PDA

View Full Version : Your's Health


Pages : [1] 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20

florida80
04-01-2019, 18:34
HƯỚNG DẪN SƠ CỨU (FIRST AID)
KHI BỊ CÔN TRÙNG, ĐỘNG VẬT VÀ NGƯỜI CẮN TRONG LÚC SINH HOẠT NGOÀI TRỜI Lynn Ly phỏng dịch theo "The Everything First Aid"


Những hoạt động ngoài trời như làm việc, vui chơi, giải trí, du ngoạn ở trong một số hoàn cảnh , khí hậu , và thời tiết . Khí hậu nóng và lạnh đều có thể gây ra những hệ quả đối lập (adverse consequences), và những sinh vật (critters) sống bên ngoài thỉnh thoảng gây dị ứng (ngứa ngáy khó chịu) hoặc tổn thương . Cơ thể bị thiếu nước hoặc ở cao độ (thí dụ lên đỉnh núi) và ở trong một số điều kiện ngoài trời khác cũng có thể làm bạn cảm thấy suy yếu đi .

Cho dù không có vấn đề ǵ khi bạn hoạt động ngoài trời, nhưng thật quan trọng bạn biết làm ǵ để chăm sóc hoặc trợ giúp những người bị chấn thương, bị bệnh tật bất ngờ .

I) BỊ CÔN TRÙNG, LOÀI VẬT VÀ NGƯỜI CẮN

Nhiều loại côn trùng và các sinh vật khác, bao gồm cả con người, gây ra các vết cắn và vết châm chích có thể cho cảm giác không thoải mái hoặc đe dọa tính mạng từ nhẹ nhẹ đến trung b́nh. Điều quan trọng là biết làm ǵ, làm thế nào để trị liệu, và khi nào th́ cần t́m kiếm đến trợ giúp từ chuyên gia y tế để trị liệu bất kỳ thương tổn tàng ẩn bên trong.

1) B̉ CẠP CẮN (SCORPION BITES)

Ḅ cạp là loại côn trùng nhiều chân có h́nh dạng giống tôm hùm (lobster-like arthoropods) nằm trong xếp loại côn trùng có nọc độc (arcahnid class, cùng loài nhền nhện = spider class), có một ng̣i / kim xoăn ở phần cuối nơi đuôi, và chúng thường được t́m thấy ở vùng sa mạc phía Tây Nam của Mexico (nước Mễ Tây Cơ). Những vết chích / đốt của bọ cạp dường như không có khả năng gây tử vong và dễ dàng điều trị, nhưng lại nguy hiểm cho trẻ nhỏ và người già hơn . Những triệu chứng bao gồm đau nhức ngay lập tức (immediate pain), nóng rát (burning), sưng tấy chút chút (minor swelling) và cảm giác tê (numb) hoặc ngứa ran (tingling sensation).

Những buớc sau đây cần nên thực hiện để trị liệu vết ḅ cạp cắn:
1. Rửa vùng bị ḅ cạp cắn bằng xà pḥng / xà bông và nước

2. Dùng túi trườm lạnh đặt lên vùng bị ḅ cạp cắn trong ṿng 10 phút , nếu cần thiết th́ lập đi lập lại việc trườm lạnh vùng bị cắn với khoảng cách giữa các lần trườm lạnh là 10 phút .

3. Gọi điện thoại đến trung tâm kiểm soát chất độc (the Poison Control Center), hay đi bệnh viện khi có bất kỳ triệu chứng nghiêm trọng ǵ

2) BỌ VE CẮN (TICK BITES)

Những người sống vùng rừng cây hay đồng cỏ, hay những người dành thời gian vui chơi giải trí ở những khu vực này th́ dễ bị bọ ve cắn . Loài côn trùng nho nhỏ này sống bằng cách hút máu các loài động vật có vú (mammals) thí dụ như hươu nai (deer), loài gậm nhấm (rodents), thỏ (rabbits) và có thể truyền bệnh từ động vật sang người .

Việc sơ cứu (first aid) những vết bọ ve cắn bao gồm loại bỏ con bọ ve đang bu bám ngay lập tức để tránh những phản ứng từ vết cắn và giảm thiểu tối đa các loại bệnh nhiễm trùng do bọ ve gây ra thí dụ bệnh Lyme, bệnh nóng sốt Colorado bọ ve (Colorado tick fever), bệnh nóng sốt được phát hiện ở núi đá (Rocky Mountain Spotted fever)

Để tháo bỏ con bọ ve bu bám trên người , hăy làm như sau:
1. Dùng cây nhíp (tweezers) hay cây kẹp nhỏ nhỏ cong cong hay thẳng thẳng (small curl or flat forcepts) kẹp lấy đầu con bọ ve và càng cận sát nơi da đang bị con bọ ve cắn càng tốt, rồi nhẹ nhàng kéo ra, đừng bóp nát hay xoay vặn con bọ ve

2. Rửa vùng bị bọ ve cắn bằng xà pḥng / xà bông và nước.

3. Bôi thuốc Antihistamine hoặc loại 1% hydrocortisone cream (loại kem chứa 1% chất hydrocortisone)


Cần phải có sự chăm sóc y tế chuyên nghiệp , nếu con bọ ve cắn quá sâu và bạn không thể tháo gỡ nó ra được, hoặc bạn đang ở trong khu vực được thông báo là có nhiều nguy cơ bị bệnh lyme, hoặc bạn có triệu chứng nóng sốt hay triệu chứng cảm cúm , hoặc bạn có trải nghiệm bắp thịt trở lên suy nhược, tê liệt (paralysis) , hoặc nổi vết tṛn đỏ trên da gọi là "phát ban mắt ḅ" (the bull's eye rash) là đặc chưng của bệnh Lyme .

CẢNH BÁO !!!
Đừng bao giờ bôi petroleum jelly (vaseline), rượu cồn ( alcohol ) ahy ammonia lên con bọ ve - chúng sẽ cắn chặt sâu vào da hơn. Nếu bạn đang ở trong vùng cảnh báo có nhiều nguy cơ bệnh Lyme mà bị bọ ve cắn, bạn nhất định phải phone báo bác sĩ để được tư vấn và ngay lập tức được chăm sóc và điều tri bao gồm việc sử dụng thuốc kháng sinh

phokhuya
04-01-2019, 23:49
:rolleyes:
Florida mở rộng địa bàn qua đến phần tin tức luôn à?
:6::6:

florida80
04-02-2019, 00:33
:rolleyes:
Florida mở rộng địa bàn qua đến phần tin tức luôn à?
:6::6:

hoc nghành y phải cứu người chớ anh

florida80
04-02-2019, 03:00
:rolleyes:
Florida mở rộng địa bàn qua đến phần tin tức luôn à?
:6::6:

em chỉ share tin y dược đến mọi người t́m hiểu thôi , c̣n những tin khác th́ o dám .

florida80
04-03-2019, 18:32
Tin Y Khoa:




Rủi Ro Nhiễm Phóng Xạ Khi Làm CT Scan




· Chúng ta nên thận trọng khi quyết định đi làm CT scan v́ rủi ro bị nhiễm phóng xạ hết sức nguy hiểm.




BỆNH NHÂN BỊ TIA PHÓNG XẠ GÂY HẠI trong một số khám nghiệm y khoa là điều rơ ràng. Tuy nhiên, để bệnh nhân tiếp xúc với tia phóng xạ bao nhiêu th́ mới gọi là nguy hiểm?




Các cuộc nghiên cứu mới đây đưa ra lời báo động cho rằng thủ tục làm CT scan được dùng ngày càng nhiều lúc gần đây, đưa đến nhiều nguy hiểm cho bệnh nhân. CT scan là viết tắt của chữ “computed tomography” nghĩa là kỹ thuật chụp h́nh các bộ phận bên trong cơ thể con người. Đôi khi c̣n gọi là “imaging” hay nội soi. Bác sĩ thường dùng phương pháp này để chẩn đoán bệnh. CT scan được sử dụng để t́m đủ mọi loại bệnh từ nơi nào nhiễm trùng, té ngă vỡ sọ, hay t́m bệnh ung thư. Bác sĩ Rebecca Smith-Bindman, ở bệnh viện UC San Francisco, và ê kíp chuyên viên của bà vừa mới đưa ra một phúc tŕnh nghiên cứu cho biết họ tỏ ư lo ngại v́ phương pháp CT scan được dùng khá nhiều lúc gần đây, tăng gấp ba lần kể từ năm 1996 cho đến nay. Bản phúc tŕnh nghiên cứu nói rằng kỹ thuật CT scan phóng ra nhiều chất phóng xạ (radiation) hơn là phương pháp chụp bằng quang tuyến X thông thường. Đặc biệt đối với trẻ em, rủi ro nhiễm phóng xạ c̣n cao hơn gấp bội phần. Một nhóm nghiên cứu quốc tế công bố bản báo cáo cho thấy trẻ em đang mạnh khoẻ, lỡ bị té ngă, đem các em đi làm CT scan, các em có nhiều rủi ro sẽ bị ung thư so với trẻ em từ chối không làm CT scan. Cuộc nghiên cứu này kéo dài 23 năm theo dơi. Những em làm CT scan có nhiều rủi ro bị ung thư năo gấp ba lần, và ung thư máu gấp bốn lần.




Các chuyên gia không đồng ư với nhau trong việc giải thích kết quả của cuộc nghiên cứu cho những bệnh nhân đang lo âu về nhũng điều ghi nhận trong kết quả nghiên cứu. Tổ chức Radiology Society of North America vẫn cả quyết rằng rủi ro gây ra bệnh ung thư v́ làm CT scan rất nhỏ so với những ích lợi mà kỹ thuật này giúp bác sĩ chẩn đoán bệnh. Ông Mark Pearce, một trong những tác giả nghiên cứu về rủi ro xảy ra cho trẻ em, thuộc trường đại học Newcastle University nói rằng; “Mặc dầu rủi ro có thể là gấp ba lần, nhưng đó là gấp ba lần của một con số rất nhỏ.”. Nhiều chuyên viên về quang tuyến, trong đó có cả bác sĩ Smith-Bindman, biện minh cho lập trường của ḿnh, và họ nói rằng việc dùng kỹ thuật CT scan đă bị lạm dụng v́ dễ sử dụng. Thậm chí, bệnh nhân đ̣i yêu cầu phải cho đi làm CT scan, và bác sĩ không ngần ngại cho đi làm CT scan chỉ v́ sợ rằng ḿnh có thể đă bỏ sót, chưa làm đầy đủ mọi chẩn đoán.




Dầu sao đi nữa, kết quả nghiên cứu cũng khiến cho các bác sĩ phải suy nghĩ lại trước khi quyết định gửi người bệnh đi làm CT scan. Bác sĩ Smith-Bindman đề nghị: “Chúng ta nên suy nghĩ lại và quyết định xem chúng ta có nên làm việc nội soi cho bệnh nhân hay không, và việc nội soi đó có được chứng minh là cần thiết cho bệnh nhân hay không.”






Lượng Phóng Xạ cho mỗi lần làm CT scan phần ngực gây nguy hại tương đương với:



a.) 1,400 lần chụp h́nh răng bằng quang tuyến X,


b.) 240 lần đi máy bay kéo dài 5 tiếng đồng hồ,


c.) 70,000 đi qua máy ḍ xét ở phi trường,


d.) 19 năm hút thuốc lá, mỗi ngày hút một gói 20 điếu.





Lấy đơn vị đo phóng xạ mSv làm chuẩn: Mỗi lần chụp quang tuyến X phần ngực chỉ bị 0.1 mSv. Dùng CT scan sẽ bị 7 mSv phóng xạ

florida80
04-03-2019, 18:34
6 Điều Quan Trọng Về Viêm Loét Dạ Dày Ai Cũng Cần Biết









Viêm loét dạ dày không chỉ gây đau đớn mà c̣n làm cho bạn yếu đi, không thể ăn uống ngon miệng hay tập trung vào công việc, hoạt động khác trong cuộc sống.


Đau bụng, nôn mửa, buồn nôn, có máu trong phân, khó chịu hoặc đau trong bụng... có thể là những triệu chứng của t́nh trạng loét dạ dày (hay loét dạ dày tá tràng). Viêm loét dạ dày không chỉ gây đau đớn mà c̣n làm cho bạn yếu đi, không thể ăn uống ngon miệng hay tập trung vào công việc, hoạt động khác trong cuộc sống. Bệnh cần được điều trị càng sớm càng tốt.




Dưới đây là những thông tin vô cùng quan trọng về bệnh loét dạ dày tá tràng mà mọi người cần nắm được để có thể pḥng và phát hiện bệnh sớm.





