 chữ N: Năng lực –Nhiệt thành- Nhân ái.
5- T́m ra thời gian để cầu nguyện.
6- Chơi tṛ chơi nhiều hơn.
7- Đọc sách nhiều hơn so với năm trước.
8- Mỗi ngày dành 10 phút ngồi yên lặng.
9- Ngủ tối thiểu 7 giờ.
10- Vừa đi bộ vừa mỉm cười 10-30 phút mỗi ngày.
11- Đừng so sánh cuộc đời của ḿnh với cuộc đời của những người khác. Không biết hành tŕnh của họ như thế nào đâu.
12- Đừng có những suy nghĩ tiêu cực hoặc nghĩ những điều mà ḿnh không thể làm chủ. Thay vào đó, hăy đầu tư năng lực của ḿnh vào ngay thời điểm hiện tại.
13- Đừng làm ǵ quá sức. Phải giữ một giới hạn cho bản thân.
14- Đừng coi ḿnh quá quan trọng, coi như không ai sánh nổi.
15- Đừng phí năng lực quư báu vào những chuyện ngồi lê đôi mách.
16- Hăy biết mơ nhiều hơn ngay khi c̣n đang thức.
17- Ghen tỵ là phí th́ giờ. Ḿnh đă có tất cả những ǵ ḿnh cần rồi.
18- Hăy quên đi những chuyện đă qua. Đừng nhắc người thân nhớ lại những lỗi lầm trong quá khứ. Điều đó sẽ làm tan vỡ hạnh phúc đang có.
19- Cuộc sống quá ngắn để tốn thời gian căm ghét bất cứ ai. Chớ ghét bỏ ai.
20- Hăy dàn ḥa với quá khứ của ḿnh đẻ tránh làm hỏng cái hiện có.
21- Không ai nuôi dưỡng hạnh phúc của ḿnh, ngoài chính ḿnh.
22- Hăy coi cuộc đời là một trường học và bạn đang ở đó để học. Hăy coi ḿnh luôn luôn vẫn c̣n là học tṛ .Những điều khó hiểu chỉ là một phần của chương tŕnh học, chúng xuất hiện rồi biến dần giống như môn Đại số. Nhưng những bài học ḿnh thu nhận được sẽ kéo dài suốt đời.
23- Hăy mỉm cười và cười nhiều hơn nữa .
24- Không buộc phải thắng trong mọi cuộc tranh căi. Hăy bằng ḷng với sự bất đồng .
25- Hăy tránh nói nhiều và biết lắng nghe để học hỏi.
26- Mỗi ngày hăy đưa lại vài điều tốt cho người khác
27- Hăy tha thứ cho mọi người về mọi chuyện
28- Hăy dành thời gian cho các cụ ngoài 70 và các cháu dưới 6 tuổi
29- Cố gắng làm được cho 3 người mỉm cười mỗi ngày
30- Khi ḿnh nghĩ đúng, làm đúng, không cần biết những ǵ người khác nghĩ về ḿnh.
31- Năng tập luyện việc tự chăm sóc pḥng khi ḿnh đau ốm.
32- Hăy luôn tránh moi móc chuyện đời tư của người khác.
33- Hăy gạt bỏ mọi chuyện bất lợi, không đẹp hoặc không vui.
34- Trời sẽ chữa lành mọi chuyện.
35- Dù cho mọi hoàn cảnh tốt hay xấu cũng sẽ thay đổi.
36- Mặc dù cảm thấy thế nào cũng hăy đứng dậy, chưng diện lên và khoe với mọi người.
37- Điều tốt nhất rồi sẽ đến.
38- Thức dậy thấy vẫn sống, hăy cảm ơn Thượng đế.
39- Trong ḷng luôn thấy hạnh phúc. Đó chính là hạnh phúc.
40- Hăy có những ngày cuối tuần thật tuyệt vời.
Sưu tầm
at 9:52 AM
florida80
06-06-2019, 19:13
15 Chất Tẩy Rửa “Tự Sáng Tạo” An Toàn Cho Sức Khỏe
Trong cuộc sống hàng ngày, có không ít đồ dùng cũng như thực phẩm có công dụng làm sạch vết bẩn an toàn cho sức khỏe. Chúng ta có thể sử dụng chúng thay thế cho các chất tẩy rửa độc hại một cách đơn giản và hiệu quả.
1. Coca Cola
Coca Cola nếu uống không hết, bạn đừng nên bỏ đi. Chỉ cần đổ vào bồn cầu và đợi 10 phút sau cọ rửa rồi xả nước, những vết ố vàng sẽ biến mất sạch sẽ.
2. Hydrogen peroxit
Hydrogen peroxit có công dụng sát trùng vết thương, ngoài ra c̣n có thể dùng để làm sạch bàn phím. Bạn chỉ cần nhúng tăm bông vào hydrogen peroxit rồi lau các góc và khe của bàn phím, cách làm này vừa an toàn lại vệ sinh.
3. Lá trà
(Ảnh: pngtree.com)
Khi nồi bị cháy khét hoặc rỉ sét, đừng dùng bàn chải ra sức cọ rửa. Bạn chỉ cần cho lá trà vào nồi, đổ nước vào nấu và ngâm, toàn bộ vết cháy khét sẽ lập tức bong ra, lúc này chỉ cần rửa sạch là có thể loại bỏ được vết cháy khét hoặc rỉ sét.
4. Sốt cà chua
Sốt cà chua ngoài dùng để nêm nếm cũng có thể dùng để làm sạch đồ dùng. Chỉ cần đổ một ít sốt cà chua lên khăn vải rồi lau các đồ dùng nhà bếp bằng đồng, bạn có thể làm sạch một cách rất nhẹ nhàng và dễ dàng. Sau khi lau, hăy rửa lại bằng nước ấm một lần là đồ dùng sẽ sáng bóng như mới.
5. Hành tây
(Ảnh: Shutterstock)
Đối với những vết bẩn hoặc dầu mỡ c̣n bám lại trong ḷ nướng, hăy cắt nửa củ hành tây rồi chà mặt trong củ hành vào ḷ nướng, cách này có thể loại bỏ vết dầu mỡ c̣n sót lại.
6. Ḷng trắng trứng
(Ảnh: Shutterstock)
Thông thường, khi làm sạch bề mặt các đồ dùng bằng da, chúng ta đều sẽ dùng các loại chất riêng biệt. C̣n một cách đơn giản và hiệu quả khác, chính là dùng một miếng vải sạch thấm qua ḷng trắng trứng để lau bề mặt đồ da. Làm như vật sẽ tẩy sạch được vết bẩn, đồng thời giúp bề mặt da sáng bóng trở lại.
7. Vỏ chuối
Phần vỏ chuối c̣n lại sau khi ăn, bạn có thể dùng mặt trên trong để lau nhẹ nhàng lên giày, túi da. Sau đó, bạn chỉ cần lau lại bằng khăn sạch, lập tức đồ da sẽ sáng bóng.
8. Baking soda
(Ảnh: Pixabay)
Chỉ cần ḥa baking soda với nước là bạn đă có một dung dịch nước rửa nồi thép không gỉ, nồi sắt… hữu hiệu. Baking soda đặc biệt c̣n có hiệu quả rất tốt trong việc tẩy mùi trong ḷ nướng, máy hút khói, ḷ vi sóng…
9. Giấm
(Ảnh: Shutterstock)
Ấm đun nước dùng lâu ngày sẽ đóng một lớp cặn ở dưới đáy. Chúng ta có thể đổ giấm ăn vào ấm ngâm một lúc, sau đó lắc ấm rồi rửa lại bằng nước sạch là được. Chúng ta cũng có thể đổ giấm vào ấm rồi nấu giấm sôi lên. Cách này có hiệu quả làm sạch tốt hơn, giúp phía bên trong ấm sẽ sạch sẽ như mới.
10. Cồn
Nếu bạn thấy sàn gỗ trong nhà hoặc kệ bếp bị trẻ vẽ nguệch ngoại lên đó, hăy lau bằng tăm bông tẩm cồn là có thể tẩy sạch đi được.
11. Muối
Phải làm sao nếu vô t́nh đánh đổ rượu vang lên quần áo, sô pha và thảm? Đừng dùng thuốc tẩy, hăy rải muối lên vết bẩn, 5 phút sau dùng nước lạnh lau đi cho đến khi vết bẩn biến mất.
12. Bột bắp
Nếu đánh đổ dầu mỡ lên thảm cũng đừng hoảng, chỉ cần rải bột bắp lên chỗ dầu mỡ đó và đợi 15 – 30 phút, sau đó dùng máy hút bụi hút đi là được.
13. Vỏ dưa leo
Bất cứ vết mực nào trên bàn làm việc hoặc trên tường đều có thể dùng vỏ dưa leo để tẩy. Ngoài ra, khi tắm cũng có thể dùng vỏ dưa leo lau lên mặt gương trong pḥng tắm để tránh bị mờ sương.
14. Yến mạch
Nếu tay bạn bị dính thứ ǵ đó rất khó rửa, hăy ḥa yến mạch với nước tạo thành hỗn hợp sánh rồi chà nhẹ nhàng lên tay, cuối cùng rửa lại bằng nước sạch.
15. Vỏ táo
Những ai ăn táo gọt bỏ vỏ cần chú ư, vỏ táo có thể dùng để tẩy vết dầu bám lâu năm trong nồi sắt, chỉ cần cho vỏ táo vào nồi và nấu trong nước khoảng 5 – 10 phút, phản ứng oxy hóa khử của axit α-hydroxy sẽ phân giải vết bẩn. Sau đó dùng khăn lau đi rồi rửa lại bằng nước sạch là được.
Thanh Xuân
florida80
06-06-2019, 19:15
Sưng phổi là ǵ?
Sưng phổi là sự nhiễm trùng lá phổi gây ra bởi vi trùng, virus, hay do bị nấm. Tương tự như cảm xoàng hay cúm nặng, sưng phổi thường xảy ra trong mùa lạnh và lây nhiễm khi người bệnh ho, nhảy mũi, hay đụng chạm những vật dụng, mặt phẳng, truyền vi khuẩn từ người nầy sang người khác.
Trong mùa cảm cúm hoành hành, bệnh sưng phổi thường đi kèm theo sau. Cũng chính những con vi khuẩn hay siêu vi làm cho ta ho, hay bị sốt sẽ gây ra nhiễm trùng buồng phổi. Sự viêm phổi là triệu chứng chủ yếu của bệnh sưng phổi, đi kèm với ho, sốt, và khó thở. Người bị cúm thường dễ bị sưng phổi, nhất là người lớn tuổi và trẻ em, hoặc người có hệ thống đề kháng yếu đuối. Tuy nhiên, người trẻ tuổi cũng có khi bi sưng phổi nặng, phải vào bệnh viện và mất mạng.
B́nh thường, lỗ mũi và đường khí quản có thể lọc ra những vi khuẩn độc. Nhưng một khi vi khuẩn đă vào đến bên trong phổi khi bị cảm cúm, hoặc khi sự đề kháng yếu đi th́ những túi chứa không khí gọi là alveoli có thể bị ngập nước hay ứ đọng mủ do bị viêm, nhiễm trùng.
Sưng phổi ở người lớn thường do vi trùng gây ra, có tên Streptococcus pneumoniae. Trong khi đó sưng phổi ở trẻ em thường là siêu vi, virus. Các loại virus gồm có influenza (virus gây ra cúm), rhinovirus (gây ra cảm xoàng), và respiratory syncytial virus (RSV) xảy ra thường xuyên trong trẻ em. Sưng phổi cũng có thể xảy ra khi hít thở những bụi hay hóa chất ô nhiễm, hoặc khi nước dịch hay thức ăn từ bao tử chạy ngược vào phổi.
Các triệu chứng của sưng phổi
Thường thường những ca sưng phổi v́ virus triệu chứng nhẹ hơn là sưng phổi v́ vi trùng nhưng một khi bị nặng th́ triệu chứng hai bên khó phân biệt.
1. Ho khan hay ho có đờm. Sưng phổi v́ vi trùng thường có đờm đặc quánh. Ngược lại sưng phổi v́ siêu vi thường không có đờm, ít đờm hay đờm lỏng hơn.
2. Sốt thường đi đôi với sưng phổi. Tuy nhiên cho dù không bị sốt không có nghĩa là không bị sưng phổi.
3. Bị nóng lạnh luân phiên thường đi kèm với t́nh trạng vi khuẩn đă nhiễm vào máu, có thể đi dến t́nh trạng nhiễm trùng máu.
4. Khó thở. Khi bị nhiễm trùng phổi, hơi thở không sâu và thường phải thở dồn dập để cân bằng lượng oxygen trong máu. Người già có khi cần đến b́nh dưỡng trí oxygen để trợ thở. Trẻ em thiếu dưỡng khi có thể làm cho môi miệng hay móng tay bị thâm tím.
5. Đau ngực. Khi phải thở nhiều và dồn dập có thể làm cho bắp thịt ngực bị mỏi và đau. Nhưng nếu cơn đau rất nặng như bị dao đâm thường là do sự nhiễm trùng đă tr ở nặng và lan tràn ra khắp cơ thể. Có khi là bị đột quỵ tim, xảy ra khi bị nhiễm trùng máu.
6. Đổ mồ hôi. Khi cơ thể đang chống lại nhiễm trùng, có thể làm đổ mồ hôi, da bị ướt đẫm. Nhưng nếu mồ hôi tuôn không ngừng th́ có thể bị nhiễm trùng máu, t́nh trạng rất nguy kịch.
7.Bị chóng mặt, bất tỉnh. Đây là một triệu chứng khác biểu hiệu cho nhiễm trùng máu, khi mà áp suất máu bị tuột giảm, hoặc đi tiểu rất ít do máu cung cấp cho trái thận không đủ.
Nên hay không nên uống thuốc trụ sinh?
Một khi đi khám, bác sĩ có thể phải cho thử đờm, chụp h́nh phổi hay thử máu để phân biệt giữa hai nguyên do sưng phổi. Nếu bị sưng phổi v́ virus th́ không cần thuốc trụ sinh bởi v́ trụ sinh không có hiệu nghiệm với virus. Thuốc trụ sinh c̣n có thể gây ra phản ứng phụ, và lạm dụng thuốc có thể bị lờn thuốc, khi bệnh nặng sẽ không có thuốc chữa.
Nếu bị sưng phổi v́ virus, chỉ cần thuốc Tylenol, thuốc ho và thuốc trợ giúp chống virus như Tamiflu chẳng hạn.
Đôi khi, người già hay trẻ em có thể chuyển từ sưng phổi do virus sang sưng phổi v́ vi trùng. Các trường hợp đặc biệt nầy sẽ cần đến thuốc trụ sinh nếu bác sĩ thấy cần.
Sưng phổi có thể gây ra tử vong
Hầu hết những bệnh nhân bị sưng phổi đều qua khỏi trong ṿng vài tuần, tuy nhiên một số nhỏ có thể bị tử vong. Mỗi năm ở Mỹ có khoảng một triệu người phải nhập viện v́ sưng phổi, và có khoảng 50,000 người mất mạng.
Những trường hợp sưng phổi nặng hay nhập viện quá trễ có thể đi đến tử vong. Buồng phổi, dễ hiểu là cơ phận chủ yếu cho việc trao đổi oxygen. Khi bị nhiễm trùng nặng, bị ngập nước hay ứ mủ sẽ không đủ cung ứng oxygen cho cơ thể. Đồng thời khi cơ thể đề kháng để diệt vi trùng cũng làm tuột áp suất máu và giảm lượng máu cung cấp cho nội tạng. Vừa mất dưỡng khí, vừa thiếu máu cung ứng, vừa bị nhiễm trùng máu sẽ làm cho trái tim, trái thận ngưng làm việc. Thận và gan là hai cơ phận kết nối để giải độc, hư thận sẽ làm hư gan, hệ quả dẫn đến tử vong.
Như đă nói, hầu hết mọi người có sức khoẻ trung b́nh đều có thể chống lại bệnh sưng phổi. Tuy nhiên bệnh sưng phổi rất nguy hiểm cho người già và em bé, những người bị yếu sức đề kháng như đă bị nhiễm HIV, bị ung thư, hoặc bị các bệnh kinh niên. Tuy nhiên bệnh sưng phổi có thể làm mất mạng bất cứ ai, trẻ hay già, nếu không điều trị kịp thời.
Để tránh bị sưng phổi, trước tiên là nên đề pḥng tránh bệnh. Nên giữ vệ sinh thường xuyên, đơn giản nhất là rửa tay và tránh xa những người đang ho hay bị nhảy mũi. Nên, chích ngừa cúm theo đúng lời khuyên của bác sĩ.
Một khi đă có triệu chứng bị sưng phổi th́ nên uống nước nhiều và nghỉ ngơi, và, nhất là không nên tự chữa, xin thuốc trụ sinh của bạn bè để uống, mong sẽ qua khỏi. Nên t́m gặp bác sĩ nếu triệu chứng không thuyên giảm trong ṿng từ 3 đến 5 ngày.
BS. Hồ Ngọc Minh
florida80
06-06-2019, 19:17
Lịch Ngủ Để Phục Hồi Nội Tạng Cơ Thể
Ngủ đúng giờ giấc rất quan trọng nhưng đa số người Việt ḿnh nhất là các bạn trẻ th́ lại toàn làm ngược lại. Đi ngủ vào lúc 1,2 h sáng và thức dậy lúc 8,9 h sáng hôm sau. Rất phản khoa học.
Ngủ sớm không những là liều thuốc thần cho nhan sắc mà c̣n có ư nghĩa quan trọng đối với sức khỏe mỗi người. Các cơ quan trong cơ thể, đặc biệt là nội tạng rất cần một giấc ngủ sớm và sâu để phục hồi sau thời gian làm việc mệt mỏi.
Dưới đây là lịch ngủ gồm các giờ tương ứng với từng cơ quan bên trong, giúp bạn hiểu rơ tác dụng của việc ngủ đến sự phục hồi của nội tạng cơ thể:
Từ nửa đêm đến đến 4 giờ sáng: là thời điểm tụy tạo máu v́ thế phải ngủ sâu giấc, không nên thức khuya để quá tŕnh tạo máu diễn ra một cách thuận lợi.
Từ 3-5 giờ sáng: Đây là khoảng thời gian phổi thực hiện quá tŕnh đào thải chất độc có trong phổi ra khỏi cơ thể. Biểu hiện quá tŕnh đào thải độc tố của phổi trong thời gian này là những cơn ho dữ dội nếu bạn đang mắc các bệnh về đường hô hấp, bởi hoạt động bài độc đă chạy đến phổi.
Từ 5-7 giờ sáng: Mỗi người có một thời gian thức dậy khác nhau, nhưng trong khoảng thời gian từ 5-7 giờ sáng các bạn nên dành cho việc đi toilet, để đào thải chất độc chứa trong ruột già ra khỏi cơ thể.
Nếu đại tràng không được bài độc và hồi phục tốt, độc tố sẽ tích tụ lại trong cơ thể. Đến một lúc nào đó bạn sẽ bị mọc mụn, xuất hiện các nốt thâm, và thậm chí tăng nguy cơ bị ung thư trực tràng. V́ thế, cố gắng đi đại tiện trong thời gian này, càng để muộn th́ độc tích nhiễm càng nhiều.
Từ 7-9 giờ sáng: Lúc này ruột non hấp thụ chất dinh dưỡng nhiều nhất, cho nên cần phải ăn sáng đầy đủ, nên ăn những loại thức ăn tốt cho dạ dày như táo, củ cải,… Dạ dày là cơ quan tiêu hóa chính, là nơi dự trữ, vận chuyển và tiêu hóa thức ăn. V́ thế vào thời điểm này bạn có thể ngồi xổm và tập luyện thở bụng. Tập đều đặn hàng ngày giúp kích thích tuần hoàn máu dạ dày, kích thích thay đổi tế bào mới, tăng hiệu quả tiêu hóa cho dạ dày.
Những lưu ư để có giấc ngủ sớm và sâu:
- Tắm nước ấm trước khi ngủ, ăn các thực phẩm giúp ngủ ngon như hồ đào, hoặc uống 1 ly sữa ấm.
- Một số động tác yoga có thể hỗ trợ giấc ngủ.
- Trước khi ngủ, mát xa một số huyệt ở đầu và chân cũng có tác dụng giúp ngủ ngon hơn.
- Khi ngủ nhất định phải tắt đèn, bởi ánh sáng đèn sẽ khiến năo bộ bị kích thích, làm bạn khó ngủ hơn.
- Giữ cho đầu óc thoải mái, tránh suy nghĩ về những công việc hoặc các rắc rối trong cuộc sống. Có thể nghe một bản nhạc nhẹ để dễ dàng ngủ hơn.
- Từ 22 giờ đến 2 giờ sáng không chỉ là quăng thời gian cơ thể bài độc tốt nhất, mà c̣n là quăng thời gian dưỡng da tuyệt nhất. Bởi vậy. nếu bạn muốn có 1 cơ thể khoẻ mạnh và làn da sáng đẹp việc ngủ sớm là vô cùng quan trọng.
Nếu muốn có một sức khỏe tốt, bạn hăy dành thời gian để chăm sóc và tuân thủ đúng lịch ngủ để phục hồi nội tạng cơ thể một cách hợp lí.
Sưu tầm
florida80
06-06-2019, 19:23
10 Công Nghệ Y Tế Đáng Chú Ư Nhất Năm 2015
Năm 2015 đang dần khép lại với những tiến bộ vượt bậc về công nghệ trong ngành y tế, từ hệ thống mô phỏng phẫu thuật như thật đến rô-bốt nano.
1. Rô-bốt nano hoạt động trong mạch máu
Tương lai của những robot tí hon có thể hoạt động như những bạch cầu, tiêu diệt vi khuẩn và các mầm bệnh khác đang rất gần.
Những robot siêu nhỏ này có đầy đủ những tính năng của 1 rô-bốt nhờ bộ cảm biến và hệ thống động cơ có thể đưa các thuốc hóa trị vào thẳng mạch máu, giúp tăng hiệu quả của thuốc lên tới cả ngàn lần và không gây tác dụng phụ so với cách sử dụng thuốc thông thường hiện nay.
Những rô-bốt Microbivore, Respirocyte, Clottocyte… hứa hẹn sẽ không chỉ tiêu diệt vi khuẩn mà c̣n vận chuyển ôxy, tạo cục máu đông cho các vết thương và sửa chữa tế bào.
2. Ghép đầu và truyền ư nghĩ
Nhà nghiên cứu độc lập Tim Busbice đă thiết lập bản đồ năo bộ của loài giun tṛn C. Elegans. Đây là loài vật đầu tiên được giải mă tŕnh tự gen và được lập bản đồ toàn bộ năo.
Loài vật lưỡng tính này có 959 tế bào và bản đồ của con giun này gồm một mạng lưới các tế bào thần kinh với 302 nơ-ron kết nối với các khớp thần kinh - và liên kết với 95 cơ của con giun qua 1.410 nút giao cắt.
Toàn bộ bản đồ này đă được sao lưu dưới dạng kỹ thuật số với h́nh ảnh là các ṿng cơ đan xen nhau.
C̣n TS. Sergio Canavero đă tuyên bố trên tờ New Scientist rằng sẽ thực hiện ca mổ ghép đầu người trong 2 năm bởi ông tin rằng hoàn toàn có thể làm việc này.
3. Tương tác trong bệnh viện
Công ty NXT Health đă thiết kế 1 buồng bệnh có khả năng tương tác cao, không chỉ giữa bệnh nhân với bác sĩ mà c̣n với người thân, thầy thuốc… Điều này sẽ giúp loại bỏ những máy móc và hoạt động đang ngày càng nhiều trong các bệnh viện hiện đại
Buồng bệnh này sẽ gồm một hệ thống mô-đun có khả năng hoán đổi vai tṛ đồng thời ứng dụng công nghệ cảm ứng để người bệnh thấy thoải mái nhất.
Bệnh viện Stanford hay Bệnh viện Ottawa là những ví dụ thực tế. Và các công ty như Calico vừa được Google thành lập mới đây sẽ nỗ lực để đạt được những mục tiêu này.
4. Hệ thống mô phỏng phẫu thuật
Viện Ung thư Roswell Park đang nhanh chóng trở thành một trong những cơ sở đi đầu trong đào tạo ngoại khoa, một phần lớn là nhờ sự hợp tác sáng tạo giữa Trường Công nghệ và Khoa học ứng dụng, Đại học Buffalo và Trung tâm Người máy phẫu thuật của RPCI. Các thủ thuật ngoại khoa luôn đ̣i hỏi nhiều năm đào tạo và cho măi đến gần đây việc đào tạo vẫn được thực hiện trong môi trường đời thực.
RoSS - tên viết tắt của Robotic Surgery Simulator (thiết bị mô phỏng phẫu thuật), do Viện Ung thư Roswell Park (Mỹ) kết hợp với trường ĐH Buffalo thực hiện, hứa hẹn sẽ tạo ra bước ngoặt trong học tập của các phẫu thuật viên. Theo đó, các sinh viên y khoa sẽ có cơ hội thử nghiệm và phạm sai lầm khi thực hiện các ca mổ như thật trong một môi trường mô phỏng.
5. H́nh ảnh nổi 3 chiều giúp hạn chế tiếp xúc nguồn bệnh
Thay v́ chạm vào bàn phím, tay chúng ta sẽ chạm vào h́nh ảnh nổi 3 chiều và hoàn toàn có thể cảm nhận được nó. Đó chính là công nghệ holographic.
Công nghệ này hiện c̣n rất non trẻ và có ư kiến cho rằng việc chạm vào h́nh ảnh này là không tự nhiên nhưng thực sự nó rất có triển vọng, giúp hạn chế tối đa sự tiếp xúc với nguồn lây – bàn phím được xem là một trong những vật dụng có nhiều vi trùng nhất.
Nếu bạn hứng thú với bàn phím ảo này, bạn có thể mua trên Amazon.
Một ứng dụng khác cho h́nh ảnh nổi ba chiều này giúp bác sĩ có thể quan sát đầy đủ các chi tiết của 1 ca phẫu thuật.
6. Giấy chuyển viện được số hoá
Thay v́ sử dụng hàng chục tờ giấy cho mỗi bệnh nhân khi chuyển viện, ứng dụng ReferralMD (Physician Referral Management Platform In the Cloud) sẽ giúp các cơ sở y tế chỉ cần sử dụng 1 cú click. Đó là nhờ công nghệ số hoá giấy tờ bệnh viện, giúp các cơ sở y tế có thể quản lư hàng triệu bệnh nhân, từ đó cung cấp dịch vụ y tế và phương pháp điều trị phù hợp dù bệnh nhân đến bệnh viện khác, không tái khám…
7. Xét nghiệm với lượng máu cực ít
Công ty Theranos đă tạo ra những bộ xét nghiệm chỉ sử dụng lượng máu bằng 1/1.000 lượng máu cần lấy thông thường mỗi khi làm xét nghiệm.
Công nghệ này không chỉ mang lại ích lợi cho bệnh nhân mà c̣n giúp giảm chi phí xét nghiệm. Ví dụ: Khi kiểm tra công thức máu, xét nghiệm mới này sẽ chủ yếu xem ba loại tế bào chính trong máu - hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu thay cho việc kiểm tra toàn bộ các thành phần trong máu.
8. Kỹ thuật “Trẻ có 3 bố mẹ đẻ”
Thủ thuật “em bé ba bố mẹ” có tên khoa học là chuyển AND ti thể (đứa trẻ sinh ra với trứng, tinh trùng và AND ti thể của người thứ 3). Phương pháp này giúp loại trừ nhiều bệnh có thể gây chết người như suy tim, suy gan và điếc.
Trên thực tế, đă có 2 ca ghép AND ti thể thành công vào cuối những năm 90 của thế kỷ 20. Tuy nhiên, công nghệ này được tôn vinh trong năm 2015 là bởi tiềm năng của nó đă được công nhận. Đó là giảm các bệnh liên quan đến gien và giúp những cặp vợ chồng có thể thụ thai những đứa con mà nếu để b́nh thường họ sẽ không bao giờ có được.
Mặc dù có nhiều câu hỏi về đạo đức và luân lư quanh sự phê chuẩn gần đây của Anh đối với thủ thuật này, song ư nghĩa tiềm tàng cho các thế hệ tương lai là vô tận.
9. Sử dụng tế bào gốc trong phẫu thuật
Thay v́ bơm mỡ, bơm silicon để nâng ngực, phẫu thuật các dị tật vùng mặt, phục hồi khuyết mô do ung thư… các kỹ thuật viên sẽ sử dụng tế bào gốc.
Triển vọng này xuất phát từ một nghiên cứu của Trường đại học Copenhagen khi các nhà khoa học thực hiện ca nâng ngực bằng cách cấy tế bào mỡ tăng cường tế bào gốc. Kết quả cho thấy đă giữ được 81% thể tích ban đầu trong suốt 4 tháng, so với chỉ giữ được 16% thể tích ngực khi sử dụng bơm mỡ đơn thuần
10. Điều khiển chân tay giả bằng ư nghĩ
Có lẽ màn tŕnh diễn ấn tượng nhất của phát kiến mới trong công nghệ y tế 2015 chính là h́nh ảnh Les Baugh (Mỹ) điều khiển cánh tay giả chỉ bằng ư nghĩ của ḿnh.
Với nghiên cứu này, các nhà khoa học Mỹ đang chạm đến 1 công nghệ “đọc” và gửi các tín hiệu của năo bộ tới các chi giả.
Hiện Pḥng Thí nghiệm vật lư ứng dụng Johns Hopkins (Mỹ) đang chế tạo chân tay giả điều khiển tự nhiên.
Nhân Hà
Tổng hợp
at 1:10 PM No comments:
florida80
06-06-2019, 19:24
7 Quy Luật Ư Nghĩa Của Cuộc Đời
Vạn vật trong tự nhiên đều vận hành theo quy luật. Con người cũng vậy, dù chúng ta là ai, nam hay nữ, già hay trẻ, giàu hay nghèo… chúng ta vẫn sống theo các quy luật của cuộc đời. Bạn sẽ nghiệm ra được điều ư nghĩa ǵ với cuộc sống của ḿnh từ 7 quy luật dưới đây:
1.Luật Hấp Dẫn: Những tính cách giống nhau sẽ thu hút và t́m đến với nhau để đoàn kết nâng đỡ nhau cùng làm đẹp cuộc đời.
2.Luật Thử Thách: Hăy tin những khó khăn, nghịch cảnh là những thử thách giúp ḿnh trở nên mạnh mẽ, khôn ngoan hơn.
3.Luật Tương Đối: Không có ǵ là hoàn mỹ. Hăy chấp nhận sự khiếm khuyết như là một phần của cuộc đời. Hăy cảm thông, đừng đ̣i hỏi quá sức ở ḿnh và người khác.
4.Luật Bù Trừ: Hễ được cái này th́ sẽ mất cái khác. Không nên chỉ nh́n mặt ngoài mà cho rằng người khác may mắn hơn ta.
5.Luật Tha Thứ: Nếu ḿnh rộng lượng, bao dung với người khác, ḿnh sẽ được thông cảm, tha thứ khi chính ḿnh làm lỗi.
6.Luật Sống Vui: Nếu muốn sống vui, hăy tích cực và làm những ǵ ḿnh cần ngày hôm nay. Hăy hưởng thụ cuộc sống ngay phút giây này. Đừng đợi khi có cái này, xong cái kia… mới cho phép ḿnh hạnh phúc.
7.Luật Tuần Hoàn: Đời người là một chuỗi tuần hoàn gồm những giai đoạn vui buồn kế tiếp nhau. Sẽ không ai hạnh phúc măi mà cũng không có ai phải đau khổ măi.
Các quy luật không dành riêng cho ai. Khi chúng ta thấu hiểu quy luật cuộc đời, ta sẽ không thấy ḿnh là nạn nhân nữa. Chúng ta sẽ không c̣n thất vọng nhiều nữa. Chỉ cần ta hiểu nó, và xử sự thuận theo nó, cuộc sống sẽ dễ dàng tự tại hơn rất nhiều. Vậy nên, dù mọi điều tốt xấu đến với ta như thế nào, hăy an nhiên trải nghiệm nó để biết ḿnh sẽ vững vàng hơn bạn nhé!
DeltaViet Education
florida80
06-06-2019, 19:25
Hăy Sống Với Ḷng Biết Ơn - Đào Văn B́nh
Hăy biết ơn Mặt Trời đă cho ta sự sống.
Hăy biết ơn từng vạt nắng đang lung linh nhảy múa trong vườn để ta cảm nghiệm được sự ấm áp của thiên nhiên.
Hăy biết ơn Mặt Trăng kia đă cho ta bao đêm dài thơ mộng mà qua đó bao bài hát, bài thơ trữ t́nh nảy nở.
Hăy biết ơn từng con suối nhỏ để cho ta nghe được tiếng thủ thỉ của núi rừng.
Hăy biết ơn từng cơn gió nhẹ làm ḷng ta tươi mát.
Hăy tạ ơn biển đă cho ta nguồn dinh dưỡng, từng chuyến viễn du đầy thi vị và những cuộc phiêu lưu mạo hiểm làm phong phú hóa t́nh cảm con người.
Hăy biết ơn cả tiếng chim ca v́ đó là tiếng nhạc của Trời.
Hăy tạ ơn cả những con sông đang ôm ấp những bờ kênh thửa ruộng, cho phù sa tuôn tràn màu mỡ, cho lúa tốt trổ bông, cho tôm cá đầy đồng, cho xóm làng tụ hội, cho chợ búa mọc lên, cho thương buôn trên bến dưới thuyền, cho giao thông thuận tiện, cho mạch sống làng quê ngày thêm phong phú.
Hăy biết ơn từng bài ca dao, từng tiếng chuông chùa êm ả để thấy hồn dân tộc vẫn c̣n năm sâu trong tâm khảm.
Hăy tạ ơn tiếng ru của mẹ để con biết rằng ṿng tay đó chính là Thiên Đường.
Hăy cám ơn mẹ già:
Cho dù áo rách sởn vai,
Cơm ăn bát vơi bát đầy
mà vẫn kiên tŕ nuôi con cho đến ngày khôn lớn.
Hăy cám ơn các bậc Thầy v́ những vị đó đă khai mở trí tuệ cho ta “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”.
Hăy tạ ơn đời.
Hăy cám ơn cả những người đă dối gạt ta để ta hiểu được thế nào là ḷng trung tín.
Hăy cám ơn cả người xỉ vả, chụp mũ, bôi lọ, đánh phá ta để ta có dịp huân tập hạnh nhẫn nhục và hiểu được thế nào là sự tha thứ.
Hăy biết ơn những ǵ gọi là bạo lực v́ qua đó ta liễu ngộ đước chân lư vĩnh cửu của t́nh thương.
Hăy biết ơn cả những thiên tai, thảm họa để cho thấy cuộc sống này qúy giá.
Hăy tạ ơn những người đă nằm xuống để cho ta được sống.
Hăy biết ơn người chiến sĩ đang ngày đêm canh gác, xả thân nơi chiến địa, biển đảo để ta được sống yên b́nh, mưu cầu hạnh phúc.
Hăy cám ơn sự vấp ngă v́ qua đó ta trưởng thành.
Hăy biết ơn cả những người thợ v́ họ là những vị thần sáng tạo.
Hăy tạ ơn cả những đang phục vụ ta, những người đang làm những nghề nghèo hèn nhất v́ không có họ ta phải chân lấm tay bùn.
Hăy cám ơn người nông phu đă:
Vài ngàn năm đứng trên đất cày
Minh đồng da sắt không thay màu (Phạm Duy)
để dân tộc này có chén cơm hạt gạo.
và cũng:
Dă ơn cái cối cái chày.
Đêm khuya giă gạo có mày có tao (Ca Dao)
Hăy biết ơn cả tiếng gà gáy trong những buổi trưa hè, tiếng vơng đưa kẽo kẹt, tiếng sáo diều ngân, tiếng trẻ nói bí bô, tiếng con sáo hót, tiếng ai hát đúm, hát dân ca, hát văn, hát ru, hát ḥ quan họ để thấy hồn Việt Nam thiêng liêng, bất tử.
Hăy cám ơn cây Đa đă cho ta bóng mát, là nơi dừng chân trên con đường làng dài mệt mỏi.
Hăy cám ơn cả cái Đ́nh để xóm làng mở hội, văn hóa lưu truyền, gái trai ḥ hẹn.
Hăy cám ơn cả cái Miếu v́ qua đó ta thấy các tiên hiền, liệt sĩ, danh nhân vẫn c̣n ở với chúng ta.
Hăy cám ơn mái Chùa đă đứng đó qua vài ngàn năm để lưu giữ hồn dân tộc.
Hăy cám ơn cả những chuyện thần tiên “Tấm Cám” để con trẻ hay ăn chóng lớn, người già quên đi bao nỗi nhọc và gái trai nuôi bao mộng đẹp.
Hăy cám ơn cả chiếc nón đă che mưa nắng cho cả dân tộc. Thuơng thay “chiếc nón bài thơ” đă lưu giữ hồn thi ca của dân tộc mà bây giờ vẫn c̣n đây:
Qua đ́nh ngả nón trông đ́nh,
Đ́nh bao nhiêu ngói thương ḿnh bấy nhiêu (Ca dao)
Hăy biết ơn tất cả dù là một hạt mưa, hạt cát, hạt muối, bó rau, miếng khoai, miếng cà, miếng sắn, con tôm, con tép...
Hăy biết ơn và tạ ơn tất cả.
Ḷng biết ơn là ḷng Từ Bi là bài Kinh Sám Hối sâu xa và mầu nhiệm.
Kẻ sống với ḷng biết ơn chính là kẻ sống với Chân Hạnh Phúc và là kẻ có tâm hồn cao thượng nhất.
Đào Văn B́nh
(California Tháng 11, 2008)
at 12:18 AM
florida80
06-06-2019, 19:26
Có Một Loại Tổn Thương Được Gọi Là "Chăm Chút Từng Ly Từng Tí"
Cha mẹ yêu thương và bảo vệ con cái, v́ con cái mà cam tâm t́nh nguyện dốc hết tất cả sức lực của ḿnh, chăm chút từng li từng tí. Tuy vậy, kiểu yêu thương này có phải là t́nh yêu thương thực sự hay không? Câu chuyện thật đáng để mọi người suy ngẫm sâu xa!
Vào mùa thu năm nọ, bầy thiên nga từ phương bắc xa xôi bay tới một ḥn đảo nhỏ và dừng chân lấy sức để bay tiếp về phương nam sinh sống qua mùa đông.
Trên ḥn đảo nhỏ ấy có hai vợ chồng ông lăo đánh cá, họ nh́n thấy bầy thiên nga bay tới đảo nên vô cùng mừng rỡ. Họ bèn đem rất nhiều thức ăn và những con cá bé mà họ bắt được cho chúng ăn.
Mùa đông đến, bầy thiên nga được vợ chồng ông lăo cho thức ăn nên không tiếp tục bay về phương nam tránh rét nữa. Khi mặt hồ đóng băng, chúng không có nơi trú ẩn và thức ăn để sinh sống. Vợ chồng ông lăo tốt bụng lại đưa chúng vào ngôi nhà tranh của ḿnh để tránh rét và tiếp tục cung cấp thức ăn cho chúng măi cho đến mùa xuân năm sau, khi băng trên mặt hồ đă tan. Hết năm này qua năm khác, hai vợ chồng ông lăo tốt bụng lại đón bầy thiên nga vào nhà ở và cung cấp cho chúng thức ăn.
Cuối cùng hai vợ chồng ông lăo đă già yếu và rời khỏi đảo, bầy thiên nga cũng biến mất. Không phải là chúng đă bay về phương nam tránh rét, mà v́ vào năm sau đó mặt hồ đóng băng, bầy thiên nga không t́m được thức ăn để sinh sống nên chúng đă chết.
Trong câu chuyện trên, vợ chồng người ngư dân yêu thương bầy thiên nga giống như con cái của họ vậy. Họ t́m mọi cách che chở, bảo vệ chúng, cho ăn cho ở, hơn nữa, ngày qua ngày, năm qua năm đem ḷng yêu thương mà bao bọc cho chúng. Mọi người không khỏi cảm thán rằng: “Vợ chồng người ngư dân thật tốt bụng, bầy thiên nga thật may mắn!” Thế nhưng kết cục bi thảm của bầy thiên nga lại cho chúng ta thấy rằng việc hai vợ chồng người ngư dân yêu thương đùm bọc quá mức đă khiến chúng sa vào cuộc sống an nhàn thụ động. Từ đó dưỡng thành tính ỷ lại, đánh mất bản năng sinh tồn, không c̣n cách nào để thích ứng hoàn cảnh và cuối cùng bị sự biến hóa của hoàn cảnh giết chết.
Trong cuộc sống hiện đại của chúng ta, có bao nhiêu bậc cha mẹ v́ để con cái có cuộc sống sung túc an nhàn mà làm thay cho con cái, khiến chúng dưỡng thành một thói quen thụ động với cuộc sống? Tất nhiên ai cũng cần t́nh yêu, đặc biệt là con cái lại càng cần được cha mẹ yêu thương chăm sóc và bảo vệ. Nhưng t́nh yêu dạng bao bọc mọi lúc mọi nơi, t́nh yêu theo kiểu sắp đặt an bài sẵn cho cuộc đời của con cái… th́ nó đă không c̣n là t́nh yêu thương nữa rồi, thậm chí có thể trở thành một con dao “nhẹ nhàng” gây tổn hại khôn lường!
Theo Đại Kỷ Nguyên / Mai Trà biên dịch
florida80
06-06-2019, 19:26
Nội Quy Ăn Nhậu
Ông bà ta thường nói: “Nam vô tửu như kỳ vô phong”. V́ vậy, nhậu có ảnh hưởng đến mọi tầng lớp và có ảnh hưởng rất lớn đến quan hệ xă hội. Để nhậu không đi chệch hướng, cần phải có nội quy cụ thể. Sau đây là một số điều quy định:
Điều 1: Phải trung thực
Muốn gia nhập hội những người ăn nhậu th́ tuyệt đối không xin xỏ, trộm cắp tiền, vàng của vợ (có thể trích vài chục phần trăm lương để lập quỹ riêng)
Điều 2: Không phân biệt tuổi tác
Hội không phân biệt tuổi tác, chức vụ, cấp bậc, giới tính. Miễn sao có tửu lượng cao từ 3 xị trở lên là được.
Điều 3: Tự lực cánh sinh
Để giữ ǵn sức khỏe, tất cả hội viên không được uống rượu bọt đường, rượu cồn, rượu dỏm... chỉ nên uống rượu gạo, rượu nếp, rượu tắc kè, rượu rắn...
Điều 4: An toàn trên xa lộ
Tất cả hội viên tuyệt đối không được lái xe các loại v́ khi xỉn không làm chủ tốc độ dễ gây tai nạn (tốt nhất nên đi xe ôm hoặc quá giang người khác)
Điều 5: Tránh gây phiền phức
Khi đi nhậu không nên mang theo vợ con, nếu có em gái vợ chở theo th́ càng tốt
Điều 6: Tôn trọng luật lệ
Trong bàn nhậu phải tuyệt đối tôn trọng chủ xị, không được kê táng, không phá mồi, không ăn gian, nói tục, chửi thề...
Điều 7: Tập trung cao độ
Trong bàn nhậu, để tránh mất đoàn kết nội bộ, tất cả hội viên không được phép rù ŕ riêng tư (v́ dễ gây hiểu lầm), không được cầm nhầm hộp quẹt, không mang lộn dép, đặc biệt tay chân phải giữ trật tự nếu trong bàn có phái đẹp.
Điều 8. Uy tín tràn trề
Không được phép xin đi “tiêu” lúc chưa thanh toán tiền, để bạn nhậu ngồi đồng là mất đạo đức (nếu có đi phải để lại phần hùn)
Điều 9. Im lặng là vàng
Nhậu xong về nhà, tuyệt đối không được đánh đập, chửi bới vợ con. Nếu bị vợ đánh hoặc bị cằn nhằn th́ chỉ được im lặng và đi kiếm chỗ ngủ (nhưng cố không được ngủ lộn nhà, lộn giường).
Điều 10. Đoàn kết nội bộ
Mọi thành viên của hội phải có nghĩa vụ thăm nuôi bạn bè khi có tai nạn do say xỉn gây ra hay do vợ đánh phải nằm viện cũng như gây rối trật tự bị công an bắt.
Điều 11. Không vi phạm pháp luật
Không được uống bia ôm, rượu ôm v́ rất lăng phí và có ngày bị công an bắt (nếu lỡ vô, khi công an đến phải t́m đường... trốn trước)
Thay mặt Ban thường trực hội nhậu.
Sưu tầm
at 8:57 PM
florida80
06-06-2019, 19:27
Khi Năo Bộ “Làm Biếng” - BS Lương Lễ Hoàng
Cần ǵ phải là trí thức khoa bảng cho cao siêu, thử hỏi ngày nay mấy ai không phải suy nghĩ trong cuộc tất bật v́ chạy ăn, chạy trường, chạy điểm, chạy đủ thứ? Đă vậy lắm khi phải phán đoán chính xác, phải quyết định cấp kỳ một vấn đề nào đó. Có thực mới vực được đạo. Khỏi dông dài cũng hiểu, tế bào năo dễ ǵ hoạt động với hiệu quả như mong muốn nếu thiếu dưỡng khí, thiếu dưỡng chất, thừa phế phẩm hay ngộp thở v́ độc chất.
Chuyên gia khoa thần kinh đă chứng minh khả năng tư duy tùy thuộc vào tỉ lệ giữa dưỡng chất và tạp chất trong hệ thần kinh. Từ nhận thức đó, các nhà nghiên cứu đă tiếp cận lư do khiến năo bộ chỉ thích “làm biếng” v́ suy... dinh dưỡng:
- Thiếu chất béo của rau quả, như trong trái bơ, nên dẫn truyền thần kinh chạy lạc đường. Hậu quả là gia chủ quá chậm chạp khi cần phán đoán.
- Thiếu kali v́ ít khi ăn chuối nên dễ lo lắng đến độ mất ngủ khi gặp chuyện trục trặc dù chỉ là chuyện nhỏ.
- Ít khi có ly sữa đậu nành trước khi ngủ để tạo hưng phấn tiến tŕnh tổng hợp serotonin - nội tiết tố cần thiết cho giấc ngủ yên b́nh. Hậu quả là gia chủ mang công việc vào giấc ngủ nhưng lại khó tập trung trong buổi sáng hôm sau.
- Ít khi có các món cải, nhất là cải broccoli trên bàn ăn, nên đêm nào cũng gặp ác mộng hay mơ toàn chuyện căi vă với cấp trên, với đồng nghiệp...
- Hiếm khi có món bông cải, xào hay hấp kiểu nào cũng được, nên năo bộ mất tính nhạy bén khi cần quyết định việc cấp kỳ.
- Thiếu B6, loại sinh tố chống trầm uất, nên dễ buồn vô cớ dù không gặp trở ngại trong cuộc sống. Trong trường hợp này, cà tím là món nên thuốc nhờ tác dụng thư giăn thần kinh để gia chủ từ từ suy nghĩ, thay v́ nghĩ ngợi lung tung mà chẳng đến đâu.
- Cữ ngọt v́ sợ bệnh tiểu đường, dù chưa bệnh, mà không ngờ tụt đường huyết trong những ngày căng thẳng là lư do bào ṃn sức chịu đựng của hệ thần kinh.
- Không có thói quen ăn vặt với đậu phộng húng ĺu, hột điều rang muối trước khi thuyết tŕnh, hội thảo, nên không thể tận dụng tác dụng trung ḥa stress của kẽm trong cảnh dầu sôi lửa bỏng.
- Thiếu magiê trong mễ cốc, cá thu nên người dễ đổ quạu khi thường phải sống trong cảnh “trên đe dưới búa”.
- Không ưa khoai lang và cà chua nên dễ bi quan khi bắt đầu công việc mới.
- Thức dậy với cảm giác sợ ngày mới v́ cơ thể thiếu sinh tố C do xài hết trong giấc ngủ... trăn trở. Với số đối tượng này, nhất là người phải thức khuya dậy sớm, nên mạnh miệng với ớt chuông v́ ngoài sinh tố C, ớt này chứa nhiều hoạt chất vừa gây phấn khởi vừa kéo dài hoạt động của năo bộ.
Trong truyện “Tây Du kư”, hầu như chưa thấy lần nào Tôn Ngộ Không phải phân vân khi vung thiết bảng. Người cần động năo chắc chắn không mong ǵ hơn là có khả năng vận dụng trí óc nhẹ nhàng như tiên làm phép. Chuyện ǵ muốn xong cũng cần điều kiện. Thiếu ăn, năo chắc chắn khó vận động tới nơi. Nhưng chớ quên rằng không chỉ ăn được để năo đủ chất bổ mà c̣n phải ngủ được mới mong thành tiên. Ăn đúng món bổ năo nhưng ngủ không ngon giấc th́ nếu may mắn thành tiên th́ cao lắm chỉ là tiên... mắc đọa!
Bác sĩ Lương Lễ Hoàng
at 5:53 PM
florida80
06-06-2019, 19:29
Một Cốc Nước Sạch Chứa Tới... 10 Triệu Vi Khuẩn
Nước sạch mọi người đang dùng để ăn, uống hàng ngày rốt cuộc có thể không sạch như chúng ta nghĩ. Theo một nghiên cứu mới, nước máy dùng trong sinh hoạt hàng ngày của chúng ta chứa tới ... 10 triệu vi khuẩn.
Tuy nhiên, bạn không nên quá lo lắng, v́ toàn bộ số vi khuẩn "khủng" nói trên thực tế có thể cải thiện chất lượng nước của chúng ta.
Các nhà nghiên cứu đến từ Đại học Lunch (Thụy Điển) phát hiện, những vi trùng siêu nhỏ này sinh trưởng tại nhà máy xử lư nước và ở mặt trong các đường ống dẫn nước. Mặc dù vô hại nhưng theo thời gian, chúng có thể h́nh thành một lớp màng mỏng, bám dính ở bên trong các đường ống, gọi là "màng sinh học" (biofilm).
Khám phá mới cũng hé lộ sự đa dạng lớn về các loài vi khuẩn cư trú trong các đường ống nước và rằng, chúng đóng một vai tṛ quan trọng hơn phỏng đoán lâu nay.
"Một hệ sinh thái hoàn toàn chưa được biết đến trước đây đă tự lộ ḿnh trước chúng ta. Trước đây, chúng ta khó mà có thể nh́n thấy bất kỳ vi trùng nào, nhưng hiện nay, nhờ các kỹ thuật, chẳng hạn như giải tŕnh tự ADN quy mô lớn và phân tích tế bào theo ḍng chảy, chúng ta bất ngờ quan sát được 80.000 vi khuẩn trong mỗi ml nước uống.
Tất cả giống như từ trong bóng tối với một chiếc đèn pin, chúng ta hiện đă ở trong một căn pḥng thắp sáng đèn. Song đây chỉ là một căn pḥng. Có bao nhiêu căn pḥng trong ngôi nhà cũng là một câu hỏi thú vị", nhà nghiên cứu Catherine Paul giải thích.
Theo các chuyên gia, có ít nhất 2 ngàn loài vi khuẩn khác nhau trong nước sinh hoạt. Họ cũng khám phá ra mối liên hệ giữa thành phần cấu tạo của các vi khuẩn với chất lượng nước.
Nhóm nghiên cứu nghi ngờ có các vi khuẩn "tốt" giúp thanh lọc nước và giữ cho nước an toàn, tương tự như những ǵ xảy ra bên trong cơ thể chúng ta. Chẳng hạn như, đường ruột của chúng ta chứa đầy vi khuẩn và phần lớn thời gian khi chúng ta khỏe mạnh, chúng giúp chúng ta tiêu hóa thức ăn và chống lại bệnh tật.
Nhà nghiên cứu Catherine Paul lấy ví dụ về Sphingomonas - vi khuẩn chỉ được t́m thấy ở nước uống chất lượng cao. Loại vi khuẩn này có thể hấp thụ các vật liệu hữu cơ không mong muốn, chống chịu được clo và thậm chí loại bỏ các độc tố khác cũng như các dạng chất dẻo có thể cản đường chúng trong nước.
Các loại vi khuẩn khác cũng ám chỉ có thứ ǵ đó không tốt trong nước, vốn dẫn tới t́nh trạng han gỉ đường ống dẫn hoặc nồng độ clo giảm xuống.
Các nhà nghiên cứu hiện hy vọng, chúng ta rốt cuộc có thể kiểm soát được thành phần cấu tạo và chất lượng nước trong các nguồn cung cấp nước, để thúc đẩy sự phát triển của các vi khuẩn "tốt" tiềm tàng khả năng giúp thanh lọc nước thậm chí c̣n hiệu quả hơn hiện nay.
Tuấn Anh (theo Daily Mail)
at 4:03 PM
florida80
06-06-2019, 19:30
Miệng Luôn Tạo Khẩu Nghiệp, Phúc Báo Sớm Muộn Cũng Tiêu Tan
Có người nói: “Tôi không hề làm một việc xấu nào, sao có thể tổn hại đến phúc báo được?”. Kỳ thực bạn hăy nhớ rằng, tạo “khẩu nghiệp” cũng sẽ tổn hại đến phúc báo. Một người có mệnh tốt hay không thể nh́n xem người đó có nhiều “khẩu đức” hay không.
“Khẩu nghiệp” (nghiệp gây ra do lời nói từ miệng) là tội mà một người b́nh thường dễ phạm phải nhất. Số mệnh của một người tốt hay không, hăy nh́n xem người đó có nhiều “khẩu nghiệp” hay không là biết. V́ vậy, “khẩu nghiệp” rất quan trọng. Trong cuộc đời của một người, không phải ngày nào cũng làm chuyện thất đức, nhưng việc nói những lời thất đức, thiếu đức, khó nghe và không đứng đắn th́ có thể xảy ra mỗi ngày. Tích luỹ qua năm tháng, phúc báo sẽ v́ “khẩu nghiệp” mà chạy mất hết. Do đó, người nói chuyện không có “khẩu đức”, cả cuộc đời thường gập ghềnh, nhấp nhô, thậm chí rất thê lương.
Chuyện đời thực
Trong thị trấn nơi tôi sống có một người đàn ông hơn 30 tuổi, thuộc dạng khôi ngô tuấn tú nhưng đến giờ vẫn chỉ là một người vô công nhàn rỗi. Anh ta muốn làm việc nhưng không có việc để làm, muốn gây dựng sự nghiệp cũng không phải là điều dễ. Bạn học của anh, ai cũng đă tự lo cho cuộc sống của ḿnh. Riêng anh này th́ vợ con chưa có, sống như lang thang, ăn mặc nhếch nhác, có khi mấy ngày không rửa mặt, ai khuyên bảo ǵ cũng không nghe, thậm chí c̣n trừng mắt đáp trả.
Thật sự th́ anh ta không phải là người xấu, nhưng v́ sao lại như vậy? Sau khi quan sát cẩn thận, người ta phát hiện ra anh có rất nhiều “khẩu nghiệp”. Không hiểu nguyên nhân từ đâu, từ nhỏ anh đă bị lây nhiễm nhiều thói quen xấu. Trong cách nói chuyện, anh luôn quát mắng, không kính trọng đối với người lớn và Thần Phật. Mỗi khi uống rượu vào, anh nói năng c̣n lộn xộn lung tung hơn nhiều.
Anh này cũng từng mở một cửa hàng làm ăn nhưng công việc không thuận lợi, gia đ́nh thậm chí c̣n phải bán rất nhiều tài sản để trả nợ cho anh v́ làm ăn thua lỗ.
Miệng nói nhiều lời ti tiện, th́ mệnh cũng có nhiều ti tiện
Một người luôn gây “khẩu nghiệp” như vậy th́ phúc báo sớm muộn ǵ cũng chạy hết. Do miệng nói nhiều lời ti tiện nên số mệnh cũng gặp nhiều điều ti tiện. Chuyện hôn nhân của anh không thuận lợi, có thể có nhiều nguyên nhân, nhưng theo nhân quả mà xét th́ có thể v́ anh không có phúc báo nên việc ǵ cũng không được suôn sẻ. Các cô gái có phúc khí sẽ có được nhân duyên tốt, nên dĩ nhiên sẽ không thể kết hợp với anh ta.
Chuyện làm ăn không thuận lợi của anh cũng bởi v́ không có phúc báo. Người có phúc đức th́ mới có tiền của. Trong khi phúc báo của anh này bị tổn thất nhiều như vậy, làm sao có thể kiếm được tiền đây? Nếu anh ta không tỉnh ngộ sửa đổi th́ tương lai c̣n thê thảm hơn nhiều.
Phúc báo theo cái miệng mà chạy hết
Có nhiều người cũng giống anh bạn trên, bao nhiêu phúc báo cũng đều v́ cái miệng không tốt mà bị hao tổn hết. Có người nói: “Tôi không hề làm một việc xấu nào, sao có thể tổn hại đến phúc báo được?” Kỳ thực nên nhớ rằng, tạo “khẩu nghiệp” sẽ tổn hại rất lớn đến phúc báo.
Người xưa nói: “Ngôn do tâm sinh” (lời nói là do tâm mà sinh ra). Nếu miệng thường hay nói những lời không hay, không tốt, thị phi, nguyền rủa, … th́ phúc báo sẽ tổn thất rất nhanh. Nói lời không đúng hay không phải với người lớn tuổi cũng đều như thế.
Có nhiều phụ nữ hay phàn nàn về chồng, nói chồng không tốt thế này thế kia, rồi đem cả cha mẹ chồng, tổ tông nhà chồng ra mắng nhiếc v.v…, như vậy sẽ tạo “khẩu nghiệp” rất nặng và điều này chỉ khiến gia cảnh càng ngày càng đi xuống, nghèo khó. Vậy nên, mọi người nhất định phải chú ư vấn đề “khẩu nghiệp” này.
Oán trời trách đất cũng là cách làm tổn hại nhanh phúc báo
Người hay phàn nàn, không hài ḷng với số mệnh, ích kỷ và ganh ghét đố kỵ thường hay oán trời trách đất. Họ không trân quư những ǵ vốn có của bản thân nên mới cảm thấy bất b́nh, thông qua cái miệng mà suốt ngày ca cẩm. Đây cũng là một cách làm tổn hại phúc báo rất nhanh, cũng là một dấu hiệu của người bạc mệnh hiện tại hoặc sau này.
Miệng muốn nói lời hay, lời tốt th́ tâm phải tốt, phải đẹp
Miệng muốn nói lời hay ư đẹp th́ trong ḷng phải thực sự tốt, phải có hảo tâm, v́ vậy người đó sẽ phát ra từ trường tốt xung quanh ḿnh. Những thứ tốt đẹp sẽ t́m đến với người này và họ có phúc báo. Vậy hảo tâm là ǵ? Trước tiên cần biết đủ và biết cảm ơn. Biết đủ là một loại thành tựu. Những người tu hành họ luôn tự hài ḷng, đối với hoàn cảnh nào cũng chấp nhận, cũng thấy thỏa măn và biết ơn. Khi người ta biết đủ, biết thỏa măn, người ta sẽ không nói những lời không tốt hay phàn nàn v́ trong tâm họ đă b́nh an rồi.
Hăy lưu giữ “khẩu đức” cho ḿnh
Biết rơ về một người, không cần phải tận nói, hăy lưu lại cho người ta ba phần khoảng trống, đây cũng là lưu lại chút “khẩu đức” cho ḿnh.
Trách một người không cần phải tận trách, hăy lưu lại cho người ba phần khoảng trống, đây cũng là lưu được chút độ lượng cho ḿnh.
Có công không cần đ̣i hỏi tận cùng, hăy lưu lại cho người ba phần khoảng trống, đây cũng là lưu được chút khiêm nhường cho ḿnh.
Đúng lư cũng không cần đoạt tận, hăy lưu lại cho người ba phần khoảng trống, đây cũng là lưu được chút khoan dung cho ḿnh.
Tài năng đừng quá ngạo mạn, hăy lưu lại cho người ba phần khoảng trống, đây cũng là lưu chút nội hàm cho ḿnh.
Theo daikynguyenvn
at 3:37 PM
florida80
06-06-2019, 19:31
9 Tuyệt Chiêu Cầm Máu Nhanh Dành Cho “Người Yếu Tim”
Nếu chỉ bị đứt ngón tay trong khi nấu ăn th́ bạn chẳng cần làm ǵ máu cũng tự đông lại. Nhưng đó là ca nhẹ, đôi khi, một số t́nh thế nguy hiểm buộc bạn không thể ngồi chờ máu tự đông được.
Nếu chẳng may bị đứt tay trong lúc cắt thực phẩm hay do bất cẩn mà xung quanh bạn lại không có thuốc sát trùng hay dụng cụ cầm máu nào cả, th́ bạn phải làm sao? Theo một bài viết đăng trên Boldsky, các chuyên gia cho rằng 9 cách cầm máu dưới đây rất hữu ích mà ngay cả những người yếu tim, sợ máu cũng có thể làm được. Các bạn cùng tham khảo nha!
1. Bột cà phê
Bạn đắp trực tiếp bột cà phê lên vết thương để ngăn chặn t́nh trạng chảy máu. Bột cà phê có tác dụng làm se da và giúp cầm máu nhanh hơn.
2. Bột nghệ
Bạn đắp trực tiếp loại gia vị này lên vết thương, chúng sẽ ngăn ngừa t́nh trạng nhiễm trùng lây lan sang các khu vực xung quanh và cầm máu trong vài phút.
Bột nghệ giúp cầm máu và ngăn ngừa vết thương nhiễm trùng.
3. Túi trà
Nhúng một túi trà trong nước lạnh, đặt và nhấn nhẹ nhàng lên vết cắt hay vết thương hở trong hai phút. Cách này ngay lập tức có thể làm h́nh thành các cục máu đông.
4. Kem đánh răng
Đối với các vết cắt nhỏ, bạn có thể dùng kem đánh răng đắp trực tiếp lên vết thương. Kem đánh răng có tác dụng làm se (co da), ngăn ngừa chảy máy và làm liền vết thương nhanh chóng.
Kem đánh răng giúp se da, làm liền vết thương nhanh chóng.
5. Tinh bột ngô
Bạn có thể rắc tinh bột ngô lên các vết thương nhỏ. Bột ngô sẽ hấp thụ máu sắp tuôn ra, h́nh thành cục máu đông, qua đó có tác dụng cầm máu.
6. Mănh vỡ thủy tinh
Bạn đặt một mănh vỡ thủy tinh sạch lên vết thương hở và giữ nó trong vài phút. Bề mặt thủy tinh có tính electro âm, kích hoạt quá tŕnh đông máu. Tuy nhiên, cách này không được các bác sĩ khuyến khích lắm v́ bạn có thể lại tự làm ḿnh bị thương thêm.
Thủy tinh cũng giúp cầm máu, nhưng bạn phải cẩn thận nhé.
7. Đá lạnh
Bạn có thể chườm một cục nước đá lạnh lên vết thương hở nhỏ để cầm máu. Cục nước đá sẽ ngay lập tức h́nh thành các cục máu đông bằng cách thắt các tế bào da và các mô.
8. Muối
Rất nhiều người e sợ và cho rằng việc rắc muối lên vết thương hở đang chảy máu là vô cùng đau đớn. Tuy nhiên, loại gia vị này lại giúp cầm máu vô cùng hiệu quả. Muối hấp thụ máu và làm khô máu, đồng thời ngăn ngừa t́nh trạng nhiễm trùng.
9. Bột ớt
Bạn rắc bột ớt lên vết thương hở để cầm máu, cách này làm h́nh thành cục máu đông và giúp vết thương đóng lại nhanh hơn.
Lệ Thanh/ Nguồn Boldsky
at 2:12 PM
florida80
06-06-2019, 19:33
Bảy Tội Lỗi Xă Hội - Ts Nguyễn Văn Tuấn
Mahatma Gandhi là một chính khách vĩ đại, một nhà hiền triết của Ấn Độ, người được Liên hiệp quốc vinh danh thật sự (chứ không phải ông Hồ). Chẳng hiểu sao mỗi khi nghĩ về hiện t́nh của đất nước làm tôi nhớ đến Gandhi, người đă từng cảnh báo thế giới về cái mà ông gọi là Bảy Tội Lỗi Xă Hội (Seven Social Sins) mà ông viết ra từ năm 1925, đúng 90 năm trước:
1. Làm giàu mà không nhờ lao động (Wealth without work)
2. Hưởng lạc thú mà không có lương tâm (Pleasure without conscience)
3. Có kiến thức mà không có nhân cách (Knowledge without character)
4. Làm thương mại mà không có đạo đức (Business without morality/ethics)
5. Khoa học mà không có nhân văn (Science without humanity)
6. Có tín ngưỡng mà không thờ phượng (Worship without sacrifice)
7. Làm chính trị mà không có nguyên tắc (Politics without principles)
Chúng ta thử xem xét nhanh những tội lỗi này xem sao:
1. Làm giàu không nhờ lao động: Hiện nay, có một nhóm người làm giàu rất nhanh, không phải nhờ kinh doanh giỏi hay làm việc tốt, mà qua quan hệ và hậu duệ. Họ chỉ cần dùng mánh khoé để lôi kéo, "qui hoạch" nhân sự và thế là tạo ra tài sản. Một số th́ làm giàu nhờ quan hệ nên tiếp cận được và khai thác tài nguyên thiên nhiên. Một số khác th́ làm ra tiền nhờ vào lợi dụng thông tin trong để thao túng thị trường chứng khoán. Một số khác th́ làm giàu nhờ tham nhũng, chẳng cần tốn công lao động ǵ cả. Một vị tướng đă từng nói rằng "Làm cán bộ mấy năm mà trong nhà có vài ba trăm tỉ đồng, thậm chí cả ngàn tỉ đồng th́ lấy ở đâu ra nếu không tham nhũng. Có một đội ngũ giàu rất nhanh, cưỡi lên đầu nhân dân, c̣n kinh khủng hơn địa chủ, tư sản ngày xưa". Loại giàu nhanh mà không lao động này th́ không nhiều ở VN, nhưng v́ họ quá giàu nên có khả năng gây ảnh hưởng xấu đến đất nước.
2. Hưởng lạc thú mà không có lương tâm: Đây là những người ích kỉ, lúc nào cũng muốn hưởng lợi cho cá nhân mà không quan tâm đến phúc lợi của người khác. Đối với họ, câu hỏi đầu tiên là "Tôi làm cái này sẽ có lợi ǵ cho tôi, việc này có giúp tôi thăng tiến trong sự nghiệp, có làm cho tôi giàu thêm", và quyết định hành động của họ cũng dựa trên câu hỏi đó. Họ không quan tâm đến người khác, không cần biết đến văn hoá "to give and to take", không cần có trách nhiệm xă hội và chẳng biết đến hiến dâng là ǵ. Những người này rất nhiều ở VN.
3. Có kiến thức mà không có nhân cách: Có ít kiến thức đă là một thiệt tḥi, có khi là nguy hiểm, nhưng có nhiều kiến thức mà thiếu nhân cách th́ c̣n nguy hiểm hơn. Chỉ học cho nhiều để có kiến thức mà không cần quan tâm đến cái nội tâm, th́ chẳng khác ǵ đưa một chiếc xe hơi thể thao cho một thiếu niên. Điều này cũng xảy ra trong thế giới khoa bảng, nơi mà người ta thường quan tâm đến sản sinh ra tri thức mới nhưng ít khi nào để ư đến khía cạnh nhân văn của tri thức. Ở VN, có nhiều người đi học để tiếp thu kiến thức không phải v́ dấn thân xă hội, mà v́ muốn ăn trên ngồi trốc. Họ hám danh chứ không phải ham học.
4. Làm thương mại mà không có đạo đức: Ngay cả những nhà kinh tế học cổ điển cũng xem đạo đức là nền tảng của thành công trong kinh tế. Cách mà chúng ta đối xử với người khác trong tinh thần bác ái, phục vụ và cống hiến là nền tảng của kinh tế - xă hội. Nhưng ở VN hiện nay, các nhà quan sát cho rằng VN đang ở trong thời ḱ "chủ nghĩa tư bản man rợ, rừng rú", chứ không phải "chủ nghĩa tư bản văn minh." Đă có những ư tưởng kiểu như phải cách li người nghèo khỏi người giàu, và ư tưởng này được nhiều người ủng hộ. Sự ủng hộ đó cho thấy xă hội VN đă bắt đầu loạn chuẩn. Những người nhận định như thế dựa trên quan sát rằng có những nhóm lợi ích tỏ ra tham lam vô độ, luôn luôn muốn thao túng kinh tế. Có người cho rằng các nhóm lợi ích, nhóm làm giàu bất chính đang tàn phá đất nước.
5. Khoa học mà không có nhân văn: Kinh doanh mà không dựa trên nền tảng đạo đức xă hội và không xem trọng trách nhiệm xă hội là loại kinh doanh nguy hiểm. Tương tự, trong khoa học, tiêu chuẩn đạo đức và trách nhiệm cũng là một tiêu chí quan trọng. Một công tŕnh nghiên cứu cho dù mang tính khả thi cao và có ư tưởng tốt, nhưng làm phương hại đến cộng đồng và xă hội vẫn không được đánh giá là đạt chuẩn mực. Chính v́ bản chất đạo đức của khoa học, nhà khoa học c̣n phải có trách nhiệm với xă hội, v́ nhà khoa học cũng chỉ là một thành viên trong xă hội, không thể nào đứng ngoài hay đứng cao hơn xă hội. Công tŕnh tạo ra chủng virút mới của Tàu có thể đó là một thành tựu về kĩ thuật, nhưng không đạt tiêu chuẩn về đạo đức và trách nhiệm xă hội v́ thành tựu đó chẳng đem lại phúc lợi ǵ cho xă hội hay giúp giảm sự đe dọa của một đại dịch. Ở VN, khoa học chưa phát triển, nhưng đây đó có nhiều người ta dùng khoa học để làm những chuyện thiếu đạo đức.
6. Có tín ngưỡng mà không thờ phượng: Nh́n từ ngoài và từ xa, Việt Nam là một nước ngoan đạo, với số lượng chùa chiền và nhà thờ khá nhiều. Người ta đi lễ hội và đi chùa cũng rất nhiều. Nhưng nếu nh́n kĩ th́ việc viếng chùa của họ không phải là v́ thờ phượng, mà chủ yếu là mê tín, và hối lộ thần thánh. Có thể nói rất nhiều người đến chùa để cầu thần thánh ban cho chức tước và hanh thông trong sự nghiệp, chứ chẳng phải để thờ phượng và hiến dâng. Ngay cả những người trụ tŕ trong chùa chưa chắc là người tu hành thật, mà có thể đang đóng một vai diễn nào đó để phục vụ cho một thế lực đang chống lưng họ. Có thể nói rằng cái nền tảng tôn giáo ở VN đă bị xói ṃn từ hơn 40 năm qua.
7. Làm chính trị mà không có nguyên tắc: Đối với Gandhi, những người ham quyền lực thường hành động bất chấp nguyên lí và chân lí. Những người cố vị (nhất định bám ghế) bằng mọi giá và mọi cách là những chính trị gia không có đạo đức. Những nguyên tắc trong chính trị mà Gandhi nghĩ đến bao gồm giúp người dân đi đến những lựa chọn sáng suốt, đối xử với dân một cách công bằng, giữ lời hứa và tuân thủ những ǵ đă đồng ư, không được nói dối và xuyên tạc, và tôn trọng nhân quyền. Ở VN, những người như thế này thật là ... xưa nay hiếm.
Đối chiếu lại thực tế những ǵ đang xảy ra, có thể nói là Việt Nam đang -- không nhiều th́ ít -- phạm phải tất cả 7 tội lỗi này. Một thiết chế xă hội tạo ra những con người làm giàu không nhờ lao động và bất chấp đạo đức, những người thích hưởng thụ trên sự đau khổ của đồng bào, những người bằng cấp đầy ḿnh nhưng thiếu nhân cách, những người buôn bán và hối lộ thần thánh, những người cầm quyền mà chẳng quan tâm đến sự thật và lợi ích của xă hội và dân tộc. Bảy nhóm người này hay 7 cái tội lỗi xă hội này đang làm cho đất nước ta tiêu điều và khó sánh vai với các nước văn minh trên thế giới.
Ts. Nguyễn Văn Tuấn
at 3:51 PM
1 comment:
molai.lebaotinhDecem ber 15, 2015 at 12:48 AM
florida80
06-06-2019, 19:34
Kẻ Trộm Xâu Chuỗi Của Phật Tổ
Có một ngôi chùa, nhân v́ thờ một sợi chuỗi Phật Tổ từng đeo mà nổi tiếng. Nơi thờ phụng sợi chuỗi chỉ có thầy trụ tŕ và 7 đệ tử biết.
7 người đệ tử đều rất có ngộ tính, thầy trụ tŕ cảm thấy tương lai đem y bát truyền cho bất kỳ người nào trong bọn họ, đều có thể làm rạng rỡ Phật Pháp. Không ngờ, sợi chuỗi đột nhiên biến mất.
“Các ngươi ai đă lấy sợi chuỗi, chỉ cần trả về vị trí cũ, ta sẽ không truy cứu, Phật tổ cũng không trách tội.”
7 ngày trôi qua, sợi chuỗi vẫn không được trả về. Thầy trụ tŕ lại nói: ”Chỉ cần ai đó thừa nhận, sợi chuỗi sẽ thuộc về người đó.“ Lại trải qua 7 ngày, vẫn không ai thừa nhận.
“Ngày mai các người hăy rời khỏi chùa xuống núi hết đi, riêng kẻ đă lấy sợi chuỗi ta cho phép ở lại đây.“
Qua ngày hôm sau, 6 đệ tử thu dọn xong hành lư, thở nhẹ một hơi dài, nhẹ nhàng ra đi. Chỉ có một người ở lại.
Thầy trụ tŕ hỏi đệ tử ở lại :
– Sợi chuỗi đâu ?
– Con không lấy.
– Vậy tại sao chịu mang lấy tiếng trộm cắp?
– Mấy ngày nay các huynh đệ đều nghi ngờ lẫn nhau, nếu có người đứng ra, mới giải thoát cho chuyện này.
Lại nói:
– Sợi chuỗi tuy mất , Phật vẫn c̣n đây.
Thầy trụ tŕ cười, lấy sợi chuỗi từ tay áo ḿnh ra, đeo vào tay người đệ tử.
Play
Current Time 0:01
/
Duration Time 0:01
Remaining Time -0:00
Loaded: 0%
Progress: 0%
0:01
Fullscreen
00:00
Mute
Đây là câu chuyện làm tôi cảm ngộ rất lâu.
Không phải mọi việc đều cần nói rơ ràng, cái quan trọng hơn nói rơ ràng đó là: có thể gánh vác, có thể hành động, có thể hóa giải, có thể sắp xếp, có thể thay đổi, nghĩ về ḿnh, càng phải nghĩ cho người khác, đây chính là Pháp.
Người hiểu bạn, không cần phải giải thích, người không hiểu bạn, giải thích cũng vô ích. Đây không chỉ là một loại cảnh giới mà hơn hết là một loại đại trí huệ.
Người biên dịch chú thích:
Đây chỉ là một câu chuyện ngụ ngôn, về mặt lịch sử, chưa có sử liệu chứng minh Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni có đeo chuỗi và sợi chuỗi đó c̣n lưu lại đến bây giờ.
Biên dịch: Lâm Minh Triết (Muôn Dặm Không Mây)
at 4:39 PM
florida80
06-06-2019, 19:35
Những Truyền Thuyết Hay Nhất Về Người Phát Quà Đêm Noel
Trên thế giới mỗi quốc gia lại có một phong tục đón Giáng sinh khác nhau, cũng không phải chỉ có ông già Noel là người duy nhất đi phát quà cho trẻ em trên khắp thế giới vào đêm Noel. Cùng t́m hiểu những câu chuyện về những người phát quà đêm Noel nhé.
1. Người phát quà đêm Giáng sinh tại Iceland: Chú mèo Yule
Mèo Yule (Chú mèo giáng sinh) là một nhân vật thần thoại nổi tiếng trong các câu chuyện cổ tích ở Iceland, có h́nh dạng lớn và xấu xa, chúng hay ẩn nấp ở những vùng nông thôn đầy tuyết trong lễ Giáng sinh và ăn thịt ai không có quần áo mới để mặc trong dịp này. Những trẻ em ngoan ngoăn sẽ được mèo Yule bỏ những món quà nhỏ vào giày c̣n ai nghịch ngợm phải nhận khoai tây.
Theo phong tục của người Iceland, ai hoàn thành công việc đúng thời gian quy định sẽ được trả tiền công để mua quần áo mới cho Noel c̣n kẻ lười biếng th́ không. Truyền thuyết về con quái vật này ra đời với mục đích khuyến khích trẻ em làm việc chăm chỉ. Nỗi sợ bị mèo Yule ăn thịt được người dân Iceland coi như một động lực nâng cao tinh trần, trách nhiệm trong công việc thu hoạch mùa vụ trước ngày Giáng sinh.
2. Ông tiên Tomte ở Scandinavi
Truyền thuyết về ông tiên Tomte xuất hiện ở các nước thuộc vùng Scandinavi như Na Uy, Phần Lan và Thụy Điển. Tomte là một ông tiên lùn, râu ria xồm xoàm mặc áo quần màu xám và đội nón đỏ. Nhiệm vụ của nhân vật này là phân phát quà vào dịp Noel. Giáng sinh đến, trẻ em ở các nước vùng Scandinavi này cũng háo hức được nhận quà từ ông tiên.
3. Bà già Noel Befana ở Italy
Ở đất nước h́nh chiếc ủng, nhân vật "bà già Noel" Befana được thay thế cho ông già Noel. Theo truyền thuyết, La Befana từng được gặp ba nhà thông thái và họ mời bà cùng đến gặp Chúa hài đồng, tuy nhiên do mải quét dọn nên bà từ chối. Sau đó, Befana lại xúc động nghĩ đến sự ra đời của Chúa và quyết định đi t́m Ngài để tặng quà. Bà t́m măi, t́m măi những không thấy nên để lại quà cho những đứa trẻ gặp trên đường đi v́ nghĩ rằng đó có thể là Chúa. Bất kỳ em bé nào khi gặp La Befana sẽ bị quất chổi v́ bà không muốn ai nh́n thấy ḿnh.
4. Ông già Belsnickel ở Đức - Áo - Argentina
Belsnickel là nhân vật huyền thoại đồng hành cùng ông già Santa Claus, xuất hiện trong văn hóa dân gian của một số vùng ở châu Âu và một bộ phận nhỏ người Hà Lan ở Pennsylvania, Mỹ. Nhiệm vụ của Belsnickel là giữ trật tự và kỷ cương đối với đoàn tùy tùng của ông già Noel. Người đàn ông này được miêu tả là một nhân vật đáng sợ, thường đeo mặt nạ với chiếc lưỡi dài và phạt những đứa trẻ hư. Tại Đức, Belsnickel sẽ tặng quà cho những em bé ngoan, c̣n trẻ hư sẽ nhận được than.
Theo tín ngưỡng của người Đức Belsnickel được biết đến là ông già cau có nhưng rất tốt bụng. Ông thường tặng quà, bánh kẹo cho trẻ em ngoan vào ngày 6/12.
5. Ác quỷ Krampus ở Đức - Áo - Hungary
Tên của loài ác quỷ này mang ư nghĩa là "móng vuốt", loài sinh vật này có h́nh dáng đầu thú, mặt quỷ, xuất hiện thường xuyên trong các câu chuyện kể dân gian của Đức. Ngày nay, tầm ảnh hưởng của nhân vật này đă lan xa đến tận Áo, Hungary, Slovenia...
Ác quỷ Krampus là bản sao đối lập với ông già Noel, có nhiệm vụ đánh và trừng phạt tất cả những đứa trẻ không ngoan. Khi phát hiện ra những đứa trẻ hư, Krampus sẽ bắt chúng bỏ vào trong túi và mang đến hang ổ của ḿnh. Ở đó, ông sẽ đưa ra nhiều sự trừng phạt đáng sợ. Bởi vậy mà bất cứ đứa trẻ nào cũng sợ Krampus nên phải ngoan ngoăn hơn.
6. Ông già mùa đông ở Nga và một số nước Tây Âu
Hai nhân vật được trẻ em các quốc gia này đón chờ nhất dịp Noel và năm mới chính là Ông già mùa đông (Father Frost) cùng cô cháu gái (có nơi cho là con gái) Snow Maiden. Father Frost có dáng dấp của một người lùn với khả năng tạo các bông tuyết phủ khắp mọi nơi cùng những mảng băng vương đọng trên các tán cây, mái nhà.
Snow Maiden được coi là vị thần mùa đông trong văn hóa dân gian của Nga. C̣n trong truyền thuyết Bắc Âu cổ, có vị thần Mùa Đông cao lớn mang tên Jokul Frosti có quan hệ thân thiết với Thần Gió. Ông kết hôn với vị thần Mùa Xuân và có một người con gái tên là Snow Maiden. Cô gái thường hay giúp cha ḿnh phát quà cho trẻ con mỗi dịp Giáng Sinh về. Tuy nhiên, khác với những món quà Giáng Sinh khác, Father Frost thường tạo nên những cơn gió làm rụng hạt dẻ và các loại hạt khác khiến trẻ em vô cùng thích thú.
Anh Minh (theo Toptenz)
florida80
06-06-2019, 19:37
6 Câu Chuyện Khiến Bạn Tin Vào Luật Nhân Quả
Khi nói đến nhân quả, có người tin và có người không tin, bởi có lúc nó đến rất nhanh chóng nhưng cũng có khi tiềm ẩn rất lâu rồi mới xuất hiện. Dưới đây là 6 câu chuyện kỳ lạ, trong đó hành động và hệ quả đến gần như ngay lập tức, hoặc rất rơ ràng trong cuộc đời.
1. Chỉ vài giây sau khi giật đồ của một phụ nữ, tên cướp liền bị xe buưt đâm
Vào tháng 5/2013 tại Bogota, Columbia, có một gă lưu manh giật điện thoại của một phụ nữ tại bến xe buưt. Gă quay đầu bỏ chạy, nhưng chỉ mới chạy được vài bước th́ liền bị xe buưt đâm. Toàn bộ sự việc đă được ghi h́nh bằng camera giám sát và được phát trên kênh BBC và nhiều hăng truyền thông khác.
Mời xem
2. Người lính thuỷ đánh bộ từng xả thải chất độc trả giá bằng bệnh tật
Vào những năm 70 của thế kỷ trước, Ron Poirier, một kỹ thuật viên điện tử thuộc Thuỷ quân lục chiến [Hoa Kỳ] tại Trại lính Lejeune, bang North Carolina, đă xả thải hàng trăm lít dung dịch độc hại [vào môi trường]. Các hoá chất này đă ngấm vào nguồn nước uống.
Người lính này đă chết do ung thư vào tháng 5/2013, và đây là một trong số những căn bệnh đă hành hạ những người lính thuỷ đánh bộ và người dân địa phương do hệ quả của việc xả thải hóa chất ra môi trường. Trước khi chết, ông nói với hăng tin AP rằng ông cảm thấy đây là cái giá phải trả cho những tội lỗi mà ông đă gây ra.
3. Làm một việc thiện, sau đó t́m thấy 40 USD một cách vô cùng khác thường
Mappberg, một thành viên trên mạng xă hội Reddit đă chia sẻ:
“Tôi trải qua giai đoạn mất ngủ và đă thức trắng nhiều đêm trong những năm qua. Một đêm nọ … tôi đến cửa hàng tiện ích … 7/11 khoảng lúc 6h30 sáng, trên đường đi ra, tôi bắt gặp [một người đàn ông vô gia cư]… tôi trở vào và mua cho ông 2 chiếc bánh ḿ kẹp thịt rồi hâm nóng bằng ḷ vi sóng. Tôi đưa bánh kẹp cho ông ta rồi đi tiếp đến quán Tropical Smoothie mở cửa lúc 7h sáng.
Tôi đỗ xe, mở cửa, nh́n xuống, và ngỡ ngàng khi trông thấy một tờ 20 USD mới tinh tại vạch kẻ đỗ xe. Cứ tưởng thế đă là quá may mắn, nhưng diễn biến tiếp theo mới thực sự kỳ quặc: tôi trở ra từ quán Tropical Smoothie, và khi đang quay trở lại chỗ đỗ xe th́ lại trông thấy một tờ 20 USD nữa tại đúng vị trí trước đó. Tôi kiểm tra túi và thấy tờ tiền lúc trước vẫn c̣n nguyên. Liệu đây có phải là một trục trặc của ma trận không?”
4. Dù cố lấy đồ miễn phí, bạn vẫn phải trả tiền như thường
Chia sẻ của thành viên AdolphManson trên mạng Reddit:
“Một hôm tôi trả tiền mua một tờ báo nhưng lại lấy 2 tờ (bởi v́ tôi phát chán với việc các đồng nghiệp cứ lấy trộm báo của tôi). Khi chuẩn bị rời đi với hai tờ báo, tôi phát hiện thấy áo ḿnh bị mắc kẹt trong ḥm bán báo khi cửa ḥm đóng lại. Tôi lại phải trả thêm 0,25 USD để gỡ áo ra”.
5. Cậu bé ngoan được thưởng
Chia sẻ của thành viên JeffreyGlen trên mạng Reddit:
“Hôm nay, tôi và con trai đă đến siêu thị Wal-Mart để mua một cuộn băng mới cho chiếc máy chơi điện tử Nintendo DS của cháu. Khi đến quầy thanh toán, tôi thấy người phụ nữ đứng trước mặt ḿnh đang tỏ vẻ hơi thất vọng. Thẻ tín dụng của cô này bị từ chối khi cô mua sữa trẻ em. Con trai tôi vốn yêu trẻ con nên cháu đă tṛ chuyện với người phụ nữ đó về đứa con gái nhỏ của cô. Cháu bỏ lại cuộn băng tṛ chơi rồi đưa số tiền của ḿnh cho người phụ nữ kia và nói, ‘Em bé của cô cần thức ăn hơn cháu cần tṛ chơi Plants vs. Zombies’. Tôi cảm thấy vô cùng tự hào nên cuối cùng đă quyết định vẫn mua cuộn băng tṛ chơi cho cháu.
Khi chúng tôi ra ngoài, một quư bà tiến đến và nói bà đă chứng kiến cách hành xử của con tôi, rồi đưa cho cháu một phong b́ và dặn về đến nhà mới được mở. Khi về đến nhà, chúng tôi mở phong b́ và thấy một tờ 100 USD kèm theo một mẩu giấy ghi ‘cháu xứng đáng với phần thưởng này, chàng trai trẻ!’”.
6. Cho đi khi bạn không c̣n ǵ để cho, bạn sẽ đứng ở top đầu
Chia sẻ của thành viên ScottRockview trên mạng Reddit:
“Có một thời tôi từng bán đồ nội thất nhưng không giỏi công việc này. Đó là một giai đoạn khó khăn trong cuộc sống khi tôi chỉ kiếm được 1.000 USD một tháng (khoảng 10 năm trước, đây là mức thu nhập thấp ở Mỹ) và gần như chẳng c̣n lại ǵ sau khi chi trả tiền thuê nhà và các hoá đơn dè sẻn của bản thân. Có nhiều lúc tôi không ăn uống ǵ trong nhiều ngày v́ không có tiền.
Một ngày nọ, tôi đang cố gắng bán hàng nhưng chưa được mối nào. Gần đến cuối ngày mà tôi vẫn chưa kiếm được một đồng (tiền hoa hồng). Lúc đó, có một cặp vợ chồng già bước vào và nh́n ngắm các kệ TV. Tất cả các nhân viên bán hàng đều lảng tránh họ v́ chúng tôi đều biết rằng bọn họ sẽ nh́n ngắm rất lâu nhưng rốt cuộc chỉ bỏ ra khoảng 100 USD để mua sắm và như vậy tiền hoa hồng chỉ vỏn vẹn có 2 USD.
Tôi nh́n cặp vợ chồng già và nghĩ… nếu tôi có thể bán được bất cứ thứ ǵ hôm nay, ít nhất tôi sẽ không bị trắng tay và biết đâu vận may của tôi sẽ thay đổi sau đó. Cuối cùng hai vị khách này đă mua 2 kệ (tiền hoa hồng cho tôi là 6 USD) nhưng hỏi tôi cách lắp ráp các kệ này… Mặc dù tôi có thể giới thiệu cho họ một dịch vụ (có tính phí), nhưng tôi lại bảo họ ‘cháu xong việc lúc 9h00 tối, nếu hai bác đến đón cháu, cháu sẽ đến lắp kệ miễn phí cho hai bác’. Họ nhận lời rồi trả tiền cho món đồ và rời đi.
Các nhân viên bán hàng khác cười nhạo tôi. Họ c̣n cười nhạo tôi nhiều hơn khi đă gần đến giờ tan ca mà tôi chẳng bán thêm được ǵ. Cặp vợ chồng già đến đón tôi vào đúng 9h00 tối …
Chúng tôi bước vào căn hộ xinh đẹp của cặp vợ chồng này… Tôi có thể ngửi thấy mùi thức ăn đang nấu nhưng đă cố gắng lờ đi (vào thời điểm đó tôi đă không ăn ǵ trong khoảng 3 ngày, nên điều này quả thật khó khăn đối với tôi). Tôi đă làm việc gần 3 tiếng đồng hồ liên tục cho đến khi tan ca…
[
Ngay sau đó,] bà vợ chạy ra kéo tôi vào bếp. Bà lấy ghế cho tôi ngồi và mang cho tôi một đĩa thịt ḅ quay nóng hổi. Điều này c̣n tốt hơn bất cứ món tiền công nào. Tôi rất cảm kích và biết ơn. Tôi cố cầm nước mắt khi thưởng thức một bữa ăn tại gia tuyệt hảo mà bà đă chuẩn bị cho tôi…
Bà vợ đưa tôi một phong b́ [sau khi chở tôi về nhà]. Tôi không mở nó, mà chỉ cảm ơn hai ông bà. Tôi vui sướng đi lên căn hộ, v́ biết rằng đêm hôm đó ḿnh sẽ đi ngủ với cái bụng căng tṛn và có lẽ không cần phải ăn trong vài ngày tới. Tôi cảm thấy rất tuyệt. Tôi mở phong b́ và thấy trong đó có một tấm thiệp cảm ơn. Bên trong tấm thiệp là 100 USD. Tôi đă bật khóc…
Sau lần đó, trong suốt những tháng ngày c̣n lại bán đồ nội thất, tôi luôn chạy tới giúp đỡ những người mà không ai quan tâm. Tôi đă thay đổi mục tiêu của ḿnh từ chỗ đạt doanh số bán hàng lớn mỗi ngày cho đến chỗ quan tâm đến những nhu cầu nhỏ lẻ của khách hàng mà thường không ai quan tâm. Phương thức này đă giúp tôi vượt qua những tháng ngày gian khó cho đến khi tôi kiếm được một công việc có thù lao tốt hơn”.
Tác giả Tara MacIsaac, Đại Kỷ Nguyên Anh ngữ
at 1:51 PM
florida80
06-07-2019, 18:21
Công Bố Nghiên Cứu Chuyển Máu Nhóm A Thành Nhóm O, Có Thể Truyền Cho Bất Kỳ Ai
https://i.imgur.com/HvM21FZ.jpg
Các nhà khoa học tin rằng họ đă t́m thấy cách để biến đổi máu của người hiến tặng thành loại phổ biến để có thể truyền cho bất kỳ ai.
Con người có 4 nhóm máu là: A, B, AB và O. Trong đó, nhóm O được coi là nguồn máu quư nhất v́ nó có thể truyền cho cả 3 nhóm máu c̣n lại.
Mặc dù 40% dân số thế giới có nhóm máu O, nguồn cung máu vẫn bị thiếu hụt, đặc biệt là trong các hoạt động cứu nạn lớn.
Nhưng mới đây, một nhóm các nhà khoa học tại Đại học British Columbia đă công bố một bước đột phá hứa hẹn sẽ giải quyết vấn đề này. Họ có thể khai thác vi khuẩn trong ruột người để chuyển máu thuộc các nhóm A, B thành máu nhóm O.
Nghiên cứu vừa được công bố trong một hội nghị của Hiệp hội Hóa học Mỹ ngày hôm qua (22/8). Trong đó, giáo sư Steve Withers đến từ Đại học British Columbia cho biết một enzyme của vi khuẩn đường ruột có thể chuyển đổi máu nhóm A thành máu nhóm O.
Quá tŕnh chuyển đổi này có hiệu suất gấp 30 lần so với phương pháp trước đây, đồng thời vẫn đảm bảo mức chi phí thấp.
Quy tắc truyền máu cơ bản. Ảnh: Redcrossblood
Các nhóm máu được đánh dấu bởi kháng nguyên gắn với nó. Máu nhóm A có kháng nguyên A, nhóm B có kháng nguyên B và nhóm AB có cả 2 kháng nguyên. Trong khi đó, máu nhóm O không có kháng nguyên nào.
Nguyên lư truyền máu là một người không thể nhận máu có kháng nguyên lạ vào cơ thể, bởi hệ thống miễn dịch sẽ tiêu diệt toàn bộ tế bào máu có kháng nguyên lạ, coi chúng như mầm bệnh.
Điều này có nghĩa là máu nhóm AB có cả 2 kháng nguyên sẽ nhận được tất cả các nhóm máu khác, nhưng không thể truyền lại cho bất kỳ nhóm máu nào ngoài AB. Ngược lại, nhóm máu O có thể truyền cho bất kể nhóm máu nào, nhưng chỉ có thể nhận lại từ người có nhóm máu O.
Lư tưởng nhất là chúng ta có thể loại bỏ tất cả các kháng nguyên gắn với tế bào máu, biến tất cả máu thành nhóm O để dự pḥng. Điều này từng là mong muốn của các nhà khoa học trong nhiều thập kỷ.
Năm 1982, một nhóm các nhà nghiên cứu t́m thấy một một enzyme trong hạt cà phê có thể loại bỏ kháng nguyên B và biến máu nhóm B thành máu nhóm O. Thật không may, nó chỉ hoạt động trong các điều kiện kiểm soát nghiêm ngặt và tỏ ra không hiệu quả.
Năm 2017, một nhóm các nhà khoa học khác cũng có thể tạo ra máu nhóm O bằng cách đưa gen ung thư vào tiền tế bào hồng cầu. Tuy nhiên, có vẻ như ư tưởng này không an toàn một chút nào và chi phí cho kỹ thuật này cũng rất lớn.
Các nhà khoa học khai thác vi khuẩn trong ruột người để chuyển máu thuộc các nhóm A, B thành máu nhóm O.
"Các nhà khoa học khác đă theo đuổi ư tưởng chuyển đổi máu hiến tặng thành loại phổ biến nhất (nhóm O) trong một thời gian dài, nhưng họ vẫn chưa t́m thấy các enzyme có chọn lọc và hiệu quả, cũng như an toàn và có tính kinh tế", giáo sư Withers cho biết.
Để t́m kiếm được các enzyme tiềm năng hơn, ông và nhóm của ḿnh đă sử dụng một kỹ thuật gọi là metagenomic.
"Với metagenomic, bạn phải thu thập tất cả các sinh vật và trích xuất tất cả DNA của chúng trộn vào với nhau", giáo sư Withers giải thích. "Việc tạo ra một mạng lưới rộng cho phép chúng tôi lấy mẫu các gen của hàng triệu vi sinh vật mà không cần phải nuôi chúng hàng triệu lần riêng lẻ".
Sau đó, giáo sư Withers t́m kiếm các gen mă hóa cho enzyme có thể tách kháng nguyên A khỏi máu. Ḍ ngược lại một trong số các enzyme này, ông phát hiện nó có trong các vi khuẩn đường ruột của chúng ta.
Enzyme này có thể loại bỏ kháng nguyên A khỏi máu hiệu quả gấp 30 lần so với các báo cáo trước đây. Nó sẽ biến tất cả các nhóm máu A, B thành máu nhóm O. "Kỹ thuật này có thể phá bỏ biên giới của các nguồn cung máu hiện nay, v́ máu nhóm O có thể được truyền cho bất kỳ ai", giáo sư Withers nói.
Hiện nhóm nghiên cứu sẽ tiếp tục kiểm tra quá tŕnh chuyển đổi máu trên cơ thể con người, để đảm bảo không có hậu quả ngoài ư muốn nào xảy ra. Họ cũng hướng đến thử nghiệm lâm sàng, trước khi có thể thoải mái truyền máu cho nhau mà không cần nghĩ ngợi, ít nhất là về sự tương hợp của các nhóm máu.
florida80
06-07-2019, 18:24
9 Sự Thật Kỳ Quặc Chứng Minh Cơ Thể Người Là Một Hệ Thống Đầy Bí Ẩn
https://i.imgur.com/Y0cfl1t.gif
Cơ thể con người vô cùng đặc biệt. Nó là một cơ chế phức tạp và có nhiều bí ẩn mà các nhà khoa học vẫn đang nghiên cứu hàng thế kỷ.
Dưới đây mà một số sự thật về khả năng kỳ diệu của cơ thể bạn mà chính bạn c̣n chưa biết.
1. Bộ năo của chúng ta là bộ nhớ có dung lượng lớn nhất thế giới
Bộ năo có thể ghi nhớ đén 2,5 triệu GB thông tin, tức là khoảng 300 năm video. Đỉnh cao của khả năng ghi nhớ xảy ra ở tuổi 25 và bắt đầu giảm ở tuổi 50, trừ khi bạn huấn luyện lại bộ năo của ḿnh.
2. Cơ thể sẽ làm chậm mọi quá tŕnh để bảo vệ bạn khi đuối nước
Hiệu ứng này được gọi là "phản xạ lặn". Khi năo bộ nhận ra cơ thể bạn đang bị ch́m trong nước, nó sẽ làm chậm nhịp tim để máu từ các chi về lại những bộ phận quan trọng và duy tŕ oxy. bạn lặn càng sâu hay ở dưới nước càng sâu th́ nhịp tim sẽ càng chậm đi.
3. Bạn có sức mạnh siêu phàm khi mới đẻ
Trẻ sơ sinh rất khỏe so với kích thước và trong lượng cơ thể. Nếu cho một đứa trẻ nắm thanh ngang, nó có thể đu trên đó một thời gian dài mà không thấy mệt.
Phản xạ nắm bắt ḷng bàn tay này được thừa hưởng từ tổ tiên của chúng ta khi những con khỉ mới sinh phải ôm lấy mẹ của chúng, nắm lấy tóc của mẹ. Từ 3 tháng tuổi, trẻ sơ sinh thường mất khả năng này.
4. Chiều dài của tất cả các mạch máu bên trong cơ thể của chúng ta là đủ để quấn quanh Trái đất 2,5 lần ṿng theo đường xích đạo
Nếu bạn rút tất cả các mạch máu ra khỏi một người trưởng thành và trải chúng ra, nó có thể dài hơn 160.934 km, đủ để quấn 2,5 ṿng quanh Trái đất.
Ngoài ra, trái tim của con người bơm trung b́nh 5,7 triệu lít máu trong suốt cuộc đời. Thể tích này đủ để lấp đầy 3 bể bơi kích thước Olympic.
5. Màu sắc của những giấc mơ của bạn có thể phụ thuộc vào loại tivi bạn xem
Loại TV bạn xem khi c̣n nhỏ có thể ảnh hưởng đến màu sắc trong những giấc mơ của bạn. Nghiên cứu này cho thấy phần lớn những người khi bé xem phim đen trắng sẽ nh́n thấy những giấc mơ màu đen trắng.
Trong khi đó, những người được sinh ra ở thời đại TV màu lại có những giấc mơ đầy màu sắc.
6. Cơ bắp của bạn được thiết kế để nâng hàng tấn
Năm 1982, tại Georgia, Mỹ, anh chàng Tony Cavallo đă bị chiếc xe Chevolet Impala 1964 đè lên người trong khi sửa chữa nó. Tưởng chừng Tony sẽ chết v́ sức nặng hơn 1,5 tấn của chiếc xe, nhưng may mắn thay mẹ của anh là Angela Cavallo đă xuất hiện kịp thời và làm một việc phi thường: nâng chiếc xe lên với hai bàn tay không, cứu thoát con trai ḿnh.
Đây không phải là trường hợp duy nhất mà ai đó đă làm được điều tưởng như không thể. Chúng ta có 640 cơ bên trong cơ thể chúng ta, và không ai biết đâu là giới hạn của chúng.
7. Cơ thể bạn là một cỗ máy sản xuất dịch nhầy
Trung b́nh, cơ thể 1 người lớn sản xuất 1,5 lít dịch nhầy mỗi ngày. Chúng ta đă nuốt hết phần lớn số đó mà không chú ư đến nó. Ngoài ra, một cơ thể cũng sản xuất một lít nước bọt, 3 lít dịch dạ dày, 3,5 lít dịch đường ruột và một lít mật.
8. Nước mũi có thể là dịch từ năo
Chất lỏng chảy ra từ mũi bạn có thể là dịch ở năo. Dịch này phân bổ quanh năo và được giữ bởi một màng đặc biệt. Đôi khi nó có thể ṛ rỉ qua mũi của bạn với số lượng nhỏ, chỉ trông như chất lỏng trong suốt.
9. Cơ thể của bạn là cấu trúc được bảo vệ mạnh nhất trên thế giới
Chất lỏng chảy ra từ mũi bạn có thể là dịch ở năo. Dịch này phân bổ quanh năo và được giữ bởi một màng đặc biệt. Đôi khi nó có thể ṛ rỉ qua mũi của bạn với số lượng nhỏ, chỉ trông như chất lỏng trong suốt.
Trong h́nh này, bạn có thể thấy tế bào bạch cầu đang đuổi theo một con vi khuẩn và nuốt nó. Bạch cầu được gọi là những "vệ sĩ" của cơ thể, bảo vệ khỏi những kẻ xâm lược xấu xa.
Đồng thời, cơ thể chúng ta cũng loại bỏ các tế bào đă chết. Ví dụ, trong khi bạn đang đọc câu này 22 triệu tế bào của bạn đă chết. Trong 30 giây sau, cơ thể bạn sẽ sản xuất 72 triệu tế bào hồng cầu mới và sẽ loại bỏ 174 ngh́n tế bào da chết.
(Theo Bright Side)
Nguồ̀n: ***********
at 8:49 PM
florida80
06-07-2019, 18:27
Bác Sĩ Kể Chuyện: Hú Hồn V́ Fucoidan - “Thần Dược Chữa Ung Thư” - BS Wynn Tran (từ Hoa Kỳ)
https://i.imgur.com/E4KldI0.jpg
Cục Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) xếp Fucoidan vào loại thực phẩm chức năng (không phải là thuốc) nên Fucoidan không phải chịu sự kiểm soát nghiêm ngặt nào cả.
Danny trên 40 tuổi làm chủ một công ty xe tải 18 bánh chở hàng xuyên bang. Vợ ở nhà chăm sóc 2 con nhỏ. Lúc gặp anh lần đầu, tôi nghĩ đời sống Danny đúng là h́nh mẫu lư tưởng của một gia đ́nh Mỹ gốc Việt.
Danny gặp tôi v́ bị dị ứng da và cao huyết áp. Ngoài ra, anh hút thuốc lá như ống khói nhà máy nhiệt điện, đến nỗi mùi thuốc lá vẫn c̣n trong pḥng khám sau khi anh ra về.
2 tuần sau khi gặp tôi, Danny bị đột quỵ khi đang lái xe trong băi đậu.
MRI năo xác nhận vùng năo trái bị nghẽn mạch. Anh bị liệt nửa người bên phải.
Chưa hết, chỉ số đường Ha1c lên đến 11%. Cuộc sống gia đ́nh anh đảo lộn. Công ty tài sản chục triệu đô không người trông giữ. Em và chị gái của Danny từ Florida bay qua California để giữ cổ phần công ty.
Tranh căi gia đ́nh nổ ra v́ Danny không có bất kỳ giấy tờ uỷ quyền tài sản nào. Vợ Danny, vốn bị gia đ́nh chồng ghét, bị đẩy ra ngoài. Cô bị stress và có lúc muốn tự vẫn.
Được các BS cật lực cứu chữa, Danny dần dần hồi phục. Anh đă có thể cử động chân phải và từ từ đi được.
Những lần gặp anh sau đó, anh đă mạnh khỏe hơn và yêu đời trở lại. Anh hồi phục cũng giúp gia đ́nh và công ty anh qua cơn khó khăn.
Công việc ổn định trở lại. Chị vợ cùng chồng quán xuyến công ty và hai chị em của Danny cùng nhau giúp đỡ hai vợ chồng thay v́ căi lộn như trước.
Đùng một cái, vợ Danny gọi tôi nói anh đang yếu hơn trước.
Vợ Danny và người phụ tá phải d́u anh vào pḥng khám. Mặt anh tím tái, huyết áp tụt.
Danny được nhận viện gấp. Hồng huyết cầu (Hb) của anh chỉ c̣n 3,9 (người b́nh thường là 13-14, nếu dưới 7,0 đă phải truyền máu). BS cấp cứu gọi tôi la trời v́ chưa thấy ai thấp Hb hồng huyết cầu đến vậy.
Hỏi ra mới biết là thấy anh bớt bệnh, chị vợ nghe lời bạn bè lấy thuốc Bắc cho anh uống. Sau khi uống xong, anh cứ đi cầu phân đen. Nghe mọi người nói uống thuốc bắc phân sẽ lỏng và đen nên chị vợ và hai chị cứ an tâm cho uống đến 6 tháng.
Nhưng v́ Danny đang uống thuốc kháng đông máu sau khi bị đột quỵ nay bị dộng thêm thuốc bắc tương tác làm máu anh càng loăng, hậu quả anh bị xuất huyết đường ruột, máu Hb tuột luốt.
Anh được truyền máu và hồi phục lần hai. Lần này hai vợ chồng quyết tâm không bao giờ xài thuốc bắc. Chỉ số Hồng huyết cầu Hb của anh tăng lên từ từ và ổn định ở mức 10-11. Anh khỏe ra, và anh chị lại biến mất một thời gian.
Nào có ngờ hôm kia chị vợ gọi tôi nói là anh lại trở mệt nữa. Tôi lại giật ḿnh v́ hồng huyết cầu Hb lại tụt xuống 8,0.
Hỏi xem anh có uống ǵ khác không th́ chị vợ mới nhớ là nghe quảng cáo uống Fucoidan phục hồi sinh lực nên cho chồng uống mấy tuần nay. Thấy anh ăn được, chỉ có điều đi cầu phân hơi đen nên chị vợ an tâm tiếp tục cho anh uống.
Tôi dặn chị vợ ngưng không cho anh uống Fucoidan nữa th́ anh khỏe trở lại. Check Hb th́ lên lại được gần 10.0.
Hú hồn v́ Fucoidan. Xém chút nữa là Danny phải nhập viện và có thể bị tai biến v́ rủi ro xuất huyết năo.
Những năm gần đây Fucoidan được quảng cáo như một thần dược, chữa được ung thư. Các nghiên cứu về Fucoidan chỉ ra Fucoidan có những tác dụng nhất định như kháng viêm, chống đông máu, và có thể kháng ung thư.
Tuy nhiên, tất cả những nghiên cứu này đều trong pḥng lab trên tế bào cách biệt mà chưa hề có bất kỳ nghiên cứu nào trên người. (1)
Cục Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) xếp Fucoidan vào loại thực phẩm chức năng (không phải là thuốc) nên Fucoidan không phải chịu sự kiểm soát nghiêm ngặt nào cả.
Chính v́ kẽ hở này mà hàng trăm công ty sản xuất thực phẩm chức năng đă sản xuất tràn lan và quảng cáo sản phẩm không đúng sự thật.
Điểm quan trọng nhất là BN không nên giấu BS những ǵ ḿnh đưa vào cơ thể trong khi đang điều trị, bao gồm cả thực phẩm chức năng và những sản phẩm khác (thuốc bắc) v́ thực phẩm chức năng (như Fucoidan) cũng có thể có những tác dụng phụ rất nguy hiểm như xuất huyết, có thể dẫn đến những tai hại khác, như trường hợp trên đây.
Nguồn www.mskcc.org
http://soha.vn/bac-si-ke-chuyen-hu-hon-vi-fucoidan-than-duoc-chua-ung-thu- 20180815161310882.ht m
Xem thêm:
SỐNG KHỎE với Dr. Wynn: Fucoidan chữa ung thư?
https://youtu.be/2Rm3MkHAr4E
florida80
06-07-2019, 18:30
Lợi Và Hại Của Thuốc Giảm Đau, ibuprofen - BS Hồ Ngọc Minh
https://i.imgur.com/Dsj4q8b.jpg
Thuốc ibuprofen rất tiện dụng và được sử dụng trên toàn thế giới cho mọi triệu chứng đau từ nhẹ cho đến nặng và kinh niên. (H́nh: Ngọc Lan/Người Việt)
Ngang bằng với thuốc Tylenol, thuốc ibuprofen rất tiện dụng và được sử dụng trên toàn thế giới cho mọi triệu chứng đau từ nhẹ cho đến nặng và kinh niên. Thuốc được bán dưới các thương hiệu như: Advil, NeoProfen, Caldolor, Children’s Profen IB, Infant’s Advil, Infant’s Ibuprofen, I-Prin, Children’s Ibuprofen, Motrin IB, Advil Migraine… Ở đây xin mở dấu ngoặc về quy luật đặt tên thuốc, tên thương hiệu viết hoa, c̣n tên generic th́ không, như vậy ibuprofen là tên generic.
Trong một bài viết trước đây, tôi đă phân loại các thuốc giảm đau và giải thích cơ chế hoạt động của mỗi loại thuốc. Trong bài này xin đề cập nhiều hơn về thuốc ibuprofen là một loại thuốc tiêu biểu trong nhóm có tên NSAIDS (nonsteroidal anti-inflammatory drugs).
Hiện tại thuốc ibuprofen được bán không cần toa bác sĩ, tuy nhiên, không phải v́ có thể mua không cần toa là thuốc không có sự nguy hiểm cho người dùng. Đa số mọi trường hợp, uống thuốc này giúp cho bớt đau nhức bắp thịt, đau đầu, đau xương, khá hiệu quả và tương đối an toàn. Tuy nhiên, thuốc là thuốc, nếu sử dụng bừa băi, thường xuyên sẽ đưa đến những phản ứng phụ không may.
Thuốc ibuprofen ra đời năm 1969 được bán theo toa bác sĩ tại Mỹ vào năm 1974 dưới thương hiệu Motrin. Liều lượng thuốc được quy định là 400 đến 800 milligrams, dùng tối đa một ngày bốn lần, tổng cộng là 3200 milligrams. Cách đây trên 30 năm, khi c̣n là bác sĩ nội trú, tôi vẫn thường cho toa bệnh nhân là 800 milligrams, ngày ba lần, tổng cộng là 2400 milligrams. Hiện nay, thuốc Motrin được cho bán không cần toa bác sĩ, với lời khuyên là 200 milligrams, ngày hai lần. Do đó, nếu cơn đau nặng, có thể sử dụng thuốc trên liều lượng ấn định trong thời gian ngắn hạn. Tuy nhiên, hạn chế không nên dùng thuốc quá 30 ngày, bất kỳ liều lượng.
Lạm dụng thuốc ibuprofen có thể gây ra những phản ứng phụ bất lợi.
Thuốc ibuprofen thuộc nhóm NSAIDs có tác dụng khống chế chất cyclooxygenase (COX). COX có hai loại COX-1 và COX-2, là chất xúc tác (enzymes) để cấu tạo ra các chất prostaglandins từ mỡ béo. Các chất prostaglandins này tăng cao khi bị đau, viêm xoang, bị chấn thương, hay nóng sốt. Nhưng, chúng cũng góp phần bảo vệ các tế bào mạch máu và tế bào lót bao tử, cũng như làm cho máu đông lại khi bị thương. Hiểu như vậy sẽ nhận ra tại sao sử dụng thuốc ngắn hạn sẽ giảm đau, giảm sưng nhưng khi dùng dài hạn sẽ làm hại đến hệ thống mạch máu, gây ra loét bao tử, và làm cho máu chảy không cầm.
1. Sử dụng thuốc ibuprofen quá nhiều sẽ làm đau bao tử
Chất prostaglandins sản xuất với sự hỗ trợ của chất xúc tác COX giúp bảo vệ các tế bào của bao tử và đường ruột. Bao tử thường xuyên tiết ra acid để giúp tiêu hóa thức ăn, prostaglandins bảo vệ tế bào hệ thống đường ruột không bị acid hủy hoại. Thuốc ibuprofen giảm lượng prostaglandins xuống, khiến tế bào ruột bị lở loét.
Nếu uống thuốc mà thấy đau bao tử và đi tiêu ra máu đỏ hay đen th́ phải ngừng thuốc ngay và hỏi thăm bác sĩ.
2. Sử dụng thuốc ibuprofen quá liều, có hại đến hệ thống tim mạch
Thuốc được bán dưới các thương hiệu như : Advil, NeoProfen, Caldolor, Children’s Profen IB, Infant’s Advil, Infant’s Ibuprofen, I-Prin, Children’s Ibuprofen, Motrin IB, Advil Migraine… (H́nh: Getty Images)
Các sản phẫm của chất COX tạo ra, đóng góp vào cơ chế cầm máu, đông máu, cũng như sự giăn nở, co thắt của mạch máu. Thuốc ibuprofen sẽ làm cho máu không cầm lại khi bị thương tích, và cũng làm tăng huyết áp v́ mạch máu thiếu đàn hồi, có thể dẫn đến suy tim.
3. Sử dụng thuốc ibuprofen quá liều, có thể làm suy thận
Hai trái thận hiểu nôm na là hai cái máy lọc nước được cấu tạo bởi một hệ thống mạch máu li ti mà khi máu chạy qua đó, chất dơ được thải ra thành nước tiểu, đồng thời các khoáng chất trong máu như potassium và sodium được cân bằng và băo ḥa. Nếu sự băo ḥa aày bị mất cân bằng, sẽ làm đảo lộn nồng độ acid pH của máu, cũng như là cho cơ thể mất nước hay dư nước sanh ra phù thũng.
Sự co thắt của hệ thống mạch máu nhỏ li ti trong trái thận, không những kiểm soát tốc độ và thể tích máu chảy qua hệ thống lọc, mà c̣n góp phần vào việc điều chỉnh áp suất máu của toàn bộ cơ thể. Thuốc ibuprofen cản trở sự đàn hồi của hệ thống mạch máu nầy, gây ra suy thận, và c̣n làm tăng huyết áp cơ thể.
4. Thuốc ibuprofen có thể ảnh hưởng đến hệ thống thần kinh
Sử dụng thuốc kinh niên có thể làm cho bị nhức đầu, mệt mỏi, chóng mặt, mất ngủ, và bị kinh phong.
5. Ngoài ra, không nên sử dụng thuốc ibuprofen trong các trường hợp sau đây:
Nếu uống rượu th́ không nên uống chung với thuốc ibuprofen, có thể làm tăng nguy cơ bị chảy máu đường ruột. Khi cơ thể khô nước, thí dụ như sau khi tập thể dục thể thao, không nên uống thuốc ibuprofen, có thể làm tăng nguy cơ bị suy thận. Dĩ nhiên, khi có thai th́ nên tránh thuốc ibuprofen hoàn toàn v́ có thể gây ra dị tật cho tim mạch cũng như hai lá phổi của em bé, và cũng tăng nguy cơ bị mất máu khi sanh đẻ.
Thuốc ibuprofen cũng không nên dùng chung với các loại thuốc dược thảo, phụ phẩm thí dụ như: bột nghệ, bột gừng, đơn qui, bột tỏi, nhân sâm, bột me, trà cúc và nhiều thứ linh tinh khác. Khi dử dụng chung, có thể tăng nguy cơ bị chảy máu không cầm.
Một số nghiên cứu gần đây cho thấy thuốc ibuprofen có thể giảm bớt nguy cơ bị bệnh Alzheimer khi sử dụng ở liều lượng thật thấp. Thuốc ibuprofen cũng có khả năng giảm bớt nguy cơ bị bệnh Parkinson. Tuy nhiên, nên cẩn thận, cân nhắc với những rủi ro có thể xảy ra trước khi dùng.
Tất cả những phản ứng phụ nêu trên đây đều tiêu biểu cho các loại thuốc trong nhóm NSAIDS. Ngoài thuốc ibuprofen (Advil, Motrin), các loại thuốc thông dụng khác trong nhóm gồm có: Aspirin (Bayer, Bufferin, và Ecotrin), Naproxen (Aleve, Anaprox DS, Naprosyn), và Celecoxib (Celebrex). Thuốc Aspirin là thuốc có ít phản ứng phụ tai hại nhất trong nhóm, ngược lại c̣n giúp pḥng chống các loại ung thư.
BS Hồ Ngọc Minh
https://i.imgur.com/RvA0ofX.jpg
florida80
06-07-2019, 18:33
42 Công Dụng Từ Giấm Cho Sức Khỏe Và Đời Sống
https://i.imgur.com/qTizdbG.jpg
Giấm là gia vị mà các bà nội trợ thường dùng trong nấu nướng. Loại chất lỏng lên men tự nhiên này c̣n có nhiều công dụng khác ngoài việc chế biến món ăn, có thể khiến bạn bất ngờ.
1. Diệt cỏ dại: xịt giấm nguyên chất vào những nơi cỏ dại mọc. Vài ngày sau cỏ sẽ tự héo rũ và chết.
2. Tăng độ axit của đất: pha khoảng ½ tách giấm vào 4 lít nước để tưới cây cảnh.
3. Ngăn ngừa kiến: xịt giấm vào những khe cửa, đồ dùng hoặc những nơi có kiến ḅ
4. Đánh bóng xe: dùng vải mềm thấm giấm nguyên chất để lau sạch và đánh bóng lớp sơn xe.
5. Khử mùi hôi ở chó: dùng giấm chà xát lên lông chó, sau đó tắm sạch.
6. Ngăn mèo: vẩy giấm lên những nơi mà bạn không muốn con miu miu mon men tới gần.
7. Lau sàn: ḥa một tách giấm trắng với 8 lít nước nóng và dùng nước này để lau sàn nhà.
8. Làm tươi rau bị héo: ngâm rau đă héo vào hỗn hợp gồm nước và giấm theo tỷ lệ 2 tách nước / 1 muỗng canh giấm.
9. Làm dịu vết ong hoặc sứa đốt: thoa giấm vào chỗ bị đốt để giảm đau và ngứa.
10. Chữa da bị cháy nắng: dùng giấm trắng chà nhẹ lên vùng da bị bỏng nắng, lặp lại nhiều lần cho đến khi cảm giác đau rát dịu đi.
11. Làm dầu xả cho tóc: thêm một muỗng canh giấm vào nước xả tóc để gội sạch phần dầu gội c̣n bám trên tóc.
12. Làm da bớt khô và ngứa: cho 2 muỗng canh giấm vào nước tắm.
13. Trị gàu: trộn hỗn hợp gồm giấm táo, nước và dầu ôliu, mỗi thứ hai muỗng canh. Dùng hỗn hợp này mát xa da đầu, để yên từ 15 đến 20 phút rồi gội lai bằng dầu gội.
14. Làm dịu cơn đau họng: Pha 1 muỗng canh giấm táo vào 1 ly nước. Dùng nước này xúc miệng và uống.
15. Trị viêm xoang và viêm phế quản: ḥa ¼ tách giấm (có thể nhiều hơn) vào máy tạo hơi và hít hơi nước có chứa giấm.
16. Khử mùi cống trong bếp: mỗi tuần 1 lần đổ 1 tách giấm xuống cống, để yên trong khoảng 30 phút sau đó giội sạch lại bằng nước.
17. Khử mùi hành: thoa giấm vào ngón tay trước và sau khi cắt hành.
18. Làm sạch và diệt khuẩn cho thớt gỗ: dùng giấm nguyên chất để rửa thớt.
19. Tẩy sạch mủ trái cây dính ở tay: thoa giấm vào tay có dính mủ.
20. Tẩy dầu mỡ và khử mùi trên chén đĩa: ḥa 1 muỗng canh giấm với nước xà pḥng ấm rồi rửa chén đĩa.
21. Rửa sạch b́nh trà: đun sôi hỗn hợp giấm và nước, rót vào b́nh trà, các vết ố vàng cứng đầu sẽ bị tẩy sạch.
22. Làm sạch hộp đựng thức ăn: dùng bánh ḿ ngâm vào giấm rồi đặt bánh ḿ vào hộp đựng thức ăn và để qua đêm.
23. Làm sạch tủ lạnh: chùi rửa tủ lạnh bằng hỗn hợp gồm ½ nước và ½ giấm.
24. Thông cống: đổ 1 nắm bột soda xuống cống, đổ tiếp ½ tách giấm, đậy nắp cống và để yên trong khoảng 20 giây rồi dội sạch bằng nước nóng.
25. Rửa và khử mùi chai lọ: dùng giấm rửa các chai lọ để khử mùi hôi c̣n vương lại.
26. Làm sạch máy rửa chén: cho 1 tách giấm vào ṿng quay cuối để làm sạch xà pḥng c̣n bám trong ḷng máy và đồ thủy tinh. Có thể làm mỗi tháng 1 lần.
27. Tẩy sạch đồ dùng bằng thép không gỉ: dùng khăn nhúng giấm để lau chùi đồ dùng bằng kim loại.
28. Tẩy vết bẩn ở ấm, b́nh, chậu: cho 3 muỗng canh giấm và khoảng ½ lít nước vào ấm, b́nh có vết bẩn. Đặt lên bếp và đun sôi cho đến khi vết bẩn biến mất.
29. Làm sạch ḷ vi sóng: đun sôi 1 tách nước có pha thêm ¼ tách giấm trong ḷ vi sóng sẽ giúp khử mùi hôi và tẩy sạch vụn thức ăn c̣n bám trong ḷ.
30. Tẩy vết hoen gỉ ở vật bằng kim loại: ngâm vật cần tẩy vào dung dịch giấm nguyên chất.
31. Khử mùi nấu nướng: đặt một xoong nhỏ có hỗn hợp nước và chút xíu giấm đun riu riu trên bếp. Hơi nước tỏa ra sẽ khử được mùi thức ăn c̣n vương trong bếp.
32. Làm thông bàn ủi hơn nước: cho hỗn hợp gồm ½ giấm và ½ nước vào ngăn chứa nước. Điều chỉnh sang chế độ ủi hơi và để bài ủi dựng đứng trong khoảng 5 phút.
33. Tẩy vết cháy trên bàn ủi: đun nóng hỗn hợp giấm và muối (mỗi thứ một nửa), chà hỗn hợp này lên bề mặt bàn ủi (lúc nguội) để tẩy sạch vết cháy đen.
34. Làm mượt vải: ḥa thêm ½ tách giấm vào nước xả cuối để làm vải bớt xơ và giữ màu tốt hơn.
35. Làm sạch máy giặt: cho vào máy 1 tách giấm, khởi động chu tŕnh giặt như b́nh thường (không có quần áo) để tẩy sạch xà pḥng c̣n sót lại trong máy.
36. Tẩy vết bẩn trên quần áo: cho giấm vào chỗ có vết bẩn, ṿ nhẹ trước khi giặt.
37. Khử mùi thuốc lá ở quần áo: xả nước nóng vào bồn tắm, cho thêm 1 tách giấm rồi cho quần áo vào.
38. Làm sạch lớp đề can dính trên vải: dùng bàn chải thấm giấm chải vài nơi cần tẩy đề can hoặc ngâm quần áo với giấm trước khi giặt.
39. Chùi mắt kính: Nhỏ vào mỗi tṛng mắt kính 1 giọt giấm sau đó lau sạch lại bằng vải.
40. Giữ hoa tươi lâu: ḥa 2 muỗng giấm và 1 muỗng đường vào mỗi lít nước cắm hoa.
41. Dập lửa: đổ giấm vào ngọn lửa đang cháy bùng để đập tắt lửa
42. Làm sảng khoái tinh thần: cho 1 muỗng giấm táo vào ly nước, thêm tí đường. Vậy là bạn đă có một ly nước giải khát có ích cho cơ thể.
Theo Hồng Xuân
Phụ nữ Online/Canadaliving.com
florida80
06-07-2019, 18:36
Người Cao Tuổi Tập Đi Bộ: Lợi Và Hại! - BS Hùynh Bá Lĩnh
Trong chúng ta, nhiều người thường nhầm lẫn vấn đề pḥng bệnh với chữa bệnh. Pḥng bệnh là các phương pháp được áp dụng cho những người khỏe mạnh hoặc có yếu tố nguy cơ của một bệnh nào đó. C̣n chữa bệnh là những phương pháp được áp dụng để chữa khỏi các căn bệnh đă thể hiện ra. Ví dụ, người ta pḥng ngừa loăng xương bằng cách uống sữa từ khi c̣n trẻ, chứ không phải đợi đến lúc bị loăng xương rồi mới t́m sữa để uống.
Đi bộ được xem là một phương pháp pḥng bệnh hơn là chữa bệnh. Nó tiện lợi v́ bất cứ ai cũng có thể luyện tập được, không cần trang bị dụng cụ ǵ ngoài một đôi giày; không cần thể lực cường tráng cũng như năng khiếu. V́ thế được những người cao tuổi rất ưa chuộng.
Người Cao Tuổi Có Nên Tập Đi Bộ ?
Giống như mọi môn thể thao khác, đi bộ giúp tăng cường sức khỏe cho cơ thể. Nó thích hợp cho những bệnh nhân tim mạch v́ không cần tốn nhiều sức lực, động tác đơn giản, có thể tự điều chỉnh cường độ và thời gian luyện tập. Tuy nhiên không phải ai tập đi bộ cũng cho kết quả tốt. Có nhiều người càng đi lại càng bị đau nhiều hơn, đặc biệt là những bệnh nhân đau khớp.
Với những khớp gối b́nh thường, khi duỗi gối, lực ép lên khớp chè đùi gần bằng 0. Khi đi bộ, lực ép này bằng 1/2 trọng lượng cơ thể, tức vào khoảng 25-40kg. Người càng béo th́ tải trọng này càng lớn và lực càng tăng khi thời gian đi càng dài. Điều này giải thích nguyên nhân v́ sao một số người cảm thấy đau gối sau khi tập đi bộ. Cơn đau này không giảm đi mà ngày một tăng dần, tỷ lệ thuận với thời gian đi bộ, trọng lượng cơ thể và mặt dốc, độ gập ghềnh của đường tập.
Trên thực tế, nhiều bệnh nhân đau khớp dù thấy đau cũng cố gắng tiếp tục tập đi bộ, v́ vậy có thể dẫn đến hậu quả là khớp ngày càng tổn thương nhiều hơn. Mà đau chính là dấu hiệu báo động của cơ thể, khi đó cần phải giúp cơ quan bị bệnh được nghỉ ngơi để hồi phục trở lại. Khớp xương cũng vậy, khi đau nhức là do bị viêm khớp, sự nghỉ ngơi lúc này rất cần thiết và cũng là phương pháp giúp giảm đau. Nếu cứ đi bộ trong khi viêm khớp gối, chắc chắn bệnh nhân sẽ bị đau hơn.
Đa số người cao tuổi ai cũng bị thoái hóa khớp gối (osteoarthritis). Thực chất của bệnh là t́nh trạng lăo hóa của khớp gối qua nhiều năm; Các lớp sụn khớp bị hư hỏng, trục xương cong vào trong. Càng đi nhiều sẽ càng làm khớp hư thêm. Lư do là khi đi đứng, sẽ tạo một sức đè ép lên các mặt sụn khớp đă bị thoái hóa. Lớp sụn đó có tác dụng hấp thu lực đè ép. Nay tác dụng này giảm đi hoặc không c̣n nên sẽ tạo những sang chấn trên hai đầu xương, gây ra hiện tượng viêm khớp. Từ đó dẫn đến cơn đau khớp khi bệnh nhân đứng hay đi. V́ thế với những bệnh nhân này, người ta khuyến cáo phải hạn chế đi lại. Khi đi bộ, cần phải có nạng hay gậy nâng đỡ để giúp giảm tải trọng lên bề mặt khớp hư.
Với những lư do trên, các chuyên gia về xương khớp đă đánh giá đi bộ không phải là môn thể thao tốt đối với người cao tuổi.
Tập Luyện Môn Ǵ Thích Hợp Cho Người Cao Tuổi ?
Những người cao tuổi không có triệu chứng đau gối vẫn có thể tập đi bộ, nhưng cần lưu ư đến cường độ và thời gian tập luyện sao cho phù hợp với cơ thể. Khi có triệu chứng đau nhức, cần giảm bớt mức độ tập luyện hay nghỉ ngơi một thời gian rồi mới tập lại. Có nhiều người tập đi bộ từ thời c̣n trẻ không có vấn đề ǵ, nhưng một ngày nào đó khi tuổi đă cao bỗng thấy có vấn đề ở đầu gối. Đó là v́ họ không biết giảm bớt sự vận động cho phù hợp với tuổi tác. Chỉ cần đi ít lại, chậm hơn một chút sẽ giúp cơ thể dễ chịu ngay.
Người cao tuổi rất cần có sự vận động nhưng phải phù hợp với thể trạng. Nguyên tắc vận động ở người cao tuổi là nhẹ nhàng, chậm và liên tục. Tại sao phải như vậy? V́ cơ thể người cao tuổi như một cái máy cũ kỹ, quá tŕnh lăo hóa khiến các hệ thống cơ bắp, dây chằng không c̣n tính đàn hồi tốt nữa. Những cử động vừa nhanh, vừa mạnh có thể làm tổn thương các cơ bắp và dây chằng vốn dĩ đă chai cứng, tính giăn nở đă yếu nhiều. Sự cử động chậm và nhẹ sẽ giúp co giăn từ từ các dây chằng và cơ bắp. Nếu luyện tập liên tục và đều đặn, nó sẽ giúp cải thiện rất nhiều sự dẻo dai của các khớp xương.
Với người cao tuổi, đi xe đạp tốt hơn đi bộ. Tốt nhất là tập vơ dưỡng sinh. Đặc điểm của các động tác trong bài quyền được thực hiện thật chậm răi, phong thái nhẹ nhàng, đặt ư nghĩ và hơi thở đi theo động tác của tay chân. Nguyên lư này hoàn toàn phù hợp với thể chất của người cao tuổi. Thực tế cho thấy nhiều người tập đă cảm thấy cơ thể ngày càng khỏe hơn, ít bệnh tật đau ốm vặt. Tuy nhiên cần lưu ư môn vơ dưỡng sinh hiện nay đă bị người ta cải biến rất nhiều. Mỗi người thêm thắt một chút khiến nó không c̣n giữ được cái thần khí nguyên thủy của người xưa. Ví dụ người ta cho các cụ ông, cụ bà tập những bài tập khởi động của các môn thể dục thể thao phương Tây như xoay gối, cúi gập người, bẻ lưng, thậm chí chạy nhảy tại chỗ. Những động tác này rất hại cho các khớp, đặc biệt là cột sống thắt lưng và khớp gối. Chúng chỉ thích hợp cho thanh niên luyện tập các môn thể thao mạnh mẽ, chứ không phù hợp với cơ thể người cao tuổi.
Bệnh Nhân Tim Mạch Có Nên Tập Đi Bộ ?
Với những bệnh nhân trẻ tuổi, hệ thống khớp xương gân cơ c̣n tốt, th́ đi bộ là môn vận động hàng đầu được chọn lựa để luyện tập, có thể giúp nâng cao sức chịu đựng và sức làm việc của tim. Tuy nhiên, sự vận động quá mức cũng sẽ làm xấu thêm t́nh trạng suy tim và bệnh thiếu máu cơ tim. Đă có những bệnh nhân tử vong trong khi đi bộ do cố gắng tập quá sức. Thời gian đi bộ và quăng đường đi cần được theo dơi và giám sát bởi bác sĩ.
Với người cao tuổi bị bệnh tim mạch th́ sao? Sở dĩ bác sĩ khuyên những bệnh nhân tim mạch nên đi bộ v́ đây là một môn vận động nhẹ nhàng, không tốn nhiều sức. Ai tập cũng được v́ nó đơn giản, không cần sân tập và trang thiết bị kèm theo. Nhưng một khi đă có vấn đề xương khớp, tại sao bạn không chọn lựa những môn khác tốt hơn như tập vơ dưỡng sinh, thể dục tay không, đạp xe đạp, bơi lội? Khi tập đi bộ, cần cân nhắc cường độ theo tuổi tác; Thời gian tập và quăng đường đi cần phải giảm dần theo thời gian (là điều căn bản khác với khi c̣n trẻ). Đi tập vào buổi sáng cần giữ ấm và mang giày thích hợp với bàn chân. Khi có triệu chứng đau gối hay đau lưng th́ lập tức phải nghỉ ngơi hoặc giảm ngay thời gian đi.
BS Hùynh Bá Lĩnh
florida80
06-07-2019, 18:38
Hạ Đường Huyết Nguy Hiểm Hơn Tăng
Nhắc đến bệnh đái tháo đường (ĐTĐ), rất nhiều bệnh nhân, thậm chí cả thầy thuốc luôn nghĩ đến t́nh trạng đường huyết tăng cao và t́m mọi biện pháp để hạ chỉ số đường máu xuống mà quên rằng đường máu xuống thấp quá mức b́nh thường là rất nguy hiểm, thậm chí nguy hiểm hơn tăng đường huyết rất nhiều và có thể gây tử vong nhanh chóng nếu không được xử trí cấp cứu kịp thời.
Nguy cơ gây hạ đường huyết (HĐH)
Cũng như các cơ quan khác trong cơ thể, năo sử dụng glucose như một nguồn năng lượng chính. Một phần nhỏ glucose được lấy từ glycogen chứa trong các tế bào h́nh sao nhưng lượng glycogen này chỉ đủ dùng trong vài phút. Phần lớn glucose được lấy từ máu và khi lượng đường trong máu giảm sẽ gây các triệu chứng về thần kinh (TK). Theo hiệp hội đái tháo đường Hoa Kỳ (ADA), lượng đường máu an toàn lúc đói là 90 -130mg/dl (5,0- 7,2mmol/l), sau bữa ăn 1-2 giờ: nhỏ hơn 180mg/dl (10mmol/l),trước lúc đi ngủ vào khoảng : 110 -150mg/dl (6,0 – 8,3mmol/l). Các triệu chứng TK xuất hiện khi lượng đường trong máu xuống dưới 3.6 mmol/L (65mg/dL) và khi lượng đường máu xuống dưới 0.55 mmol/L (10 mg/dL) th́ các nơ ron TK mất hoạt động điện học và bệnh nhân nhanh chóng đi vào hôn mê.
Khi đường máu xuống thấp dưới ngưỡng, cơ thể tăng sản xuất các hoócmôn làm tăng đường huyết như adrenaline, glucargon theo cơ chế tự bảo vệ. Sự gia tăng các hóc môn này gây nên các triệu chứng kinh điển của hạ đường huyết như cảm giác cồn cào, mạch nhanh, da tái lạnh, bủn rủn chân tay…
Hạ đường huyết (HĐH) là một biến chứng hay gặp ở các bệnh nhân ĐTĐ đang được theo dơi điều trị bằng thuốc uống hoặc insulin tiêm. Các yếu tố nguy cơ bao gồm: Dùng liều thuốc HĐH quá cao, quá lâu; Bệnh nhân kiêng khem quá mức; Các yếu tố làm bệnh nhân bỏ ăn (mà vẫn dùng thuốc) như cúm, nhiễm khuẩn…; Do uống quá nhiều rượu, nhất là uống rượu mà không ăn ǵ; Dùng liều insulin chưa thích hợp; Bệnh nhân đang dùng thêm các thuốc khác có thể gây HĐH, hoặc dùng phối hợp nhiều loại thuốc HĐH với nhau mà theo dơi không kỹ;…
Có thể tử vong do chủ quan
Bệnh nhân Nguyễn Thị H, 56 tuổi ở Hà Nội cấp cứu tại Bệnh viện ETrung ương trong t́nh trạng co giật hôn mê do bị hạ đường huyết. Bệnh nhân đang được điều trị đái tháo đường type 2. Hai ngày trước khi vào viện, bệnh nhân mệt, ăn uống kém, khi gia đ́nh phát hiện bệnh nhân bệnh nhân đă rơi vào t́nh trạng hôn mê. Các bác sĩ chẩn đoán bệnh nhân bị hôn mê do hạ đường huyết.
Một bệnh nhân khác là Trần Văn Th. 76 tuổi, ở Hà Nội cũng phải cấp cứu trong t́nh trạng hôn mê. Bệnh nhân có tiền sử bệnh đái tháo đường typ 2 nhưng phải điều trị bằng insulin bán chậm 25 UI/ngày tiêm DD. Buổi trưa trước khi vào viện, bệnh nhân uống rượu và không ăn ǵ, tới chiều tối vẫn tiêm 20 UI insulin DD. 19h, gia đ́nh phát hiện bệnh nhân đă hôn mê… Sau khi được cấp cứu và điều trị kịp thời bệnh nhân đă qua khỏi cơn nguy hiểm…
BN Nguyễn Văn B, 58 tuổi được đưa vào cấp cứu v́ chấn thương sọ năo do TNGT. Làm XN đường máu xuống quá thấp. Bệnh nhân đang uống thuốc trị ĐTĐ, hai ngày trước đó có sốt, ăn uống kém, vẫn uống thuốc theo đơn. Buổi sáng bệnh nhân đi xe máy, thấy choáng váng, bủn rủn chân tay, vă mồ hôi, tự ngă gây tai nạn…
Trên thực tế t́nh trạng hạ đường huyết ở bệnh nhân đái tháo đường thường xảy ra khi bệnh nhân đang ở nhà, hoặc đang đi xa, khi đang ngủ…nên ít khi được người thân phát hiện để đưa đi cấp cứu kịp thời, nên thường dẫn đến biến chứng nặng nề như hôn mê, tử vong do hôn mê quá giai đoạn, suy hô hấp quá nặng do sặc phổi (dịch vị, thức ăn, dịch hầu họng,cá biệt có trường hợp do răng giả gây bít tắc đường hô hấp khi BN hôn mê). Nguy hiểm hơn là t́nh trạng HĐH xảy ra khi người bệnh đang lao động hoặc đang điều khiển các phương tiện giao thông nên rất dễ gây tai nạn.
Biểu hiện HĐH ở bệnh nhân ĐTĐ
Khởi đầu, người bệnh cảm thấy mệt, chân tay bủn rủn, vă mồ hôi lạnh,cảm giác cồn cào trong ruột, mạch nhanh, huyết áp tăng nhẹ, tim đập nhanh. Nặng hơn, bắt đầu xuất hiện những cơn co giật và đi vào hôn mê ởcác mức độ khác nhau. Khi bệnh nhân hôn mê, các phản xạ nuốt và ho sặcrất kém hoặc mất dẫn đến t́nh trạng sặc dịch hầu họng, dịch vị, thứcăn… vào phổi gây viêm phổi suy hô hấp nặng, có trường hợp tử vong.Ngay cả khi đă được điều trị tích cực, các di chứng thần kinh sau hôn mêhoặc do thiếu o xy năo quá lâu cũng thường gặp như chóng mặt, đau đầu,suy giảm trí nhớ, mất tập trung, các cơn co giật kiểu động kinh thậm chítổn thương năo quá nặng nề khiến cho bệnh nhân tuy được cứu sống nhưngphải sống kiểu thực vật, không c̣n chất lượng cuộc sống.
Cần làm ǵ khi bị HĐH?
Ngay khi nghi ngờ hoặc có biểu hiện của HĐH, người bệnh cần uống ngay một cốc nước đường, sữa, ăn bánh kẹo, hoa quả ngọt (ví dụ: chuối) để nhanh chóng nâng đường huyết lên. Cần đặc biệt chú ư, khi người bệnh đă có biểu hiện hôn mê, không nên cho ăn uống rất dễ bị suy hô hấp do sặc, trường hợp này phải đưa đến bệnh viện ngay. Dừng tất cả các loại thuốc điều trị ĐTĐ đang dùng sau đó đến ngay cơ sở y tế kiểm tra lại đường huyết. Tại cơ sở y tế, nếu t́nh trạng người bệnh nặng các bác sĩ có thể tryền đường 5%, 10% hoặc tiêm glucargon hoặc corticoid để làm tăng đường huyết và điều trị các biến chứng nếu có.
Quan trọng là pḥng tránh
Tâm lư chung của các bệnh nhân ĐTĐ là rất sợ đường huyết tăng. Thậm chí có người nhịn ăn cả cơm để tránh tăng đường huyết. Điều này rất nguy hiểm. V́ vậy, để tránh t́nh trạng HĐH xảy ra, người bệnh cần:
•Tuân thủ đúng chỉ định điều trị của bác sĩ về chế độ dùng thuốc và chế độ ăn uống điều trị bệnh ĐTĐ. Loại bỏ các yếu tố nguy cơ như kiêng khem quá mức, bỏ ăn v́ mệt mỏi hoặc do các bệnh lư khác…
•Cần có chế độ tập luyện thường xuyên, phù hợp đối với từng người theo tư vấn của bác sĩ điều trị để đảm bảo sức khoẻ.
•Thường xuyên kiểm tra đường huyết tại các cơ sở y tế hoặc có thể tựlàm kiểm tra tại nhà bằng cách theo dơi đường máu mao mạch theo chỉ dẫn của nhân viên y tế./.
Theo Sức khỏe và đời sống
florida80
06-07-2019, 18:41
Một Ngày Với Tuổi Trăm Năm - Cao Đắc Vinh
Tác giả là một kỹ sư hồi hưu, đă sống 25 năm bên Pháp, 25 năm ở Mỹ, hiện cư ngụ tại Irvine cùng gia đ́nh. Sau đây là bài viết về nước Mỹ thứ tư của ông.
Bố tôi là cụ già đang sống trên tuổi trăm năm.
Cụ b́nh an ở cơi trần 103 năm tính đến năm nay Quư Tỵ 2013. Con số tuổi thọ của Cụ tiếp tục cao giống như lời chúc mọi người thường tặng nhau mỗi khi Tết đến, xuân về.
Bố tôi vẫn ăn được, ngủ được nên gọi Cụ là "Tiên giáng trần" theo như câu vè lưu truyền trong dân gian: "Ăn được ngủ được là tiên, không ăn không ngủ mất tiền thêm lo..." nhưng thực tế, Cụ vẫn là "người" nên chẳng thể nào tránh khỏi cái chân lư sinh lăo bệnh... của kiếp ba sinh. Một người già sống đến trăm tuổi nếu c̣n khỏe mạnh th́ cũng chẳng khác cỗ xe cũ là mấy! Động cơ hao ṃn, lúc chạy lúc ngừng tùy theo thời tiết nắng mưa... Bố tôi cũng đang bước qua chiếc cầu khổ đau của bệnh tật và thường hay than thân trách phận: "Đoạn trường ai có qua cầu mới hay!"
Sống trăm tuổi chắc chắn bệnh tật phải xếp hàng chờ đợi, không nặng th́ nhẹ... Có điều là ở đời, nếu ai may mắn ít bệnh nan y lại hay tạo ra cảnh "Nhà giầu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột". Bố tôi chẳng phải ngoại lệ! Mỗi khi trời buồn đổ mưa, cho dù thuốc men đầy đủ, con cái cũng vẫn nghe tiếng Cụ rên rả rích như tiếng mưa rơi lộp bộp trên mái nhà! Cụ không c̣n đủ sức tự chế để an hưởng phúc lợi mà trời ban riêng cho ḿnh ở tuổi "bách niên," có lẽ v́ ít thấy cảnh khổ của kẻ khác nên hay bực dọc với bất cứ bất an nhỏ bé nào đến với ḿnh.
Quan sát tuổi già của Bố, tôi nghiệm thấy một sự thật đơn giản là con người ngoài số mệnh sẵn có, sống thọ và ít đau yếu c̣n nhờ vào sức mạnh miễn nhiễm của cơ thể. Qua bao chu kỳ bốn mùa, hết xuân lại vào thu với dị ứng, cảm cúm ŕnh rập, Bố tôi chẳng lần nào chích ngừa mà vẫn khỏe, vi khuẩn vô t́nh xâm nhập tấm thân già ấy cũng phải tàn lụi v́ hợp chất kháng thể. Mùa đông vừa qua, bệnh cúm hoành hành khắp các tiểu bang... Tôi đến thăm vào một buổi trưa, bàng hoàng thấy Cụ lâm trọng bệnh. Cụ ngồi ở "sofa", cặp mắt cá ươn lạc mất hồn, mê man nên không than thân như thường lệ! Ói mửa trên người, nước mũi chẩy xuống áo quần, hơi thở ngẹt v́ đờm trong cổ làm cả nhà sợ hăi. Anh cả lên tiếng phiền hà em lơ đăng quên chích ngừa cho Bố, em trách anh biết lo xa, thế mà lơ là chẳng giúp? Bác sĩ khám bệnh và kê thuốc ho qua loa, ngạc nhiên chỉ một tuần sau, Cụ b́nh phục rồi những lúc sảng khoái lại líu lo như chim xuân đang về.
Rượu mạnh Cognac, Whisky... hết c̣n thích hợp với sức khỏe của Cụ nhưng thỉnh thoảng ăn miếng thịt ḅ cơm Tây hay "seafood" cơm Tầu th́ vẫn nhâm nhi một ly vang đỏ. Bạn bè Cụ đa số đă ra người thiên cổ chỉ c̣n vài ông bạn già tuổi kém gần thập niên hay một con giáp. Ở tiệm ăn, có người nhận ra Cụ, vui mừng đến chào hỏi nhưng bẽ bàng v́ Cụ dửng dưng không c̣n nhớ kỷ niệm nào với họ...
Tiên sinh Tú Xương một thời đă than, "Một trà, một rượu, một đàn bà. Ba cái lăng nhăng nó quấy ta! Bỏ được thứ nào hay thứ đó..." Bố tôi th́ chẳng muốn bỏ thứ nào cả nhưng hoàn cảnh ở Mỹ bây giờ hấp dẫn chỉ c̣n mỗi mục "trà" nên đành phải lấy cà phê, thuốc lá làm thú giải khuây. Ngồi buồn một ḿnh, Cụ đốt liên tu bất tận, một ngày một bao thuốc như chơi và phân trần khói thuốc hút vào lại thổi ra như c̣i tầu, có nuốt vào phổi đâu mà sợ độc hại? Nếu tôi cắt nghĩa về ảnh hưởng của khói thuốc đối với con cháu trong nhà th́ Cụ nghĩ tôi gây chuyện làm khó rồi lẳng lặng vào pḥng đóng cửa hút, khói bay mù mịt. Cụ uống cà phê đen có đường thay nước! Mỗi ngày hai ba lần, tôi pha từng đợt để giữ mùi thơm và độ nóng rồi mang ra "patio" chỗ Cụ ngồi cùng với vài điếu thuốc lá. Hút xong là hết cho ngày hôm đó, mục đích hạn chế liều lượng và kiểm soát Cụ th́ mới yên ổn sống chung được...
Bữa ăn ngon lành nhất của Cụ là "phở gà phao câu" hay "hủ tiú sa tế". Ăn "steak" th́ có Norm s Restaurant trên đại lộ Beach nhưng phải chờ thứ sáu đặc biệt có món súp "clam chowder" mà Cụ thích! Nói chung, Cụ chỉ chuộng những món thuộc loại "kinh dị" chẳng hạn sa tế có nước dừa kẻ thù của cao mỡ, "clam chowder" có "cream" mà người Mỹ thường phải bỏ bớt % "fat" và cuối cùng là cái của quư "nhất phao câu nh́ đầu cánh" v́ cục mỡ vàng ở đuôi con gà... Hôm nay Cụ đă ăn món này th́ mai ăn món kia. Đi không vững, phải d́u từng bước nhưng tính thích đi chơi nên nếu biết sẽ được đến những nơi ấy th́ bỗng nhiên Cụ trở thành "em bé" dễ bảo. Do đó tôi thường dùng "chiêu" này để "dụ" Cụ đi tắm, thay tă và quần áo vào buổi sáng đến chăm sóc.
"Cơm hàng, cháo chợ" ăn quen đến nỗi, vừa đến cửa tiệm phở Quang Trung hay hủ tiếu Triều Châu là đă nghe mấy cô cậu làm việc ở đấy kháo nhau ầm ĩ khi hai cha con tôi khập khiễng bước vào: "Bố đến! Phao câu bánh tươi hành trần..." Những người trẻ ấy, lứa tuổi cháu chắt của Cụ nhưng sống bên Mỹ lâu năm, ít nhiều đă quên phép tắc thưa gởi đúng đắn nên chúng tôi chỉ biết cười x̣a, miễn sao vui cửa vui nhà và nếu vui cả bà con cửa tiệm th́... càng vui hơn.
Hôm nào ngon miệng, Cụ có thể ăn hết tô phở nhỏ, tay cầm từng miếng phao câu da vàng mỡ, nhai chậm răi rồi lọc ra cục xương nhỏ, cả thẩy là 7, 8 cái "đít" gà... có khi bùi béo quá, vô ư Bố rớt cả hàm răng giả ra ngoài! Tôi nh́n quanh, lo cho những người ngồi gần bàn ḿnh, thấy cảnh ít thẩm mỹ này sợ họ ăn mất ngon nhưng chẳng ai để ư và phiền trách một cụ già. Biết Bố c̣n thích ăn tiệm nên buổi trưa nào gặp nhau, dù có vất vả tôi cũng coi như bổn phận, vui vẻ dắt Cụ cùng đi.
Tuổi già xương yếu, đi đứng khó khăn nên Cụ ngồi nhiều sinh ra chứng bệnh táo bón. Cằn nhằn măi mà vẫn chưa tiêu, uống 2 viên thuốc nhuận tràng "Bisacodyl" không thấm, tự động Cụ lấy thêm 3 viên nữa... Kết quả là tiêu chẩy tung tóe từ pḥng vệ sinh đến pḥng ngủ và mấy chị em tôi phải giặt giũ, dọn dẹp nửa ngày chưa xong!
Mặc dù phải dắt Cụ từng bước v́ lỡ té ngă th́ khổ cả nhà nhưng mỗi khi thấy quư bà đến gần hỏi thăm là Cụ tự ư chống gậy đứng một ḿnh, tay đút túi quần ra cái điều vẫn "ngon lành", c̣n "gân", độc lập, tự chủ không cần ai. Tṛ chuyện qua loa, các bà thường hay ban tiếng khen vô thưởng vô phạt, Bố tôi tức th́ nhăn mặt đáp lễ với lời than thở: "Dạo này, yếu lắm không khỏe!". Tuổi già đau nhức kinh niên, "ỉ ôi" mong đợi sự cảm thông chia sẻ của quư bà.
Chuyện "lấy le" nhỏ như "con thỏ" ấy đôi khi thành to trên đường phố xứ người, gây ra nhiều hiểu lầm với dân Mỹ sẵn bản tính trọng đăi người già! Ở những chốn ăn chơi như Las Vegas, Big Bear... Cụ muốn chống gậy khập khiễng đi một ḿnh một phố, "complet" "cravate" đầy đủ chỉ cần phong độ và dáng dấp "ngầu" thuở xưa nữa là xong! Cứ "lê" một bước, Cụ lại đứng nh́n... Tôi cũng phải "lết" theo Cụ canh chừng. Mỗi lần thấy Cụ chậm chạp quá! Tội nghiệp tôi lại gần khoác tay, dắt Bố để cha con cùng đi bên nhau thủ thỉ cho ngày dài thêm ư nghĩa th́ Cụ đuổi thẳng thừng: "Đi, đi! Cứ đi trước đi! Ông để mặc tôi..." nhưng đi trước là đi đâu? Thành ra hai cha con cứ đứng giữa đường, kẻ trước người sau ngơ ngác lo cho nhau như đang diễn tuồng! Khách bộ hành không quen cảnh tượng ấy, ái ngại nh́n hai người như muốn hỏi: "Whats going on?". Cuối cùng, có ông Mỹ cả nể đến gần hỏi han th́ Cụ "nể cả" với nụ cười "ngoại giao" ṛn tan, lịch sự líu lo "xổ" tiếng "Phú lang xa" và lẽ dĩ nhiên, tiếng Mỹ tiếng Pháp loạn xạ, chẳng ai hiểu ai rồi ngượng ngùng "Oui Monsieur", "Bye Bye" đường ai nấy đi! Lúc đó, tôi chỉ thấy chán nản v́ bất lực... Bố con đi chơi chẳng vui mà như mắc nợ, hành tội nhau khổ sở. Tính t́nh như thế nên Cụ không bao giờ thích ngồi xe lăn, lần nào mang xe đi cũng lại vác về ngoại trừ những chuyến đi chơi xa, miễn cưỡng chẳng đặng đừng, Cụ mới chịu "lép vế" an tọa, chờ người đẩy.
"Bách niên" sống lăo th́ nhân sinh lại quay về điểm khởi đầu nên thân già co cụm trong tâm hồn trẻ thơ là chuyện thường t́nh. Trời cho Cụ bản chất lạc quan, sức khỏe đặc biệt hơn người cho nên cản trở lớn nhất của Bố tôi đối với gia đ́nh là tính kiêu căng vẫn c̣n sót ở tuổi già đang quay lại thời "tuổi thơ": giỏi nhất, kinh nghiệm nhất, thông minh nhất, đội đá vá trời... chỉ v́ cái tự cao "chủ nghĩa" lẩm cẩm. Bề ngoài giao tế tỏ vẻ "trịch thượng" nhưng nếu tự vấn ḷng, khó ai biết sự thật Cụ nghĩ ǵ? Ai lỡ yêu thương, vồn vă chăm sóc th́ Cụ làm cao, "ăn hiếp" đến "tắt thở" rồi cuối cùng phải dùng đến "đ̣n phép" mới được yên thân và ngược lại, đứa con nào thờ ơ, không để ư đến Cụ cũng phải nghe phiền trách mỗi khi giáp mặt.
Bên cạnh Bố, tôi thường nghe Cụ than, "Lạ nhỉ! Suốt đời, tôi có ăn ở tệ bạc với ai đâu mà chúng nó đối xử như người dưng nước lă..." nhưng thực tế, từng ấy người con mỗi đứa một tính giống như bàn tay có ngón dài ngón ngắn. Cụ nghĩ đến "ngón ngắn" v́ "thiếu thốn" nên ưu tiên lưu ư đứa "ghét" Cụ hoặc chẳng may bị Cụ ghét, c̣n đứa thương ví như "ngón dài" đă "đầy đủ" th́ Cụ thờ ơ, ít để tâm suy nghĩ. Nói cho cùng, nếu ai lỡ "ghét" cũng do tính t́nh khó khăn của Cụ v́ mỗi lúc không đúng ư là Cụ la mắng và giận hờn nên đa số chán nản, tránh xa phiền muộn do Cụ gây nên để t́m sự b́nh yên cho riêng ḿnh.
Bố tôi tuổi Thân đă qua hơn 8 lần con giáp! Theo tử vi, bản tính tự cao, tự đại một phần do cái số cầm tinh con khỉ (?). Xin lỗi người tuổi Thân... Tôi nêu ư nghĩ ấy bởi v́ đôi lần muốn t́m lại một nơi chốn cũ, Cụ ngồi trên xe vẫn dơng dạc chỉ đường cho tôi nhưng đường nào th́ cũng chỉ là bánh vẽ của một kư ức "mù mịt khói sương"...
- "Đi lối này gần! Ông đi lối kia ṿng co tam quốc, mất th́ giờ chẳng ăn thua mẹ ǵ, chán quá! Cứ theo tôi. Đấy đấy..." Nghe theo cái "GPS" "cảm tính" kém chính xác của Bố, lái xe quẹo Đông sang Tây, từ Nam lên Bắc loạn xạ cho nên lần nào xe cũng từ từ đi vào ngơ cụt... Đến khi bí quá th́ lại nghe Cụ "phán":
- "Quái lạ! Bây giờ nó sửa đường và xây cao ốc tối tân không c̣n nhận ra ất giáp ǵ nữa cả?".
Nhiều lúc tôi phát điên, trả lời Cụ:
- "Bố ơi! Nhà ḿnh có phước hay vô phước hả Bố? Người ta nói: con hơn cha là nhà có phúc mà Bố cứ nhất định đ̣i giỏi hơn con th́ gia đ́nh ḿnh đến thời mạt rệp... à?"
Tuy nói thế, nhưng tôi hiểu mọi sự trên đời đều là h́nh ảnh một đồng tiền hai mặt, úp và ngửa, có trái th́ có phải, cái "phải" nằm sẵn trong cái "trái"... Dù tuổi già "ba hoa", Cụ đă tạo chút không khí ngang ngạnh đáng tiếc nhưng xét kỹ... lại vui v́ đó chính là giờ phút hạnh phúc mỗi lúc Bố con gặp nhau. Cụ khỏe mới đi chơi, thể lực mạnh mới xông xáo bầy tỏ đôi ba chuyện "hoang tưởng" vu vơ! So sánh c̣n thấy hạnh phúc hơn nhiều những lần khác, ốm đau Cụ nằm một chỗ, co rúm im ĺm trên giường th́ gia đ́nh c̣n khổ và lo âu đến chừng nào!
Tính t́nh Bố tôi ở tuổi này thay đổi từng giờ, đang vui đă giận và chưa giận đă cười. V́ thế sống gần Cụ, nên hiểu tâm trạng ấy và đừng để "stress" họa vào thân. Đó là kinh nghiệm đáng ghi nhớ của tôi v́ lúc đầu chưa biết rơ hoàn cảnh, tôi đă trải qua giai đoạn thật vất vả lao đao!
Dù sao, cảnh đời cô đơn của Bố cũng rất đáng thương! Mọi sinh hoạt như ngừng lại từ lúc các bạn cố tri lần lượt ra đi và Cụ tiếp tục sống trong tuổi già quên lăng. Ngày ngày, tuy có người trông coi nhưng Cụ vẫn thân một ḿnh, ngồi tự vấn sự đời vẩn vơ... Chờ đợi ṃn mỏi đứa con nào đoái thương thân già, thăm hỏi rồi dắt đi ăn uống là một ngày vui ngắn ngủi v́ dưới mắt Cụ thời gian hội ngộ luôn qua nhanh. Giờ phút chia tay lần nào cũng nghẹn ngào! Tôi thường phải nói dối Cụ đi làm "ca" đêm để về với vợ con và lại nghe câu hỏi quen thuộc: "Mấy giờ về... để tôi đợi?". Bố hẹn con tái ngộ ngày mai nhưng ngày mai nào ai biết sẽ đến hay không? Chẳng may có thể là lần cuối (?)! Hai Bố con lặng nh́n nhau lưu luyến như bóng chiều ngập ngừng sắp trôi vào giữa bóng đêm...
Ư thức ngày vĩnh biệt không tránh khỏi nên mấy năm gần đây, tôi đă thu gọn đời sống để tận hưởng niềm vui mong manh bên cạnh người Bố già. Tự nhủ ḷng những ngày vui qua mau và giây phút cuối đang đến gần! Cố gắng sống trọn yêu thương với đạo lư hôm nay để ḷng thản nhiên trước cảnh tử biệt sinh ly ngày mai... Nếu phải ngh́n trùng xa cách từ đây, Bố con sẽ nh́n nhau "an phận" không tiếc nuối như ngày tiễn Mẹ ra đi.
Giống tôi lúc xưa c̣n bé, đi đâu bây giờ Bố cũng muốn theo v́ cuộc đời Cụ cô đơn, lẻ loi và chẳng c̣n nhiều ư nghĩa! Kỷ niệm những mùa hè, Bố và tôi sống bên nhau trong ngôi nhà miền núi giữa đồi thông... Quên sao được con đường chiều dạo quanh bờ hồ Big Bear, chúng tôi d́u nhau đi giữa cảnh hoàng hôn, mặt hồ chiếu rọi tất cả bầu trời nắng quái vàng cam mang chung ư nghĩa về tính vô thường của một kiếp người: mới hôm nao Bố giúp con vào đời thế mà hôm nay, cả hai đă già cùng sống trong một thành phố xa lạ miền cao nguyên, ảm đạm chẳng khác ǵ cảnh chiều tắt nắng trên mặt hồ...
Những nơi chúng tôi đă đi qua, khách thập phương thường tỏ sự ngạc nhiên về Cụ. Người Mỹ, người Pháp, Nhật, Đại Hàn... đều ngừng lại thăm hỏi và ngưỡng mộ về lối sống của Bố tôi v́ ít ai ở tuổi "bách niên" mà c̣n lom khom đi lại, ăn uống trên đường phố ở chốn phồn hoa đô hội. Ngày nào, nếu Quư vị thấy một cụ già chống gậy, lưng c̣ng, nắm tay một người trẻ đi vào một nhà hàng trên đại lộ Bolsa th́ nhiều phần chính là Bố tôi đó. "Sau này... sẽ nhớ măi những giờ phút này!" Đó là lời bà Bùi Bích Hà, một nhà tư vấn tâm lư nổi tiếng của Việt Nam nói với tôi đă lâu.