1. Viêm loét dạ dày là bệnh phổ biến hàng đầu trong các bệnh đường tiêu hóa, là t́nh trạng dạ dày bị "ăn ṃn" hoặc gặp những tổn thương ở lớp mô của dạ dày. Niêm mạc dạ dày, niêm mạc hoặc biểu mô dạ dày được xếp lớp với nhiều nếp gấp. Loét xảy ra trong lớp này. Nếu vết loét xuất hiện trong dạ dày hoặc ở phần trên của ruột non dẫn ra của dạ dày th́ được gọi là loét dạ dày tá tràng.




2. Loét dạ dày không loại trừ ai. Tuy nhiên nữ giới thường dễ mắc hơn nam giới. Bệnh có thể “tấn công” bạn nếu t́m thấy ở bạn môi trường và điều kiện tiềm năng.






3. Trước đây, chúng ta vẫn cho rằng căng thẳng trong thời gian dài, ăn các thực phẩm "xấu", uống và hút thuốc lá... là những nguyên nhân chính gây ra các vết loét trong dạ dày. Nhưng giờ đây, các nhà khoa học c̣n cho biết t́nh trạng loét dạ dày do nhiễm trùng bởi vi khuẩn, cụ thể hơn là Helicobacter pylori, gây ra. Helicobacter Pylori được cho là gây ra gần 65% các ca loét dạ dày và tá tràng.




Một số thuốc cũng được cho là gây ra viêm loét dạ dày, ví dụ như thuốc aspirin, clopidogrel... loại uống thường xuyên để giúp ngăn ngừa cơn đau tim hoặc đột quỵ, và các loại thuốc viêm khớp. Thuốc kháng viêm (NSAID) cũng được cho là gây ra khoảng 2/5 các ca loét dạ dày. Ung thư dạ dày ở bệnh nhân lớn tuổi cũng có thể do viêm loét dạ dày gây ra.




4. Một số trường hợp bị viêm loét dạ dày không có bất kỳ triệu chứng nào. Nhưng với một số trường hợp khác, người bệnh có thể gặp các triệu chứng và gây ra một số rắc rối nghiêm trọng. Các triệu chứng đó bao gồm: đau bụng ngay dưới lồng ngực, khó tiêu, buồn nôn, chán ăn, nôn mửa, sụt cân, nôn ra máu hoặc chóng mặt, có các triệu chứng của bệnh thiếu máu, chẳng hạn như chóng mặt và sốc do mất máu... Chảy máu trong dạ dày là một t́nh trạng nghiêm trọng, đặc biệt là ở những bệnh nhân lớn tuổi, v́ chúng có thể dẫn đến mất máu và gây tử vong.




5. Loét dạ dày có thể dẫn đến một số biến chứng như:

- Thủng dạ dày: bệnh nhân đột ngột có cơn đau dữ dội như dao đâm, bụng gồng cứng. Trường hợp này cần được phẫu thuật kịp thời nếu không sẽ nguy hiểm cho tính mạng.




- Xuất huyết tiêu hóa: Bệnh nhân có biểu hiện ói ra máu và có máu trong phân hoặc phân đen, hôi.




- Ung thư dạ dày: Ung thư dạ dày chiếm vị trí hàng đầu trong các ung thư đường tiêu hóa và cũng là một trong những biến chứng của các bệnh lư lành tính ở dạ dày mà không được điều trị hoặc điều trị không triệt để.




6. Loét dạ dày hoặc loét dạ dày tá tràng có thể được điều trị bằng thuốc như kháng sinh nhằm làm giảm acid trong cơ thể. Bên cạnh đó, người bệnh cũng cần điều chỉnh các thói quen ăn uống, sinh hoạt trong cuộc sống để trị bệnh hiệu quả. Người bị loét dạ dày nên ăn chậm, nhai kĩ để bảo vệ dạ dày tránh được những rắc rối như đau, viêm, loét, ung thư… Sau khi ăn, đừng vội vận động ngay, nên ngồi nghỉ ngơi thư giăn khoảng một giờ. Nên chia nhỏ các bữa ăn để không tạo nên sức ép làm việc nặng nề với dạ dày. Có thể ăn 4 - 5 bữa mỗi ngày. Nên ăn nhẹ vào bữa tối.




Theo T.T / Trí Thức Trẻ

florida80
04-03-2019, 18:40
Dịch Cân Kinh - Cách Tập và Kinh Nghiệm









Hùynh Bửu Khương




Gần đây tôi có đọc loạt bài Đạt Ma Dịch Cân Kinh của BS Lê Quốc Khánh trong nhật báo Người Việt ngày 17 và 18/1 1/2000và thấy rất vui mừng khi biết tập Cân Kinh thấy rơ, người nào có bệnh th́ Cân Kinh có thể chữa được nhiều bịnh nan y trong đó có cả bịnh ung thư. Do đó tôi muốn góp thêm ư kiến bằng cách nói lên kinh nghiệm bản thân về việc tập Dịch Cân Kinh để giúp đỡ đọc giả hiểu rơ hơn cách luyện tập và củng cố ḷng tin vào phương pháp tập luyện nàỵ




Vào năm 1974, chúng tôi được anh Nguyễn Kim Tri, Thiếu tá ở Vơ Pḥng Tổng Thống, cho chúng tôi phóng ảnh của quyển Dịch Cân Kinh bằng tiếng Tàu và khuyên chúng tôi nên tập luyện theo sách ấy, rất tốt cho sức khoẻ, v́ đây là cách luyện tập của chùa Thiếu Lâm dành cho môn sinh luyện trước khi học vơ.




Sau đó chúng tôi nhờ người dịch đại ư của quyển sách và tập luyện. Sau bốn tháng tập luyện mọi người trong pḥng tôi (Khối Đặc Biệt, Trung Tâm Phối Hợp Thi Hành Hiệp Định Ba Lê, Phủ Tổng Thống) đều đạt kết quả tốt. Người nào không có bịnh th́ đều lên cân, da dẻ hồng hào thấy rơ, người nào có bịnh th́ bớt bịnh. Ông Long, thư kư đánh máy, bị huyết áp cao th́ sau 4 tháng tập, huyết áp xuống b́nh thường mặc dầu không có uống thuốc. Lúc ấy ngày nào tôi cũng tập 1,200 cái đánh tay (Lúc mới khởi sự tập 200, về sau tăng dần)…


Sau tháng 4 năm 1975, suốt thời gian ở trong các trại cải tạo từ miền Nam ra tới miền Bắc, ngày nào tôi cũng tôi cũng tập Dịch Cân Kinh một lần, và vẫn giữ mức 1200 cái đánh taỵ Nhờ vậy mà mặc dù ăn đói và rất ốm yếu, tôi vẫn có thể chịu được và ít bịnh. Anh em nói v́ tôi là quan văn trong nghành vơ (luật sư Toà Thượng Thẩm Sài G̣n, thiếu tá) nên không có sức chịu đựng bằng các anh em khác, phần đông là tiểu đoàn trưởng tác chiến, quận trưởng hoặc hạm trưởng Hải quan cấp chỉ huy Biệt Kích Dù, an ninh quân đội v.v…




Hồi mới ra Hoàng Liên Sơn ở huyện Văn Chấn, thuộc tỉnh Nghĩa Lộc cũ, vào tháng 7 năm 1976, mỗi lần đi lấy gạo, tôi cùng một anh nữa khiêng lối 20, 25 kí đi bộ 7,8 cây số đường rừng. Khi về gần tới trại có đèo 19 tháng 5 rất cao, thường tôi yêu cầu anh cùng khiêng với tôi phải ngồi nghỉ một chút rồi mới đi tiếp. Sau đó tôi nói với thầy Thuần, một Đại Đức, thiếu tá tuyên úy Phật giáo, người ở cùng một láng và cùng tập Dịch Cân Kinh với tôi mỗi ngày, về việc tôi qua không nổi đèo 19 tháng 5. Thầy nói: “Bác cứ tập lên 2000 cái cho tôi, bác sẽ qua nổi đèo ấỵ Nghe lời thầy Thuần, tôi tập lên đến 2000 cái đánh tay mỗi ngàỵ


Và lối nửa tháng sau, khi đi lấy gạo, tôi được giao phải vác một ḿnh 20 kí, (v́ họ cho rằng chúng tôi ra Bắc một thời gian rồi, phải vác nổi 20 kí đi xa), nặng gấp đôi lần trước, thế mà khi qua đèo 19 tháng 5 tôi qua luôn, không phải ngừng lại để nghỉ như trước. Tôi biết ngay là nhờ tập Dịch Cân Kinh theo lối thầy Thuần chỉ nên mới đạt được kết quả ấy, chớ việc ăn uống th́ chúng tôi vẫn bị đói dài dài (ở miền Bắc trong ba năm đầu gia đ́nh không được gởi thực phẩm cho chúng tôi).




Hồi đó tôi tập nổi 2200 cái đánh tay cho mỗi lần là nhờ hằng ngày tôi phải leo núi, đồi, phải làm việc nặng nên chân mạnh hơn lúc ở Sài G̣n. Chân phải mạnh, rắn chắc th́ tập mới lâu được, v́ suốt buổi tập ḿnh phải đứng tấn.




Tôi c̣n nhớ, có một hôm chúng tôi phải khiêng một khúc cây to. Anh bộ đội nói “Chỉ cần 10 người khiêng cây này, anh nào yếu cho khỏi khiêng.” Tôi đưa tay lên xin khỏi khiêng v́ tôi biết là tôi yếu nhất trong anh em. Đồng thời có một anh nữa, anh Duyệt cũng đưa tay. Anh bộ đội trỏ tôi và nói: “Anh không yếu bằng anh này” vưà chỉ anh Duyệt. Sau đó tôi nh́n lại th́ thấy anh Duyệt mặt mày xanh xao mặc dù thực sự anh mạnh hơn tôi. Nhờ tập Dịch Cân Kinh mỗi ngày nên dù ăn đói nhưng da mặt tôi không xanh mét như một số anh khác.




Tập Dịch Cân Kinh giúp ḿnh luôn luôn ngủ ngon và không bao giờ bị táo bón, máu huyết được lưu thông mạnh trong thời gian tập, nhờ đó da dẻ chúng ta luôn được hồng hào và bệnh tật tan biến đi.


Sau đây tôi xin nói về cách tập thế nào cho đúng. Khi chúng tôi mới có cuốn Đạt Ma Dịch Cân Kinh, chúng tôi coi theo h́nh vẽ trong đó mà tập theo. Sau lối hai tuần tập luyện, chúng tôi thấy không có kết quả ǵ cả. Do đó chúng tôi phải nhờ người dịch cuốn sách ấy, và khi tập đúng cách rồi th́ kết quả thấy rất rơ.

Tôi xin diễn tả tư thế và việc phải làm của một người tập Dịch Cân Kinh:

1. Người tập Dịch Cân Kinh nên đi giầy hay dép, không nên đi chân đất,

Hai chân dang ra, khoảng cách giữa hai ngói chân cái bằng khoảng cách của hai vai, hai bàn chân bám chặt xuống giầy hay dép

2. Gồng cứng bắp chuối và bắp vế chân, hậu môn nhíu lại và thót lên.

Suốt buổi tập hai chân như trồng cây xuống đất, từ thắt lưng trở xuống luôn luôn cứng nhắc, không suy suyển

Tóm lại đó là thế đứng tấn của người luyện vơ. Nếu đă dang hai chân đúng tầm, đă gồng (lên gân) hai chân thật chắc, bám mười ngón chân thật chặt xuống dép hoặc giầy, nhíu hậu môn lại và thót lên rồi th́ ta thấy từ thắt lưng trở xuống chân thật là chắc nịch.

Và trong suốt buổi tập ta phải luôn chú ư đến phần từ thắt lưng trở xuống và làm đúng như thế.

Nếu ta không chú ư đến phần này th́ công phu luyện tập sẽ mất gần hết, không mang lại kết quả mong muốn.

3. Đầu như dây treo (giống như có sợi dây treo ḿnh lên vậy) để cổ được thẳng, mặt ngó về phía trước, nh́n một điểm cao hơn ḿnh một tí để cổ không rùng xuống.

4. Ở miệng, hai môi chạm nhẹ vào nhau, không mím môi cũng không hở môi. Hai hàm răng chạm nhẹ vào nhau (đầu chót luỡi chạm nướu răng trên để luồng điện được lưu thông)

5. Ở mỗi bàn tay, các ngón luôn dính vào nhau (chớ không phải x̣e ra, sách có vẽ h́nh rất rơ về điểm này). Khi đánh tay, ḷng bàn tay hướng về phía sau (tức là mu bàn tay đưa ra phía trước). Động tác duy nhất là đánh hai tay từ phía trước ra phía sau. Khi đưa hai tay ra phía trước, hai cánh tay sẽ hợp với thân người thành một góc 30 độ. Khi đánh tay ra phía sau, một góc 60 độ.