Sống với Cụ thân sinh thọ trăm tuổi, tôi lĩnh hội được nhiều điều hay để biết ơn và sửa đổi. Sinh ra vào đầu thế kỷ 20 nên nhân sinh quan của Cụ nhiều phần khác với thời đại hôm nay chẳng hạn quan điểm về hôn nhân, dân chủ hay câu nói "nhi nữ t́nh trường, anh hùng khí đoản" đối với gia đ́nh, xă hội... Đă là người th́ "nhân vô thập toàn" sẵn mang những khuyết điểm, đáng quư là biết nhận ra mà tránh được. Cha con sinh ra cùng một ḍng giống nên bản chất hay tính t́nh là cái di sản "đồng lần"... Sống bên cạnh Bố, tôi thường suy tư vai tṛ làm cha đối với các con tôi để tự sửa đổi chẳng hạn tính nóng giận, lạc quan vô cớ và cố quên cái "ta" chấp ngă... Tôi cảm ơn người di truyền sang gia đ́nh tôi cái "gen" khỏe mạnh "vượt thời gian và không gian", ḷng trắc ẩn, tính vị tha mau quên và một tâm hồn nghệ sĩ nặng t́nh dân tộc...
Suy ngẫm chân lư của người xưa: "Anh em kiến giả nhất phận" đến khi sống chung với các đấng sinh thành trời cho tuổi thọ, chúng ta c̣n nhận rơ một sự thật không mấy vẻ vang! Anh chị em một nhà khi khôn lớn, t́nh nghĩa đổi thay bất ngờ... Với cha mẹ già cần chăm sóc là một nhiệm vụ, vừa thiêng liêng vừa khó khăn nên câu ca dao "Thức khuya mới biết đêm dài, ở lâu mới biết ḷng người thực hư" đă giúp hiểu rơ tính nết của từng người: có anh ích kỷ, có chị lợi dụng, có em ỷ lại... hoặc người này tốt, kẻ kia xấu minh bạch như ban ngày. Những lời rao giảng cao đẹp chẳng hạn: đoàn kết, vị tha, công bằng bác ái... măi măi nằm yên trong sách vở. Con nào cũng yêu thương cha mẹ nhưng qua miệng lưỡi thường bầy tỏ hơn 7 lần nên khi hành động chỉ c̣n 3...
Thuở mới di cư sang Mỹ, cạnh nhà tôi có ông hàng xóm tuổi trung niên khi xưa là đại úy cảnh sát. Qua lại thân thiết nên chúng tôi mời ông sang dự bữa tiệc sinh nhật đứa con đầu ḷng. T́nh cờ gặp bố tôi, ông nhớ đến bố ông, mừng tủi như sắp khóc rồi đứng giữa nhà bếp, trước bàn ăn đông đủ mọi người, cảm động ông phát biểu:
- "Anh chị may mắn quá! Ráng mà hưởng phúc đức... Bố tôi nếu c̣n sống mà ngồi "i.." ngay giữa nhà này một băi, tôi cũng vui sướng hốt chùi không la lối hay than phiền lời nào..."
- "Vâng... giữa sàn "nhà" tôi (!) và chỉ "một lần" thôi nên ông nói vậy!". Nghĩ cho vui nhưng không nói ra v́ tôi tin là ông đă tŕnh bầy sự thật của ḷng ḿnh theo cảm hứng vào thời điểm đó. Tiếc thay, sự việc sẽ mất tính "cao thượng" khi thêm vào hai yếu tố: nhân bản và luận lư. Đây là trường hợp tiêu biểu "nói dễ làm khó" bởi v́ nếu mỗi lúc, mỗi ngày rồi mỗi tháng bố ông "hành hạ" ông kiểu này th́ ư kiến ấy sẽ không c̣n vững bền. Chẳng bao lâu, vài năm sau đó, tôi không biết buồn hay vui khi nghe tin ông hàng xóm đă sớm quy tiên và gặp lại bố ông ở cơi thiên đàng...
Mỗi tuần, tôi lănh phân vụ trông coi Bố tôi 2 buổi từ sáng đến chiều nên dù hưu trí đă 2 năm nay, tôi cũng chưa dám phác họa một chuyến du lịch xa. Hôm nay, xin ghi lại mẩu đối thoại ngắn như kỷ niệm của Bố con tôi qua câu chuyện: "Một Ngày Với Tuổi Trăm Năm".
1.
- Chào Bố! Con mới "đi làm" về. Bây giờ 9 giờ rưỡi sáng, Cụ ngủ dậy hôm nay có khỏe không?
- Khỏe cái ǵ mà khỏe cơ chứ! Ông không biết à? Nó bảo tôi mặc quần áo để đi Sơn Tây, ra đây ngồi đợi măi. Nó lừa... đi mất rồi!
- Bố ơi! Bố phải để chị ấy "đi làm" chứ! Bố cứ đ̣i theo th́ họ phải nói dối... Nếu Bố muốn lúc nào cũng có bạn bên cạnh th́ phải chấp nhận vào ở trong viện dưỡng lăo thôi! Hôm nay có con ở với Bố nè...
- Thôi thôi... đừng nói nữa, cảm ơn ông! Tôi biết các ông bà tốt với tôi lắm rồi! Cá mè một lứa... cả đám.
2.
- Hôm nay, Bố muốn ăn ǵ nào?
- Ăn ǵ cũng được! Ăn cho no chứ béo bở, ngon lành ǵ mà cứ hỏi măi...
- Ok! Vậy th́ bánh ḿ Cali hay bánh cuốn Tân Hồng Mai nào.
- Bánh ḿ chỉ có ông ăn chứ tôi nhai sao được! Răng đâu mà nhai? Bánh cuốn tôi ăn rồi... khô lắm! Tôi phải có cái ǵ lỏng... mới dễ tiêu.
- Thế tại sao Bố bảo ăn ở đâu cũng được? Vậy th́ "phở gà phao câu" được không?
- Đâu cũng được! Phở gà ăn ở cái tiệm cũ kia! Tôi quen ở đó... Chỗ mới bây giờ làm tồi lắm...
- Lần trước Bố vừa khen, thế mà... lại chê rồi! Không sao... Bố muốn đi đâu ḿnh đi đó.
3.
- Thôi bây giờ ḿnh đi tắm, thay quần áo rồi Bố con đi ăn phở nhớ...
- Tôi vừa tắm xong! Đây này, áo quần vừa thay... mới cả! Có ǵ mà phải thay măi thế?
- Mới tắm mà sao "khai" thế này? Bố không tắm th́ ḿnh không đi...
- Ông chờ tôi nhớ! Đừng đi như "con" kia...
- Con ở đây tắm cho Bố mà... Làm sao Bố tắm một ḿnh được?
- Ông cẩn thận cái áo này của tôi... nó có tiền! Vô ư là hết cả... Sơn Tây.
- Đây! Con treo trước mặt cho Bố thấy... Không ai vào lấy... Thấy chưa? Yên tâm nhé!
- Không ai lấy! Hừ... Mất hết cả rồi mà ông c̣n nói... không ai lấy! Mất trâu rồi mới lo làm chuồng... Chán quá!
4.
- Sao Bố ăn phở gà hôm nay có ngon và no không?
- Ngon? Ăn mà không ngon th́ ăn làm ǵ? Hỏi vớ vẩn, hừ... No! Đă ăn tiệm th́ phải no chứ... lại c̣n đói à?
- Bây giờ cà phê nhá!
- Cà phê chứ c̣n ǵ nữa... Ông ngừng mua bao thuốc lá cái đă. Hết rồi!
- C̣n mà! Con vẫn c̣n nửa bao nhưng Bố chỉ hút hai điếu thôi nhé!
- "Uẩy"! Cho bao nhiêu th́ hút bấy nhiêu. Miễn có hút là được.
- Bây giờ vào nhà con pha cà phê, ngồi ngoài "patio" uống cà phê hút thuốc. Ấy... Bố đi đâu vậy?
- Tôi ghi số xe để ngày mai khi cần tôi "gọi" cho ông chứ nếu không lại đói... chẳng có đứa nào chở đi ăn. Viết cho tôi số... May mà có ông thương thân già này nên c̣n giúp đỡ tôi.
- Bố lộn rồi! Số téléphone chứ không phải số xe. Vào nhà con ghi cho...
5.
- Sao Bố buồn vậy? Ngủ một giấc trưa đi... cho khỏe.
- Tôi thấy đời vô nghĩa, không muốn sống nữa! Phiền hết con cái... Hôm qua, xin nó hai viên thuốc, bảo uống rồi mai không dậy nữa... thế rồi chắc liều lượng nhẹ quá, chẳng ăn thua mẹ ǵ! Sáng nay vẫn chưa chết...
- Thế Bố c̣n muốn đi Sơn Tây không?
- Muốn lắm chứ! Chỉ có 2 tiếng ngồi xe lửa là đến nơi mà không đứa nào nó dắt đi. Con với cái... Khổ cái thân già này! Nó hứa nhăng hứa cuội nhưng tôi có cách... "Moa" bàn với "toa" chuyện quan trọng này nhớ! "Moa" cần 2 ngàn để đi về Sơn Tây. Đến nơi rồi "moa" sẽ trả lại.
- "Toa" trả "moa" bằng cách nào?
- Mấy bữa nay, "moa" nghĩ ra cách kiếm tiền rồi! "Moa" về Sơn Tây mở lớp dậy tiếng Pháp cho người ta học... Thế nào cũng có nhiều "śn".
- Bây giờ tiếng Anh chứ có ai nói tiếng Pháp nữa đâu Bố ơi là Bố!
- Thế th́ tôi về Hà Nội... lại làm giây thép Bưu Điện vậy.
- Bố già lụ khụ... đi không vững! Ai c̣n muốn mướn Bố.
- Già? Hừ... Đói th́ cũng phải cong đít mà làm chứ ai nuôi?
6.
- Nếu có ai dắt Bố về Sơn Tây th́ con mới cho Bố mượn tiền. Bố không đi một ḿnh được! Hơn nữa đi xe lửa không bao giờ đến! Bố phải đi máy bay, Bố quên rồi à?
- Sao lại không được! Xưa nay tôi vẫn một ḿnh chứ hai ḿnh bao giờ? Đi xe lửa mà lại... Hừ... Ai bảo ông thế! Người ta vẫn đi hàng ngày mà nói láo... Chỉ nói láo là giỏi! Hay là ông không muốn cho tôi mượn tiền nên ông nói nhăng nói quậy? Thôi... Tôi hiểu ông rồi! Thân già này chẳng c̣n nhờ cậy ai được. Con với cái... Đồ mất dậy!
- Ấy chết, sao Bố lại nói con thế! Chán thật...
- Ông chán tôi từ lâu rồi chứ có phải bây giờ đâu?
- Thôi con đi làm nhớ!
- Vâng! Ông đi... Mấy giờ về?
- Con không về nữa v́ Bố chửi con rồi...
- Tôi chửi ông hồi nào? Ông chửi tôi th́ có! Chỉ giỏi ăn hiếp người già!
Bố tôi nói thế rồi quên ngay và ngày mai câu chuyện lại tiếp tục với những cuộc đối thoại vui buồn không dứt! Có tính mau quên và chẳng coi ai là kẻ thù nên v́ thế Cụ sống lâu chăng? Dù sự ăn uống chút phần khả quan nhưng tinh thần của Bố tôi cũng đă suy sụp nhiều so với năm ngoái! Chân đi không vững và đầu óc hoang tưởng, vui buồn bất thường... Như đă nói ở phần trên, người già không mắc phải bệnh này cũng mang chứng bệnh kia. Thuốc men chỉ đỡ mà không chữa lành.
Bố "đi" măi và tôi cũng mong Cụ quên "về" với Mẹ tôi nhưng thực tâm, ai cũng biết rằng tất cả chuyện đời đều phân chia sẵn ranh giới nên mỗi khi ra ngoài giới hạn đă định, chúng ta đều có cái giá phải trả! Người xưa vẫn thường nói: "Bách tuế vị kỳ" mà...
Bố tôi và các con của Cụ đang chia sẻ hạnh phúc và khó nhọc, mỗi ngày một khổ hơn v́ thế người nhiều kẻ ít tặng Cụ thời giờ và t́nh thương để mong Cụ hưởng những mùa xuân êm đềm c̣n lại trong đời.
Qua kinh nghiệm "Một Ngày Với Tuổi Trăm Năm" vừa tŕnh bầy, thực tâm tôi không muốn sống trường thọ đến tuổi "bách niên" để phải trả giá dù nhẹ hay nặng bởi v́ sự việc đó chắc chắn sẽ liên hệ đến các con và người thân của tôi sau này... khổ đau sẽ nhiều hơn hạnh phúc! Tuy nhiên, muốn là một chuyện, không ai trong chúng ta tránh khỏi số mệnh đă an bài...
Cuối cùng, liệu chúng ta c̣n nên chúc nhau câu "Bách niên giai lăo" mỗi khi xuân về nữa không?
Cao Đắc Vinh
florida80
06-08-2019, 20:48
HƯỚNG DẪN SƠ CỨU (FIRST AID)
NHỮNG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP DO NHIỆT ĐỘ NÓNG BỨC
(HEAT EMERGENCIES)
Lynn Ly phỏng dịch theo "The Everything First Aid"
Có ba loại trường hợp khẩn cấp do nhiệt nóng như thời tiết trở nên nóng bức, nóng hừng hực mà gia tăng ở mức độ nghiêm trọng là:
• Chuột rút , vọp bẻ do nhiệt (heat cramps)
• Kiệt sức do nhiệt (heat exhaustion)
• Đột quỵ do nhiệt (heat stroke)
Cả ba t́nh huống nghiêm trọng này đều có thể ngăn ngừa bằng những biện pháp pḥng ngừa trong thời tiết nóng bức . Những nguyên nhân phổ biến là: •Nhiệt độ cao hoặc độ ẩm cao (high temperatures or humidity )
• Cơ thể bị mất nước (dehydration)
• Vận động thể dục trong một thời gian dài hoặc quá mức (prolonged or excessive exercise)
• Mặc quá nhiều quần áo ở nhiệt độ nóng (overdressing in hot temperatures),
• Uống rượu quá nhiều (alcohol consumption)
• Một số dược phẩm thuốc men như thuốc lợi tiểu và thuốc tâm thần (diuretics and psychiatric medications)
• Bệnh tim mạch (cardiovascular disease)
• Rối loạn chức năng tuyến mồ hôi (sweat=gland dysfunction)
Trẻ con , người lớn tuổi, và người béo ph́ có nhiều nguy cơ về những bệnh tật gây ra bởi nhiệt độ nóng bức , nhưng không phải bất kỳ ai cũng phát bệnh do không lưu ư cảnh báo về nhiệt độ nóng bức .
NHỮNG TRIỆU CHỨNG CỦA CĂN BỆNH DO NÓNG BỨC
Những triệu chứng ban đầu của những bệnh do nóng bức / nhiệt là:
• Toát mồ hôi quá nhiều (profuse sweating)
• Khát nước (thirst)
• Mệt mỏi kiệt sức (fatigue)
• Bắp thịt bị chuột rút , vọp bẻ (muscle cramps)
Những triệu chứng sau đó của những bệnh do nóng bức / nhiệt là:
• Chóng mặt (dizziness)
• Buồn nôn và ói mửa (nausea and vomiting)
• Choáng váng / nhức đầu nhẹ (Lightheadedness)
• Nhức đầu (headache)
• Suy nhược (weakness)
• Toát lạnh , rịn mồ hôi (cold, moist skin)
• Nước tiểu sậm mầu (darkened urine)
Khi những bệnh do nóng bức tiến triển nặng hơn tồi tệ hơn đi đến t́nh trạng đột quỵ do nhiệt (heat stroke), th́ triệu chứng bao gồm như sau:
• Thân nhiệt trên 104 độ F (40 độ C)
• Da khô , nóng và ửng đỏ
• Hành vi biểu hiện bất thường (irrational behavior)
• Động kinh , co giật (seizures)
• Cực kỳ lú lẫn (extreme confusion)
• Mất ư thức (loss of consciousness)
• Thở nông (không sâu) và nhanh (Rapid, shallow breathing)
• Hôn mê sâu (coma)
• Tử vong (death)
SƠ CỨU
Đối với tất cả các biểu hiện của Choáng (shock), co giật động kinh (seizures), hoặc mất ư thức (loss of consciousness), nhất định phải gọi cấp cứu (911) và thực hiện sơ cứu Hồi Sức Tim Phổi (CPR) theo qui tắc 3 bước căn bản ABC . (Xin xem giải thích phác thảo ở các bài Lynn phỏng dịch trước đây )
Đối với các trường hợp không nguy cấp nhiều, có thể thực hiện các bước sơ cứu sau đây:
1. Đặt bệnh nhân nằm xuống ở khu vực mát mẻ và nâng cao đôi chân lên khoảng 20 inches ( khoảng gần nửa thước, 50cm)
2. Để hạ thấp thân nhiệt cho bệnh nhân, xử dụng túi trườm lạnh / túi nước đá hoặc khăn nhúng nước lạnh lên da nơi trán, sau gáy (back of the neck), bẹn háng (groin), và dưới nách (armpits) . Đùng quạt, quạt cho thoáng mát cho bệnh nhân .
3. Cho bệnh nhân uống nửa ly nước, hay dung dịch nước muối mà pha theo tỉ lệ 1 muỗng cafe muối ăn với 4L nước lạnh, hoặc dùng loại nước uống Gatorade (loại nước pha sẵn dành cho các vận động viên khi vận động quá sức) vào mỗi khoảng 15 phút
4. Xoa bóp các khu vực bắp thịt bị vọp bẻ / chuột rút .
Lynn Ly ghi chú :
Một cách hạ nhiệt nhanh của Đông Y Cổ Truyền là dùng trái chanh . Cắt lát chanh thành từng miếng chanh rồi chà xát miếng chanh để nước chanh thấm vào người bệnh theo thứ tự như sau : từ trán , hai bên thái dương , đỉnh đầu , sau gáy, cột xương sống , bả vai , cánh tay, bàn tay, cẳng chân, ḷng bàn chân .
Phương pháp massage bằng chanh theo thứ tự trên có tác dụng hạ sốt , hạ thân nhiệt rất hiệu quả !!! Đặc biệt là Động kinh th́ cần vắt vài giọt nước chanh vào miệng bệnh nhân khi chờ cấp cứu . Sau đó th́ làm giống như các bước chỉ dẫn ở trên nếu có thể để phụ trợ tốt hơn !!!
Kết hợp Đông - Tây Y học luôn đem nhiều lợi ích cho bệnh nhân !!!
Không được thực hiện các việc sau đây:
• Không cho bệnh nhân uống bất kỳ loại thuốc dùng hạ sốt (fever) thí dụ như tylenon, aspirin hoặc acetaminophen . Thuốc sẽ gây nguy hại cho bệnh nhân bị bệnh do nhiệt , do bị nóng bức
• Không được xoa bóp, chà xát bằng rượu khiến gia tăng thân nhiệt
• Không được cho bệnh nhân đang bị ói mửa hay đang bị bất tỉnh (unconscious) bất kỳ thức ăn, thức uô"ng ǵ
• Không được cho muối viên / cục muối (salt tables) hoặc dung dịch mà chứa rượu , cafe khi mà có thể gây trở ngại đối với việc kiểm soát nhiệt độ bên trong của cơ thể
• Tuyệt đối không xem thường những ảnh hưởng nghiệm trọng do nhiệt độ nóng bức gây ra cho trẻ nhỏ, người lớn tuổi , hoặc người bị thương .
Nhất định phải gọi cấp cứu khi bất kỳ dấu hiệu và triệu chứng do nhiệt độ nóng bức gây ra khi mà sơ cứu không có cho thấy bệnh nhân tiến triển tốt lên !!!
florida80
06-08-2019, 20:51
HƯỚNG DẪN SƠ CỨU (FIRST AID)
CƠ THỂ BỊ MẤT NƯỚC (DEHYDRATION)
Lynn Ly phỏng dịch theo "The Everything First Aid"
NGUYÊN NHÂN
Khi cơ thể bạn bị mất nước là khi lượng nước hay chất lỏng không có đầy đủ như nhu cầu của cơ thể . T́nh trạng mất nước có thể là do không uống đủ các loại chất lỏng, hoặc bị thất thoát lượng chất lỏng rất nhiều, hoặc cả hai nguyên do vừa kể . Tùy thuộc vào liều lượng chất lỏng trong cơ thể không được bổ sung hoặc bị mất đi, t́nh trạng mất nước có thể là nhẹ, vừa phải, hoặc nghiêm trọng . T́nh trạng mất nước nghiêm trọng là lúc tính mạng bị đe dọa ở mức độ khẩn cấp . Nôn mửa, tiêu chảy, đi tiểu ra lượng nước tiểu quá nhiều, toát mồ hôi quá nhiều, và sốt đều làm mất nước / mất chất lỏng trong cơ thể . Buồn nôn, mất cảm giác ngon miệng trong lúc bị bệnh, và lở loét cổ họng hoặc lở loét miệng cũng có thể khiến cho bạn không uống đủ nước .
TRIỆU CHỨNG :
•Miệng khô hoặc nước miếng bị kẹo dinh dính lại (dry or sticky mouth)
•Suy giảm hay không có nước tiểu (decreased or no urine output)
•Nước tiểu sậm mầu (urine appears dark yellow)
•Không thể chảy nước mắt / mắt khô (lack of tearing)
•Mắt trũng sâu (sunken eyes)
•Lơ mơ mê mệt và hôn mê sâu (lethargy and coma) - lúc này là lúc t́nh trạng bị mất nước rất nghiêm trọng
•Ở trẻ sơ sinh th́ vùng mềm mềm ở đỉnh đầu (thóp) có biểu hiện bị trũng xuống .
Trẻ con và người già thường có nhiều hung hiểm hơn khi họ ở t́nh trạng cơ thể bị mất nước cứ tiếp diễn .
SƠ CỨU :
Điều quan trọng là kiểm soát lượng nước / chất lỏng bị mất đi và bổ xung lại lượng nước / chất lỏng bị mất.
Bạn có thể khắc phục t́nh trạng cơ thể bị mất nước nhẹ bằng các phương pháp sau đây:
• Ngừng vận động, nghỉ ngơi ở chỗ mát mẻ , nếu ở ngoài đường th́ là chỗ có bóng cây, hay vào trong pḥng có máy lạnh
• Gát chân cao lên (Prop up your feet)
• Cởi bớt quần áo / thay quần áo mỏng hơn thoáng hơn
• Thường xuyên cho người bị thiếu nước uống nước với lượng nho nhỏ thay v́ uống liền 1 lúc 1 lượng nước thật lớn mà có thế gây ra ói mửa . Cần cho uống liên tục lượng nước nho nhỏ trong khoảng tối thiểu là 2 - 4 giờ đồng hồ để bù lại lượng nước mà cơ thể bị mất đi . Giải pháp dùng loại nước có chất điện giải như loại nước equalyte, pedialyte đặc biệt có hiệu quả, nhưng tránh dùng loại nước sử dụng cho vận động viên thể dục thể thao v́ trong đó có nhiều chất đường mà có thể làm cho t́nh trạng tiêu chảy trở nên nghiệm trọng hơn . Cũng nên tránh dùng nước thường (plain water) cho trẻ sơ sinh hay trẻ con dưới 2 tuổi khi mà cơ thể đang bị mất nước , thay vào đó, hăy dùng loại nước có chất điện giải là pedialyte để có hiệu quả hơn.
Nhập viện và tiêm truyền tĩnh mạch đôi khi cần thiết đối với t́nh trạng cơ thể bị mất nước ở mức trung b́nh đến mức nghiêm trọng, cũng như cần phải được điều trị các nguyên nhân khiến cơ thể bị mất nước. Cần phải gọi phone cấp cứu ngay lật tức đối với các triệu chứng sau đây:
•Chóng mặt (dizziness)
• Đầu có cảm giác lâng lâng, hoa mắt hay kém minh mẫn(lightheadedn ess)
• Lơ mơ mê mệt (lethargy)
• Lú lẫn (confusion)
• Không thể chảy nước mắt / khô mắt (lack of tear)
• Ở trẻ sơ sinh dưới 2 tháng tuổi mà bị tiêu chảy và ói mửa , đi tiểu chút chút hoắc không đi tiểu trong ṿng 8 giờ đồng hồ, mắt trũng sâu, da khô mà ở t́nh trạng là khi bẹo vào da ở mu bàn tay trẻ sơ sinh rồi buông ra , phần da vẫn bị nhăn nhúm lại như đang bị bẹo bấu, chứ không giăn ra (skin tenting = da nhăn nhô lên như cái lều ), khô miệng và khô mắt, vùng thóp trên đầu trẻ sơ sinh bị trũng xuống (sunken fontanelle), tim đập nhanh (rapid heartbeat), trong cứt phân có máu hoặc ói mửa, hoặc thờ ơ lơ đăng (listlessness) và thiếu năng động (inactiveness)
Mọi người cần nên uống nhiều nước hay các loại chất lỏng hằng ngày đặc biệt là vào những ngày nắng nóng hay những lúc vận động thể dục thể thao . Trong khi bệnh tật , đừng bao giờ đợi đến lúc cơ thể có biểu hiện bị mất nước, hăy uống nước hoặc uống nước theo phác đồ trị liệu căn bệnh thật cẩn thận .
THỰC TẾ (THE FACTS) :
Đừng bao giờ chờ đợi đến khi có cảm giác khát nước rồi mới uống nước . Bởi v́ phải tốn 2 giờ đồng hồ để nước / chất lỏng có thể ảnh hưởng đến cơ thể mà bạn có thể cảm giác khát nước , th́ bạn đă bị t́nh trạng cơ thể thiếu nước .
florida80
06-08-2019, 20:51
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 233 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (4/7/2011)
1/ CÔN TRÙNG CHÍCH HAY RẮN CẮN (PIQURES D’INSECTE OU DE SERPENTS)
Một thông tin tốt làm giảm nguy cơ dị ứng đối với các nọc độc (venin)
ALLERGIE. Với hè và tiết trời nóng bức sắp đến, lại xuất hiện các con ong bầu (frelon) đầu tiên, ong ṿ vẽ (guêpe), ong mật (abeille) hay đủ loại rắn lục (vipère) với nguy cơ bị chích, bị cắn và bị dị ứng nghiêm trọng. Phải làm ǵ ? “ Trước hết cần trầm tỉnh, BS Catherine Quequet (allergologue) đă giải thích như vậy, bởi v́, để một phản ứng dị ứng đối với các nọc độc này có thể xảy ra trước hết ta đă phải đă được mẫn cảm trước, nghĩa là trước đó đă bị chích hay bị cắn ít nhất một lần. ”
Ngoài ra, khi ta làm trắc nghiệm đối với nọc độc của bộ cánh màng (venin d’hyménoptères) trong dân chúng, ta thấy rằng khoảng 20% những nguời Pháp được cảm ứng trong khi rất ít có nguy cơ bị một phản ứng dị ứng nghiêm trọng. Tuy vậy ta ghi nhận khoảng hai mươi trường hợp tử vong mỗi năm do phản ứng dị ứng nghiêm trọng đối với nọc độc của bộ cánh màng (venin d’ hyménoptères).
“ Nhiều người nghĩ là ḿnh bị dị ứng và do đó ở trong t́nh trạng nguy hiểm, bởi v́ họ phản ứng lại bằng một phù nề khu trú, đôi khi quan trọng, đối với một vết chích của muỗi hay ruồi trâu (taon) hay bởi v́ nơi bị chích hay bị cắn sưng lên nhiều cm. Nhưng chừng nào điều đó vẫn được khu trú, th́ không có ǵ phải thật sự lo lắng cả, BS François Lavand, thầy thuốc chuyên về bệnh phổi và dị ứng (pneumo-allergologue) của CHU de Reims, đă trấn an như vậy. Phản ứng gây quan tâm hơn khi lan rộng trên hơn 10 cm và ảnh hưởng lên khớp gần nhất (khi đó ta nói phản ứng tại chỗ lan rộng) Hay,dĩ nhiên, khi đó là một phản ứng toàn thân với nổi mày đay khổng lồ, phù nề ở xa chỗ chích, co thắt phế quản, thậm chí choáng phản vệ (choc anaphylactique) với khó ở (malaise), gia tăng tần số tim, hạ huyết áp và mất tri giác, điều này cần gọi điện thoại số 15 kêu Samu đến.
“ Trong trường hợp phản ứng tại chỗ lan rộng, ta kê đơn một crème dermocorticoide và bôi tức thời lên chỗ bị chích cũng như một loại antihistaminique dùng bằng đường miệng trong vài ngày ”, BS Lavaud đă xác nhận điều đó. “ Nhưng sau một phản ứng toàn thân, cần phải có một bilan allergologique ”, BS Ponvert đă nhấn mạnh như vậy.
Những trắc nghiệm da với các trích chất của nọc độc (venin) và, nếu cần, một định lượng máu các kháng thể đặc hiệu cho phép xác nhận chẩn đoán.“ Ngoài những lời khuyên thông thường để pḥng ngừa bị côn trùng chích, trong trường hợp phản ứng toàn thân, ta kê đơn adrénaline chích (Anapen) cần mang theo ḿnh 24 giờ trên 24 giờ. Phải sử dụng nó ngay khi xuất hiện những dấu hiệu hô hấp và/hoặc ngay khi cảm thấy khó ở, bằng cách chích vào mặt ngoài của đùi, đồng thời giữ stylo tại chỗ trong khoảng 10 giây, rồi xoa nhẹ trong khoảng 10 giây sau khi rút ra.
NHỜ ĐẾN GIẢI CẢM ỨNG (DESENSIBILISATION)
“ Một stylo mới với liều lượng mạnh hơn những liều lượng hiện nay trên thị trường (0,50mg thay v́ 0,15mg đối với các nhũ nhi và 0,30 mg đối với các trẻ em và người lớn) được dự kiến. Như thế làm cho điều trị cấp cứu hiệu quả hơn ”, BS Claude Ponvert (khoa nhi và dị ứng học của hopital Necker-Enfants malades, Paris) đă nhấn mạnh như vậy.
“ Chú ư, ngay cả khi ta thấy khỏe hơn sau đó, cũng vẫn phải báo cho secours d’urgence, bởi v́ loại tai biến nghiêm trọng này cần nhập viện ít nhất 12 đến 24 giờ. Và ở giai đoạn hai, một giải mẫn cảm (désensibilisation) trong một khoa chuyên môn phải được dự kiến, BS Quequet đă nhận xét như vậy. “ Tức thời, adrénaline cứa mạng sống. Nhưng sau đó, chính sự giải mẫn cảm tránh bị nguy cơ như thế lần nữa. Điều trị giải mẫn cảm kéo dài 3 đến 5 năm và những mũi tiêm ban đầu phải được thực hiện ở bệnh viện. Hơi bị bó buộc nhưng những kết quả là tốt : tính hiệu quả đến 98% đối với dị ứng ong ṿ vẽ và ong bầu và khoảng 90% đối với những dị ứng với ong mật, BS Lavaud đă kết luận như thế.
Ở Srilanka là nơi rắn cắn thường xảy ra và cac huyết thanh kháng nọc độc (sérum antivenin) có chất lượng trung b́nh, một công tŕnh nghiên cứu mới được thực hiện trên 1000 bệnh nhân, đă kết luận về lợi ích của việc cho adrénaline pḥng ngừa, bằng tiêm dưới da và với liều thấp, đúng sau khi bị rắn cắn để làm giảm những nguy cơ phản ứng dị ứng nghiêm trọng do huyết thanh kháng nọc độc gây ra.
Một biện pháp như thế phải chăng có thể áp dụng ở Pháp, là nơi adrénaline chỉ được dùng để điều trị ? “ Nhất thiết là không ! ”, Các BS Ponvert, Lavaud và Quequet đồng loạt trả lời như vậy. Hai lư do để giải thích điều đó :“ Trái với những quốc gia như Sri Lanka, những phản ứng dị ứng với các vết cắn của rắn vipère là ngoại lẽ ở nước chúng ta. Trường hợp sau cùng ở Châu Âu đă được báo cáo trong tư liệu ở Ba Lan năm 2007 , BS Ponvert đă nhấn mạnh như vậy. Sau đó, về các phản ứng dị ứng đối với các mũi chích của sâu bọ cánh màng (hyménoptères), các lợi ich mong chờ của adrénaline tiêm để pḥng ngừa (tránh khoảng 20 trường hợp tử vong mỗi năm) dưới các nguy cơ gặp phải : thật vậy, adrénaline có thể làm gia trọng một bệnh lư tim mạch tiềm tàng và, trong số nhiều người bi chích bởi sâu bọ cánh màng mỗi năm, nhiều người có những vấn đề về tim mạch.
(LE FIGARO 23/5/2011)
florida80
06-08-2019, 20:58
HƯỚNG DẪN SƠ CỨU (FIRST AID)
ĐỘT QUỴ DO BỊ SAY NẮNG - TRIỆU CHỨNG VÀ ĐIỀU TRỊ
(Heat Stroke: Symptoms and Treatment)
Lynn Ly phỏng dịch theo WebMD.com
Đột quỵ do nhiệt hay do bị say nắng (Heat Stroke = Sunstroke) là dạng chấn thương nghiêm trọng nhất về nhiệt và cần được cấp cứu. Nếu bạn nghi là ai đó đă bị đột quỵ do bị say nắng - bạn nên gọi 911 ngay lập tức và cần sơ cứu trong khi chờ đợi xe cứu thương đến .
Đột quỵ do nhiệt hay do bị say nắng (heat stroke/ sunstroke) có thể khiến chết người hoặc làm thương tổn năo bộ và các cơ quan nội tạng khác. Mặc dù đột quỵ do bị say nắng chủ yếu ảnh hưởng đến những người trên 50 tuổi, nhưng cũng thường xảy ra cho các vận động viên trẻ tuổi khỏe mạnh.
Đột quỵ do nhiệt hay do bị say nắng (heat stroke/ sunstroke) thường xảy ra như là kết quả của 1 tiến tŕnh liên quan đến các bệnh do nhiệt gây ra như bị chuột rút do nóng bức, ngất xỉu và kiệt sức v́ nóng nực . Nhưng loại đột quỵ này có thể tấn công bạn ngay cả khi bạn không có dấu hiệu báo trước về chấn thương do nhiệt .
Hậu quả gây nên loại đột quỵ này là do tiếp xúc nhiệt độ cao trong thời gian dài thường kết hợp với sự mất nước trong cơ thể , khiến cho hệ thống kiểm soát nhiệt độ của cơ thể mất hoạt động. Cách xác định Y Học về loại đột quỵ này là nhiệt độ cơ thể vượt qua 105 độ F (hơn 40C) cùng các biến chứng liên quan đến hệ thống thần kinh trung ương xảy ra sau khi tiếp xúc với nhiệt độ cao. Những triệu chứng khác bao gồm buồn nôn, co giật, lú lần, rối loạn trong việc định phương hướng, và đôi khi mất ư thức, hoặc hôn mê sâu.
NHỮNG TRIỆU CHÚNG VỀ ĐỘT QUỴ DO SAY NẮNG , DO NHIỆT(SYMPTOMS OF HEAT STROKE)
Triệu chứng chủ yếu của đột quỵ do nhiệt hay do bị say nắng là nhiệt độ cơ thể vượt qua 105F ( hơn 40C), nhưng ngất xỉu có thể là dấu hiệu đầu tiên.
Các triệu chứng khác có thể bao gồm:
•Đau nhói trên đầu (Throbbing headache)
•Chóng mặt và choáng váng (Dizziness and light-headedness)
•Thiếu sự toát mồ hôi dù thời tiết nóng (Lack of sweating despite the heat)
•Da khô, nóng, đỏ ửng
•Bắp thịt suy nhược hay bị vọp bẻ/chuột rút (Muscle weakness or cramps)
•Buồn nôn và nôn mửa
•Nhịp tim đập nhanh, mà có thể là đập mạnh hay đập yếu
•Hít thở không sâu (thở nông) và nhanh (Rapid, shallow breathing
•Hành vi thay đổi như lầm lẫn lú lẫn (confusion), mất phương hướng (disorientation), hay lảo đảo loạng choạng (staggering)
•Co giật (Seizures)
•Bất tỉnh (Unconsciousness)
florida80
06-08-2019, 20:59
HƯỚNG DẪN SƠ CỨU (FIRST AID)
ĐỘT QUỴ DO BỊ SAY NẮNG - TRIỆU CHỨNG VÀ ĐIỀU TRỊ
(Heat Stroke: Symptoms and Treatment)
Lynn Ly phỏng dịch theo WebMD.com
Đột quỵ do nhiệt hay do bị say nắng (Heat Stroke = Sunstroke) là dạng chấn thương nghiêm trọng nhất về nhiệt và cần được cấp cứu. Nếu bạn nghi là ai đó đă bị đột quỵ do bị say nắng - bạn nên gọi 911 ngay lập tức và cần sơ cứu trong khi chờ đợi xe cứu thương đến .
Đột quỵ do nhiệt hay do bị say nắng (heat stroke/ sunstroke) có thể khiến chết người hoặc làm thương tổn năo bộ và các cơ quan nội tạng khác. Mặc dù đột quỵ do bị say nắng chủ yếu ảnh hưởng đến những người trên 50 tuổi, nhưng cũng thường xảy ra cho các vận động viên trẻ tuổi khỏe mạnh.
Đột quỵ do nhiệt hay do bị say nắng (heat stroke/ sunstroke) thường xảy ra như là kết quả của 1 tiến tŕnh liên quan đến các bệnh do nhiệt gây ra như bị chuột rút do nóng bức, ngất xỉu và kiệt sức v́ nóng nực . Nhưng loại đột quỵ này có thể tấn công bạn ngay cả khi bạn không có dấu hiệu báo trước về chấn thương do nhiệt .
Hậu quả gây nên loại đột quỵ này là do tiếp xúc nhiệt độ cao trong thời gian dài thường kết hợp với sự mất nước trong cơ thể , khiến cho hệ thống kiểm soát nhiệt độ của cơ thể mất hoạt động. Cách xác định Y Học về loại đột quỵ này là nhiệt độ cơ thể vượt qua 105 độ F (hơn 40C) cùng các biến chứng liên quan đến hệ thống thần kinh trung ương xảy ra sau khi tiếp xúc với nhiệt độ cao. Những triệu chứng khác bao gồm buồn nôn, co giật, lú lần, rối loạn trong việc định phương hướng, và đôi khi mất ư thức, hoặc hôn mê sâu.
NHỮNG TRIỆU CHÚNG VỀ ĐỘT QUỴ DO SAY NẮNG , DO NHIỆT(SYMPTOMS OF HEAT STROKE)
Triệu chứng chủ yếu của đột quỵ do nhiệt hay do bị say nắng là nhiệt độ cơ thể vượt qua 105F ( hơn 40C), nhưng ngất xỉu có thể là dấu hiệu đầu tiên.
Các triệu chứng khác có thể bao gồm:
•Đau nhói trên đầu (Throbbing headache)
•Chóng mặt và choáng váng (Dizziness and light-headedness)
•Thiếu sự toát mồ hôi dù thời tiết nóng (Lack of sweating despite the heat)
•Da khô, nóng, đỏ ửng
•Bắp thịt suy nhược hay bị vọp bẻ/chuột rút (Muscle weakness or cramps)
•Buồn nôn và nôn mửa
•Nhịp tim đập nhanh, mà có thể là đập mạnh hay đập yếu
•Hít thở không sâu (thở nông) và nhanh (Rapid, shallow breathing
•Hành vi thay đổi như lầm lẫn lú lẫn (confusion), mất phương hướng (disorientation), hay lảo đảo loạng choạng (staggering)
•Co giật (Seizures)
•Bất tỉnh (Unconsciousness)
SƠ CỨU ĐỘT QUỴ DO NHIỆT , DO BỊ SAY NẮNG (FIRST AID FOR HEAT STROKE)
Nếu bạn nghi rằng ai đó đă đột quỵ nhiệt, gọi cấu cứu 911 ngay lập tức hoặc đưa người đó đến bệnh viện. Bất kỳ sự chậm trễ về việc t́m kiếm sự cấp cứu y tế đều có thể gây tử vong.
Trong khi chờ đợi xe cấp cứu đến, cần thực hiện sơ cứu. Đưa bệnh nhân đến một môi trường có máy điều ḥa nhiệt độ (máy lạnh), hoặc ít nhất là một khu vực râm mát, rồi th́ thoát bỏ bất kỳ quần áo không cần thiết trên người bệnh nhân ra .
Nếu có thể, dùng nhiệt kế đo nhiệt cơ thể của người đó và bắt đầu sơ cứu làm mát lạnh thân nhiệt người đó xuống khoảng 102F (32C). Nếu không có nhiệt kế để đo thân nhiệt, đừng ngần ngại , cần thực hiện sơ cứu luôn .
Bạn cũng có thể làm giảm thân nhiệt người bệnh bằng những cách sau đây:
•Dùng quạt quạt mát bệnh nhân cùng lúc đó thi làm ướt da bằng miếng khăn ướt hay xịt nước lên người bệnh nhân
•Chườm túi nước đá ở nách, háng, cổ và lưng bệnh nhân. Bởi v́ các khu vực này là nơi mạch máu tiếp cận gần da, làm lạnh những khu vực này sẽ hạ nhiệt thân thể nhanh.
•Ngâm bệnh nhân trong bồn tắm nước mát, hoặc một bồn tắm nước đá, hay dưới ṿi nước tắm bông sen .
Nếu bệnh nhân không có phản ứng khi được sơ cứu, hăy gọi pḥng cấp cứu bệnh viện để được hướng dẫn thêm.
Sau khi bệnh nhân vừa mới hồi phục từ cơn đột quỵ do nhiệt hay do bị say nắng, có thể bệnh nhân sẽ nhạy cảm hơn đối với nhiệt độ cao trong các tuần sau đó. V́ vậy tốt nhất , người bệnh nên tránh thời tiết nóng, và tập thể dục hay các vận động khiêng vác nặng cho đến khi bác sĩ báo cho là có thể hoạt động b́nh thường lại được rồi .
Lynn Ly (13/06/2014)
florida80
06-08-2019, 21:00
12 Dấu Hiệu Chắc Chắn Của Bệnh Thận
(Theo Sina Health)
Làm thế nào để phát hiện sớm và điều trị kịp thời bệnh thận? Giáo sư Vương Bạo Khôi ở Trung Quốc đă đưa ra 12 dấu hiệu rơ ràng nhất. Vào thời kỳ đầu của bệnh thận, người bệnh ít cảm thấy đau đớn. Do đó, những dấu hiệu manh nha của những căn bệnh này thường dễ dàng bị bỏ qua. Mới đây, trang Sina Health đă phỏng vấn chuyên gia đầu ngành về thận – giáo sư Vương Bạo Khôi về vấn đề này.
Quote:
Sơ Lược Thông Tin về Giáo sư Vương Bạo Khôi:
Giáo Sư Vương Bạo Khôi được coi là nhân tài ưu tú của Y học Trung Quốc hiện tại, Ông hiện là Bác Sĩ và là Giám đốc bệnh viện thận Đông Phương trực thuộc Đại học Y Dược Bắc Kinh. Bên cạnh đó, ông c̣n đảm nhiệm chức Phó chủ nhiệm Ủy ban nghiên cứu thận tại Bắc Kinh, nguyên là ủy viên ban thường vụ của Hiệp hội Y khoa nghiên cứu về bệnh thận trong nước.
Chia sẻ về những dấu hiệu đầu của các bệnh về thận, giáo sư Vương Bạo Khôi cho biết: "Nhiều người bị mắc các căn bệnh này chỉ tiến hành thăm khám khi cảm thấy cơ thể không khỏe mạnh. Do đó, phần lớn bệnh t́nh của họ đều được phát hiện khi đă vào giai đoạn nghiêm trọng, thậm chí có trường hợp nguy hiểm đến t́nh mạng, phải tiến hành lọc máu".
Dưới đây là danh sách 12 dấu hiệu báo trước những thay đổi về t́nh trạng của thận được đưa ra bởi giáo sư - bác sĩ đầu ngành Vương Bạo Khôi.
CƠ THỂ VÀ TINH THẦN BẤT THƯỜNG
Khi công năng thận có biểu hiện không tốt, nhiều chất cặn bă sẽ không được bài tiết qua đường nước tiểu. Sự ứ đọng của các chất này sẽ khiến tinh thần mệt mỏi, cơ thể bải hoải, cả người cảm thấy như không c̣n chút sức lực.
Nếu thận có bệnh, protein và các chất dinh dưỡng khác sẽ bị ṛ rỉ qua đường nước tiểu, làm cho cơ thể mất sức.
Tuy nhiên, dấu hiệu này có thể bị nhiều người nhầm lẫn với t́nh trạng lao lực quá độ hay một vài nguyên nhân khác. Cũng v́ thế, sự bất thường về cơ thể và tinh thần này dễ bị các bệnh nhân bỏ qua.
CHÁN ĂN
Không có cảm giác thèm ăn, kén ăn, thậm chí nôn mửa cũng được coi là một số dấu hiệu sớm của bệnh thận.
Khi rơi vào t́nh trạng này, nhiều người thường chủ động xét nghiệm, khám về đường tiêu hóa hoặc chuyên khoa gan.
Nếu dạ dày và gan không phát hiện vấn đề khác lạ, không thể loại trừ khả năng các căn bệnh về thận là nguyên nhân gây nên những triệu chứng này.
NƯỚC TIỂU CÓ BỌT
Bọt xuất hiện trong nước tiểu có thể bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có bệnh thận.
Khi công nặng thận gặp rối loạn, protein trong cơ thể sẽ bị thoát ra từ đường nước tiểu, tạo thành các bọt có thể phát hiện bằng mắt thường.
ĐAU THẮT LƯNG
Vị trí của thận nằm ở hai bên của cột sống. Khi thận mắc bệnh, cơ thể sẽ được báo hiệu bằng những cơn đau ở vùng thắt lưng.
LƯỢNG NƯỚC TIỂU BẤT THƯỜNG
Người khỏe mạnh thường đi tiểu từ 4 - 6 lần/ngày và thải ra khoảng 800 – 2000ml nước tiểu.
T́nh trạng nước tiểu quá nhiều hoặc quá ít là một trong những dấu hiệu báo trước các chứng bệnh liên quan đến thận.
PHÙ NỀ
Uống quá nhiều nước hoặc ngủ nhiều là những nguyên nhân phổ biến gây ra t́nh trạng phù nề ở mặt, mí mắt, chân tay hoặc một số bộ phận khác.
Tuy nhiên, ít ai biết rằng, các bệnh về thận cũng là một trong số những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng phù nề.
NƯỚC TIỂU ĐỤC NHƯ L̉NG TRẮNG TRỨNG HOẶC ĐI TIỂU RA MÁU
Đây được xem là hai dấu hiệu nổi bật giúp người bệnh có thể sớm phát hiện các bệnh về thận. Khi bắt gặp t́nh trạng này, chúng ta nên nhanh chóng tiến hành thăm khám.
Lưu ư: một số thầy thuốc không thuộc chuyên khoa thận thường bỏ qua hai dấu hiệu nguy hiểm này. Do đó, người bệnh cần thăm khám đúng chuyên khoa tại các bệnh viện uy tín để có được kết quả chính xác nhất và tiến hành điều trị kịp thời.
THIẾU MÁU
Một trong số những nguyên nhân phổ biến gây ra thiếu máu chính là do các vấn đề về thận.
Bên cạnh công năng bài tiết, thận c̣n có vai tṛ điều ḥa nội tiết và các hormone trong máu. Do đó, khi cơ quan này rơi vào t́nh trạng rối loạn chức năng, người bệnh có thể bị chứng thiếu máu.
TIỂU ĐƯỜNG
Bệnh thận đái tháo đường là nguyên nhân chiếm vị trí thứ nhất của suy thận mạn ở các nước phương Tây. “Cầu thận đái tháo đường” là tên bệnh dùng để chỉ những tổn thương cầu thận thứ phát do tiểu đường gây nên.
Do đó, các bệnh nhân đái tháo đường nên điều trị kịp thời để tránh các biến chứng như urê huyết hay một số chứng bệnh về thận.
CAO HUYẾT ÁP
Nhiều nghiên cứu đă chỉ ra rằng chứng tăng huyết áp gây ra suy thận và ngược lại, suy thận có thể gây nên tăng huyết áp.
Do đó, vấn đề đặt ra là phải kiếm soát được huyết áp để tránh bị suy thận, và cần điều trị tốt suy thận mới có thể hạn chế được tăng huyết áp.
BỆNH GOUT VÀ TĂNG ACID URIC MÁU
Axit uric máu tăng cao sẽ gây ra tăng huyết áp và biến chứng suy thận.
Gout là một bệnh khớp do rối loạn chuyển hoá, gây ra bởi t́nh trạng lắng đọng các tinh thể urat ở các mô của cơ thể, do tăng acid uric trong máu.
Hàm lượng uric quá cao trong máu sẽ khiến acid uric gây ra chứng cao huyết áp hoặc lắng đọng ở thận, làm tổn thương chức năng của cơ quan này.
NHIỄM TRÙNG ĐƯỜNG TIẾT NIỆU
Người bệnh bị nhiễm trùng đường tiết niệu thường xuyên và kéo dài có thể dẫn đến chứng suy thận.
Giáo sư Vương Bạo Khôi cho biết, ông từng tiếp xúc với nhiều bệnh nhân bị nhiễm trùng đường tiết niệu. Đa số họ đều tiến hành điều trị muộn và không triệt để nên thường rơi vào t́nh trạng suy giảm chức năng thận.
florida80
06-08-2019, 21:01
DINH DƯỠNG CHO NGƯỜI BỊ SUY THẬN
(Diet For Renal Patient)
Lynn Ly Phỏng Dịch theo thông tin từ Medical College of Wisconsin
(ww.mcw.edu/Nephrology/ClinicalServices/DietforRenalPatient. htm#.T_f-1fVQSVo)
Dung Dịch và Sự Kiểm Soát Dung Dịch (FLUID & FLUID CONTROL)
Thận giúp kiểm soát lượng dung dịch cần sa thải khỏi thân thể bạn . Nếu bịnh thận của bạn tiến triển, quả thận của bạn có không thể điều chỉnh việc loại bỏ các dung dịch từ cơ thể của bạn và kết quả là bác sĩ sẽ yêu cầu bạn giới hạn sự dung nạp các dung dịch. Quá nhiều chất lỏng / dung dịch có thể gây sưng, thở dốc / khó thở , hoặc huyết áp cao.
Một cách chính xác là dung dịch ǵ ? Các dung dịch là bất kỳ thực phẩm tan ra thành một chất lỏng. Ví dụ về các dung dịch bao gồm:
•Café (Coffee)
•Trà (Tea)
•Sô Đa (Sodas)
•Nước Canh (Soups)
•Kem Cây (Loại cà kem làm bằng nước trái cây hay nước ngọt) (Popsicles)
•Kem làm bằng sữa, kem làm bằng nước ép trái cây (Ice cream, sherbet)
•Viên nước đá / nước đá cục (Ice cubes)
•Các loại thạch / Nước thạch (Gelatin)
•Sữa, chất kem lỏng (Milk, liquid creamer)
•Nước (Water)
•Rượu và bia (Wine and beer)
Nếu bác sĩ khuyên bạn giảm số lượng dung dịch trong ăn uống mỗi ngày th́ những lời khuyên sau đây có thể giúp bạn:
•Chỉ uống khi khát . Không uống theo thói quen hay v́ giao tiếp xả giao
•Ăn ít chất mặn (muối) sẽ giúp bạn không bị khát nước
•Nhấm nháp những mảnh nước đá nho nhỏ ( Đo lường tất cả các mảnh nước đá nho nhỏ vào chừng khoảng 1 tách nước)
•Đánh răng 3 đến 4 lần trong 1 ngày, việc này ngăn chặn miệng bạn bị khô
•Nhấm nháp 1 miếng chanh cắt mỏng
•Nếu bạn bị tiểu đường / đái tháo đường, hăy kiềm chế lượng đường trong máu
•Nhai kẹo gum loại không có đường hay nhấm nháp 1 thỏi kẹo loại không có đường
•Uống thuốc với những ngụm nước nho nhỏ
•Khi ra ngoài ăn uống tiệc tùng, hăy yêu cầu cho thức uống ở kích thước ly nước cho trẻ con .
•Hăy do lường bao nhiêu tách hay ly chứa dung dịch mà bạn yêu thích từ đó bạn có thể theo dơi lượng dung dịch bạn uống .
•Sau khi đo lường ra được tổng số lượng dung dịch bạn có thể uống trong ngày, hăy để nước trong một b́nh chứa . Trong suốt nguyên 1 ngày chỉ uống từ b́nh này như vậy bạn có thể theo dơi số lượng dung dịch bạn tiêu thụ
DINH DƯỠNG CHO THẬN - CHẤT PHỐT-PHO (PHOSPHORUS) (THE RENAL DIET- PHOSPHORUS)
Trước khi thực hiện bất kỳ thay đổi ǵ về chế độ ăn uống của bạn, cần phải chắc chắn là bạn tham khảo với bác sĩ hay chuyên gia về dinh dưỡng của bạn.
Phốt-pho (Phosphorus) là một khoáng chất mà hoạt động phối hợp với can xi (calcium) để giữ cho xương của bạn khỏe và mạnh . Phốt-pho cần thiết cho cơ thể để tạo dựng và duy tŕ xương và răng và cho chức năng các cơ (bắp thịt) và dây thần kinh hoạt động được b́nh thường . Khi chức năng của thận suy sụp, cơ thể có khoảng thời gian khó giữ sự quân b́nh chất phôt pho (phosphorus) và can xi (calcium) . Rồi th́ kết quả của sự mất quân bằng này là cơ thể không thể loại bỏ chất phốt-pho thặng dư (mực độ phốt-pho tăng lên) và cơ thể không thể lấy đủ chất can xi (mực độ can xi giảm) . Để cố gắng va sửa chữa sự mất quân bằng này cơ thể sẽ "lấy cắp" (rút ra) chất can xi từ xương, việc này làm cho xương bị suy yếu . Các vấn đề liên quan với mức phốt-pho cao bao gồm da bị ngứa, đau xương và đau khớp xương, và gịn xương (xương bị dễ gẫy).
Thực phẩm có nhiều chất phốt-pho bao gồm:
•Nước uống Cola / nước coka cola (Cola Drinks)
•Bơ đậu phọng (Peanut Butter)
•Phó mát (Cheese)
•Cá Sardines (Sardines)
•Thịt gà / gan ḅ(Chicken/beef liver)
•Các loại hạt như hạt dẻ, hạt đậu phọng ...v....v (Nuts)
•Kẹo đường mầu nâu (Caramels)
•Bia (Beer)
•Cà rem, kem sữa (Ice Cream)
Thực phẩm có ít chất phốt-pho có thể dùng thay thế bao gồm:
•Bông cải trắng (Broccoli)
•Loại sữa nhân tạo thay thế cho sữa thật (Non-dairy milk substitute)
•Loại kem làm bằng nước ép trái cây (Sherbet)
•Loại nước sô da không có cola (Non-cola soda)
•Trái cà tím (cà dái dê) (Zucchini squash)
•Một loại kẹo đặc biệt của người Bắc Mỹ (Hard Candy)
Việc dùng một lượng lớn các thực phẩm chứa ít chất phốt-pho có thể trở thành 1 thực phẩm chứa chất phốt-pho cao.
Việc dùng một lượng lớn các thực phẩm chứa ít chất phốt-pho có thể trở thành 1 thực phẩm chứa chất phốt-pho cao.
Nếu mức độ chất phốt-pho của bạn tồn tại cao bác sĩ có thể kê toa 1 chất ngăn chận phốt-pho cho bạn uống. Thuốc này sẽ ràng buộc lại phốt pho trong thực phẩm bạn ăn và ngăn chặn phốt pho được hấp thụ trong cơ thể
Điều quan trọng là bạn phải uống thuốc đúng theo hướng dẫn của bác sĩ bạn.
DINH DƯỠNG CHO THẬN - CHẤT POTASSIUM (THE RENAL DIET - POTASSIUM)
Trước khi thực hiện bất kỳ thay đổi ǵ về chế độ ăn uống của bạn, cần phải chắc chắn là bạn tham khảo với bác sĩ hay chuyên gia về dinh dưỡng của bạn.
Potassium giúp ǵn giữ dây thần kinh và những bắp thịt của bạn, đặc biệt là ǵn giữ trái tim bạn làm việc đúng mức . Potassium là một khoáng chất và có thể được t́m thấy trong nhiều loại thực phẩm. Trái thận có trách nhiệm giúp đỡ để giữ số lượng chính xác chất potassium trong cơ thể của bạn. Rất nguy hiểm nếu mức potassium của bạn quá cao. Quá nhiều potassium có thể làm cho nhịp tim của bạn đập không b́nh thường hoặc thậm chí ngừng đập mà không có báo trước.
Thực phẩm mà có potassium cao bao gồm những thứ sau đây:
•Các loại thực phẩm rau quả trái cây khác (Fruits Vegetables Other Food)
•Chuối, bông cải trắng, sô cô la (Bananas Broccoli Chocolate)
•cam, khoai tây, café (hăy giới hạn 2 tách 1 ngày) (Oranges Potatoes Coffee (limit to 2 cups per day))
•quả dưa tây, cà chua, chất thay thế muối (Cantaloupe Tomatoes Salt Substitute)
•Mận tây, nấm, cám & và các sản phẩm làm từ cám (Prunes Mushrooms Bran & bran products)
•Nho khô mầu xanh (swiss chard, các loại hạt khô & trái rau collard sấy khô, hoa cúc (daneliaon), Mustard, và củ rau rền)
•Trái mơ (Apricots (Raisins Greens (swiss chard, Nuts & dried fruit Collard, dandelion, Mustard, and beet))
Thực thẩm thấp potassium bao gồm những thứ sau đây:
•Các loại thực phẩm rau quả trái cây khác (Fruits Vegetables Other Food)
•Táo, Các loại đậu (xanh hay vàng nghệ) Gạo (Apples, Beans (green or wax) Rice)
•Nho, Dưa leo, Ḿ sợi (Grapes Cucumber Noodles)
•Tái lê, Hành, Bánh cake (Pears Onions Cake)
•Dưa hấu , rau sà lách, ngũ cốc (Watermelon, Lettuce, Cereal)
•Trái Cranberries (1 loại trái giống trái quất / trái hạnh nhưng mầu đỏ), Carrot, bánh ḿ & sản phâm bánh ḿ (Cranberries Carrots Bread & bread products)
•Trái cherries (Cherries)
Điều quan trọng cần nhớ là hầu hết tất cả các thực phẩm chứa potassium . Liều Lượng ăn uống sẽ phải định ra các loại thực phẩm có mức độ potassium thấp, vừa, hoặc cao. Ăn 1 lượng lớn các thực phẩm chứa potassium thấp có thể trở thành một thực phẩm chứa potassium cao.
DINH DƯỠNG CHO THẬN - CHẤT PROTEIN (CHẤT ĐẠM) ( THE RENAL DIET- PROTEIN )
Trước khi thực hiện bất kỳ thay đổi ǵ về chế độ ăn uống của bạn, cần phải chắc chắn là bạn tham khảo với bác sĩ hay chuyên gia về dinh dưỡng của bạn.
Chế độ ăn uống đóng 1 vai tṛ quan trọng trong viêc chăm sóc bịnh thận . Các chế độ ăn uống mà bác sĩ sẽ yêu cầu bạn làm theo sẽ được dựa trên mức độ hoạt động của chức năng quả thận của bạn, kích thước cơ thể, và bất kỳ điều kiện y khoa mà bạn có . Chế ăn uống của bạn có thể hữu ích trong việc tŕ hoăn sự cần thiết cho việc chạy thận (dialysis).
Protein cần thiết để duy tŕ bắp thịt, trợ giúp trong việc tạo dựng sức đề kháng với các bệnh nhiễm trùng / viêm nhiễm, và sửa chữa và thay thế các mô cơ thể. Khi cơ thể bạn phân hủy các loại thực phẩm protein, sản phẩm chất thải gọi là urê (urea) được h́nh thành. Khi chức năng thận bị suy sụp /giảm sút, chất urê (urea) tích tụ trong ḍng máu. Việc ăn nhiều chất protein có thể khiến chất urê (urea) tích tụ nhanh lên. Điều này sẽ làm cho bạn cảm giác bị bệnh . Việc ăn ít protein có thể trợ giúp trong việc giảm nồng độ urê (urea) trong máu của bạn . Sự giảm lượng hấp thụ protein phải được theo dơi bởi bác sĩ và chuyên gia dinh dưỡng của bạn
Một số thí dụ về những thực phẩm giàu protein là:
•Thịt (Meat)
•Gia cầm như gà, vịt, chim ...v..v... (Poultry)
•Các sản phẩm làm từ sữa (Milk Products)
•Trứng (Eggs)
Những thực phẩm ít protein bao gồm những thứ sau đây:
•Các loại hạt đậu tươi (đậu pinto, đậu đỏ, đậu ván / đậu trắng (Fresh beans (pinto, kidney, navy))
•các loại ngũ cốc (lúa mạch, lúa ḿ v...v.) (Grains)
•Rau cải (Vegetables)
Bạn cần cả hai loại protein có chất lượng cao và chất lượng thấp trong dinh dưỡng của bạn. Bác sĩ của bạn sẽ xác định xem lượng protein nên là bao nhiêu trong chế độ ăn uống của bạn
DINH DƯỠNG CHO THẬN - CHẤT SODIUM (CHẤT NATRI) (THE RENAL DIET- SODIUM)
Trước khi thực hiện bất kỳ thay đổi ǵ về chế độ ăn uống của bạn, cần phải chắc chắn là bạn tham khảo với bác sĩ hay chuyên gia về dinh dưỡng của bạn.
Sodium cần thiết cho cơ thể trong nhiều chức năng như kiểm soát sự co thắt bắp thịt, cân bằng các dung dịch, và kiểm soát huyết áp. Quả thận mạnh khỏe loại bỏ lượng sodium thặng dư vào trong nước tiểu . Khi chức năng thân suy sụp, sodium và những dung dịch tích tụ trong cơ thể bạn. Sư tồn dọng dung dịch có thể gây sưng mọng ở mắt, bàn tays và / hoặc mắc cá chân . Để giữ mức sodium của bạn cân bằng, bác sĩ có thể yêu cầu bạn giơi hạn dùng sodium trong dinh dưỡng .
Thực phẩm có hàm lượng sodium cao bao gồm những thứ sau đây:
•Loại muối ăn (Table salt)
•Các loại nước cốt canh thịt cô đọng đóng thành viên bán cho người xử dụng nấu món canh nào nhanh gọn lẹ (Bouillon cubes)
•Những miếng khoai tây chiên đóng gói (Potato chips)
•Các loại hạt khô (Nuts)
•Bacon là loại thịt heo ba rọi đă được ướp gia vị và để đông lạnh . Người tây phương hay chiên lên ăn trong bữa ăn sáng (bacon + bánh ḿ + trứng)
•Các loại thịt đă nấu chín và cắt thành lát mỏng đóng thành gói giữ lạnh để dùng kẹp bánh ḿ ăn trong các buổi trưa (Cold Cuts)
•Phô mát , sản phẩm làm từ chất béo của sữa (Cheese)
•Các loại thực phẩm ăn liền đóng trong các hộp (Canned, dehydrated, or instant soup)
•Các loại rau cải ăn liền đóng trong các hộp sắt (Canned vegetables)
•Các đĩa thức ăn có đủ các món cho 1 bữa ăn tối cho 1 người (Processed dinner mixes (such as Hamburger Helper, Rice-a-Roni)).
Loại thực phẩm thay thế có ít chất sodium:
•Các loại gia vị gặt hái theo mùa để nấu nướng như tỏi và các loại rau thơm (Season with a variety of spices like garlic and oregano)
•Hăy dùng chanh (Use lemon).
florida80
06-08-2019, 21:04
RỐI LOẠN CHỨC NĂNG MIỄN DỊCH Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
BS Phan Quận
Bệnh Viện Nhiệt Đới Trung Ương - VN
Bệnh nhân tiểu đường mắc bệnh nhiễm trùng thường xuyên hơn so với người không mắc bệnh này. Quá tŕnh các bệnh nhiễm trùng cũng phức tạp hơn ở nhóm bệnh nhân này. Một trong những nguyên nhân của sự tăng tỷ lệ các bệnh nhiễm trùng có thể do khiếm khuyết miễn dịch. Bên cạnh đó, trong nghiên cứu ở pḥng thí nghiệm cho thấy một số đáp ứng tế bào bị suy giảm, không rối loạn miễn dịch mắc phải (thích ứng) ở bệnh nhân tiểu đường.
TÓM TẮT
Bệnh nhân tiểu đường mắc bệnh nhiễm trùng thường xuyên hơn so với người không mắc bệnh này. Quá tŕnh các bệnh nhiễm trùng cũng phức tạp hơn ở nhóm bệnh nhân này. Một trong những nguyên nhân của sự tăng tỷ lệ các bệnh nhiễm trùng có thể do khiếm khuyết miễn dịch. Bên cạnh đó, trong nghiên cứu ở pḥng thí nghiệm cho thấy một số đáp ứng tế bào bị suy giảm, không rối loạn miễn dịch mắc phải (thích ứng) ở bệnh nhân tiểu đường. Các rối loạn khác nhau (yếu tố 4 của bổ thể thấp, giảm đáp ứng cytokine sau khi kích thích) trong miễn dịch dịch thể bẩm sinh đă được mô tả ở các bệnh nhân tiểu đường. Tuy nhiên, sự liên quan lâm sàng của các dữ liệu này th́ chưa được rơ. Liên quan đến hầu hết các nghiên cứu miễn dịch bẩm sinh tế bào cho thấy giảm chức năng (ứng động hóa học, sự thực bào, diệt khuẩn) của bạch cầu đa nhân trung tính và tế bào đơn nhân/đại thực bào ở bệnh nhân tiểu đường được so sánh với các loại tế bào này ở nhóm chứng. Nói chung, một sự điều ḥa tốt hơn của bệnh tiểu đường dẫn đến một sự cải thiện chức năng của các tế bào này. Hơn nữa, một số vi sinh vật trở nên độc hơn trong một môi trường đường cao. Một cơ chế khác mà có thể dẫn đến tăng tỷ lệ hiện mắc các bệnh nhiễm trùng ở bệnh nhân tiểu đường là sự tăng tính kết dính (adherence) của các vi sinh vật đối với bệnh nhân tiểu đường so với t́nh trạng này ở người không mắc tiểu đường. Điều này đă được mô tả đối với Candida albicans. Có thể là thành phần carbohydrate của các thụ thể đóng một vai tṛ quan trọng đối với hiện tượng này.
1.Giới Thiệu
Tỷ lệ mới mắc các bệnh nhiễm trùng tăng lên ở bệnh nhân tiểu đường [1]. Một số các bệnh nhiễm trùng cũng có thể có một quá tŕnh phức tạp hơn ở bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường hơn là ở các bệnh nhân không mắc tiểu đường [1]. Ví dụ, bệnh nhân tiểu đường nhiễm toan xê tôn bị biến chứng một nhiễm trùng xảy ra đến 75% trường hợp. Tỷ lệ tử vong của bệnh nhân bị nhiễm trùng và nhiễm toan xê tô là 43% [1]. Trong một nghiên cứu tiến cứu ở 101.293 bệnh nhân người lớn nhập viện, có 1.640 lượt được chẩn đoán là nhiễm trùng huyết. Trong số 1.000 bệnh nhân nhập viện được nghiên cứu, có 2/3 trường hợp nhiễm khuẩn huyết đă được t́m thấy ở các bệnh nhân mắc tiểu đường so với 1/3 bệnh nhân không tiểu đường (P < 0,001). [2]. Rồi vấn đề nổi lên là cái ǵ chịu trách nhiệm về các cơ chế bệnh sinh đối với tỷ lệ bệnh nhiễm trùng cao ở các bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường. Nguyên nhân có thể gồm các khiếm khuyết về miễn dịch, một sự tăng kết dính của vi sinh vật với các tế bào ở bệnh nhân tiểu đường, sự hiện diện của bệnh lư vi mạch máu và các mạch máu lớn hay là bệnh lư thần kinh, và số lượng cao của các can thiệp y tế ở nhóm bệnh nhân này.
Người ta có thể chia hệ miễn dịch thành miễn dịch thể dịch hoặc miễn dịch tế bào bẩm sinh và mắc phải (thích ứng). Liên quan đến miễn dịch thể dịch mắc phải, nồng độ kháng thể trong huyết thanh ở bệnh nhân mắc tiểu đường là b́nh thường và chúng đáp ứng sau khi tiêm chủng với thuốc chủng ngừa phế cầu khuẩn giống như nhóm chứng không mắc tiểu đường [3,4]. Hơn nữa, không thấy có sự khác biệt đă được thể hiện trong các đáp ứng miễn dịch với thuốc chủng ngừa viêm gan B tiêm bắp giữa trẻ em mắc tiểu đường type 1 và nhóm chứng [5]. Liên quan đến miễn dịch tế bào mắc phải, ức chế sự đáp ứng tăng sinh với các kích thích khác nhau đă được quan sát trong các tế bào lymphô ở các bệnh nhân tiểu đường không được kiểm soát [6]. Một phản ứng quá mẫn loại chậm bị bất thường (miễn dịch qua trung gian tế bào) cũng đă được mô tả ở bệnh nhân tiểu đường type 1 và type 2 [7-9]. Tuy nhiên, bệnh nhân tiểu đường không mắc viêm phổi do Pneumocystis carinii hoặc nhiễm khuẩn do mycobacteria (như đă gặp ở bệnh nhân rối loạn chức năng miễn dịch tế bào mắc phải như bệnh nhân bị nhiễm HIV) thường xuyên hơn so với bệnh nhân không mắc tiểu đường. V́ vậy, câu hỏi c̣n lại quan trọng đến mức nào đối với các rối loạn biểu thị trong pḥng thí nghiệm là những vấn đề trên bệnh nhân
Sự xem xét trên có vẻ như các khác biệt trong miễn dịch bẩm sinh giữa các bệnh nhân tiểu đường và không tiểu đường và trong sự kết dính của các vi sinh vật với tế bào của bệnh nhân tiểu đường và không tiểu đường là quan trọng hơn trong sinh bệnh học của sự gia tăng tỷ lệ hiện mắc bệnh nhiễm trùng ở các bệnh nhân này. Các nghiên cứu về hai vấn đề này được đề cập trong bài viết này.
2. Những khiếm khuyết về miễn dịch bẩm sinh
2.1.Miễn dịch thể dịch bẩm sinh
2.1.1. Chức năng bổ thể
Trong một nghiên cứu ở 86 bệnh nhân tiểu đường type 1, với 22 (26%) trường hợp có một nồng độ yếu tố 4 bổ thể huyết thanh (C4) dưới mức b́nh thường [10]. Giá trị C4 thấp h́nh như không phải là do tiêu thụ. V́ cặp song sinh cùng trứng không mắc tiểu đường cũng đă có nồng độ C4 dưới mức b́nh thường, và các gen mă hóa C4 được liên kết với các kháng nguyên DR3, DR4 (được thể hiện trong 95% bệnh nhân tiểu đường người da trắng trái với 40% dân số nói chung [6]) , các tác giả cho rằng C4 bị giảm này có thể là một hiện tượng di truyền [10]. Tuy nhiên, một thiếu C4 riêng rẽ không phải là một yếu tố nguy cơ được biết đến đối với các bệnh nhiễm trùng ở bệnh nhân không mắc tiểu đường và do đó dường như nó không đóng một vai tṛ quan trọng nào trong việc tăng nguy cơ nhiễm trùng ở bệnh nhân tiểu đường.
2.1.2. Cytokines
Các nghiên cứu về máu toàn phần, các tế bào đơn nhân trong máu ngoại vi (PBMCs), và tế bào đơn nhân được lập ở bệnh nhân tiểu đường có thể được chia thành 2, có kích thích và không kích thích. Nếu không có sự kích thích nồng độ TNF-α ở những bệnh nhân tiểu đường type 1 [11], nồng độ IL-6 ở những bệnh nhân tiểu đường type 2 [12], và nồng độ IL-8 ở bệnh nhân tiểu đường type 1 và type 2 [13] đă được nghiên cứu. Các giá trị của TNF-α, IL-6 và IL-8 tăng lên đă được t́m thấy ở những bệnh nhân tiểu đường so với bệnh nhân nhóm chứng không tiểu đường.
Các nghiên cứu với bạch cầu đơn nhân trong máu ngoại vi và tế bào đơn nhân được phân lập của bệnh nhân tiểu đường sau kích thích cho thấy các kết quả như sau: trong một nghiên cứu [14] sự tiết IL-1 của bạch cầu đơn nhân trong máu ngoại vi khi đáp ứng với LPS đă bị giảm ở PBMCs của bệnh tiểu đường (loại 1 và 2), trong khi đáp ứng TNF-α tương tự như trong các tế bào của bệnh nhân nhóm chứng. Trong một nghiên cứu khác về tế bào đơn nhân của các bệnh nhân tiểu đường type 1 đă cho thấy một sự sản xuất thấp hơn có ư nghĩa của IL-1 và IL-6, nhưng lại không có sự khác biệt về nồng độ TNF-α, sau khi kích thích với LPS, so với các tế bào đơn nhân của bệnh nhân tiểu đường loại 2 và nhóm chứng không tiểu đường [15]. Có thể hầu hết của TNF-α đă biến mất sau thời gian ủ 24 giờ [15]. Không phải đường máu cũng không phải insulin cho thấy bất kỳ ảnh hưởng đến sự sản xuất IL-1 hay IL-6 trong tế bào đơn nhân được phân lập, do đó, giảm sản xuất sau khi kích thích với LPS dường như do một khiếm khuyết nội tại tế bào của các tế bào ở bệnh nhân tiểu đường. Nó có thể là giá trị nghỉ cao của các tế bào tiểu đường dẫn đến sự cảm ứng của sự dung nạp với sự kích thích, mà tạo kết quả trong sự tiết cytokine thấp hơn sau khi kích thích. Hiện tượng này đă được mô tả trong các tế bào ở bệnh nhân không tiểu đường [16].
Các nghiên cứu về PBMCs tiết cytokine của bệnh nhân không mắc bệnh tiểu đường sau khi bổ sung những nồng độ đường khác nhau đă cho các kết quả có thể so sánh như các nghiên cứu với các tế bào ở bệnh nhân tiểu đường. Một nghiên cứu [17] cho thấy rằng sau khi bổ sung những nồng độ đường khác nhau, các tế bào đơn nhân chưa được kích thích của các bệnh nhân không tiểu đường đă cho thấy một tăng đáp ứng TNF-α và IL-6. Một nghiên cứu khác [18] đă cho thấy rằng sau khi kích thích sự bào phân bằng cây thương lục Mỹ (pokeweed) nồng độ IL-2, IL-6 và IL-10 là thấp hơn đă được t́m thấy sau khi bổ sung đường (với một hiệu ứng đáp ứng liều lượng). Có thể, sự gây cảm ứng của sự dung nạp, được mô tả ở trên, cũng có thể giải thích những kết quả này. Nói cách khác, sự hiện diện của đường làm cho sự sản xuất cytokine ở trạng thái nghỉ (resting) cao hơn; tuy nhiên sau kích thích sản xuất cytokine này bị suy yếu so với t́nh trạng không có đường. Một chất khác có thể đóng một vai tṛ trong sự tiết cytokine cơ bản tăng lên là các sản phẩm cuối cùng của phản ứng gắn glycosyl – protein (advanced glycation end products: AGEs, là những sản phẩm của đường và các dư lượng lysine hoặc arginine). Một sự h́nh thành của AGEs tăng lên diễn ra ở bệnh nhân tiểu đường được điều ḥa kém [19]. Các nghiên cứu khác đă chỉ ra rằng sự gắn kết của các AGEs này với tế bào của bệnh nhân không mắc bệnh tiểu đường, không có sự kích thích, dẫn đến gia tăng sự sản xuất cytokine [17,20,21], do đó, h́nh như gia tăng sự h́nh thành của các AGEs này ở các bệnh nhân tiểu đường có thể chịu trách nhiệm cho sự tiết cytokine cơ bản tăng lên.
2.1.3.Tăng đường máu/đường niệu
Theo tiêu chuẩn của WHO năm 1985, tiểu đường được định nghĩa khi nồng độ đường huyết lúc đói ít nhất là 7,8 mmol/L hoặc nồng độ đường sau ăn 2 giờ là ≥ 11,1 mmol/L [22]. Như một kết quả của bệnh nhân mắc tiểu đường (có dùng thuốc) thường có tăng đường huyết. Môi trường tăng đường máu có thể tăng cường tính độc của một số vi sinh vật. Một ví dụ là nấm Candida albicans, mà thể hiện một protein bề mặt rất tương đồng với thụ thể của yếu tố 3b bổ thể (CR3). Thông thường, sự cố định vi sinh vật (opsonization) diễn ra bằng sự gắn yếu tố 3b của bổ thể (C3b) lên vi sinh vật đó. Các thụ thể trên các tế bào thực bào nhận diện ra C3b được gắn này và các thụ thể này gắn lên đó, bằng cách này để bắt đầu giết chết và tiêu hóa vi sinh vật. Trong một môi trường đường máu tăng lên, sự biểu hiện của protein của C. albicans giống như thụ thể đă tăng lên, mà tạo kết quả sự gắn cạnh tranh và ức chế sự thực bào qua trung gian của bổ thể [23]. Một ví dụ khác là sự hiện diện của đường trong nước tiểu, như được t́m thấy ở các bệnh nhân tiểu đường được điều trị chưa tốt. Chúng ta đă thấy [24] rằng đường niệu tăng cường sự phát triển vi khuẩn của các chủng E. coli khác nhau, điều này có thể đóng một vai tṛ quan trọng trong tăng tỷ lệ mới mắc nhiễm trùng đường tiết niệu ở bệnh nhân tiểu đường. Do đó, h́nh như rằng là kiểm soát đường máu tốt ở bệnh nhân tiểu đường có thể làm giảm tính độc của một số vi sinh vật gây bệnh.
2.1.4. Các yếu tố huyết thanh khác
Trong phân tích các test ở pḥng thí nghiệm về các chức năng của các tế bào đa nhân trung tính (PMNs) ở bệnh nhân không mắc bệnh tiểu đường được thực hiện bằng cách ủ các tế bào này với huyết tương có nguồn gốc từ bệnh nhân mắc tiểu đường. Những khiếm khuyết này không tương quan với lượng đường có mặt trong huyết tương [6,25,26]. Một ví dụ là sự kết dính tăng lên của bạch cầu đa nhân trung tính (PMNs) của bệnh nhân không mắc tiểu đường với tế bào nội mạc động mạch chủ của ḅ trong sự hiện diện của huyết tương của bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường [27]. Tăng sự kết dính này có thể dẫn đến giảm sự thoát mạch và xuất tiết của bạch cầu đa nhân trung tính [27]. Câu hỏi đặt ra là yếu tố nào trong huyết thanh của bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường chịu trách nhiệm về sự khác biệt được đề cập ở trên. Người ta đă đề xuất [28] rằng AGEs đóng một vai tṛ trong sự kiện này. V́ sự h́nh thành AGEs được tăng lên ở những bệnh nhân mắc tiểu đường được điều trị kém, h́nh như rằng là kiểm soát bệnh tiểu đường tối ưu có thể cải thiện đáp ứng của vật chủ.
Một chất khác thường được đề cập khác trong bệnh sinh nhiễm trùng ở bệnh nhân tiểu đường là kẽm. Nồng độ kẽm thấp trong huyết tương đă được báo cáo trong bệnh tiểu đường type 1 và type 2 [6]. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu khác, người ta t́m thấy không có sự khác biệt về nồng độ kẽm giữa các đối tượng tiểu đường và đối tượng không tiểu đường [29]. Các nghiên cứu ở pḥng thí nghiệm đă mô tả một đáp ứng tế bào lympho bị rối loạn và ức chế ứng động hóa đối với bạch cầu đa nhân trung tính (PMNs) của bệnh nhân tiểu đường khi thiếu kẽm [1,6,28]. Các nghiên cứu ở pḥng thí nghiệm khác với các tế bào đơn nhân trong máu ngoại vi (PBMCs) của bệnh nhân không mắc tiểu đường đă cho thấy tăng sự tiết các cytokine tiền viêm do LPS gây cảm ứng sau khi bổ sung kẽm [30]. Xem xét các dữ liệu dịch tễ học có tính trái ngược nhau về sự thiếu hụt kẽm ở bệnh nhân tiểu đường, sự liên quan lâm sàng được đề cập ở trên về các kết quả thí nghiệm trong bệnh sinh nhiễm trùng ở bệnh nhân tiểu đường vẫn c̣n chưa rơ ràng.
Kết luận, một số (cytokines, bổ thể) chức năng miễn dịch thể dịch bẩm sinh bị giảm và một số vẫn có nồng độ bằng nhau ở bệnh nhân tiểu đường so với người không mắc tiểu đường
2.2. Miễn dịch tế bào bẩm sinh – Bạch cầu đa nhân trung tính
2.2.1. Ứng động hóa học
Một ứng động hóa học thấp hơn đă được t́m thấy đối với bạch cầu đa nhân trung tính của bệnh nhân tiểu đường (type 1 và type 2) so với bạch cầu đa nhân trung tính của nhóm chứng [25,31, 32]. Tuy nhiên, chúng tôi không thể chứng minh sự khác biệt này trong nghiên cứu của chúng tôi mà chúng tôi đă nghiên cứu chức năng bạch cầu đa nhân trung tính ở phụ nữ mắc tiểu đường và có vi khuẩn niệu không triệu chứng được so với phụ nữ tiểu đường không vi khuẩn niệu và người khỏe mạnh [33]. Tất cả các nghiên cứu đă dùng huyết thanh của nhóm chứng khỏe mạnh. Có thể rằng kích thích khác nhau (zymosan, bổ thể) đối với PMNs và những sự khác biệt về đặc điểm bệnh nhân (thời gian, sự điều ḥa đường máu và các biến chứng của tiểu đường, tiểu đường type 1 hoặc type 2) trong các nghiên cứu đă đề cập ở trên có thể giải thích các kết quả mâu thuẫn. Không t́m thấy sự tương quan giữa nồng độ đường [25,32] hoặc nồng độ hemoglobin A1c (HbA1c, đó là một dấu ấn huyết thanh đối với sự điều ḥa của tiểu đường) và các đáp ứng về ứng động hóa học, mặc dù một nghiên cứu đă cho thấy có giảm hơn nữa về ứng động hóa học ở các bệnh nhân có tăng đường huyết [31]. Thật thú vị, một trong những nghiên cứu khác cho thấy rằng các đáp ứng ứng động hóa học của các PMNs đă không thay đổi sau khi ủ đường hoặc insulin, nhưng trở về các giá trị b́nh thường sau khi ủ cả với đường và insulin [32]. V́ hầu hết các chức năng của PMN là những tiến tŕnh lệ thuộc năng lượng [34], một sự sản xuất đủ năng lượng là cần thiết cho một chức năng PMN tối ưu. Đường cần đến insulin để đi vào PMNs để tạo ra năng lượng này, mà có thể giải thích sự cải thiện của các đáp ứng ứng động hóa học sau khi bổ sung hai chất này cùng lúc.
2.2.2. Sự kết dính (adherence)
Người ta đă báo cáo các dữ liệu trái ngược nhau về các thí nghiệm sự kết dính của PMNs của bệnh nhân tiểu đường chưa được kích thích [25,27,31,34,35]. Trái lại, không t́m thấy có sự khác biệt giữa sự kết dính của PMNs bệnh nhân tiểu đường và nhóm chứng sau khi được kích thích [27,31]. Người ta thấy không có sự tương quan giữa đường trong huyết tương hoặc HbA1c và sự kết dính [25,27,31]. Tuy nhiên, trong một số lượng nhỏ của bệnh nhân tiểu đường type 1 và type 2 với tăng đường huyết không được điều trị, đă giảm sự kết dính của PMNs với trụ sợi nylon tăng lên sau khi tăng đường huyết đă được điều chỉnh [34,35]. Tất nhiên sự kết dính với các trụ sợi nylon th́ không giống như với các tế bào nội mạc mạch máu như là một bước đầu tiên trong phản ứng viêm. Tuy nhiên, một lần nữa một sự điều ḥa tốt hơn của bệnh tiểu đường h́nh như làm tăng đáp ứng vật chủ.
2.2.3. Sự thực bào
Bạch cầu đa nhân trung tính của bệnh nhân tiểu đường đă cho thấy năng lực thực bào giống nhau [25,33] và thấp hơn [31,36] so với bạch cầu đa nhân trung tính của nhóm chứng. Nồng độ trung b́nh HbA1c th́ thấp hơn (điều ḥa tốt hơn) ở các bệnh nhân mà sự thực bào không bị suy giảm [33] so với những người có thực bào bị suy yếu [31,36]. Một nghiên cứu [36] cho thấy một mối quan hệ nghịch giữa các nồng độ HbA1c và tỷ lệ thực bào. Một nghiên cứu khác [37] đă cho thấy rằng thực bào giảm được cải thiện, nhưng không trở lại b́nh thường sau 36 giờ đường máu b́nh thường. V́ vậy, h́nh như rằng sự suy yếu thực bào được t́m thấy ở các bạch cầu đa nhân trung tính được phân lập từ bệnh nhân tiểu đường được điều ḥa đường máu kém và rằng sự điều ḥa tốt hơn của bệnh tiểu đường dẫn đến một cải thiện chức năng thực bào.
2.2.4. Sự đốt cháy bằng oxy hóa trong tế bào(oxidative burst)
Hóa phát quang (chemiluminescence: CL) tương ứng với sự phát xạ của ánh sáng trực tiếp hoặc gián tiếp được tạo ra trong quá tŕnh một phản ứng hóa học. Hiện tượng này thường được dùng để đánh giá tiềm năng oxy hóa của bạch cầu đa nhân trung tính, một quá tŕnh trong đó các gốc tự do được tổng hợp sớm trong quá tŕnh thực bào [31,38]. CL tương quan tốt với hoạt động kháng khuẩn [39] và có thể được dùng như một số đo về khả năng thực bào [38]. So với nhóm chứng, CL lúc ban đầu th́ cao hơn [31] hoặc tương tự [36,39] trong bạch cầu đa nhân trung tính của bệnh nhân tiểu đường. Những nghiên cứu này [31,36,39] cũng cho thấy rằng, sau khi kích thích, CL của PMNs tiểu đường thấp hơn CL của PMNs ở nhóm chứng. Có thể là phản ứng của PMNs tiểu đường với các kích thích được dập tắt như là một kết quả của CL lúc nghỉ cao hơn. Trong nghiên cứu của chúng tôi [33], chúng tôi đă không t́m thấy bất kỳ sự khác biệt ở CL sau khi kích thích giữa các bệnh nhân tiểu đường và nhóm chứng. Tuy nhiên, nói chung các bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi được điều ḥa đường máu tốt hơn so với những bệnh nhân trong các nghiên cứu trước đó, mà có lẽ có thể giải thích những kết quả khác nhau này.
2.2.5. Diệt vi sinh vật
Dữ liệu về hoạt động diệt khuẩn của PMNs ở bệnh nhân tiểu đường đă đạt được những kết quả mâu thuẫn nhau [25,26,33,37]. Tuy nhiên, nói chung khả năng diệt vi sinh vật của PMNs ở bệnh nhân tiểu đường thấp hơn so với PMNs của nhóm chứng. Một lần nữa, sự khác biệt trong hoặc các đặc điểm bệnh nhân (xem Phần 2.2.1) hoặc các vi sinh vật được sử dụng có thể giải thích những kết quả khác nhau này. Một chức năng diệt vi sinh vật bị suy yếu của PMNs ở bệnh nhân tiểu đường đă được t́m thấy trong tất cả các nghiên cứu sử dụng tụ cầu vàng là vi sinh vật [25,26,37], nhưng không phải trong các nghiên cứu trong đó diệt chết C. albicans [33] đă được sử dụng làm thước đo. Diệt vi sinh vật bị suy giảm trong một nghiên cứu đă sử dụng huyết thanh người không đái đường để cố định vi sinh vật [37], nhưng không phải trong một cái khác [33]. Như vậy, dựa trên những nghiên cứu này chúng ta không có thể rút ra bất kỳ kết luận nào về tác dụng của huyết thanh của người không mắc tiểu đường lên sự diệt vi sinh vật của các tế bào ở bệnh nhân tiểu đường. Không t́m thấy sự tương quan với [25,26,37] nồng độ đường huyết, mặc dù một số nghiên cứu đă chỉ ra rằng hoạt động diệt khuẩn được cải thiện, nhưng không b́nh thường sau khi đường máu đă đạt được b́nh thường [6,37]
2.2.6. Ảnh hưởng của nhiễm trùng
Trong một nghiên cứu tại bệnh viện của chúng tôi [33], chúng tôi đă không thể chứng minh bất kỳ sự khác biệt về ứng động hóa học, sự thực bào, phát quang hóa học (CL), và sự diệt vi sinh vật giữa bạch cầu đa nhân trung tính của các phụ nữ bị bệnh tiểu đường với vi khuẩn niệu, phụ nữ mắc bệnh tiểu đường mà không có vi khuẩn niệu, và nhóm chứng không bị tiểu đường. Hơn nữa, một nghiên cứu trước đây đă cho thấy không có sự khác biệt về thực bào và diệt vi sinh vật giữa các bệnh nhân tiểu đường có và không có nhiễm trùng tái phát [26]. V́ vậy, những nghiên cứu này không cho thấy sự hiện diện của nhiễm trùng ảnh hưởng đến các chức năng của bạch cầu đa nhân trung tính.
Kết luận, bên cạnh một số kết quả mâu thuẫn trong các nghiên cứu đă được đề cập ở trên, người ta mô tả những rối loạn khác nhau của chức năng bạch cầu đa nhân trung tính ở bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường so với chức năng bạch cầu đa nhân trung tính ở nhóm chứng. Tuy nhiên, sự liên quan lâm sàng của những nghiên cứu trong ống nghiệm vẫn không chắc chắn, chủ yếu là do sự khác biệt trong các xét nghiệm đă thực hiện. Có thể là chỉ là một sự kết hợp của các khiếm khuyết trong các chức năng của bạch cầu đa nhân trung tính đóng một vai tṛ trên cơ thể bệnh nhân. Hầu hết các nghiên cứu cho thấy một sự cải thiện chức năng của bạch cầu đa nhân trung tính sau khi điều ḥa chuyển hóa bệnh tiểu đường tốt hơn.
2.3. Miễn dịch tế bào bẩm sinh – đơn nhân/đại thực bào
Sự suy giảm của ứng động hóa học lẫn sự thực bào của các tế bào đơn nhân ở bệnh nhân tiểu đường đă từng được mô tả [1,40]. V́ huyết tương của người khỏe mạnh làm nhóm chứng không gây ra bất kỳ thay đổi có ư nghĩa nào về khả năng thực bào của tế bào đơn nhân của bệnh nhân tiểu đường [40], h́nh như sự suy giảm chức năng này do khiếm khuyết nội tại của chính bạch cầu đơn nhân gây ra. Một đáp ứng miễn dịch thấp hơn ở trẻ em mắc tiểu đường type 1 so sánh nhóm chứng đă được t́m thấy sau khi chủng ngừa vaccine viêm gan B tiêm trong da (thay v́ tiêm bắp) [5]. Người ta cho rằng đáp ứng này thấp hơn có lẽ là một phần kết quả của một chức năng đại thực bào bị suy yếu trong nhóm bệnh nhân này [5].
Kết hợp với giảm sản xuất các cytokines tiền viêm đă được đề cập trước đó sau khi kích thích bằng LPS ở bệnh nhân mắc tiểu đường type 1, h́nh như rằng chức năng của các tế bào đơn nhân/đại thực bào bị suy yếu trong bệnh nhân tiểu đường type 1. Cơ chế bệnh sinh vẫn c̣n chưa rơ. Nghiên cứu cần được thực hiện thêm nữa để giải thích hiện tượng thú vị này.
3. Tính chất kết dính
Tính chất kết dính của một vi sinh vật với các tế bào niêm mạc hoặc biểu mô là một bước quan trọng trong bệnh sinh của bệnh nhiễm trùng. Các yếu tố liên quan đến vật chủ có thể ảnh hưởng đến sự kết dính này. Ví dụ, phụ nữ bị nhiễm trùng đường niệu tái phát có một sự kết dính của E. coli lớn hơn với tế bào âm đạo và miệng của họ so với nhóm chứng [41]. Nhiễm C. albicans thường được t́m thấy ở các bệnh nhân tiểu đường. V́ hiện tượng quần cư (colonization) của vi sinh vật xảy ra trước trong hầu hết trường hợp nhiễm trùng. Aly và cộng sự đă nghiên cứu các yếu tố nguy cơ nào làm tăng nguy cơ trở thành người mang Candida ở bệnh nhân tiểu đường [42]. Các yếu tố nguy cơ đối với việc mang nấm Candida miệng ở bệnh nhân tiểu đường type 1 th́ tuổi thấp hơn và một nồng độ HbA1c cao hơn (điều ḥa đường máu ở bệnh tiểu đường kém). Đeo răng giả liên tục và sự hiện diện đường trong nước tiểu (cũng là một chỉ điểm của một sự điều ḥa bệnh tiểu đường kém) làm tăng nguy cơ mang nấm Candida ở bệnh nhân tiểu đường type 2, số lượng trung b́nh số điếu thuốc lá hút mỗi ngày tương quan với mang nấm Candida trong cả tiểu đường type 1 và type 2 được ghép lại một nhóm với nhau [42]. Cameron và cộng sự chiết xuất chất béo từ tế bào biểu mô miệng người và đă t́m thấy, dùng thử nghiệm lớp phủ sắc kư, rằng một số ḍng C. albicans liên kết với thành phần fucose và các ḍng C. albicans khác gắn với N-acetylgalactosamine có chứa trong chất béo được chiết xuất từ các tế bào miệng người.
Các tác giả kết luận rằng sự tồn tại của một số hệ thống thụ thể - chất kết dính (adhesin) góp phần vào tính độc của C. albicans [43]. Các thành phần carbohydrate của các thụ thể có thể đóng một vai tṛ quan trọng trong tính nhạy cảm với nhiễm trùng. Nó đă được chứng minh rằng bệnh nhân nặng có một số lượng galactose và sialic acid trên các tế bào miệng của họ bị giảm, được so sánh với bệnh nhân bị bệnh nhẹ và nhóm chứng người khỏe mạnh. Các nhà nghiên cứu đă nói rằng những thay đổi các thụ thể này có thể dẫn đến một gia tăng sự kết dính của vi sinh vật và đóng một vai tṛ trong tỷ lệ hiện mắc cao của hiện tượng quần cư các vi khuẩn Gram âm ở đường hô hấp của các bệnh nhân này [44]. Cơ chế tăng sự kết dính này, do một thành phần carbohydrate của thụ thể bị thay đổi, có thể cũng có mặt ở bệnh nhân tiểu đường. Trong nghiên cứu ống nghiệm, các tế bào niêm mạc miệng của 50 bệnh nhân tiểu đường (type 1 và 2) cho thấy tăng sự kết dính với C. albicans được so sánh với tế bào niêm mạc miệng được lấy từ nhóm chứng [45]. Một tỷ lệ mới mắc cao hơn có ư nghĩa nhiễm Candida, nhưng không mang nấm Candida, cũng được t́m thấy trong nhóm bệnh nhân này (12% so với 0%) [45]. Tuy nhiên, không t́m thấy được mối quan hệ giữa các tần số hoặc số lượng của nấm Candida và tuổi tác, sự kéo dài thời gian, sự điều ḥa, hoặc type tiểu đường [45]. Sự kết dính này tăng lên với các tế bào của bệnh nhân tiểu đường cũng có thể đóng một vai tṛ cho các vi sinh vật khác, ví dụ như sự kết dính của E. coli với các tế bào biểu mô tiết niệu (uroepithelial cells), mà sẽ giải thích tỷ lệ hiện mắc các bệnh nhiễm trùng tăng lên ở bệnh nhân tiểu đường
Kết luận, rối loạn miễn dịch tế bào bẩm sinh đóng một vai tṛ trong bệnh sinh của tăng tỷ lệ hiện mắc bệnh nhiễm trùng ở bệnh nhân tiểu đường (Bảng 1). Nói chung, một sự điều ḥa bệnh tiểu đường tốt hơn dẫn đến một sự cải thiện chức năng tế bào. Một cơ chế quan trọng thứ hai là tăng sự kết dính của vi sinh vật với các tế bào của bệnh nhân tiểu đường. Hơn nữa, một số vi sinh vật trở nên độc hơn hơn trong một môi trường đường máu cao.
florida80
06-08-2019, 21:06
Tăng Chất Potassium (Kali) Và Cắt Giảm Muối Ăn
Để Giảm Nguy Cơ Đột Quỵ
(Increase potassium and cut salt to reduce stroke risk)
Lynn Ly phỏng dịch theo Nhật Báo BBC
(htXp://www.bbc.co.uk/news/health-22025341)
UserPostedImage
Trái cây, như chuối, và hầu hết các loại rau cải và các loại đậu (pulses) có nhiều chất potassium (kali)
Nghiên cứu đăng trên Tạp chí Y học Anh đưa đề nghị là tăng chất potassium (kali) trong chế độ ăn uống của chúng ta cũng như cắt giảm lượng muối sẽ làm giảm huyết áp và nguy cơ đột quỵ.
Một nghiên cứu cho thấy là ăn thêm 2-3 bữa ăn tráng miệng bằng trái cây hoặc rau quả mỗi ngày th́ có lợi là có nhiều chất potassium (chất kali).
Dung nạp một lượng muối thấp hơn sẽ làm gia tăng lợi ích hơn nữa, các nhà nghiên cứu cho biết.
Một tổ chức từ thiện về đột quỵ nói: một chế độ ăn uống lành mạnh là ch́a khóa để giảm bớt nguy cơ đột quỵ.
Trong khi sự gia tăng lượng potassium (kali) trong chế độ ăn uống đă được phát hiện là có tác động tích cực đối với huyết áp, nó cũng đă được phát hiện không có ảnh hưởng xấu đến chức năng thận hoặc nồng độ hormone, cuộc nghiên cứu đă cho kết luận vậy.
Kết quả là, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đă ban hành bản qui định đầu tiên về việc dung nạp liều lượng potassium (kali), đề nghị người lớn nên tiêu thụ hơn 4g potassium /kali (hoặc 90 100mmol) mỗi ngày.
Nghiên cứu của BMJ về tác động của liều lượng potassium/kali, được thực hiện bởi các nhà khoa học thuộc Chương Tŕnh Thực Phẩm Thế Giới của Liên Hợp Quốc, Trường Cao Đẳng Imperial tại London và trường Y Khoa Warwick , cùng một số những các trường khác / cơ quan khác, đă xem xét 22 thử nghiệm và 11 nghiên cứu mà có 128.000 người khỏe mạnh tham gia .
Quote:
Lynn chú thích
BMJ là tổ chức nguyên cứu Y Khoa - Khoa học chuyên về hỗ trợ các bác sĩ cho ra quyết định trị liệu tốt hơn cho bệnh nhân
Những kết quả cho thấy là việc gia tăng chất potassium (kali) trong chế độ ăn uống từ 3-4g một ngày đă làm giảm huyết áp ở người lớn.
Việc dung nạp chất potassium (kali) cao lên cũng được liên kết đến nguy cơ đột quỵ được hạ thấp xuống 24% ở những người lớn.
Các nhà nghiên cứu cho biết chất potassium (kali) có thể cũng có những lợi ích về huyết áp cho trẻ em, nhưng cần có thêm nhiều dữ liệu nghiên cứu tiếp nữa.
DUNG DỊCH MUỐI ĂN .
Một nghiên cứu riêng về việc dung nạp lượng muối vào cơ thể, được dẫn đầu bởi các nhà nghiên cứu tại Viện Y tế dự pḥng Wolfson, Queen Mary, Đại học London, đă phân tích những kết quả của 34 cuộc nghiên cứu trước đây mà liên quan đến hơn 3.000 người.
Nguyên cứu đă phát hiện việc giảm dung nạp muối trong ṿng bốn tuần hoặc nhiều tuần đă khiến cho huyết áp giảm xuống đáng kể ở cả người bị cao huyết áp hay người b́nh thường. Điều này xảy ra cho cả nam giới và phụ nữ, không phân biệt chủnng tộc.
Những mức độ giảm huyết áp được biết đến để giảm nguy cơ đột quỵ và bệnh tim.
Graham MacGregor, giáo sư y khoa tim mạch tại Queen Mary, người dẫn đầu cuộc nghiên cứu, cho biết việm giảm dung nạp muối 1 cách "khiêm tốn" tương đương với giảm một nửa lượng muối chúng ta tiêu thụ mỗi ngày.
"Tại Anh Quốc, trung b́nh lượng muối trong chế độ ăn uống của chúng ta là 9.5g, do đó, chúng ta đang nói về việc xuống thành 6g, hoặc nếu bạn rất cẩn thận, bạn có thể giảm xuống đến 5g như đă đề nghị, nhưng việc này rất khó khăn v́ số lượng muối cũng đă có trong thực phẩm khi chúng ta mua.
"Bánh ḿ là nguồn muối lớn nhất trong chế độ ăn uống của chúng ta."
MỤC TIÊU LÂU DÀI
Ông đă nói thêm rằng việc tiếp tục giảm dung nạp muối ăn thành 3g mỗi ngày sẽ có ảnh hưởng lớn hơn trên huyết áp và nên trở thành mục tiêu dài hạn cho việc dung nạp muối vào cơ thể.
Việc khuyến cáo mọi người ăn nhiều trái cây và rau cải có chứa chất potassium /kali cũng quan trọng không kém, ông nói.
"Muối và chất potassium hoạt động có tính cách đối lập nhau . V́ vậy, một sự kết hợp việc dùng ít muối thấp và gia tăng chất potassium /kali cao lên trong chế độ ăn uống của chúng ta có ảnh hưởng lớn hơn hơn là chỉ thay đổi một trong 2 những yếu tố vừa đề cập."
Clare Walton, nhân viên nghiên cứu thông tin của Hiệp hội Tai biến mạch máu năo (Stroke Association), nói rằng huyết áp cao là yếu tố nguy cơ lớn nhất gây đột quỵ.
"Chúng tôi biết rằng việc thay đổi chế độ ăn uống của bạn có thể đi một chặng đường dài để ǵn giữ huyết áp của bạn dưới tầm kiểm soát.
"Nghiên cứu này cho thấy rằng việc giảm lượng muối ăn và ăn nhiều thực phẩm giàu chất potassium (kali) như chuối, rau đậu có thể hạ huyết áp và giảm nguy cơ đột quỵ".
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) khuyến cáo rằng người lớn không nên tiêu thụ nhiều hơn 5g muối một ngày (khoảng một th́a cà phê).
Viện Y tế và Chăm Sóc quốc gia Anh (The UK National Institute for Health and Care Excellence=NICE) khuyến cáo rằng việc dung nạp lượng muối ăn nên được giảm đến 3g một ngày ở người lớn trở nên b́nh thường phổ biến hơn vào năm 2025.
florida80
06-08-2019, 21:07
CÁC PHẢN ỨNG TỰ VỆ CỦA CƠ THỂ KHI ĂN UỐNG QUÁ TẢI
PGS. TS. Nguyễn Hướng Điền
Cơ thể con người, do tiến hóa lên từ động vật, nên đă được lập tŕnh để thích nghi với môi trường. Để tồn tại, chống chọi tốt với các nguy cơ đe dọa sự sinh tồn, cơ thể, trong đó có bộ máy tiêu hóa, cần khỏe mạnh. Hàng ngày, chúng ta ăn uống các chất vào cơ thể để phục vụ cho các vận động, cho sự duy tŕ hoạt động và phát triển của cơ thể. Cơ thể có khả năng tích lũy các chất dinh dưỡng để dùng vào những việc trên khi thiếu thức ăn đưa vào, nhưng khả năng tích lũy là có giới hạn. Khi chất dinh dưỡng được đưa vào quá khả năng tích lũy, cơ thể sẽ tạo ra các phản ứng “tự vệ” để tiết giảm sự quá tải này, cụ thể là các phản ứng sau:
1. Có cảm giác “no”
2.Có cảm giác “chán” (chẳng hạn, khi ăn măi một loại thức ăn, các chất do loại thức ăn này cung cấp đă được tích lũy nhiều trong cơ thể, cơ thể không cần thêm nữa, ta sẽ thấy chán loại thức ăn đó. Ngược lại, khi thiếu chất nào đó, ta sẽ thèm ăn những thức ăn có nhiều chất đó. Khi ốm, do khả năng tiêu hóa kém, ta cũng thấy chán ăn.)
Hai loại cảm giác trên “ngăn chặn ṿng ngoài”, trước khi thức ăn được đưa thêm vào. Nếu thức ăn vẫn được đưa vào th́ cơ thể sẽ có các phản ứng “đào thải” như:
1.Nôn mửa (chẳng hạn, khi ốm, do khả năng tiêu hóa yếu ớt nên ta rất dễ bị nôn mửa. Đây không nói đến sự nôn mửa do thực quản bị kích thích quá mạnh như khi bị hóc, bị sặc… Khi nôn rồi, đừng cố ăn bù v́ nước bọt và dịch dạ dày không c̣n nhiều như trước khi nôn nữa, nếu có ăn vào cũng không tiêu được).
2.Đào thải qua đường tiêu hóa (đường ruột)
3.Đào thải qua đường bài tiết (qua đường tiểu tiện, mồ hôi)
Ba loại phản ứng này “ngăn chặn ṿng trong” sự quá tải. Nhưng khi đă phải đào thải các chất dư thừa th́ các cơ quan nội tạng phải làm việc quá sức và dễ bị tổn thương, nhẹ th́ bị suy yếu, nặng th́ bị đau. Chẳng hạn, họng bị rát hoặc viêm, dạ dày bị “đày hơi” hoặc đau, ruột bị rối loạn hoạt động hoặc chảy máu, gan, mật phải tiết ra nhiều dịch, thận phải lọc nhiều, tim cũng phải đập nhiều hơn (để đưa máu đi nuôi các bộ phận này) cũng sẽ suy yếu, máu cũng chứa nhiều chất dư thừa, dễ gây ra sơ vữa mạch (chất cặn bám vào thành mạch, làm hẹp mạch) v.v… Khi các cơ quan nội tạng bị tổn thương, khả năng hấp thụ dưỡng chất lại càng suy giảm dẫn đến suy dinh dưỡng và rơi vào ṿng luẩn quẩn: muốn khỏe lên th́ cần có nhiều chất dinh dưỡng (đường, protein, béo, vitamine, muối khoáng…), nhưng càng đưa nhiều thức ăn vào lại càng làm tổn thương các cơ quan này và làm giảm hiệu suất hấp thụ. Do vậy, khi đă suy dinh dưỡng, không được nóng vội tăng cường ăn uống, mà phải kiên tŕ ăn tăng dần dần, thường mất nhiều năm.
Tuy nhiên, khả năng tích lũy của cơ thể cũng không phải cố định mà có thể thay đổi dần theo thời gian. Bên cạnh đó, nếu sự quá tải không lớn, các phản ứng của cơ thể sẽ không rơ rệt lắm (chẳng hạn chỉ cảm thấy hơi “đầy bụng” một chút mà không thấy bị đau ǵ), dễ làm cho người ta chủ quan và mắc sai lầm. Nếu mắc sai lầm nhiều lần, cơ thể có thể tăng trưởng nhanh hơn trong một giai đoạn nào đó (do cơ thể tích lũy thêm dần, mỗi lần một ít, hầu hết dưới dạng mỡ), da căng mịn hơn … nhưng chớ tự hào về điều này! Đó là trạng thái “tăng trưởng nóng” (mà khi nhẹ, người ta gọi là “thừa cân”, nặng gọi là bệnh “béo ph́”) tiềm ẩn những nguy cơ mà sau này mới rơ (dẫn đến nhiều bệnh về tim mạch, hô hấp, đường ruột, sỏi gan mật, tiểu đường, xương khớp, ung thư…), tức là các cơ quan nội tạng cũng đă bị suy yếu dần trong quá tŕnh sống trước đó mà không biết. Khả năng tích lũy của cơ thể có thể ví như một “kho chứa” mà nếu đầy quá, nó giăn nở được chút ít. Nhưng ta phải nhớ rằng không cần và không nên lúc nào cũng phải “đầy kho”!
Con người khác với động vật là có ư thức, nhưng nhiều khi ư thức lại đi ngược lại với bản năng sinh tồn mà quá tŕnh tiến hóa đă chắt lọc được. Rất nhiều người tưởng rằng ăn uống nhiều sẽ làm cho cơ thể khỏe mạnh, tăng trưởng tốt, đó là lầm to. Muốn khỏe mạnh và tăng trưởng tốt (tăng trưởng “bền vững”), chúng ta cần ăn uống vừa phải, điều độ cả lượng, chất (ăn nhiều loại thức ăn hoặc các loại thức ăn chứa các chất dinh dưỡng một cách cân đối) và thời gian, không để thiếu nhưng cũng không để thừa chất đưa vào cơ thể để các cơ quan nội tạng khỏi bị tổn thương. Nói một cách khác, chúng ta cần tôn trọng các phản ứng tự vệ của cơ thể, cần ăn và uống vừa phải, phù hợp với nhu cầu của nó.
PGS. TS. Nguyễn Hướng Điền
florida80
06-08-2019, 21:08
CÁC LOẠI DƯỢC PHẨM TRỊ BỊNH MẤT NGỦ
Lynn Ly phỏng dịch theo thông tin Prescriber's Letter 2009
do BS Danny Nguyen cung cấp
Trước khi tầm cầu một toa thuốc bác sĩ, nhiều bệnh nhân tự chữa trị bằng dược phẩm thiên nhiên. Gần như 26% bệnh nhân bị bịnh mất ngủ đang cố gắng dùng cách trị liệu bằng dược phẩm thiên nhiên
Rất nhiều dược phẩm thiên nhiên ảnh hưởng đến hệ thân kinh trung ương tương tự như toa thuốc giảm đau / thuốc ngủ
Có lẽ bạn từng nghe về cây hoa valerian (dược phẩm Valerian). Nó là một trong những loại dược phẩm thiên nhiên phổ biến nhất được sử dụng cho bịnh mất ngủ. Và nó cũng là một loại mà được nghiên cứu nhiều nhất. Valerian dường như có tác dụng giống benzodiazepine. Các phần tử axit của valerian có thể làm tăng hoạt động GABA trong hệ thần kinh trung ương bằng cách ngăn chận một men (enzyme) mà trao đổi chất GABA.
Một số nghiên cứu lâm sàng cho thấy rằng uống chất chiết xuất Valerian làm giảm khoảng thời gian lúc bắt đầu giấc ngủ ở nhiều bịnh nhân bị chứng mất ngủ. Nhưng valerian không có hiệu quả nhanh chóng như benzodiazepines. Có lẽ phải dùng đến nó 1 vài đêm đến 1 vài tuần mới có hiệu quả
Valerian dường như an toàn khi sử dụng ngắn hạn . Nó thường được dung nạp tốt (thường thích hợp với các bệnh nhân). Hầu hết các bịnh nhân không bị chứng buồn ngủ vào buổi sáng hoặc bị phản ứng như bị say rượu mà đôi khi xảy ra khi (họ) dùng benzodiazepines.
Valerian đang có đầy hứa hẹn, nhưng vẫn chưa có đủ bằng chứng vững chắc để giới thiệu nó cho đại đa số các bịnh nhân. Nếu người bịnh muốn thử nó th́ đừng lo ngại nhiều . Hăy hướng dẫn họ dùng Valerian 1 các thỏa đáng . Hăy tư vấn cho những bệnh nhân sử dụng theo công thức được thực hiện trong những nghiên cứu. Tiêu chuẩn chiết xuất là chứa khoảng 0.4% tới 0.6% thành phần acid valerian. Những bịnh nhân nên uống liều lượng 400-900 mg / 1 ngày trước khi đi ngủ 2 tiếng đồng hồ
Có vài trường hợp nhiễm độc gan ở những bệnh nhân từng sử dụng valerian. Cho đến giờ sự thể vẫn chưa rơ ràng là valerian là nguyên nhân, tuy nhiên, nếu bịnh nhân dùng valerian trong 1 khoảng thời gian dài hơn, hăy suy xét đề nghị kiểm tra chức năng của gan cho bịnh nhân
Có một số lo ngại về sự tương tác thuốc. Trong nghiên cứu 1 ống thuốc, valerian ức chế (kiềm chế) men cytochrome P450 3A4. Điều này có nghĩa là valerian có thể có tiềm năng làm tăng nồng độ thuốc được được chuyểN hóa bởi chất men này. Nhưng có lẽ quá sớm để biết chắc rằng nếu valerian có hiệu lực trong con người hay không ... và nếu có, th́ đáng kể là bao nhiêu . Cho đến giờ, cần để ư những biểu hiện về tiềm năng tương tác của nó.
Có nhiều hợp chất tạo "công thức giấc ngủ " (sleep fomulas) bày bán trên các quầy kệ cửa hàng. Đại đa số trong những hợp chất này có kết hợp valerian với 1 số thảo dược khác như hops, lavender, lemon balm, và skullcap. Đại đa số trong những hợp chất này có tính chất giảm đau, và hiện có một số nghiên cứu lâm sàng sơ bộ đối với những hợp chất này.
Nghiên cứu lâm sàng sơ bộ (Preliminary clinical research) cho thấy rằng việc sử dụng 1 thuốc kết hợp đặc trị (a specific combination product) chứa đựng chất chiết xuất hops 41.9 mg cộng với chất chiết xuất valerian 187 mg trong mỗi 1 viên thuốc, (dùng) 2 viên thuốc vào lúc lên giường ngủ, chỉ cải thiện ở múc độ khiêm tốn về giấc ngủ bao gồm các biện pháp đi ngủ trễ so với loại "giả dược" ( placebo )sau 28 ngày kể từ ngày điều trị .
Cũng có những nghiên cứu lâm sàn sơ bộ cho thấy rằng sản phẩm thuốc kết hợp đặc trị (a specific combination product), cung cấp 80mg chất chiết xuất từ lá cây lemon balm kết hợp 16 mg chất chiết xuất từ rễ cây valerian (Euvegal forte, Schwabe Pharmaceuticals) , 1 đến 2 viên 1 lần hay 2 lần 1 ngày, có thể giảm những triệu chứng ở trẻ dưới 12 tuổi có bịnh lư thao thức hoặc rối loạn giấc ngủ
Những sản phẩm kết hợp này có vẻ đầy hứa hẹn, nhưng không có bằng chứng đáng tin cậy là chúng có hiệu quả hơn so với chỉ 1 ḿnh chất valerian
Hoa cúc của Đức = German chamomile (Matricaria recutita) là 1 loại trà để ngủ rất phổ biến . Không có nghi ngờ ǵ về công dụng của hoa cúc (chamomile) đối với việc tạo ra sự êm dịu nhẹ nhàng nào đó . Chỉ cần hỏi bất cứ một ai đang tiêu thụ nó, dường như họ sẽ bảo cho bạn biết là nó làm cho họ cảm thấy trầm tĩnh và thư giăn.
Giống như cây valerian, có một số lo ngại về sự tương tác thuốc. Hoa cúc của Đức (German chamomile) có thể ngăn chặn men cytochrome P450 3A4 (cytochrome P450 3A4 enzyme)... và có tiềm năng làm tăng mức độ thuốc được trao đổi bởi men này. Nhưng c̣n quá sớm để biết chắc rằng hoa cúc của Đức có hiệu lực trên con người hay không . Hăy cẩn thận lưu ư về những dấu hiệu của sự tương tác trong bệnh nhân xử dụng (trà) Hoa cúc của Đức (German chamomile).
Passionflower (Passiflora incarnata) được bày bán trên các quầy kệ như một sự giúp đỡ giấc ngủ không cần đơn bác sĩ . Nhưng năm 1978 nó đă bị loại ra khỏi thị trường Hoa Kỳ do thiếu an toàn và thiếu dữ liệu về hiệu lực. Hiện giờ th́ nó được bày bán như là một chế độ ăn uống bổ sung và thường được sử dụng như một loại trà. Passionflower dường như xoa dịu, có lẽ do ảnh hưởng sự thu nhân tín hiệu benzodiazepine. Tuy nhiên, cho đến nay không có bằng chứng khoa học đáng tin cậy là nó trợ giúp trị liệu cho chứng bịnh mất ngủ.
Kava (Piper methysticum) th́ được biết nhiều đến như 1 phương pháp trị liệu cho chứng bịnh lo âu . Nhưng nó cũng thường được dùng cho trị liệu chứng bịnh mất ngủ . Nó có tính chất giảm đau và chứng tỏ có hiệu quả đối với chứng bịnh lo âu. Nhưng nó dương như không có hiệu quả đối với chứng mất ngủ
Hăy nói với các bịnh nhân là tránh dùng Kava. Không phải chỉ v́ không có chứng minh là nó trợ giúp điều trị chứng bịnh mất ngủ mà nó c̣n có thể không an toàn . Kava đă liên quan tới hơn 60 trường hợp về độc tính hại gan. Kava đă bị cấm bán ở 1 số đất nước, nhưng vẫn c̣n bán tại Hoa Kỳ
St. John's wort (Hypericum perforatum) là 1 dược thảo nổi tiếng chống bịnh trầm cảm . Nó dường như có hiệu quả đối với bệnh trầm cảm (dạng) nhẹ đến trung b́nh . Và có 1 số bằng chứng là nó cải thiện chứng bịnh mất ngủ ở các bịnh nhân bị trầm cảm . Nhưng không có bằng chứng là nó có hiệu quả với chứng bịnh mất ngủ ở bịnh nhân không có bị trầm cảm
Hăy lưu ư là St. John's wort có thể kích thích (kích động) đối với 1 số bịnh nhân. Trong thực tế, một trong các phản ứng phụ thường gặp của nó là chứng mất ngủ . Hăy bảo bịnh nhân không dùng nó lúc đi ngủ ngoại trừ họ biết (chắc) nó ảnh hưởng đến họ ra sao
Sự tương tác thuốc là 1 lo ngại lớn ở bất kỳ 1 ai khi dùng St. John's wort. Nó là 1 chất xúc tác hiệu lực của cytochrome (cytochrome = nhiễm sắc thể ???) Nó có thể làm giảm mức độ và hiệu quả của rất nhiều loại thuốc. Một số tác hại này bao gồm sự ức chế / ngăn chận sự phân giải protein HIV, sự ngăn chận sự hoán chuyển nghịch chiều giữa DNA và RNA của non-nucleoside, thuốc uống tránh thai, thuốc cyclosporin (cyclosporin là một loại thuốc được sử dụng để giúp giảm nguy cơ bị loại bỏ trong sự thay thế nội tạng hay tủy xương của cơ thể. Nó cũng được sử dụng trong thử nghiệm lâm sàng để làm cho các tế bào ung thư nhạy cảm với nhiều loại thuốc chống ung thư khác), một số statins, và nhiều thức khác.
Ngoài những dược phẩm thiên nhiên, nhiều bịnh nhân tự trị liệu chứng bịnh mất ngủ với các biện pháp cứu chữa giấc ngủ không cần đơn bác sĩ. Thường xuyên nhất là các antihistamines diphenhydramine (Benadryl, Sominex) hoặc doxylamine (Unisom). Họ có được kết quả xoa dịu, nhưng chưa có hiệu quả hơn benzodiazepines. Chúng cũng có thể gây ra những tác dụng nghiêm trọng là chống lại hoạt động của acetylcholine, chứng huyết áp thấp ở tư thế đứng, bí tiểu, và sự lẩm cẩm lẫn thẫn , những chứng bịnh đặc biệt chỉ có ở người lớn tuổI. Ngoài ra c̣n có mối quan tâm là các loại này có thể làm giảm chất lượng giấc ngủ. Ngoài ra c̣n có mối quan tâm rằng họ có thể làm giảm chất lượng giấc ngủ. Nói chung, OTC antihistamines không nên được khuyến khích cho công việc trị liệu hằng ngày về chứng bịnh mất ngủ .
melatonin là một trong những chất bổ sung tốt nhất được biết đến đối với giấc ngủ. Nó được thử bởi nhiều người với chứng bịnh mất ngủ, nhưng hiệu lực của nó đang gây tranh căi . Melatonin là một hooc-môn xuất hiện tự nhiên được sản xuất trong "pineal gland" (một tuyến ở trong năo). Nội sinh melatonin điều chỉnh những nhịp 24 giờ (circadian rhythm). Bóng tối dường như kích thích sự tiết ra melatonin và ánh sáng th́ ức chế ngăn chận nó. Mức độ Melatonin được cho là thấp hơn b́nh thường trong một số bệnh nhân bị mất ngủ.
Chứng cớ tốt nhất đối với melatonin gợi ư cho rằng nó cải thiện chứng mất ngủ ở người cao niên, đặc biệt là nếu mức độ melatonin thấp. Bệnh nhân nhỏ tuổi hơn cũng có thông báo chủ quan trong cải thiện chất lượng giấc ngủ khi sử dụng melatonin. Nhưng melatonin dương như không có vẻ để cải thiện mức độ mục tiêu của giấc ngủ, chẳng hạn như sự tiềm ẩn trong giấc ngủ, ở những bệnh nhân này.
Melatonin có thể được đánh giá là 1 thử nghiệm cho 1 số bịnh nhận được tuyển chọn .... đặc biệt là những người trưởng thành cao tuổi . Hăy đề nghị một liều 0,3-5 mg trong 1 ngày. Nếu những bệnh nhân muốn thử dùng nó, hăy đề nghị họ chỉ sử dụng nó ngắn hạn. Nếu không có hiệu quả trong vài tuần, th́ thuốc không có đang trợ giúp ǵ cả, và không có nhiều am hiểu tường tận về sự an toàn của việc sử dụng lâu dài.
Những tiền chất melatonin cũng đang được sử dụng cho chứng mất ngủ ... L-tryptophan and 5-HTP. Trong cơ thể, L-tryptophan được chuyển hóa sang 5-HTP, rồi được chuyển đổi thành serotonin ... và sau đó thành melatonin. Nhưng không có bằng chứng đáng tin cậy rằng những thuốc này tác dụng đối với chứng mất ngủ và những mối lo ngại liên quan đến sự an toàn .
Vào năm 1989, hơn 1500 trường hợp vê hội chứng đau cơ eosinophilia (EMS) và 37 người tử vong liên quan tới việc sử dụng L-tryptophan ở Mỹ. Khoảng 95% trường hợp EMS đă truy nguồn từ L-tryptophan được sản xuất bởi một nhà sản xuất duy nhất tại Nhật Bản . Vào năm 1990, L-tryptophan đă được thu hồi tại Mỹ và FDG khuyến cáo buộc phải hạn chế nhập khẩu tất cả sản phẩm L-tryptophan bày bán trên quầy kệ . Sau sự giới hạn về sản phẩm L-tryptophan, tỷ lệ mắc EMS giảm xuống đột ngột. Theo tổ chức "the Dietary Supplement Health and Education Act" (DHSEA) vào năm 1994, hiện giờ L-tryptophan có mặt trên thị trường và có nhăn hiệu như 1 loại bổ xung trong chế độ ăn uống .
Cũng có sự lo ngại về 5-HTP giống như L-tryptophan, là có thể gây gây ra hội chứng đau cơ eosinophilia (EMS). Có nhiều dự đoán cho rằng sản phẩm thương mại 5-HTP có thể chứa chất gây ô nhiễm từ "the peak X family", ("the peak X family" là) một nhóm các tạp chất có thể gây ra EMS. Tuy nhiên, sự hiện diện của "the peak X family" hay chất ô nhiễm khác chưa được xác nhận tại tất cả các trường hợp EMS.
Cho đến những câu hỏi về EMS và sự an toàn lâu dài của 5-HTP và chất bổ xung L-tryptophan được giải quyết, bệnh nhân nên tránh sử dụng các sản phẩm này.
Coenzyme Q-10 có vẻ như trợ giúp những người bị mất ngủ liên quan đến suy tim. Một số bệnh nhân suy tim có chứng bịnh mất ngủ liên quan đến khó thở về đêm . Sự sử dụng bổ xung coenzym Q-10 có thể làm giảm khó thở và các triệu chứng khác ... và do đó có thể giúp cải thiện giấc ngủ . Coenzyme Q-10 có thể được đánh giá là 1 thử nghiệm cho 1 số bịnh nhận có bịnh suy tim. Nhưng cần chắc chắn rằng các bệnh nhân không tự điều trị t́nh trạng nghiêm trọng này. Họ nên nói chuyện với với các bác sĩ / những nhân viên y tế của họ trước tiên .
Lynn Ly 04-09-2009
florida80
06-08-2019, 21:12
An Toàn Khi Tắm Biển
D̉NG NƯỚC RÚT KÉO NGƯỜI TỪ BỜ RA BIỂN
(RIP CURRENTS )
Lynn Ly phỏng dịch theo "LifeGuard Division"
(ww.fire.lacounty.go v/Lifeguards/BchSftyRipCurrents.a sp)
D̉NG NƯỚC RÚT LÀ G̀ ?
•Những ḍng nước rút (rip currents) là những ḍng nước chảy từ bờ hướng ra biển .
(Lynn chú thích : Sóng biển đánh, đưa nước biển vào bờ, khi nước biển được liên tục đưa vào bờ th́ chúng tập hợp lại thành ḍng nước đi ngược ra biển . Ḍng nước đi ngược ra biển là ḍng nước rút. )
•Những ḍng nước rút thường h́nh thành những khoảng vỡ (break) trên băi cát, và cũng có cấu trúc gần giống như cầu cảng (jetties) và cầu tàu (piers).
(Lynn chú thích: Ḍng nước rút luôn là những khoảng lặng sóng ở giữa những ḍng sóng vỗ vào bờ mà có sủi bọt. )
•Những ḍng nước rút khá phổ biến và có thể được t́m thấy trên băi biển lướt sóng hàng ngày.
UserPostedImage
TẠI SAO D̉NG NƯỚC RÚT LẠI NGUY HIỂM?
• Ḍng nước rút sẽ kéo mọi người ra xa khỏi bờ biển.
• Tốc độ ḍng nước rút có thể thay đổi liên tục và có thể nhanh chóng gia tăng trở thành nguy hiểm cho bất cứ ai đi xuống biển.
• Ḍng nước rút có thể lôi cuốn , cuốn trôi người bơi lội ngay cả các vận động viên mạnh mẽ nhất ra biển.
Lynn Ly chú thích: Ḍng nước rút cực kỳ nguy hiểm v́ nó kéo người từ bờ ra biển, ngay cả người biết bơi cũng sẽ bị chết đuối do kiệt sức nếu cố bơi ngược ḍng . Tốc độ ḍng nước rút thường cao, không ai có thể bơi ngược ḍng nước rút vào bờ . Đối với người không biết bơi, th́ cho dù đứng ở mực nước ngang hông, nhưng ḍng nước rút sẽ kéo người ra chỗ sâu hơn . Ḍng nước rút lại thường là khoảng lặng sóng giữa những ḍng sóng, nên thường làm nhiều người tưởng lầm nơi lặng sóng là nơi an toàn !!! Khi tắm biển, cần nhớ "Vùng sóng lặng ở khoảng giữa vùng những vùng sóng đập vào bờ là vùng của ḍng nước rút . Đó là vùng nguy hiểm !!!"
NHỮNG DẤU HIỆU ĐỂ NHẬN DẠNG D̉NG NƯỚC RÚT
•Một ḍng nước đang nổi sóng, hay nổi cuộn cuộn (A channel of churning, choppy water.)
•Một sự khác biệt trong màu nước.
•Một ḍng sủi bọt di chuyển ra biển. (A line of foam moving seaward.)
•Một "khoảng vỡ bể" trong mô h́nh sóng đập vào bờ (A break in the incoming wave pattern).
UserPostedImage
ĐIỀU G̀ XẢY RA NẾU TÔI BỊ LỌT VÀO TRONG D̉NG NƯỚC RÚT?
• Hăy giữ b́nh tĩnh.
•Đừng cố gắng bơi ngược ḍng.
•Để thoát ra khỏi ḍng nước rút, hăy thực hiện cách bơi theo hướng song song với bờ biển. Khi thoát ra khỏi ḍng nước rút, th́ bơi ở góc chéo - xa xa ḍng nước rút - và hướng về phía bờ.
•Nếu bạn không thể vượt thoát bằng cách bơi, thả nổi (float) hoặc đạp đứng nước (tread water). Khi ḍng nước rút yếu đi, th́ bơi ở một góc chéo xa xa ḍng nước rút hướng về phía bờ.
• Nếu bất cứ lúc nào bạn cảm thấy bạn sẽ không thể tiếp cận đến bờ biển, hăy t́m cách tự ḿnh thu hút sự chú ư, phải hướng mặt về bờ biển, réo gọi hoặc khua tay / vẫy tay để được trợ giúp.
MỘT SỐ LỜI KHUYÊN ĐỂ ĐƯỢC AN TOÀN:
•Học làm sao bơi khi bị rơi vào ḍng nước rút .
•Không bao giờ bơi một ḿnh.
•Bơi gần một trạm cứu hộ , trạm có chuyên gia cứu hộ, chuyên gia cứu người bị đuối, bị ch́m.
•Hỏi thăm nhân viên cứu hộ (lifeguard)về bất kỳ t́nh huống, hoàn cảnh không an toàn trước khi xuống nước
LÀM THẾ NÀO ĐỂ GIÚP ĐỠ NGƯỜI KHÁC?
•Đừng trở thành nạn nhân trong khi cố gắng để giúp đỡ người khác! Nhiều người đă chết khi nỗ lực để giải cứu các nạn nhân bị ḍng nước rút.
• Kêu gọi trợ giúp từ nhân viên cứu hộ.
• Nếu nhân viên cứu hộ không có mặt lúc đó, gào théo to lên phương cách hướng dẫn làm thế nào để thoát khỏi ḍng nước rút.
• Nếu có thể, hăy ném một cái ǵ đó có thể làm nổi cho nạn nhân bị ḍng nước rút.
• Gọi phone cấp cứu (911) để được trợ giúp thêm.
florida80
06-08-2019, 21:13
CÁC LOẠI BỆNH PHỔI
(Types of Lung Disease)
Lynn Ly Biên Soạn tóm lược dựa theo thông tin Đại Học Y OHIO-Hoa Kỳ
Một số bệnh phổi gây ra vấn đề về thở không khí ra khỏi phổi được gọi là thở ra. "Thở ra" mà có vấn đề th́ được gọi là bệnh phổi tắc nghẽn (obstructive lung diseases). Đối với các loại bệnh phổi này, phổi trở nên lớn dần theo thời gian v́ không khí tồn đọng lại trong phổi. Những bệnh phổi trong nhóm này bao gồm:
•Bệnh phổi tắc nghẽn măn tính COPD (COPD-chroni obstructive pulmonary disease)
•Khí phế thũng (Emphysema)
•Viêm phế quản (Bronchitis)
•Giăn phế quản (Bronchiectasis)
•Xơ hóa nang = bệnh nhầy nhớt (Cystic Fibrosis = mucoviscidosis)
Lynn chú thích: Cystic Fibrosis là một căn bệnh di truyền của các tuyến ngoại tiết, thường phát triển trong thời thơ ấu và ảnh hưởng chủ yếu là tuyến tụy, hệ thống hô hấp, và tuyến mồ hôi. Căn bệnh có đặc trưng là việc sản xuất chất nhầy nhớt bất thường do các tuyến bị ảnh hưởng, điều này thường dẫn đến căn bệnh nhiễm trùng hô hấp măn tính và suy giảm chức năng tuyến tụy. Cystic Fibrosis cũng được gọi là mucoviscidosis.
•Hen suyễn (Asthma)
Các loại bệnh phổi khác th́ do hạn chế khả năng phổi giăn nở khi không khí được hít mang vào phổi. "Hít vào" mà có vấn đề th́ gọi là bệnh phổi hạn chế (restrictive lung diseases). Đối với các loại bệnh phổi này, phổi trở nên nhỏ dần theo thời gian . Những bệnh phổi trong nhóm này bao gồm:
• Xơ hóa phổi (Pulmonary fibrosis)
• Bệnh sarcoid (Sarcoidosis)
• Xơ cứng b́ (Scleroderma)
• Bệnh phổi do asbestos (Asbestosis)
• Bụi phổi silic , bệnh nhiễm silic ( Silicosis)
• Viêm khớp dạng thấp và Lupus (Rheumatoid Arthritis and Lupus)
Để biết bệnh nhân mắc phải loại bệnh phổi nào, bác sĩ có thể thực hiện kiểm tra hơi thở, chụp x-quang hay CT scan.
Hăy kiểm tra các bệnh phổi liệt kê trong trong danh sách trên. Nếu bạn không chắc chắn, hăy hỏi bác sĩ hay nhân viên phục hồi chức năng phổi để được trợ giúp.
BỘ PHẬN NÀO CỦA LÁ PHỔI BẠN ĐANG HOẠT ĐỘNG KHÔNG TỐT ?(WHAT PART OF YOUR LUNGS IS NOT WORKING RIGHT?)
Những căn bệnh về ống dẫn khí, đường hô hấp(Airway Diseases)
Một số căn bệnh về phổi ảnh hưởng đến đường hô hấp. Các đường hô hấp thường mở ra và không khí có thể đi xuyên qua chúng một cách dễ dàng. Khi đường dẫn khí bị hẹp lại hoặc chỉ mở ra ít ít v́ do bắp cơ thắt chặt (muscle tightening) hoặc chất nhầy tích tụ (mucus build up), khiến cho ít ít không khí có thể đi qua. Việc trao đổi dưỡng khí oxygen và thán khí carbon dioxide không xảy ra khi ḍng luân lưu của không khí suy giảm.
•Đối với bệnh hen suyễn (ashma), đường hô hấp có thể thắt chặt để làm ống dẫn khi bị thu hẹp. Một số người lại có nhiều chất nhầy tích tụ nên có thể khiến cho đường hô hấp tiếp tục bị thu hẹp.
•Đối với viêm phế quản (bronchitis), sự sưng phù (phù nề = swelling) xảy ra trong đường hô hấp và khi có nhiều chất nhầy tích lũy th́ càng kiến cho đường hô hấp bị hẹp hơn.
•Đối với bệnh giăn phế quản (bronchiectasis ) hoặc bệnh Xơ hóa nang /bệnh nhầy nhớt (Cystic Fibrosis = mucoviscidosis), chất nhầy tích tụ làm thu hẹp đường hô hấp / ống dẫn khí.
Bệnh hô hấp măn tính (Air Sac Disease = Chronic respiratory disease (CRD))
Những túi khí hoặc phế nang lành mạnh th́ rất đàn hồi (elastic) và chúng có thể để giăn dài và trở lại kích thước b́nh thường. Đối với khí phế thũng (Emphysema), các túi khí bị phá hủy hoặc bị mất khả năng căng giăn. Không khí bị kẹt lại bên trong các túi khí khiến cho dưỡng khi oxygen ít đi vào máu .
Bệnh phổi tắc nghẽn măn tính (COPD) (Chronic Obstructive Pulmonary Disease = COPD)
Căn bệnh phổi này th́ thường do kết hợp một số bệnh phổi, chẳng hạn như:
• Khí phế thũng(Emphysema)
• Viêm phế quản(Bronchitis)
• Hen suyễn(Asthma)
Ở căn bệnh này, đường hô hấp (đường dẫn khí) và các túi khí (air sac) có vấn đề khiến làm giảm sự trao dổi dưỡng khi oxygen và thán khi carbon dioxide.
Bệnh Mô Liên Kết (Connective Tissue Diseases)
Trong một số bệnh phổi, các lớp ở giữa các túi khí và các mạch máu mà lớp này được gọi là mô liên kết(connective tissue) bị sưng phồng lên hoặc bị những vết sẹo/thẹo. Điều này có thể làm suy giảm khả năng giăn nở của phổi . Điều này làm suy giảm trao đổi dưỡng khí oxygen từ phổi vào máu. Điều này có thể xảy ra đối với những căn bệnh như sau:
• Bệnh sarcoid (Sarcoidosis)
• Xơ hóa phổi (Pulmonary fibrosis)
• Bệnh phổi do asbestos (Asbestosis)
• Bụi phổi silic , bệnh nhiễm silic ( Silicosis)
• Xơ cứng b́ (Scleroderma)
florida80
06-08-2019, 21:13
TẬP THỂ DỤC GÂY HEN SUYỄN
(EXERCISE INDUCED ASTHMA)
Lynn Ly Phỏng Dịch theo thông tin Đại Học Y OHIO-Hoa Kỳ
Kiểu tập thể dục gây Hen Suyễn (Asthma) c̣n được gọi là thể dục thúc đẩy sự co thắt phế quản (EIB = bronchospasm). Sự co thắt phế quản là một trong những loại bệnh hen suyễn gây ra các vấn đề hô hấp như ho, thở kḥ khè (wheezing) hay co thắt lồng ngực (chest tightness) trong khi hoặc sau khi tập thể dục.
Những người bị loại hen suyễn này có những đường ống khí rất nhạy cảm. Thở nhanh / thở gấp / sự tăng thông khí (fastbreathing = hyperventilation) trong khi tập thể dục khiến cho các đường dẫn khí vào phổi hạ nhiệt và khô đị . Sự thay đổi nhanh chóng ở nhiệt độ không khí và độ ẩm khiến cho các ống khí thắt chặt lại và trở nên nhỏ hơn. Những ống khí nhỏ làm cho hô hấp khó khăn hơn. Ô nhiễm không khí, phấn hoa, hay bào tử nấm mốc (mold spores) được hít vào phổi trong khi tập thể dục cũng có thể gây ra các vấn đề về hô hấp.
Nếu bạn bị bệnh hen suyễn măn tính, dị ứng, các vấn đề về xoang mũi (sinus) hoặc có tiền sử gia đ́nh bị dị ứng, bạn có thể có nguy cơ bị t́nh trạng nàỵ .
NHỮNG DẤU HIỆU (SIGNS)
Những vấn đề về hô hấp khởi phát sau khi bạn bắt đầu tập thể dục hoặc 5 đến 20 phút sau khi ngừng tập thể dục. Các dấu hiệu thường gặp nhất là:
•Kḥ khè (Wheezing)
•Ho (Coughing)
•Mệt mỏi (Tiredness)
•Thở hổn hển , khó thở (Shortness of Breath)
•Co thắt lồng ngực / Lồng ngực như bị bó chặt (Chest Tightness)
THỬ NGHIỆM (TESTING)
Bác sĩ sẽ hỏi bạn về khả năng hô hấp của bạn và làm xét nghiệm, như kiểm tra tim mạch và hơi thở của bạn. Các xét nghiệm sau đây này cũng có thể được sử dụng:
•Thử nghiệm thực hiện các kiểu thể dục có tính cách thử thách va` đo hơi thở của bạn trong khi bạn đi bộ hoặc chạy trên máy chạy bộ (treadmill), hoặc ddang dda.p loa.i xe đạp thể dục.
• Thử nghiệm sự chủ động gia tăng thông khí Eucapnic ( Eucapnic voluntary hyperventilation test = EVH) được thực hiện băng cách hít thở nhanh vào trong một ống đo lường lượng không khí đi vào và đi ra khỏi phổi.
ĐIỀU TRỊ (TREATMENT)
Sự co thắt phế quản (EIB) có thể được điều trị bằng thuốc trước khi tập thể dục. Thuốc đặt trong một ống hít hơi được hít vào phổi 15 phút trước khi tập thể dục. Thuốc này nhanh chóng mở rộng các đường ống dẫn khí và giữ cho chúng mở rộng ra khoảng từ 4 đến 6 giờ. Nếu thuốc hít trước khi tập thể dục không hiệu guả hoặc nếu vấn đề hô hấp trở nên trầm trọng hơn, hăy nói chuyện với bác sĩ của bạn. Bạn có thể cần thay đổi loại thuốc.
KIỂM SOÁT CÁC DẤU HIỆU CỦA BẠN (CONTROLLING YOUR SIGNS)
Không nên để loại bệnh hen suyễn này ngăn cản các hoạt động mà bạn thích hoặc việc luyện tập thể dục. Một số bài tập và thể thao có thời gian nghỉ giữa chừng sẽ ít gây ra những vấn đề hô hấp hơn, như bóng chày (baseball), bóng rổ / bóng chuyền (volleyball), tennis, trượt tuyết xuống đồi dốc , và golf, có thể dễ dàng hơn để thực hiện. Dưới đây là những cách khác làm giảm thiểu các dấu hiệu hen suyễn của bạn:
•Hăy làm nóng người bằng cách thực hiện các động tác co giăn (stretching) hoặc đi bộ chậm chậm từ 5 đến 10 phút trước khi tập thể dục ở mức độ trung b́nh (moderate exercise = thể dục ở mức độ không đ̣i hỏi tận dụng sức lực quá mức) .
•Tự cho ḿnh một khoảng thời gian nghỉ ngơi 5 phút khi có dấu hiệu hen suyễn phát khởi .
•Tập thể dục trong nhà khi thời tiết bên ngoài lạnh và khô, hoặc nếu có cảnh báo về sự ô nhiễm không khí hay ô nhiễm bầu khí quyển, hoặc có cảnh báo về số lượng phấn hoa tăng cao.
•Hô hấp bằng mũi trong khi luyện tập thể dục nhẹ nhàng. Mũi làm ấm và bổ sung thêm độ ẩm cho không khí hơn thở bằng miệng.
•Dùng khăn quàng hoặc mặt nạ che mũi và miệng của bạn để làm ấm không khí trước khi không khí đi vào phổi.
•Nói chuyện với bác sĩ của bạn về phương cách kiểm soát các dấu hiệu bị dị ứng như nghẹt mũi, hắt hơi, ngứa mắt. Dị ứng có thể làm cho dấu hiệu hẹn suyễn trở nên tồi tệ hơn.
florida80
06-08-2019, 21:17
THÔNG TIN Y HỌC VỀ LIỆU PHÁP GENE (THÉRAPIE GÉNIQUE)
Lynn Ly tổng hợp Thông Tin Về Liệu Pháp Gene (Thérapie Génique)
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 13 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 2/2/2007 )
8/ CÓ MỘT GENE PHỤ TRÁCH CẢM GIÁC ĐAU ĐỚN
Sự cảm nhận đau đớn của chúng ta chỉ là do một gèng chi phối. Đây là một khám phá kỳ thú đă được thực hiện lúc nghiên cứu 6 trẻ em,thuộc cùng một họ tộc, ở thành phố Lahore, trong miền Bắc Pakistan. Không bao giờ cảm thấy sự đau đớn là ǵ suốt trong cuộc đời,có khả năng nhận những thách thức không chịu đựng nỗi như bước trên than hồng hoặc đâm dao vào cánh tay. Tất cả các trẻ em này thật ra mang cùng đột biến di truyền(mutation génétique). Các nhà nghiên cứu của Cambridge Institute for Medical Research đă cho thấy rằng chỉ một đột biến di truyền của một gène được goi là SCN9A đă làm các tre em này mất đi sự truyền tín hiệu đau đớn từ dây thần kinh lên năo bộ. Gène này mă hóa cho một kênh phát tín hiệu phân tử của các tế bào thần kinh phụ trách cảm nhận đau đớn. Khám phá đáng ngạc nhiên này sẽ mở đường cho một thế hệ thuốc chống đau mới,nhằm đặc biệt vào gène này.
(SCIENCE ET VIE 2/2007)
florida80
06-08-2019, 21:17
/ PHẢI CHĂNG T̀NH MẪU TỬ LÀM BIẾN ĐỔI BỘ GENE CỦA CHÚNG TA ?
Sau khi quan sát hành vi của chuột mẹ đối với chuột sơ sinh của chúng,các nhà di truyền của Đại Học Mc Gill ở Montréal tin chắc quả đúng là như vậy và sự biến đổi này sẽ lâu bền.
Phải chăng t́nh mẫu tử sẽ làm cho chúng ta không những chỉ tin tưởng hơn,it stress hơn,mà cũng c̣n làm biến đổi mật mă di truyền(code génétique) của chúng ta ? Nói một cách khác phải chăng bộ gène (génome) của chúng ta,nhờ một mức độ cao của t́nh mẫu tử,có thể làm sai những chỉ thị di truyền đă được xác định để cho phép chúng ta thích nghi hơn với thế giới bên ngoài?
Đó là kết luận vừa đạt được của một nghiên cứu mới về vấn đề này,đươc công bố trong Journal of Neuroscience bởi các nhà di truyền của Đại Học Mc Gill ở Montréal.Các nhà nghiên cứu này đă quan sát hành vị của chuột mẹ đối với các chú chuột sơ sinh của chúng.Tại sao lai sử dụng các động vật gậm nhấm để làm thí nghiệm trong khi đời sống của một chú chuột không giống chút nào với đời sống của một con người? Thật vậy vi lẽ có sự khác nhau giữa người và một động vật gậm nhấm nên ta không thể so sánh sự phân ly giữa chuột mẹ và chuột con với việc đặt một em bé ở nhà trẻ.
Tuy vậy các cơ chế chi phối cũng khá tương tự nhau.Mặc dầu chuột không có nhà trẻ, nhưng chuột là những động vật pḥng thí nghiệm tiêu biểu nhất bởi v́ chất liệu di truyền (matériel génétique) của chúng, năo bộ của chúng và ngay cả hành vị của chúng rất giống với con người.
Các nhà nghiên cứu từ lâu đă biết rằng các động vật được thương yêu và được săn sóc tŕu mến bởi mẹ th́ ít sợ hăi hơn và có khuynh hướng ưa thích mạo hiểm hơn.Hiệu quả này là do sự biến đổi của biểu hiện gène chi phối những đáp ứng của năo bộ đối với stress.Sự biến đổi này làm gia tăng những thụ thể (récepteurs) mới đối với stress nằm trong một vùng của năo bộ gọi là ngư mâ (hippocampe) và sự gia tăng nhiều các thụ thể này sẽ làm giảm bớt phản ứng của cơ thể đối với các t́nh huống stress.
Ngược lại,sự việc tách rời thường xuyên các động vật sơ sinh khỏi mẹ của chúng cũng như các biến cố khó chịu khác sẽ làm gia tăng lượng hormone de stress trong máu.Người ta cũng xác nhận rằng năo bộ của chúng ít được nối kết hơn. Các chú chuột nhỏ về sau này sẽ mắc phải đủ loại rối loạn.Các thí nghiệm được tiến hành trên chuột đă phát hiện rằng các biến đổi này có thể bền lâu và được truyền cho các thế hệ tương lai.
Đồng thời,nhiều nghiên cứu chứng tỏ rằng các trẻ thiếu t́nh mẫu tử có một sức khỏe vật lư và tâm thần kém hơn,thường bị chứng trầm cảm hơn,thường có hành vi tội phạm và nghiện ma túy hơn.Thật vậy tuồng như những kinh nghiệm kinh qua lúc c̣n ấu thơ ảnh hưởng lên biểu hiện gènes và do đó lên sự phát triển của năo bộ..
Nghiên cứu mới này của Canada phóng rọi một ánh sáng mới lên tầm quan trọng của giáo dục và những kinh nghiệm của cuộc sống lên tỷ lệ mắc vài bệnh lư như béo ph́,đái đuờng và trầm cảm.Theo BS Moshe Szyf,phụ trách công tŕnh nghiên cứu “ Sự việc môi trường xă hội có thể biến đổi cac gènes của chúng ta có một hàm ư to lớn đối với con người “ Bằng cách di chuyển con người từ môi trường này đến môi trường khác,bạn có thể tái chương tŕnh hóa hoàn toàn bộ gene của họ và tạo nên trên họ những hiệu quả dương tính hay âm tính suốt cuộc đời.BS Szyf cam doan như vậy trước khi nói thêm rằng cac hành vi như chè chén hoặc hung bạo gây nên sự phóng thich hormone trong năo bộ trong một thời gian dài có thể dẫn đến những biến đổi bền lâu của mật mă di truyền.Tuy nhiên những kết luận như thế không hẳn đều được mọi người nhất trí và c̣n phải được xác nhận.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 13/3/2007)
florida80
06-08-2019, 21:18
CÁC GENE CỦA BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG
Trên thế giới ,hơn 200 triệu người bị bệnh đái đường : họ có quá nhiều đường trong máu bởi v́ !insuline,hormone điều hoà nồng độ này,không được sản xuất đúng đắn bởi các tế bào của tụy tạng hoặc là tác dụng không có hiệu quả.Chúng ta sinh ra không được b́nh đẳng trước đái đường loại 2 (đái đuờng xảy ra ở người trưởng thành liên kết với loạn nằng của các tế bào tụy tạng).Bệnh đái đường loại 2 không những chỉ do lối sống (béo ph́,thiếu hoạt động vật lư) mà c̣n do các tố bẩm di truyền (prédispositions génétiques).Vậy các gènes nào liên hệ trong sự phát sinh bệnh đái đường này?
Các nhóm nghiên cứu của Philippe Froguel của Viện Pasteur thành phố Lille (Pháp) và của Rob Sladek của Đại Học McGill ở Montréal vừa nhận diện được 4 gènes biểu hiện cho 70% nguy cơ di truyền đối với bệnh đái đường loại 2.Các tế bào của tụy tạng tiết insuline rất chuyên môn hoá và sự quân b́nh giữa tăng sinh và biệt hoá của những tế bào này được điều hoà một cách chính xác,đặc biệt bởi một đường tín hiệu tế bào(voie de signalisation cellulaire) được mệnh danh là wnt.Thế mà trong số 4 gènes được nhân diện thi 3 gènes điều biến đường wnt này.Gène thứ tư mă hoá một protéine chỉ hiện diện ở các tế bào tụy tạng tiết insuline được gọi là ZnT8.Protéine này tham dự vào việc vận chuyển kẽm(zinc),cần thiết cho sự điều tiết insuline bởi các tế bào tụy tạng.Như vậy có ít nhất 4 gènes mở đường cho sự phát sinh bệnh đái đường loại 2 trên một người nào đó.Bệnh đái đường loại này như chúng ta đă biết tùy thuộc vào nhiều yếu tố.
(POUR LA SCIENCE 4/2007)
florida80
06-08-2019, 21:19
MÔI TRƯỜNG CÓ ẢNH HƯỞNG LÊN TUỔI THỌ HƠN CÁC GENES KHÔNG?
Trong hầu hết các trường hợp, phương cách mà một sinh vật sử dụng các gènes được thừa hưởng có tầm quan trọng lên sức khỏe và tuổi thọ it nhất cũng bằng với chuỗi riêng của các gènes này. Các nghiên cứu trên người được thực hiện ở các trẻ sinh đôi « thật sự » gợi ư rằng chuỗi riêng của các gènes can dự 25% vào thời gian sống lành mạnh (durée de vie en bonne santé) và các tương tác với môi trường tác động 75%. Ngoài ra, nhiều nghiên cứu đă chứng tỏ rằng môi trường xă hội kinh tế và văn hóa có những hiệu quả rất quan trọng về mặt tuổi thọ. Ở Pháp, một công nhân lành nghề ở lứa tuổi 35, có tuổi thọ trung b́nh 7 năm thấp hơn tuổi thọ trung b́nh của một cán bộ cao cấp. Không những chỉ có sự bất b́nh đẳng rơ rệt theo nghề nghiệp mà cả trên b́nh diện địa dư, tuổi thọ cũng thay đổi tùy theo vùng của một quốc gia. Ở Anh các nghiên cứu được tiến hành trong các cơ quan hành chánh đă chứng tỏ rằng với t́nh h́nh xă hội kinh tế và văn hóa tương tự nhau, tuổi thọ trung b́nh giảm nhiều năm từ cao đến thấp của thang thứ bậc hành chánh. Một nghiên cứu khác được tiến hành trên nhiều ngàn người vừa phát hiện rằng tuổi trung b́nh xảy ra các bệnh thoái hóa thần kinh liên hệ chặt chẽ với các yếu tố xă hội kinh tế và văn hóa, và đặc biệt là với mức độ và thời gian học vấn và cao học: tuổi trung b́nh xảy ra chứng sa sút trí tuệ (démence) biến thiên 15 năm tùy theo các biến số nói trên. Các ư niệm thiết yếu này thường không được biết đến hoặc ít được chú ư đến. C̣n các cơ chế giải thích (mối liên hệ giữa các yếu tố xă hội này và sự vận hành của cơ thể) không được nghiên cứu đầy đủ. Chúng ta thường có khuynh hướng không muốn thấy rằng phương cách chúng ta đang dùng để xây dựng xă hội và mối tương tác xă hội có những hậu quả quan trọng về mặt sức khỏe và tuổi thọ.
(POUR LA SANTE 5/2007).
florida80
06-08-2019, 21:19
UNG THƯ VÚ : 5 GENES MỚI ĐƯỢC NHẬN DIỆN.
Các tạp chí Nature và Nature Genetics cả hai đă công bố việc khám phá 5 gènes mới có quan hệ trong ung thư vú. Tuy nhiên ảnh hưởng của chúng không quan trọng bằng các gènes BRCA1 và BRCA2 được khám phá cách nay 10 năm. Mặt khác tuồng như các gènes này chỉ thể hiện phần nổi của tảng băng di truyền trong đó c̣n ẩn dấu nhiều gènes khả dĩ gây ung thư.
Một nhóm khoảng 100 nhà di truyền học quốc tế vừa cho công bố mới đây trên site của tờ Nature một bài báo tường thuật việc khám phá 5 gènes được cho là đóng một vai tṛ trong việc xuất hiện ung thư vú. Dưới sự chỉ đạo của Douglas Easton và Bruce Ponder của Đại Hoc Cambridge, nhóm nghiên cứu đă thực hiện một cuộc điều tra nơi 50.000 phụ nữ mà một nửa bị ung thư vú.
Hai bài báo trên ấn bản Nature Genetics về yếu tố di truyện của ung thư vú đă được đăng tải. Những kết luận xác định phần nào những kết luận của bài báo được công bố trên tờ Nature.
(LE Journal du Médecin 19/6/2007)
florida80
06-08-2019, 21:20
MỘT BƯỚC ĐẦU TIÊN TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH PARKINSON BẴNG THERAPIE GENIQUE.
Một thử nghiệm sơ khởi với gène trị liệu pháp (thérapie génique), được thực hiện trên những bệnh nhân t́nh nguyện mắc bệnh Parkinson thể tiến triển, đă cho những kết quả đáng phấn khởi, theo một nghiên cứu của Hoa Kỳ được công bố trên tạp chí y học The Lancet ngày 23 tháng 6.
Những người hữu trách của công tŕnh ở Nữu Ước, Michael Kaplitt và Matthew During (Cornell University) qua đó nh́n thấy được một cơ sở nghiên cứu để xây dựng những mô h́nh gène trị liệu pháp đối với nhiều bệnh thoái hóa thần kinh.
Thử nghiệm được thực hiện trên 12 người t́nh nguyện, trong đó có một phụ nữ ở vào một giai đoạn muộn của bệnh. Thử nghiệm chỉ nhằm mục đích đánh giá độ an toàn và sự dung nạp tốt của phép điều trị này, được tiêm trực tiếp vào một bên của năo bộ, c̣n phía kia được dùng để kiểm chứng.
Tuy vậy, thử nghiệm đă cho phép chứng nhận một cải thiện đáng kể trên một nửa cơ thể được chi phối bởi vùng của năo bộ được điều trị.Không có một tác dụng phụ nào được ghi nhận sau 2 đến 3 năm theo dơi bệnh nhân.
Gène trị liệu pháp nhằm làm dịu sự tăng hoạt tính của một vùng năo bộ gọi là nhân dưới đồi (noyau sous-thalamique). Trong bệnh Parkinson, phần nhỏ bé của năo bộ này là nơi có hoạt tính gia tăng, do sự thiếu hụt một chất cản được gọi là GABA (acide glutamique décarboxylase). Điều này ảnh hưởng lên sự kiểm soát chức năng vận động.
Các nhà nghiên cứu đă sử dụng một vecteur vô hại thuộc loại adénovirus để vận chuyển một bộ máy enzyme điều chỉnh, cần thiết để thực hiện sự tổng hợp đầy đủ GABA. Cần các thử nghiệm bổ sung trước khi dự trù áp dụng rộng răi trên lâm sàng.
Bệnh Parkinson là một bệnh thần kinh gây bệnh nơi 1-2% những người trên 65 tuổi và 3-4% những người trên 75 tuổi. Ở Pháp có 100.000 người bị bệnh Parkinson và 10.000 trường hợp mới xảy ra mỗi năm. Ngoài điều trị bằng kích thích điện năo bộ (hiệu quả nhưng không được chỉ định cho tất cả mọi người), phép điều trị hiện nay chủ yếu dựa trên thuốc và đă cải thiện nhiều tỷ lệ sống c̣n và chất lượng cuộc sống của các bệnh nhân. Tuy vậy phép trị liệu này không chữa lành bệnh nhân cũng như không ngăn cản được tiến triển của bệnh.
(LE MONDE 23/6/2007)
florida80
06-08-2019, 21:21
NIỀM HY VỌNG CHỐNG LẠI BỆNH PARKINSON
Đó là thử nghiệm lâm sàng đầu tiên về điều trị gène (thérapie génique) trong cố gắng chống lại bệnh Parkinson. Và những kết quả được công bố trên The Lancet, mặc dầu chỉ mới là sơ khởi lại vượt quá mức mong đợi.
Bệnh Parkinson là bệnh thoái hóa thần kinh gây nên bởi sự thiếu hụt phức tạp dopamine và Gaba (acide glutamique décarboxylase), những chất dẫn truyền thần kinh tác động lên sự kiểm soát các cử động. Đứng trước bệnh này, các nhà nghiên cứu của Đại Học Cornell Hoa Kỳ đă chọn một phương thức điều trị độc đáo. Chúng ta biết rằng sự kích thích nhân dưới đồi thị (noyau sous-thamique) nằm sâu trong năo bộ sẽ kích thích sự tổng hợp Gaba. Thay v́ dùng các điện cực để kích thích vùng này của năo bộ như thường làm, nhóm nghiên cứu của Đại Học Cornell đă tiêm trực tiếp vào đó một dung dịch chứa một adénovirus vô hại mang một gène có khả năng tổng hợp enzyme cần thiết cho sự sản xuất Gaba.
12 bệnh nhân bị bệnh Parkinson ở giai đoạn tiến triển đă được điều trị như thế. Ba tháng sau khi tiêm dung dịch chứa gène này vào năo bộ, cả những nhà nghiên cứu lẫn các bệnh nhân đều ngạc nhiên nhận thấy một sự cải thiện rơ rệt các triệu chứng, một cải thiện luôn luôn được thấy rơ một năm sau đó. Đồng thời một nhóm nghiên cứu khác của Northwestern University, Chicago, đă theo một hướng điều trị khác, lần này được tiến hành trên chuột. Việc cho một chất chống cao áp israpidine, đă gây nên sự trẻ hóa các tế bào thần kinh ở một mức độ nào đó. Do đó các nhà nghiên cứu tin rằng chất này có thể làm chậm hoặc ngăn cản sự tiến triển của bệnh Parkinson. Một kết quả quá mức mong đợi trên một bệnh lư mà từ 30 năm nay đă không có một đổi mới điều trị nào đă được thực hiện. Một thử nghiệm lâm sàng được tiến hành trên một trăm bệnh nhân bị bệnh Parkinson sẽ được khơi mào.
(SCIENCES ET AVENIR 8/2007)
florida80
06-08-2019, 21:21
VIỆC NGHIỆN THUỐC LÁ ĐƯỢC ĐỌC TRÊN CÁC GENES CỦA CHÚNG TA
Về mặt di truyền tất cả chúng ta không b́nh đẳng khi đối diện với vấn đề cai thuốc lá (sevrage tabagique). Một công tŕnh nghiên cứu của Viện sức khoẻ quốc gia (Hoa kỳ) chứng minh rằng có đến 30 gènes đóng một vài tṛ trong khả năng làm ngưng hút thuốc của chúng ta. Thật vậy, việc vận hành của các gènes tỏ ra rất khác nhau nơi những người nghiện thuốc lá thành công ngưng hút thuốc. 30 gène này tương ứng một phần với các gènes đă được biết là có ảnh hưởng lên tính nhạy cảm đối với các chất gây nghiện (không phân biệt là chất nào). (
SCIENCE ET VIE 10/2007)
florida80
06-08-2019, 21:22
MỘT GENE BỊ BIẾN DỊ LÀ NGUYÊN NHÂN CỦA BỆNH TĂNG NHĂN ÁP TRÓC MẢNG.