Tóm lại khi đánh tay ra phía sau, đánh hết tay. Khi đưa hai tay ra phía trước chỉ là một cái trớn của việc đánh tay ra phía sau c̣n lại mà thôi, do đó chỉ có 30 độ.


Mỗi lần đánh tay từ phía trước ra phía sau th́ kể một cái đánh tay. Khi mới bắt đầu tập, nên khởi sự đánh tay 200 cái mỗi lần tập. Nếu muốn mau có kết quả th́ tập mỗi ngày hai lần, sáng và chiều. C̣n nếu có ư chí lớn hơn nửa th́ tập ba lần mỗi ngày (sáng, trưa, chiều) càng tốt.

Tập ở ngoài sân hay ở trong nhà đều được miển là thoáng khí và yên tĩnh.




Không nên tập sau khi ăn cơm no. Khi thấy mệt là nghỉ ngay, không nên tập quá sức, và khi c̣n có thể tập nữa mà không mệt th́ nên tiếp tục tập cho đúng sức ḿnh.




Khi mới tập, khởi sự bằng 200 cái đánh tay mỗi lần tập, về sau khi thấy c̣n có thể tập thêm th́ tăng lên dần, thí dụ 250, 300, 350, v.v... Hồi tôi mới tập một thời gian ngắn sau là tôi lên đến 1200 cái đánh tay cho mỗi lần tập (trong 15 phút). Hồi đó c̣n trẻ nên tôi đánh rất nhanh, và mỗi ngày tôi chỉ tập một lần . Sau khi tập xong ta thấy khát nước (nên uống nước ngay), đó là tập vừa sức . Sau khi tập tôi thường đi chậm bằng cách giở chân lên cao, vừa co giản hai cánh tay.




Có người mới khởi sự đă tập trên 1000 cái th́ mặt bị nổi mụt ngay. Nếu tập đúng cách tôi thấy không có bị phản ứng ǵ cả mà càng ngày ta càng thấy khỏe ra. Ḿnh tập đuợc nhiều hay ít là do ḿnh có thể đứng tấn được bao lâu, chứ không phải ai muốn tập bao nhiêu lần cũng được. C̣n nếu đánh tay để đếm số lần cho được nhiều mà không gồng (lên gân) hai chân cho thật cứng chắc và nhíu hậu môn lại, thót lên th́ sẽ không đạt được kết quả mong muốn.




Về tốc độ đánh tay th́ sách nói đánh tay nhanh như người đi đánh đồng xa . Đánh tay càng nhanh th́ máu huyết lưu thông càng mạnh trong thời gian ấy, và sẽ cuốn theo mọi bệnh tật .

Sách nói muốn tập trị bệnh th́ nên tập từ 2000 - 3000 cái mỗi ngày trong ṿng lối 30 phút.

Và sau đây là hai nguyên tắc quan trọng cần phải áp dụng trong lúc tập:

1) Thượng tam hạ thất:

Nếu trong thời gian tập ḿnh dùng 10 phần sức lực th́ từ thắt lưng trở xuống ḿnh dùng đúng 7 phần và phải luôn luôn chú ư đến việc gồng cứng (lên gân) hai chân, nhíu hậu môn lại và thót lên.

Từ thắt lưng trở lên, ḿnh dùng 3 phần sức lực .

Đó gọi là thượng tam hạ thất, là thượng hư hạ thực, trên ba dưới bảy, hay trên hư dưới thực.

Trong việc đánh tay cũng thế. Khi đưa tay ra phía sau dùng 7 phần sức lực, đưa ra trước th́ chỉ dùng 3 phần.

Trước ba sau bảy, hay trước hư sau thực, đánh tay ra phía sau mới là thực cần thiết, và phải đánh cho hết tay.

2) Tâm b́nh khí tịnh:

Trong suốt thời gian tập ta không được suy nghĩ điều ǵ (điều này hơi khó) ngoại trừ việc nhẩm đếm số lần đánh tay. Đó là tâm b́nh. C̣n khí tịnh là trong thời gian tập ta thở b́nh thường, chứ không phải thở theo nhịp tay.




Có một môn phái thở theo nhịp tay, nghe nói đó là phái Vơ Đang. Nhưng phái Thiếu Lâm Tự th́ không thở theo nhịp tay.

Hồi tôi ở Hoàng Liên Sơn, tôi tập không thở theo nhịp tay, thầy Thuần thở theo nhịp tay, cả hai chúng tôi đều đạt kết quả tốt .




Sau cùng tôi xin nói một vài kinh nghiệm trong khi tập:

Nếu đánh tay nhanh mà ta thấy tê mười đầu ngón tay th́ đó là v́ ta không nhíu hậu môn và thót lên, hoặc là v́ ta để hở mười ngón tay (bàn tay năm ngón phải để dính với nhau, không được hở, điều này trong sách có vẽ h́nh rơ lắm).




Nếu lúc tập mà ta thấy đầu hơi nặng là v́ cổ ta không thẳng, đầu không như dây treo, luồng điện thay v́ đi xuống lại đi nguợc lên đầu.

Hồi ở Hoàng Liên Sơn, tối nào tôi cũng ra sân tập và đeo bao tay vi` trời lạnh. Khi đánh tay được lối 1500 cái trở lên là tôi thấy ấm người, khỏi mang bao tay nữa, và mỗi cái đánh tay nghe như có hai luồng điện chạy xuống hai chân vậy.


Bây giờ đă lớn tuổi, tôi chỉ tập nổi tối đa là trên dưới 800 cái đánh tay mỗi lần mà thôi. Thêm vào đó, ngày nào tôi cũng đi bộ ít nhứt nữa giờ và tôi thấy rất tốt cho sức khỏe, rất tốt cho việc tập Dịch Cân Kinh. Trong tất cả các môn tôi đă tập (hồi ở VN tôi tập dưỡng sinh trong vườn Tao Đàn), tôi nhận thấy môn Dịch Cân Kinh của Đạt Ma Tổ Sư là hữu hiệu hơn cả. Nhưng điều cần yếu là phải tin tưởng và kiên nhẫn tập đều đặn th́ mới có kết quả.




Orange, 12/12/2000

Huỳnh Bửu Khương

www.QuanTheAmBoTat.c om

florida80
04-03-2019, 18:41
Bệnh Ung Thư - Một Căn Bệnh Ngặt Nghèo







Trong chuyến đi về thăm Canada vừa qua, chúng tôi có rất nhiều niềm vui và sự ấm cúng được gặp lại bạn bè và người thân nhưng đồng thời chúng tôi cũng đă sống qua những giây phút chạnh ḷng. Đă có những người bạn thân của chúng tôi ra đi vĩnh viễn gần đây v́ bệnh ung thư. Và chúng ta đều biết bệnh này là một trong những căn bệnh ngặt nghèo nhất trong thời đại chúng ta đang sống.


Vừa qua, tôi nhận được tạp chí Science et Vie, một tạp chí có giá trị xuất bản ở Pháp, số đặc biệt nói về bệnh ung thư. Và tôi đă để th́ giờ đọc và tóm tắt những chi tiết quan trọng dưới đây.


Hiện nay theo thống kê của bộ y tế Pháp, một trên hai người đàn ông Pháp và một trên ba ngựi đàn bà Pháp trước sau cũng phải bị con bệnh ung thư đến viếng trong cuộc đời của họ. Bệnh này đă được nhà y sĩ kiêm hiền triết Hippocrate khám phá ra từ thế kỷ thứ tư trước công nguyên và bệnh ung thư đă trở thành nguyên nhân đầu tiên trong các bệnh gây tử vong ở Pháp năm 2004.


Các phương pháp chữa bệnh ung thư ngày nay cũng rất tiến bộ, nhờ vào những nghiên cứu trong ngành y khoa gần đây. Bên cạnh những cuộc giải phẫu và phương pháp dùng tia phóng xạ và dùng thuốc hoá học cực mạnh, hiện nay các nhà nghiên cứu đang phát triển một phương pháp dùng những tế bào đặc biệt mà họ có thể tiêm vào máu để “tiêu diệt” thẳng những tế bào ung thư.


Trước khi nói thêm về những phương pháp chữa bệnh ung thư của y khoa Âu Mỹ, tôi xin ôn lại những cấu trúc của căn bệnh trầm kha này.


Hiểu bệnh


Trong cơ thể chúng ta có khoảng 200 loại tế bào khác nhau. Tế bào gan, tế bào máu, da, và những nơ ron của óc v.v…; mỗi loại tế bào có công năng và cấu trúc riêng rẽ. Trong tất cả những tế bào này, chỉ có khoảng 10% là trường thọ (nghĩa là sống rất lâu, nhiều sách dùng chữ bất tử (cellules immortelles)), c̣n lại đều theo một chu kỳ tự hủy hoại và tự làm mới không ngừng. Mỗi ngày, trung b́nh có khoảng một ngàn tỉ tế bào trong cơ thể chúng ta tự hủy diệt và cùng lúc có cả ngàn tỉ tế bào mới được sinh ra. Khi sự hủy diệt và sự sinh sản của các tế bào nằm trên thế quân b́nh (nghĩa là số lượng hai bên bằng nhau), mọi việc êm đẹp, sức khoẻ chúng ta được ǵn giữ. Khi thế quân b́nh ấy lung lay, bệnh ung thư gơ cửa đặt chân vào nhà.


Theo sự giải thích đơn giản nhất của các bác sĩ chuyên môn, bệnh ung thư nhen nhúm khi có một số tế bào thoát khỏi cấu trúc của sự hủy hoại tự nhiên và trở thành bất tử. Những tế bào này thoát khỏi mọi kiểm soát của cơ thể và tiếp tục tự sinh sôi nẩy nở và khi chúng trở thành đông đảo, chúng tụ họp lại thành một cái bướu (tumeur). Cái bướu này không ngồi yên mà tiếp tục hoạt động và tự tạo ra những mạch dẫn máu riêng biệt và dùng những mạch máu này đưa những tế bào mới (hung hăng, hay c̣n gọi là có ác tính) đi vào những bộ phận khác của cơ thể và dần dà tạo thành những ốc đảo (bướu) mới. Lúc đó các nhà chuyên môn gọi t́nh trạng này là ung thư toàn diện (cancer généralisé hay métastases).


Tất cả cấu trúc của sự sinh sản ra tế bào ung thư, theo những lư thuyết căn bản hiện thời, nằm trong các gien (gènes) của chúng ta (c̣n được gọi tắt là ADN hay DNA). Mỗi tế bào của con người chứa khoảng 30,000 gien. Những gien này được trao truyền lại từ cha mẹ (và tổ tiên) chúng ta. Chúng có mặt và có công năng giúp các tế bào mới được sinh sản đúng theo gien mà chúng ta đă được trao truyền. Phần lớn các nhà chuyên môn nghiên cứu về bệnh ung thư ngày nay (trừ hai bác sĩ ở Boston, xin xem chú thích cuối bài này (*)), đều xác nhận là trong quá tŕnh sinh sản những tế bào mới, đôi khi công thức ADN (DNA) bị sai lệch và không được theo đúng. Ở mỗi đầu dây ADN, có một một nhóm nhỏ được gọi là đồng hồ chẩn y (télomères) ngày đêm canh gác và săn sóc những tế bào mới sinh. Khi sự chẩn y này không chạy hay bị trục trặc, việc sinh sản những tế bào mới không theo đúng công thức ADN b́nh thường và những tế bào mới này đơn phương hoạt động và biến đổi dưới những dạng ADN khác nhau. Các nhà nghiên cứu t́m thấy 33,000 bộ mặt ADN mới trong các bướu ác tính ở da và khoảng 23,000 trong những bướu ung thư ở phổi. Gần đây nhất, các nhà nghiên cứu t́m ra thêm là những gien mới có khả năng biến những tế bào b́nh thường thành tế bào khác thường (có ác tính) và phương thức biến hoá này rất phức tạp và biến đổi liên tục. Và chính v́ sự phức tạp và tính cách biến đổi nhanh chóng này mà ngành y khoa hiện nay chưa t́m ra được thuốc chữa phổ quát (universel). Tuy thế các nhà chuyên khoa hy vọng sẽ t́m được thuốc chữa cho từng loại ung thư khác nhau.