Các biến dị của một gène cho phép giải thích 99% các trường hợp bệnh tăng nhăn áp tróc mảng (glaucome exfoliatif). Cũng như tất cả các trường hợp bệnh tăng nhăn áp khác, thể bệnh đặc biệt này gây nên mất thị lực dần dần, diễn ra không đau đớn, có thể dẫn tới mù ḷa. Nhưng bệnh tăng nhăn áp tróc mảng là bệnh duy nhất mà nguồn gốc của sự loạn năng (dysfonctionnement) đă được biết đến : sự tích tụ các sợi nhỏ (microfibres) trong pḥng trước (chambre antérieure) của nhăn cầu. Khi đó v́ chất dịch không thể được thải đi do đó áp suất trong nhăn cầu gia tăng, gây nên những thương tổn không thể hồi phục của dây thần kính thị giác.Thế mà theo một nhóm nghiên cứu người Thụy Điển và Islande, những biến đổi của gène LOXL1 là nguyên nhân của sự sản sinh những sợi nhỏ này.Việc nhận diện gène gây bệnh đă có thể thực hiện nhờ sự so sánh tỉ mỉ di sản di truyền (patrimoine génétique) của 195 bệnh nhân bị bệnh tăng nhăn áp và 14.474 người chứng.
(SCIENCES ET VIE 10/2007)
florida80
06-08-2019, 21:23
5/ VIỆC NGHIỆN THUỐC LÁ ĐƯỢC ĐỌC TRÊN CÁC GENES CỦA CHÚNG TA
Về mặt di truyền tất cả chúng ta không b́nh đẳng khi đối diện với vấn đề cai thuốc lá (sevrage tabagique). Một công tŕnh nghiên cứu của Viện sức khoẻ quốc gia (Hoa kỳ) chứng minh rằng có đến 30 gènes đóng một vài tṛ trong khả năng làm ngưng hút thuốc của chúng ta. Thật vậy, việc vận hành của các gènes tỏ ra rất khác nhau nơi những người nghiện thuốc lá thành công ngưng hút thuốc. 30 gène này tương ứng một phần với các gènes đă được biết là có ảnh hưởng lên tính nhạy cảm đối với các chất gây nghiện (không phân biệt là chất nào). (
SCIENCE ET VIE 10/2007)
florida80
06-09-2019, 21:19
News Release 9-Jun-2019
Improvements in insulin release wane after treatment stops in adults with type 2 diabetes
Results also add support that the disease is more aggressive in youth
NIH/National Institute of Diabetes and Digestive and Kidney Diseases
Share
Print E-Mail
IMAGE
IMAGE: Dr. Steven Kahn, study chair for the Restoring Insulin Secretion (RISE) Consortium, talks with RISE participant Faamafi Faamafi Jr. about his experience in the adult medication trial. Kahn is an... view more
Credit: Christopher Pacheco, VA Puget Sound Health Care System
A set of clinical trials examining youth and adults with type 2 diabetes or impaired glucose tolerance has found that disease progression in adults slowed during medical treatment but resumed after treatment stopped. Youth on the same treatment had markedly poorer outcomes with continued disease progression both during and after the treatment. This research, funded by the National Institute of Diabetes and Digestive and Kidney Diseases (NIDDK), was published June 9 in the journals Diabetes and Diabetes Care and presented at the American Diabetes Association Scientific Sessions in San Francisco. NIDDK is part of the National Institutes of Health.
The Restoring Insulin Secretion (RISE) Adult and Pediatric Medication Studies compared the use of different treatments among adults aged 20-65 and youth aged 10-19 with impaired glucose tolerance or early onset type 2 diabetes with the aim of preserving beta cell function - key to the body's ability to make and release insulin.
In the adult study, participants were randomly assigned to receive either long-acting insulin (glargine) for three months followed by nine months of metformin, the drug liraglutide in combination with metformin for 12 months, metformin alone for 12 months, or a placebo. Researchers wanted to see whether early aggressive treatment could have a lasting effect on slowing or stopping the decline of beta cell function that occurs in people with type 2 diabetes. Participants were monitored for three additional months after treatments ended.
Results showed that adult participants had improvements in beta cell function and blood glucose control while on the treatments, with those in the liraglutide plus metformin group showing the most improvement after 12 months. However, these improvements did not persist among any of the groups after treatment ended.
"The RISE medication studies show that these treatments for type 2 diabetes do not make lasting changes to beta cells," said study chair Dr. Steven Kahn from the Veteran's Affairs Puget Sound Health Care System and University of Washington School of Medicine. "For adults, we saw that the treatment options were equally effective while people were actively on them - but people need to stay on treatment to maintain the benefits."
In a companion paper, findings from the adult study were compared to those from the RISE Pediatric Medication Study published in 2018, which showed that beta cell function declined in the two youth treatment groups during active treatment, and worsened after treatment ended.
The RISE Adult and Pediatric Medication Studies were designed together to enable direct comparison of the effect of treatment on youth and adults. The youth study compared the use of three months of insulin glargine followed by metformin for nine months to metformin alone for 12 months. Insulin glargine and metformin are the only U.S. Food and Drug Administration-approved medications for youth with type 2 diabetes.
"Though the medications' effectiveness for adults while on treatment is reassuring, the poor results for youth in the study, both during and after treatment, underscore the continued urgent need for new approaches to prevent and treat type 2 diabetes in youth, since the disease progresses more rapidly given the same treatment as adults," said Dr. Ellen Leschek, a study author and the NIDDK project scientist for RISE.
This close comparison between adults and youth receiving the same type 2 diabetes treatments supports earlier research suggesting the disease is more aggressive in youth than adults, and points to new areas of research that may help explain why.
"The RISE studies show that type 2 diabetes affects youth differently, and more aggressively, than adults, said NIDDK Director Dr. Griffin P. Rodgers. "These findings demonstrate the need for continued research to identify new treatment strategies to control and treat type 2 diabetes, and underscore the need to focus on prevention efforts, especially for youth
florida80
06-09-2019, 21:19
News Release 9-Jun-2019
New research on diet and supplements during pregnancy and beyond
Scientists announce findings on use of supplements and eating well when you're expecting
American Society for Nutrition
Share
Print E-Mail
Baltimore (June 9, 2019) - The foods and nutrients a woman consumes while pregnant have important health implications for her and her baby. Nutrition 2019, the annual meeting of the American Society for Nutrition, will feature new research on prenatal vitamins, infant supplements and the impacts of a mother's diet during pregnancy and after the baby is born.
Nutrition 2019 is being held June 8-11, 2019 at the Baltimore Convention Center. Contact the media team for more information or to obtain a free press pass to attend the meeting.
Studies examine dosage and labeling of common supplements
Many prenatal supplements contain too much folic acid
Consuming folic acid prior to pregnancy helps prevent birth defects. But a new study found most prenatal supplements were labeled as containing more folic acid than the current recommended daily intake. The study also revealed different agencies and scientific bodies provide conflicting messaging around the optimal intake of folic acid (from supplements) and folate (from food) during pregnancy. Nancy Potischman, National Institutes of Health, will present this research on Sunday, June 9, from 1:45 - 2:45 p.m. in the Baltimore Convention Center, Halls A-B (poster #268 (https://www.vietbf.com/forum/usertag.php?do=list&action=hash&hash=268) ) (abstract).
Prenatal vitamins often have nutrient content higher than labeled
Chemical analysis of the contents of 24 prenatal multivitamins representing about 60 percent of the prenatal multivitamin products sold through U.S. pharmacies in 2015-2016 revealed that most contained greater quantities of vitamins and minerals than was declared on the label, perhaps to account for possible losses during storage. The greatest difference was seen for vitamin D, with supplements containing an average of 29 percent more vitamin D than was indicated on product labels. By offering a more accurate picture of supplements' contents, the findings can help scientists who study the impacts of nutrients on health outcomes, researchers say. Karen W. Andrews, U.S. Department of Agriculture, will present this research on Sunday, June 9, from 4:45 - 5:00 p.m. in the Baltimore Convention Center, Room 317 (abstract).
Vitamin D supplementation improves babies' growth
Babies born with low stores of vitamin D can have problems with bone growth, and the American Academy of Pediatrics recommends children get at least 400 International Units of the vitamin each day. In a recent clinical trial, newborns with low vitamin D stores who were given a higher dosage (1,000 IU/day) of vitamin D supplementation more rapidly built up their stores and gained more lean body mass by six months of age compared to those given the standard of care (400 IU/day). Compared to a group of infants born with very good vitamin D stores, the babies receiving the 1,000 IU/day intervention appeared to have normal lean mass. Maryam Razaghi, McGill University, will present this research on Monday, June 10, from 12:45 - 1:45 p.m. in the Baltimore Convention Center, Halls A-B (poster #301 (https://www.vietbf.com/forum/usertag.php?do=list&action=hash&hash=301) ) (abstract).
Insights on staying healthy when you're 'eating for two'
Evidence that eating well before pregnancy lowers risk of preeclampsia
While scientists aren't sure what causes the dangerous pregnancy complication preeclampsia, or how to prevent it, a new study suggests diet plays a role. Among more than 20,000 pregnancies, researchers found women who followed a healthier diet before getting pregnant were significantly less likely to develop preeclampsia. Diet quality was assessed based on adherence to the American Heart Association dietary recommendations and the Dietary Approaches to Stop Hypertension (DASH) dietary pattern. Mariel Arvizu, Harvard T.H. Chan School of Public Health, will present this research on Tuesday, June 11, from 11:45 a.m. - noon in the Baltimore Convention Center, Room 317 (abstract).
New insights on pregnancy and obesity
Obesity before pregnancy increases the risk of some health problems for a pregnant woman and her baby, but current recommendations to minimize these risks do not differentiate between mild and severe obesity. A new study of more than 25,000 women found those with more severe obesity gained less weight during pregnancy, but had larger babies, than those with less severe obesity. These results suggest the risks and optimal management of obesity during pregnancy may vary depending on severity. This study also found only one in five obese women gained the recommended amount of weight during pregnancy while 60 percent gained excessive weight. Amy R. Nichols, The University of Texas at Austin, will present this research on Monday, June 10, from 12:45 - 1:45 p.m. in the Baltimore Convention Center, Halls A-B (poster #227 (https://www.vietbf.com/forum/usertag.php?do=list&action=hash&hash=227) ) (abstract).
florida80
06-09-2019, 21:20
Combination medication helps patients with type 2 diabetes maintain blood sugar goals
Randomized, clinical trial found that patients taking IDegLira achieved and maintained blood glucose goals longer than those taking insulin only
Brigham and Women's Hospital
Share
Print E-Mail
For patients with diabetes, bringing down and maintaining lower blood glucose levels is important to minimize the risk of long-term complications such as nerve damage, kidney damage, an increased risk of heart disease, eye problems, and more. Through a randomized, multicenter clinical trial sponsored by Novo Nordisk, investigators studied blood glucose results for patients assigned to either take insulin (insulin glargine, IGlar U100) or insulin degludec plus liraglutide (IDegLira), a combination of both insulin and an additional medication to help with blood sugar control. The global study team found that participants who received IDegLira were better able to achieve blood glucose goals and remain at that goal longer compared to those assigned to receive IGlar. Results are presented today at the American Diabetes Association's Scientific Sessions and published simultaneously in The Lancet Diabetes & Endocrinology.
"We believe this reflects a more durable effect of IDegLira compared to IGlar, possibly related to the complementary roles and physiologic effects in the combination formulation," said corresponding author and global signatory investigator Vanita R. Aroda, MD, a specialist in the Division of Endocrinology, Diabetes and Hypertension at Brigham and Women's Hospital.
The study, known as DUAL VIII (Durability of insulin degludec plus liraglutide versus insulin glargine U100 as initial injectable therapy in type 2 diabetes) was a 104-week international, multicenter, open-label, phase 3b trial. It enrolled 1,012 patients who were insulin-naïve, aged 18 and older, and had HbA1c 7-11% and a BMI of 20 kg/m² or higher on stable doses of oral antidiabetic drugs. Patients were randomly assigned to take insulin glargine 100 units/mL (IGlar U100) or IDegLira, which contains a GLP-1 receptor analogue -- a molecule that is similar to a naturally occurring compound that reduces blood glucose levels. Both IDegLira and IGlar were administered as once-daily injections. The primary endpoint was time to need for treatment intensification.
Patients in the IDegLira group had significantly longer time until need for intensification of treatment than those in the IGlar group. Investigators reported more effective glucose lowering, less weight gain and less risk of hypoglycemia, or low blood sugar, over the 104 weeks with the combination approach (IDegLira) compared to basal insulin alone (IGlar). No new safety or tolerability issues were reported in the trial.
In their paper, Aroda and her colleagues describe the clinical inertia that surrounds the treatment of diabetes. Concerns about weight gain, low blood sugar and fear of injectables may prevent patients from achieving better glycemic control. Although both IDegLira and IGlar were given as daily injections, IDegLira showed improved outcomes without the need for a separate, additional injection.
"IDegLira showed greater durability than IGlar U100 in reaching and maintaining patients at glycemic goals for longer, thereby minimizing the need for additional therapy, while also reducing the side effects often associated with insulin-only therapy," the authors write. "Taken together, the data from DUAL VIII illustrate the potential benefit of a combined insulin plus GLP-1RA approach, such as IDegLira, as a first injectable therapy."
florida80
06-09-2019, 21:21
Drug delays type 1 diabetes in people at high risk
NIH-funded study finds immunotherapy slows progression to clinical disease by 2 years or more
NIH/National Institute of Diabetes and Digestive and Kidney Diseases
Share
Print E-Mail
IMAGE
IMAGE: Brothers volunteer for Type 1 Diabetes TrialNet. view more
Credit: Benaroya Research Institute
A treatment affecting the immune system effectively slowed the progression to clinical type 1 diabetes in high risk individuals, according to findings from National Institutes of Health-funded research. The study is the first to show that clinical type 1 diabetes can be delayed by two or more years among people who are at high risk. These results were published online in The New England Journal of Medicine and presented at the American Diabetes Association Scientific Sessions in San Francisco.
The study, involving treatment with an anti-CD3 monoclonal antibody (teplizumab), was conducted by Type 1 Diabetes TrialNet, an international collaboration aimed at discovering ways to delay or prevent type 1 diabetes. Researchers enrolled 76 participants ages 8-49 who were relatives of people with type 1 diabetes, had at least two types of diabetes-related autoantibodies (proteins made by the immune system), and abnormal glucose (sugar) tolerance.
Participants were randomly assigned to either the treatment group, which received a 14-day course of teplizumab, or the control group, which received a placebo. All participants received glucose tolerance tests regularly until the study was completed, or until they developed clinical type 1 diabetes - whichever came first.
During the trial, 72% of people in the control group developed clinical diabetes, compared to only 43% of the teplizumab group. The median time for people in the control group to develop clinical diabetes was just over 24 months, while those who developed clinical diabetes in the treatment group had a median time of 48 months before progressing to diagnosis.
"The difference in outcomes was striking. This discovery is the first evidence we've seen that clinical type 1 diabetes can be delayed with early preventive treatment," said Lisa Spain, Ph.D., Project Scientist from the NIH's National Institute of Diabetes and Digestive and Kidney Diseases (NIDDK), sponsor of TrialNet. "The results have important implications for people, particularly youth, who have relatives with the disease, as these individuals may be at high risk and benefit from early screening and treatment."
Type 1 diabetes develops when the immune system's T cells mistakenly destroy the body's own insulin-producing beta cells. Insulin is needed to convert glucose into energy. Teplizumab targets T cells to lessen the destruction of beta cells.
"Previous clinical research funded by the NIH found that teplizumab effectively slows the loss of beta cells in people with recent onset clinical type 1 diabetes, but the drug had never been tested in people who did not have clinical disease," said Kevan C. Herold, M.D., of Yale University, the study's lead author. "We wanted to see whether early intervention would have a benefit for people who are at high risk but do not yet have symptoms of type 1 diabetes."
The effects of the drug were greatest in the first year after it was given, when 41% of participants developed clinical diabetes, mainly in the placebo group. Many factors, including age, could have contributed to the ability of teplizumab to delay clinical disease, since at-risk children and adolescents are known to progress to type 1 diabetes faster than adults. Faster progression of type 1 diabetes is associated with a highly active immune system, which may explain the impact of immune system-modulating drugs like teplizumab.
Other data collected from the trial may help researchers to understand why certain people responded to treatment. Participants who responded to teplizumab tended to have certain autoantibodies and other immune system characteristics. The research team also cautioned that the study had limitations, including the small number of participants, their lack of ethnic diversity, and that all participants were relatives of people with type 1 diabetes, potentially limiting the ability to translate the study broadly.
"While the results are encouraging, more research needs to be done to address the trial's limitations, as well as to fully understand the mechanisms of action, long-term efficacy and safety of the treatment," said Dr. Spain.
"This trial illustrates how decades of research on the biology of type 1 diabetes can lead to promising treatments that have a real impact on people's lives. We're very excited to see the next steps in this research," said Dr. Griffin P. Rodgers, NIDDK Director. "The dedicated researchers, volunteers and families participating in this program make discoveries like this possible."
###
florida80
06-09-2019, 21:22
News Release 9-Jun-2019
Do policies targeting sugary drinks pay off?
New research suggests that taxes and health warnings could bring significant health and economic benefits by cutting consumption of sugar-sweetened beverages
American Society for Nutrition
Share
Print E-Mail
IMAGE
IMAGE: For study participants assigned to be exposed to health warnings, all SSBs in the trial store displayed this health warning on the front of the container. The image is the... view more
Credit: Anna Grummon, University of North Carolina-Chapel Hill
Baltimore (June 9, 2019) - Drinks with added sugar, also known as sugar-sweetened beverages (SSBs), are one of the largest sources of added sugar in the American diet and a major contributor to obesity. SSBs include non-diet sodas, flavored juice drinks, sports drinks, sweetened tea, coffee drinks, energy drinks and electrolyte replacement drinks. Research presented at Nutrition 2019 will examine how various policies could help reduce the consumption of these sugary beverages and improve health.
Nutrition 2019 is being held June 8-11, 2019 at the Baltimore Convention Center. Contact the media team for more information or to obtain a free press pass to attend the meeting.
Should we tax drinks with added sugar?
SSB taxes would decrease obesity-related cancer
A new study estimates that a national 1 cent per ounce of SSB tax could prevent around 17,000 new obesity-associated cancers cases and 10,000 cancer deaths. This modeling study estimates that this tax would save $2.4 billion in lifetime medical costs for 13 types of cancer. The largest health benefits were for endometrial, kidney and liver cancer. Christina Griecci, Tufts University, will present this research on Sunday, June 9, from 12:45 - 1:45 p.m. in the Baltimore Convention Center, Halls A-B (Poster 75) (abstract).
Which type of tax produces the most benefits?
Using a simulation model, researchers found either a tiered or sugar-content taxed structure that placed a higher tax on beverages containing more sugar produced more health gains and cost savings than a tax based on SSB volume. Over 10 years, a tiered tax on SSBs could prevent 460,000 cardiovascular events and 60,000 cases of diabetes and save 28 billion dollars in health care costs. A sugar content tax on SSBs could prevent 370,000 cardiovascular events and 50,000 cases of diabetes and save 21 billion dollars in health care costs while a volume tax on SSBs would prevent 240,000 cardiovascular events and 30,000 cases of diabetes and save 14 billion dollars in health care costs. Yujin Lee, Tufts University, will present this research on Tuesday, June 11, from 8:15 - 8:45 a.m. in the Baltimore Convention Center, Room 314/315 (abstract).
Do health warnings work?
Health warnings can discourage purchases
According to a study involving 400 adults, health warnings on SSBs can discourage the purchase of these drinks. Adults who typically drink sugary beverages were given $10 to spend at a life-size convenience store replica selling SSBs and other products. Study participants randomly assigned to a group in which SSBs in the store displayed health warnings purchased fewer calories from SSBs and were less likely to purchase an SSB than those consumers shown products without the labels. Anna Grummon, University of North Carolina-Chapel Hill, will present this research on Tuesday, June 11, from 8:30 - 8:45 a.m. in the Baltimore Convention Center, Room 314/315 (abstract).
Health warnings might also reduce obesity
A new simulation study reveals that using health warnings on SSBs across the U.S. could reduce average SSB intake by about 25 calories per day and total calorie intake by about 30 calories per day. These dietary changes could reduce average body mass index by about 0.6 kg/m2 over 5 years--equivalent to losing about 4 pounds for the average adult. The policy was also projected to reduce obesity prevalence by more than 5 million adults over this period. Weight loss would be most pronounced among Black or Hispanic adults as well as those with lower income and educational attainment. Anna Grummon, University of North Carolina-Chapel Hill, will present this research on Tuesday, June 11, from 8:45 - 9:00 a.m. in the Baltimore Convention Center, Room 314/315 (abstract).
SSBs are often for home consumption
A preliminary analysis found that nearly 80 percent of U.S. households purchase or acquire SSBs in a given week. On average, U.S. households acquire nearly 2000 calories from SSBs per week, with more than 60 percent of SSB calories acquired to bring home for later consumption. The researchers used data from the USDA Food Acquisition and Purchasing Survey, which collected 7 days of data on all foods purchased or obtained for free in a nationally representative sample of 4,826 households during 2012. These findings point to the need for interventions that target SSB consumption at home to reduce overall SSB acquisition. Stephen Onufrak, Centers for Disease Control and Prevention, will present this research on Monday, June 10, from 8:30 - 8:45 a.m. in the Baltimore Convention Center, Room 314/315 (abstract).
florida80
06-09-2019, 21:23
Policies encouraging healthy eating could greatly cut cancer-related costs
Using sophisticated models, researchers examine how various warning labels and taxes targeting diet would reduce cancer cases and cancer-associated costs
American Society for Nutrition
Share
Print E-Mail
IMAGE
IMAGE: Reduction in cancer disparity is defined as the ratio of new cancer cases prevented per 1,000,000 among higher-income individuals to those of SNAP participants. A number greater than one corresponds... view more
Credit: Heesun Eom, Tufts University
Baltimore (June 9, 2019) - The foods we eat can play an important role in preventing cancer. New modeling research presented at Nutrition 2019 shows that policies using taxes or warning labels to encourage healthier eating could reduce the number of people who develop cancer, which would bring significant savings in medical costs.
Nutrition 2019 is being held June 8-11, 2019 at the Baltimore Convention Center. Contact the media team for more information or to obtain a free press pass to attend the meeting.
Reducing obesity-related cancers
How will new added-sugar nutrition labeling affect cancer cases?
A new modeling study estimates that, based on changes in consumer behavior, the soon-to-be-implemented added-sugar labeling on all U.S. packaged foods could prevent 35,500 new obesity-related cancer cases and 16,700 cancer deaths over a lifetime in the U.S. The policy would also save an estimated $1.4 billion in direct medical costs. After taking into consideration additional savings from patient time and productivity loss as well as policy implementation costs from both the government and industry, the policy would save an estimated $0.5 billion in total costs from the society level. Industry reformulations would likely add to the prevented cancer cases and health care cost savings. Mengxi Du, Tufts University, will present this research on Tuesday, June 11, from 8:30 - 8:45 a.m. in the Baltimore Convention Center, Room 314/315 (abstract).
Would taxing sugar-sweetened beverages save health-care costs?
A new study estimates that a national tax of 1 cent per ounce of sugar-sweetened beverage could prevent around 17,000 new obesity-associated cancers cases and 10,000 cancer deaths. This modeling study estimates that this tax would save $2.4 billion in lifetime medical costs for 13 types of cancer. The largest health benefits were for endometrial, kidney and liver cancer. Christina Griecci, Tufts University, will present this research on Sunday, June 9, from 12:45 - 1:45 p.m. in the Baltimore Convention Center, Halls A-B (Poster 75) (abstract).
The costs of unhealthy eating
What is the cost of cancers associated with poor diet?
A new analysis reveals that over 5 years, cancers attributable to unhealthy eating among U.S. adults resulted in direct medical costs of $6.9 billion (2015 dollars). Nearly 70 percent of this cost is due to colorectal cancer attributable to poor diet. The calculations are based on the estimated number of cancers cases attributed to not eating enough fruits, vegetables, whole grains and dairy, and eating more processed meats, red meats and sugar-sweetened beverages. Given the substantial economic burden of diet-attributable cancers, nutritional policies may help reduce cancer cases and their associated costs. Jaya Khushalani, Centers for Disease Control and Prevention (CDC), will present this research on Monday, June 10, from 8:30 - 8:45 a.m. in the Baltimore Convention Center Room 317 (abstract).
Can we decrease cancer disparities?
Results from a new study suggest that policies targeting food price could help reduce cancer disparities among low-income participants in the Supplemental Nutrition Assistance Program (SNAP). Of the policies modeled, a 10 percent national tax on sugar-sweetened beverages and processed meat together with a 30 percent SNAP-targeted food subsidy would produce the largest reduction in cancer disparities, with about 16 more cases averted per million SNAP users compared to higher-income individuals. The overall greatest decrease in cancer cases would result from a national 30 percent subsidy for fruits, vegetables and whole grains combined with a 10 percent tax on sugar-sweetened beverages and processed meats, which would have eliminated an estimated 7,208 new cancer cases among US adults in 2015. Heesun Eom, Tufts University, will present this research on Sunday, June 9, from 1:45 - 2:45 p.m. in the Baltimore Convention Center, Halls A-B (Poster 230) (abstract).
Which policies would reduce processed meat consumption?
A new simulation study found that using an excise tax or warning label on processed meats could bring substantial health and economic benefits. The researchers found that over a lifetime a 10 percent excise tax could prevent 77,000 colorectal and 12,500 stomach cancer cases and generate a savings of $1.1 billion in health-care costs while warning labels may prevent 85,400 colorectal and 15,000 stomach cancer cases with a savings of $1.3 billion from health-care costs. Groups who benefited most from the policies were younger, had a higher cancer risk or ate the most processed meat prior to policy implementation. David D. Kim, Tufts Medical Center, will present this research on Monday, June 10, from 8:00 - 8:15 a.m. in the Baltimore Convention Center, Room 314/315 (abstract).
florida80
06-09-2019, 21:24
News Release 9-Jun-2019
Sun-exposed oyster mushrooms help patients fight tuberculosis
Bread containing the low-cost mushrooms increased vitamin D levels and boosted immune response of TB patients
American Society for Nutrition
Share
Print E-Mail
Baltimore (June 9, 2019) - Tuberculosis (TB) remains one of the deadliest infectious diseases in low income countries, with around 1.6 million people dying of the disease each year. In a new study, researchers show that sun-exposed oyster mushrooms offer a readily available source of vitamin D that can help TB patients respond better to anti-TB drugs by improving immune response.
"TB is becoming more difficult to fight due to the emergence of drug-resistant strains, creating an urgent need for new treatments that can support first-line drugs," said TibebeSelassie Seyoum Keflie, a doctoral fellow at University of Hohenheim, Germany. "This source of vitamin D is ideal for low income countries because mushrooms can easily be distributed and administered in a safe, low-cost, easy-to-replicate manner."
Keflie, who performed the research with Hans Konrad Biesalski, will present the research at Nutrition 2019, the American Society for Nutrition annual meeting, held June 8-11, 2019 in Baltimore.
Studies have shown that vitamin D induces the body to form an antimicrobial compound that attacks the bacterial cause of TB. Although sun exposure can boost a person's vitamin D levels, it must be obtained through diet when sun exposure is scarce.
The researchers used oyster mushrooms because they offer a cheap, safe and readily available source of vitamin D that is easily absorbed by the body. Although fresh oyster mushrooms contain almost no vitamin D, the fungus produces it the after exposure to sunlight much like the human body.
"This is the first time that vitamin D derived from oyster mushrooms exposed to sun has been shown to be a potential adjunctive therapy for TB," said Keflie. "With educational outreach, it might be possible to teach people with TB to irradiate their own mushroom for a brief period before cooking."
For the study, the researchers gave a group of TB patients sandwich bread containing 146 micrograms of vitamin D from sun-exposed oyster mushrooms every morning during the first four months in which they received an anti-TB drug.
At the end of the four months, 95 percent of patients receiving the fortified bread were classified with the lowest TB severity score on a scale of 1 to 5. The treatment group had significantly higher vitamin D levels compared to patients not receiving the bread, with more than a third of them no longer showing a vitamin D deficiency. The researchers also observed that patients who consumed the fortified bread had significant improvements in immunological responses over the four months.
The researchers plan to carry out additional investigations on the interactions of vitamin D and immunological responses in larger and more diverse groups of TB patients. They are also developing different mushroom drying methods to determine how to achieve the highest levels of vitamin D.
TibebeSelassie Seyoum Keflie will present this research on Sunday, June 9, from 3:45 - 4 p.m. in the Baltimore Convention Center, Room 319/320 (abstract). Contact the media team for more information or to obtain a free press pass to attend the meeting.
florida80
06-10-2019, 18:20
Risk Of Breast Cancer Is Not The Worst Thing In This Story
Billing, Extra Stupid, Lazy/Unhelpful, Medical Office, Non-Dialogue, USA | | Healthy | May 26, 2019
I’m a young woman who doesn’t have to go in for yearly mammograms, but when doing a check one month, I notice a possible lump. Women are encouraged to visit their doctor immediately when this happens, as breast cancer can be very aggressive. I go in to my regular doctor office, but the PA I normally see is on maternity leave, so a different one is scheduled for my visit.
The new physician is nice, but it all goes downhill once she refers me for additional testing. Her assistant schedules the referral without a checking date or time with me and doesn’t give me all the appointment info. My mammogram appointment starts out rocky as a result, but thankfully they don’t find any cancer so I’m pronounced healthy and sent on my way.
Fast forward a couple weeks, and I get an outrageous bill for the facility I was referred to. I reach out to the hospital billing and then my doctor’s office. The hospital billing team is very nice but the doctor’s office doesn’t care that they botched my referral by pushing me over to one of their connected facilities. I talk to them about once a week for a month and a half, and their office manager can’t remember to return my calls. Finally, after leaving a message for the office manager’s boss, hospital billing gets involved.
The office manager has requested that they just comp my bill because of all the issues –more than what I mentioned above — I’ve had when dealing with them. She says it should be cleared up, so I end that call relieved. Hospital billing steps in, and suddenly I’m being told that my bill is not being comped. I’m normally non-confrontational, but the woman I’m speaking to is so rude and doesn’t seem to care that her organization’s facilities have repeatedly messed up just about every interaction I’ve had related to this initial visit, or that I’ve been promised the bill will be written off already. We argue for several minutes until she agrees to take another day to look into this more and decide. It’s really just a stall on her part, as reneging on writing off the remaining bill will be going back on what her colleague promised.
She calls me the next day and begrudgingly agrees that they’ll comp my bill. I also end up speaking to the office manager again, who reminds me that they’ll expect me to pay my bills in the future.
For the record, I always pay my bills and had given them an initial payment which I thought was kind of a co-pay. I learned better as a result of this and will not make that mistake again.
We all think everything is resolved until a couple months later, when I get some cryptic call from some woman that I can barely understand. She’s asking for me to identify myself so she can discuss my account with me. I tell her that I don’t know who she is and I’m not comfortable with sharing personal info. She says that’s fine but I should call them back when I’m ready. Somewhere during the conversation, she says something that makes me realize this is a collections call.
Of course, she won’t tell me anything unless I share my info with her, but the only billing snafu of late was the hospital one. So, I call them and end up finding out that when they bill, the facility sends one bill but the radiologist sends a separate bill. And somehow, I should know that these bills are sent separately.
By now, I’m freaked because a) I thought this was resolved a few months ago, and b) I’m planning to buy a house and don’t want a collections account to show up on my credit report.
I make a few calls that result in me leaving a message with the rude hospital billing lady I spoke to a few months before. She leaves me a message later letting me know that she’s spoken to the second billing team and it should be taken care of. Our insurance person at work also tells me to call back the collections agency and let them know I’m working things out with the hospital. I do and they freeze the collections account for me.
I’ve not heard anything from either billing group, so it all seems to be resolved now. And I’ve switched to a different doctor’s office, one not connected to the hospital. Everyone is really nice and so far I’ve had no issues.
Moral of the story: ask lots of questions when your doctor refers you anywhere. And don’t go unless your insurance has signed off on that being the best in-network facility and estimated how much it will cost.
florida80
06-11-2019, 17:22
Chuẩn bị cho ḱ thi PCAT vào trường dược ở Mỹ
Ḿnh đă viết khá nhiều về ngành dược và học dược ở Mỹ trong mục Ngành dược ở blog này. Tuy nhiên, con đường học dược của ḿnh là theo chương tŕnh 0-6, nên ḿnh không phải thi PCAT. Để đáp ứng nhu cầu của một số bạn hỏi về PCAT, ḿnh có nhờ Quỳnh Hương, một người bạn thân đă từng guest post trên blog Clinical Pharmacy với Quỳnh Hương. Quỳnh Hương học dược theo 4+4, có bằng cử nhân rồi mới apply vào trường dược, và có kinh nghiệm về PCAT.
Trong bài trước T́m hiểu về PCAT- Thi đầu vào trường dược ở Mỹ, Quỳnh Hương giới thiệu về thi PCAT nói chung. Trong bài này, Quỳnh Hương sẽ chia sẻ vài kinh nghiệm luyện thi với mọi người.
Cấu trúc bài thi PCAT
Trong đợt tuyển sinh năm 2017-2018, bài thi PCAT bao gồm 192 câu trắc nghiệm và một bài luận, kéo dài tổng cộng 205 phút (hơn 3 tiếng đồng hồ). Đây là một bài thi trên máy tính (computer-based), các câu hỏi trắc nghiệm được chia làm bốn phần, mỗi phần gồm 48 câupcat.png
◾Sinh học (Biological Processes – 40 phút)
◾Hoá học (Chemical Processes – 40 phút)
◾Đọc hiểu (Critical Reading – 50 phút)
◾Toán học (Quantitative Reasoning – 45 phút)
◾Bài luận kéo dài 30 phút
Mỗi phần thi đều có quy định thời gian cụ thể, nhưng bạn không cần phải đợi hết thời gian đó. Nếu bạn hoàn thành xong một phần thi sớm th́ có thể tiếp tục phần thi tiếp theo (thời gian cho các phần thi tiếp theo sẽ không thay đổi).
Cả bốn phần trên đều được chấm trên thang điểm từ 200 đến 600. Số điểm này sẽ được quy ra thành percentile cho mỗi phần thi và trung b́nh cho cả bốn phần. Nếu điểm của bạn thuộc 90th percentile có nghĩa là điểm của bạn cao hơn 90% điểm của các thí sinh khác. Các trường thường chỉ xem percentile chứ không đọc số điểm cụ thể của bạn.
Cách tính điểm thi PCAT
Bài thi PCAT không có “đậu” hay “rớt”. Việc bạn có được chọn vào một trường dược nào đó không không hoàn toàn phụ thuộc vào điểm PCAT, nhưng bạn có thể so sánh với thông tin của mỗi trường để tính toán nộp hồ sơ ở đâu và có nên thi lại hay không. Ví dụ, điểm PCAT trung b́nh của các sinh viên được nhận vào trường University of Minnesota năm 2017 là 78th percentile, và của University of Houston là 81st percentile.
V́ đây là bài thi trên máy tính và phần trắc nghiệm được chấm bằng máy nên bạn sẽ biết kết quả phần trắc nghiệm ngay khi rời pḥng thi. Nhân viên pḥng thi sẽ in ra bảng điểm chi tiết từng phần cho bạn. Điểm này chưa phải là điểm chính thức nhưng thường sẽ khá chính xác. Bạn sẽ nhân được điểm chính thức (cùng với điểm bài luận) trong ṿng 5 tuần kể từ ngày thi.
Nếu bạn cảm thấy có sai sót trong việc chấm điểm bài thi của bạn (ví dụ như bạn rất giỏi toán và cảm thấy ḿnh làm bài thi rất tốt nhưng điểm lại thấp) th́ bạn có thể yêu cầu chấm lại. Phí chấm lại cho phần trắc nghiệm là $40, và cho bài luận là $50. V́ phần trắc nghiệm thi và chấm bằng máy nên rất ít khả năng có sai sót, đừng phí tiền đăng kư chấm lại trừ khi bạn rất chắc chắn là đă có sai sót.
Chuẩn bị cho các phần trong bài thi PCAT
Kiến thức khoa học
Các trường dược thường yêu cầu rất nhiều lớp prerequisites, và các chủ đề trong ba phần thi Toán, Hoá, Sinh thường sẽ có dạy trong các lớp prerequisites đó. Cũng v́ lư do này, các bạn nên sắp xếp học các lớp prerequisites quan trọng như General Chemistry, Organic Chemistry, Biochemistry, General Biology, Anatomy and Physiology, và Microbiology sớm để có được một nền tảng kiến thức trước khi thi.
Các bạn nhớ chú ư trong các lớp này và giữ lại sách vở tài liệu để dễ ôn thi. Trang web PCAT cũng có cung cấp blueprint của bài thi cùng với chi tiết về từng chủ đề sẽ được hỏi trong bài thi ở link này. Bạn nên dùng danh sách các chủ đề này để định hướng cho việc ôn thi.
Đọc hiểu
Phần đọc hiểu thường sẽ cho bạn đọc những bài đọc ngắn và có những câu hỏi theo sau mỗi bài đọc để kiểm tra bạn hiểu được bao nhiêu. Nếu bạn đă từng thi các bài thi chuẩn hoá khác như SAT để vào đại học th́ có lẽ bạn cũng đă quen với dạng đề thi này. Bạn nên đọc nhiều để quen với việc đọc tiếng Anh (nhất là các sách giáo khoa textbooks các môn khoa học), luyện tập các kỹ năng đọc, và làm quen với các dạng câu hỏi thường gặp.
Bài luận (essay)
Bài luận thường đưa ra một vấn đề về y tế, khoa học, hoặc xă hội, và yêu cầu bạn đưa ra giải pháp cho vấn đề đó. Tương tự như phần đọc, bạn nên luyện tập viết để quen với việc viết luận bằng tiếng Anh. Cách làm văn của người Mỹ khác với cách làm văn ở Việt Nam nên bạn cần chú ư. Những điều quan trọng nhất khi thi viết là bài viết phải có cấu trúc chặt chẽ, mỗi ư phải có lập luận vững chắc và ví dụ cụ thể, câu cú phải đúng ngữ pháp, từ vựng sử dụng phải chính xác và đúng ngữ cảnh. Việc bạn làm văn có bay bổng hay không và bạn có dùng những từ ngữ “đao to búa lớn” hay không tương đối không quan trọng.
Tip: Nên nhớ là v́ đây là bài thi trên máy tính nên tốc độ đánh máy của bạn sẽ ảnh hưởng tới việc bạn viết được bao nhiêu.
Tập thi thử và học thêm
Bạn có thể làm bài thi thử trên trang web của PCAT. Phí thi thử cho phần trắc nghiệm là $50 cho một lần thi thử, $70 cho hai lần, và $90 cho ba lần. Bạn nên thi thử ít nhất một lần để làm quen với cách thông tin được tŕnh bày trên màn h́nh (ví dụ như câu hỏi nằm ở đâu, câu trả lời ở đâu, bấm nút nào để chọn, v.v…), dạng câu hỏi, và cách thức trả lời. Bạn cũng có thể thi thử cho phần bài luận nếu muốn.
Có rất nhiều tài liệu luyện thi PCAT trên thị trường, nhưng thông dụng nhất có lẽ là Kaplan và Dr. Collins. Có lẽ một số bạn đă quen thuộc với Kaplan v́ Kaplan cũng có nhiều tài liệu luyện thi các bài thi chuẩn hoá khác như SAT, ACT, GRE, GMAT, v.v… Kaplan cung cấp nhiều dạng ôn thi khác nhau. Cách rẻ nhất là bạn mua sách ôn thi PCAT của Kaplan và tự học theo sách.
Sách Kaplan PCAT cho năm 2018-2019 có giá b́a là $54.99, nhưng bạn có thể mua trên Amazon với giá rẻ hơn. Bạn cũng có thể mua sách năm trước nếu muốn tiết kiệm, theo ḿnh thấy th́ nội dung mỗi năm không thay đổi bao nhiêu.
Kaplan pcat
Điểm mạnh: các kiến thức cần thiết, đặc biệt là môn Sinh, được tổng hợp và tŕnh bày một cách khá chi tiết (nhiều lúc chi tiết hơn mức cần thiết).
Nếu bạn thi PCAT trước khi học qua các lớp ḿnh đề cập ở trên th́ sách Kaplan sẽ rất hữu ích trong việc chuẩn bị cho bạn nền tảng kiến thức đó. Sách cũng tŕnh bày các chiến lược thi, hướng dẫn các kỹ năng cho phần đọc và viết, có nhiều câu hỏi để bạn luyện tập, và có hai bài thi thử. Lúc ḿnh thi năm 2011, ḿnh cảm thấy các câu hỏi trong sách Kaplan không giống lắm so với các câu hỏi trong bài thi PCAT, nhưng vẫn rất hữu ích cho việc ôn tập. Kaplan cũng có các lớp học trực tuyến, lớp học trực tiếp, hoặc thuê gia sư, nhưng chi phí các lớp này tất nhiên cao hơn nhiều. Bạn có thể vào trang web của Kaplan để t́m hiểu thêm các dịch vị này. Theo ḿnh th́ học từ sách thôi là đủ nếu bạn có động lực tự học.
Dr. Collins (hiện đă đổi tên thành The PCAT Prep Class) giá mắc hơn Kaplan nhiều nhưng rất được ưa chuộng. Bộ tài liệu Dr. Collins được bán với giá $375. Trang web: https://pcatprepclass.com/
Dr collins pcat.jpg
Điểm mạnh: rất súc tích và rất sát với bài thi PCAT thật. Lần đầu ḿnh cầm bộ tài liệu Dr. Collins trên tay, ḿnh cảm thấy rất nghi ngờ v́ tài liệu toàn là giấy rời chứ không đóng thành sách, tài liệu của mỗi môn được tŕnh bày khác nhau, nhiều phần nh́n giống đánh từ máy đánh chữ ra, nhưng sau khi học và thi xong th́ ḿnh thấy đây là một tài liệu rất hữu ích. Bộ tài liệu cũng có nhiều câu hỏi luyện tập. Dr. Collins (The PCAT Prep Class) cũng có các lớp học trực tiếp ở một số thành phố như Miami, Las Vegas, Houston, v.v… với giá $695 cho lớp học 4 ngày.
Không có ǵ đến dễ dàng trên con đường học vấn. Ngoài tài liệu sách vở, quan trong nhất là công sức, thời gian, và sự kiên tŕ các bạn phải tự bỏ ra để hướng đến điểm cao như ư. Chúc các bạn may mắn!
– Quỳnh Hương, PharmD, RPh
florida80
06-11-2019, 17:23
T́m hiểu trường dược ở Mỹ- PharmD Step by step guide
Sau khi đọc thông tin khái quát ở T́m hiểu trường dược ở Mỹ- Bắt đầu từ đâu? và hỏi bản thân những câu tất yếu như ḿnh nêu trong blog Quyết định học dược- Hăy hỏi bản thân những điều này bạn đă sẵn sàng để bắt đầu? Nào, hăy cùng đi từng bước một nhé.
Vị trí địa lư có quan trọng với bạn không? Bạn thích ở tieu bang nào?
Nếu có người thân ở Mỹ và muốn ở tieu bang đó, hay biết ḿnh thích ở thành phố lớn, bờ Đông hay bờ Tây nhộn nhịp để dễ t́m việc thực tập, hay muốn ở chỗ rẻ hơn xa thành phố lớn và ở các bang giá cả dễ chịu hơn, đó đều là những yếu tố quan trọng nên cân nhắc.
Nếu không biết về bản đồ nước Mỹ và các bang nằm ở đâu, trang web của AACP có công cụ School Locator (www.aacp.org/resources/school-locator) mới khá là hữu dụng. Các con số trên bảng đồ là số lượng trường dược ở từng khu. Như trong h́nh, chỉ ở khu Đông Bắc Mỹ đă có đến 17 trường từ bang Massachusetts, New York (upstate và gần Manhattan), đến Pennsylvania, v.v. Ở bờ Tây và khu California có cả chục trường. Florida cũng 5 trường. Khu Ohio/Indiana cũng khá là nhiều.
Screen Shot 2018-01-13 at 11.23.25 AM.png
Nếu muốn nh́n theo danh sách, trong file này- PharmD list– bạn sẽ t́m được một list các chương tŕnh PharmD theo tiểu bang từ A đến Z. Ở h́nh minh hoạ dưới, cột Location list tiểu bang, và bạn có thể t́m hiểu từng trường có chương tŕnh mấy năm, trường nào có chương tŕnh 0-6, trường nào yêu cầu bằng cử nhân, v.v.
Screen Shot 2018-01-13 at 11.00.16 AM.png
Ngoài hai công cụ trên, AACP c̣n có School Directory (www.pharmcas.org/school-directory/#/pharmd/general-information) để tham khảo. Ḿnh thấy trên list này có cái thú vị là có thể nh́n rơ trường nào được chứng nhận (Full accreditation), hay đang apply cho chứng nhận (Candidate- chắc là do mới mở, nếu vậy th́ chưa chắc có kinh nghiệm và tốt như các trường lâu đời), và có trường đang bị “probationary status” do bị sai phạm, hoặc trễ nải trong việc hoàn thành yêu cầu của chứng nhận và đang bị hưởng “án treo”.
Screen Shot 2018-01-13 at 11.28.21 AM.png
Yêu cầu đầu vào (Admission Policies)
Trường có yêu cầu PCAT? Trường có nhận người nước ngoài (không phải trường nào cũng nhận)? Trường yêu cầu phải có các lớp khoa học nào? Trong file Admission policies bạn sẽ t́m được những thông tin đó, và cả tiền nộp đơn, deadline, v.v. Nhưng hăy lưu ư: file này là tổng hợp thông tin từ các trường, có thể sẽ không bao gồm update mới nhất, có thể không chính xác 100%. Bạn luôn cần truy cập vào trang web chính thức của trường để có thông tin mới và chính xác nhất.
Screen Shot 2018-01-13 at 11.05.23 AM
Các lớp phải có khi nộp đơn vào trường (Pre-requisites)
Đây là yêu cầu chủ yếu dành cho những ai đă học 2 năm đại học hoặc 4 năm tốt nghiệp cử nhân và muốn nộp đơn vào học dược. Trường dược sẽ list pre-requisites gồm những lớp khoa học tự nhiên nào, bao nhiêu lớp, bao nhiêu tín chỉ, v.v. trong file này Pharmacy Schools Prerequisites 2017.
Screen Shot 2018-01-13 at 11.12.42 AM.png
Screen Shot 2018-01-13 at 11.13.01 AM
Khác với các chương tŕnh này, chương tŕnh 0-6 thường nhận học sinh từ cấp 3 nên sẽ không có yêu cầu như vậy. Ḿnh nhắc lại lần nữa, những thông tin tổng kết ở đây có thể sẽ khác với thông tin chính thức từ trường. Hăy truy cập website và email admissions hỏi cặn kẽ nếu bạn có lo lắng vấn đề ǵ về pre-requisites. Họ thường rất gần gũi, muốn giúp đỡ và trả lời câu hỏi của bạn.
Tiền học phí của các trường
Tuy không phải là thông tin chính xác nhất, nhưng nh́n trong file này Tuition bạn có thể thấy được các trường mắc rẻ so với nhau như thế nào. Trường công state school/public school thường rẻ hơn trường tư private school cho người Mỹ (in-state vs out-of-state, ví dụ nh́n thử Florida A&M giá tiền học cho người ngoài bang cao gấp 3). Nhưng đối với sinh viên quốc tế th́ trường nào cũng đắt, tất cả đều lấy giá out-of-state. Có những trường học phí đến 70,000 một năm (ḿnh thấy hơi quá đáng), có thể là v́ nó là trường tư, và có trường gọi là “for-profit” th́ đắt hơn, khác với đa số các trường lâu đời thường là “non-profit”.
Screen Shot 2018-01-13 at 11.34.35 AM.png
Đừng quá quan tâm đến ranking xếp hạng của trường
Pharmacy School Ranking Mọi người xem tham khảo, đây là bảng xếp hạng hơn 100 trường dược ở Mỹ có accreditation (được chứng nhận) từ Accreditation Council for Pharmacy Education (ACPE). Theo ḿnh, mọi người không nên quá chú trọng vào ranking, v́ cách thức ranking (methodology) để đưa ra thông số như thế này có thể không phù hợp với nhu cầu riêng của mỗi người.
Các trường top 3-5 th́ tất nhiên ấn tượng tốt, nhưng c̣n lại từ 10 đến cỡ 60-70 chẳng ai chú ư là cao hay thấp cả. Chỉ nên lưu ư các trường ranking chót bảng, hoặc quá mới (chưa có ai biết) hay trường không có accreditation. Công ty ḿnh hay các chương tŕnh fellowship hay residency tuyển người th́ từ đủ các trường khác nhau. V́ sinh viên vào được đến fellowship đă là crème de la crème (nôm na là “đỉnh của đỉnh”) rồi, th́ trường không quan trọng. Họ nh́n vào kinh nghiệm, thành tích, khả năng phỏng vấn và presentation, v.v. Giữa hai người cạnh tranh về mọi mặt, th́ thỉnh thoảng người ta mới phải hỏi đến điểm số GPA. C̣n khi apply cho residency th́ GPA và tên tuổi của trường đúng là quan trọng hơn, nhưng không phải là tất cả.
Tóm lại, chọn trường là việc rất riêng, phải phù hợp với bản thân sinh viên và gia đ́nh. Những yếu tố tối quan trọng là giá tiền học, khả năng chi trả, yêu cầu đầu vào, chất lượng, trường ở đâu (v́ nếu quá hẻo lánh, ít gần công ty hay bệnh viện có thể sẽ ảnh hưởng đến việc bạn đi thực tập, t́m việc làm theo hướng ḿnh muốn). Chúc các bạn t́m được ngôi trường ḿnh mong muốn.
Muốn t́m hiểu thêm thông tin, mọi người có thể truy cập trang web của American Associations of Colleges of Pharmacy
Nếu các bạn có câu hỏi th́ comment dưới hoặc Facebook Page của trang. Nếu có đăng lại bài, xin vui ḷng dẫn nguồn tên ḿnh và địa chỉ của trang. Cảm ơn mọi người đă theo dơi!
-Ngọc Bích, PharmD, RPh
florida80
06-11-2019, 17:27
Du học, Ngành dược
Quyết định học dược ở Mỹ- Hăy hỏi bản thân những điều này
Ở một bài trước T́m hiểu trường dược ở Mỹ- Bắt đầu từ đâu?, hi vọng các bạn và phụ huynh có một số thông tin khởi điểm để bắt đầu hành tŕnh t́m hiểu. Sau khi t́m hiểu sơ lược về trường dược ở Mỹ, bước tiếp theo là ǵ? Theo ḿnh, đó là nghĩ kĩ lại xem đây có phải là con đường ḿnh muốn theo đuổi hay không.
Thực tế
◾Ngành dược học lâu năm: từ 6-8 năm (tính cả cử nhân), nếu đă có cử nhân th́ có thể rút ngắn qua một số chương tŕnh nhanh ~ 3 năm
◾Ngành dược khá đắt đỏ, ít học bổng, học bổng giá trị nhỏ
◾Với t́nh trạng trường dược thi nhau mở và mọi người đổ đi học, trong tương lai có thể môi trường việc làm băo hoà
◾Ở Mỹ, nghề dược sĩ là con đường nhanh nhất giúp một người trẻ chạm đến mức lương “six figures” (trên 100,000 USD/năm)
◾Nghề dược sĩ là nghề được nhiều tôn trọng, công việc khá ổn định (tuy khi t́m việc có thể vất vả v́ cạnh tranh tăng cao)
◾Đối với sinh viên quốc tế ở Mỹ, khả năng t́m việc làm không bao giờ là chắc chắn, đặc biệc là trong môi trường chính trị hiện nay. C̣n tương lai th́ cực ḱ khó đoán
◾Lương bổng ở các nước khác nhau (không phải ở đâu dược sĩ cũng được 100,000 USD/năm)
V́ thực tế có nhiều pros and cons như vậy, ḿnh nghĩ ai cũng nên suy nghĩ về những câu hỏi dưới đây trước khi lựa chọn theo đuổi ngành học này ở Mỹ.
Ai chọn con đường dược sĩ? Bản thân hay ba mẹ?
Asian parentsḾnh đọc khá nhiều message của các bạn ở VN kể là em học v́ gia đ́nh khuyên, ba mẹ yêu cầu, học rồi thấy không phù hợp, chán, nản. Học dược ở Mỹ ḿnh nghĩ vất vả và tốn kém hơn nhiều. V́ vậy đừng để hoàn cảnh này xảy ra. Nhiều phụ huynh thấy công việc này “nhàn, lương cao” nên kêu con cái đi học. Người th́ nghĩ “con gái học dược cho sướng, học bác sĩ vất vả”. Đủ thứ lí do. Nhưng cuộc hành tŕnh này bạn sẽ là người phải bước qua, ba mẹ mất tiền túi thôi chứ không phải hằng ngày ra vào đối diện với trường lớp, thầy cô, bạn bè, hoàn cảnh xứ lạ quê người như bạn. Sau này ra đi làm ngành nghề này trong mấy chục năm cũng là bạn đi làm chứ không phải ba mẹ.
Giải pháp: Hăy thực tế, nghiêm túc bàn bạc với cả nhà về ư thích, dự định tương lai của bản thân. Tính toán kĩ về khả năng tài chính, khả năng trả nợ lại cho cha me. Ḿnh nói thật là ḿnh học rất vất vả, v́ chương tŕnh nặng và gánh nặng tài chính nhiều. Nếu không có sự ủng hộ của gia đ́nh, hoặc đam mê của bản thân th́ ḿnh không thể đi được xa như ngày hôm nay.
Dược sĩ sẽ có con đường sự nghiệp thế nào?
Đừng suy nghĩ đơn giản, chỉ nh́n gần mà không nh́n xa. Rất nhiều người nghĩ “ḿnh thích học ABC” hoặc “ḿnh thích làm XYZ” mà không lư luận được tại sao ḿnh thích ngành nghề hay ngành học đó. Thích mới chỉ là bước đầu thôi. Kiên tŕ, đam mê, cố gắng lê lết qua những đoạn không trải đầy hoa hồng là những điều tất yếu dẫn đến thành công ngoài “sự thích”.
Bạn có biết dược sĩ học ra làm ǵ? Có những mô h́nh làm việc nào? (Bệnh viện, nhà thuốc, công ty, nhà máy, agency, v.v.) Bạn nghĩ ḿnh thích học xong làm ǵ? Bạn có thích làm ở bệnh viện cả ngày không? Hay ngồi 1 chỗ trong công ty bên máy tính?
pexels-photo-127873.jpeg
Giải pháp: Hăy t́m hiểu những nguồn trên mạng về thông tin khái quát các mảng mà dược sĩ sẽ làm. Sau khi có tí định hướng, hăy nói chuyện trực tiếp với các anh chị trong ngành xem thật ra một ngày công việc của họ như thế nào, tại sao họ lại chọn hướng đi đó, có những ǵ họ thích hay không thích, v.v. Cái nh́n thực tế từ người đi trước sẽ giúp bạn định hướng rơ ràng hơn và biết cần chuẩn bị những ǵ khi dấn thân vào con đường này.
Học dược thật ra bao gồm những ǵ? Có như bạn tưởng tượng không?
Bạn thích hoá sinh không? Bạn có biết là học dược yêu cầu rất nhiều những môn phải học thuộc ḷng, đặc biệt trong những năm đầu tiên có những lớp khoa học khô như Hoá Hữu Cơ, Vật Lư, Pharmacology, phải vượt qua hết th́ mới đến được các lớp dược hấp dẫn hơn như Pharmeutics, Pharmacotherapy? Bạn nghĩ có đủ kiên tŕ để theo đuổi?
Giải pháp: Hăy t́m hiểu ví dụ của chương tŕnh học dược. Vào thử một số trang web của các trường dược và t́m xem curriculum gồm những lớp học nào, vào năm thứ mấy. Sau đó google t́m hiểu về các môn học này xem nó nghĩa là ǵ, có giống như bạn nghĩ hay không. Có một khái niệm cơ bản sẽ giúp bạn đỡ bỡ ngỡ. Đối với ḿnh là người thích học khoa học tự nhiên, ḿnh không lo lắng lắm. Nhưng đối với những bạn không chắc ḿnh có thích các môn này không th́ nên t́m hiểu.
Đối với bản thân, học xong bạn sẽ làm ǵ? Mất bao lâu mới trả nợ tiền học?
Đây là câu hỏi không đầy mơ mộng, nhưng rất cần thiết. Không ai nên lao đầu vào học mà không biết tương lai tới đâu. Học dược là một quá tŕnh đầu tư lớn, rất ít học bổng, học bổng giá trị rất ít. Làm sao gia đ́nh hay bản thân bạn có thể trả hết 100-200 ngh́n đô? Đối với sinh viên quốc tế, việc đi làm cũng chứa nhiều bấp bênh, không chắc chắn sẽ t́m được visa, có t́m được th́ không chắc sẽ được xổ số, kế hoạch B của bạn là ǵ? Đừng để nợ dí sát nút, hăy liệu cơm gắp mắm và bày ra kế hoạch cẩn thận cho tương lai. Tất nhiên đừng để nỗi sợ khiến chúng ta không dám làm ǵ hết. Ư ḿnh chỉ là phải suy nghĩ thấu đáo, tránh t́nh trạng bước tới đâu lo tới đó.
numbers-money-calculating-calculation.jpg
Giải pháp: Thay v́ chỉ suy nghĩ trong đầu, hăy vẽ ra thử các scenario có thể xảy ra. Nếu bạn đi làm ở Mỹ, nếu làm ở nước khác như Canada hay Singapore, c̣n về VN làm lương bổng cuộc sống thế nào, nếu học 2 năm mà không thích th́ làm ǵ, đổi ngành được không, đổi sang ngành ǵ, v.v. Nếu bạn trả lời đơn giản được hết các scenario đó ḿnh sẽ làm ǵ, tài chính như thế nào, làm sao đối phó với cuộc sống th́ bạn đă suy nghĩ thấu đáo về việc này rồi.
Thông số năm 2014 về Pharmacy Education ở Mỹ
Student Pharmacist QA-flyer
Student Pharmacist QA-flyer Page 2.png
Nếu các bạn có câu hỏi th́ comment dưới hoặc Facebook Page của trang. Nếu có đăng lại bài, xin vui ḷng dẫn nguồn tên ḿnh và địa chỉ của trang. Cảm ơn mọi người đă theo dơi!
-Ngọc Bích, PharmD, RPh
florida80
06-11-2019, 17:28
Du học ở Mỹ- Ngoài học dược PharmD c̣n các ngành sức khoẻ nào?
Trong bài trước, ḿnh có bàn về các lựa chọn du học ở Mỹ dành cho dược sĩ đă tốt nghiệp hoặc đang học ở Việt Nam qua Du học ở Mỹ- Lời khuyên cho ai học nửa chừng ở Việt Nam, chuẩn bị đi định cư, muốn chuyển ngành, v.v. và Hành nghề ở Mỹ – Con đường nào cho dược sĩ đào tạo ở Việt Nam? C̣n những bạn đang học đại học nửa chừng những ngành khác, nhưng yêu thích công việc liên quan đến sức khoẻ th́ sao? Một t́nh huống hay gặp khác là những bạn chuẩn bị theo gia đ́nh đi định cư ở Mỹ nên học dở dang hay muốn chuẩn bị cho vài năm tới. Đây là những lời khuyên của ḿnh.
Bạn đă cân nhắc các ngành liên quan đến sức khoẻ khác chưa?
Đối với những người đi định cư, đa phần đó là một cơ hội tốt. Không những đổi đời, cơ hội kiếm tiền mở rộng, mà c̣n có thể suy nghĩ lại về ngành nghề ḿnh đă chọn. Có thể bạn nghĩ thích học dược, nhưng đó là v́ bạn không biết có nhiều ngành khác để học và hành nghề. Ḿnh gợi ư một số ở đây để các bạn t́m hiểu.
Nursing- Y tá
Khác với ở VN, y tá ở đây là một ngành được tôn trọng rất cao, được bệnh nhân và bác sĩ hết mực tin tưởng. Học y tá tốn khoảng 4-5 năm trong chương tŕnh đại học. Tuy một số thành phố lớn băo hoà việc làm, nhưng những nơi hẻo lánh hơn vẫn cần y tá. Và nh́n chung y tá vẫn là một nghề có thể t́m việc tốt.
nurse .jpg
Y tá ở Mỹ là cánh tay phải của bác sĩ trong việc chăm sóc bệnh nhân, theo dơi bệnh t́nh và ghi chú hằng ngày. Y tá là một phần quan trọng không thể thiếu trong ngành sức khoẻ. Ngoài việc làm y tá chung, bạn c̣n có thể đi theo những chương tŕnh tu nghiệp chuyên sâu hơn, như làm y tá ung thư, y tá phụ khoa, y tá quân đội, v.v. Thông tin về các lựa chọn chuyên sâu specialization của y tá có thể được t́m thấy ở đây- www.nurse.org/resources/
Một số y tá c̣n có công việc gọi là “travel nurse”, di chuyển từ bang này sang bang khác, thành phố này sang thành phố khác và làm việc trong khoảng thời gian nhất định cỡ 3 tháng- 6 tháng. Công việc này thích hợp với những ai thích di chuyển, thăm thú nơi mới, trong khi vẫn được làm công việc ḿnh yêu thích. Bạn có thể tham khảo thêm thông tin trên trang web này- http://www.travelnursing.or g
Nurse Practitioner (NP)
ANS-Practitioner-Hero-mobile.jpgNurse practitioner là y tá với nhiều trách nhiệm và quyền hạn hơn trong việc chăm sóc bệnh nhân cùng với bác sĩ. Họ có thể chẩn đoán bệnh, kê toa, và theo dơi bệnh nhân nếu được sự cho phép và làm việc chung với bác sĩ. V́ là công việc chuyên sâu hơn y tá b́nh thường, được trả lương cao hơn, nên đ̣i hỏi phải học thêm và được chứng nhận đi làm.
Sau khi tốt nghiệp cử nhân làm y tá, bạn có thể học lên thạc sĩ khoảng 2 năm để trở thành NP sau khi được chứng nhận đi làm. V́ thời gian học tổng cộng ít hơn so với bác sĩ, nhưng vẫn được làm những công việc tương tự như bác sĩ (nhất là chẩn đoán, kê toa) nên đây là con đường đi cũng khá hấp dẫn với nhiều người. Bạn có thể tham khảo thêm thông tin trên trang web này- www.nurse.org/resources/nurse-practitioner/
Physician Assistant (PA)
Đây là một công việc khá mới so với y tá, dược sĩ. Với số lượng bác sĩ không đủ chăm sóc cho người già ngày một nhiều ở Mỹ, Physician Assistant đang có cơ hội t́m việc làm cũng khá ok, công việc không vất vả như bác sĩ, cũng được tiếp xúc chăm sóc bệnh nhân và kê toa nếu có sự hướng dẫn của bác sĩ. Học làm Physician Assistant là chương tŕnh thạc sĩ, mất khoảng 2 năm, và phải có một số kinh nghiệm cũng như tín chỉ nhất định trước khi nộp đơn. Bạn có thể t́m hiểu thêm thông tin ở trang web này- www.aapa.org/what-is-a-pa/
grad-physician-assistant-01-min.jpg
Sinh viên học ngành sức khoẻ được thực hành trên mô h́nh giống người thật (dummy)
Physical Therapist (PT)
Ở Mỹ, nhân viên y tế làm vật lí trị liệu- Physical therapist hay PT- cũng là một ngành phổ biến, nhưng ít người biết và đổ xô đi học nhiều như ngành dược. Physical therapist có vị trí quan trọng trong healthcare team, v́ họ giúp rất nhiều bệnh nhân– từ những bệnh nhân hậu phẫu cần phải làm quen với công việc hằng ngày và giúp cơ thể lành lại nhanh, đến vận động viên hay những ai chơi thể thao bị chấn thương, đến cả những bệnh hiện đại ngày nay như ngồi máy tính quá nhiều bị chấn thương tay hay cột sống.
PT.jpg
Bạn cùng pḥng ở đại học của ḿnh theo ngành này, học cũng cần Doctor of Physical Therapy (DPT), là bằng chuyên nghiệp để hành nghề, không phải tiến sĩ. Học PT cũng cần nhiều năm như dược sĩ- y tá, và phải có giấy phép hành nghề. Lương PT khác tốt, và nếu bạn yêu thích việc chăm sóc sức khoẻ cho người khác, đây cũng là con đường có thể cân nhắc. Bạn có thể t́m hiểu thêm thông tin ở trang web này- http://www.apta.org/PTCareers/Overview/
Master of Public Health (MPH)
Trong các ngành sức khoẻ, Master of Public Health là một bằng khá phổ biến giống MBA trong các ngành kinh doanh, để quản lư bệnh viện chẳng hạn. MPH cũng có nhiều mảng chuyên, theo ḿnh hăy chú trọng các mảng như Health Economics & Outcomes, Epidemiology, thiên về analytics và học cách design và chạy study. Học MPH mà chuyên về Communications cũng không có lợi cho lắm.
MPH.jpg
Một số ví dụ về chuyên ngành của bằng Master of Public Health
Bác sĩ hay y tá học MPH để quản lư bệnh viện hay clinic, MPH cũng có thể vào làm trong công ty dược và các công ty liên quan, v́ Health Economics & Outcomes Research là một mảng hot trong y tế ở Mỹ. MPH làm công việc nghiên cứu data xem các thuốc so sánh với nhau như thế nào về giá trị kinh tế, sự hữu hiệu, sự an toàn, để thuyết phục bảo hiểm chịu trả tiền cho thuốc
Tóm lại
Theo ḿnh, không có con đường ngành nghề nào “dễ ăn” học ít mà làm sướng lương cao. Nếu đi định cư ở Mỹ, đây là cơ hội để học tập và chứng minh bản thân. Công việc làm ở Mỹ dựa vào khả năng nhiều hơn quen biết so với ở Việt Nam. Tuy quen biết th́ ở đâu cũng tốt, nhưng nếu không có thực lực bằng cấp th́ không thể thành công ở Mỹ. Môi trường này rất thích hợp cho người chịu khó và chăm chỉ học tập lao động. Hăy t́m hiểu và suy nghĩ thật kĩ về những ǵ ḿnh thích và muốn gắn bó cả đời nhé.
Hi vọng thông tin trên giải đáp phần nào và gợi ư thêm nguồn để t́m hiểu. Mọi người nên tự t́m hiểu cho bản thân, nếu có câu hỏi cho ḿnh sau khi nghiên cứu thông tin th́ nên cụ thể để ḿnh trả lời được chính xác qua comment dưới hoặc Facebook Page của trang. Nếu có đăng lại bài, xin vui ḷng dẫn nguồn tên ḿnh và địa chỉ của trang. Cảm ơn mọi người đă theo dơi!
-Ngọc Bích, PharmD, RPh
florida80
06-11-2019, 17:29
Du học, Ngành dược
Du học ở Mỹ- Lời khuyên cho ai học nửa chừng ở Việt Nam, chuẩn bị đi định cư, muốn chuyển ngành, v.v.
Trong một bài trước, ḿnh có bàn về Hành nghề ở Mỹ – Con đường nào cho dược sĩ đào tạo ở Việt Nam? đối với những ai đă học xong dược sĩ ở Việt Nam rồi. C̣n những bạn đang học đại học nửa chừng th́ sao? Học dược hay các ngành khác muốn chuyển qua dược? Một t́nh huống hay gặp khác là những bạn chuẩn bị theo gia đ́nh đi định cư ở Mỹ nên học dở dang hay muốn chuẩn bị cho vài năm tới. Đây là những lời khuyên của ḿnh.
Tiếng Anh, tiếng Anh, tiếng Anh
Đừng lo lắng qua đây học Toán Lư Hoá ra sao, khi chưa qua th́ ngồi ở nhà lo lắng cũng không ích lợi ǵ nhiều. Những môn này qua đây có trường lớp, hoàn cảnh bắt buộc ḿnh phải học được hết. C̣n nếu bạn ngại là ở VN học ở các môn tự nhiên, thật ra hệ thống giáo dục ở Việt Nam nó khác, và khắt khe hơn nhiều, học thuộc ḷng ít vận dụng nên người b́nh thường cũng tưởng ḿnh học kém.
pexels-photo-247819.jpeg
Cái bạn cần lo trước ở nhà là khả năng tiếng Anh! V́ dù bạn có giỏi các môn khác ở Việt Nam thế nào mà qua đây vào lớp không hiểu ǵ hết th́ sẽ thi không được, học không lại, làm việc nhóm không ra đâu. Hồi cấp 2 ḿnh học chuyên Anh, trước khi đi du học sợ là qua đây ai cũng nói tiếng Anh rồi ḿnh chuyên ǵ..? Nhưng nhờ vốn tiếng Anh cứng cáp, ḿnh mới học theo kịp các bạn Mỹ trong tất cả các môn và đạt điểm trung b́nh đầu khoá. Nhờ có tiếng Anh bạn cũng sẽ dễ hoà đồng hơn, giúp hộ nhập cuộc sống văn hoá ở Mỹ nhanh hơn, tiện lợi cho cuộc sống và sức khoẻ của bản thân.
Có nên học tiếp và học xong đại học ở Việt Nam?
pexels-photo-356086.jpeg
Theo ḿnh nếu bạn đă học gần xong, và có thời gian học hết đại học trước khi đi định cư th́ là một kế hoạch tốt. Khi đă có bằng Bachelor’s Degree, dù là ở một nước khác, th́ nó cũng gọi là có tấm bằng trong mắt các trường ở Mỹ hay nhà tuyển dụng. Qua đây có thể người ta nh́n tấm bằng và học bạ rồi yêu cầu bạn học lại/học thêm một vài lớp, vẫn đỡ hơn là chỉ có tấm bằng tốt nghiệp cấp 3. C̣n nếu chỉ mới vừa đi học, th́ qua đây học lại để lấy bằng ở Mỹ sẽ tiện hơn.
T́m hiểu ngành ḿnh ưu thích và các yêu cầu đi học
Nếu có ư định đổi ngành hay học lên thạc sĩ, bạn nên dành thời gian học tiếng Anh thật tốt và t́m hiểu về con đường phía trước. Học thạc sĩ ở Mỹ thường đ̣i hỏi phải vượt qua ḱ thi GRE, hay học MBA th́ cần GMAT, học luật th́ cần LSAT, học dược cần PCAT, y cần MCAT. Nếu có ư định đi học, bạn có thể t́m hiểu về các cuộc thi này để chuẩn bị. Các loại thi này thường không chú trọng vào kiến thức cứng, mà về kĩ năng lí luận, logic, làm toán cơ bản, và rất nhiều tiếng Anh. Ḿnh nhắc lại lần nữa- Học tốt tiếng Anh không bao giờ là thừa!
Một điều cần lưu ư nữa là môi trường Mỹ, người Mỹ vô cùng tự thân vận động. Ở đây không có các lớp học thêm nhan nhản như ở VN, thầy cô bảo ǵ làm đó, dạy ǵ biết đấy thôi. Ở đây học thêm đắt đỏ, và theo ḿnh trừ khi cần thiết lắm th́ mới phải đi học thêm. V́ mọi người hoàn toàn có thể tự học để thi các ḱ thi này đến một kết quả tốt nhất định, học thêm có thể giúp bạn đạt được tầm cao mới hơn, nhưng không phải là bắt buộc để thành công.
Các lớp học thêm không chính thức ở Mỹ
Có nhiều người không biết là một số trường đại học và cao đẳng cộng đồng ở đây có các chương tŕnh ban đêm hay vào mùa hè. Bạn không bắt buộc phải là sinh viên chính thức học lấy bằng, có thể học lấy chứng nhận hay lấy từng lớp. Đối với những ai đă tốt nghiệp đại học ở VN qua đây chưa biết muốn làm ǵ, học lại ở đâu, th́ có thể t́m hiểu và học qua các lớp này.
Screen Shot 2018-01-15 at 7.18.11 PM.png
Ở Boston ḿnh biết như trường ḿnh có Northeastern University College of Professional Studies, hay Harvard University có Harvard Extension School. Nhiều dạng người học theo chương tŕnh này:
◾Thi rớt các lớp trong trường đại học chính nhưng mùa hè trường không có offer lớp đó, thay v́ chờ sang năm sau chậm trễ việc học th́ đi học bù lấy được tín chỉ. Lúc học dược bạn ḿnh có người rớt và đi học chữa cháy kiểu này
◾Những người đă tốt nghiệp đai học muốn chuyển ngành hay chuẩn bị vào trường y (premedical), trường dược, học cao học nhưng chưa đủ pre-requisites nên đi học thêm cho đủ trước khi nộp đơn. Bạn ḿnh có anh kĩ sư muốn thi vào trường y nên đi học thêm để hoàn thành pre-requisite ở Harvard.
◾C̣n nhiều lí do khác có thể ḿnh không biết, như là thích th́ đi học cho biết 1, 2 lớp
Điều cần lưu ư là tuỳ bang, tuỳ trường, đôi khi trường đại học bạn muốn vào không nhận tín chỉ từ trường cao đẳng cộng đồng. Trước khi học bạn nên t́m hiểu kĩ, tránh việc học công cốc rồi phải học lại.
Tạm kết- Hăy chuẩn bị cho cuộc sống mới
Môi trường ở Mỹ rất thích hợp cho người chịu khó và chăm chỉ học tập lao động. Nếu được đi du học hay định cư, đây là một khởi đầu mới. Tuy sẽ có nhiều khó khăn thử thách, nhưng nó sẽ hoàn toàn thuộc vào khả năng và ư chí của bạn. Ở đây người ta không quan tâm gia thế, quen biết, con ông cháu cha nhiều như ở quê nhà, tương lai nằm trong tầm tay bạn. Hăy tận dụng cơ hội và đạt được những ǵ bạn mơ ước.
Nếu các bạn có câu hỏi th́ comment dưới hoặc Facebook Page của trang. Nếu có đăng lại bài, xin vui ḷng dẫn nguồn tên ḿnh và địa chỉ của trang. Cảm ơn mọi người đă theo dơi!
-Ngọc Bích, PharmD, RPh
florida80
06-11-2019, 17:30
So sánh hai kiểu trường dược ở Mỹ: PharmD 0-6 và 4 năm sau cử nhân
Sau khi giới thiệu T́m hiểu trường dược ở Mỹ- PharmD Step by step guide, ḿnh sẽ làm thử ví dụ của việc t́m hiểu chương tŕnh 0-6 và chương tŕnh 4 năm sau cử nhân cho mọi người dễ h́nh dung.
Ḿnh sẽ lấy ví dụ là trường Northeastern University ḿnh từng học. Sau khi Google ra trang web của trường và chọn chương tŕnh PharmD, bạn sẽ thấy trường list 2 lựa chọn:
◾Bạn là học sinh cấp 3 (high school student) nộp thẳng vào chương tŕnh 0-6: cần những ǵ trong đơn qua Common App, Coursework chương tŕnh học có các lớp nào, làm sao để đến thăm trường, v.v.
◾Bạn đă tốt nghiệp cử nhân và có đủ các pre-requisites: bạn có thể apply qua PharmCAS để vào chương tŕnh dược
Screen Shot 2018-01-13 at 11.43.40 AM.png
Muốn apply vào trường cần những ǵ?
Đi tiếp vào Fall ’18 Admission tab, bạn sẽ thấy trường list các requirement cho học sinh Mỹ, sinh viên transfer từ trường đại học khác vào, và sinh viên quốc tế cần thêm những ǵ. Đối với học sinh cấp 3 vào chương tŕnh 0-6, quá tŕnh nộp đơn qua Common App rất giống với các trường đại học khác. Ḿnh nộp đơn học đại học cũng 10 năm trước rồi, nên có thể vài thứ thay đổi. Mọi người nên t́m hiểu kĩ, qua college counselor ở trường cấp 3 bên Mỹ hoặc những trung tâm du học đáng tin cậy.
Nếu trường có information session online, hay nếu bạn ở gần trường và có thể đến thăm những dịp Open House th́ nên đi để trực tiếp thấy campus, nghe từ các bạn sinh viên và thầy cô trong trường. Như ḿnh đă nói, Admissions của trường thường rất cởi mở và sẵn ḷng giúp trả lời câu hỏi về những thông tin bạn không t́m được trên mạng.
Screen Shot 2018-01-13 at 11.46.37 AM.png
Tiền học phí và các loại phí khác- Tuitions & fees
Northeastern là private school nên học phí vô cùng đắt đỏ, đây là c̣n chưa tính tiền ăn ở (tham khảo giá tiền ăn ở tại LINK này). Từ lúc ḿnh học đến bây giờ nh́n học phí tăng ḿnh c̣n thấy chóng mặt. Ngoài học phí, bạn cũng phải lưu ư các loại tiền phí khác, tất cả công lại cũng kha khá đó.
◾Undergraduate full time: $24,280 per term (1 năm khoảng 2 term th́ gần $50,000)
◾PharmD 6th year (bắt đầu từ mùa hè): $14,875 per term (1 năm đi làm APPE tính khoảng 3 terms)
◾Direct Entry graduate: $24,280 per term
Screen Shot 2018-01-13 at 12.46.17 PM.png
Chương tŕnh học dược gồm những lớp ǵ? Pharmacy curriculum
Ở Northeastern, chương tŕnh 0-6 gọi là Early Assurance, nghĩa là sau 2 năm th́ không phải apply lại để chính thức vào chương tŕnh dược. Hai năm đầu gọi là pre-pharmacy (hay Freshman và Sophomore), bao gồm những lớp cơ bản về khoa học tự nhiên, lớp College Writing học viết tiếng Anh, toán Calculus, và vài lớp giúp các bạn làm quen với môi trường đại học như College: An Introduction.
Screen Shot 2018-01-13 at 11.49.42 AM.png
Ở Northeastern, chương tŕnh sau cử nhân gọi là Direct Entry, bao gồm 4 năm Professional (P1-P4). Các lớp này là chuyên sâu vào ngành dược như Pharmaceutics, Pharmacology/Medicinal Chemistry chứ không c̣n là đại cương.
Screen Shot 2018-01-13 at 11.54.16 AM.png
Năm cuối cùng Professional Year 4 (P4) th́ từ mùa hè mọi người để phải đi thực tập Advanced Practice Experience (APPE) trọn 1 năm. Mỗi trường sẽ có kết cấu APPE khác nhau, như Northeastern là một block dài 6 tuần, trong 1 năm bạn sẽ làm khoảng 6 block và nghỉ 1 block. Ḿnh thấy các trường khác có thể dài từ 4-5 tuần. Đa số các chương tŕnh đều có các nơi thực tập bắt buộc như là
◾Retail: nhà thuốc, đứng trong nhà thuốc học theo dược sĩ nhận đơn, ra thuốc, đưa lời khuyên cho bệnh nhân
◾Hospital/clinical: lâm sàng trong bệnh viện. Bạn sẽ đi theo nhóm bác sĩ dược sĩ “rounding” mỗi sáng sớm thăm các bệnh nhân họ theo dơi, t́m hiểu thông tin thuốc của bệnh nhân và đưa ra lời khuyên cho bác sĩ có nên đổi thuốc không, v.v.
◾Ambulatory care: Ḿnh không biết bây giờ thế nào, nhưng lúc ḿnh học có bắt phải làm ambulatory care, nghĩa là giữa giữa nhà thuốc và bệnh viện. Đây thường là những clinic nhỏ, bệnh nhân thường mắc bệnh măn tính không nghiệm trọng (như tiểu đường, cao huyết áp, mỡ cao, uống thuốc chóng đông máu) đến theo dơi thường xuyên. Bạn sẽ học được cách theo dơi các bệnh này, đọc sơ đồ thử máu, đưa ra lời khuyên chỉnh sửa thuốc
◾Electives: Tự chọn. Thường là có 1 tự chọn chuyên sâu trong bệnh viện: bệnh tim, bệnh ung thư, nhi khoa, phẫu thuật, v.v. Ḿnh chọn thực tập về bệnh truyền nhiễm v́ thích mảng này. Ngoài ra, elective có thể là thực tập ở các công ty dược.
Screen Shot 2018-01-13 at 11.57.00 AM.png
Các yếu tố hấp dẫn khác của trường: IPPE và Co-op
Trước khi đi thực tập APPE ở năm cuối, sinh viên dược phải hoàn thành IPPE trong quá tŕnh học để quan sát và t́m hiểu về công việc thật sự của dược sĩ. Tùy trường mà chương tŕnh IPPE được thiết kế khác nhau. Đa số sinh viên phải đi thực tập trong nhà thuốc hay bệnh viện, do trường giới thiệu hoặc tự t́m. V́ sinh viên vẫn c̣n học những lớp căn bản nên vẫn chưa thể làm việc ǵ nhiều trong thời gian ngắn khoảng vài tuần. Nhiều phần là đi theo học hỏi (shadow) từ những dược sĩ ở nhà thuốc hay bệnh viện và làm những việc họ giao. IPPE cũng ít khi được trả lương, trừ khi làm pharmacy intern ngoài giờ học. Mỗi trường và mỗi bang đưa ra quy định khác nhau về việc sinh viên cần phải hoàn thành bao nhiêu giờ của IPPE để được học tiếp và tốt nghiệp.
Northeastern University có sẵn mô h́nh cooperative education (co-op) cho tất cả các ngành, và ngành dược áp dụng chương tŕnh này cho IPPE. Trong những ngành khác, sinh viên đi học 1 năm đầu rồi bắt đầu đi làm thực tập co-op 6 tháng. Trong chương tŕnh PharmD, co-op sinh viên đi làm 3 lần, mỗi lần 4 tháng thay v́ được nghỉ hè (đúng vậy, sau năm đầu tiên th́ tụi ḿnh không hề được nghỉ hè cho đến năm cuối cùng!). Quy định của trường là sinh viên phải hoàn thành 1 ḱ thực tập là pharmacy intern ở nhà thuốc (retail pharmacy), 1 ở bệnh viện (institutional pharmacy), và 1 ḱ tự do (elective). Tùy theo luật của Board of Pharmacy ở mỗi bang mà quy định về pharmacy intern khác nhau.
Các bạn có thể t́m hiểu thêm về APPE qua bài viết trước của ḿnh Dược sinh thực tập (Phần 1): IPPE và APPE là ǵ?
Tóm lại, điểm khác biệt lớn nhất giữa chương tŕnh 0-6 và sau cử nhân là bạn tiết kiệm được 2 năm nếu đi thẳng, và lấy cùng 1 tấm bằng PharmD. Đây là option lư tưởng cho những ai biết chắc ḿnh muốn học dược từ khi c̣n là học sinh cấp 3, muốn đi thẳng một lèo học cho xong. C̣n nếu chưa chắc th́ nên t́m hiểu thêm, v́ trong 2 năm đầu th́ có thể transfer nếu bạn không thích dược và các tín chỉ khoa học tự nhiên có thể áp dụng cho những ngành liên quan. Nhưng từ năm 3-6 th́ transfer ra các ngành khác các tín chỉ của bạn chẳng dùng được đâu v́ nó chuyên môn dược.
Nếu có câu hỏi ǵ, mọi người cứ comment phía dưới hoặc Like và post trên Facebook Page của trang để ḿnh trả lời hoặc sẽ viết một blog khác đầy đủ hơn nếu vấn đề được nhiều người quan tâm.
-Ngọc Bích, PharmD, RPh
florida80
06-11-2019, 17:33
Những điều cần biết để trở thành Dược Sĩ ở Mỹ?!
/Home
/Chuẩn bị Hồ sơ
/Những điều cần biết để trở thành Dược Sĩ ở Mỹ?!
Tháng Sáu 13, 2018 |
Chuẩn bị Hồ sơ, Du học, Tin tức
1. Dược Sĩ Mỹ học bao lâu? Một SV mất 8 năm sau phổ thông trung học để trở thành DS đa khoa hoặc 9-10 năm để trở thành DS chuyên khoa. Để vào trường Dược Khoa, các SV thường phải tốt nghiệp ĐH 4 năm, thi PCAT (Pharmcy College Admission Test) điểm cao, làm thiện nguyện, phỏng vấn và được nhận vào trường Dược Khoa.
Có tổng cộng 153 trường Nha Khoa tại Mỹ đào tạo Văn bằng Tiến Sĩ Dược Khoa (Doctor of Pharmacy). Chương tŕnh PharmD thường kéo dài 4 năm. Trong 2 năm đầu dược khoa khoa, các SV học về lư thuyết, 2 năm cuối là thực tập bao gồm 1 năm internship. SV ra trường với bằng PharmD có quyền thi chứng chỉ hành nghề và được công nhận danh xưng là dược sĩ.
Năm 1965, trường ĐH Nam California là trường đầu tiên tại Mỹ đưa ra văn bằng Doctor of Pharmacy song song với chương tŕnh Doctor of Medicine nhằm nhấn mạnh vai tṛ và đào tạo DS chuyên ngành, để thay cho bằng Bachelor of Pharmacy hoặc BS in Pharmacy. Đến năm 2000, tất cả các trường Dược tại Mỹ đều đào tạo văn bằng Doctor of Pharmacy.
Có một số trường Dược tại California không cần điểm MCAT và xét tuyển theo điểm GPA và bài luận văn. Đặc biệt,có một số trường kết hợp 2 năm ĐH + 4 năm PharmD thành chương tŕnh 6 năm dành cho học sinh phổ thông. Học cách này sẽ rút ngắn lại 2 năm so với chương tŕnh 4+4 thông thường.
Sau khi ra trường với bằng PharmD và thi đậu Hội Đồng Dược Khoa (Board of Pharmacy), các Dược Sĩ có thể làm DS nhà thuốc (như nhà thuốc CVS, Walgreen, hoặc Walmart). Trong khi đó, để làm DS lâm sàng (clinical pharmacist) trong bệnh viên đ̣i hỏi các DS phải làm thêm ít nhất một năm nội trú dược khoa.
2. Chuyên khoa sâu cùa ngành Dược khoa và các lựa chọn nghề nghiệp khác: Khoảng 60% sinh viên tốt nghiệp trường Dược tiếp tục làm nội trú dược khoa, đa số là nội trú tổng quát tại bệnh viện để trở thành DS lâm sàng. Chương tŕnh nội trú thường kéo dài một năm. Sau chương tŕnh nội trú, các DS có thể tập trung vào một số chuyên khoa sâu hơn như tim mạch, ung thư, truyền nhiễm, nhi khoa, vv.. Sau khi xong nội trú (1 năm) và nghiên cứu chuyên sâu (1-2 năm) th́ DS có quyền thi chuyên khoa sâu (Board of Specialty) và được chứng nhận chuyên khoa. Nhiều DS sau khi tốt nghiệp hoặc nội trú chọn làm cho các công ty Dược phẩm về nghiên cứu và chế tạo thuốc (R&D) với thu nhập cao và ổn định. Một số các DS cũng làm tư vấn (Consultant). Nhiều văn bằng và chương tŕnh học song song với ngành Dược ra đời như MBA/PharmD, PhD/PharmD tương tự như bên y khoa.
3. Dược Sĩ ngày càng lấn sân Bác Sĩ: V́ cách phát triển chương tŕnh dược khoa và đào tạo gần như song song với y khoa (chương tŕnh Doctorate + nội trú), ngành dược khoa đă đi một bước dài trong việc dưa DS tiến gần đến vị trí của BS (và có thể thay thế BS gia đ́nh sau này). Hiện nay, nhiều pḥng khám chuyên về thuốc (kiểm tra thuốc chống máu đông, theo dơi thuốc, hoặc chính ngừa bệnh) tại Mỹ do DS chuyên trách. Các tổ chức Dược Khoa tại Mỹ rất mạnh trong việc vận đồng hành lang Washington để chấp thuận các luật có lợi cho DS.
Hiện tại, Nghề DS tại Mỹ được xem là một trong những nghề tốt nhất tại Mỹ do lương cao, lối sống tốt, và công việc ổn định. Ngành này cũng được nhiều bạn nữ chọn hơn so với ngành Y do học và làm ít cực hơn.
Theo bác sĩ Wynn Huynh Tran, MD, DPD
florida80
06-11-2019, 17:35
5 Phần mềm tự luyện SAT/ACT miễn phí
Tháng Năm 21, 2019 |
Tin tức
5 PHẦN MỀM TỰ LUYỆN SAT/ACT MIỄN PHÍ
C̣n ǵ tuyệt hơn khi được ôn tập SAT và ACT trên những phần mềm tṛ chơi thú vị ngay trên chính chiếc smartphone của bạn? Hăy cùng t́m hiểu 5 ứng dụng miễn phí nhưng không hề kém “xịn ṣ” để luyện tập kiến thức cho bài test SAT/ACT sắp tới nào!
1. Khan Academy
Apple Store: http://bit.do/eSPrx
Google Play: http://bit.do/eSPrE
Slogan của Khan Academy là “cung cấp phương pháp học tập miễn phí cho bất kỳ ai, ở bất kỳ đâu”. Chính v́ vậy, thí sinh dễ dàng t́m kiếm những bài giảng trực tuyến và đề thi SAT/ACT thử miễn phí trên trang web này.
2. Magoosh ACT Flashcards
Apple Store: http://bit.do/eSPuZ
Google Play: http://bit.do/eSPvd
ACT Flashcards của Magoosh do chính các chuyên gia về ACT thiết kế sẽ giúp bạn ghi nhớ những kiến thức tiếng Anh, toán, khoa học để ghi điểm trong ḱ thi này. Ứng dụng này được lập tŕnh bằng thuật toán thông minh giúp người học xác định những phần c̣n yếu và tập trung cải thiện điều đó.
3. Daily Practice for the New SAT from the College Board
Apple Store: http://bit.do/eSPwq
Google Play: http://bit.do/eSPwv
Phần mềm giúp bạn củng cố kiến thức SAT/ACT ở bất cứ đâu. Phần mềm do chính những người ra đề thi SAT thiết kế nên người học có thể luyện tập những bộ đề giống với đề thi thật. Đặc biệt, ngân hàng đề sẽ gửi cho người học những câu hỏi phù hợp với khả năng để bạn luyện tập mỗi ngày. Ứng dụng này cũng sẽ theo dơi và thống kê tiến độ học tập từng ngày của bạn và gợi ư bạn cách cải thiện các kỹ năng c̣n yếu.
4. The Grading Game
Apple Store: http://bit.do/eSPxU
The Grading Game được thiết kế theo dạng tṛ chơi giúp người học t́m ra những lỗi sai thường gặp trong Writing của SAT và phần ngữ pháp của ACT. Bạn có thể luyện tập với nhiều độ khó khác nhau dưới áp lực thời gian như trong lúc thi thật.
5. Math Brain Booster
Apple Store: http://bit.do/eSPzC
Ứng dụng Math Brain Booster tăng cường tập trung, phản ứng và sự nhanh nhạy bằng cách yêu cầu người học giải quyết các câu hỏi toán trong một khoảng thời gian nhất định. Người học sẽ được tham gia nhiều tṛ chơi vui nhộn, đơn giản và rất hiệu quả để luyện tập bài thi chuẩn.
Chúc bạn ôn thi SAT/ACT hiệu quả và đạt điểm cao!
Tỉ lệ đỗ Đại học Mỹ dựa vào điểm SAT!
Dưới đây là một thống kê tương đối của Niche về tỉ lệ được nhận vào các nhóm trường Đại học theo số điểm SAT bạn đạt được. Các nhóm trường này bao gồm cả trường công và trường tư. Thống kê chủ yếu phục vụ cho học sinh ở Mỹ nhưng các ứng viên
Nếu bạn muốn học tập tại Mỹ: Trang trải chi phí của chương tŕnh cao học
Học tập ở Hoa Kỳ có vẻ tốn kém, nhưng có thể bạn đã nhận thấy là việc học tập này đem lại một giá trị tuyệt vời, rất xứng với khoản tiền đã đầu tư. Chương này bàn kỹ hơn về chi phí cho việc học bậc cao học ở Hoa Kỳ và cách
florida80
06-11-2019, 17:39
Du học ngành Dược tại Mỹ qua lời kể của 1 Dược sĩ
Đăng ngày: 09/01/2019
[Du học ngành Dược tại Mỹ]
Có nhiều bạn nhắn tin hỏi ḿnh chuyện học dược ra sao, làm sao để vô trường dược, hỏi đủ thứ. Mà ḿnh thấy ngành dược ngày càng băo hoà, trong khi học phí ngày càng tăng, nên ḿnh không biết trả lời các bạn đó ra sao. Hôm nay nhân một lư do đặc biệt, nên ḿnh viết tạm, nhớ ǵ viết nấy, cũng có nhiều chuyện ḿnh quên mất rồi. Mong là giải đáp được thắc mắc của mọi người.
Ḿnh qua Mỹ năm 25 tuổi, bận rộn nghỉ ở nhà sinh con mất vài năm. Năm 28 tuổi mới bắt đầu khăn gói quả mướp quay lại trường học Dược. Hy vọng kinh nghiệm đau thương của ḿnh giúp được cho các bạn c̣n đang “phân vân đứng giữa đôi ḍng nước”, không biết có nên học Dược hay không có quyết định đúng đắn nha.
Nhiều người thường lầm tưởng công việc tương lai của các dược sĩ chỉ là bán thuốc. Bệnh nhân ḿnh c̣n tưởng ḿnh bán khoai tây chiên ở McDonald’s nữa cơ, có mỗi việc đếm thuốc bỏ vô lọ mắc mớ ǵ bắt người ta chờ lâu vậy, chiên khoai tốn có 5 phút thôi mà.
Thực ra ngoài làm việc trong các nhà thuốc retail, dược sĩ có thể quyết định rẽ theo nhiều hướng khác nhau như bào chế thuốc, giảng viên đại học, nghiên cứu và làm việc tại các công ty dược phẩm, hoặc trở thành dược sĩ lâm sàng (clinical pharmacist) làm việc trong các bệnh viện. Thật sự có rất nhiều lựa chọn cho các bạn khi trở thành dược sĩ.
Vậy điều kiện để vào học ngành Dược tại Mỹ cần những ǵ?
Với những yêu cầu cao của nghề, ở Mỹ hoàn toàn không c̣n chương tŕnh cử nhân cho sinh viên ngành Dược nữa, mà đ̣i hỏi các bạn phải hoàn thành chương tŕnh Doctor of Pharmacy (PharmD) mới được chính thức làm việc. Dược sĩ ra trường bây giờ mang title Doctor.
– Prerequisites: Đa số các trường dược cung cấp chương tŕnh pharmD 4 năm. Trước đó bạn phải hoàn tất các lớp prerequisites (dự bị) trước khi có thể apply vào trường dược. Các lớp dự bị này mỗi trường yêu cầu có khác nhau chút đỉnh, nhưng đa số là giống nhau những môn khoa học chính, như toán, lư, hoá, sinh và vi sinh vật. Ngoài ra c̣n có các môn xă hội và Anh văn. Học mấy lớp này tốn khoảng 2-3 năm. Tuy trường dược không yêu cầu phải có bằng cử nhân BA hay BS khi apply, nhưng đa số đều lấy bằng cử nhân rồi mới vô trường dược, nâng tổng thời gian học lên thành 8 năm.
* Các bạn c̣n trẻ, c̣n nhiều thời gian phía trước th́ cứ thong thả lấy prereq trong 2-3 năm, không đi đâu mà vội vàng. Chứ ḿnh hồi đó già rồi, đâu c̣n thời gian mà thong thả, nên ḿnh cứ gom lại lấy thật nhiều lớp, v́ ḿnh chỉ ngóng vô trường dược cho thiệt nhanh để c̣n ra làm nữa. Thế là prereq của ḿnh mất 1.5 năm. Mà hậu quả là học chưa tới đâu tóc bạc mọc đầy đầu rồi.
Ngoại lệ, có một số trường dược cung cấp chương tŕnh pharmD 6 năm. Các bạn tốt nghiệp cấp 3 xong là vô thẳng trường này, không cần lấy prereq, học thẳng một mạch 6 năm là ra pharmD luôn.
Ngoại lệ khác, có một số ít trường dược có chương tŕnh pharmD 3 năm, là accelerated program, thay v́ 4 năm. Học cách này sẽ rút ngắn được 1 năm, đỡ được một mớ tiền, và sẽ tối tăm mặt mũi trong suốt thời gian học. Ḿnh chọn học chương tŕnh này. Quanh năm không có ngày nào nghỉ, không có summer break, túm lại là không có break ǵ hết. Chỉ có cắm đầu cắm cổ học và học. Đúng nghĩa là “mỗi năm đến hè là ta thấy rầu”, v́ ḍm bạn bè tung tăng lên lịch đi chơi hè, c̣n ta chỉ có học chứ không có chơi. Mỗi năm được nghỉ đúng 1 tuần từ Christmas tới New Year mà thôi.
Nếu bạn thấy sinh viên nào mà mặt mày hớt hơ hớt hăi, lúc nào miệng cũng lẩm bẩm exam, exam, và exam. Mặt mũi mụn nhọt tùm lum, răng vàng khè cứ như con nghiện thuốc lá lâu năm, chính là hậu quả của thiếu ngủ và cà phê. Mắt lờ đờ suốt ngày tụng tên thuốc và tác dụng phụ của nó, thậm chí một số thuốc c̣n bị bắt học thuộc ḷng cả h́nh dạng và màu sắc của từng strength, th́ đích thị hắn là sinh viên trường dược chứ không chạy đi đâu được. Hồi đó ḿnh học bài nguyên đêm không ngủ là chuyện b́nh thường. Cà phê nó quen mặt ḿnh tới nỗi, nửa đêm uống một ly thiệt đậm đặc để chuẩn bị thức học bài tới sáng, th́ uống như uống thuốc ngủ, xong lên giường làm một giấc thẳng cẳng tới sáng luôn.
Lư do v́ sao học stress dữ vậy. Bộ học khó lắm hả?
1. Tuần nào cũng có exam, rất nhiều exam, học bài mệt xỉu luôn
Thật ra học không khó. Nhưng mỗi tuần có “multilple exam”. Nghĩa là tuần nào cũng có exam, rất nhiều exam, học bài mệt xỉu luôn. Điểm cuối kỳ là điểm của tất cả các exam chứ không phải chỉ có thi giữa kỳ và cuối kỳ như các ngành b́nh thường khác.
Nếu rớt một môn th́ coi như cầm chắc ở lại lớp. Trong chương tŕnh dược không có chuyện rớt một môn th́ vẫn học tới rồi lấy lại lớp đó sau, mà phải ở nhà ngồi chơi xơi nước, chờ khoá sau lên, học tới lớp đó th́ ḿnh chui vô học chung. Tiền học phí th́ vẫn phải đóng từ thiện đầy đủ cho trường. C̣n rớt thêm lần nữa là coi như xong, vĩnh biệt mùa hè luôn. Muốn học dược tiếp th́ quay lại apply từ đầu, tiếp tục vô interview như mới. Mà ḿnh chưa thấy ai quay lại, đa số đi giao pizza hoặc flip hambuger hết trơn. Mỗi năm lên một lớp ḿnh thấy có khoảng 15-20% gương mặt mới (từ khoá trước rớt lại) và cũng khoảng đó gương mặt cũ trong lớp ḿnh biến mất (được nghỉ dài hạn chờ sang năm học chung với khoá sau).
Ngoài ra, sinh viên muốn vào trường dược phải cần có GPA tốt, thường là trên 3.8; thi kỳ thi đầu vào PCAT, có một quá tŕnh làm việc thiện nguyện, có thành tích cùng kinh nghiệm về ngành dược, và bắt buộc phải có ít nhất một thư giới thiệu của dược sĩ, th́ mới mong đủ điều kiện apply.
2. Chương tŕnh học dược được phân bổ như thế nào?
Trong quá tŕnh 4 năm (hoặc 3 năm) học tập tại trường dược, ngoài kiến thức chuyên môn, dược sĩ tương lai được đào tạo các kĩ năng mềm như phương pháp lănh đạo, làm việc nhóm, cách giao tiếp với bệnh nhân, kể cả cách chăm sóc khách hàng nữa (customer service).
Mới vô năm đầu là phải đi thực tập rồi. Và phải thực tập liên tục không ngừng nghỉ cho tới ngày cuối cùng trước khi ra trường luôn. Năm cuối cùng chỉ có thực tập mà thôi. Năm này tụi ḿnh hay gọi nó là “đóng tiền để được đi làm”.
Ngày đầu tiên ḿnh bước vô Walgreens thực tập lúc học năm hai, gọi là P2 student, đúng hôm cái con robot ở tiệm bị hư. Cả tiệm chạy nháo nhào để làm thay con robot đó. Mà vẫn không kịp thở, ḿnh thấy khói x́ ra lỗ tai. Tối về tới nhà th́ chân đi không vững, run lẩy bẩy v́ chạy quá nhiều, chắc nhiều hơn đi tập gym. Hôm sau ḿnh vô hỏi preceptor, bộ ngày nào cũng khủng khiếp như vậy hay sao, vậy th́ làm sao mà sống nổi… cả tiệm cười rần rần. Họ nói đúng là do tiệm đông, nhưng hôm nay con robot được sửa rồi, không x́ khói ra lỗ tai nữa, đừng lo.
Năm cuối sẽ đi thực tập 6 chỗ, mỗi chỗ 6 tuần, đủ 1500 giờ mới được đi thi license.
Tổng thời gian học của ḿnh là 4.5 năm (1.5 năm prereq, 3 năm pharmD), mà không thấy cuộc đời đâu hết. Nên ḿnh khuyên mọi người cứ từ từ mà học, không việc ǵ phải chạy như ḿnh.
(C̣n tiếp)
Theo: chị Hoàng Yến
florida80
06-11-2019, 17:42
Muốn học ngành dược tại Mỹ, đây là những điều bạn cần phải biết
Hanh Nguyen
17/09/2016 No Comments
Chị Mai Chi, tốt nghiệp bằng Tiến sĩ dược (Doctor of Pharmacy) tại Đại học Texas có những chia sẻ cực ḱ hữu ích về việc học, nghiên cứu và hành nghề của ngành dược tại Mỹ. Đây là những thông tin cực ḱ cần thiết cho những bạn có mong muốn học ngành dược tại Mỹ.
Khác nhau cơ bản giữa việc nghiên cứu sinh ngành dược tại Việt Nam và Mỹ
Chương tŕnh Tiến sĩ dược (Doctor of Pharmacy, PharmD) tại Mỹ đào tạo kĩ cả về chuyên môn và các kĩ năng mềm như lănh đạo, làm việc nhóm, quản lư,…nhằm giúp cho các sinh viên sau khi tốt nghiệp sẽ vững vàng cả về kĩ năng, kiến thức chuyên ngành và chăm sóc bệnh nhân hiệu quả. Chương tŕnh này bao gồm 4 năm học chuyên sâu về dược. Nếu tính cả 4 năm học đại học hoặc 2 năm để hoàn thành chương tŕnh Pre-Pharmacy th́ sẽ cần khoảng 6 đến 8 năm để có được bằng Tiến sĩ dược. Trong quá tŕnh đào tạo, các sinh viên PharmD phải tham gia rất nhiều ḱ thực tập (rotation) ở bệnh viện, nhà thuốc, viện dưỡng lăo,… và được đào tạo bài bản về nhiều kĩ năng và lĩnh vực chuyên ngành của dược và y học. Ngoài ra, các khoá học về luật lệ y tế của liên bang và tiểu bang c̣n là một học phần quan trọng trong chương tŕnh đào tạo.
Trong khi đó tại Việt Nam, chương tŕnh Cử nhân dược thường hoàn tất trong ṿng 4 năm. Do thời lượng chương tŕnh đào tạo ngắn nên lượng kiến thức đào tạo có thể nhẹ hơn so với chương tŕnh tại Mỹ ở một số lĩnh vực.
Health Screenings 1
Mai Chi cùng 2 người bạn học trong ngày khám sức khoẻ cộng đồng (Health Screening Event) của trường ĐH Texas do các chị tổ chức. Đây là một trong những hoạt động t́nh nguyện (volunteer event) mà sinh viên dược đóng góp cho cộng đồng. Trong ngày này, mọi người sẽ được đo huyết áp, xét nghiệm máu, và tư vấn sức khoẻ miễn phí.
Cơ hội việc làm của ngành dược sĩ tại Mỹ
Sau khi tốt nghiệp, các Tiến sĩ dược có thể tiếp tục theo đuổi chương tŕnh đào tạo nội trú (residency) để trở thành các dược sĩ lâm sàng (clinical pharmacist), điều hành và làm việc tại các nhà thuốc của bệnh viện hoặc công ty tư nhân (community pharmacist), công tác tại các công ty dược, công ty tư vấn, nghiên cứu và giảng dạy tại các trường đại học, làm trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ y sinh học, hoặc tham gia vào việc hoạch địch các chính sách về y tế cho cộng đồng,… Nếu muốn hành nghề dược, các Tiến sĩ dược mới tốt nghiệp phải thi chứng chỉ hành nghề và luật của tiểu bang, liên bang. Ngoài ra, mỗi năm, các dược sĩ phải hoàn thành các khoá học bồi dưỡng kiến thức chuyên môn và luật y tế.
Các dược sĩ từ nước ngoài nếu muốn hành nghề dược tại Mỹ đều phải hoàn thành chương trinh đào tạo bổ sung, thực tập khoảng 1000 – 1500 giờ (tuỳ theo quy định của mỗi tiểu bang) dưới sự hướng dẫn của các dược sĩ của Mỹ. Sau đó, các ứng viên dược sĩ này sẽ cần thi chứng chỉ hành nghề (NAPLEX) của liên bang và luật (MPJE) của tiểu bang.
Điều kiện để có thể du học ngành tiến sĩ dược tại Mỹ
Để học chương tŕnh PharmD tại Mỹ, các bạn cần thi PCAT (ḱ thi đánh giá tŕnh độ về dược) và hoàn thành các học phần bắt buộc của các môn cơ bản như Toán, Sinh, Hoá, Lư,… Các bạn có thể học bổ sung các học phần này tại Mỹ. Việc có bằng Cử nhân về dược là một lợi thế nhưng việc các trường dược của Mỹ có công nhận bằng cấp đại học dược tại Việt Nam th́ c̣n tuỳ thuộc vào qui định tuyển sinh của từng trường. Thông thường, các trường dược tại Mỹ ưu tiên các sinh viên người Mỹ tại tiểu bang mà trường đặt cơ sở. Sinh viên quốc tế và sinh viên ngoài tiểu bang thường có khả năng được nhận thấp hơn, nhưng phải trả học phí cao gấp 2 đến 3 lần so với sinh viên trong tiểu bang.
Quá tŕnh tuyển chọn thường dựa trên điểm số GPA, PCAT, hồ sơ dự tuyển, các thành tích, bài tự luận, thư giới thiệu, và kết quả của ṿng phỏng vấn. Các hoạt động cộng đồng và cống hiến cho xă hội là một ưu tiên quan trọng trong quá tŕnh xét tuyển. Hiện nay đa số các trường dược sử dụng hệ thống PharmCAS để nhận và quản lư hồ sơ dự tuyển. Hệ thống này cho phép ứng viên có thể cùng lúc đăng kí dự tuyển nhiều trường mà không cần phải chuẩn bị nhiều bộ hồ sơ khác nhau. Các ứng viên được lựa chọn sẽ phải đáp ứng các yêu cầu về năng lực học thuật, kĩ năng mềm và có niềm đam mê đối với ngành dược.
Mai Chi va gia dinh
Mai Chi cùng bố, mẹ và chồng – TS. Phan Minh Liêm, Tiến sĩ Việt 4 lần được vinh danh trên bức tường Viện ung thư Mỹ
Chương tŕnh học tập của một nghiên cứu sinh ngành dược
Trong năm đầu tiên, sinh viên sẽ học các môn đại cương căn bản và thực tập tại các cơ sở y tế gần trường. Trong năm 2 và 3, sinh viên sẽ học các môn nâng cao và chuyên ngành cũng như tích cực tham gia các hoạt động y tế cộng đồng. Năm thứ 4 chú trọng vào việc hoàn thiện các kĩ năng chuyên môn và kĩ năng mềm. Do đó, trong năm 4, các sinh viên sẽ chỉ tập trung hoàn thành khoảng 6 – 7 ḱ thực tập tại các cơ sở y tế trong khắp tiểu bang. Mỗi ḱ thực tập kéo dài khoảng 6 tuần và giúp cung cấp cho sinh viên nhiều kinh nghiệm thực tế và trau dồi kiến thức, nâng cao kĩ năng để phục vụ bệnh nhân. Trong quá tŕnh thực tập, mỗi sinh viên sẽ làm viêc dưới sự hướng dẫn bởi 1 dược sĩ hoặc một nhóm dược sĩ. Sinh viên c̣n có cơ hội hợp tác và làm việc với các đội ngũ bác sĩ và y tá nhằm nâng cao hiệu quả điều trị và sử dụng thuốc một cách an toàn và hợp lư nhất. Các sinh viên thích nghiên cứu có thể chọn các ḱ thực tập tại các pḥng thí nghiệm hoặc công ty dược.
Cơ hội nghề nghiệp của dược sĩ tại Mỹ hiện nay ở mức triển vọng và nhu cầu dược sĩ tăng liên tục. Tuy nhiên, do có sự xuất hiện của nhiều trường dược nên đă bắt đầu xuất hiện hiện tượng băo hoà dược sĩ tại các thành phố lớn. Chứng chỉ hành nghề và đào tạo nâng cao chuyên môn nghiệp vụ hàng năm là các yêu cầu bắt buộc đối với các dược sĩ tại Mỹ.
Ban Biên Tập Sinhvienusa.org
florida80
06-11-2019, 17:44
Finnish healthcare and social welfare system provides a variety of e-services to citizens
The system presses on towards the next level of usability and interoperability for professionals
National Institute for Health and Welfare
Share
Print E-Mail
The national monitoring of the availability and use of information systems in healthcare in Finland revealed that the use of e-services in the exchange of health information among health service providers has increased compared to earlier studies performed since 2003.
In particular, the national health information exchange service, Kanta, enables information exchange between private and public health service providers.
"Major progress has been made in the range of e-health services available to citizens," says Professor Jarmo Reponen from the University of Oulu.
"In addition to electronic appointment bookings and advisory services, citizens can view their own data and communicate with health services more frequently than they could three years ago."
In the e-welfare sector, the supply of electronic services that are available to citizens and clients has increased, especially in the public sector. The integrating national infrastructure is actively being developed and currently several electronic document specifications and a client data repository as a part of Kanta Services in social welfare are in development.
However, there is a need for information management tools for professionals working in social services.
A drug interaction alert system is already being widely used
Clinical decision support (CDS) systems add intelligence to the healthcare systems and are both more frequently available and more likely to be integrated into the electronic patient record system compared with when the previous survey was conducted.
The most commonly integrated CDS tools are drug interaction alert systems.
"It is extremely important that we have these warning systems which improve patient safety and increase the quality of care. Moreover, in the future, we shall need even more advanced tools to support clinical workflow and the management of care on a daily basis," emphasises Professor Reponen.
Healthcare professionals are proficient users of electronic patient information systems and want to be part of their development
Nurses rate themselves as proficient users when assessing their competence in using electronic data and information systems. However, poor functionalities of information systems may jeopardise information flow and disturb nurses' work processes.
"When data cannot be accessed in a timely manner or the same data is stored in multiple systems, severe safety concerns, difficulties in decision-making, deficiencies in information exchange, and frustration in work processes may arise," highlights Professor Kaija Saranto from the University of Eastern Finland.
Healthcare professionals are keen to be involved in developing information systems. However, because of changes in the working environment, healthcare professionals need more training in the use of information systems and e-services.
Physicians' user experiences of electronic patient record systems have slightly improved compared with the results of two earlier surveys. However, there are still clear areas for improvement, for example information retrieval from other organisations is estimated to be as time consuming as it was in 2010.
The practical application of healthcare and social welfare data will be monitored and assessed regularly based on a national strategy
The Finnish Ministry of Social Affairs and Health has regularly commissioned national surveys on e-health and e-welfare to monitor the current state and trends in e-health and e-welfare in Finland to gather evidence for use in future development.
The national e-health and e-welfare strategy, 'Information to support well-being and service renewal. eHealth and eSocial Strategy 2020' set the goals for the monitoring.
The information was drawn from five nationwide e-health and e-welfare surveys. The survey aimed at citizens measures e-health and e-welfare service use and utilisation.
Two surveys were targeted at organisations (healthcare/social care), and measure the availability and use of e-health tools and services as well as the availability of e-welfare tools and services. Two surveys were targeted at professionals (physicians and nurses), and measure usability and the benefits of e-health tools and services. All the surveys were produced as part of the project on the Monitoring and assessment of social welfare and health care information system services (STePS 2.0 project
florida80
06-11-2019, 17:45
10-Jun-2019
Millennials are 'canaries in the coalmine' for toxic economic trends
Stanford University
Share
Print E-Mail
Millennials - young adults in their 20s and 30s - earn less money without a college degree and are more likely to die prematurely from suicide or drug overdose than previous generations, according to a new report from the Stanford Center on Poverty and Inequality.
The report also found that millennials also have a wider set of identities from which they can choose: Unlike older generations, millennials are frequently embracing multiracial and unconventional gender identities. However, this doesn't mean they are any more accepting of people different from them compared with previous generations. The report found that millennials believe common racial and gender stereotypes to be true just as much as people from the Baby Boomer cohort, who were born from 1946 to 1964, and Generation X, born between 1965 and 1980.
The report, issued on June 6, brought together some of the country's leading experts on poverty and inequality and offers a comprehensive assessment of data on education, health, employment and income, occupational segregation, debt and poverty rates, economic mobility, racial and gender identities, social connections, housing and incarceration trends.
"Millennials are the first generation to experience in a full-throttled way the social and economic problems of our time," said David Grusky, professor of sociology and director of the Stanford Center on Poverty and Inequality.
As millennials tried to enter the job market during the Great Recession of the late 2000s, they also had to deal with decades-long economic issues, such as rising inequality and declining economic mobility. This made it an especially difficult period, he said.
"We can think of them as canaries in the coalmine who reveal just how toxic those problems are. By assembling a report that provides a comprehensive understanding of their situation, we can go beyond the usual patchwork policy and begin to address underlying problems," Grusky said.
Millennial education
Contrary to some popular assumptions, when college-educated millennials entered the labor market, they earned just as much as Baby Boomers and Gen Xers when they were their age.
But millennials with only a high school diploma or less are earning much less than their counterparts from previous generations, according to the report's analyses of education, written by Stanford sociologist Florencia Torche and doctoral sociology student Amy Johnson.
For example, the median earnings for 25-year-old millennial men with a bachelor's or higher degree were about $50,000 per year, which is slightly higher than for previous generations after adjusting for inflation. The median earnings for 25-year-old millennial men who have high school degrees or less were $29,000 per year, which is about $2,600 dollars less than Gen Xers and nearly $10,000 less than Baby Boomers received at the same age, according to Torche and Johnson's analysis of U.S. Census data from 1975 to 2018.
"It's not that going to college amounts to striking gold for most people," Grusky said. "The big news is that if you don't go to college you're likely to do worse than ever. What makes college attractive is mainly that it offers some protection from that fate."
Millennial health
Mortality rates among young adults have also increased substantially, according to the report's analyses of health, written by Stanford economist Mark Duggan and economics undergraduate Jackie Li.
Between 2008 and 2016, mortality rates among those between 25 and 34 years old increased by more than 20 percent. These deaths were mainly driven by a rise in suicides and drug overdoses, Duggan and Li found. The mortality rate among non-Hispanic whites, aged 20 through 34, saw the highest jump - 27 percent - in comparison to a 9 percent increase for blacks and a 6 percent increase for the Hispanic population, according to their analyses of data from the Centers for Disease Control and Prevention.
These findings are in juxtaposition with the fact that more millennials were covered by health insurance. Duggan and Li found that because of the Affordable Care Act, the share of adults in their 20s without health insurance fell by more than half from 2009 to 2017.
Duggan and Li also showed that the racial gap in health insurance coverage has grown smaller through the expansion of health insurance under the ACA.
Millennial identities
The report shows that millennials were more likely to identify as multiracial and to adopt unconventional gender identities.
But millennials embrace racial and gender stereotypes in a similar way to previous generations. According to the report, one-fifth of millennials still adopt traditional views of gender roles, nearly the same as the rates among Gen Xers and Baby Boomers, according to analysis of data from the General Social Survey between 1994 and 2016 and previous research from Stanford scholars.
Millennials are also equally likely as Gen Xers to believe that blacks are lazier than whites, according to analyses by sociologist Aliya Saperstein and sociology doctoral student Sasha Shen Johfre.
"When it comes to their identities, millennials are a truly innovative generation that is forging new options," Grusky said. "But when it comes to their attitudes about race and gender, they're just not as special."
Compassion for young adults
Among other findings, the report shows that the racial gap in homeownership among young adults was larger for millennials than for any generation in the past century.
In 2010, young white adults between 20 and 29 years old were 2.7 times more likely to own a home than their black counterparts, according to an analysis of U.S. Census data from 1940 to 2017. Even if you reach back to the Silent Generation, which includes those born between 1928 and 1945, the racial gap in homeownership among those young adults was smaller than it is now.
According to Grusky, these and other results make it clear that millennials are facing big challenges, many of which stem from the "endemic racial, gender and economic problems" of our time. He hopes that the report can inform future policies.
"If you understand the economic and social context within which millennials are growing up," Grusky says, "it's natural to feel real empathy and hard, by contrast, to understand the anger that's often directed toward them."
florida80
06-11-2019, 17:46
10-Jun-2019
Study finds FDA dermatology advisors receive payments following drug approvals
Fifty-four percent received at least one payment from pharmaceutical companies
University of Colorado Anschutz Medical Campus
Share
Print E-Mail
A team of researchers led by a member of the University of Colorado School of Medicine faculty at the Anschutz Medical Campus examined post-advisory financial relationships between U.S. physicians who advised FDA committees during dermatological drug approval processes. Critics of these industry-physician relationships claim these types of payments could incentivize advisors to alter their voting habits.
The findings are published in a research letter in the Journal of the American Academy of Dermatology.
"It's known from previous studies that financial payments to FDA advisors can take place after a drug is approved but this is the first time we've researched and seen that this trend spans to the dermatology field," said Robert Dellavalle, MD, PhD, professor of dermatology and public health at the University of Colorado School of Medicine.
Dellavalle adds, "It's hard to control post-advisory financial relationships since it's not on the record going into the committee and top doctors can be paid as ongoing academic advisors for a variety of reasons. Regardless, financial conflicts of interest in medical research are important to discuss and monitor."
Physician advisors serve as external experts in determining whether a new medical therapy is fit for the U.S. market. Of the advisors analyzed, 54 percent received at least one payment from pharmaceutical companies. Twenty-seven percent accepted more than $1,000, 15 percent accepted more than $50,000 and nine percent took more than a $100,000. The advisors received a mean of more than $47,000. For the majority of the drugs examined, payments from competitors outnumbered payments from manufacturers.
The study analyzed Open Payment data, a national transparency program that collects and publishes information about financial relationships between the health care industry (i.e., drug and device companies) and providers (i.e., physicians and teaching hospitals). The study focused on payments made by U.S. physicians who advised FDA committees during the approval of ten dermatologic therapies.
florida80
06-11-2019, 17:48
Veteran-directed care program is effective
Study suggests popular program that gives veterans flexible budgets for at-home caregivers should be expanded nationwide
Boston University School of Medicine
Share
Print E-Mail
A new study led by Boston University School of Public Health (BUSPH) and Veterans Affairs Boston Healthcare System researchers finds that a program that gives veterans flexible budgets for at-home caregivers is at least as effective as other veteran purchased-care services. Published in the June issue of Health Affairs, the study shows that, although the average enrollee in the Veterans Health Administration (VHA)'s Veteran-Directed Care (VDC) program has more complex health burdens than veterans in other purchased-care programs, enrollees in both groups had similar hospitalization and cost trajectories.
VDC provides monthly budgets and counseling to veterans who need significant assistance with daily living, allowing them to hire personal care workers or family and friends as paid caregivers to help them continue living at home. The VDC program launched in 2009, and has proven very popular with veterans and their family caregivers, but is not yet operational nationwide.
"Given the popularity of this program, and our findings that enrollees have similar outcomes as enrollees in other programs, further expansion of Veteran-Directed Care may be justified," says Dr. Melissa Garrido, associate director of the Partnered Evidence-Based Policy Resource Center (PEPReC) at the VA Boston Healthcare System and research associate professor of health law, policy & management at BUSPH.
The researchers used VHA data from fiscal year 2017 to identify 965 VDC enrollees, 21,117 veterans receiving other purchased-care services at VHA medical centers that offered VDC, and 15,325 veterans receiving other purchased-care services at VHA medical centers that did not yet offer VDC but were interested in implementing the program. The researchers then looked at VHA hospitalizations and related costs for all of these veterans in 2016 and in 2018. When the researchers controlled for demographics, levels of care needed, duration of care, the biases of the data, and other factors, they found similar changes in hospitalization rates and costs from before and after enrollment in VDC or another program.
###
florida80
06-11-2019, 17:49
11-Jun-2019
Researchers reveal key role of pressure-sensing protein in lung edema
University of Illinois at Chicago
Share
Print E-Mail
Researchers at the University of Illinois at Chicago describe for the first time the role of a unique, pressure-sensing protein in the development of lung edema -- a condition in which chronic high vascular pressure in the lungs causes fluid from the bloodstream to enter the air spaces of the lungs.
The results, which are published in the Proceedings of the National Academy of Sciences, suggest that suppressing the activity of the protein could be a new approach to treating lung edema.
Lung edema can have a variety of causes, including heart failure. Certain types of heart failure -- where the heart is chronically unable to pump blood efficiently -- can cause increased pressure in the blood vessels in the lungs. The high pressure can result in capillary stress failure, where connections between the individual cells that make up the walls of the capillary blood vessels become looser, allowing fluid from the bloodstream to enter the air spaces in the lungs.
Yulia Komarova, UIC associate professor of pharmacology, and Asrar Malik, Schweppe Family Distinguished Professor and head of pharmacology in the UIC College of Medicine, have been studying adherens junctions -- the structures that bind together the cells that make up blood vessels. Adherens junctions act like adjustable nuts and bolts that can be tightened or loosened to modulate the flow of fluids and blood cells into and out of the bloodstream, such as immune cells that travel in the blood to get to areas where they are needed.
Komarova and colleagues wanted to see if a protein called piezo 1 -- which is found in many cell types, including in the endothelial cells that line the blood vessels, and that can sense mechanical pressure -- was involved in triggering adherens junctions to loosen up under conditions of high fluid pressure in the lungs.
The researchers engineered mice where piezo 1 was deleted in the adult animal in the endothelial cells. They then elevated the pressure in blood vessels in the lungs in order to mimic the effects of heart failure. In mice where piezo 1 was deleted in the endothelial cells, minimal fluid was seen entering the lungs, while in mice that had the piezo 1 protein, the lungs filled with fluid as blood pressure increased.
In a separate experiment, Komarova and colleagues used a mouse model where the adherens junctions were artificially reinforced in endothelial cells to keep the connections between individual cells lining the blood vessel cells tight. In these mice, no fluid was seen to enter the lungs when high pressures were induced in the animals even when they had the piezo 1 protein.
"Our experiments suggest that by either blocking the activity of piezo 1 or by bolstering the adherens junctions we can prevent fluid from entering the lungs," Komarova said. "Small drug molecules that achieve these goals could represent novel therapeutic approaches to treat lung edema associated with heart failure."
florida80
06-11-2019, 18:03
11-Jun-2019
Early life stress plus overexpressed FKBP5 protein increases anxiety behavior
A new preclinical study adds to mounting evidence about the interplay between genetics and environment in mental health
University of South Florida (USF Innovation)
Share
Print E-Mail
IMAGE
IMAGE: University of South Florida neuroscientists Laura Blair, Ph.D., (left) study senior author, and Marangelie Criado-Marrero, Ph.D., lead author, investigated the effects of early life stress and overexpression of the protein... view more
Credit: USF Health
TAMPA, Fla. (June 10, 2019) - Researchers continue to dig for molecular clues to better understand how gene-environment interactions influence neuropsychiatric disease risk and resilience. An increasing number of studies point to a strong association between the FKBP5 gene and increased susceptibility to depression, anxiety, post-traumatic stress disorder and other mental health disorders.
Adding to the growing evidence, a new preclinical study by University of South Florida neuroscientists finds that anxiety-like behavior increases when early life adversity combines with high levels of FKBP5 - a protein capable of modifying hormonal stress response. Moreover, the researchers demonstrate this genetic-early life stress interaction amplifies anxiety by selectively altering signaling of the enzyme AKT in the dorsal hippocampus, a portion of the brain primarily responsible for cognitive functions like learning and memory.
While more research is required, the study suggests that FKBP5 may be an effective target for treating anxiety and other mood disorders.
The findings were published June 4 in the International Journal of Molecular Sciences.
"We know that the combination of genetic variations and environmental factors can make people either more or less susceptible to mental illness - even when they experience the same types of trauma," said senior author Laura Blair, PhD, assistant professor of molecular medicine at the USF Health Byrd Alzheimer's Center. Postdoctoral scholar Marangelie Criado-Marrero, PhD, was lead author of the study.
"We hypothesized that high FKBP5 and early life stress might yield neuropsychiatric symptoms through altered cellular stress response pathways in the brain."
In a series of experiments, newborn mice overexpressing human FKBP5 in the forebrain were divided into two groups - one group was exposed to an early life stress (maternal separation), and the other was not. Two control groups were comprised of stressed and non-stressed mice without brain overexpression of FKBP5. At two months, when the mice were young adults, an elevated-plus maze with open and closed arms was used to test anxiety-like behavior. Compared to all other groups, the mice with high FKBP5 and early life stress showed more anxiety as measured by their tendency to stay within enclosed areas of the maze rather than naturally explore all arms of the maze.
The anxiety effect was more pronounced in the female mice than in males, an observation that aligns with sex differences noted in humans with anxiety disorders, Dr. Blair said.
The researchers also analyzed molecular changes in brains of the mice. They found that AKT signaling, specifically in the dorsal hippocampus, differed depending upon whether or not the mice with high FKBP5 had experienced maternal separation as newborns. AKT signaling - shown to be altered in Alzheimer's disease and cancer as well as in mental health disorders -- affects brain cell survival and metabolism, and the brain's ability to adapt to new information.
"The AKT signaling pathway was inversely regulated as a result of early life stress. High FKBP5 normally decreases AKT signaling, but when early life stress was added to overexpressed FKBP5 that signaling activity increased," Dr. Blair said. "Overall, our findings highlight the importance of stress and genes (like FKBP5) in modulating vulnerability to mood disorders and learning impairments."
florida80
06-11-2019, 18:04
11-Jun-2019
Researchers develop tool to predict postoperative delirium severity
Opening doors to prevention and better care
Regenstrief Institute
Share
Print E-Mail
Volume 90%
VIDEO: Regenstrief Institute fellow Heidi Lindroth, Ph.D. and colleagues have developed an innovative tool to predict the severity of postoperative delirium and help practitioners more effectively care for patients as they... view more
Credit: Regenstrief Institute
INDIANAPOLIS - A new tool seeks to predict the severity of patients' postoperative delirium and help practitioners more effectively care for patients as they recover from surgery.
Currently providers only have tools for predicting whether or not patients will develop delirium, not its severity. Regenstrief Institute fellow Heidi Lindroth, Ph.D., and Robert D. Sanders, M.D.'s team at the University of Wisconsin-Madison aim to change that. By predicting the intensity of delirium in the aftermath of an elective surgery, Dr. Lindroth hopes to help reduce delirium incidence and impact in postoperative settings. She will participate in a symposium on predicting delirium at the American Delirium Society Annual Meeting, June 17-18.
Delirium, a serious acute change in brain function often manifesting as confusion, restlessness, agitation and difficulty speaking, occurs in as many as 7 million people annually. Complications from delirium can be devastating and long-lasting, including cognitive decline, post-traumatic stress disorder and increased risk of death within a year of discharge.
In her study, Dr. Lindroth and the team used data from a cohort of 100 adults undergoing non-cardiac, non-neurological surgery. Participants were 65 years of age or older, and all had a minimum of two days in the hospital following their procedures.
The team combined two previously unrelated tools, neither of which was originally designed to assess delirium, to create an innovative instrument that can predict delirium severity. To collect data on the patients' quality of life, the team used the National Surgical Quality Improvement Program (NSQIP) tools to assess risks of serious complications (NSQIP-SC) and death (NSQIP-D) before the operation. Alongside the risk prediction tools, the team assessed patients before and after surgery with the Trail Making Tests A and B for differences in cognitive functions.
"In the clinical world, we don't have a way to predict which patients will be at the greatest risk for severe delirium after surgery," said Dr. Lindroth. "What's more, in the research world, current tools only predict delirium as a binary, and most detection tools only look for patients with delirium at a level of impairment near that of dementia. This combination of tools gives a much-needed emphasis on the spectrum of delirium and a blueprint forward for future research into validation of our new tool."
florida80
06-11-2019, 18:05
11-Jun-2019
Motorized scooter head injuries on the rise, Rutgers study finds
Many state helmet laws do not address adults, who are the most injured in electric scooter accidents
Rutgers University
Share
Print E-Mail
Facial and head injuries from riding electric scooters have tripled over the past decade, according to a Rutgers study.
Electric scooter use has been increasing in popularity as a more environmentally friendly and efficient alternative to gas vehicles. However, state helmet laws vary, and the study found that many people are being injured from not wearing appropriate protective equipment.
The study, published in the American Journal of Otolaryngology, analyzed records in the Consumer Product Safety Commission's National Electronic Injury Surveillance system between 2008 and 2017 to determine the types and frequency of head and facial injuries resulting from motorized scooters. The system collates data from about 100 participating hospitals, which is then extrapolated to provide national estimates on injuries related to consumer products.
The researchers found that over the decade studied, emergency departments recorded 990 head or facial injuries sustained from electric scooter use -- or 32,000 estimated injuries nationwide. The incidences tripled annually from an estimated 2,325 nationwide in 2008 to an estimated 6,947 in 2017.
Most of the people injured were men between 19 and 65; 33 percent were children between 6 and 12. "Children use motorized scooters marketed as toys, but in reality, certain models can reach speeds of almost 30 miles per hour," said co-author Amishav Bresler, a resident at Rutgers New Jersey Medical School.
Closed head injuries, such as concussion and bleeding or bruising of the brain, were most frequent, followed by facial cuts or abrasions. The study showed about 5 percent of the injuries were fractures, most frequently in the skull or nose.
In records where helmet use was recorded, 66 percent of those injured were not wearing helmets. The study also found that helmet use increased with age, from about 19 percent in toddlers to about 67 percent in senior riders.
Bresler noted a significant variation in state laws regarding motorized scooters. For example, the District of Columbia classified motorized scooters as "personal mobility devices" that are not subject to inspection or helmet laws while a new law in New Jersey regulates electric scooters in the same way as a traditional bicycles, requiring helmets in only those under 17.
"The United States should standardize electric scooter laws and license requirements should be considered to decrease the risky behaviors associated with motorized scooter use," said Bresler, who noted the success of such legislation in other countries. "In 2000, Italy implemented a law mandating helmet use for all types of recreational scooter drivers -- legislation that reduced head trauma in scooter riders from about 27 out of 10,000 people before the law passed to about 9 out of 10,000 people afterward."
florida80
06-11-2019, 18:06
11-Jun-2019
Electronic consultations can streamline, simplify care in allergy and immunology
Mass. General program reduces time for specialist review from weeks to an average of 24 hours
Massachusetts General Hospital
Share
Print E-Mail
A study from Massachusetts General Hospital (MGH) researchers finds that electronic consultations (e-consults) in allergy and immunology can simplify the process of providing the most appropriate care, often reducing the need for in-person specialist visits. The paper, which has been published online in the Journal of Allergy and Clinical Immunology: In Practice, reports on the first two years of the MGH program and finds a significant reduction in the time needed to access specialist guidance.
"We found that e-consults expedite care for all patients with allergy/immunology conditions," says senior author Kimberly Blumenthal, MD, MSc, MGH Division of Rheumatology, Allergy and Immunology. "Whereas wait times for an in-person patient visit with an allergist often exceed three weeks, e-consults can provide allergist guidance to referring physicians within 72 business hours. For many patients, e-consults avert the need for an in-person visit entirely; and even when an in-person consult is required, the initial e-consult provides valuable information - including additional patient history, previous diagnostic testing and treatment trials - that can make the in-person consult more productive and valuable for the allergist, the referring provider and the patient."
Electronic, clinician-to-clinician consultations based on data in the electronic health record do not require real-time communication and are designed to address non-urgent questions specific to the care of an individual patient. The MGH began offering e-consults in Cardiology and Dermatology in late 2013 and extended the program to Allergy/Immunology in August 2016. As of January 2019, the MGH e-consult program involves 47 specialty areas, and almost 10,000 e-consults were provided during 2018.
The current study, led by first author Neelam Phadke, MD, MGH Division of Rheumatology, Allergy and Immunology, looked at data regarding allergy/immunology e-consults provided from August 2016 through July 2018, as well as in-person consults beginning in August 2014. Of approximately 300 e-consults completed during the study period, around 60 percent led to recommendations for in-person specialty visits, while 27 percent provided only advice and education to the referring practitioner. When the e-consult led to a recommendation for an in-person specialty visit, information from the e-consult made visits more productive by allowing the allergist to be better prepared. Educational information provided via e-consults benefited both referring physicians and the patients, often providing reassurance on the appropriateness of a planned course of action.
Two-thirds of e-consults related to patients with histories of potentially allergic reactions to drugs, primarily antibiotics like penicillin, many in conjunction with a program to evaluate pregnant patients with a history of penicillin allergy. Immunology e-consults could result from patient or provider concerns about frequent infections or abnormal antibody levels. While the average wait time for an in-person allergist visit before institution of the e-consult program was 22.5 days, the wait time reduced to 21.0 days after the program began. Allergists completed e-consults in an average of 11 minutes, and the average turnaround time for the referring provider to receive allergy specialist guidance was less than 24 hours.
Study co-author Jason H. Wasfy, MD, MPhil, MGH Cardiology - who founded the MGH e-consult program in 2013 and now directs population health management at MGH - says, "E-consults have become a critical tool in our efforts to innovate in outpatient care delivery. We believe they can increase patient satisfaction, since we always give patients the choice between e-consults and regular in-person consults, and they reduce the burden for primary care providers. We also believe they can improve the quality of care and reduce costs, since electronic consults can substitute for in-person consults that are billed to insurance companies and to patients themselves."
Lead author Phadke notes that a key limitation to broader use of e-consults is the reliance on electronic medical records systems that may not be shared between specialists and referring physicians, a problem that could disproportionately affect smaller hospitals that already lack access to subspecialists like allergists. But when the required systems are in place, she says, "E-consults can allow primary care physicians to receive guidance from one or more subspecialists, synthesize messages that may have been conveyed from multiple providers, and delivery neatly packaged recommendations to the patient."
florida80
06-11-2019, 18:06
Release 11-Jun-2019
Electronic consultations can streamline, simplify care in allergy and immunology
Mass. General program reduces time for specialist review from weeks to an average of 24 hours
Massachusetts General Hospital
Share
Print E-Mail
A study from Massachusetts General Hospital (MGH) researchers finds that electronic consultations (e-consults) in allergy and immunology can simplify the process of providing the most appropriate care, often reducing the need for in-person specialist visits. The paper, which has been published online in the Journal of Allergy and Clinical Immunology: In Practice, reports on the first two years of the MGH program and finds a significant reduction in the time needed to access specialist guidance.
"We found that e-consults expedite care for all patients with allergy/immunology conditions," says senior author Kimberly Blumenthal, MD, MSc, MGH Division of Rheumatology, Allergy and Immunology. "Whereas wait times for an in-person patient visit with an allergist often exceed three weeks, e-consults can provide allergist guidance to referring physicians within 72 business hours. For many patients, e-consults avert the need for an in-person visit entirely; and even when an in-person consult is required, the initial e-consult provides valuable information - including additional patient history, previous diagnostic testing and treatment trials - that can make the in-person consult more productive and valuable for the allergist, the referring provider and the patient."
Electronic, clinician-to-clinician consultations based on data in the electronic health record do not require real-time communication and are designed to address non-urgent questions specific to the care of an individual patient. The MGH began offering e-consults in Cardiology and Dermatology in late 2013 and extended the program to Allergy/Immunology in August 2016. As of January 2019, the MGH e-consult program involves 47 specialty areas, and almost 10,000 e-consults were provided during 2018.
The current study, led by first author Neelam Phadke, MD, MGH Division of Rheumatology, Allergy and Immunology, looked at data regarding allergy/immunology e-consults provided from August 2016 through July 2018, as well as in-person consults beginning in August 2014. Of approximately 300 e-consults completed during the study period, around 60 percent led to recommendations for in-person specialty visits, while 27 percent provided only advice and education to the referring practitioner. When the e-consult led to a recommendation for an in-person specialty visit, information from the e-consult made visits more productive by allowing the allergist to be better prepared. Educational information provided via e-consults benefited both referring physicians and the patients, often providing reassurance on the appropriateness of a planned course of action.
Two-thirds of e-consults related to patients with histories of potentially allergic reactions to drugs, primarily antibiotics like penicillin, many in conjunction with a program to evaluate pregnant patients with a history of penicillin allergy. Immunology e-consults could result from patient or provider concerns about frequent infections or abnormal antibody levels. While the average wait time for an in-person allergist visit before institution of the e-consult program was 22.5 days, the wait time reduced to 21.0 days after the program began. Allergists completed e-consults in an average of 11 minutes, and the average turnaround time for the referring provider to receive allergy specialist guidance was less than 24 hours.
Study co-author Jason H. Wasfy, MD, MPhil, MGH Cardiology - who founded the MGH e-consult program in 2013 and now directs population health management at MGH - says, "E-consults have become a critical tool in our efforts to innovate in outpatient care delivery. We believe they can increase patient satisfaction, since we always give patients the choice between e-consults and regular in-person consults, and they reduce the burden for primary care providers. We also believe they can improve the quality of care and reduce costs, since electronic consults can substitute for in-person consults that are billed to insurance companies and to patients themselves."
Lead author Phadke notes that a key limitation to broader use of e-consults is the reliance on electronic medical records systems that may not be shared between specialists and referring physicians, a problem that could disproportionately affect smaller hospitals that already lack access to subspecialists like allergists. But when the required systems are in place, she says, "E-consults can allow primary care physicians to receive guidance from one or more subspecialists, synthesize messages that may have been conveyed from multiple providers, and delivery neatly packaged recommendations to the patient."
florida80
06-11-2019, 18:08
11-Jun-2019
Drug to treat malaria could mitigate hereditary hearing loss
Drug activates sensory proteins in aquatic model of human hearing
Case Western Reserve University
Share
Print E-Mail
Volume 90%
VIDEO: Five larvae were placed in the Petri dish. The video starts (00:00) with a close-up view on one larva near the base of the dish. Spontaneous swim behavior is observed... view more
Credit: CWRUSOM & PNAS
The ability to hear depends on proteins to reach the outer membrane of sensory cells in the inner ear. But in certain types of hereditary hearing loss, mutations in the protein prevent it from reaching these membranes. Using a zebrafish model, researchers at Case Western Reserve University School of Medicine have found that an anti-malarial drug called artemisinin may help prevent hearing loss associated with this genetic disorder.
In a recent study, published in the Proceedings of the National Academy of Sciences (PNAS), researchers found the classic anti-malarial drug can help sensory cells of the inner ear recognize and transport an essential protein to specialized membranes using established pathways within the cell.
The sensory cells of the inner ear are marked by hair-like projections on the surface, earning them the nickname "hair cells." Hair cells convert sound and movement-induced vibrations into electrical signals that are conveyed through nerves and translated in the brain as information used for hearing and balance.
The mutant form of the protein-clarin1-render hair cells unable to recognize and transport them to membranes essential for hearing using typical pathways within the cell. Instead, most mutant clarin1 proteins gets trapped inside hair cells, where they are ineffective and detrimental to cell survival. Faulty clarin1 secretion can occur in people with Usher syndrome, a common genetic cause of hearing and vision loss.
The study found artemisinin restores inner ear sensory cell function--and thus hearing and balance--in zebrafish genetically engineered to have human versions of an essential hearing protein.
Senior author on the study, Kumar N. Alagramam, PhD, The Anthony J. Maniglia Chair for Research and Education, and associate professor at Case Western Reserve University School of Medicine Department of Otolaryngology at University Hospitals Cleveland Medical Center, has been studying ways to get mutant clarin1 protein to reach cell membranes to improve hearing in people with Usher syndrome.
"We knew mutant protein largely fails to reach the cell membrane, except patients with this mutation are born hearing," Alagramam said. "This suggested to us that, somehow, at least a fraction of the mutant protein must get to cell membranes in the inner ear."
Alagramam's team searched for any unusual secretion pathways mutant clarin1 could take to get to hair cell membranes. "If we can understand how the human clarin1 mutant protein is transported to the membrane, then we can exploit that mechanism therapeutically," Alagramam said.
For the PNAS study, Alagramam's team created several new zebrafish models. They swapped the genes encoding zebrafish clarin1 with human versions--either normal clarin1, or clarin1 containing mutations found in humans with a type of Usher syndrome, which can lead to profound hearing loss.
"Using these 'humanized' fish models," Alagramam said, "we were able to study the function of normal clarin1 and, more importantly, the functional consequences of its mutant counterpart. To our knowledge, this is the first time a human protein involved in hearing loss has been examined in this manner."
Zebrafish offer several advantages to study hearing. Their larvae are transparent, making it easy to monitor inner ear cell shape and function. Their genes are also nearly identical to humans--particularly when it comes to genes that underlie hearing. Replacing zebrafish clarin1 with human clarin1 made an even more precise model.
The researchers found the unconventional cellular secretion pathway they were looking for by using florescent labels to track human clarin1 moving through zebrafish hair cells. The mutated clarin1 gets to the cell membrane using proteins and trafficking mechanisms within the cell, normally reserved for misfolded proteins "stuck" in certain cellular compartments.
"As far as we know, this is the first time a human mutant protein associated with hearing loss has been shown to be 'escorted' by the unconventional cellular secretion pathway," Alagramam said. "This mechanism may shed light on the process underlying hearing loss associated with other mutant membrane proteins."
The study showed the majority of mutant clarin1 gets trapped inside a network of tubules within the cell analogous to stairs and hallways helping proteins, including clarin1, get from place to place. Alagramam's team surmised that liberating the mutant protein from this tubular network would be therapeutic and tested two drugs that target it: thapsigargin (an anti-cancer drug) and artemisinin (an anti-malarial drug).
The drugs did enable zebrafish larvae to liberate the trapped proteins and have higher clarin1 levels in the membrane; but artemisinin was the more effective of the two. Not only did the drug help mutant clarin1 to reach the membrane, hearing and balance functions were better preserved in zebrafish treated with the anti-malarial drug than untreated fish.
In zebrafish, survival depends on normal swim behavior, which in turn depends on balance and the ability to detect water movement, both of which are tied to hair cell function. Survival rates in zebrafish expressing the mutant clarin1 jumped from 5% to 45% after artemisinin treatment.
"Our report highlights the potential of artemisinin to mitigate both hearing and vision loss caused by clarin1 mutations," Alagramam said. "This could be a re-purposable drug, with a safe profile, to treat Usher syndrome patients."
Alagramam added that the unconventional secretion mechanism and the activation of that mechanism using artemisinin or similar drugs may also be relevant to other genetic disorders that involve mutant membrane proteins aggregating in the cell's tubular network, including sensory and non-sensory disorders.
florida80
06-11-2019, 18:11
11-Jun-2019
The surprising role fibrinogen plays in regulating the body's response to disease
https://i.imgur.com/npQZGLO.jpg
IMAGE: Professor of biochemistry Carlos Fernandez-Patron (left) and Ph.D. candidate Hassan Sarker in the lab. Fernandez-Patron's team has discovered how fibrinogen helps regulate a natural defence mechanism in the body.
UAlberta study reveals how fibrinogen can heal, but also hurt if left unchecked
University of Alberta Faculty of Medicine & Dentistry
Share
Print E-Mail
IMAGE
IMAGE: Professor of biochemistry Carlos Fernandez-Patron (left) and Ph.D. candidate Hassan Sarker in the lab. Fernandez-Patron's team has discovered how fibrinogen helps regulate a natural defence mechanism in the body. The... view more
Credit: Jordan Carson
A finding from University of Alberta researchers is shining new light on the role fibrinogen has in regulating a natural defence mechanism in the body. The discovery is hoped to contribute to improved diagnosis and treatments for patients in a variety of diseases ranging from inflammation, to heart failure, to cancer.
Fibrinogen is a well-known protein that is essential for wound healing and blood clotting in the body. But a study published in Scientific Reports shows it is also a natural inhibitor of an enzyme named MMP2 that is important for normal organ development and repair.
MMP2 is typically found in increased levels in the blood in disease conditions. The researchers believe a vital function of fibrinogen is to allow or disallow the enzyme to carry out its normal functions. However, high levels of fibrinogen may excessively inhibit MMP2, which could result in arthritic and cardiac disorders similar to those seen in patients with MMP2 gene deficiency.
"Whenever there's an infection or there's an injury, fibrinogen can go up by tenfold in the blood. So at that concentration it would excessively inhibit MMP2," said Hassan Sarker, a PhD candidate at the U of A and study lead author.
"Binding of fibrinogen in the circulation to MMP2 enzymes prevents them from docking to target tissues," added Carlos Fernandez-Patron, a professor of biochemistry at the U of A, who directed this research. "It affects their activity and we don't know exactly whether that results in a beneficial or deleterious effect. It's something we need to investigate."
The finding opens a new window into the inner workings of the MMP family of enzymes. The researchers say having a greater understanding of how MMPs are regulated creates opportunities for future treatments. They also suspect that abnormal MMP2 activity could be an undesirable side effect of important common medications such as the cholesterol-lowering drug known as statins and the antibiotic doxycycline, both of which are known to inhibit MMPs.
The researchers emphasize that future therapeutic developments must strike a balance between the levels of MMPs and their inhibitors, such as fibrinogen, so that net MMP activity in the body remains at nearly normal levels. "We don't want to inhibit them more than needed and we don't want to cause their expression to be higher than it should," said Fernandez-Patron. "Knowing how those enzymes are regulated is key to improving diagnosis, prognosis and treatment of patients experiencing abnormal levels of either MMP2 or fibrinogen."
florida80
06-11-2019, 18:12
11-Jun-2019
Lower rates of opioid prescriptions in states that implemented medical cannabis use laws
University of Texas Medical Branch at Galveston
Share
Print E-Mail
GALVESTON, Texas - Using data from privately-insured adults, new findings from The University of Texas Medical Branch at Galveston revealed that there is a lower level of opioids prescribed in states that have allowed the use of medical marijuana.
The findings care currently available in Preventive Medicine.
"We found that the overall prescription opioid use increased by age, which we expected," said senior author Mukaila Raji, UTMB professor and director, Division of Geriatrics Medicine. "But, when we looked at the results within different age groups, opioid prescription rates varied depending on the stringency of state cannabis laws. In particular, states that implemented medical cannabis laws had lower rates of opioid prescription in people aged 18 to 54."
Initially, opioids were seen as a way to ease pain and their use became widespread over time, with little attention paid to possible side effects or the risk of addiction. Over the past 25 years, prescriptions for opioids have nearly tripled and in 2017 there were 29,406 synthetic opioid overdose deaths in the U.S. alone. The desire to reduce the use of opioids has given rise to a search for non-opioid alternatives for pain treatment.
"As more states enact laws legalizing medical use of cannabis, there is growing interest in cannabis as a potential agent to mitigate harmful effects associated with synthetic opioid use," said Raji.
"While this may suggest a public health benefit, it must be carefully examined across different groups of people to prevent unintended downsides of any new cannabis legislation," Raji said. "Earlier studies that analyzed data from Medicaid and Medicare enrollees suggest a relationship between cannabis laws and lower opioid use, but we're the first to explore whether this link is mirrored among commercially insured adults - which encompasses a wide range of ages and other demographics."
The researchers used de-identified data from Clinformatics Data Mart, a database of one of the nation's largest commercial health insurance providers that contains 87 percent of commercial enrollees. They calculated the number of people who had opioid prescriptions for one month and three months within a year and then separated the data into groups by level of legalization of cannabis laws and different
florida80
06-11-2019, 18:13
11-Jun-2019
Research moves closer to brain-machine interface autonomy
Findings could help seamlessly integrate prosthetics
University of Houston
Share
Print E-Mail
IMAGE
IMAGE: University of Houston professor of biomedical engineering Joe Francis is reporting work that represents a significant step forward for prosthetics that perform more naturally. view more
Credit: University of Houston
A University of Houston engineer is reporting in eNeuro that a brain-computer interface, a form of artificial intelligence, can sense when its user is expecting a reward by examining the interactions between single-neuron activities and the information flowing to these neurons, called the local field potential.
Professor of biomedical engineering Joe Francis reports his team's findings allow for the development of an autonomously updating brain-computer interface (BCI) that improves on its own, learning about its subject without having to be programed.
The findings potentially have applications for robotic prosthetics, which would sense what a user wants to do (pick up a glass, for example) and do it. The work represents a significant step forward for prosthetics that perform more naturally.
"This will help prosthetics work the way the user wants them to," said Francis. "The BCI quickly interprets what you're going to do and what you expect as far as whether the outcome will be good or bad." Francis said that information drives scientists' abilities to predict reward outcome to 97%, up from the mid-70s.
To understand the effects of reward on the brain's primary motor cortex activity, Francis used implanted electrodes to investigate brainwaves and spikes in brain activity while tasks were performed to see how interactions are modulated by conditioned reward expectations.
"We assume intention is in there, and we decode that information by an algorithm and have it control either a computer cursor, for example, or a robotic arm," said Francis. Interestingly even when the task called for no movement, just passively observing an activity, the BCI was able to determine intention because the pattern of neural activity resembled that during movement.
"This is important because we are going to have to extract this information and brain activity out of people who cannot actually move, so this is our way of showing we can still get the information even if there is no movement," said Francis. This process utilizes mirror neurons, which fire when action is taken and action is observed.
"This examination of reward motivation in the primary motor cortex could be useful in developing an autonomously updating brain machine interface," said Francis
florida80
06-11-2019, 18:16
11-Jun-2019
Beewolves use a gas to preserve food
European beewolf eggs produce nitric oxide which prevents the larvae's food from getting moldy
Max Planck Institute for Chemical Ecology
Print E-Mail
https://i.imgur.com/ZK6oLAf.jpg
IMAGE: A female beewolf carries a paralyzed honey bee to its nest. view more
Credit: Gudrun Herzner
Food stored in warm and humid conditions gets moldy very quickly und thus becomes inedible or even toxic. To prevent this, we use refrigerators and freezers as well as various other methods of preservation. Animals do not have such technical appliances and therefore need to find other ways to preserve food. The European beewolf Philanthus triangulum, a solitary wasp species whose females hunt honey bees, has evolved a successful method of food preservation. A female takes up to five honey bees into its brood cells where they serve as food for a young beewolf. Female beewolves prefer to build their nests in sunlit and sandy places. The nests are deep and therefore the brood cells are warm and humid. Such conditions are favorable for the development of the beewolf larvae; however, they also foster the growth of mold fungi. As a matter of fact, bees stored under such conditions in the lab were overgrown by mold within one to three days. Surprisingly, the mold risk for bees was much lower in the nests of beewolves, so that most beewolf larvae were able to finish their eight to ten-day development until they spin a cocoon.
Researchers from the University of Regensburg and the Johannes Gutenberg University in Mainz (previously at the Max Planck Institute for Chemical Ecology in Jena) have discovered an amazing mechanism that the beewolves have evolved in order to make sure that their larvae's food does not get moldy. "Shortly after oviposition, the brood cells of beewolves smell strikingly like 'swimming pool'. This smell comes from the egg itself", explains Prof. Dr. Erhard Strohm, the leader and main author of the study. Bioassays showed that beewolf eggs emit a gas that efficiently kills mold fungi. A chemical analysis revealed the surprising result that the gas is nitric oxide (NO). The eggs produce nitric oxide in large quantities and release it to the air where is reacts with atmospheric oxygen to nitrogen dioxide (NO2). The measured NO2 concentrations in the brood cells exceed both the occupational exposure limits of NO and NO2 as well as the EU maximum permissible values in cities.
Both NO and NO2 are very reactive and have a strong oxidizing effect. Therefore it is not surprising that high concentrations of the gases kill mold fungi. But how can beewolf eggs synthesize such amounts of NO? The scientists hypothesize that the fact that NO plays an extremely important role in many biochemical processes in almost all organisms from bacteria to mammals is a crucial precondition for the evolution of this mechanisms. In low doses and due to its high diffusion and reactivity, NO functions as a signal molecule and is, for example, involved in the adjustment of blood pressure and in developmental processes. Higher concentrations are used by many animals as an immune response to kill pathogens. Although beewolf eggs produce enormous amounts of NO, they use the same enzymes, NO synthases, which are also used by other organisms. Also, the responsible NO synthase gene in beewolves does not have any special characteristics. However, the researchers found a modification in the translation of the gene into the protein, which may be responsible for the unusually high synthesis rate of NO in beewolf eggs. "Due to so-called alternative splicing the enzyme in the beewolf eggs lacks a segment which may be responsible for regulation. This may have led to the significant increase in enzyme activity," says Dr. Tobias Engl, the second main author of the publication.
The use of a reactive gases to control mold on food supplies has improved survival of beewolf offspring considerably and represents an evolutionary key invention. This novel defense mechanism against microorganisms is a fascinating example of how existing processes are modified in the course of evolution in such a way that completely new functions are generated. The discovery of NO as a key defense component against mold fungi increases the spectrum of natural antimicrobial strategies and adds a surprising and intriguing facet to our understanding of this biologically important molecule.
The most amazing aspect of the defense strategy of beewolf eggs is the fact that the eggs are obviously able to survive the extremely toxic conditions they produce themselves. Which mechanism the eggs deploy is the subject of current investigations. The results may not only be interesting for basic research, but also for possible applications in human medicine. A harmful overproduction of NO may also be the result of certain diseases or acute infections. The mechanisms that beewolf eggs use to protect themselves from NO may help to find new therapeutic approaches.
###
florida80
06-11-2019, 18:19
11-Jun-2019
Genetics influence how protective childhood vaccines are for individual infants
Cell Press
Share
Print E-Mail
A genome-wide search in thousands of children in the UK and Netherlands has revealed genetic variants associated with differing levels of protective antibodies produced after routine childhood immunizations. The findings, appearing June 11 in the journal Cell Reports, may inform the development of new vaccine strategies and could lead to personalized vaccination schedules to maximize vaccine effectiveness.
"This study is the first to use a genome-wide genotyping approach, assessing several million genetic variants, to investigate the genetic determinants of immune responses to three routine childhood vaccines," says Daniel O'Connor of the University of Oxford, who is co-first author on the paper along with Eileen Png of the Genome Institute of Singapore. "While this study is a good start, it also clearly demonstrates that more work is needed to fully describe the complex genetics involved in vaccine responses, and to achieve this aim we will need to study many more individuals."
Vaccines have revolutionized public health, preventing millions of deaths each year, particularly in childhood. The maintenance of antibody levels in the blood is essential for continued vaccine-induced protection against pathogens. Yet there is considerable variability in the magnitude and persistence of vaccine-induced immunity. Moreover, antibody levels rapidly wane following immunization with certain vaccines in early infancy, so boosters are required to sustain protection.
"Evoking robust and sustained vaccine-induced immunity from early life is a crucial component of global health initiatives to combat the burden of infectious disease," O'Connor says. "The mechanisms underlying the persistence of antibody is of major interest, since effectiveness and acceptability of vaccines would be improved if protection were sustained after infant immunization without the need for repeated boosting through childhood."
Vaccine responses and the persistence of immunity are determined by various factors, including age, sex, ethnicity, microbiota, nutritional status, and infectious diseases. Twin studies have also shown vaccine-induced immunity to be highly heritable, and recent studies have started to unpick the genetic components underlying this complex trait.
To explore genetic factors that determine the persistence of immunity, O'Connor and colleagues carried out a genome-wide association study of 3,602 children in the UK and Netherlands. The researchers focused on three routine childhood vaccines that protect against life-threatening bacterial infections: capsular group C meningococcal (MenC), Haemophilus influenzae type b (Hib), and tetanus toxoid (TT) vaccines. They analyzed approximately 6.7 million genetic variants affecting a single DNA building block, known as single nucleotide polymorphisms (SNPs), associated with vaccine-induced antibody levels in the blood.
The researchers identified two genetic loci associated with the persistence of vaccine-induced immunity following childhood immunization. The persistence of MenC immunity is associated with SNPs in a genomic region containing a family of signal-regulatory proteins, which are involved in immunological signaling. Meanwhile, the persistence of TT-specific immunity is associated with SNPs in the human leukocyte antigen (HLA) locus. HLA molecules present peptides to T cells, which in turn induce B cells to produce antibodies.
These variants likely account for only a small portion of the genetic determinants of persistence of vaccine-induced immunity. Moreover, it is unclear whether the findings apply to other ethnic populations besides Caucasians from the UK and Netherlands. But according to the authors, neonatal screening approaches could soon incorporate genetic risk factors that predict the persistence of immunity, paving the way for personalized vaccine regimens.
"We are now carrying out in-depth investigations into the biology of the genetic variants we described in this study," O'Connor says. "We also planned further research, in larger cohorts of children and other populations that benefit from vaccination, to further our understanding of how our genetic makeup shapes vaccine responses."
florida80
06-11-2019, 18:20
11-Jun-2019
Tube anemone has the largest animal mitochondrial genome ever sequenced
https://i.imgur.com/6kMwJ9Z.jpg
Discovery by Brazilian and US researchers could change the classification of two species, which appear more akin to jellyfish than was thought.
Fundaçăo de Amparo à Pesquisa do Estado de Săo Paulo
Share
Print E-Mail
IMAGE
IMAGE: Discovery by Brazilian and US researchers could change the classification of two species, which appear more akin to jellyfish than was thought. view more
Credit: Sérgio Stampar
The tube anemone Isarachnanthus nocturnus is only 15 cm long but has the largest mitochondrial genome of any animal sequenced to date, with 80,923?base pairs. The human mitochondrial genome (mitogenome), for example, comprises 16,569 base pairs.
Tube anemones (Ceriantharia) are the focus of an article recently published in Scientific Reports describing the findings of a study led by Sérgio Nascimento Stampar (https://bv.fapesp.br/en/pesquisador/171695/sergio-nascimento-stampar/), a professor in Săo Paulo State University's School of Sciences and Letters (FCL-UNESP) at Assis in Brazil.
The study was supported by FAPESP via a regular grant for the project "Evolution and diversity of Ceriantharia (Cnidaria" and via its program Săo Paulo Researchers in International Collaboration (SPRINT) under a cooperation agreement with the University of North Carolina (UNC) at Charlotte in the US.
The mitogenome is simpler than the nuclear genome, which in the case of I. nocturnus has not yet been sequenced, Stampar explained. The human nuclear genome comprises some 3 billion base pairs, for example. Another discovery reported in the article is that I. nocturnus and Pachycerianthus magnus (another species studied by Stampar's group, 77,828 base pairs) have linear genomes like those of medusae (Medusozoa), whereas other species in their class (Anthozoa) and indeed most animals have circular genomes.
I. nocturnus is found in the Atlantic from the coast of Patagonia in Argentina as far north as the East Coast of the US. P. magnuslives in the marine environment around the island of Taiwan in Asia. Both inhabit waters at most 15 m deep.
"I. nocturnus's mitogenome is almost five times the size of the human mitogenome," Stampar said. "We tend to think we're molecularly more complex, but actually our genome has been more 'filtered' during our evolution. Keeping this giant genome is probably more costly in terms of energy expenditure."
The shape of the mitogenomes in these two species of tube anemone and the gene sequences they contain were more surprising than their size.
Because they are closely related species, their gene sequences should be similar, but I. nocturnus has five chromosomes while P. magnus has eight, and each has a different composition in terms of genes. This kind of variation had previously been found only in medusozoans, sponges, and some crustaceans.
"Humans and bony fish species are more similar than these two tube anemones in terms of the structure of their mitochondrial DNA," Stampar said.
Săo Paulo coast and South China Sea
To arrive at these results, the researchers captured specimens in Săo Sebastiăo, which lies on the coast of Săo Paulo State in Brazil, and off Taiwan in the South China Sea. Small pieces of the animals' tentacles were used to sequence their mitogenomes.
The genomes of the two species hitherto available from databases were incomplete owing to the difficulty of sequencing them. After completing the study, the researchers published the genomes by gifting them to GenBan, a database maintained in the US by the National Center for Biotechnology Information (NCBI) at the National Institutes of Health (NIH).