Sau đây là tóm tắt các loại ung thư đang được nghiên cứu (v́ sự hiểu biết về từ ngữ y khoa của người viết bài này yếu kém nên xin được mạn phép “mượn” những từ y-khoa Pháp):


• Adénocarcinome và carcinome: chiếm đa số (85%) những bệnh ung thư của các bộ phận như vú, gan, bao tử, phổi v.v…

• Sarcome: 2%, xương, gân cốt, mạch dẫn máu và các ống quản…

• Lymphome: 5-7%, tuyến, lá lách, đường tiêu hoá, bộ phận sinh dục…

• Leucémie và myélome: 4%, máu, tủy…


Việc đầu tiên đập vào mắt tôi là thống kê về ung thư trên toàn cầu. Có một sự khác biệt rơ rệt về số người chết v́ ung thư giữa bắc và nam bán cầu (không tính Úc Châu). Ở Nam Mỹ và Phi Châu số người chết về ung thư rất ít. Tôi ṭ ṃ đọc thêm th́ người viết bài có chú thích thêm là ở những nước nghèo ở nam bán cầu, người ta chết v́ những bệnh truyền nhiễm trước khi khám phá ra họ có bệnh ung thư. Và thống kê về bệnh ung thư rất hiếm hoi. Ngay chỗ tôi ở hiện nay (Yaoundé, Cameroun), không ai nói tới bệnh ung thư cả. Phương tiện chẩn bệnh và chữa bệnh ung thư ở đây hầu như không có, th́ làm ǵ mà nói đến thống kê. Những bệnh gây tử vong lớn nhất ở đây là bệnh sốt rét rừng (malaria hay paludisme), bệnh HIV và bệnh lao, sau đó chiếm hạng tư là những người chết bởi tai nạn lưu thông. Và theo thống kê của những nước Âu Mỹ, tỷ lệ người bệnh được cứu sống sống sau khi ung thư được phát hiện sớm ngày nay cao hơn so với cách đây 10 năm trước nhờ vào những thuốc chữa mới. Và dưới đây là thống kê của bộ y tế Pháp:


• Ung thư tiền liệt tuyến (prostate, đàn ông), tỷ lệ cứu sống sau khi ung thư phát hiện: 80%

• Vú (phụ nữ), 85%

• Ruột, 56%

• Phổi, 14%

• Cổ họng và mồm, 95%

• Máu, 55%

• Thận, 62%

• Bọng đái, 58%


Những nguyên nhân đưa đến bệnh


Theo tổ chức quốc tế về sức khoẻ (OMS), hiện nay, tùy nơi chốn chúng ta sống, người dân của rất nhiều quốc gia trên thế giới, v́ nhu cầu mở mang kinh tế và mưu sinh, không c̣n sống gần thiên nhiên như tổ tiên họ. Con người, với sức khám phá và cuộc thi đua kinh tế cũng như quân sự, đă bào chế hơn 100,000 chất hoá học. Đa số những chất này được dùng trong hầu hết những kỹ nghệ canh tác nông nghiệp, chăn nuôi, thực phẩm, dược phẩm và những kỹ nghệ bào chế xe hơi, máy bay, tàu thủy cho đến tất cả những máy móc dùng trong nhà chúng ta hằng ngày. Những độc tố gây ra bởi sự tranh đua này hiện nay được t́m thấy trong nước uống, trong không khí chúng ta thở và trong thức ăn chúng ta dùng mỗi ngày. Hiện nay ở những nước Âu Mỹ, đă có những phong trào ăn uống dùng thức ăn được biến chế hoặc trồng trọt từ những nông trại không dùng thuốc hoá học và các thuốc trừ sâu. Thực phẩm mang tên “bio” (bên Pháp) hoặc mang tên “organique” (Bắc Mỹ) có thể được t́m thấy dễ dàng hầu hết trong các siêu thị. Và tương lai, nếu số người dùng những thức ăn này tăng lên, giá hàng sẽ rẻ đi (hiện nay th́ khá đắt nếu quư vị muốn hoàn toàn ăn theo kiểu bio (dịch tiếng Việt là dưỡng sinh được không? ở trong nước họ dùng chữ “sinh thái” để dịch cho chữ écologique).


Môi trường thiên nhiên có nhiều độc tố, thêm vào đó, cũng theo tạp chí Science et Vie, cách sống và mưu sinh của con người trong những xă hội tân tiến làm tinh thần họ luôn căng thẳng (stress). Một số bác sĩ tin rằng có sự liên hệ mật thiết giữa tâm thần (mental) và bệnh ung thư, mặc dù họ chưa hiểu rơ sự liên hệ này. Tôi có một anh bạn sau khi ung thư phát hiện, bác sĩ nói anh chỉ sống thêm khoảng 6 tháng là nhiều. Anh đi học tu theo đạo Phật và sống theo phương pháp thiền của đạo Phật và anh đă sống thêm được gần 10 năm. Ngày nay bên Mỹ, ở vùng Boston, có ông bác sĩ tên là Jon Kabat-Zin đă mở một trung tâm chữa bệnh tâm thần bất an và bệnh ung thư bằng phương pháp sống có chánh niệm của đạo Phật (phương pháp ông được gọi là mindfulness based stress-reduction technique). Ông này đào tạo được rất nhiều chuyên viên về ngành y tế và những người này khi về lại thành phố họ, đă tiếp tục đóng góp cho cộng đồng của họ qua những dịch vụ y tế dùng phương pháp của ông Kabat-Zin.


Ngừa bệnh


Theo tạp chí Science et Vie th́ cách ngừa bệnh hay nhất là chúng ta phải có một đời sống thật đơn giản, một cách sống kỷ cương và có ư thức, nhất là ăn uống cẩn thận và có chừng mực, tránh xử dụng những chất có nhiều độc tố, và phải luôn hoạt động thể dục cơ thể cũng như tạo cho ḿnh những niềm vui lành mạnh. Đă có rất nhiều sách viết về cách ăn uống để ngừa bệnh ung thư. C̣n vấn đề giảm bớt những phiền năo và lo âu trong cuộc sống thường nhật đầy bươn chải và nhiễu nhương th́ tạp chí chỉ nói là mỗi chúng ta phải tự t́m ra những phương pháp riêng và thích hợp cho ḿnh. Cộng đồng VN chúng ta ở hải ngoại đă có những hội đoàn tổ chức các buổi tập thể dục dưỡng sinh như khí công, yoga, tài chí v.v… và những khoá tu thiền theo những pháp môn khác nhau của đạo Phật và đạo Chúa. Có một số người xả stress bằng cách đánh bóng bàn mỗi tối sau khi ăn hoặc đi bộ cả mấy tiếng đồng hồ trên chiếc tapis có máy quay (thread mills), hoặc đi bơi; có người th́ thích học và tập nhảy theo những điệu nhảy latino rất kích động gọi là zumba v.v… Bất cứ loại thể dục nào nếu chịu khó làm đều đặn đều tốt cả. Và dĩ nhiên một đời sống gia đ́nh êm ấm đoàn tụ cũng là một yếu tố quan trọng khác.


Chẩn bệnh


Ở các nước tân tiến, điều kiện chăm sóc về y tế và sức khoẻ người dân tương đối khá đầy đủ. Việc chẩn bệnh sớm nhờ vào máy móc tối tân cũng giúp và cứu được rất nhiều người cho những bệnh ung thư về vú, ruột, tử cung, tiền liệt tuyến và da. Phương pháp chẩn bệnh khác nhau tùy từng loại ung thư. Về ung thư vú th́ bác sĩ khuyên các phụ nữ trên 50 tuổi nên có rọi kiếng (hay chụp h́nh, radiographie) mỗi hai năm. Những h́nh này cho thấy rất sớm những tế bào ung thư chưa kịp làm thành bướu. Về ung thư ruột th́ việc chẩn bệnh rất đơn giản: chỉ cần dùng thuốc Hemoccult II (và chính bạn cũng có thể tự làm) để t́m ra những vết máu trong phân. Về ung thư tử cung th́ việc chẩn bệnh cũng dễ dàng: bác sĩ dùng dụng cụ mềm để xoa và lấy một phần da trên mặt tử cung và đem đi xem bằng kính hiển vi (microscope) sau đó. Về ung thư tiền liệt tuyến th́ ngoài việc khám tại pḥng bác sĩ để xem độ lớn của tiền liệt tuyến, họ c̣n thử cường độ PSA trong máu. Và cuối cùng là ung thư da: bác sĩ dùng kính đặc biệt để xem thẳng những vùng da trên người bạn bằng mắt thường.


Những cách chữa bệnh theo khoa học tân tiến Âu Mỹ


Giải phẫu: cách thông thường hiện nay là phương pháp cắt bỏ vùng có tế bào ung thư hoành hành. Bác sĩ William Stewart Halsted là người đầu tiên dùng phương pháp này trên vú (mastectomie) bên Mỹ năm 1890. Ngày nay nhờ vào tiến bộ kỹ thuật, những phương pháp mổ này tinh vi và nghệ thuật hơn.


Cách dùng hormone (hormonothérapie): phương pháp này dùng một số hormones để chận sự tăng trưởng của một số bệnh ung thư như ung thư vú và tiền liệt tuyến, được phát hiện từ năm 1896.


Xử dụng tia phóng xạ X: nhờ vào những khám phá của bà Marie Curie, ngày nay việc dùng quang tuyến X trở thành chuyện dễ dàng, từ việc dùng tia này để tiêu hủy những tế bào ung thư cho đến việc chụp h́nh những vùng bị tế bào ung thư xâm chiếm (scintigraphie, Petscan…).


Dùng máy chụp và xoi cực bé (endoscope): với kỹ thuật dùng những dây thật bé (làm bằng fibre de verre) và mềm mỏng, các bác sĩ có thể nh́n và cắt đi những bướu ung thư mọc trong những vùng hóc hiểm xa xôi của cơ thể mà không cần phải mổ bệnh nhân.


Dùng thuốc hoá học cực mạnh (chimiothérapie): năm 1943, một tai nạn xảy ra ở hải cảng Naples trên một tàu chiến của Hoa Kỳ. Một cái b́nh chứa hơi moutarde (mustard) bị vỡ và một số thủy thủ hít phải hơi độc. Bác sĩ Alfred Gilman theo dơi bệnh t́nh của mấy bệnh nhân này và nhận xét là số bạch huyết cầu (globules blancs) trong máu họ giảm đi rất nhiều. Từ đó các bác sĩ nghĩ ra cách làm thuốc hoá học để tiêu diệt những bạch huyết cầu ác tính trong những bệnh ung thư máu. Từ đây, phương pháp dùng những chất hoá học cực mạnh (méthotrexate, actinomycine, caryolysine…) ra đời.


Dùng tia phóng xạ gamma, từ trường và tia positron: Bác sĩ Mỹ Hal Anger được xem là người đầu tiên (1957) dùng máy ảnh chụp h́nh những vùng có bệnh trên cơ thể nhờ vào những tia phóng xạ gamma từ những bộ phận cơ thể có tế bào ung thư phát ra. Những tia gamma này phát ra từ một dung dịch được bơm vào vùng có bệnh dưới dạng chất lỏng (tỉ dụ như chất iode 123 dùng trong việc chẩn bệnh yết hầu) trước khi chụp. Và c̣n nhiều phương pháp dùng tia phóng xạ hay từ trường ngày càng tối tân như IRM (hay MRI, imagerie par résonance magnétique) hay TEP (topographie par émissions de positrons)…


Dùng những thực vật thiên nhiên như cây IF (một loại thông): lá và vỏ cây IF có chất taxol có tác dụng ngăn ngừa sự sinh sản của tế bào ung thư và được dùng để chữa một vài ung thư như tiền liệt tuyến, phổi và vú.


Chữa bệnh bằng thuốc chỉ nhắm vào tế bào ung thư (thérapies ciblées): phương pháp này được áp dụng từ năm 2000 và ngày càng tiến bộ. Nguyên tắc của cách chữa này là nhắm vào tế bào ung thư và tránh tối đa không động đến những tế bào lành mạnh. Hai nhà nghiên cứu người Mỹ về sinh học, ông Harold Varmus và ông Michael Bishop, là những người đầu tiên khám phá ra những gien biến đổi của gien b́nh thường (1976). Cho măi đến năm 2001 mới bắt đầu có thuốc chỉ nhắm vào những gien ung thư được bào chế. Gần đây nhất có thuốc Avastin được dùng để bóp nghẹt những bướu ung thư. Người ta tiên đoán từ nay đến năm 2015 sẽ xuất hiện rất nhiều thuốc mới càng ngày càng hiệu quả hơn.