Another obstacle to sequencing was the difficulty of collecting these animals because of their elusive behavior. In response to any potential threat, a tube anemone hides in the long leathery tube that distinguishes it from true sea anemones, making capture impossible.
"You have to dig a hole around it, sometimes as deep as a meter, and stop up the part of the tube buried in sand. All this must be done under water while carrying diving gear. Otherwise, it hides in the buried part of the tube and you simply can't get hold of it," Stampar said.
Thanks to the support of FAPESP's SPRINT program, Stampar and Marymegan Daly, a research colleague at Ohio State University in the US, established a partnership with Adam Reitzel and Jason Macrander at UNC Charlotte. Macrander, then a postdoctoral researcher under Reitzel, is a professor at Florida Southern College.
Reitzel and Macrander specialize in the use of bioinformatics to filter genomics data and assemble millions of small pieces of mitochondrial DNA into a single sequence. They used this technique to arrive at complete mitochondrial genomes for both species.
"In this technique, you sequence bits of the genome and link them in a circle. The problem is that this only works with circular genomes. Because we couldn't find a piece to close the circle, we realized the genome had to be linear, as it is for Medusozoa," Stampar said.
The discovery makes way for a possible reclassification of cnidarian species (hydras, medusae, polyps, corals and sea anemones). The tube anemones studied appear to form a separate group from corals and sea anemones and display some similarities to medusae.
However, more data will be needed before a definitive conclusion can be reached. The necessary data could come from the sequencing of these species' nuclear genomes, which Stampar and his group intend to complete by the end of 2019.
florida80
06-11-2019, 18:21
11-Jun-2019
Curbing your enthusiasm for overeating
UC Riverside-led mouse study focuses on cannabis-like molecules that augment feeding behavior
University of California - Riverside
Share
Print E-Mail
IMAGE
IMAGE: From L to R: Nicholas DiPatrizio, Pedro Perez, and Donovan Argueta. view more
Credit: UCR/Stan Lim.
RIVERSIDE, Calif. -- Signals between our gut and brain control how and when we eat food. But how the molecular mechanisms involved in this signaling are affected when we eat a high-energy diet and how they contribute to obesity are not well understood.
Using a mouse model, a research team led by a biomedical scientist at the University of California, Riverside, has found that overactive endocannabinoid signaling in the gut drives overeating in diet-induced obesity by blocking gut-brain satiation signaling.
Endocannabinoids are cannabis-like molecules made naturally by the body to regulate several processes: immune, behavioral, and neuronal. As with cannabis, endocannabinoids can enhance feeding behavior.
The researchers detected high activity of endocannabinoids at cannabinoid CB1 receptors in the gut of mice that were fed a high-fat and sugar -- or Western -- diet for 60 days. This overactivity, they found, prevented the food-induced secretion of the satiation peptide cholecystokinin, a short chain of amino acids whose function is to inhibit eating. This resulted in the mice overeating. Cannabinoid CB1 receptors and cholecystokinin are present in all mammals, including humans.
Study results appear in the journal Frontiers in Physiology, an open-access journal.
"If drugs could be developed to target these cannabinoid receptors so that the release of satiation peptides is not inhibited during excessive eating, we would be a step closer to addressing the prevalence of obesity that affects millions of people in the country and around the world," said Nicholas V. DiPatrizio, an assistant professor of biomedical sciences in the UCR School of Medicine who led the research team.
DiPatrizio explained that previous research by his group on a rat model showed that oral exposure to dietary fats stimulates production of the body's endocannabinoids in the gut, which is critical for the further intake of high-fat foods. Other researchers, he said, have found that levels of endocannabinoids in humans increased in blood just prior to and after eating a palatable high-energy food, and are elevated in obese humans.
"Research in humans has shown that eating associated with a palatable diet led to an increase in endocannabinoids -- but whether or not endocannabinoids control the release of satiation peptides is yet to be determined," said Donovan A. Argueta, a doctoral student in DiPatrizio's lab and the first author of the research paper.
Previous attempts at targeting the cannabinoid CB1 receptors with drugs such as Rimonabant -- a CB1 receptor blocker -- failed due to psychiatric side effects. However, the DiPatrizio lab's current study suggests it is possible to target only the cannabinoid receptors in the gut for therapeutic benefits in obesity, greatly reducing the negative side effects.
The research team plans to work on getting a deeper understanding of how CB1 receptor activity is linked to cholecystokinin.
"We would also like to get a better understanding of how specific components of the Western diet -- fat and sucrose -- lead to the dysregulation of the endocannabinoid system and gut-brain signaling," DiPatrizio said. "We also plan to study how endocannabinoids control the release of other molecules in the intestine that influence metabolism."
###
florida80
06-12-2019, 18:58
Bệnh Ung Thư Nhủ Hoa hay Ung Thư Vú
Bác Sĩ Nguyễn Hải Châu và Vơ Quách Tường Vi
Mấy thập niên gần đây chúng tôi nhận thấy sát xuất của bệnh ung thư nhủ hoa hay ung thư vú của chị em phụ nữ người Mỹ gốc Việt đă gia tăng nhiều khi so với những năm đầu tiên khi chúng ta mới bắt đầu qua Mỹ.
Hiện nay trên thế giới có 5 loại ung thư mà dễ gây thiệt hại đến tính mạng cho phụ nữ là (theo thứ tự nhiều nhất): ung thư vú, ung thư phổi, ung thư dạ dày , ung thư ruột, và ung thư tử cung .
Ung thư nhủ hoa hay vú là loại ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ và đứng hàng thứ hai, chỉ sau ung thư phổi, gây tử vong hàng đầu trong số các bệnh ung thư phụ nữ ở Hoa Kỳ. Một trong tám phụ nữ sẽ bị ung thư vú.
Ở Mỹ, Trung tâm kiểm soát dịch bệnh (Center of Control Disease hay CDC) ước tính hơn 192.370 phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú mỗi năm, và số lượng các trường hợp mới đă giảm trong thập niên qua. Hơn 40.000 phụ nữ bị tử vong với căn bệnh này hàng năm.
Đàn ông có thể phát triển bệnh ung thư vú, nhưng nó xảy ra ít hơn nhiều so với phụ nữ. Gần 2.000 người được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú mỗi năm. Ung thư vú là loại ung thư đứng hàng đầu của phụ nữ ở trong các nước phát triển và đang phát triển. Tỷ lệ mắc bệnh ung thư vú đang gia tăng tại các nước đang phát triển do tăng tuổi thọ, tăng đô thị hóa và áp dụng lối sống phương Tây. Mặc dù một số giảm nguy cơ có thể đạt được bởi pḥng chống bệnh trước, nhưng các chiến lược này không thể làm giảm đi phần lớn các bệnh ung thư vú phát triển ở các nước thu nhập thấp và thu nhập trung b́nh, nơi ung thư vú được chẩn đoán ở giai đoạn rất muộn. V́ vậy, phát hiện sớm để nâng cao kết quả chống lại ung thư vú và sống sót vẫn là nền tảng kiểm soát ung thư vú. Riêng về người phụ nữ Việt ḿnh đang sống trên nước Mỹ th́ nguy cơ để bị ung thư vú cũng trên đà phát triển. Nghiên cứu của tiến sĩ Hồ (2006) cho thấy là phần lớn ung thư vú của phụ nữ gốc Việt, khi t́m ra, th́ đă ở vào thời kỳ sau cùng, ung thư đă lan tràn nhiều nơi nên kết quả chữa trị cũng không được tốt đẹp cho lắm. Và cũng có một điều hơi bất ngờ với việc nghiên cứu này là các phụ nữ gốc Việt bị ung thư ở tuổi rất trẻ, dưới 50 tuổi. V́ vậy việc sàng lọc và chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ người Việt lại thêm phần quan trọng và nên khuyết khích trong cộng đồng.
Sơ lược về vú
nhủhoa1
Bầu vú gồm có các tuyến tạo sữa (gọi là tiểu thùy), các ống cực nhỏ dẫn sữa tới núm vú (gọi là tiểu quản), và mô mỡ. Đa số trường hợp ung thư vú đều bắt đầu trong các tế bào niêm lót tiểu quản. Đó gọi là ung thư tiểu quản. Những trường hợp khác bắt đầu tại tế bào niêm lót tiểu thùyvà gọi là ung thư tiểu
thùy. Phần c̣n lại bắt đầu từ những mô khác ở vú.
Ung thư vú là Bệnh ǵ?
Trước khi nói về Ung thư vú, điều cần thiết và quan trọng là chúng ta nên hiểu Ung Thư cụ thể là bệnh ǵ và tại sao nó lại nguy hiểm như vậy? Ung thư không phải chỉ là một loại bệnh. Có nhiều dạng ung thư, và ung thư xảy ra khi các tế bào phân chia không kiểm soát được. Những tế bào bất thường này có thể xâm nhập vào các mô lân cận hoặc di chuyển đến các vị trí ở xa bằng cách nhập vào mạch máu hoặc hệ bạch huyết. Tế bào bất thường này cứ tiếp tục tăng lên thêm và lấn át tế bào b́nh thường. Điều này khiến cơ thể khó hoạt động hiệu quả như thường lệ và dẫn đến nhiều hiệu quả nghiêm trọng, một vài điểm trong số đó là: Rối loạn chức năng tế bào, khối u, di căn.
Rối loạn chức năng của tế bào: Để cơ thể con người hoạt động b́nh thường, mỗi cơ quan phải có một số lượng tế bào nhất định. Các tế bào trong hầu hết các cơ quan sống không lâu dài lắm. Và để tiếp tục hoạt động cơ thể cần thay thế các tế bào bị mất này bằng quá tŕnh phân chia các tế bào.
Phân chia tế bào được điều khiển bởi các gen nằm trong nhân tế bào. Chúng có chức năng như một sự hướng dẫn nói với các tế bào loại protein nào cần làm, nó sẽ phân chia như thế nào và nó sẽ sống bao lâu. Mă di truyền này có thể bị hư hại bởi một số yếu tố dẫn đến sự sai sót xảy ra trong sự hướng dẫn đó. Những lỗi này có thể làm thay đổi đáng kể cách tế bào hoạt động. Thay v́ nghỉ ngơi các tế bào có thể tiếp tục phân chia, thay v́ chết các tế bào có thể vẫn sống nhưng lại gây hại hay nguy hiễm cho cơ thể.
Khối u: Nhưng đôi khi quá tŕnh có trật tự này bị trục trặc. Vật liệu di truyền (DNA) của một tế bào có thể bị hư hỏng hoặc thay đổi, gây ra các đột biến có ảnh hưởng đến tăng trưởng và phân chia của tế bào b́nh thường. Khi điều này xảy ra, các tế bào không chết khi chúng cần và các tế bào mới h́nh thành khi cơ thể không cần đến chúng. Các tế bào thêm này có thể tạo thành một khối lớn các mô gọi là khối u.
Di căn: Không phải tất cả các khối u đều là ung thư, các khối u có thể lành tính hoặc ác tính. Khối u lành tính không phải là ung thư. Chúng thường có thể được cắt bỏ, và, trong hầu hết các trường hợp, chúng không quay trở lại. Các tế bào trong khối u lành tính không lan ra các phần khác của cơ thể. Các khối u ác tính là ung thư. Các tế bào trong những khối u này có thể xâm nhập vào các mô lân cận và lan ra các phần khác của cơ thể. Sự lây lan của ung thư từ một phần của cơ thể đến phần khác được gọi là di căn.
Ung thư có thể bắt đầu tại bất cứ chỗ nào trong cơ thể. Nơi bắt đầu có thể là vú, phổi, kết tràng, và kể cả máu. Thí dụ, ung thư bắt đầu ở vú được gọi là ung thư vú, ung thu bắt đầu từ ở dạ dày th́ gọi là ung thu dạ dày. Và khi tế bào ung thư lan rộng tới những bộ phận khác của cơ thể th́ gọi là di căn. Thí dụ: tế bào ung thư trong vú có thể đi vào xương và tăng trưởng tại đó. Ung thư luôn luôn được đặt tên theo chỗ bắt đầu. V́ vậy, khi ung thư vú lan tới xương (hoặc bất cứ nơi nào khác) th́ vẫn gọi là ung thư vú. Sẽ không gọi là ung thư xương, trừ khi bệnh bắt đầu tại xương.
Các dấu hiệu và triệu chứng nên chú ư của ung thư vú:
Dấu hiệu phổ biến nhất của ung thư vú là cục u. Có thể cục u sẽ không gây đau. Cục này có thể ở dạng cứng, di chuyển nhưng đôi khi lại dễ đau và mềm. Nếu có bất cứ cục u vú nào mới hay đáng khả nghi th́ quư vị phải đến gặp bác sĩ để kiểm tra.
Những điều khác cũng có thể là dấu hiệu của ung thư vú:
nhủhoa2
• Sưng, căng phù toàn bộ hoặc một phần vú (ngoại trừ lúc ra huyết hay mang thai)
• Thay đổi ở da vùng vú, chẳng hạn như đau rát, hoặc có chỗ lơm
• Đau bầu vú hoặc núm vú
• Núm vú thụt vào trong
•Núm vú hoặc da vùng vú bị ửng đỏ, đóng vảy, ngứa, hoặc dày hơn.
•Có dịch tiết không phải là sữa (dịch vàng hay đỏ)
Ngoài sự thay đổi ở vú c̣n có những dấu hiệu khác như:
•Sụt cân (5kg/tháng) không rơ lư do.
•Đầy hơi. Đau bụng, đau vùng chậu, cảm giác mau no.
•Biến đổi tuyến vú. Nếu nh́n thấy sự thay đổi của núm vú hoặc nếu nhận thấy đầu vú có tiết dịch (nhưng không đang cho con bú)
•Rong kinh hoặc rối loạn kinh nguyệt.
•Thay đổi của da.
•Nuốt khó.
•Chảy máu ở những vị trí bất thường (trong nước tiểu/phân).
•Đau bụng lâm râm và trầm cảm.
•Khó tiêu.
•Thay đổi ở miệng.
•Đau đớn mơ hồ cũng có thể là triệu chứng sớm của một số bệnh ung thư
•Thay đổi ở các hạch bạch huyết (sưng/có khối u ở cách hạch bạch huyết dước nách/cổ).
•Sốt, thay đổi màu da hoặc màu của phân.
•Mệt mỏi kéo dài.
•Ho kéo dài.
Làm sao có thể ngăn chặn và tranh đấu lại ung thư vú?
•Thay đổi những yếu tố mà ḿnh có thể làm được
•Ăn uống và tập thể dục để có thân h́nh cân đối.
•Tập thể dục ít nhất 30-40 phút mỗi ngày và ít nhất 5 ngày/tuần
•Không uống rượu hơn 1 ly/ngày
•Nếu trên 40 tuổi, cần phải có khám ngực mỗi năm
•Đến gặp bác sĩ và nói chuyện với bác sĩ về nguy hiểm của ung thư vú
•Chia sẽ với bác sĩ về lịch tŕnh ung thứ vú nếu có trong gia đ́nh
•
Những phương thức ngăn ngừa
•Tự kiểm tra vú hàng tháng.
•Có bác sĩ kiểm tra hàng năm nếu ngoài 40 tuổi, hoặc 35 tuổi nếu có tiền sử gia đ́nh.
•Chụp quang tuyến vú mỗi năm từ 40 tuổi trở lên:
– Sẽ phát hiện khối u nhỏ hoặc bác sĩ phát hiện trong lúc kiểm tra vú cho quí vị.
– Vài khối u nhỏ đến nổi chỉ có khám quang tuyến vú mới phát hiện ra chúng.
Phải chăng có các loại ung thư vú khác nhau?
Có nhiều dạng ung thư vú nhưng có hai dạng chính của ung thư vú: lan tràn và trú định. Các khối u vú có thể là một dạng duy nhất của ung thư vú, hay là kết hợp của của các loại, hoặc một hỗn hợp của bệnh ung thư trú định hay là lan tràn.
•DCIS [Ductal Carcinoma In Situ] (Caxinom Tiểu Quản Trú Định)
DCIS là dạng phổ biến nhất của ung thư vú lúc mới bắt đầu. Các khối u h́nh thành trong các tế bào của tuyến sữa, nơi mang sữa đến núm vú, hay c̣n gọi là tiểu quản. Đối với trường hợp DCIS, các tế bào ung thư chỉ phát hiện bên trong cái tiểu quản. Các tế bào này không lan rộng qua thành tiểu quản và xâm nhập mô vú gần đó. Các cơ hội điều trị thành công cao và gần như mọi phụ nữ bị DCIS đều có thể trị lành.
•LCIS [Lobular Carcinoma In Situ] (Caxinom Tiểu Thùy Trú Định)
Thông thường, LCIS không phải là ung thư, xảy ra trong tiểu thùy, đó là những tuyến sản xuất sữa. Trường hợp này bắt đầu tại các tuyến tạo sữa nhưng không tăng trưởng xuyên qua thành vách của tuyến.
Đa số chuyên gia ung thư vú đều cho rằng LCIS không tiếp tục tiến triển thành ung thư vú.
Nhưng quả thật phụ nữ bị LCIS sẽ có nguy cơ ung thư vú cao hơn. Khoảng một trong 10 trường hợp ung thư vú là ung thư tiểu thùy xâm lấn. Nếu quư vị bị LCIS th́ phải rọi khám vú mỗi năm.
•IDC [Invasive Ductal Carcinoma] (Caxinom Tiểu Quản Lan Tràn)
IDC đôi khi c̣n được gọi là ung thư tiểu quản tuyến vú xâm nhập, là loại phổ biến nhất của ung thu vú. Trường hợp này bắt đầu tại nhũ quản của vú và tăng trưởng xuyên qua thành tiểu quản. Kế đó bệnh có thể xâm nhập vào mô mỡ của vú. Khoản 80% của tất cả các bệnh ung thư vú là dạng ung thư xâm lấn (lan tràn) và dạng ung thư này cũng có thể lan rộng tới những bộ phận khác của cơ thể.
Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (American Cancer Society), hơn 180.000 phụ nữ ở Hoa Kỳ phát hiện ḿnh bị ung thư vú lan tràn mỗi năm. Hầu hết trong số họ được chẩn đoán bị ung thư tiểu quản lan tràn.
Mặc dù ung thư tuyến vú lan tràn có thể ảnh hưởng đến phụ nữ ở mọi lứa tuổi, nhưng phổ biến hơn khi phụ nữ lớn tuổi. Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, khoảng hai phần ba số phụ nữ là 55 tuổi hoặc lớn hơn khi họ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú lan tràn. Ung thư tiểu quản lan tràn cũng ảnh hưởng đến nam giới.
•ILC [Invasive Lobular Carcinoma] (Caxinom Tiểu Thùy Lan Tràn)
Trường hợp ung thư vú này bắt đầu ở tuyến sữa (tiểu thùy), là loại phổ biết thứ hai của ung thư vú sau ung thư tiểu quản lan tràn. Theo Hiệp hội Ung thu Hoa Kỳ, hơn 180.000 phụ nữ phát hiện ḿnh bị ung thư vú lan tràn mỗi năm. Khoản 10% của tất cả các bệnh ung thư vú lan tràn là Ung thư tiểu thùy lan tràn. Bệnh có thể lan rộng tới những bộ phận khác của cơ thể.
Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ , khoảng hai phần ba số phụ nữ là 55 hoặc lớn hơn khi họ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú lan tràn. Ung thư tiểu thùy lan tràn có xu hướng cho phụ nữ ở độ 60 tuổi hơn bệnh ung thư tiểu quản lan tràn xảy ra ở giữa 50s.
Một số nghiên cứu đă cho thấy rằng việc sử dụng liệu pháp thay thế hormone trong và sau thời kỳ măn kinh có thể làm tăng nguy cơ của ung thư tiểu thùy lan tràn.
Cái loại Ung thư Vú ít phổ biến:
•IBC [Inflammatory Breast Cancer ] (Ung Thư Vú Dạng Viêm)
•Ung thư vú dạng viêm là dạng ung thư vú hiếm thấy. Theo Viện Ung thư Quốc gia , khoảng 1-5% của tất cả các trường hợp ung thư vú ở Hoa Kỳ là ung thư vú viêm. Thường gặp nhất là trường hợp không có cục u hoặc ung bướu. IBC làm cho da ở vùng vú có màu đỏ và cảm thấy nóng ấm. Có thể da sẽ dày lên và lỗ chỗ - nh́n giông giống như vỏ cam. Bầu vú có thể to hơn, cứng hơn, nhạy đau, hoặc bị ngứa.
V́ không có cục u nên có thể sẽ không thấy IBC trên h́nh rọi khám vú. Sẽ khó có thể phát hiện IBC từ sớm. Bệnh này dễ có nguy cơ lan rộng và gây hậu quả tệ hại hơn so với ung thư tiểu quản hay tiểu thùy lan tràn.
IBC có xu hướng phát triển và lây lan nhanh chóng, với các triệu chứng xấu đi trong vài ngày hoặc thậm chí vài giờ. Điều quan trọng là nhận ra các triệu chứng và t́m kiếm sự điều trị kịp thời. Mặc dù ung thư vú viêm là một bệnh ung thư chuẩn đoán nghiêm trọng, hăy nhớ rằng phương pháp điều trị hiện nay là tốt hơn lúc trước rất nhiều.
Độ tuổi trung b́nh lúc chẩn đoán ung thư vú viêm ở Hoa Kỳ là 57 tuổi đối với phụ nữ da trắng và 52 cho phụ nữ Mỹ gốc Phi. Theo Hiệp hội Ung thư Mỹ, ung thư vú viêm là phổ biến hơn ở phụ nữ Mỹ gốc Phi. Một nghiên cứu năm 2008, cho thấy rằng t́nh trạng lên cân làm cho một người có nhiều khả năng để phát triển IBC. Cũng giống như các h́nh thức khác của bệnh ung thư vú, IBC cũng có thể ảnh hưởng đến nam giới.
· Triple-Negative Breast Cancer (Ung thư vú 3 âm):
Báo cáo bệnh lư của bạn có thể nói rằng các tế bào ung thư vú xét nghiệm âm tính với thụ thể estrogen ( ER- ) , thụ thể progesterone ( PR ) , và HER2 ( HER2- ). Những loại ung thư vú có xu hướng lây lan nhanh hơn và không đáp ứng với điều trị nội tiết tố hoặc các loại thuốc nhắm mục tiêu thụ HER2.
· Ung thư vú tái phát:
Ung thư vú tái phát là ung thư đă trở lại sau khi bị ung thư và không bị phát hiện trong một thời gian. Nó có thể xảy ra trong các mô vú c̣n lại hoặc tại các địa điểm khác như phổi, gan, xương và năo. Mặc dù những khối u ở những vị trí mới, chúng vẫn được gọi là ung thư vú.
Làm sao bác sĩ biết tôi có bị ung thư vú hay không?
Những thử nghiệm có thể sẽ thực hiện
Rọi khám vú là cách tốt nhất để sớm phát hiện ung thư vú. Sẽ khám vú để t́m những thay đổi ở núm vú hoặc da vùng vú. Kiểm tra hạch bạch huyết dưới nách và trên xương đ̣n của quư vị. Hạch bạch huyết sưng phù hay cứng có thể cho biết ung thư vú đă lan rộng.
Nếu các dấu hiệu đều trỏ vào ung thư vú, th́ sẽ thử nghiệm thêm. Sau đây là một vài thử nghiệm quư vị có thể phải trải qua:
•Rọi khám vú: Thường dùng thể thức rọi khám để sớm phát hiện ung thư vú, nhưng cũng có thể sử dụng cách này để hiểu rơ thêm về bệnh trạng vú có thể có.
•Rọi MRI: MRI sử dụng sóng vô tuyến và nam châm cực để hiểu rơ thêm về kích thước ung thư và t́m bất cứ dạng ung thư nào khác tại vú.
•Siêu âm vú: Siêu âm không thay thế thể thức MRI, nhưng có thể giúp bác sĩ biết cục cộm là u nang hoặc u bướu, và có thể gây ung thư hay không.
•Rọi h́nh tiểu quản: Đôi khi thử nghiệm này cũng giúp phát hiện nguyên nhân tạo thành dịch tiết ở núm vú. Muốn thực hiện thử nghiệm, bác sĩ sẽ đặt một ống nhựa rất mỏng vào tiểu quản ở núm vú. Một lượng nhỏ "chất màu" được cho vào tiểu quản. Chất này tạo đường nét h́nh dạng tiểu quản dưới quang tuyến X và cho thấy có ung bướu bên trong tiểu quản hay không.
•Khám dịch tiết từ núm vú: Nếu có chất lỏng rỉ ra từ núm vú của quư vị th́ sẽ gởi chút ít chất này tới pḥng thí nghiệm (lab). Sẽ quan sát chất dịch dưới kính hiển vi để xem có bất cứ tế bào ung thư nào không.
•Sinh thiết vú Khi sinh thiết, bác sĩ trích lấy một mẩu mô nhỏ để quan sát dưới kính hiển vi. Sẽ thực hiện sinh thiết khi thử nghiệm cho thấy có lẽ quư vị đă bị ung thư. Sinh thiết là cách duy nhất để biết chắc chắn quư vị có bị ung thư hay không.
Có nhiều dạng sinh thiết. Nên hỏi bác sĩ xem quư vị cần làm loại nào. Mỗi dạng đều có những ưu điểm và nhược điểm. Lựa chọn dạng sử dụng c̣n tùy vào trường hợp riêng của quư vị.
Đôi khi cần phải giải phẫu để cắt bỏ toàn bộ hoặc một phần cục u. Điều này thường được thực hiện tại bệnh viện, và có gây tê tại chỗ. Nghĩa là quư vị vẫn c̣n tỉnh nhưng vú sẽ bị tê. Có thể cũng sẽ cho dược phẩm để làm quư vị thấy buồn ngủ.
Tại sao là phân cấp giai đoạn ung thư vú lại quan trọng?
Xác định các giai đoạn sẽ giúp xác định cách tốt nhất để ngăn chặn và loại bỏ các bệnh ung thư vú.
Làm thế nào là giai đoạn xác định?
Phân cấp ung thư vú được dựa trên các yếu tố sau:
· Kích thước của khối u trong vú
· Số lượng hạch bạch huyết bị ảnh hưởng
· Các hạch bạch huyết gần được t́m thấy dưới cánh tay , được gọi là vùng nách
· Dấu hiệu chỉ hay không ung thư ung thư vú đă xâm lấn các cơ quan khác trong cơ thể
Nếu ung thư vú đă di căn, hoặc di căn, bằng chứng được thể t́m thấy trong xương, gan, phổi, hoặc năo .
Giai đoạn 0 & 1
Giai đoạn thấp nhất đại diện cho việc phát hiện sớm nhất của sự phát triển ung thư vú . Ở giai đoạn 0 và 1, các tế bào ung thư được giới hạn trong một khu vực rất hạn chế, ung thư c̣n nhỏ và chưa lan rộng.
Giai đoạn 2 ( II ) và Giai đoạn 2A ( IIA )
Giai đoạn 2 ung thư vú vẫn c̣n trong giai đoạn đầu, nhưng có bằng chứng cho rằng ung thư đă bắt đầu phát triển, lây lan. Nó vẫn c̣n được chứa vào vùng ngực và thường điều trị rất hiệu quả.
Giai đoạn 3 ( III ) A, B , và C
Giai đoạn 3 bệnh ung thư vú được coi là ung thư đă lâu hơn và với bằng chứng của ung thư xâm lấn các mô gần xung quanh của vú.
Giai đoạn 4 ( IV )
Giai đoạn 4: ung thư vú cho thấy ung thư đă lan rộng ra khỏi vú đến các khu vực khác của cơ thể.
Tôi cần phải theo loại trị liệu nào?
Có nhiều cách điều trị ung thư vú, nhưng nói chung có 2 dạng chữa trị chánh. Đó là trị liệu tại chỗ và trị liệu cho toàn bộ cơ thể.
Phẫu thuật và chiếu xạ chỉ dùng để trị ung bướu. Những phương pháp này không ảnh hưởng đến phần c̣n lại của cơ thể. Điều này gọi là trị liệu tại chỗ.
Những cách điều trị như hóa học trị liệu và liệu pháp nội tiết tố sẽ phát huy khắp toàn bộ cơ thể. Phương pháp này có thể truy lùng tế bào ung thư ở bất kỳ nơi đâu trong cơ thể. Đó gọi là chữa trị toàn thân.
Cách điều trị ung thư vú phù hợp nhất cho quư vị c̣n tùy vào những điều sau đây:
•Tuổi của quư vị
•Bất cứ bệnh trạng nào khác quư vị đang có
•Giai đoạn và cấp độ ung thư của quư vị
•Cơ may dạng chữa trị này đủ sức trị lành bệnh ung thư của quư vị, hoặc có hữu ích ǵ khác
•Mức độ quư vị chịu đựng những phản ứng phụ xuất hiện khi chữa trị
Phẫu thuật trị ung thư vú
Đa số phụ nữ bị ung thư vú đều trải qua một số dạng phẫu thuật. Có một vài dạng giải phẫu là cắt bỏ u vú, cắt bỏ vú, và cắt bỏ hạch bạch huyết ở nách.
Lựa chọn giữa cắt bỏ u vú và cắt bỏ vú
Cắt bỏ u vú c̣n gọi là phẫu thuật bảo toàn vú. Ưu điểm của cắt bỏ u vú là có thể giữ lại hầu hết bầu vú. Nhược điểm của điều này: ắt hẳn bệnh nhân sẽ phải trải qua xạ trị sau phẫu thuật. Nhưng một vài phụ nữ đă qua thủ thuật cắt bỏ vú cũng cần được chiếu xạ vào vùng vú.
Xạ trị
Chiếu xạ nghĩa là dùng chùm tia có năng lượng cao để tiêu diệt tế bào ung thư. Có thể sử dụng trị liệu này để tiêu diệt bất cứ tế bào ung thư nào c̣n sót trong vú, tại thành ngực, hoặc ở vùng nách sau khi giải phẫu.
Có 2 cách để thực hiện liệu pháp chiếu xạ. Có thể chiếu xạ vào vú từ máy móc đặt bên ngoài cơ thể. Quư vị có lẽ đă nghe nói về điều này dưới tên gọi chiếu xạ bằng chùm tia ngoài. Và cũng có thể đặt thẳng các hạt phóng xạ vào mô vú ở kế cạnh vùng ung thư thay v́ nhắm chùm tia chiếu xạ từ bên ngoài cơ thể vào mục tiêu. Điều này gọi là liệu pháp cận phóng xạ.
Hóa học trị liệu (hay hóa liệu pháp)
Hóa học trị liệu nghĩa là sử dụng thuốc để chống lại ung thư. Có thể cho dược phẩm qua gân máu hoặc uống dưới dạng viên. Các loại thuốc này đi vào máu và lan truyền khắp cơ thể. Hóa học trị liệu được thực hiện theo chu kỳ hay chu tŕnh. Tiếp theo sau mỗi chu tŕnh điều trị là một quăng tạm nghỉ vài tuần lễ. Sẽ dùng ít nhất 2 dược phẩm chữa trị trong hầu hết thời gian. Quá tŕnh điều trị thường kéo dài nhiều tháng.
Bệnh nhân vẫn thường lo lắng về các phản ứng phụ của hóa học trị liệu. Phương pháp này có thể làm cho quư vị cảm thấy mệt mỏi, thấy khó chịu ở bao tử, và bị rụng tóc. Nhưng những vấn đề rắc rối này sẽ trở lại b́nh thường sau khi kết thúc chữa trị. V́ vậy, nếu tóc của quư vị đă rụng th́ cũng sẽ mọc lại.
Liệu pháp nội tiết tố
Estrogen là nội tiết tố nữ được cơ thể tạo ra cho tới khi quư vị đạt đến giai đoạn thay đổi trong cuộc đời, và sau thời điểm đó th́ chỉ tạo ra một lượng ít hơn rất nhiều. Estrogen làm cho một vài dạng ung thư vú tăng trưởng mạnh hơn. V́ lư do đó, ngăn chận ảnh hưởng của estrogen hoặc hạ thấp mức estrogen cũng là cách điều trị một số dạng ung thư vú.
Tamoxifen là loại thuốc ngăn chận estrogen thường dùng nhất. Dược phẩm này được uống hàng ngày dưới dạng viên. Trong đa số trường hợp, bệnh nhân sẽ dùng tamoxifen trong 5 năm sau khi trải qua phẫu thuật. Thuốc này hạ thấp xác suất tái phát ung thư ở một vài phụ nữ. Cũng có thể sử dụng tamoxifen để điều trị t́nh trạng ung thư vú đang lan rộng, và để giảm thiểu tỷ lệ ung thư vú ở phụ nữ rất dễ có nguy cơ bị bệnh này. C̣n có nhiều dược phẩm và cách thức khác với mục đích hạ thấp estrogen để chống lại ung thư vú. Nên yêu cầu bác sĩ tŕnh bày rơ về bất cứ loại thuốc nào đă trao cho quư vị.
Làm cách nào để t́m hiểu thêm?
Bài viết này đă lấy tài liệu trong những trang web sau đây. Xin mời quí vị vào những trang web này để nghiên cứu thêm.
www.cancer.org
http://www.breastcancer.org/symptoms/types/idc
http://www.nationalbreastca ncer.org/breast-cancer-stages?gclid=CJj_kvn U0sICFQuQaQod6IQAeg
http://www.mdanderson.org/patient-and-cancer-information/cancer-information/cancer-types/breast-cancer/index.html
http://www.sciencedirect.co m/science/article/pii/S1319562X12001064
http://www.who.int/cancer/detection/breastcancer/en/index3.html
http://www.parkwaycancercen tre.com/vn/tim-hieu-ve-ung-thu/ve-ung-thu/cac-dau-hieu-cua-ung-thu/
Pḥng bệnh hơn chửa bệnh. T́m kiếm ra bệnh sớm th́ sự chửa trị sẽ có kết quả tốt đẹp hơn nhiều. Chúng tôi xin mạo muội chia sẽ với quí vị những điều t́m thấy ở trên đây. Hầu mong quí vị phụ nữ chúng ta để ư đến sức khỏe của ḿnh một chút.
Chúc quí vị sức khỏe!!
Hải Châu và Tường Vi
florida80
06-12-2019, 18:59
ĐI NGHE BUỔI THUYẾT TR̀NH VỀ ĂN CHAY
bacsi
Bác sĩ Jérôme Bernard-Pellet
Jérôme Bernard-Pellet là một bác sĩ người Pháp được một hội tâm linh Ấn Độ mời thuyết tŕnh về chủ đề ăn chay tại Hội trường số 104 đường Vaugirard - Paris, ngày 2 tháng 10 năm 2009. Là một bác sĩ và đồng thời cũng là một khoa học gia nghiên cứu về ăn chay, ông được nhiều người biết đến v́ sự nhiệt tâm của ông trong các buổi thuyết tŕnh được tổ chức khắp nơi. Ông sẵn sàng đi thuyết giảng bất cứ nơi đâu nếu có một tổ chức nào mời.
Bài viết này không có chủ đích lập lại toàn thể nội dung của buổi nói chuyện v́ thật ra những lợi điểm của việc ăn chay đă từng được nhiều sách báo nói đến. Mục đích của người viết khi đi nghe là cố gắng ức đoán xem động cơ nào đă thúc đẩy Bác sĩ J. Bernard-Pellet khuyến khích việc ăn chay, đồng thời để t́m hiểu xem cử tọa đến nghe thuộc tầng lớp nào trong xă hội và họ mong đợi những ǵ ở buổi thuyết tŕnh?
Trước hết người viết xin tóm lược một vài nét chính trong nội dung của bài thuyết tŕnh và sau đó sẽ tường thuật sơ lược diễn tiến của buổi nói chuyện để làm đề tài suy tư.
1- Sơ lược nội dung buổi thuyết tŕnh
* Định nghĩa về ăn chay
Bác sĩ J. Bernard-Pellet bắt đầu buổi nói chuyện bằng cách định nghĩa thế nào là ăn chay. Theo ông th́ ẩm thực của con người gồm có ba loại :
- Ăn tạp (omnivore, omnivorous) : ăn thức ăn có nguồn gốc thực vật và động vật
- Ăn chay (végétarien, végétarisme, vegetarian, vegetarianism) không ăn « thịt » của bất cứ một động vật nào (bất kể là heo, ḅ, gà, cá, ṣ ốc, rắn rết, côn trùng...)
- Ăn toàn chay (végétalien, végétalisme, vegan, veganism) : ăn toàn thực vật, chẳng những không ăn « thịt » của bất cứ động vật nào mà c̣n tránh hết các thực phẩm có nguồn gốc động vật như sữa, trứng, chất keo gelatin (trong bánh, kẹo...).
* Động cơ thúc đẩy việc ăn chay
Bác sĩ J. Bernard-Pellet liệt kê các động cơ thúc đẩy việc ăn chay như sau :
- Ăn chay v́ sự sống của sinh vật : Mỗi năm có khoảng 55 tỉ sinh vật sống trên trái đất bị giết hại để ăn thịt. Cá trong ao hồ, sông ng̣i và đại dương bị giết khoảng 1000 tỉ con vừa lớn vừa nhỏ mỗi năm. [Có lẽ cũng cần nhắc thêm là dân số địa cầu gồm khoảng 6 tỉ người].
- Ăn chay v́ môi sinh : Chăn nuôi là một trong những nguyên nhân hàng đầu làm ô nhiễm địa cầu. Một phần tư tổng số khí CO² thải ra trong bầu khí quyển là do gia súc chăn nuôi. Các chất phóng uế của súc vật trên đất và trong nước làm cho địa cầu trở nên ô nhiễm. Chẳng hạn như chất nitrat từ phân của súc vật và cá thải ra từ các nơi chăn nuôi kỹ nghệ đang làm cho các quốc gia Tây phương điên đầu v́ không t́m được giải pháp nào hữu hiệu và quy mô để trừ khử.
- Ăn chay để chống lại nạn đói : Ăn thịt là một sự phí phạm lớn lao v́ phải cần đến 10 gam chất đạm thực vật mới tạo được 1 gam chất đạm trong thịt cá.
- Ăn chay v́ kinh tế và Ăn chay trong mục đích tu tập tinh thần :Bác sĩ J. Bernard-Pellet nêu lên hai lư do này nhưng không giải thích. Ông cho biết là vấn đề kinh tế không thuộc lănh vực hiểu biết của ông, c̣n vấn đề tâm linh th́ mang tính cách cá nhân.
* Lợi ích của việc ăn chay
Có lẽ cũng không cần phải dài ḍng về mục này v́ phần đông ai cũng biết và hơn nữa đă có nhiều sách vở quảng bá những lợi ích thiết thực của việc ăn chay. Sau đây là một vài lợi ích của ăn chay liên quan đến sức khoẻ do Bác sĩ J. Bernard-Pellet nêu lên :
- Ăn chay làm giảm tỷ lệ tử vong (mortalité) và tỷ lệ mắc bệnh (morbilité) một cách rơ rệt. Tỷ lệ tử vong và mắc bệnh giám xuống từ 10% đến 15% đối với người ăn chay.
- Cải thiện sự thoải mái và mang lại cảm giác khoan khoái cho người ăn chay.
- Làm chậm lại hiện tượng lăo hóa của các tế bào cơ thể.
- Làm giảm xuống từ 20% đến 50% các chứng bệnh sau đây : ph́ nộm, các bệnh tim-mạch (chứng nhói tim, nhồi máu cơ tim), huyết áp cao, tiểu đường, ung thư, các bệnh về thận, sa sút trí nhớ và giảm trí thông minh (démence), sạn thận, viêm khớp v́ phong thấp, bệnh trĩ, ruột thừa...(maladies diverticulaires), bệnh thoát vị của một số cơ quan (hernie)...
* Nên ăn chay như thế nào ?
Bác sĩ J. Bernard-Pellet khẳng định là cách ăn chay tốt nhất và lư tưởng nhất là cách ăn toàn chay. Ông nêu lên nhiều kết quả không chối căi được do các khảo cứu khoa học mang lại liên quan đến sức khoẻ và sự ngăn ngừa và chữa trị đối với nhiều loại bệnh tật. Một số các kết quả ấy có thể liệt kê ra như sau :
- Tăng cường sự miễn dịch (immunité) của cơ thể và nhất là làm gia tăng sự hoạt động hữu hiệu của tuyến tụy hay tụy trạng (c̣n gọi là lá lách). Các khoa học gia theo dơi một số mẫungười bị bệnh tiểu đường loại 2, tức loại tiểu đường thông thường nhất nơi những người lớn tuôi, số người này chỉ cần ăn toàn chay trong một thời gian ngắn th́ t́nh trạng bệnh lư sẽ được cải thiện một cách nhanh chóng, mặc dù phần lớn bệnh tiểu đường mang tính cách di truyền.
- Các khoa học gia c̣n quan sát, phân loại và so sánh ảnh hưởng của việc ăn chay tùy theo các nhóm người được đem ra thử nghiệm : nhóm không ăn chay, nhóm ăn chay, nhóm ăn toàn chay..., các nhóm người này c̣n được phân chia theo tuổi tác, nghề nghiệp, địa lư, chủng tộc, môi trường (sống ở thành thị hay thôn quê)... Thí dụ như ở Mỹ, trẻ con mới tám tuổi đă bị bệnh tiểu đường loại 2 v́ ăn quá nhiều bánh ḿ và thịt ḅ xay (hamburger), bánh ngọt (trứng, đường, bơ) và uống quá nhiều coca-cola (đường). Các kết quả nghiên cứu đều cho thấy các mẫu người thuộc nhóm ăn toàn chay có sức khoẻ tốt hơn hết, trong số những người này nếu có ai mang sẵn các chứng bệnh như tiểu đường, áp huyết cao... th́ bệnh t́nh của họ cũng thuyên giảm một cách rơ rệt.
* Các thức ăn chay có thiếu chất đạm (protein) và chất sắt hay không?
Theo bác sĩ J. Bernard-Pellet th́ người ăn chay ăn nhiều chất đạm (protein) hơn sự cần thiết của cơ thể rất nhiều. Ngay cả súc vật chăn nuôi nói chung cũng hấp thụ chất đạm ba lần nhiều hơn nhu cầu cần thiết. Chất đạm là các phân tử amino axit kết hợp lại và tạo ra cấu trúc của các tế bào. Thông thường có khoảng 20 loại protein khác nhau trong thực phẩm, nhưng thật sự cơ thể chỉ cần đến 8 loại protein chính. Một phụ nữ cân nặng 50 kg chỉ cần hấp thu mỗi ngày 40 gam protein là đủ. Các loại protein có thể t́m thấy trong rau đậu và ngũ cốc.
Bác sĩ J. Bernard-Pellet không tiếc lời tán dương phẩm tính của đậu nành. Theo ông th́ đậu nành là một thứ thực phẩm rất giàu các loại protein và có khả năng chống lại các độc tố histamin. Đậu nành hàm chứa tất cả tám thứ protéin cần thiết và được xếp vào loại thực phẩm lư tưởng nhất cho người ăn chay, nhất là ăn toàn chay v́ đậu nành có thể thay thế sữa và các thực phẩm biến chế từ sữa. Đậu nành ngăn ngừa rất hiệu quả nhiều chứng bệnh măn tính chẳng hạn như các bệnh ung bướu, nhất là ung thư vú, ung thư tuyến tiền liệt... Đậu nành c̣n làm chắc xương và tránh được bệnh xốp xương của phụ nữ khi măn kinh...
Ngoài các đặc tính ngừa bệnh trên đây nhờ vào các chất protein (36%), gluxit (30%) và lipit (18%) trong hạt đậu khô, th́ đậu nành c̣n chứa nhiều loại hormon có cấu trúc rất gần với hormon oestrogen, tức là loại hormon gây động dục nơi con người. Các nguyên tố này gọi là isoflavon, chúng tác động giống như hormon oestrogen trong việc ngăn ngừa và chữa trị ung thư vú, tử cung, tiền liệt tuyến và đại tràng.
Đối với chất sắt th́ Bác sĩ J. Bernard-Pellet cho biết là các loại đậu khô và đậu nành, hạnh nhân... đều chứa chất sắt, các loại rau như cải bắp, rau dền, cải hoa (brocoli)... cũng rất giàu chất sắt.
* Một vài điều cần lưu ư cho người ăn chay :
Theo Bác sĩ J. Bernard-Pellet trên thực tế ăn chay không có trở ngại hay khó khăn ǵ cả v́ ăn chay đơn giản hơn lối ăn tạp rất nhiều. Không cần phải là chuyên gia về ăn chay mới biết cách ăn chay. Tuy nhiên trong phần này Bác sĩ J. Bernard-Pellet cũng nêu lên tất cả các loại thuốc cần thiết bổ khuyết thêm cho người ăn chay cũng như người ăn tạp, chẳng hạn như các loại vitamin B12, vitamin D, Omega-3... Ông cũng nêu lên các tên thuốc liên quan đến các loại vitamin ấy và cho biết cả phân lượng cần thiết, cách dùng v.v. Ông c̣n cho biết thêm có hai loại thuốc Omega-3 khác nhau, một thứ được bào chế hoàn toàn từ dầu thực vật, một thứ khác lấy từ dầu cá.
* Các vấn đề khó khăn liên hệ đến việc ăn chay :
Các khó khăn chính trong việc ăn chay :
- Thay đổi thói quen của chính ḿnh khi phải chuyển từ lối ăn tạp sang lối ăn chay
- Giải thích với những người chung quanh tại sao ḿnh lại quyết định ăn chay
- T́m thức ăn chay khi ra khỏi nhà hoặc khi đi xa
Bác sĩ J. Bernard-Pellet c̣n cho biết qua kinh nghiệm của ông th́ số bác sĩ hiểu biết tường tận về ăn chay và ăn toàn chay rất hiếm. Một số lớn các bác sĩ v́ không nắm vững về vấn đề ăn chay nên thường hay khuyên mọi người không nên chọn lối ẩm thực này. Bất cứ vấn đề ǵ không hiểu biết tường tận th́ thường làm cho người ta sợ hăi. Y khoa là một ngành học mênh mông v́ thế không phải bất cứ vị bác sĩ nào cũng đủ sức hiểu biết tất cả. Các công cuộc khảo cứu y khoa quốc tế đều công nhận những lợi điểm về ăn chay, và sau đây là câu tuyên bố chung của các hiệp hội Hoa kỳ, Gia nă đại và Pháp (APSARES) về dinh dưỡng :
“ Các lối ăn chay (kể cả ăn toàn chay) nếu được thực hiện đúng đắn sẽ rất tốt cho sức khoẻ, thích hợp trên phương diện dinh dưỡng và hiệu quả trên phương diện pḥng ngừa và trị liệu một số bệnh tật ” (Les régimes végétariens (y compris le végétalisme) menés de façon appropriée sont bons pour la santé, adéquats sur le plan nutritionnel et bénéfiques pour la prévention et le traitement de certaines maladies)
Bác sĩ J. Bernard-Pellet c̣n cho biết thêm một số các trang trên mạng Internet chỉ dẫn về việc ăn chay, cách nấu ăn các món chay và cách chọn lựa các thực phẩm chay.
* Tóm lược phần kết luận của Bác sĩ J. Bernard-Pellet :
Các dữ kiện và những điều khẳng định do ông nêu lên trong buổi thuyết tŕnh đều được căn cứ vào các tài liệu y khoa quốc tế. Riêng ông th́ ngoài các công cuộc khảo cứu, ông c̣n mổ xẻ hơn 2000 tài liệu khoa học liên quan đến vấn đề ăn chay và một số lớn các tài liệu này được lưu trữ trong Thư viện quốc gia Hoa kỳ về Y khoa, bất cứ ai cũng có thể t́m thấy các tài liệu ấy trên mạng Internet www.pubmed.org. của thư viện khổng lồ này. V́ thế nếu có ai muốn kiểm chứng những điều ông nói hoặc muốn t́m hiểu thêm về ăn chay th́ có thể truy lùng các nguồn tư liệu trên đây.
Tóm lại theo ông th́ quan điểm của hiệp hội dinh dưỡng Hoa kỳ về ăn chay là quan điểm có giá trị toàn cầu mà chúng ta có thể tin tưởng được. Công việc nghiên cứu của hiệp hội này rất khoa học và các kết quả mang lại có thể sử dụng như những tài liệu dẫn chứng đứng đắn và hùng hồn nhất.
2- Một vài cảm nghĩ sau khi tham dự buổi thuyết tŕnh
* Diễn tiến của buổi thuyết tŕnh :
Buổi thuyết tŕnh khởi sự lúc 14 giờ 15 phút, cử tọa khoảng 40 người. Con số cử tọa như thế cũng tương đối khá đông so với chủ đề thuyết tŕnh và nhất là buổi nói chuyện do một hội tâm linh ít người biết đến đứng ra tổ chức. Phần lớn người đến nghe thuộc vào lứa tuổi khoảng từ 40 đến 60 và hầu hết là phụ nữ, chiếm khoảng ¾ cử tọa. Những người đến nghe tỏ ra là những người thuộc tầng lớp trung lưu và có tŕnh độ kiến thức khá cao.
Buổi thuyết tŕnh được diễn ra gần như dưới h́nh thức bàn tṛn v́ người tham dự đặt nhiều câu hỏi và nêu lên những thắc mắc của ḿnh trong khi Bác sĩ Bernard-Pellet đang thuyết tŕnh. Bầu không khí rất cởi mở, Bác sĩ J. Bernard-Pellet tỏ ra rất kiên nhẫn, từ tốn và trả lời tất cả các câu hỏi mặc dù có nhiều câu khá lạc đề.
Bác sĩ J. Bernard-Pellet chấm dứt phần thuyết vào lúc 15 giờ 45 phút và sau đó th́ cử tọa tranh nhau nêu lên đủ mọi thứ câu hỏi. Buổi thuyết tŕnh chấm dứt vào lúc 18 giờ. Bác sĩ J. Bernard-Pellet lúc nào cũng tỏ ra điềm đạm và không nóng nảy, mặc dù buổi thuyết tŕnh kéo dài gần 4 giờ liên tiếp.
* Các chủ đề không được khai triển :
Trong số các lư do thúc đẩy việc ăn chay th́ Bác sĩ J. Bernard-Pellet có nêu lên hai lư do khá quan trọng nhưng ông lại không khai triển, lư do thứ nhất là ăn chay v́ kinh tế và lư do thứ hai là ăn chay v́ tu tập tâm linh. Quả thật đây là hai lư do rất tế nhị.
Tại sao kinh tế lại là một lư do liên hệ đến việc ăn chay ? Chúng ta đều hiểu rằng một phần kinh tế của các nước tân tiến ngày nay dựa vào việc chăn nuôi kỹ nghệ và sản xuất thực phẩm biến chế từ gia súc. H́nh ảnh người nông dân chăn nuôi với tính cách gia đ́nh trong nông trại của ḿnh là một h́nh ảnh lỗi thời đối với các nước tân tiến ngày nay. Người nông dân phải sản xuất thật quy mô theo lối kỹ nghệ mới đủ sống. Sự lệ thuộc vào kỹ thuật bắt buộc họ phải vay mượn ngân hàng để trang bị và cải tiến. Nợ nần là một áp lực bắt họ phải liên tục gia tăng sản xuất đưa đến t́nh trạng dư thừa thực phẩm. Dư thừa làm giá cả hạ thấp, giá cả càng xuống thấp th́ người nông dân và các tổ hợp chăn nuôi lại càng phải gia tăng sản xuất nhiều hơn nữa để trả nợ ngân hàng và giữ mức lời tạm gọi là tương xứng với sự đầu tư của họ.
Cái ṿng luẩn quẩn đó đă nô lệ hóa người nông dân và đồng thời cũng tạo ra một vấn đề nan giải cho các quốc gia tân tiến, v́ chính phủ phải trợ cấp thường xuyên cho họ. Trợ cấp chỉ là một giải pháp vá víu, kết quả là người nông dân vẫn tiếp tục biểu t́nh đ̣i hỏi chính phủ phải giải quyết sự thua lỗ của họ. Họ kéo nhau lái máy kéo, máy cày nghênh ngang giữa đường phố làm tắc nghẽn lưu thông, hoặc ủi sập các ṭa nhà hành chính địa phương, và gần đây họ đă đổ hàng triệu lít sữa ra đường cái, trong ruộng đồng để bày tỏ sự phẫn nộ của họ.
Trong khi đó th́ hàng triệu gia súc bị cắt cổ, thọc huyết, hoặc bị bắn vào đầu bằng những súng sáng chế riêng để giết chúng... Chúng giẫy chết trong yên lặng trước khi được đưa vào các dây chuyền xẻ thịt và biến chế thực phẩm. Những con thú bị giết không có một hy vọng nào có thể trốn thoát và cũng không đủ trí thông minh để bày tỏ sự phẫn nộ của ḿnh như những người chăn nuôi chúng. Đấy là chưa kể những khổ đau mà chúng phải gánh chịu do các kỹ thuật chăn nuôi kỹ nghệ ngày nay.
Có thể trên đây là lư do ăn chay v́ kinh tế mà Bác sĩ J. Bernard-Pellet đă nêu lên mà ông không giải thích (?). Sự yên lặng của ông có lẽ cũng dễ hiểu v́ ăn chay để chống lại một xă hội tiêu thụ và biến cải một nền kinh tế điên rồ chỉ biết dựa vào sự gia tăng sản xuất như một phương tiện sống c̣n th́ quả thật việc ăn chay sẽ là một lư do quá yếu ớt không hội đủ sức mạnh tương xứng.
Mặt khác, ăn chay v́ lư do tu tập tâm linh lại mang tính cách nội tâm và cá nhân nhiều hơn, và cái lư do đó chỉ có thể phát sinh từ một hạt giống trong ḷng mỗi người. V́ thế cũng có thể giải thích phần nào sự yên lặng của Bác sĩ J. Bernard-Pellet, nếu ông mang cái lư do đó để thuyết phục mọi người th́ có thể chỉ làm tṛ cười cho thiên hạ và chưa chắc đă có ai đến dự những buổi thuyết tŕnh của ông. Trong các xă hội Tây phương con người thường bị chi phối bởi sự ích kỷ và những giá trị bên ngoài, mà có rất ít người biết khơi động những xúc cảm từ bi trong ḷng ḿnh. Đấy là chưa kể đến ảnh hưởng giáo dục và truyền thống tín ngưỡng lâu đời của họ. Đối với họ, con người là trung tâm của vũ trụ, và sự hiện hữu của tất cả các sinh vật khác chỉ có mục đích phục vụ cho họ mà thôi.
* Nội dung các câu hỏi :
Trong suốt phần tŕnh bày và trong hơn hai giờ thảo luận, không thấy có một câu hỏi nào liên quan đến những động cơ thúc đẩy việc ăn chay khác hơn động cơ t́m kiếm sức khoẻ riêng cho cá nhân mỗi người. Chẳng hạn như các câu hỏi : tôi bị dị ứng bởi loại rau đậu này hay loại rau đậu khác, phải nấu ăn như thế nào để giữ được chất bổ dưỡng trong rau đậu, loại thuốc nào tốt nhất để có thêm chất vôi, phân lượng phải như thế nào, có thể dùng liên tục hay không, uống dư thừa vitamin có hại hay không...v.v. Chưa kể rất nhiều câu hỏi lạc đề hay bên cạnh vấn đề, chẳng hạn như : có nên chích ngừa cúm heo A H1N1 hay không, đậu nành được xếp vào loại rau đậu (légumineux) hay ngũ cốc (céréale)...
Tóm lại tất cả các câu hỏi của cử tọa đều hướng vào sự duy tŕ và cải thiện sức khoẻ của cá nhân ḿnh. Tuy thế bác sĩ J. Bernard-Pellet vẫn trả lời tất cả các câu hỏi ấy một cách rất vui vẻ, tôi hết sức khâm phục sự kiên nhẫn của ông.
Trong khi đó có những thắc mắc trong ḷng tôi và biết đâu có thể đấy cũng là những những thắc mắc trong ḷng ông nữa, nhưng kể cả ông và tôi không có ai có thể tŕnh bày ra được, v́ lư do là những thắc mắc đó rất sâu xa, vượt lên trên cả cái sức khoẻ và sự an lành của cá nhân mỗi người. Tôi mạn phép được ước đoán những thắc mắc trên đây trong ḷng của bác sĩ J. Bernard-Pellet dựa vào vào những hoạt động hăng say của ông trong công tác quảng bá việc ăn chay.
* Một câu hỏi thích đáng :
Gần sáu giờ chiều bổng có một bà khá lớn tuổi nêu lên câu hỏi như sau : « Ông là một bác sĩ, vậy v́ lư do ǵ mà ông ăn chay ? ». Câu hỏi không được rơ ràng lắm, theo tôi hiểu có lẽ bà ấy muốn nói : « Ngoài lư do sức khoẻ như ông vừa tŕnh bày th́ c̣n có lư do nào khác thúc đẩy ông ăn chay ? ». Dù sao th́ sau khi nghe câu hỏi ấy, những nét vui vẻ hiện lên trên nét mặt của ông. Hai mắt ông sáng hẳn lên và ông đă trả lời một cách thật trịnh trọng như sau :
«- Bà có biết không, gia đ́nh cha mẹ tôi làm nghề chăn nuôi súc vật để giết thịt. Tôi đă thấy quá nhiều máu chảy và sự đau đớn. Tôi không c̣n ăn thịt được nữa ».
Lúc đó tôi mới đưa tay và xin phát biểu như sau :
- Thưa bác sĩ và tất cả quư vị, có ai trong số quư vị biết Lamartine là người ăn chay hay không ? ».
Tất cả mọi người đều ngạc nhiên trước câu hỏi khá bất ngờ của tôi, họ giữ yên lặng và có vẻ chờ đợi. Bổng bác sĩ J. Bernard-Pellet cất lời hỏi tôi :
- Có phải ông muốn nói đến thi sĩ Lamartine hay không ?
- Đúng như thế, đó là văn sĩ và thi hào Lamartine thuộc cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX. Có một lần khi ông c̣n bé, mẹ ông đă dắt ông ra phố và khi hai mẹ con đi ngang một ḷ sát sinh, ông thấy những người đồ tể hai tay đầy máu đang giết những con vật trong nhà, máu me chảy ra lênh láng tận ngoài sân. H́nh ảnh đó đă làm cho ông khiếp sợ vô cùng ».
Bác sĩ J. Bernard-Pellet tỏ vẻ chú tâm đặc biệt vào câu chuyện tôi vừa kể, và ông đă nói với tôi như sau :
- Cám ơn ông thật nhiều, tôi không hề được biết về câu chuyện này.
Hóa ra động cơ thúc đẩy việc ăn chay của bác sĩ J. Bernard-Pellet cũng khá giống với trường hợp của thi hào Lamartine.
* Lời kết :
Thật sự th́ cũng ít có ai biết câu chuyện trên đây. Sở dĩ tôi biết được chuyện ăn chay của thi hào Lamartine là v́ t́nh cờ mua được một quyển sách khá xưa trong một dịp hội chợ bán đồ cũ tổ chức trong vùng tôi cư trú. Tựa quyển sách là « Những bà mẹ của các danh nhân » (Les mères des Grands hommes), tác giả là Maurice Bloch, do nhà xuất bản Ch. Delagrave Paris phát hành năm 1885.
Trong quyển sách ấy có kể chuyện về cậu bé Lamartine và mẹ của cậu. Tôi xin dịch và tóm lược ra đây vài đoạn thuộc các trang 158 và 159 như sau :
[... ] Bà [ tức là mẹ của Lamartine] nuôi con bằng lối ăn chay cho đến khi ông lên 12 tuổi, bà chỉ cho ông ăn bánh ḿ, sữa, rau và hoa quả. Tuyệt đối không một miếng thịt nào.
................
Và tiếp theo đây là lời kể chuyện của cậu bé Lamartine :
Một hôm mẹ tôi t́nh cờ dẫn tôi đi ngang một ḷ sát sinh. Tôi trông thấy những người đồ tể hai cánh tay để trần nhuộm đầy máu đang đập chết một con ḅ, các người khác th́ đang giết bê và cừu. Những suối máu bốc khói chảy lênh láng khắp nơi. Tôi kéo tay mẹ tôi đi cho nhanh để tránh xa nơi này.
Tác giả quyển sách c̣n cho biết là sau đó th́ cậu hết sức sợ hăi và ghê tởm mỗi khi trông thấy thịt nấu chín.
............
Ít lâu sau th́ gia đ́nh cậu gởi cậu vào trường nội trú, cậu hết sức khổ sở v́ phải ăn những thức ăn giống như các đứa trẻ khác dưới sự canh chừng của các thấy giáo mà cậu gọi họ là những tên cai ngục. Cũng cần nói thêm là vào thời bấy giờ trường học và việc giáo dục rất nghiêm khắc v́ được đặt dưới sự quản lư của những người tu hành.
Một hôm cậu bỏ trốn. Sau khi phát giác ra sự vắng mặt của cậu th́ nhà trường sai người đổ đi t́m. Người ta t́m được cậu đang đói lả và đang ngồi trong một quán ăn trước một đĩa trứng chiên mà cậu chưa kịp ăn. Người ta lại lôi cậu về trường và giam cậu vào một nơi riêng.
Nhưng hai tháng sau th́ nhà trường chịu không nổi trước thái độ của cậu và đành dẫn giao trả cậu cho cha mẹ.
Trước cảnh tượng khổ đau, có những người xúc động không chịu nổi, tuy nhiên cũng có những người thản nhiên, chẳng hạn như những người đồ tể. Thật ra th́ tất cả chúng ta đều hàm chứa những xúc cảm từ bi, nhưng những xúc cảm đó lại bị che lấp quá sâu kín trong ḷng một số người. Tu tập có nghĩa là khơi động những xúc cảm đó trong ḷng ḿnh để không khiến ḿnh giống như những người đồ tể đáng thương. Những xúc cảm ấy có thể sẽ giúp cho mỗi người trong chúng ta cảm nhận được những rung cảm của thi hào Lamartine đă từ hai trăm năm trước nhưng đến nay vẫn c̣n bàng bạc qua những trang sách và những vần thơ của ông. Những xúc cảm ấy trong ḷng chúng ta biết đâu cũng có thể đă khiến chúng ta đi nghe một buổi thuyết tŕnh của bác sĩ J. Bernard-Pellet được tổ chức ở một nơi nào đó. Thương lắm thay cho những người đồ tể, v́ họ vẫn là những người đồ tể suốt đời.
Bures-Sur-Yvette ( France ), 14.11.09
Hoang Phong
florida80
06-12-2019, 19:00
WHEY PROTEIN CHO NGƯỜI CAO TUỔI - BS PHẠM HIẾU LIÊM
03 Tháng Mười 20149:37 CH(Xem: 4537)
WHEY PROTEIN
Thưa các anh chị
Tôi mới nhận được một bài viết quan trọng của BS Phạm Hiếu Liêm và xin gửi tới các anh chị bài viết vô cùng giá trị này..
BS Phạm Hiếu Liêm là một đồng nghiệp, một người bạn thân t́nh và một Giáo Sư Y Khoa tài giỏi – nay đă hồi hưu - về môn học Y Khoa rất đặc biệt Geriatric Medicine chuyên về điều trị bệnh lư các người lớn tuổi.
Phân khoa này mỗi ngày càng trở nên quan trọng v́ tỷ lệ/ percentage các người cao niên càng ngày càng nhiều , v́ sự sống lâu con người / longevity trong 30 năm nay đă gia tăng rất nhiều, không những tại các nước tân tiến như Mỹ, như Pháp , mà c̣n ở các nước nghèo thuộc thế giới đệ tam (Tiers monde).
GS Phạm Hiếu Liêm - mà tôi gọi một cách thân t́nh là Samurai Liêm - là một giáo sư y khoa rất được kính nể về những công tŕnh khảo cứu giá trị của anh Liêm trong mấy chục năm dậy học tại Đại Học Y Khoa bên Hoa Kỳ.
Bài viết sau đây của BS Liêm chú trọng về một đề tài vô cùng thực tế: Làm sao người lớn tuổi - nhất là người cao niên Việt Nam - có thể thay đổi dinh dưởng với chất đạm Whey (có vào khoảng 20% trong sữa ) mà chúng ta có thể mua dễ dàng , không tốn kém, tại nhiều nơi bên Hoa Kỳ tại Walmart , Costco và nhiều nơi khác nửa và trên online.
Tôi nghĩ các anh chị bên Pháp, Đức hay bên Úc cũng có thể kiếm mua rất dễ dàng.
Xin cám ơn anh BS Liêm rất nhiều
Nguyễn Thượng Vũ
Làm người ai cũng muốn được mạnh khoẻ và sống lâu. Ở phương Đông trước thế kỷ thứ 20, các đạo sĩ vào núi luyện cách trường sinh và có tuổi thọ cao hơn người thường (70-80 tuổi thay v́ 50-60 tuổi). Theo khoa học ngày nay, các đạo sĩ Lăo Giáo đạt được tuổi thọ nhờ dinh dưỡng tốt v́ ăn nhiều trái dâu và những loại quả nhỏ mọng nước không có hạt (berries) mọc hoang trong núi chứa nhiều chất kháng oxy hoá và tập thể dục (quyền Vơ Đang) thường xuyên.
Ngày nay nhờ vệ sinh thường thức và y khoa tân tiến, tuổi thọ trung b́nh ở các nước tiên tiến đă đạt đến gần 80 cho nam giới và hơn 80 cho các cụ bà. Than ôi, với số tuổi đời chồng chất, người già thường bị các bệnh kinh niên và chứng lăo suy nên trong nhiều trường hợp, có thọ nhưng không mấy vui v́ bệnh tật và ốm yếu. V́ vậy, tại các cộng đồng người Việt ở hải ngoại, báo chí, truyền thanh và truyền h́nh có nhiều quảng cáo kiểu lang băm bán thuốc dạo lừa đảo người Việt cao niên để bán các loại thuốc thực phẩm phụ gia vô căn cứ.
Ngoài ra, chúng ta vẫn thường nghe các cụ dùng Sâm và Nhung là các món đắt tiền để tẩm bổ chống lại lăo suy theo truyền thuyết Đông Y. Nhân sâm Cao Ly có tác dụng kích thích làm người dùng cảm thấy hưng phấn nên vẫn được truyền tụng nhưng kết quả trên cơ thể, bắp thịt và tim mạch th́ không có ǵ đáng kể; thậm chí dùng nhiều có thể làm tăng huyết áp, có hại cho tim mạch và năo bộ.
Khảo cứu tại Hoa Kỳ trong 30 năm trước cho thấy thú vật sống lâu và khoẻ mạnh khi chúng được nuôi ăn đủ chất dinh dưỡng nhưng với lượng calorie hạn chế hơn 30% của mức b́nh thường; đó là một điều không thực tế cho con người.
May thay, mấy năm gần đây, khoa học đă cho thấy ngoài dinh dưỡng tốt và tập thể dục thường xuyên, các cụ có thể dùng chất đạm Whey (phát âm là Guây) phụ gia để giúp tăng tuổi thọ, thêm lành mạnh và bớt bệnh tật.
Chất đạm Whey là ǵ?
Sữa (trên thị trường là sữa ḅ) có nhiều chất đạm.
80% chất đạm trong sữa là casein; phần c̣n lại (20%) là Whey. Whey là một hỗn hợp của nhiều chất đạm hoà tan, đặc biệt là có rất nhiều chuỗi amino acids phân nhánh (branched chain aminoacids- BCAA) như leucine, iso-leucine và valine so với các chất đạm khác. Các amino acids quan trọng này làm bắp thịt phát triển nẩy nở và lành lặn như có đề cập trước đây trong bài Chống Sarcopenia đăng mấy năm trước trên svqy.org (Aging well by fighting Sarcopenia; A tribute to Jack LaLanne) http://www.svqy.org/agingwell.html
Trong kỹ nghệ chế tạo phó mát (cheese), chất đạm Whey trở thành dung dịch phế thải tự nhiên sau khi casein được làm rắn (solid) trong phó mát. Ngày nay, chất đạm Whey được giữ lại để làm thực phẩm phụ gia cho các lực sĩ tập tạ v́ có thể giúp họ trở nên lực lưỡng nhanh chóng.
Tại sao chất đạm Whey phụ gia lại tốt cho người lớn tuổi?
Đại đa số đàn ông gốc Âu và Á bắt đầu có đề kháng (resistance) Insulin ở tuổi 40 trở lên, phụ nữ th́ ở khoảng tuổi 50 sau khi tắt kinh (menopause). Từ đó họ bắt đầu có nhiều mỡ trong bụng (phát tướng) dẫn đến một ṿng luẩn quẩn khắc nghiệt cuả Hội Chứng Biến Dưỡng (Metabolic Syndrome) với tăng huyết áp, lượng mỡ cholesterol và triglyceride trong máu cao, dễ bị Tiểu Đường loại 2 và các biến chứng tim mạch. Ṿng luẩn quẩn này c̣n có liên hệ đến chứng teo bắp thịt, loăng xương và bệnh lăng trí của lăo suy. Ngăn ngừa hội chứng biến dưỡng sẽ giúp cho người cao niên được lành mạnh sống lâu để hưởng thêm hạnh phúc ở tuổi già.
Trong các thí nghiệm gần đây trên thú vật và cả trên người già, chất đạm Whey đă chứng tỏ khả năng giúp người lớn tuổi ngăn ngừa và chế ngự sự lăo suy và Hội Chứng Biến Dưỡng v́ giúp giảm mập ph́, giảm mỡ trong bụng, xuống cân, giảm hiện tượng đói cồn cào, giảm cholesterol, điều hoà huyết áp, bớt đề kháng với insulin, bớt nguy cơ tiểu đường loại 2. Điều đáng chú ư là trong một thí nghiệm dùng hợp chất pha trộn các amino-acids cùng tỷ lệ như t́m thấy trong Whey đưa ra kết quả không tốt như chất đạm Whey thiên nhiên từ sữa, nhất là trên tác dụng giảm cholesterol. Chuột nuôi với chất đạm Whey phụ gia sống lâu hơn mặc dù chúng không bị hạn chế về calorie.
Bệnh nhân đă bị tiểu đường loại 2 có lượng glucose trong máu điều hoà tốt hơn sau khi dùng chất đạm Whey thường xuyên. Lượng insulin giảm xuống và các chỉ số về viêm (inflammation) và oxy hóa cũng giảm bớt nhiều.
Bệnh nhân vừa qua bệnh nặng (nhiễm trùng, sưng phổi, đột quỵ ….) hay sau một cuộc giải phẫu lớn, cơ thể lâm vào t́nh trạng thoái dưỡng (catabolism) sẽ b́nh phục nhanh hơn khi dùng chất đạm Whey phụ gia v́ cơ thể sẽ tổng hợp protein dễ dàng đạt tới thế tiến dưỡng (anabolism) nhanh chóng trong phục hồi.
Cách dùng chất đạm Whey trong Lăo Khoa
Muốn ngăn ngừa Hội Chứng Biến Dưỡng th́ nên bắt đầu dùng chất đạm Whey phụ gia ở tuổi 40, dùng khoảng 10 hoặc 20 gram một lần mỗi ngày (2 hay 4 muỗng cà phê, một muỗng cà phê là tương đương với 5 gram).
Các cụ trên 65 tuổi nên dùng 10 đến 12 gram, hai lần mỗi ngày (20 đến 24 gram mỗi ngày).
Đang phục hồi sau giải phẫu hay bệnh nặng nên dùng 15 gram mỗi lần, hai lần mỗi ngày (30 gram mỗi ngày). Thường thường các bệnh nhân này có dùng các bột sữa thực phẩm như Ensure, Sustacal vv…. có chứa chất đạm từ đậu nành hay sữa nhưng vẫn nên dùng Whey phụ gia để có tác dụng phục hồi nhanh chóng hơn như đă nói ở trên.
Chất đạm Whey isolate có bán tại các tiệm thông thường như General Nutrition, Wal-Mart, Costco etc… 15 tới 30 đô la Mỹ có thể mua một hay hai hũ to tướng cho các cụ khuấy bột Whey vào ly nước dùng mỗi ngày trong cả tháng.
Tóm lại, ngoài dinh dưỡng tốt và thể dục đều, chất đạm Whey được khoa học cho thấy có thể giúp chúng ta sống lâu và lành mạnh để hưởng Phước Thọ mà giá lại rẻ hơn Sâm và Nhung rất nhiều. Tài liệu thống kê cho thấy gần 23% người Việt lớn tuổi ở California bị Tiểu Đường loại 2; chất đạm Whey có thể giúp chúng ta tránh được cái đại nạn đó luôn.
Phạm H. Liêm
florida80
06-12-2019, 19:01
Nữ tỷ phú trẻ tuổi nhất nước Mỹ thay đổi ngành y học thế giới
HOLME1Doanh Nghiệp Odessa-Lần tới khi bạn làm xét nghiệm máu, bạn sẽ không cần phải đi tới bác sĩ rút một lượng máu lớn từ cánh tay của bạn nữa. Thay vào đó bạn có thể vào một hiệu thuốc Walgreens và có được kết quả chỉ với một vài giọt máu. Đó là nhờ Elizabeth Holmes, 30 tuổi, là nữ tỷ phú trẻ tuổi nhất và tỷ phú trẻ thứ ba trên bảng xếp hạng mới được công bố hàng năm của tạp chí Forbes trong 400 người giàu nhất nước Mỹ.
Đột phá trong xét nghiệm máu là một ư tưởng vàng. Chỉ cần một chiếc kim châm và một vài giọt máu, họ có thể thực hiện hàng trăm bài kiểm tra, từ kiểm tra tiêu chuẩn cholesterol đến phân tích độ phức tạp của di truyền. Kết quả nhanh hơn, chính xác hơn, và rẻ hơn rất nhiều so với phương pháp thông thường.
Ư tưởng cả tỷ USD
Holmes đă bỏ học tại Stanford ở tuổi 19 để thành lập Theranos sau khi quyết định rằng tiền học phí của cô nên dùng để nghiên cứu các vấn đề về sức khoẻ.
Xét nghiệm máu truyền thống rất khó khăn và tốn kém. Nó cũng không được đổi mới từ những năm 1960 và phải được thực hiện tại các bệnh viện và văn pḥng bác sĩ. Lọ máu phải được gửi đi để thử nghiệm, có thể mất vài tuần mới có kết quả và rất dễ xảy ra lỗi.
Phải mất một thập kỷ cho ư tưởng của cô được phát triển, nhưng kết quả đem lại rất tốt. Tháng 9 năm ngoái, Walgreen, hệ HOLME2thống hiệu thuốc bán lẻ lớn nhất với hơn 8.100 cửa hàng, đă công bố kế hoạch tung ra Trung tâm kiểm tra sức khỏe của Theranos tại các nhà thuốc của ḿnh. Cho đến nay, đă có một trung tâm của Theranos tại Walgreens ở Palo Alto và 20 trung tâm khác ở Arizona.
Trong một báo cáo gần đây của tạp chí Fortune, Theranos đă tăng thêm 400 triệu USD, nâng tổng giá trị công ty lên mức cao kỷ lục 9 tỷ USD (Holmes sở hữu hơn 50% vốn cổ phần)
Hai tỷ phú 30 tuổi khác trong danh sách của Forbes là người sáng lập Facebook Mark Zuckerberg và bạn cùng pḥng cũ của anh, Giám đốc điều hành Facebook Dustin Moskovitz.
Tại sao lại là xét nghiệm máu?
HOLME3Chủ tịch, Giám đốc điều hành và người sáng lập Theranos, Elizabeth Holmes tại TechCrunch ngày 8 tháng 9 năm 2014 ở San Francisco, California
Holmes chia sẻ rằng cô nhắm vào xét nghiệm máu bởi v́ nó chiếm khoảng 80% các quyết định lâm sàng được thực hiện bởi bác sĩ.
Các xét nghiệm mới có thể được thực hiện mà không cần tới bác sĩ sẽ tiết kiệm tiền bạc và thời gian. Hầu hết các kết quả sẽ có trong khoảng bốn giờ, có nghĩa là bạn có thể đến một hiệu thuốc và thử máu trước hôm đến khám bác sĩ và sau đó kết quả sẽ được chuyển tới cho các bác sĩ.
Việc kiểm tra vô cùng nhanh chóng có thể thực hiện bất cứ lúc nào đă là một thay đổi hoàn toàn, nhưng những thông tin có thể nhận được từ một giọt máu lại càng tuyệt vời hơn. Các mẫu máu truyền thống chỉ sử dụng cho một xét nghiệm c̣n với phương pháp Theranos th́ một giọt máu có thể được sử dụng cho hàng chục xét nghiệm khác nhau.
Mỗi lần thử máu đem đến chi phí ít hơn 50% so với việc thử máu truyền thống. Nếu phương pháp này được thực hiện rộng răi, chúng ta sẽ tiết kiệm được hơn 202 tỷ USD trong thập kỷ tới.
Dữ liệu này cũng rất hữu ích cho bất cứ mong muốn hiểu biết tốt hơn về sức khỏe của họ. "Bằng cách thử nghiệm, bạn có thể bắt đầu hiểu cơ thể của bạn, hiểu được bản thân, thay đổi chế độ ăn uống của bạn, thay đổi lối sống của bạn và bắt đầu thay đổi cuộc sống của bạn", cô chia sẻ.
Khánh Linh (BizLive)
Trước
Sau
In Trang
florida80
06-12-2019, 19:03
HĂY SỬA ĐỔI CÁCH NẤU ĐỒ ĂN VIỆT NAM ĐỂ GIẢM TỶ LỆ NHỮNG BỆNH NHÂN MĂN TÍNH NƠI NGƯỜI VIỆT CAO TUỔI
Trước đây, trên Diễn đàn này, chúng tôi đă từng phân tích về tỉ lệ cao của Hội chứng Kháng Insulin (C̣n gọi là bệnh Tiểu đường Loại 2) nơi người Việt cao tuổi ở California và đă xác định là một lượng lớn những “Sản phẩm đă được hóa đường ở cấp cao có từ đồ ăn” (dietary Advanced Glycation End products - dAGEs) trong cách nấu nướng của người Việt có thể là một nguyên nhân chính để giải thích sự khác biệt được ghi nhận giữa những nhóm cư dân Mỹ gốc Á khác nhau ở California. Chúng tôi sẽ khai triển thêm đề tài quan trọng này và đặt nhiều hy vọng là sẽ làm sáng tỏ, với những lời khuyên có ích để giải quyết vấn đề.
dAGEs là ǵ và tại sao chúng lại có hại cho sức khoẻ của chúng ta?
Những “Sản phẩm đă được hóa đường ở cấp cao” (Advanced Glycation End products, AGEs) được tạo ra qua một phản ứng “không có sự tham dự của phân hóa tố (enzym)” giữa đường hoàn nguyên (như fructose, glucose 6-phosphate) với những nhóm amin tự do có trong chất đạm (protein) hay với chất béo (lipid) mà người ta thường biết đến qua những tên như phản ứng Maillard hay phản ứng đổi màu (thành) nâu.
phl1
Phản ứng này b́nh thường có thể xảy ra trong cơ thể nhưng một khi đạt đến mức cao, chúng trở nên độc hại do bởi sự thúc ép mănh liệt trên phản ứng oxi-hóa và sự thúc đẩy phản ứng sưng viêm ở những mô như đă thấy nơi những bệnh nhân mắc bệnh Tiểu đường Loại 2 mà không được chữa trị. Trong những năm gần đây, những hợp chất AGE như N-carboxymethyl-lysine (CML) hay methyl-glyoxal (MGO) đă được khảo cứu sâu rộng về vai tṛ của chúng trên mặt bệnh lư trong Hội chứng Kháng Insulin, trong chứng xơ vữa động mạch, trong bệnh về thận hay trong chứng mất trí nhớ (lú lẫn).
Nguồn chính của những chất AGE luân lưu trong cơ thể con người là do từ đồ ăn thức uống. Nấu cạn khô ở nhiệt độ cao trong thời gian dài mà lại cho thêm đường đơn hay mỡ sẽ làm sản sinh ra một lượng lớn dAGE. Khoảng 30% dAGE được hấp thụ trong quá tŕnh tiêu hóa và có thể tích tụ trong cơ thể để rồi gây nên tàn phá, do bởi hệ số thanh thải của thận (renal clearance) thấp nơi những chất này. Nướng (bất kể là nướng lửa trần hay nướng trong ḷ) và Kho là hai lối nấu thông dụng của Việt Nam có thể tạo ra một lượng rất lớn những chất AGE có hại; nhất là Kho, là một phương thức trong đó chất protein tươi sống tiếp xúc với đường đơn trong phản ứng hóa nâu ở nhiệt độ cao (thắng nước màu). Nếu bàn về những chất AGE và về mặt y tế, đây là một cách nấu mang đến thảm họa.