Nguyễn Duy Vinh


(cựu học sinh trung học Nguyễn Trăi Sài G̣n)


(*) hai giáo sư chuyên về ung thư, ông Carlos Sonnenschein và bà Ana Soto của đại học Tufts (Boston, USA) nghĩ rằng bệnh ung thư là do sự xáo trộn của những tế bào được gây ra bởi sự truyền thông giữa các tế bào bị gián đoạn.


Sưu tầm

florida80
04-03-2019, 18:51
Vấn Đề Sức Khỏe Không Nên Bỏ Qua : Phần 1 - Arthritis




Arthritis : Đau nhức các khớp xương, hay c̣n gọi là phong thấp







Có hai loại Đau nhức: Osteoarthristis, tạm gọi là loại Một (cho các vị cao niên dễ nhớ) và Rheumatoid Arthritis mà ta tạm gọi là loại Hai.




Loại Một gây ra những đau nhức ở cổ, vai, bàn tay, ngón tay, đầu gối, xương chậu... Nguyên nhân thường là do tuổi tác (phụ nữ trên 45 tuổi có thể mắc bệnh này), thoái hóa xương, di truyền, bệnh mập ph́, hay do những động tác không ngay ngắn được lập đi lập lại lâu ngày như ngồi ghế cong lưng, ngồi lái xe mà thắt lưng bị bẻ cong, nghiêng đầu sang một bên, tay đánh máy suốt ngày không thư dăn, đứng một vị thế cong trong nhiều giờ, nhiều ngày.... Trên nước Mỹ có tới 21 triệu người bị đau loại Một.




Loại Hai cũng đau ở các đốt xương, có thể sưng lên, làm biến dạng xương, khó đi đứng, cử động. Loại này có trên 2 triệu nguời mắc bệnh. Nguyên nhân có thể do hệ thống miễn nhiễm không làm việc tốt, bị di truyền, hay v́ thời tiết thay đổi đột ngột.




Nói chung cả hai loại đều gây đau nhức, nhiều người cảm thấy “khốn khổ, khốn nạn” khi bị các cơn đau hành hạ. Hoặc đi một lúc th́ cảm thấy nhức chân, rồi đi lệch lạc. Hoặc ngủ không nổi v́ khớp xương đầu gối buốt quá. Hoặc ngồi lâu th́ tê hai bả vai...




Thường th́ có ba (3) cách điều trị các bệnh đau nhức : Thuốc uống (Medication), giải phẫu (Surgery) và Không dùng thuốc (Non-medication). Hai phương pháp đầu tiên, dĩ nhiên, là phải qua Bác sĩ.




Phương pháp thứ Ba: Không dùng thuốc lại gồm ba cách: châm cứu, vật lư trị liệu, và tập luyện (exercise). Trong ba cách này, Tập Luyện (Exercise) dễ hơn cả và tác dụng lâu bền hơn cả. Châm cứu có tác dụng tức khắc, nhưng cũng hết tác dụng nhanh lắm. Vật Lư trị liệu cũng thế. Khi được Mát xa, th́ thấy rất “đă”, nhưng chỉ một ngày sau là lại đau như cũ. Vậy chỉ c̣n các TẬP LUYỆN lấy một ḿnh, không tốn tiền, không phải giải phẫu, cũng không phiền ai, nhưng chỉ cần Ư CHÍ tự thắng mà thôi.




Người viết bài này, chỉ c̣n một ít chỗ khớp xương nào c̣n nguyên vẹn mà chưa lần ...gẫy. Tuổi trẻ, đi tập đủ loại vơ nghệ: Nhu Đạo, Thái cực Đạo, Hapkido, Aikido, Thiếu Lâm.. không môn nào mà không mang cho thân thể một lần trật xương, gẫy vỡ. Đấu vật th́ cắm đầu xuống đất, lọi cổ tưởng chết. Rồi chống tay xuống đất, vỡ xương cổ tay, lọi cùi chỏ.. Nhẩy qua chướng ngại vật: gẫy vai (2 lần). Đá người th́ bị lọi ngón chân. Vật người th́ bị gẫy thắt lưng... Bó bột liên miên, hết tay lại chân. Vào nhà thương chích thuốc rồi qua Thầy Cự Thất bó gà, qua Thầy Tầu điểm huyệt, có lần nhờ thầy Cao Miên thổi bùa cho lành vai... Tất cả những lần gẫy vỡ ấy, tuổi thanh niên sung sức chẳng coi nhằm nḥ ǵ, giờ này, mới thấy thấm thía: đau nhức khắp người. Muốn hết đau nhức mà không muốn uống thuốc, không chích Cortisone, không đi Bác sĩ chỉnh xương, th́ phải tập luyện hoài hoài, ngưng tập là .. đau! Cho nên, viết bài này để chia xẻ những ai đau đớn v́ bệnh phong thấp, nhức xương, mong mọi nguời cùng khỏe.






Nguyên lư :




Hệ thống thần kinh của con người chạy cùng khắp thân thể, chỗ nào cũng có, từ đầu cho tới ngón tay, ngón chân. Tuy nhiên, theo h́nh vẽ về hệ thần kinh được treo tại các pḥng mạch Tây, Đông Y, ta thấy chùm dây thần kinh đi từ sau ót tỏa ra cánh tay, xuống lưng, qua xương sống, tới hông, đùi, rồi chân (trông như một bó dây điện) là chùm quan trọng nhất. Nếu bị “kẹt” đâu đó, th́ đau. “Kẹt” trên cổ có thể gây đau ra cánh tay, bàn tay. “Kẹt” thấp xuống dưới th́ đau bắp thịt lưng, đau thắt lưng, “kẹt” ở chỗ thắt lưng lại gây đau ở đùi, chân... Cho nên, khi bị đau quá v́ xương thoái hóa hay v́ đụng xe, mà phải giải phẫu, bác sĩ sẽ cân nhắc rất kỹ. Mổ ở thắt lưng, nếu “xui”chạm giây thần kinh, có thể bị liệt chân mà thôi, nếu mổ ở cổ mà bị “xui”, có thể liệt cả người! V́ thế, chỉ những trường hợp đau cổ chịu hết nổi, bắt buộc phải giải phẫu th́ phải kư giấy chấp nhận 50/50, một là khỏi, hai làđời xe lăn. Hên th́ cũng có thể phải ghép một cây sắt vào trong cổ. Đôi khi phải mổ lại.. Chỉ c̣n cách Tập Luyện, cho thư giăn thần kinh chỗ gây đau, cho mạnh bắp thịt chỗ đau, cho khớp xương được chuyển động dịu dàng trở lại, kích thích chất nhờn đầu khớp xương phục hoạt, điều chỉnh lại những chỗ lệch lạc xương cốt, th́ sẽ .. bớt đau (không phải HẾT đau, v́ hễ ngưng tập một thời gian, có thể đau lại).




A- CHỮA ĐAU CỔ, ĐAU VAI, ĐAU TAY :



1-Xoay cổ trái phải: nh́n thẳng trước mặt, xoay cổ từ trái sang phải chầm chậm, mắt vẫn nh́n ra đằng trước, từ từ hít vào. Từ từ trả cổ trở lại phía trước, rồi xoay sang bên phải, mắt vẫn nh́n ra đằng trước, thở ra. Nhớ xoay cho hết cỡ, tới khi không xoay được nữa th́ thôi. Làm 10 lần.




2-Gập cổ: ngửa cổ lên chầm chậm cho tới hết cỡ, từ từ hít vào. Chầm chậm gập cổ xuống ngực, hết cỡ, thở ra. Làm 10 lần.




3-Bẻ cổ: Mắt nh́n thẳng đằng trước, bẻ cổ nghiêng xuống đầu vai trái, hít vào. Từ từ thở ra, bẻ cổ qua đầu vai bên kia. (Khác với xoay cổ trái phải: ở đây, khi bẻ đầu xuống vai th́ đầu vai có hơi nhô lên cho chạm với đầu, c̣n xoay cổ trái phải th́ chỉ quay đầu vào khoảng trống sau vai mà thôi). Làm 10 lần.




4-Xoay cổ ṿng tṛn: Dùng điểm tựa là cổ, xoay ṿng đầu chung quanh cổ, từ phải sang trái 10 lần rồi từ trái qua mặt 10 lần.




B-CHỮA ĐAU CÁNH TAY, BÀN TAY :



1-Xoay vai: hai tay buông thỏng, dùng đầu vai làm điểm tựa, xoay vai theo một ṿng tṛn chạy chung quanh đầu vai ( không phải nhô lên, hụp xuống) từ sau ra trước, rồi từ trước ra sau. 10 lần. Trong khi xoay vai, vẫn hít thở đều đặn.




2-Lắc bàn tay: giơ cánh tay ra trước mặt, cùi chỏ ép hai bên thân ḿnh, giữ nguyên cổ tay và cánh tay, hai bàn tay để trước mặt, ḷng bàn tay hướng vào phía ngực. Lắc từ trên xuống dưới (như giũ giũ bàn tay) thật mạnh 10 lần. Đổi hướng, cho mu bàn tay lên trên, ḷng bàn tay hướng về mặt đất, giũ mạnh bàn tay từ trên xuống dưới. 10 lần. Đổi hướng, hai ḷng bàn tay quay vào nhau, giũ mạnh bàn tay từ trái qua phải, từ phải qua trái. Những người thư kư đánh máy, làm “neo”, thợ may.... phải tập bàn tay thường xuyên, nếu không, có thể bị mổ cổ tay v́ khớp xương cổ tay bị cứng khô lại.




3-Vẽ ṿng trên đất: đứng rộng chân ra, một tay vịn vào mặt bàn, nguời nghiêng xuống cho song song với mặt đất, cánh tay buông thỏng, tưởng tượng như đang cầm một cái que, vẽ một ṿng tṛn tưởng tượng thật to trên mặt đất . Vẽ nhanh 10 lần rồi đổi tay. Hít thở đều ḥa.




C-CHỮA ĐAU THẮT LƯNG, ĐÙI, CHÂN :



1-Xoay thắt lưng theo ṿng tṛn: hai tay chống hông, ngón tay để ra sau lưng, ngón cái phía trước, các ngón tay ấn mạnh vào thắt lưng, dùng thắt lưng làm điểm tựa, xoay ṿng bụng ra trước rồi ṿng qua bên phải (bên trái) ra sau, rồi ṿng tới trước. Làm liên tục không ngừng, khi ra tới trước, th́ bụng phải ưỡn ra hết cỡ. Khi ra sau th́ thắt lưng cong lại cũng hết cỡ. Hít thở chầm chậm theo ṿng.




2-Gập lưng: cũng như gập cổ, ngửa lưng ra, hít vào, gập thắt lưng xuống, thở ra. Khi ngửa lên, ngửa hết cỡ, khi gập xuống, cũng gập hết cỡ.




3-Xoay hông: hai tay buông thơng bên sườn, vặn người qua bên trái th́ hai cánh tay cũng “văng” theo bên trái, nghĩa là không dùng sức tay, chỉ để cho hai cánh tay “văng” theo mà thôi. Xong, vặn người qua bên phải. Hai cánh tay lại “văng” theo bên phải. Nhớ khi xoay sang bên nào th́ xoay gót chân bên đó, và bàn chân bên đó nhấc lên, nghĩa là xoay trên gót chân mà thôi. Mục đích làm cho ṿng xoay rộng thêm, nếu giữ nguyên bàn chân trên mặt đất, ṿng xoay sẽ ngắn lại. Hít thở chầm chậm.




D-CHỮA ĐAU ĐẦU GỐI :



1-Xoay gối trái phải: đứng vừa phải, hai bàn tay đặt trên đầu gối, thấp người xuống, xoay đầu gối theo một ṿng tṛn về phía phải (theo ṿng kim đồng hồ) 10 lần rồi đổi hướng quay theo bên trái.




2-Xoay gối trong ngoài: đứng rộng chân ra, hai tay đặt trên đầu gối, thấp người xuống, xoay đầu gối từ ngoài vào trong rồi từ trong ra ngoài.

Các thế đầu gối này, mới đầu th́ chỉ thấp người xuống một chút, sau đó, mỗi ngày càng thấp người xuống hơn, công lực sẽ mạnh hơn. Chỉ cần làm 10 phút, là đă thở mạnh, toát mồ hôi rồi. Người nhức đầu gối ban đêm phải tập trước khi lên giường ngủ.



Lưu ư :



- Những thế tập này chỉ được áp dụng với người chưa giải phẫu xương lần nào. Nếu đă giải phẫu cổ th́ không được tập cổ. Nếu giải phẫu lưng rồi mà muốn tập lưng, phải hỏi bác sĩ, xem phim X-ray có trở ngại ǵ không..

- Phối hợp vừa châm cứu, vừa mát xa, vừa tập luyện th́ rất tốt.
- Trường hợp đau kinh niên v́ xương rồi, có thể uống thêm Glucosamine có bán tại các tiệm thuốc Tây để kích thích chất nhờn đầu xương và xương. -Mua một cái máy mát-xa nhỏ cầm tay để chà xát chung quanh chỗ bắp thịt đau sẽ hiệu nghiệm nhanh hơn.

florida80
04-03-2019, 18:52
Vấn Đề Sức Khỏe Không Nên Bỏ Qua : Phần 2 - Tai biến Mạch Máu Năo









Hỏi: Tai Biến Mạch Máu Năo (TBMMN) là bệnh ǵ?

Đáp: TBMMN tiếng Anh gọi là stroke hay cerebrovascular accident (CVA) xảy ra lúc mạch máu đem dưỡng khí và chất dinh dưỡng đến nuôi năo bị vỡ ra hay nghẽn lại. Lúc năo thiếu máu như vậy, dưỡng khí sẽ bị thiếu và tế bào năo sẽ chết đi.









Hỏi: Bệnh TBMMN có thường xảy ra không?

Đáp: Hàng năm tại Hoa Kỳ có khoảng 730,000 trường hợp mới của bệnh TBMMN. Theo thống kê năm 2000 ở Úc, mỗi năm có 12,000 người chết v́ bệnh TBMMN so với 24,000 người chết v́ bệnh tim. Càng lớn tuổi càng dễ bị TBMMN. Trên thế giới từ thập niên 70s, số tử vong do TBMMN giảm xuống c̣n 7% mỗi năm nhờ sự hữu hiệu của việc điều trị bệnh cao huyết áp.




Hỏi: Có dễ bị TBMMN lần thứ hai không?

Đáp: Rất dễ bị TBMMN lần thứ hai. Trong ṿng 5 năm kể từ lần bị đầu tiên có từ 1/3 đến Ỏ số người sống sót sẽ bị TBMMN lần thứ hai. Có nghĩa là 34% đến 50% (hay 1 trong 2 hay 3 người sẽ bị TBMMN lần thứ hai).




Hỏi: Bệnh TBMMN được phân loại như thế nào?

Đáp: Bệnh TBMMN đuợc chia thành nhiều loại chính dựa trên sự hư hại của mạch máu: mạch máu bị nghẽn hay mạch bị vỡ làm chảy máu trong đầu. V́ mỗi loại TBMMN có cách điều trị khác nhau cho nên các BS cần định bệnh sớm và xác định loại nào và nơi hư hại một cách chính xác. Loại nghẽn mạch máu gây ra sự thiếu máu đến năo (tiếng Anh gọi là ischemic stroke) có thể do máu đông tại chỗ "thrombotic stroke" hay bị nghẽn v́ cục máu chuyển đi từ nơi khác trong thân thể "embolic stroke" :

53% TBMMN thuộc loại thrombotic stroke

31% thuộc loại embolic stroke

13% do chảy máu trong sọ

6% do chảy máu dưới màng nhện trong vỏ năo.









Hỏi: Có bệnh nào gây ra chảy máu trong TBMMN?
Đáp: Mạch máu bị vỡ làm cho thiếu máu ở vùng năo sau nơi vỡ và các tế bào năo bị chết đi. Ngoài ra, máu chảy ra đông lại thành cục có thể đẩy lệch các cơ cấu của năo và làm hư hại các chức năng của năo bộ. Có 2 loại chảy máu trong đầu: một là chảy máu dưới màng nhện; hai là chảy máu trong sọ. Loại chảy máu dưới màng nhện có thể do bệnh mạch lựu (nở động mạch- aneurysm) hay do tật động tĩnh mạch bẩm sinh - arteriovenous malformations (AVM).




Hỏi: Xin mô tả các triệu chứng báo hiệu bệnh TBMMN
Đáp: BS của quí vị có thể t́m thấy các dấu hiệu cho thấy quí vị dễ bị TBMMN. Quí vị cũng có thể được báo hiệu bởi các triệu chứng của bệnh TBMMN như sau:

1. tự nhiên thấy yếu, tê rần hay liệt tay chân hay mặt nhất là nếu bị một phiá của thân thể

2. mất khả năng nói hay khó nói hay không hiểu ngôn ngữ

3. đột nhiên mất thị giác nhất là ở một mắt.

4. đột nhiên nhức đầu dữ dội không có nguyên nhân
5. đột nhiên chóng mặt, mất thăng bằng.









Hỏi: Thế nào là cơn thiếu máu tạm thời (TIA: transient ischemic attack)?
Đáp: Khoảng 1/3 các trường hợp TBMMN được báo hiệu trước bằng cơn thiếu máu tạm thời, tiếng Anh gọi tắt là TIA (Transient Ischemic Attack). TIA có thể xảy ra trước TBMMN vài ngày, vài tuần hay vài tháng. TIA xảy ra do sự tạm thời ngưng cung cấp máu lên năo. Triệu chứng thường ngắn hạn từ vài phút đến vài giờ. Chẳng hạn quí vị đột nhiên thấy yếu tay hay yếu chân rồi tự nhiên triệu chứng biến mất. Đó là triệu chứng báo hiệu quan trọng, quí vị phải đi khám BS ngay.




Hỏi: Có liên hệ ǵ giữa thuốc ngừa thai và bệnh TBMMN?

Đáp: Thuốc ngừa thai đặc biệt là loại chứa nhiều estrogen làm tăng gia hiểm nguy đông máu có thể gây ra bệnh TBMMN, nhất là ở phụ nữ trên 30 tuổi.




Hỏi: Các yếu tố gây bệnh TBMMN?

Đáp: Có nhiều yếu tố gây hiểm nguy của bệnh TBMMN như: tuổi tác, tính phái, sắc dân và bệnh sử gia đ́nh.

Càng lớn tuổi càng dễ bị TBMMN; 2/3 các trường hợp xảy ra ở người trên 65 tuổi. Bệnh TBMMN xảy ra ở đàn ông 25% nhiều hơn đàn bà. Người Mỹ da đen bị TBMMN nhiều hơn người da trắng.

Ngoài ra cũng có nhiều yếu tố có thể thay đổi được trong việc gây bệnh TBMMN như chữa trị bệnh cao huyết áp, bệnh tiểu đường, không hút thuốc lá, giữ cho người không quá mập, tăng gia thể dục thể thao, ăn uống điều độ, giảm cholesterol hay tránh thuốc ngừa thai ở phụ nữ dễ bị đông máu.




Hỏi: Các phương pháp mới để định bệnh TBMMN?

Đáp: Trong bệnh TBMMN, định bệnh sớm và chính xác rất quan trọng. Các phương cách định bệnh hiện đại sau đây được dùng để định bệnh TBMMN:

1. h́nh cắt lát CT scan là phương cách đầu tiên cho người bệnh ở pḥng cấp cứu. CT scan giúp phân biệt nhanh chóng loại TBMMN do nghẽn mạch hay do chảy máu.

2. H́nh MRI giúp xác định chính xác vị trí hư hại trong bệnh TBMMN. H́nh rất bén nhậy cho nên thường dùng trong các bệnh TBMMN do các mạch nhỏ

3. MRA, để t́m xem nơi chảy máu và phân loại

4. Transcranial Dopler

5. Carotid Duplex Scanning để xem động mạch ở cổ có bị nghẽn không

6. Xenon CT scan dùng để đo lưu lượng máu trong năo

7. Radionuclide SPECT Scanning dùng chất phóng xạ để đo lưu lượng máu trong năo.

8. H́nh chụp mạch máu năo có thể cho biết t́nh trạng của các mạch máu năo.





Bác sĩ Trần Đ́nh Hoàng

florida80
04-03-2019, 19:06
Ai cũng muốn ăn ngon mặc đẹp. Nhưng ăn ngon có cái nguy hiểm của nó nhất là khi ở những nước sống lâu quá tuổi 60 mới nh́n thấy hậu quả.


Việc đầu tiên là cơm chúng ta ăn. Ở Mỹ hay Châu Âu hay Úc Châu, dân Việt vẫn coi cơm là cơ bản. Dân Á Châu là vậy, di dân sang Mỹ hay Úc họ vẫn coi cơm là món ăn chính, bánh ḿ không thể thay thế. V́ ăn cơm chặt bụng, no lâu và tiêu hóa dễ chịu hơn bánh ḿ v́ cơm có số lượng nước liên kết chặt chẽ với bột, amylose hay amylopectin.




Và cơm là phải cơm trắng dẻo như Nàng Thơm hay Jasmine Thái Lan hay Kyoto Nhật Bản. Và phải hai bát mỗi bữa tức là phải 300 hay 400gr cơm một bữa..

Ngày xưa tổ tiên chúng ta chọn gạo là đúng v́ khí hậu nhiệt đới không thể trồng lúa ḿ, lúa ḿ đ̣i hỏI khí lạnh nhiệt độ 17 độ C. Trồng gạo hai vụ rất lợi cho kinh tế và nhất là hột gạo có những chất bổ vô cùng hấp dẫn cả về phẩm chất cũng như số lượng.




Nhưng tiếc thay bao nhiêu chất bổ tập trung vào vỏ cám ngoài hạt và oái oăm hơn nữa, cám có nhiều chất lipoproteins rất bổ nhưng mau chóng bị chất enzyme lipase trong cám oxy hóa và trở nên khét không dự trữ được. Các cụ chỉ có cách giă gạo cho bớt cám rồi ăn hạt, cám cho heo ăn. Tuy vậy bao gạo cũng không tồn trữ trữ lâu được, phải đến thế kỷ thứ 19, khi Pháp sang làm nhà máy xay lúa mới giải quyết được vấn đề kinh tế, làm sao tồn trữ được bao gạo hàng năm, dùng máy xay cho trắng sạch gạo rồi đánh bóng “Polish” hạt gạo nhẵn và đều. Cám bị loại hết cho heo ăn. Nhưng tai hại cho sức khoẻ con người nhất là dân “khá giả” hay “trưởng giả”, may cho dân nghèo vẫn ăn gạo đỏ hay “gạo Lức muối mè”.




Hạt gạo đă xay máy và đánh bóng chỉ c̣n chất bột starch mà lúc đó là tinh bột “Refined Starch” nó có đặc điểm của nó. Nó cũngnhư các Refined Starch từ lúa ḿ, nó không c̣n chất xơ (Fiber) tập trung trong cám, nó mất đi 67% Vitamin B3, 80% Vitamin B1, 90% Vitamin B6, một nửa số Manganese, môt nửa số Phosphorus, 60% Sắt Iron, 100% Fiber, và tất cả những fatty acids cần thiết. Mất. tất cả Selenium, Magnesium. Đến nỗi theo Luật Hoa Kỳ gạo sản xuất ở Hoa Kỳ phải cho thêm B1, B2 và Iron nhưng cho thêm không thể nào bằng thiên nhiên.

Brown Rice, gạo đỏ cũng được sản xuất ở Hoa Kỳ nhưng không phảI là dễ dàng, phải vô hiệu hóa chất enzyme lipase trong cám nếu không chỉ vài giờ sau là gạo hư. Phần nhiều người ta dùng nhiệt độ 80 độ C xấy khô nhưng gạo đỏ cũng chỉ tồn trữ được 6 tháng.




Khi đă xay vỡ vỏ thóc ngoài cùng, c̣n lại lớp cám Bran và nhân Germ, xay nữa và mài nữa th́ mất lớp Aleurone (rất nhiều chất mỡ rất cần thiết, essential fats). Nhưng như vậy mới tồn trữ được hột gạo trông rất trắng rất đẹp, ăn ngon v́ mềm và thơm, nhưng chỉ c̣n bột Refined Starch.




Nghiên cứu của Đại Học Tufts, Boston Massachusetts cho biết tinh bột Refined Starch được hấp thụ ở ruột rất nhanh và nằm đó dưới t́nh trạng mỡ, mỡ xung quanh ruột, gan và vùng xương chậu pelvis. Trông không mập, bụng không phệ nhưng có một lượng mỡ quan trọng trong vùng bụng xung quanh ruột .. Có thể người coi ốm chứ không mập.




Đại học Tufts nghiên cứu một số người ăn bánh ḿ trắng tinh bột so với một số người ăn bánh ḿ có bran có fiber. Sau 1 năm rưỡi, những người ăn bánh ḿ tinh bột thấy dây thắt lưng phải nới thêm ( ½ inch mỗi năm). Có vẻ đường hấp thụ th́ Insulin đẩy vào tồn trữ ngay trong những tế bào mỡ xung quanh ruột. Và những người đó có nguy cơ bị bệnh tiểu đường loại 2, Diabetes type 2, đường trong máu glycemia cao hơn nhóm ăn bánh ḿ nâu có bran.