Giảm lượng dAGE tiêu thụ ở chuột tránh được tổn hại về tim mạch và thận, tăng độ nhạy cảm đối với Insulin và rút ngắn thời gian lành vết thương. Hạn chế dAGE làm tăng tuổi thọ ở chuột giống như những ǵ người ta thấy được trong trường hợp hạn chế hàm lượng calorie ăn vào. Như thế có khả năng là giảm lượng dAGE tiêu thụ ở người sẽ có thể đưa đến những lợi ích tương tự.
Những phương cách làm giảm mức tiêu thụ dAGE nơi người Việt:
Những cách thức sau đây đă từng được đưa ra nhằm giảm sự h́nh thành AGE khi nấu ăn:
1.Nên nấu trong môi trường ẩm (có nước): như hấp, luộc, nấu vừa đủ sôi, đun lửa riu riu hay trụng (trần) trong nước sôi.
2.Giảm thời gian nấu.
3.Nấu ở nhiệt độ thấp hơn.
4.Dùng ḷ vi sóng (microwave) để nấu.
5.Ướp thịt (bao gồm cả cá và đậu hũ) trong môi trường chua, như (cho thêm) dấm hay nước chanh trước khi nấu.
phl2
Chú thích h́nh 2: Ảnh hưởng của môi trường chua trên lượng Sản phẩm Hóa đường Cấp cao (AGE) trong thịt ḅ. Thịt ḅ (25 gram), có và không ướp trước với 10 ml dấm (A) hay nước chanh (B) trong ṿng 1 giờ, được nướng vỉ trong 15 phút ở 150 ºC . Mẫu thử được tán nhuyễn và lượng AGE (qua chất N-carboxymethyl-lysine) được đánh giá qua thử nghiệm ELISA như đă được mô tả trong phần Phương Pháp. Dữ liệu được tŕnh bày bằng mức % thay đổi so với t́nh trạng tươi sống. Cột màu trắng biểu hiệu t́nh trạng tươi sống, cột có sọc cho thấy t́nh trạng sau khi nướng mà không ướp, và cột màu đen là những mẫu có ướp. Có một sự thay đổi được minh chứng rơ ràng (với chỉ số P<0,05) giữa thịt nướng và thịt sống. Có một sự thay đổi được minh chứng giữa những mẫu thịt ướp. 1 = thịt ḅ sống. 2 = thịt ḅ nướng sau khi ướp mà không dùng dấm hay chanh. 3 = thịt ḅ nướng mà trước đó được ướp với dấm hay chanh trong 1 giờ.
Quư vị nên luôn luôn dùng chất chua để ướp đồ ăn trước khi làm món Nướng, đồng thời nên giới hạn việc cho dầu ăn hay đường càng nhiều càng tốt trong những công thức nấu món ăn. Quư vị có lẽ nên thay đổi cách nấu bằng cách bỏ chất phẩm màu nâu vào đồ ăn ở giai đoạn cuối trong khi nấu thay v́ thắng nước màu bằng đường để làm màu.
Một chọn lựa khả thi khác là dùng những chất như aminoguanidine (vẫn c̣n đang được nghiên cứu) và quế (một hương liệu) là những chất có khả năng ức chế sự h́nh thành AGE cũng như làm trung ḥa độc tính của chất này.
Tóm tắt
Bệnh măn tính là những nguyên nhân chính của sự suy nhược và t́nh trạng yếu kém nơi tuổi già. Những bằng chứng gần đây gợi cho ta thấy người Việt cao niên có khuynh hướng dễ bị mắc nhiều bệnh măn tính, đặc biệt là Hội chứng Kháng Insulin (Bệnh Tiểu đường Loại 2). Chúng tôi tin rằng những chất dAGE sinh ra quá mức từ nhà bếp Việt Nam giữ một vai tṛ chính trong sự khác biệt giữa những sắc dân Mỹ gốc Á. Giảm thiểu dAGE bằng cách sửa đổi phương thức nấu ăn có thể mang lại lợi ích cho tất cả người Việt trong thời gian dài.
Nguyên tác: Modify Vietnamese cuisine to lower incidence of chronic diseases in older Viet Kieu - Pham H Liem.
Người dịch: Nguyễn Hiền
Nguồn: Diễn đàn cựu SVQY
Trước
Sau
In Trang
florida80
06-12-2019, 19:04
TUỔI THỌ
23 Tháng Hai 201412:00 SA(Xem: 2555)
Bác sĩ Claudio Gil Araujo, người Brazil, đă t́m ra một phương pháp được thực hiện qua cách ngồi, đứng đơn giản để nhanh chóng giúp cho mỗi người có thể đoán một cách khá chính xác số năm tháng c̣n lại của đời ḿnh.
Phương pháp của ông Araujo dựa vào sự dẻo dai của cơ bắp, sự cân bằng, và sự mạnh mẽ cơ thể khi đứng lên ngồi xuống của những người lớn tuổi.
sitting-down-content
Từ nhận xét này ông Araujo cùng một số đồng nghiệp có sáng kiến thiết lập ra một thử nghiệm đơn giản không cần máy móc mà mọi người trên 50 tuổi đều có thể tự ḿnh hay cùng với bạn bè thực hành ở bất cứ nơi nào. Phương pháp này gọi là SRT (sitting-rise test).
sit-and-stand-test
Bước đầu tiên là đứng thẳng giữa pḥng, từ từ ngồi trong tư thế tréo chân. Sau đó tự đứng thẳng lên mà không dùng tay vịn hoặc chống như trong h́nh. Thang điểm để cho bài tập này là 10 điểm: 5 điểm cho động tác ngồi xuống và 5 điểm cho động tác đứng lên. Mỗi khi phải dùng đến đôi tay th́ bị trừ một điểm và mỗi khi xiêu vẹo mất thăng bằng th́ bị trừ nửa điểm. Bác sĩ Araujo áp dụng bài tập trên đối với 2,000 người trong độ tuổi từ 51 đến 80 và kết quả cho thấy đa số những người có điểm dưới 8 chỉ sống thêm khoảng 6 năm, người có điểm dưới 3 th́ qua đời không lâu sau đó.
scoring-for-sit-test
Nói chung cứ mỗi điểm đạt được qua thử nghiệm ngồi và đứng lên tượng trưng cho 21% cơ hội giảm thiểu tính tử vong.
Tuy phương pháp chính xác nhất đối với người ngoài 50, nhưng những người trẻ hơn cũng có thể thực hành.
Cũng theo ông Araujo rất nhiều người sau khi thử phương pháp SRT đă cố gắng thay đổi cách sinh hoạt qua việc ăn uống, vận động và tập luyện trong chừng mực của ḿnh để gia tăng sự dẻo dai và sức mạnh nhằm kéo dài tuổi thọ.
Ông Araujo nói rằng phương pháp này thuyết phục các bệnh nhân của ông hơn là chỉ nghe ông khuyên bảo suông về việc tập thể dục và ăn uống lành mạnh.
(Google search : Claudio Gil Araujo)
florida80
06-12-2019, 19:06
‘Fast Food’ hay ‘Fat Food’
Nguyễn Thượng Chánh, DVM & Dược Sĩ Nguyễn Ngọc Lan
fast_food-large-contentfastfood1-large-content
Fast food là một hiện tượng đặc thù trong xă hội ngày nay.
Chỉ riêng tại Hoa Kỳ cũng có trên 300.000 nhà hàng Fast Food các loại.
V́ sao kỹ nghệ nầy quá phổ biến như vậy?
Câu trả lời đơn giản là, ăn ‘fast food’ vừa ngon, vừa tiện, vừa nhanh và lại cũng vừa với túi tiền của mọi người.
Fast food ngày nay đă vượt khỏi ranh giới Bắc Mỹ để có mặt khắp cả năm châu bốn biển.
Fast Food đă trở thành một sắc thái tiêu biểu trong cuộc sống của chúng ta.
McDo Canada trả lời tất cả mọi thắc mắc của người tiêu thụ (Our food-Your questions): http://yourquestions.mcdona lds.ca/questions/7740
* * *
Fast food, một nét ẩm thực mới trong xă hội ngày nay
Fast food không ngừng phát triển và bành trướng thêm lên mỗi ngày. Sự thành công nầy một phần cũng nhờ vào cái tính chất b́nh dân của nó, và cũng như nhờ vào sự đáp ứng mạnh mẽ của quần chúng các giới nhất là giới choai choai và trẻ em.
Với lối quảng cáo hay khuyến măi rất khoa học và táo bạo, thí dụ như mua một tặng một ‘buy one get one’ hay mua món nầy tặng thêm món khác, hoặc tặng phiếu ăn miễn phí, tặng phiếu đổ xăng, xổ số rút thăm như trúng quà thí dụ như những giải thưởng đáng giá cũng như những chuyến du lịch chẳng hạn...
Ngoài ra, họ cũng thường nhắm mục tiêu quảng cáo vào giới khách hàng trẻ tuổi và giới thiếu nhi, như tặng đồ chơi, h́nh tượng, posters mang h́nh các tài tử thần tượng hay các lực sĩ đương thời sáng giá... Và đôi khi họ cũng nhận bảo trợ các cuộc tranh tài thể thao cũng như các công tŕnh có tính cách phúc lợi công cộng tại địa phương nầy nọ, vân vân.
Họ không ngừng nghiên cứu thêm những sản phẩm mới hấp dẫn hơn, mới lạ hơn...
Kỹ nghệ fast food được trang bị với đầy đủ các pḥng thí nghiệm về dinh dưỡng thật tiên tiến. Họ có cả trung tâm nghiên cứu và huấn luyện nhân viên, nông trại để sản xuất nguyên vật liệu ngơ hầu để đáp ứng được hết các nhu cầu của thị trường đương thời.
Đọc đến đây chắc các bạn củng đả h́nh dung được một vài tên tuổi đă nổi bật trong ngành kỹ nghệ thức ăn nhanh nầy rồi.
Fast food vào Viêt Nam qua cái nh́n của một nhà báo bên nhà:
“…Người thích hội nhập lại cho rằng, nh́n vào các thương hiệu nổi tiếng kia ai cũng thấy đó là minh chứng cho sự hội nhập của nền kinh tế nước nhà. Du khách vào đây, thấy các tên tuổi quen thuộc như McDonald’s hay Starbucks th́ họ yên tâm hơn nhiều. Biết đâu chúng chính là ấn tượng tốt đẹp đầu tiên thu hút du khách hay nhà đầu tư khác?
Riêng tôi, quan sát cái quá tŕnh thâm nhập thị trường Việt Nam của nhiều nhăn hiệu quốc tế trong mấy năm qua mới thấy họ tài. Ở nước ngoài, nhăn hiệu này có thể bị gán với chuyện kia (tránh thuế quá tài), nhăn hiệu nọ có thể dính tới chuyện khác (công nhân bị bạc đăi, nguyên liệu không đảm bảo vệ sinh...) nhưng qua Việt Nam tất cả đều đẹp đẽ, hoành tráng, chiếm vị trí bắt mắt và quan trọng nhất là họ bán được cái ư tưởng dùng sản phẩm của họ là hợp thời trang, đúng gu, là hiện đại, ít ra là cho giới trẻ…”(ngưng trích Bùi Vạn Phú – Con đường ‘Fast Food’ thesaigontimes.vn 15/2/2014)
Vidéo: McDonald’s VN ngày khai trương http://www.youtube.com/watch?v=CnA3GjQ4zLo
“…Sáng ngày 8/2 (từ 10 giờ sáng), cửa hàng này mở cửa 24/24 giờ để phục vụ khách hàng. Đây là cửa hàng đầu tiên tại khu vực Đông Nam Á được mở mới sau 22 năm của tập đoàn McDonalds.
Nằm trong một khuôn viên rộng gần 3,000 m2, nhà hàng McDonalds có tổng diện tích hơn 1,300 m2, với sức chứa hơn 350 chỗ ngồi và là nhà hàng thức ăn nhanh đầu tiên tại VN phục vụ suốt 24 giờ/ngày cùng dịch vụ mua hàng không cần đỗ xe (drive – thru)…” (ngưng trích – Vietbao.com).
Dân Pháp giảm ăn tiệm, thích thức ăn nhanh
“…Dân Pháp có truyền thống ăn tiệm... Nhưng sau mấy đợt suy thoaí kinh tế, đa số đă chuyển sang ưa chuộng thức ăn nhanh kiểu Mỹ. Bảng thống kê của hăng khảo sát thị trường Gira Conseil cho thấy hiện nay 54% tổng thương vụ các tiệm ăn ở Pháp là thuộc các tiệm bán thức ăn nhanh như McDonalds, Burger King và Subway. Riêng năm ngoaí, số đo thương vụ này tăng 14%. Một lư do nữa, giờ nghỉ để ăn trưa ở Pháp đă giảm từ 80 phút trong năm 1975 để giảm c̣n có 22 phút trong năm 2011, không đủ để ngồi cà kê ngoá tiệm ăn…” (ngưng trích – Vietbao.com 05/07/2013)
Mcdonalds làm cánh gà tăng giá
“…Không công ty McDonalds đưa một món ăn mới vào thực đơn, toàn bộ kỹ nghệ thực phẩm thấy ảnh hưởng liền. Khi McDonalds đưa quả táo vào thực đơn, liền trở thành công ty mua nhiều táo nhất tại Hoa Kỳ, khi đưa dưa leo vào món McWarp, liền ở vị trí dự kiến sẽ mua tới 6 triệu pounds (2.72 triệu tấn) dưa leo trong năm nay. Và bây giờ là cánh gà. Dự kiến hăng sẽ đưa lại món cánh gà chiên, và do vậy ước tính từ ngày 9-9-2013 tới hết tháng 11-2013 sẽ bán tổng cộng 250 triệu cánh gà. Đó là lư do, giá cánh gà bán sỉ cuối năm 2011 chỉ 99 cents/pound thế là đầu năm nay tăng tới hơn 2 đôla/pound, sau khi McDonlds loan báo thực đơn mới...” (ngưng trích – Vietbao Online 08/30/2013))
Mặt trái của fast food
Các nhà dinh dưỡng học đều nói rằng fast food tạo ra nhiều calories v́ có chứa nhiều đường hay chất bột đường hoặc đường fructose, nhiều muối sodium, nhiều chất béo gồm chất béo băo ḥa, cholesterol, triglyceride, v.v… và họ kết luận rằng ăn fast food thường xuyên rất có thể hại cho sức khỏe!
Để có một sức khỏe tốt, The American Heart Association khuyến cáo mỗi ngày chúng ta cần tổng số calories gồm thức ăn và thức uống đem vào là 2000 calories, trong số nầy năng lượng do chất béo tạo ra phải ít hơn 30%... Nên hạn chế số chất béo ăn vào không được hơn 70gr/ngày (1gr chất béo tạo ra 9 calories)... Muốn tính nhu cầu năng lượng th́ lấy số cân nặng bằng pounds nhân cho 15 cho người năng hoạt động, và cho 13 nếu là người tà tà ít hoạt động… Cholesterol do thức ăn mang vào không được quá 300mg… Và nên biết rằng các chất bột đường (carbohydrate), đạm (protein) và chất béo (lipid, fat) đều tạo ra năng lượng calories.
Trên nguyên tắc, nếu số calories ăn vào nhiều hơn nhu cầu cần thiết th́ sẽ dễ bị lên cân và mập ph́ ra. Muốn giảm cân th́ phải ăn ít lại các chất kể trên cộng với phải vận động hay tập thể dục thường xuyên để đốt bớt số calories thặng dư.
*/ Đường - Chất bột đường (carbohydrate)
Đường (sucrose, saccharose, fructose HFCS) thường có nhiều trong bánh, kẹo, cà rem, chocolat và trong các loại nước ngọt có gaz. Trong sữa ḅ, đường là lactose, và đường của trái cây là fructose.
Chất bột đường là tinh bột có trong bánh ḿ, khoai tây và các loại pasta, v.v.
Về mặt năng lượng, mỗi 1gr đường hoặc chất bột đường đều tạo ra 4 calories... Mỗi lon Coca hay Pepsi 355ml, loại regular chứa lối 8 - 9 muỗng café đường và số năng lượng tạo ra là khoảng 180 calories.
Vấn đề quan trọng của fast food là những loại thực phẩm có chỉ-số đường-huyết (glycemic index hay GI ) quá cao… GI hay chỉ số đường huyết, tức vận tốc chuyển hóa của đường hay c̣n gọi là carbohydrate ra thành glucose để vào trong máu.
Một thức ăn có GI càng cao th́ đường lượng trong máu (glycemia) càng tăng mau!
Trong fast food, những thực phẩm có GI cao là các loại đường cát - các loại bánh ḿ, các loại bánh làm từ bột quá trắng hay quá nhuyễn hoặc quá tinh chế - các loại nước ngọt như coca hay pepsi - các loại bánh biscuits hay cookies hoặc crackers - các loại chip - khoai tây chiên fries potatos - donuts, muffins và bagels...
Khi đường lượng tăng càng nhanh th́ tuyến tụy tạng (pancreas) tiết càng nhiều Insulin để giúp đem glucose vào tế bào nhằm mục đích tạo năng lượng và để rút đường huyết xuống mức b́nh thường.
Ở bệnh tiểu đường loại II, tức bệnh chúng ta thường gặp nhất, tế bào đôi khi thay đổi…cái ‘ổ khóa’ nên cái ‘ch́a khóa’ Insulin không thể mở cửa để đem đủ số glucose cần thiết vào trong tế bào. Glucose trong máu c̣n quá nhiều (hyperglycemia) nên tụy tạng vẫn phải tiếp tục tiết thêm măi insulin (hyperinsulinism)…T́ nh trạng nầy càng trầm trọng hơn đối với những người đă bị mập ph́ sẵn cũng như đối với người ít chịu vận động và tập thể dục thường xuyên.
Insulin, không những chỉ giúp đem glucose vào tế bào, mà nó cũng c̣n làm giới hạn việc loại bỏ chất béo trong cơ thể…
Ngoài ra, sau bữa ăn chất bột đường carbohydrate cũng kích thích cơ thể sản xuất ra chất enzyme lipoprotein lipase (LPL). Chất nầy có khuynh hướng làm gia tăng sự tích tụ và tồn trữ của mỡ.
*/ Đường fructose tự do ‘HFCS’?
Fructose tự do là dạng đường được cho thêm vào trong thức ăn thức uống để tạo vị ngọt. Người ta sử dụng đường fructose cao của sirop bắp (high fructose corn syrup hay HFCS)
Bạn có thể thấy trên phần ingredients của các nhăn hiệu những sản phẩm như Coca Cola, Pepsi Cola, 7 Up, Chocolate, Soda, Nutri bar và trong hầu hết các loại thức ăn thức uống ngọt đều có chữ HFCS, được cho thêm vào sản phẩm để tạo vị ngọt nhưng không có kèm theo những dưỡng chất khác để giúp vào tác động của sự chuyển hóa.
**Ảnh hưởng của đường fructose HFCS trên sức khỏe ra sao?
Một sự tiêu thụ b́nh thường fructose sẽ không có hại ǵ, nhưng ngược lại một sự thặng dư hay tiêu thụ quá tải đường fructose dưới dạng sirop bắp hay HFCS th́ sẽ là nguyên nhân của nhiều thứ bệnh tật thí dụ như tim mạch, béo ph́ cũng như tiểu đường type 2.
Fructose được chuyển hóa tại đâu?
Fructose được chuyển hoá tại gan, một sự tiêu thụ quá nhiều fructose sẽ làm cho gan không chu toàn được nhiệm vụ tạo năng lượng và thay thế vào đó là sự tạo ra những chất mỡ xấu triglycerides và được thải vào máu. Và đây là nguyên nhân gây ra bệnh tim mạch.
Được biết tại Québec, cụm từ ‘Glucose-Fructose’ được ghi trên nhăn hiệu để thay thế bằng tên Hight fructose corn syrup HFCS’.
*/ Muối Sodium
Hằng ngày chúng ta đều cần một lượng muối tối thiểu để thay thế và bù đắp lượng muối hay sodium đă được cơ thể sử dụng trong công việc biến dưỡng của nó. Đây là muối ăn sodium chloride mà chúng ta dùng để nêm nếm đồ ăn hàng ngày.
Nhu cầu sodium của cơ thể là từ 1000-3000mg/ngày, tương đương 1/2 -1 muỗng café muối bọt. Muối bếp chứa 40% sodium… Sodium không những chỉ có ở muối ăn mà thôi, chúng c̣n có thể hiện diện dưới dạng muối ẩn trong các loại thực phẩm biến chế theo lối công nghiệp thí dụ như trong thịt nguội hay trong đồ hộp như sodium benzoate… Sodium nitrite t́m thấy trong sausage, hot dog, smoked meat, salami, lạp xưởng… Ngoài ra, c̣n có Sodium acid pyrophosphate, Sodium bicarbonate (bột nổi để làm bánh, baking powder), Sodium phosphate và Monosodium glutamate (MSG) tức là bột ngọt, vân vân.
Ăn nhiều muối quá có thể có hại cho tim, cho thận và có thể làm gia tăng áp suất động mạch và dễ đưa đến tai biến mạch máu năo.
*/ Chất béo băo ḥa (saturated fat)
Thực phẩm chứa nhiều chất béo băo ḥa là nguyên nhân làm gia tăng lượng cholesterol trong máu, làm xơ cứng động mạch (atherosclerosis), làm tăng áp huyết, làm tắc nghẽn mạch vành nuôi tim và sau cùng đưa đến các bệnh chứng về tim mạch như làm đau thắt ngực (infarctus) hay gây tai biến mạch máu năo.
Chất béo băo ḥa là chất béo xấu…Loại nầy thường có nhiều trong thịt, mỡ của các loài động vật và trong bơ sữa.
Thực vật chứa rất ít chất béo băo ḥa ngoại trừ dầu dừa (coconut oil), nước cốt dừa (coconut cream, coconut milk) và dầu cọ (palm oil) đều có chứa một tỷ lệ chất béo băo ḥa thật là cao. Hăy cẩn thận đối với ba loại chất nầy.
*/ Cholesterol
Đây cũng là một loại chất béo.
Cholesterol không tạo ra năng lượng. Nhiệm vụ của cholesterol là giúp tạo ra những hormons (estrogen, androgen, progesteron, cortison...).
Cholesterol cần thiết cho hoạt động của hệ thần kinh, cho sự thành lập màng tế bào, cũng như cho việc sản xuất ra các muối mật giúp cho sự tiêu hóa.
Phần lớn 80% cholesterol do gan sản xuất ra, phần c̣n lại do thực phẩm gốc động vật đem vào từ bên ngoài.
Cholesterol có nhiều trong thịt, mỡ, da gà, trong đồ ḷng như tim, gan, bao tử, thận, óc; trong cá, tôm, tép, cua, ṣ; trong ḷng đỏ hột gà; trong sữa ḅ, bơ, fromage, crème, vân vân.
Chất béo băo ḥa có khuynh hướng kích thích gan sản xuất thêm nhiều cholesterol và làm tăng hàm lượng chất nầy trong máu.
Ở người có sức khỏe tốt th́ cơ thể có thể tự điều tiết sự sản xuất cholesterol và giữ hàm lượng cholesterol ở mức độ b́nh thường.
Trong máu, cholesterol được vận chuyển bởi hai loại lipoprotein. Nếu được vận chuyển bằng loại lipoprotein có tỷ-trọng cao th́ được gọi là high density lipoprotein (HDL), đây là cholesterol tốt. Ngược lại, nếu được lipoprotein có tỷ-trọng thấp th́ được gọi là low density lipoprotein (LDL) và đây là một loại cholesterol xấu.
Một tỷ lệ cholesterol xấu LDL quá cao là một trong nhiều nguyên nhân đưa đến t́nh trạng nghẽn mạch và các bệnh chứng về tim mạch nói chung… C̣n cholesterol tốt HDL giúp vào việc vận chuyển cholesterol xấu từ mạch máu để đem bớt về gan.
*/ Triglyceride
Cũng là một loại chất béo rất cần thiết cho cơ thể và là nguồn năng lượng chính yếu được dự trữ trong các mô mỡ. Trigyceride phần lớn do thực phẩm mang vào và phần c̣n lại do cơ thể tự tổng hợp qua tiến tŕnh chuyển hóa năng lượng.
Trong máu, triglyceride được một loại lipoprotein có tỷ-trọng thật thấp chuyển vận, đó là VLDL (very low density lipoprotein).
Cũng như chất béo bảo ḥa, triglyceride là một loại lipid rất xấu... Nếu hàm lượng triglyceride cao trong máu sẽ dẫn đến các bệnh về tim mạch...
Bánh, kẹo ngọt, đường và rượu đóng vai tṛ quan trọng trong việc làm tăng triglyceride trong máu...
Vận động và tập thể dục thường xuyên sẽ làm giảm triglyceride và cholesterol xấu xuống và đồng thời cũng giúp làm tăng cholesterol tốt lên.
*/ Chất béo Trans (trans fat)
Kỹ nghệ thực phẩm và bánh kẹo thường sử dụng những loại dầu thực vật đặc biệt trong việc sản xuất. Các dầu nầy được cho thêm hydrogen qua phương pháp hydrogenation, nhằm mục đích đem chúng từ thể lỏng sang thể bán lỏng hoặc thể rắn chắc.
Đặc điểm của dầu hydrogenated là giúp cho món hàng không bị tươm mỡ mà c̣n tươi ráo để hấp dẫn người tiêu thụ. Phương pháp hydrogenation đă làm sản sinh ra một loại chất béo không băo ḥa rất xấu, đó là trans fat.
Nếu các bạn thấy trên nhăn hiệu sản phẩm có đề những câu như ‘Shortening’, ‘Hydrogenated’, ‘Partially hydrogenated vegetable oil’ th́ chắc chắn là sản phẩm có chứa cả khối trans fat trong đó rồi.
Trên nhăn hiệu dinh dưỡng (Nutrition Facts) chúng ta thường thấy có ghi total fats (tổng số chất béo ), saturated (chất béo bảo ḥa), cholesterol, monounsaturated (chất béo không bảo ḥa dạng đơn thể, có nhiều trong dầu olive hay dầu canola hoặc colza) và polyunsaturated (không bảo ḥa dạng đa thể, có nhiều trong dầu hoa hướng dương sunflower hay dầu đậu nành soya hoặc dầu bắp)...
Tại Canada, bắt đầu từ năm 2006, chất béo Trans phải được ghi trên nhăn hiệu sản phẩm.
Trans fat có rất nhiều trong bánh ngọt, donuts, muffins, trong các loại kẹo, chocolat, chips, cookies, crackers, bánh ḿ croissant, peanut butter, và cả trong margarine loại cứng được làm từ dầu hydrogenated vegetable oil, vân vân,
Chất béo bảo ḥa và trans fat, cả hai đều là những chất béo rất xấu…
Chất béo không băo ḥa (unsaturated) có nhiều trong các loại dầu thực vật, được xem như những chất béo tốt!
McDo chiên khoai tây bằng dầu ǵ?
Đây là một “bí mật quân sự”
McDo có trả lời vấn đề nầy trên trang mạng của họ.
http://www.mcdonalds.com/us/en/food/food_quality/see_what_we_are_made _of/your_questions_answe red/canola_blend_oil.htm l
Canola Blend Cooking Oil - We answer your questions about our cooking oil
= Sử dụng loại dầu nào? What oil do you cook with?
McDo sử dụng dầu ăn Canola pha trộn.
Tại Hoa kỳ, tất cả các món chiên đều 0 grams trans fat cho mỗi phần chuẩn (per serving).
Đó bao gồm các món khoai tây chiên French fries, Hash Browns, all no-grilled chicken choices và Fillet-O-Fish.
(McDonald’s uses a Canola blend cooking oil. All fried menu items in McDonald’s U.S. restaurants are now 0 grams trans fat per serving. This includes French Fries, Hash Browns, all non-grilled chicken choices and the Filet-O-Fish)
= McDo có sử dụng dầu đậu phọng hoặc dầu đậu nành để trộn salade hay không? Are peanut or soy used in your vegetable oil blend?
Chúng tôi dùng dầu canola có pha trộn với chút ít dầu đậu nành (blend cooking oil).
(We use a Canola blend cooking oil, which does contain some soybean oil. All fried menu items in McDonald's U.S. restaurants are now 0 grams trans fat per serving. This includes French Fries, Hash Browns, all chicken choices and the Filet-O-Fish)
= McDo có chiên tất cả các loại thịt khác nhau trong cùng một bể dầu hay không? Do you fry different types of meat in the same oil?
Không, các món chiên nấu thí dụ như thịt gà và cá đều dược chiên trong những bể dầu riêng biệt.
(No, our fried menu items ‘some chicken and fish menu items’ are cooked in separate oil baskets)
‘Fast food’ hay ‘Junk food’
Junk food hay tạp phẩm (?) là danh từ người ta thường dùng để gán cho các loại thức ăn và thức uống vô bổ v́ chúng chứa toàn là calories rỗng (empty calories). Nét chính của junk food là nhiều đường (bánh, kẹo, chocolat ), nhiều mỡ dầu, nhiều hóa chất bảo quản, nhiều muối (chip), nhiều gaz (pepsi, coke, soda…) nhưng lại chứa rất ít hoặc không có các chất xơ, chất khoáng và vitamins.
Thật ra rất khó phân biệt ranh giới giữa junk food và fast food.
Junk food có thể là fast food và ngược lại.
Xă hội ở Mỹ ngày nay đă bị fast food và junk food tràn ngập khắp mọi nơi mọi chỗ.
‘Fast food’ hay ‘Slow food’
Phong trào Slow food (thức ăn chậm) đă được khởi xướng lên đầu tiên ở bên Ư vào năm 1989. Ngày nay, phong trào nầy đă lan rộng khắp thế giới. Phương châm của họ là “Ê! Hăy chậm chậm lại nào / Stop, slow down”. Hàm ư nói hăy sống cho thoải mái, cho chậm răi để có th́ giờ thưởng thức đúng mức hương vị các món ăn thuần túy của quê hương chính gốc.
Đối với Tây phương, họ kêu gọi mọi người nên trở về nguồn với những món ăn chế biến từ những nguyên vật liệu nuôi trồng theo lối thiên nhiên không có trụ sinh và hóa chất nào cả. Họ hô hào mọi người hăy tẩy chay fast food, v́ chúng chỉ là sản phẩm của kỹ nghệ mà thôi.
Họ c̣n cho rằng, fast food đă tước mất cái gu, cái tính chất riêng biệt ở mỗi cá nhân chúng ta…Thật vậy, ăn một cái Big Mac ở New York, ở Montréal, ở Paris hay ở Sài G̣n cũng chẳng có chi khác cả... Trên lư thuyết th́ ‘slow food’ cũng có lư, nhưng không thực tế v́ nó có vẻ mơ hồ quá!
Có ai dám cam đoan ‘slow food’ là những món ăn hoàn toàn tinh khiết và tốt cho sức khỏe đâu!
Mỡ, dầu, đường, muối, nếu bị lạm dụng th́ dù là ‘fast food’ hay ‘slow food’ chúng đều nguy hại cho sức khỏe y chang như nhau cả!
Vấn đề quan trọng nhất là làm sao thay đổi được cách sống hay nếp sinh hoạt của mọi người cũng như phải làm thể nào để họ thay đổi cách suy nghĩ để có ư thức hơn trong vấn đề ăn uống!
Đó cũng chẳng phải là một chuyện dễ dàng đâu!
Tham thực th́ cực thân
Tại Hoa Kỳ, cứ bốn người th́ có một người mập ph́.
T́nh trạng nầy càng đáng ngại hơn ở giới trẻ, từ 20 năm nay số trẻ em mập đă tăng lên gấp đôi.
Cơ quan Y Tế Quốc Tế (WHO) gọi hiện tượng nầy là ‘dịch mập ph́’... Một số bệnh ngày xưa chỉ thấy ở người lớn như bệnh tiểu đường loại II, nay cũng thấy xuất hiện ít nhiều ở trẻ nhỏ.
Mọi người đều cho rằng chính fast food là một trong những nguyên nhân gây mập ph́. Thật vậy, fast food đă làm cho con người ghiền cái ngọt lẫn cái béo.
Các khẩu phần fast food bán ra không ngừng gia tăng khối lượng và kích thước thêm lên măi để trở thành quá khổ supersize để chiêu dụ, để khuyến măi cũng như mua những phần thức ăn nầy có lợi hơn về giá cả so với những phần b́nh thường, thí dụ mua một combo gồm ‘BigMac+Coke+Fr ies’ có lợi hơn là mua riêng rẽ từng món một, hay mua một Pizza Xtra Large+tặng chai 2lít Pepsi+món hàng được đem giao tận nhà, vân vân và vân vân.
Bạn đi cinéma, chỉ được quyền đem vào rạp hát những thức ăn thức uống do chính họ bán ra ngay tại cửa rạp mà thôi, mà món nào món nấy chẳng hạn như thùng bắp rang popcorn đầy bơ và bự tổ chảng thấy mà phát ớn, phát sợ luôn.
Người tiêu thụ riết rồi củng quen mắt với những món fast food khổng lồ nầy và thấy chúng cũng…b́nh thường mà thôi.
Ăn nhiều và ăn thường xuyên th́ dễ mập và dễ bệnh th́ cũng dễ hiểu mà thôi!
Thế nào th́ gọi là mập ph́?
Công thức BMI (body mass index):
Cân nặng kg
BMI = ……x 10 000
(chiều cao tính bằng cm) X (chiều cao tính bằng cm)
Ở người trưởng thành:
BMI =18.5 – 24.9 tốt, b́nh thường (normal)
BMI = 25 – 29.9 thừa cân, dư kí, mát da mát thịt (overweight)
BMI = trên 30 mập ph́ (obesity)
BMI = dưới 18.5 ốm quá, thiếu cân, suy dinh dưỡng (underweight)
BMI chỉ cho chúng ta một ư-niệm tương đối về t́nh trạng mập ốm mà thôi.
Một lực sĩ vai u thịt bắp có thể có cùng trị số BMI như một người b́nh thường, nhưng chúng ta không thể đánh giá sức khỏe của họ giống nhau được, v́ tỷ lệ phân bố chất mỡ trong cơ thể của họ khác biệt nhau.
Tỷ lệ mỡ trung b́nh của nam là 18% - 22% và của nữ là 20% - 27%. Nếu tỷ lệ nầy vượt trên 25% ở đàn ông và trên 30% ở đàn bà th́ không tốt, có nhiều nguy cơ bệnh tật.
Ngoài ra cũng có thể sử dụng tỷ lệ đo ṿng eo và ṿng mông (WHR-Waist Hip Ratio).WHR phải dưới 0.85 ở các bà và dưới 0.95 ở các ông. Chỉ số nầy càng lớn th́ nguy cơ các bệnh về tim mạch, bệnh về áp huyết, bệnh tai biến mạch máu năo cũng như bệnh tiểu đường, v.v… càng cao.
Mập bụng, c̣n gọi là bụng bia, bụng thùng nước lèo to và có dạng trái táo (apple shape) nguy hiểm hơn mập ở mông và đùi có dạng trái lê (pear shape).
Các ông thường mập theo dạng trái táo c̣n các bà th́ thường mập kiểu trái lê.
Theo thống kê, bệnh mập ph́ hằng năm đă giết hại vào khoảng 300.000 người tại Hoa Kỳ đồng thời nó cũng kéo theo một y-phí tốn khoảng 100 tỉ dollars/năm...
Được biết có khoảng 13% trẻ em sống tại Mỹ Quốc đều bị mập ph́.
Một hai năm về trước, một số người mập ở Hoa Kỳ đă lôi các nhà hàng nổi tiếng trong lănh vực fast food ra ṭa để mong xin được bồi thường thiệt hại. Nhưng chuyện cũng không có kết quả v́ ṭa án đă bác bỏ lời buộc tội của họ.
Kỹ nghệ fast food quả thật rất ư là mạnh. Một dự luật đă được họ vận động để đệ nạp lên thượng viện Hoa Kỳ nhằm mục đích miễn trách nhiệm cho kỹ nghệ fast food về t́nh trạng mập ph́ trong xă hội. Lư luận của giới nầy là họ chỉ đáp ứng lại luật cung cầu mà thôi. Người tiêu thụ có tự do và toàn quyền quyết định những ǵ ḿnh nên ăn.
Nhà hàng McDo cũng có chủ trương giúp khách hàng trong việc lựa chọn những món ăn một cách sáng suốt. Tại mỗi địa điểm McDo đều có phổ biến bản tài liệu về thành phần dinh dưỡng của tất cả các món ăn và thức uống cũng như của các nguyên vật liệu đă được sử dụng. Họ cũng có bán những menu nhẹ (Light, healthy…) ít mỡ, ít đường cho những ai quan tâm đến sức khỏe.
Nutrition Fact (tất cả các món ăn và thức uống bán trong tiệm McDo!)
http://www1.mcdonalds.ca/NutritionCalculator/NutritionFactsEN.pdf
Sự chuyển biến của ngành fast food
Nhận thấy dân chúng càng ngày càng nhạy cảm đối với vấn đề ăn uống nên kỹ nghệ Fast Food cũng phải chuyển biến theo nhận thức mới của người tiêu thụ.
Nhan nhăn người ta thấy xuất hiện những mỹ từ mới trong menu như: Santé, Healthy, Light, Low fat, Low carb (chứa ít chất bột đường), Low calories, Diet, Cholesterol free, Bio, Organic (thực phẩm được chế biến từ nguyên liệu được nuôi trồng một cách thiên nhiên, không có dùng trụ sinh hoặc hóa chất), no GMO, Genetically modified organism (không sử dụng những nguyên liệu đă bị làm thay đổi gene), Vegetarian,Veggie (thực phẩm chay), Hormon free (thịt không có chứa hormon), Vegetable & Grain fed chicken (gà nuôi toàn bằng hạt, không có trộn thêm bột thịt, bột xương lấy từ thú vật v́ sợ nhiễm bệnh ḅ điên), BSE free (chỉ dùng thịt ḅ làm từ những thú khỏe mạnh không mắc phải bệnh ḅ điên ), Hamburger not irradiated (thịt không có bị xạ chiếu để diệt trùng) v.v.
Chúng ta tự hỏi có phải họ thật sự quan tâm đến sức khỏe của người tiêu thụ hay đây cũng chỉ là một mánh khóe khuyến măi marketing mà thôi??
Fast food và bà con Việt Nam tại hải ngoại
Cuộc sống quá ư là vội vàng gấp rút nên đă ảnh hưởng nhiều đến tập quán ăn uống của dân chúng tại Bắc Mỹ. C̣n giới trẻ th́ ít vận động, tối ngày cứ miệt mài trước màn h́nh TV hay Ipad hoặc computer, vân vân... Hậu quả tất nhiên là đă đưa đến hàng triệu người bị béo ph́, dư cân…
Người Việt hải ngoại chúng ta, sống trên vùng đất nước tự do nầy, ít nhiều cũng phải cùng chung số phận như trên. Trong mọi gia đ́nh, trong những bạn bè xa gần cũng như chính bạn hay chính tác giả cũng đă hay đang bắt đầu có vấn đề sức khỏe nầy nọ... Cholesterol cao, áp huyết cao, đường máu cao, đó là những âu lo chính của phần đông trong chúng ta trên 50 tuổi. Có rất nhiều người đă bị bệnh tiểu đường, không may mắn hơn th́ đă bị cancer hay bị tai biến mạch máu năo và cũng đă có người viễn du tiên cảnh tự bao giờ...
Ăn hay không ăn fast food?
Ngoại trừ những người ăn uống theo chế độ “diet” và những ai có vấn đề sức khoẻ nên cần phải kiêng cử nầy nọ, c̣n lại tuyệt đại đa số trong chúng ta thỉnh thoảng vẫn có thể ăn fast food một cách an tâm với sự hiểu biết tối thiểu như sau:
- biết chọn những món thích hợp hay ít mỡ dầu hoặc ít đường;
- biết chọn những phần ăn nhỏ b́nh thường;
- biết ăn chừng mực hay không quá thường xuyên.
Chất béo hay dầu hoặc mỡ có rất nhiều trong khoai tây chiên (fries); trong lớp bột áo phía ngoài miếng thịt gà KFC hay da gà; trong fromage, sauce mayonnaise; trong các loại sauce sền sệt chua chua ngọt ngọt để chế lên salade và trong các món thịt nguội (salami, bacon, ham, smoked meat, sausage)... Ngoài ra, củng nên để ư đến các món ăn có chứa nhiều dầu mỡ nhất là trong các nhà hàng của tàu và ít nhiều trong nhà hàng của ta...
Fast food cũng có khía cạnh hay của nó, đôi khi rất tiện lợi cho mọi người. Thí dụ như trường hợp th́nh ĺnh bị giữ lại hăng để làm thêm giờ phụ trội ô-quờ-thêm (overtime), hoặc trường hợp bị ‘người ta’ làm eo hay làm nủng và ‘hổng thèm nấu cơm đâu’ th́ cũng hổng sao, ḿnh cứ việc order một cái ‘Pizza’ ăn tự nhiên mà không có cái ‘mặc cảm’ ǵ ráo trọi...
Tại hải ngoại, lúc đi chơi hay đi du lịch bằng xe bus hoặc theo đi theo tour th́ ăn fast food là tiện lợi và nhanh nhất... Vả lại, lạ người lạ chỗ, muốn t́m một nhà hàng như ư để ăn theo như ư cũng hổng phải dễ như ư đâu!
Thôi th́ cứ ăn fast food cho dzui dzậy chớ biết sao bi chừ!
Kết luận
Tham thực cực thân.
Con người tự đào lấy mồ bằng chính răng của ḿnh.
Thật vậy, các nhà khoa học đều nh́n nhận rằng hết 60% bệnh tật đều bắt nguồn từ thức ăn và lối sống của con người mà ra.
Nếu muốn sống lâu, sống khỏe th́ không ǵ xác đáng hơn là nên noi theo ư kiến rất hữu lư của bác sỉ Dewitt Goodman, đại học Columbia:
“…Mỗi người phải tự quyết định lấy và phải biết lựa chọn lấy giữa cái ngon cũng như cái khoái khẩu với cái tốt cũng như cái bổ ích cho sức khỏe của ḿnh…”./.
florida80
06-12-2019, 19:14
Nước Lạnh Tuyệt Vời
31/07/201000:00:00(Xem: 12029)
Bs Nguyễn Thượng Chánh
Nước Lạnh Tuyệt Vời
Nước Lạnh Tuyệt Vời; Nước uống cần thiết"
Nguyễn Thượng Chánh, DVM
Từ hơn 30 năm nay sự ra đời của các loại nước ngọt có gas nhược năng diet, light hoặc zero calorie, chẳng hạn như diet Coke, diet Pepsi, diet Seven up (có người gọi là Coke kiêng)... được xem như là một giải pháp tốt đẹp để thay thế các loại nước ngọt cổ điển có chứa quá nhiều đường.
Nhưng liệu các loại nước nói trên có thật sự giúp ích ǵ cho sức khỏe hay không"
Câu trả lời: có lẽ là không.
Coi chừng các loại nước ngọt có gas.
Các loại nước giải khát như Coke, Pepsi, Seven Up, Soda v,v...đều có chứa rất nhiều đường, mà đặc biệt là đường sirop bắp gọi là high fructose corn sirup HFCS.
Nguyễn Thượng Chánh. Nghi vấn về đường fructose
http://www.yduocngaynay.com/8-8TK_NgTChanh_NghiVan DuongFructose.htm
Rất nhiều khảo cứu cho biết việc sử dụng quá thường xuyên các loại nước ngọt là nguyên nhân dẫn đến t́nh trạng béo ph́, bệnh tim mạch và bệnh tiểu đường loại 2 tại Hoa Kỳ.
Tại Canada, từ 1977 đến 1997 số lượng nước ngọt có gas tiêu thụ đă tăng vọt lên 100% ở trẻ em theo tỉ lệ cứ bốn em th́ có ba em uống các loại nước có gas mỗi ngày. Trong một số lớn các em, các loại nước giải khát có gas đă chiếm lối 10% calories trong tổng số nhu cầu năng lượng cần thiết trong ngày.
Đây quả là một tỉ lệ quá lớn đối với một loại thức uống chả có ích ǵ cho sức khỏe hết nhưng ngược lại chúng c̣n chiếm chỗ các thức uống cần thiết như sữa và các loại nước ép trái cây.
Không phải là một giải pháp tốt cho sức khỏe
Thay thế nước ngọt có gas và nhiều đường bằng loại nước ngọt nhược năng hay nước kiêng (diet): Diet Coke , Coke zero, Diet Pepsi, v,v... là những thức uống chứa toàn chất ngọt hóa học như Aspartame,Acesulfame potassium không phải là một giải pháp tốt đẹp cho sức khỏe như mọi người thường lầm tưởng đâu.
Facts about Diet Pop
* Calories: 0
* Caffeine: varies from 0 to 55 mg per can
* Typical Ingredients:
-- Carbonated Water
-- Caramel
-- Sodium Benzoate
-- Artificial Sweeteners (Aspartame or Acesulfame Potassium)
-- Natural Flavor
-- Artificial Flavor
-- Sodium Citrate
Malic Acid
Trên lư thuyết, nước giải khát diet, ít nhiệt năng sẽ giúp bớt đi tác hại của sự tăng cân, của bệnh tiểu đường loại 2 và của bệnh cao máu.
Thực tế cho thấy có thể là ngược lại.
Tạp chí Circulation số tháng 7/2007 của American Heart Association có đăng bài khảo cứu giá trị liên quan đến ảnh hưởng của hai loại nước ngọt, loại có đựng và loại diet, trên sự xuất hiện của triệu chứng biến dưỡng (metabolic syndrome).
Ravi Dingra MD et al. Soft drink consumption and risk of developing cardiometabolic risk factors and the metabolic syndrome in midle-age adults in the community. Circulation 2007; 116:480-488
http://circ.ahajournals.org/cgi/content/full/116/5/480
Theo định nghĩa, triệu chứng biến dưỡng được xác định bởi các dấu hiệu sau đây:
- Dư cân (nguy cơ béo ph́).
- Có hàm lượng insuline cao (nguy cơ bênh tiểu đường).
-Có hàm lượng chất béo glyceride cao (nguy cơ bệnh tim mạch).
-Có áp huyết cao (nguy cơ bị tai biến mạch máu năo)
Ng̣i ra, hội chứng biến dưỡng c̣n làm tăng thêm nguy cơ bị đứng tim (heart attack), tiểu đường, hoặc có thể dẫn đến một vài loại ung thư.
Qua kết quả nghiên cứu, các nhà khoa học nhấn mạnh thêm một điểm ở đây là dù cho có uống nước ngọt loại nhược năng (diet) đi nữa th́ sự nguy hiểm cho sức khỏe cũng y như ḿnh uống nước ngọt có đường (regular).
Tóm lại, sự tiêu thụ quá thường xuyên các loại nước có gas loại diet hay nước ngọt có đường regular cho thấy đó là một thói quen phản ảnh một lối sống không được lành mạnh cho lắm và rất có thể dẫn tới nhiều vấn đề sức khỏe trong tương lai.
Pḥng bệnh không chỉ là việc thay thế nước ngọt có đường bằng loại nước diet mà thôi, nhưng c̣n cần phải sửa đổi lối sống của chúng ta chẳng hạn như chỉ dùng những thức ăn thức uống trong lành, tinh khiết, bỏ rượu, bỏ thuốc cũng như cần phải chuyên cần vận động và tập thể dục.
Một thói quen xấu
Được biết, mọi hoạt động của cơ thể cũng như của năo bộ cần phải có một số lượng đường quan trọng.
Trong quá tŕnh tiến hóa của nhân loại, chất ngọt hay đường là một sản phẩm rất hiếm hoi và chỉ thấy hiện diện trong một số ít thực vật và rau quả mà thôi.
Ngày nay, đường và chất tạo vị ngọt hóa học đều có mặt khắp mọi nơi, trong nhà cũng như trong tất cả các sản phẩm chế biến công nghiệp.
Khuynh hướng thích ngọt dễ đưa con người đến t́nh trạng béo ph́ và một số vấn đề sức khỏe khác. Thói quen ăn ngọt cũng khiến chúng ta thường hay loại bỏ những loại thực phẩm như rau cải có vị hơi đắng, nhưng chính chúng lại thường chứa nhiều dưỡng chất và chất xơ rất cần thiết cho sức khỏe.
Các nhà khoa học khuyên chúng ta nên cố gắng giảm bớt dần dần việc tiêu thụ đường trong dinh dưỡng.
Kỹ nghệ nước ngọt có gas đă cho ra đời loại nước diet không ngoài mục đích giúp chúng ta dần dần thay đổi thói quen hảo ngọt và nhờ đó giảm bớt việc tiêu thụ đường.
Thực tế th́ lại khác.
Một số khảo cứu cho biết vấn đề trên cũng không đơn giản đâu. Uống thường xuyên nước ngọt diet sẽ kích thích sự đói bụng, v́ vậy phải ăn nhiều và dễ tăng cân.
Diet products contain chemicals that stimulate hunger, says health professor
http://www.naturalnews.com/020782_diet_foods_as partame.html
Aspartame -- commonly known as NutraSweet -- is a neurostimulant linked to stimulating appetite, says nutritional toxicologist Dr. Peter Dingle, adding that NutraSweet can actually make you hungry.
Kết luận
Trong xă hội ngày nay, nước ngọt có gas nói chung , loại có đường cũng như loại diet, có mặt khắp mọi nơi.
Sử dụng nước ngọt có gas là một việc quá dễ dàng, quá đơn giản đối với mọi người.
Vấn đề là việc lạm dụng, uống quá nhiều và quá thường xuyên các loại nước ngọt mới thật sự có hại.
Tóm lại, có khát th́ không có một loại nước nào tuyệt hảo, tốt hơn hơn là một ly nước mát mà có người c̣n gọi là nước lạnh./.
Nguyễn Thượng Chánh. Chuyện nước máy nước chai
http://www.khoahoc.net/baivo/nguyenthuongchanh/030909-nuocmaynuocchai.htm
florida80
06-12-2019, 19:15
Đại Học Hamburger
13/02/201400:00:00(Xem: 7839)
Bs Nguyễn Thượng Chánh
Đại Học Hamburger
Nói đến McDo th́ ai mà lại không biết. Nó là biểu tượng của ngành thức ăn nhanh hay fast food, là gương sáng thành công theo kiểu tư bản Hoa Kỳ và cũng là h́nh ảnh của một lối sống thời đại.
McDo có mặt hầu như tại khắp mọi nơi trên thế giới.
* * *
Nhà hàng McDo đầu tiên ở đâu?
Nhà hàng đầu tiên được Ray Kroc mở ra tại Des Plaines, tiểu bang Illinois vào năm 1955. H́nh như cái hamburger thuở đó rất đơn giản và giá bán chỉ có 15 cents một cái mà thôi.
Theo McDonald's Corporation, ngày nay, trên thế giới có trên 33.000 nhà hàng McDo đang hoạt động tại 122 quốc gia và mỗi ngày phục vụ cho trên 64 triệu lượt khách hàng.
Tại Hoa Kỳ, có trên 14 000 nhà hàng McDo mà phần lớn thuộc loại nhượng quyền thương mại hay franchise … Thương vụ McDo thu được năm 2010 là 61 tỷ US $. và thời đó 2 nhà hàng McDo lớn nhất thế giới là McDo Moscova (Nga) và McDo ở Orlando Florida (Hoa Kỳ).Nhưng năm 2012, nhà hàng Mc Do tại Luân đôn nằm sát bên Olympic Stadium có thể đựợc xem là to nhứt thế giới.
Riêng Canada, có tất cả 1400 nhà hàng McDo. Đông khách nhất là McDo nằm ở Cambridge, Ontario, bên cạnh xa lộ tấp nập nhứt xứ, đó là xa lộ 401.
Mấy năm trước, McDo c̣n theo phục vụ quân đội Hoa Kỳ tham chiến tại Trung Đông, Irak.
Dọc theo các xa lộ chính tại Hoa Kỳ đôi khi có thể thấy những nhà hàng McDo nho nhỏ không có ghế ngồi, đó là những McDrive, Drive-In mà khách có thể ở trong xe order và nhận thức ăn ở cửa sổ. Một số nhà hàng McDo mở cửa 24/24 và khách hàng có thể ngồi trong xe mà mua rất tiện lợi và rất nhanh.
McDo có 2100 nhà hàng tại lục điạ Trung Quốc và 200 cái tại Hong Kong. Nhà hàng đầu tiên được khánh thành tại Tp Bắc Kinh, không mấy xa Thên An Môn vào ngày 23/4/1992.
Năm 2005, McDo cho thiết lập nhà hàng drive thru (mua không cần ra khỏi xe) đầu tiên tại tỉnh Quảng Đông Trung Quốc.
Lái xe vô drive thru, lấy hàng, đi đậu xe và vô tiệm ngồi ăn tỉnh bơ-Vừa lẹ vừa khỏe. Hết ư!
Hamburger University, chuyện có thật
Trung tâm huấn luyện đầu tiên được thiết lập năm 1961 tại tầng hầm (basement), nằm phía dưới tiệm McDo ở Elk Grove Village, Illinois.
Với đà phát triển quá nhanh, trung tâm huấn luyện trên phải chịu cảnh dọn tới dọn lui vài ba lần, trước khi người ta xây một trung tâm huấn luyện thật tân kỳ và hiện đại trên một miếng đất 80 acres (320.000 tv). Riêng campus trường sở chiếm hết 130 000 sq. ft (12 000 t v) gồm có 17 lớp học với đầy đủ trợ huấn cụ tân kỳ high tech, ngoài ra c̣n có một giảng đường rộng lớn có sức chứa được 300 người... Đó là Hamburger University, Fred L. Turner Training Center tọa lạc tại Oak Brook, Illinois Hoa Kỳ.
Hamburger University là nơi huấn luyện các nhà quản lư (manager) và cấp điều hành của tất cả nhà hàng McDo trên thế giới. Trong tháng đầu tiên vừa mới khai trương nhà hàng McDo, người quản lư phải theo học một khóa tu nghiệp căn bản 32 giờ, và môn học bắt buộc là "The Basics of McDonald's Operation". Tại nơi đây, họ được học cách quản lư khoa học một cửa hàng McDo, đồng thời được truyền đạt các mánh khoé làm sao bán cho thật nhanh, bán cho thật nhiều, và nhất là không những phải vừa làm vui ḷng khách đến, mà cũng c̣n phải làm vừa ḷng khách đi...để họ c̣n trở lại nữa.
Theo tài liệu cũ, đại học có 30 giáo sư thường trực, giảng dạy cho sinh viên đến từ 122 quốc gia. Trong lúc giáo sư giảng trên bục th́ các thông dịch viên có thể thông dịch cùng một lúc 28 thứ ngôn ngữ khác nhau. Mỗi năm có vào khoảng trên 5000 người được huấn luyện tại đây, và cho đến nay đă có trên 73.000 chứng chỉ tốt nghiệp đă được cấp phát.
Có người nói là Hamburger University huấn luyện được nhiều sinh viên trong một năm, hơn cả quân đội Hoa Kỳ... V́ nhu cầu huấn luyện quá to tát nên McDo phải cho thiết lập thêm 22 chi nhánh huấn luyện nằm rải rác trên đất nước Hoa Kỳ.
Ngoài ra, McDonald's c̣n có trách nhiệm điều hành 7 trung tâm huấn luyện quốc tế khác bao gồm cả Hamburger University ở Luân đôn (Anh), Munich (Đức), Hongkong, Săo Paulo (Brazil), Tokyo (Nhật),Sydney (Úc) và Sanghai (Trung Quốc 2010).
Hamburger University tại Shanghai, Trung Quốc(Photo McDonald's)
Tỉ lệ sinh viên được nhận vào Hamburger University Shanghai (Trung Quốc) ít hơn 1% so với tỉ lệ 7% sinh viên được nhận vào đại Học Harward - Tất cả các cấp lănh đạo nhà hàng McDo Trung Quốc đều phải tốt nghiệp Hamburger University. C̣n Việt Nam th́ sao?
Hamburger University More Selective Than Harvard
http://www.huffingtonpost.c om/2011/01/26/hamburger-university-more_n_814410.html
"Forget Harvard. Hamburger University -- the Shanghai branch of McDonalds' managerial training program -- is one of the hardest college to get into in the world, with an acceptance rate of less than one percent, according to Bloomberg News. (Harvard's acceptance rate hovers at 7 percent.)
Young corporate hopefuls are flocking to the managerial training program, which is primarily designed to prepare current McDonald's staff members for positions in crew development, restaurant management, mid-management and executive leadership. So far, the tuition-free school has trained 1,000 of the 70,000 McDonald's employees in mainland, with plans of educating another 4,000 in the next two years. All restaurant branch heads must graduate from the university."
Hamburger University tại Munich, Đức Quốc (Photo McDonald's)
Combo- BigMac-French fries-Coke tại Bắc Mỹ
Core innovation Center
Đây là một trung tâm nghiên cứu có vẻ bí mật của McDonald's, nằm ở Romeoville, cách Chicago lối 45 phút xe. Không thấy có h́nh cầu ṿng hoàng kim biểu tượng cho McDo, cũng như không có những bảng hiệu chỉ dẫn ǵ hết.
Tại đây, người ta cho thiết lập lại các bếp mẫu của các nhà hàng McDo trên thế giới, sau đó họ nghiên cứu các phương thức nào hữu hiệu và có lợi nhất để phục vụ khách hàng trong một thời gian thật ngắn nhất.
Thí dụ như các trường hợp bán theo lối Drive -Thru, khách ngồi trong xe order, đặc biệt như bên Anh quốc, tài xế ngồi phiá bên tay phải th́ làm sao đây" Phải thiết kế sơ đồ nhà bếp lại hết sao cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế. Mỗi một sự thay đổi đều rất tốn kém. Tất cả động tác của người bán đều được nghiên cứu từng li từng tí và được tính giờ từng giây từng phút. Lẽ dĩ nhiên, McDo c̣n nghiên cứu thêm nhiều khía cạnh khác nữa, nhưng họ ít chịu công khai tiết lộ …
McDo có giống nhau ở khắp mọi nơi không?
"2014 Việt Nam một chiếc Big Mac sẽ được McDonald's bán tại Việt Nam với giá 85.000 đồng (3,99 USD). Mức giá này thấp hơn giá một chiếc Big Mac tại Mỹ (4,62 USD), tuy nhiên lại khá cao nếu so với các nước trong khu vực".(Ngưng trích soha.vn 8/2/2014)-
Được biết mức lương tối thiểu tại VN từ tháng 7/2013 là 1.150 000 đồng/tháng
Người ta thường nghĩ rằng, hễ là McDo th́ ở đâu cũng giống nhau hết!
Điều này không hẳn hoàn toàn đúng.
Nhà hàng ở Ấn độ không có sử dụng thịt ḅ, chỉ có món Coke là giống các McDo bên Hoa Kỳ mà thôi.
Bên Úc, bánh ḿ của big Mac có vẻ mềm hơn, có lẽ do cách pha trộn bột như thế nào đó…
Một số quốc gia Á châu th́ đ̣i hỏi một lượng củ hành y như nhau ở món hamburger regular cũng như ở món quarter pound.
Các loại sauce sử dụng cũng thay đổi ít nhiều tùy theo từng quốc gia. Thí dụ dầu trộn salade ở Bắc Mỹ có vẻ sệt và béo hơn, c̣n dầu ở Âu châu th́ có khuynh hướng nhẹ hơn.
Món lạ tên cũng lạ
McDonald's thành công vẻ vang nhờ vào óc thực tế, sáng tạo (innovation) cũng như sự linh hoạt, biết thích ứng vào khung cảnh xă hội và của từng quốc gia riêng biệt.
Món chủ lực chính của McDo là bánh ḿ hamburger ăn với khoai Tây chiên (French fries) kèm theo Coke. Để đáp ứng với nhu cầu của thị trường ăn uống, McDo ngày nay đă thêm vào menu nhiều món mới lạ, làm từ cá, thịt gà, gan, thịt cừu, McRib, thịt heo Mc Pork Burger (McDo Sài g̣n) và họ c̣n chơi luôn cả món pizza nữa…
Đầu tháng 8 năm 2006, McDo cho tung ra món Snack wrap, gồm có thịt gà, salade, sauce, và tất cả được cuốn lại trong một loại bánh mềm tortilla. Theo quảng cáo, th́ đây là một món ăn nhanh, rất tiện và rất bổ. Giá bán chỉ có 1,29$ mà thôi.
Sắc thái Nam Mỹ và Mễ Tây Cơ cũng có thể thấy biểu hiện trong một số menu của McDo nữa, chẳng hạn như món fajista, v.v…Người viết cũng ước mong một ngày nào đó biết đâu, McDo chẳng tung ra món Mc Chảgị, Mc B́cuốn v,v …cho dân Việt Nam ḿnh thêm hănh diện!
Món Vegi Mac (Hamburger chay) làm từ tàu hũ và đậu nành cũng đă được tung ra nhưng kết quả không mấy thành công cho lắm. Gần đây, McDo c̣n nghĩ thêm cách làm giàu khác. Đó là việc họ nâng cấp café lên và mở thêm tiệm McCafé nằm chung một nơi với nhà hàng McDo. Loại nhà hàng nầy được thấy xuất hiện tại một vài thành phố lớn trên thế giới. McCafé chuyên trị cà phê bánh ngọt kiểu như các tiệm Starbucks Coffee.
dai-hoc-mcdonald-resized
H́nh ảnh McDonld’s.
Sau đây là nét đặc thù của McDo tại một vài xứ:
*- Tại Uruguay: McHuevo, là một loại hamburger có thêm trứng gà ở bên trên.
*- Tại Philippines: McSpaghetti, sauce có trộn chung với các miếng hot dog nho nhỏ.
*- ThaiLan: Samurai Pork Burger, làm bằng thịt heo có sauce Teriyaki.
florida80
06-12-2019, 19:22
Sáu bước đơn giản để giữ (đầu) óc minh mẫn...
(Chỉ có một bộ phận nên ǵn giữ cho to lớn.
Đó chính là năo bộ của bạn.
Michael Roizen (left) and Mehmet Oz
Khám phá mới nhất bây giờ để ngăn ngừa bệnh Alzheimer là vitamine D3, mỗi ngày uống 2000IU, uống liên tục tới lúc chết.
Khám phá này đă được phổ biến rộng răi trên thế giới. Dĩ nhiên là cách ăn uống của Mehmet Oz và BS Michael Roizen rất tốt, nhưng vitamine D3 vẫn là chính.
Pḥng bệnh Alzheimer Bài viết của hai bác sĩ Mehmet Oz và Michael Roizen
> Nguyễn Minh Tâm dịch theo S.F Examiner
Cơ thể thiếu Vitamin D sẽ gây những bệnh...
blank
Pḥng bệnh Alzheimer ngay bây giờ
blank
Ăn nhiều rau và hoa quả: Rau tươi, trái cây tươi là thức ăn chính cho bộ óc
Sáu bước đơn giản để giữ đầu óc minh mẫn
Phúc tŕnh mới nhất của chính phủ cho biết rằng thuốc bổ (supplements), hay thuốc chữa bệnh không giúp ǵ được cả trong việc ngăn ngừa bệnh Alzheimer, tức là bệnh mất dần trí nhớ, bệnh lú lẫn. Đây là căn bệnh nhiều người già bị vướng phải, như trường hợp của cựu Tổng thống Ronald Reagan.
Nhưng, phúc tŕnh đó lại đưa ra những bằng chứng là
nếu chúng ta chịu khó tập thể dục, tỏ ra năng động, ăn uống lành mạnh, giữ cho áp huyết thấp để máu có thể đưa lên năo dễ dàng, chúng ta sẽ ngăn ngừa được bệnh mất trí nhớ.
blank
Bản phúc tŕnh không gỉải thích v́ sao. Nhưng chúng tôi sẽ phân tích cho độc giả biết rơ: trí nhớ của chúng ta trở nên yếu kém, sự suy nghĩ trở nên loạng quạng (fuzzy) khi lớn tuổi là do ảnh hưởng gộp của nhiều yếu tố khác nhau,
yếu tố chính là óc của chúng ta không nhận đủ máu đưa lên đầu, v́ mạch máu bị tắc nghẽn, hay bị hở, gọi chung là vascular dementia.
Trong cả hai trường hợp, óc của chúng ta không nhận đủ dưỡng khí (oxygen) và đường (blood sugar).
blank
Chúng ta có thể ngăn ngừa những rắc rối này, hay sửa chữa những trục trặc đó bằng cách giữ cho mạch máu dẫn máu lưu thông lên năo bộ đuợc thông tuông dễ dàng. Điều này có nghĩa là chúng ta cần làm những ǵ để giúp máu bơm lên đầu dễ dàng. Pḥng bệnh là biện pháp chúng ta nên làm sớm.
blank
1. Hoạt động thể lực giúp máu chạy đều lên óc...
Các nghiên cứu khoa học cho thấy các cụ già trên 65 tuổi chịu khó tập thể dục ít nhất ba lần một tuần tránh được một phần ba rủi ro vướng bệnh Alzheimer. Bạn có thể làm một trong những hoạt động sau đây tùy theo sở thích của ḿnh: đi bộ (mỗi ngày đi bộ, ít nhất 10,000 bước đi), làm vườn, hay khiêu vũ.
blank
2. Ăn nhiều rau và hoa quả:
Rau tươi, trái cây tươi là thức ăn chính cho bộ óc. Trong hoa quả và rau có chứa chất “flovonoids” giúp tăng cường hệ thống ngăn ngừa độc tố. Trong một cuộc nghiên cứu, nhóm người thích ăn rau quả tươi, uống trà, cà phê, hay rượu nho, có nhiều chất “flovonoids” thường có năo bộ hoạt động tốt hơn người không dùng rau quả tươi, và sự suy sụp cuả năo bộ tránh được tới 10 năm. Ngoài ra, nhiều cuộc nghiên cứu khác cho thấy mỗi tuần uống vài lần nước ép từ rau quả, sẽ giúp ngừa được 76% bệnh lú lẫn.
blank
3. Hay ăn thực đơn của dân Điạ Trung Hải:
gồm có rau tươi, hạt đậu (grain), dầu olive, cá, và các loại hạt (nuts) sẽ giúp áp huyết giữ ở mức tốt.
Ăn thực đơn của dân Điạ Trung Hải sẽ giúp tránh được bệnh Alzheimer khoảng 48% . Người hút thuốc lá có nhiều rủi ro bị Alzheimer hơn người không hút thuốc đến 80%.
blank
Oprah Toasts The Dr. Oz Show
4. Đừng uống rượu mạnh quá độ.
(Tốt hơn là không nên uống dù là một giọt cũng không thấm vào môi) Uống một chút rượu có lợi cho việc ǵn giữ tế bào chất xám. Nhưng uống nhiều quá lại gây ngu không thấm vào môi) Uống một chút rượu có lợi cho việc ǵn giữ tế bào chất xám. Nhưng uống nhiều quá lại gây nguy hại cho đầu óc, 25% người bị bệnh mất trí nhớ dính líu đến nghiện rượu. Đàn bà chỉ nên uống rượu mỗi ngày một ly. Đàn ông đuợc uống tới hai ly.
blank
5. Duy tŕ huyết áp ổn định ở mức thấp:
Huyết áp cao có thể làm cho mạch máu trên đầu bị hở hay đứt. Chính v́ vậy, các chuyên gia y tế nói rằng huyết áp cao là nguyên nhân của 50% trường hợp gây ra lú lẫn. Chúng ta hăy ráng duy tŕ huyết áp ở mức thấp – lư tưởng là 115/75 – bằng cách ăn uống lành mạnh, tập thể dục hàng ngày, đừng để lên cân, béo mập.Nên theo dơi mức đường trong máu. Bệnh tiểu đường là dấu hiệu báo trước có thể bị hở mạch máu đầu, chảy máu trong năo, gây ra bệnh lú lẫn.
blank
6. Tránh đừng để bụng phệ:
Cuộc nghiên cứu theo dơi 6,000 người đưa ra kết quả cho thấy cái bụng phệ rất hại cho động mạch chính dẫn máu về tim, và máu lên đầu. V́ thế chúng ta nên duy tŕ ṿng bụng dưới 35 inches cho các bà, và dưới 40 inches cho các ông.
Chỉ có một bộ phận nên ǵn giữ cho to lớn.
Đó chính là năo bộ của bạn.
florida80
06-12-2019, 19:27
Insomnia or hypersomnia
Young Woman Sitting On Bed Having Back Pain
F8 studio/Shutterstock
Sleep disturbance is a core symptom of clinical depression. According to research, about 75 percent of depressed patients have symptoms of insomnia, and hypersomnia (excessive sleepiness) affects nearly half of depressed adults. A lot of people have sleep problems because they feel edgy and uneasy about life—this is a functional impairment, says Dr. Schwartz. If the feelings persist and get in the way of being productive, they interfere with life, he says. Not getting enough sleep can cause distress and increase the risk for suicide. “About 95 percent of my patients—whether they have depression or not—have sleep problems,” says Dr. Economou. Along with sleep aids and depression medication, these tips from the Centers for Disease Control are recommended for those suffering from insomnia. “Often people begin to negatively relate to sleep and condition themselves to dread going to bed,” says Dr. Economou. At certain levels, sleep aids and other medication are helpful as research shows that sleep deprivation can lead to psychosis. Check out this test you can take if you think you might have depression.
florida80
06-12-2019, 19:28
An overwhelming feeling of sadness
man walking on a dark path through a spooky forest. Hipster with a backpack behind his back goes on a trip
Yuriy Seleznev/Shutterstock
Feeling sad is an emotion that is part of everyday life, but when sadness won’t lift for more than two weeks, turns to feelings of emptiness and hopelessness, or if others start to recognize and comment on the severity of your sadness, then it may be time to seek professional help for depression medication. A good rule of thumb says Dr. Schwartz is to recognize if the sadness feels different from the way you typically experience it. Signs that things are worsening can include substance or alcohol abuse, trouble in your relationships, or not being able to get up and go to work. “The reality is, if the sadness is interfering with the way a person lives their life, it may call for medication.” Check out how to determine the difference between clinical depression and everyday
florida80
06-12-2019, 19:31
Diminished interest or pleasure in activities
Girl taking pictures at the pier
MentlaStore/Shutterstock
Along with feelings of sadness, a loss of interest in previously rewarding or enjoyable activities, also known as anhedonia, is one of two required symptoms for a diagnosis of major depressive disorder. Recent reports estimate that approximately 37 percent of individuals diagnosed with MDD experience clinically significant anhedonia. The two main types of anhedonia are social (lack of pleasure in social situations) and physical (inability to enjoy tactile pleasures such as food or touching). While there is no cure for anhedonia, psychotherapy can help, followed by depression medication. Check out these depression facts
florida80
06-12-2019, 19:32
Feeling restless
Girl with a black leather backpack exploring the nature.
Jovan Gojkovic/Shutterstock
It’s normal for everyday stresses to cause feelings of restlessness, agitation, and annoyance. But when the feelings happen for no specific reason and are persistent, you may need to see a doctor. Stop to think about how much these feelings are interfering with your ability to work and relate to others, says Dr. Schwartz. “Are these feelings disturbing sleep or concentration?” Agitation is often associated with clinical depression; when it’s severe, you may be diagnosed with agitated depression. If you can’t shake a constant sense of restlessness or irritation, Dr. Schwartz recommends starting with a type of targeted counseling called cognitive behavioral therapy. “For those who have more severe symptoms, or severe persistent anxiety, antidepressants are the treatment of choice.” Read more about cognitive behavioral therapy here
florida80
06-12-2019, 19:32
Fatigue or loss of energy
Behind the backpack Asian women on the Krasiew dam ,Dan chang Suphan Buri Thailand
akachai/Shutterstock
Fatigue is the most common symptom of depression. One study suggests that more than 90 percent of patients with MDD had severe fatigue despite the fact that eight out of 10 were taking antidepressants. Fatigue can detract from your performance at school or work, and it can interfere with your relationships with friends and family. While fatigue is a symptom of MDD, it can also be a side effect of depression medication used to treat MDD. Be sure to be aware of these everyday habits that up your risk for depression.
florida80
06-12-2019, 19:33
Feelings of worthlessness
View from behind of a man standing at view point looking to beautiful landscape with foggy mountains in the distance
Roman Kosolapov/Shutterstock
When people are depressed, they’re the opposite of optimistic. While it’s possible to improve your outlook, if you’re battling depression you lose hope, says Dr. Economou, and that can lead to feelings of worthlessness. “The cause for these feelings could be the result of a life event, but what I see the most is that the feeling is the result of chronic exposure to stress,” he says. After exploring the patient’s past, says Dr. Economou, he often finds the patient didn’t always battle self-doubt. “The feelings creep up on them over time and then become overwhelming—it begins to affect their lives and it becomes a stigma.” While many people believe they can get through the loss of confidence on their own, many times it is too late, explains Dr. Economou. Treatment starts with therapy, but people often need depression medication to work regain a sense of worth. “In therapy, we raise awareness for the negative thoughts so they can be diffused.” This is how your medication could be making you depressed.
florida80
06-12-2019, 19:34
Difficulty concentrating or indecisiveness
Arabian man on the beach. Arabian man sitting on coastline. Space for copy
Liderina/Shutterstock
A loss of confidence can make decisions difficult: If you don’t trust yourself, how can you choose the right option? And continually battling self-doubt will also interfere with your concentration, according to Dr. Economu. If your inability to concentrate is due to depression—and statistics show that depression is now the leading cause of global mental and physical disability—your best option getting back on track is through a combination of psychotherapy and depression medication, research shows. This is how to tell the difference between depression and anxiety.
florida80
06-12-2019, 19:35
Thoughts of death or suicidal intentions
Young guy siting on the roof
DavidTB/Shutterstock
“It is fine to say ‘I’m having a bad day’ or a bad few days, but if your thoughts are interfering with function, or you are having thoughts that life is not worth living or that you can’t go on, you need to get professional help,” says Dr. Schwartz. According to the Jed Foundation, people who struggle with depressive disorders are at increased risk of having suicidal thoughts or impulses for suicide, and an estimated 2 to 15 percent of people who have major depression die by suicide. Some common signs of suicidal thoughts and behavior include talking about ending one’s life, withdrawal, changes in substance abuse, expression of guilt, and giving away personal possessions. People who are in a state of distress should reach out for help by seeing their primary care doctor or visiting various websites such as the American Foundation for Suicide Prevention. “The National Suicide Prevention Life Line is not
just for people who are in a suicidal crisis, it can help them find a mental health professional,” says Dr. Schwartz. Don’t miss these 13 suicide warning signs.
florida80
06-12-2019, 19:36
Hallucinations
Zoran Temelkov/Shutterstock
When people start hallucinating (seeing or hearing things) or become delusional, their diagnosis could be psychotic depression, a combination of depression and psychosis. Psychotic depression is the severe end of the depression spectrum, says Dr. Schwartz. “People with this condition are at a fairly high risk of suicide or of doing something harmful because they are driven by delusion—they need to be treated with antidepressant and anti-psycotic medications.” Read about what it’s like to have schizophrenia.
florida80
06-12-2019, 19:37
Treating depression
sad lady stay by the window
Kristina Vykhor/Shutterstock
The use of depression medication has increased dramatically over the years. According to a survey from the Centers for Disease Control, about one in nine Americans reported taking at least one antidepressant medication in the past month. Thirty years ago, fewer than one in 50 people did so. The drugs have changed—and improved over that time, says Dr. Schwartz: The first class of antidepressants to be developed, MAOIs (monoamine oxidase inhibitors) fell out of favor due to concerns about interactions with certain foods and other medications. Today, SSRIs (selective serotonin re-uptake inhibitors) are the most commonly prescribed type of antidepressants, followed by SNRIs (serotonin and norepinephrine re-uptake inhibitors). The new classes of drugs have more tolerable side effects than MAOIs and are often used to treat conditions other than depression, such as anxiety, sleep disorderspain, premenstrual syndrome, and smoking cessation. One of the drawbacks of medication is that it may take weeks or months for the effects of the effects to kick in, but scientists are on the road to making anti-depressants work faster. If the drug you try doesn’t relieve your symptoms or causes side effects, you may need to try another to find the right one for your condition. Check out these 16 science-backed ways to help overcome depression naturally.
florida80
06-12-2019, 19:38
16 Science-Backed Ways to Overcome Depression Naturally
Taylor Shea
From the book 10,001 Timesaving ideas
Depression is a serious condition that demands a doctor’s treatment. But the following lifestyle changes may give you a boost if you’re feeling low.
Spend at least one hour each week with a close friend
iStock/fotografixx
In a British study, when 86 depressed women were paired with a volunteer friend, 65 percent of the women felt better. In fact, regular social contact worked as effectively as antidepressant medication and psychotherapy. Regular social contact with a close friend may boost self-confidence and encourage you to make other positive changes that will help in overcoming depression, such as starting an exercise program. Watch out for these hidden signs of depression.
florida80
06-12-2019, 19:39
Play with a dog a few minutes every day
iStock/Enrico Fianchini
When non-pet owners played with a dog for just a few minutes a day as part of a University of Missouri study, blood levels of the brain chemicals serotonin and oxytocin—both mood elevators—rose. Science has already proven these surprising health benefits of having a pet, but you don’t need to own a dog to experience these feel-good effects for overcoming depression (although dogs are great antidotes to the kind of chronic stress that can result in depression). Pet your neighbor’s dog for a few minutes a day, volunteer at an animal shelter, or stop by your local pet store for some furry one-on-one therapy.
florida80
06-12-2019, 19:39
Get a 12-minute massage three times a week
iStock/Oleksandr Gudenko
Whether you pay a professional or ask a spouse or friend to rub your back, the result is the same: a natural mood boost. In a study of depressed dialysis patients, participants who received a 12-minute massage three times a week were less depressed than those who didn’t get the soothing rub. Another study of 84 depressed pregnant women found those who received two 20-minute massages a week from their partners reduced their incidence of depression 70 percent. Researchers suspect massage boosts serotonin levels (which jumped 17 percent in the women who received twice-weekly massages) and reduces levels of the stress hormone cortisol, both equally helpful results when overcoming depression. These
everyday habits up your risk for depression.
florida80
06-12-2019, 19:40
Drink one to two cups of coffee or tea each morning
iStock/Kikovic
Regular, modest caffeine intake decreases the risk of depression by more than 50 percent, says Edward J. Cumella, PhD, a licensed psychologist and director of research and education for the Remuda Ranch Treatment Centers in Wickenburg, Arizona.
florida80
06-12-2019, 19:41
Look for mood-boosting foods
Walnuts, kiwi, bananas, sour cherries, pineapple, tomatoes, and plums are all naturally high in serotonin and ideal grocery list items for anyone overcoming depression. You can also eat foods high in tryptophan, an essential amino acid that your body converts to serotonin, a natural mood booster. Tryptophan is commonly found in proteins such as turkey, fish, chicken, cottage cheese, nuts, cheese, eggs, and beans. Consuming high-carbohydrate foods also encourages the amino acid tryptophan to flood your brain, boosting serotonin levels. A slice of whole-wheat bread slathered with honey, a snack of air-popped popcorn: look for whole grains, as white flour will provide similar benefits
florida80
06-12-2019, 19:42
Get more omega-3s
iStock/AlexRaths
A Dutch study found that people who consume diets rich in omega-3 fatty acids, a type of fat found in cold-water fish such as salmon and mackerel, were less likely to suffer from depression than people whose diets were low in this important fat. Another study, this one conducted in England, found that pregnant women who didn’t eat fish had twice the rate of depression as women who ate 10 ounces of fish a day. In fact, one reason researchers think the rate of depression has skyrocketed in this country is that we get so few omega-3 fatty acids in our diets. Another good idea for getting your omega-3s: Keep a container of ground flaxseed in the fridge. Flaxseeds, walnuts, soybeans, kidney beans, and black beans are all excellent sources
florida80
06-12-2019, 19:42
Take your vitamins
iStock/Tatomm
Ask your doctor if you should take 600 milligrams of chromium picolinate a day; in a study completed at Duke University, people with atypical depression—character ized by mood swings, carbohydrate cravings, weight gain, and lethargy—boosted their mood and reduced their carbohydrate cravings and other symptoms when they began supplementing their diet with chromium. You should also get the recommended amount (400 micrograms) of folate, an important B vitamin that may help lift depression. In a Finnish study published in the Journal of Nutrition, participants with the lowest folate consumption were at the highest risk for depression. Another study, published in the Annals of Clinical Psychiatry, found this vitamin helps enhance the effectiveness of antidepressant medication
vBulletin® v3.8.9, Copyright ©2000-2025, vBulletin Solutions, Inc.