Sau đó nước Mỹ thay đổi cách ăn uống, khẩu hiệu White Bread Round Waist (Bánh trắng bụng tṛn) do Bộ Y tế (Dept of Health and Human Services) tung ra và các siêu thị (Super Market) thay đổi bộ mặt tại gian hàng bánh ḿ. Bánh ḿ trắng vẫn c̣n bán nhưng không được trắng lắm v́ FDA ra lệnh ít nhất phải 51 % xơ (Fiber) trong bánh ḿ. Và vô số bánh ḿ có chứ W tức là Whole grain không được Refined Starch nữa.




Và nay người ta biết tại sao. Các tế bào mỡ vùng xung quanh ruột rất quan trọng trong vai tṛ điều ḥa bằng tín hiệu (signaling), sản xuất nhiều hormons, cytokines đi hoạt động ở nhiều bộ phận vùng bụng như Pancreas. Một cytokine khích động NF-KB pathway làm chất Insulin không c̣n hữu hiệu nữa. Insulin Resistance (Chống lại Insulin là định nghĩa của Diabetes type 2).




Tiểu đường loại 1 là Pancreas không sản xuất được Insulin hay sản xuất rất ít, phần nhiều người trẻ do di truyền hay cơ thể tự hủy hoại autoimmunity sau khi nhiễm siêu vi trùng ở Pancreas. Tiểu đường loại 2 là sản xuất Insulin nhưng không hữu hiệu tại các tế bào chính địa bàn hoạt động của Insulin không nhận ra Insulin nữa. Insulin có nhiệm vụ là mở ch́a khóa cửa các tế bào mỡ, gan và bắp thịt cho đường trong máu vào tồn trữ. Đầu tiên là các tế bào Beta của pancreas cũng không nhận ra Insulin, mất chức năng Feedback điều ḥa. Bệnh nhân tiểu đường loại 2 phần nhiều là có tuổi trên 45 khi Insulin và Pancreas bắt đầu thấm mệt. Và người trẻ cũng bi bệnh này nếu quá mập hay ăn quá nhiều đường, số lượng Insulin không cáng đáng nổi.




Con số 22.5% người Việt Nam trên 65 bị tiểu đường loại 2 ở Hoa kỳ không làm ngạc nhiên chút nào. Ông Việt Kiều Hải Ngoại sáng chế ra những thức ăn nhiều bôt tinh chất hay mỡ với số lượng kinh hoàng như bánh ḿ Ba Lẹ, chiêu với cà phê sữa đặc Ông Thọ hay Borden 30% đường nguyên chất. Xong rồi tráng miệng bằng chè đường. Nhiều gia đ́nh ông tiểu đường, cháu béo ph́ v́ bà chiêu đăi mỗi tối môt bữa chè. Ở Việt Nam cũng vậy từ 10 năm nay giai cấp giầu có cũng béo ph́ và tiểu đường như hải ngoại. Béo ph́ ảnh huởng tới genes, bố mẹ béo th́ con cũng vậy.




Khi đường trong máu cao th́ chỉ có 2 cách chữa chạy, phần nhiều là phải thực hiện cả hai; bỏ đường, bỏ bột tinh chất và cử động bắp thịt (exercise). Nếu không ăn kiêng th́ không thuốc nào trị nổi. Có nhiều thực vật có khả năng hạ đường một chút (chúng tôi đă thử một số) như Okra đậu đũa, lá xương rồng, lá dứa, lá ổi, đậu đen, tỏi ta ngâm rượu v.v… nhưng không thay thế nổi insulin và nhất là ăn kiêng (diet). Không thay thế nổi các thuốc hypoglycemiants tác dụng trên pancreas hay gan hay ruột.




Khi đường trong máu lên tới con số trên 126mg/dl khi nhịn đói lúc sáng sớm th́ bắt đầu bênh tiểu đường. Và đầu tiên đi nha sĩ v́ đường cao đưa đến nhiễm trùng mọi nơi trên cơ thể, đặc biệt là răng và lợi. Trong mồm có môt số lượng lớn vi trùng, 30 thứ vi trùng nhiều thứ ta chưa biết tên. Nhiễm trùng răng lợi đưa đến nhiễm trùng nơi xa xôi như tim (endocarditis) và thận (pyelonephritis).

Khi đường trong máu lên cao, nó tác hại nhẹ nhàng nhưng liên tục tới mọi tế bào đặc biết là tế bào nội mạch (endothelial) trên màng trong các mạch máu.Tế bào bị hư hại và atherosclerosis xuất hiện, cholesterol và calcium đóng mảng (Atheroma Plaque) mở đường cho máu đang chảy bị đông lại (thrombosis). Basement membrane của mạch máu dày thêm nhưng không v́ thế mà chắc chắn thêm. Trái lại yếu đi máu thoát vào chảy máu ngay trong thành của mạch. Mạch tắc thiếu dinh dưỡng thiếu oxy cho mọi cơ và bộ phận bị chi phối. Mọi bộ phận từ óc tới ngón chân bị ảnh hưởng, nhưng tai hại nhất là tim, thận, thấu kính (lens) và vơng mạc (retina) tại mắt, và tế bào thần kinh. Mọi mạch máu bị ảnh hưởng, từ động mạch lớn, trung và nhỏ. Người bị tiểu đường nếu thoát được bệnh tim mạch (Cardiovascular accident heart attack), đột quỵ (cerebro vascular accident stroke) th́ tương lai họ là thận suy phải thường xuyên lọc máu (dialysis). Và cuối cùng là tắc tĩnh mạch sâu ở chân (deep vein theombosis), cuối cùng phải cắt chân.




Chất đường glucose không được dùng hết cho sản xuất năng lực, c̣n một số chất thải được phân hóa theo glycosalisation bằng hai hệ thống. Hệ thống không cần enzyme, đường dính với protein và từ từ thành những chất trung gian như Schiff base, Amodari products (???) tỷ lệ thuận với đường trong máu. V́ vậy bác sĩ theo dơi t́nh trạng đường bệnh nhân bằng cách đo Hemoglobin A1C và biết t́nh trạng trong 6 tuần hay 2 tháng vừa qua, đo đường glycemia chỉ cho biết t́nh trạng ngày hôm nay mà thôi. Hemoglobin A1 C người thường từ 4 đến 5, tới 5.7 là t́nh trạng "tiền tiểu đường" hay Prediabetic, 7 là tiểu đường không c̣n kiểm soát nổi.




Khi chúng ta tŕnh diện tại pḥng mạch bác sĩ với t́nh trạng tiểu đường loại 2 phải chờ đợi một khuyến cáo, ông bác sĩ nào cũng vậy "anh hay chị phải giải quyết cái gánh nặng dư 5 hay 10 kư quá mức th́ thuốc mới hữu hiệu". Anh chị ăn ít đi và tập thể dục nhiều lên". Nói th́ dễ mà làm thực khó. Một cuộc chiến đấu gay go và cam khổ cả năm hay cả đời lúc thắng lúc bại.




Glycemic Index (GI) là một chỉ số đo số lượng của món ăn về phương diện đường, ăn xong phần nhiều là 50 gr 2 tiếng sau đo đường trong máu, so với 50 gr đường nguyên chất Glucose. Đo diện tích (Area under curve) giữa đường cong và trục X (thời gian, t, số giờ) và tính nếu bằng glucose là GI 100. Nếu chỉ bằng phần mười diện tích đường cong Glucose th́ GI là 10. Nếu món ăn được hấp thụ ngay qua ruột như glucose th́ GI cao 100 hay gần như vậy. Nhưng nếu món ăn được hấp thụ dần dần một cách nhịp nhàng như trường hợp có nhiều xơ (fiber) th́ GI thấp chỉ 10 hay 20.




Tùy món ăn trong ruột được phân hóa nhanh hay chậm, nhịp nhàng hay không, cách kết hợp của chất bột với xơ, với phân tử protein và mỡ, tùy theo chất bột starch ra sao như bột gạo chất amylose cứng có GI thấp, chất amylopectin dẻo th́ GI cao. GI gạo trắng cao hơn GI gạo nâu khá xa. Tùy theo số lượng Protein trong món ăn, số lượng organic acid. Ví dụ có dấm th́ GI thấp hơn, có mỡ và fiber th́ dạ dày chậm mở hơn. Bánh ḿ nâu GI thấp hơn bánh ḿ trắng nhưng nếu cho enzymes vào cho dẻo th́ GI lên cao ngay. Trái cây và rau có GI đặc biệt thấp nhưng vài trái cây như soài theo kinh nghiệm cá nhân tôi th́ GI cao.

C̣n về số lượng th́ dùng Glycemic Load. Có món ăn rất ngọt nhưng nhiều nước không thể so với món ăn ngọt nặng về đường. Và c̣n tùy theo khẩu phần (serving) là bao nhiêu, ông Mỹ hay Châu Âu khẩu phần bánh ḿ trắng là 30-50 gr, ông Việt Nam bánh ḿ Ba Lẹ tới 300 gr, mập là cái chắc. Cơm trắng ông Mỹ hay ông Úc tính khẩu phần chỉ 150gr cơm, ông Việt Nam hai bát nhỏ là 200 gr rồi.

Glycemic Load là tính theo phưong tŕnh GL= GI x số lượng gr đường trong khẩu phần chia cho 100. Glycemic Load từ 1 đến 10 là thấp, 10 là trung b́nh, 20 là cao.




Vấn đề ăn uống không thể trông cậy vào ai, phải tự ḿnh lo cho thân ḿnh. Không thể lúc nào cũng ăn môt ḿnh một mâm theo sách vở. Món ăn phải hợp khẩu v́ ḿnh ăn không ngon th́ không thể nhịn lâu được. Biết bao trường hợp thành công một thời gian rồi đâu vào đó. Phải biết Glycemic Index và Glycemic load của từng món, ăn cho đủ không thể ăn đói..




Glycemic load cao nhất là cơm nếp rồi tới cơm hay cháo đặc trắng rồi tới cơm hay cháo đặc gạo nâu v́ có cám. Bánh ḿ bagel trắng GL cao nhất là 28, baguette của Pháp GL 15. Bánh ḿ whole wheat chỉ có 9, whole grain bread chỉ có 7, Cơm Gạo Jasmine được dân Việt Kiều ưa chuộng cao kỷ lục về cả GI lẫn GL. Chúng ta bị mập béo tiểu đường là lẽ dĩ nhiên. Chúng ta không cần biết tới khuyến cáo Bộ Y Tế Mỹ, vẫn khư khư bám lấy gạo Thái Lan Nàng Thơm cho khoái khẩu. Chúng ta không cần biết v́ không muốn biết.

Nghiên cứu từ Đại Học Harvard đăng trong American Journal of Nutrition. Nghiên cứu 12 năm liền với 74,000 nữ điều dưỡng cho thấy càng ăn nhiều chất xơ fiber th́ càng bớt cân.




Gạo trắng mất đi 45% trọng lượng hat nguyên thủy khi mất vỏ Bran cám, nguy hại không phải chỉ về vấn đề đường mà thôi. Nguy hiểm hơn nữa là mất rất nhiều dinh dưỡng không thể thay thế được. Mớ mỡ xung quanh ruột và tràn ra máu Triglycerides cao rất khó giải quyết v́ thiếu nhiều công cụ để phân hủy mỡ. Khó giải quyết v́ nằm sâu trong bụng, xa các bắp thịt chân và tay.




Muốn giải quyết lớp mỡ phải cần tới hàng ngàn phản ứng Enzyme phân hóa và trao đổi hàng ngàn metabolites. Phải cần nhiều loại enzymes chống oxydation các fatty acids. Cám Bran có 120 chất antioxydants, có đầy đủ sinh tố (Vitamins) chỉ trừ có Vitamin D và C. Có đầy đủ các loại phytosterols, Beta sitosterols, fibers, Vitamin E Complex, đầy đủ các loại B Complex B1 B2, B3 ngay cả Vitamin B15 hiếm có. Có Enzyme Q 10, nhất là Omega 3, Omega 6 fatty acids, không có th́ không thể giải quyết được Triglycerides cao trong máu. Omega 3 fatty acids trong dầu cá fish oil dùng để trị mỡ Triglycerides cao trong máu đă được các bác sĩ dùng từ lâu, 3 viên mỗi viên 1000 mg Omega 3 fatty acids có thể giảm lượng Triglycerides 300 hay 350mg/dl xuống 150 trong ṿng vài tháng.

Tiếc thay một phần lớn những chất bổ đó bị hủy nếu đun sôi trong 45 phút. Tiếc thay cám gạo "mỏ vàng chất bổ" dùng để làm cám nuôi heo.




Dầu trong cám chứa nhiều Antioxydants hơn mọi thứ dầu thực vật khác, , Vitamin E tocopherol, tocotrienol và nhất là oryzanol (2417 phần trong 1 triệu), hơn hẳn cả về lượng cũng như phẩm dầu đậu soybean, bắp corn, canola, cotton seed, sunflower.




Có Enzyme th́ phải có Co Enzyme. Cám cho ta đầy đủ số lượng Manganese, Selenium, Magnesium.Mn là Coenzym cho nhiều phản ứng antioxidant. Nhiều phản ứng phát sinh năng lượng, phân hóa và sản xuất proteins, fatty acids, cholesterol, metabolites cho sex hormons và mediators cho tế bào thần kinh.
Selenium quan trọng không kém, phối hợp chặt chẽ với xơ trong tiêu hóa và chống oxydation. Đặc biệt chống ung thư (?), phối hợp với Glutathion, sinh tố E.

Magnesium phối hợp chặt chẽ với Ca, được gọi là Calcium channel blocker thiên nhiên, không thể thiếu trong mọi phạm vi hoạt động của Ca như xương, thần kinh, và bắp thịt.




V́ thế gạo trắng tinh chúng ta ăn thiếu những dinh dưỡng cần thiết. Gây cho chúng ta những vấn đề như tiểu đường loại 2. Không thể giải quyết được nạn Việt kiều tiểu đường loại 2 nếu không đi vào nguyên nhân như người Mỹ đă làm. Không dễ đâu v́ người Mỹ cũng có một số nhất định vẫn ăn bánh ḿ trắng. Dân Việt cũng như dân Á Châu khác có vẻ cứ ăn gạo ngon, bệnh tật tính sau.

Sưu tầm

florida80
04-03-2019, 19:08
Vấn Đề Sức Khỏe Không Nên Bỏ Qua: Phần 4 - Sáu Bước Đơn Giản Để Giữ Đầu Óc Minh Mẩn




Dr Mehmet Oz & Michael Roisen/ Liên Mai Nguyễn
B́nh thường Bị Alzheimer









Phúc tŕnh mới nhất của chính phủ cho biết rằng thuốc bổ (supplements), hay thuốc chữa bệnh không giúp ǵ được cả trong việc ngăn ngừa bệnh Alzheimer, tức là bệnh mất dần trí nhớ, bệnh lú lẫn. Đây là căn bệnh nhiều người già bị vướng phải, giống như trường hợp của cựu Tổng Thống Ronald Reagan.

Nhưng nếu chúng ta đọc thật kỹ phúc tŕnh của chính phủ, để ư đến những ḍng chữ nhỏ, chúng ta sẽ t́m thấy được nhiều thông tín hữu ích trong việc ǵn giữ những tế bào chất xám trong đầu không bị lăo hoá.




Sự thực được báo cáo này đưa ra cho chúng ta thấy là không có hồ sơ chứng liệu nào cho biết thuốc chữa bệnh, hay thuốc bổ đem lại ích lợi cho việc chống lại căn bệnh quái ác này. Nhưng ngược lại, phúc tŕnh đó lại đưa ra những bằng chứng rơ ràng là nếu chúng ta chịu khó tập thể dục, tỏ ra năng động, ăn uống lành mạnh, giữ cho áp huyết thấp để máu có thể đưa lên năo dễ dàng, chúng ta sẽ ngăn ngừa được bệnh mất trí nhớ.




Bản phúc tŕnh không giải thích v́ sao. Nhưng chúng tôi sẽ phân tích cho độc giả biết rơ : Không phải mọi hiện tượng mất dần trí nhớ - dementia - đều trở thành bệnh Alzheimer. Nhưng đầu óc của chúng ta trở nên cùn lụt khi lớn tuổi là do ảnh hưởng gộp của nhiều yếu tố khác nhau. Yếu tố chính là óc của chúng ta không nhận đủ máu đưa lên đầu, v́ mạch máu bị tắc nghẽn, hay bị hở, gọi chung là vascular dementia ...Trong cả hai trường hợp đều khiến cho trí nhớ của chúng ta trở nên yếu kém, sự suy nghĩ của chúng ta trở nên loạng quạng (fuzzy), hậu quả bởi việc óc của chúng ta không nhận đủ dưỡng khí (oxygen) và đường (blood sugar).




Nhiều bệnh nhân của căn bệnh Alzheimer không ít th́ nhiều đều vướng phải t́nh trạng vascular dementia. Những trở ngại khi suy nghĩ mà các cụ già gặp phải phần lớn v́ máu không đưa lên đầu dễ dàng. Chúng ta có thể ngăn ngừa những rắc rối này, hay sửa chữa những trục trặc đó bằng cách giữ cho mạch máu dẫn máu lưu thông lên năo bộ đuợc thông tuông dễ dàng.

Pḥng bệnh là biện pháp chúng ta nên làm sớm. Điều này có nghĩa là chúng ta cần làm những ǵ để giúp máu bơm lên đầu dễ dàng.




1 - Mỗi ngày đi bộ, ít nhất 10000 bước đi : Hoạt động thể lực giúp máu chạy đều lên óc. Phân bón tự nhiên cho năo bộ chính là máu đưa lên đầu. Mỗi ngày ráng bước đi khoảng 10000 buớc chân, bằng cách này hay cách khác để máu từ tim đi lên đầu. Các nghiên cứu khoa học cho thấy các cụ già trên 65 tuổi chịu khó tập thể dục ít nhất 3 lần một tuần tránh được một phần ba rủi ro vướng bệnh Alzheimer. Bạn có thể làm một trong những hoạt động sau đây tuỳ theo sở thích của ḿnh : Đi Bộ, Làm Vườn, hay Khiêu Vũ.




2 - Ăn thực đơn có nhiều rau và hoa quả như người Hy Lạp : Rau tươi, trái cây tươi là thức ăn chính cho bộ óc. Trong hoa quả và rau có chứa chất « flovonoids » giúp tăng cường sức mạnh cho hệ thống ngăn ngừa độc tố. Trong một cuộc nghiên cứu nhóm đàn ông đàn bà thích ăn rau quả tươi, uống trà, cà phê, hay rượu nho, có nhiều chất flovonoids. Họ thường có năo bộ hoạt động tốt hơn người không dùng rau quả tươi. Và sự suy sụp cuả năo bộ tránh được tới 10 năm. Ngoài ra, nhiều cuộc nghiên cứu khác cho thấy mỗi tuần uống vài lần nước ép từ rau quả, sẽ giúp ngừa được 76 % bệnh lú lẫn, hay mỗi ngày uống khoảng 900 mg thuốc bổ để thay thế rau, sẽ giúp tăng sự bén nhậy của trí óc, và giúp trẻ thêm được khoảng 3,5 tuổi.

Hay ăn thực đơn của dân Địa Trung Hải : ăn uống hàng ngày giống thực đơn của người Ư và người Hy Lạp, gồm có rau tươi, hạt đậu (grain), dầu olive, cá, và các loại hạt (nuts) sẽ giúp áp huyết giữ ở mức tốt. Ăn theo kiểu dân Địa Trung Hải sẽ giúp đầu óc minh mẫn sáng suốt tránh được bệnh Alzheimer khoảng 48 %.




3 - Cương quyết từ bỏ những thói hư, tật xấu như hút thuốc lá, và nghiện rượu. Thuốc lá chứa độc tố rất hại ho năo bộ, v́ thế người hút thuốc lá có nhiều rủi ro bị Alzheimer hơn người không hút thuốc đến 80 %.




4 - Đừng uống rượu mạnh quá độ. Đa số những người nghiện rượu đều vướng vào bệnh Alzheimer. Đàn bà chỉ nên uống rượu tối đa mỗi ngày một ly thôi. Đàn ông đuợc uống tới hai ly. Uống một chút rượu có lợi cho việc ǵn giữ tế bào chất xám. Nhưng uống nhiều quá lại gây nguy hại cho đầu óc, 25 % người bị bệnh mất trí nhớ dính líu đến nghiện rượu.




5 - Ráng duy tŕ huyết áp ổn định ở mức thấp : Huyết áp cao có thể làm cho mạch máu trên đầu bị hở hay đứt. Chính v́ vậy, các chuyên gia y tế nói rằng huyết áp cao là nguyên nhân của 50 % trường hợp gây ra lú lẫn, hư trí nhớ. Chúng ta hăy ráng duy tŕ huyết áp ở mức thấp - lư tưởng là 115/75 - bằng cách ăn uống lành mạnh, tập thể dục hàng ngày, giữ trọng lượng thân thể thấp, đừng để lên cân, béo mập. Nên theo dơi mức đường trong máu. Bệnh tiểu đường, hay thậm chí sắp sửa bị tiểu đường cũng là dấu hiệu báo trước có thể bị hở mạch máu đầu, gây ra bệnh lú lẫn. Bệnh tiểu đường dễ làm các mạch máu nhỏ bị hở, và chảy máu trong năo.




6 - Tránh đừng để bụng phệ : Ṿng bụng ở tuổi trung niên to báo hiệu trước có thể bị vướng bệnh lú lẫn khi về già. Cuộc nghiên cứu theo dơi 6000 người đưa ra kết quả cho thấy cái bụng phệ rất hại cho động mạch chính dẫn máu về tim, và máu lên đầu. V́ thế cho nên chúng ta nên cố gắng duy tŕ ṿng bụng dưới 35 inches cho các bà, và dưới 40 inches cho các ông.




Chỉ có một bộ phận nên ǵn giữ cho to lớn. Đó chính là năo bộ của bạn.

Sưu tầm

florida80
04-03-2019, 19:11
Bài Tập Rèn Năo Mỗi Ngày









Việc tự đặt ra những thử thách, kích thích và luyện tập hiệu quả cả 5 nhóm chức năng của bộ năo sẽ giúp sống khỏe, minh mẫn ngay cả khi tuổi tác đă nhiều.




Ghi nhớ

Ghi nhớ đóng vai tṛ thiết yếu hơn cả trong nhóm các chức năng tri giác, nó có trong những việc đọc, lập luận, tính toán.

Để duy tŕ trí nhớ tốt, bạn cần phải rèn luyện, và điều này đơn giản hơn bạn tưởng: Nghe nhạc rơ ràng là hoạt động rất thú vị, và nếu bạn chọn một bài hát không biết hoặc không nhớ lời, bạn sẽ tự làm tăng lượng acetylcholine, một chất hóa học giúp kiến tạo thêm cho năo, nâng cao khả năng ghi nhớ cho năo bộ.
Hăy tự tạo ra thử thách cho ḿnh bằng cách tắm hoặc mặc quần áo trong bóng tối, hoặc dùng tay trái đánh răng. Tất cả những hoạt động như vậy sẽ giúp tạo ra những kết nối mới giữa các tế bào thần kinh khác nhau trong bộ năo.




Sự tập trung

Khả năng tập trung là yếu tố rất cần thiết gần như trong mọi hoạt động hàng ngày của con người. Biết tập trung tốt sẽ giúp bạn có thể duy tŕ sự chú ư ngay cả khi xung quanh rất ồn ào và liên tục bị ngắt quăng để hoàn thành nhiều hoạt động trong cùng một thời điểm.

Ta có thể cải thiện năng lực tập trung bằng cách đơn giản là thay đổi những thói quen hàng ngày. Chẳng hạn, bạn có thể thay đổi đường đi tới công ty hay sắp xếp lại bàn làm việc, cả hai cách đó đều sẽ bắt trí óc bạn phải tỉnh táo hơn để thoát khỏi những thói quen.

Khi tuổi tác nhiều hơn, sức chú ư của chúng ta cũng giảm dần, điều này khiến ta dễ bị phân tán hơn và khả năng kết hợp nhiều hoạt động cùng lúc cũng giảm hiệu quả. Bằng cách kết hợp các hoạt động như vừa nghe một cuốn sách nói vừa chạy bộ, hay làm toán trong khi lái xe có thể khiến năo bạn hoạt động nhiều hơn trong cùng một thời điểm. ( Ghi thêm : vừa làm toán vừa lai xe th́ có thể giúp bạn lên thiên đàng sớm hơn !!! )




Ngôn ngữ

Các hoạt động ngôn ngữ sẽ buộc chúng ta phải nhận diện, ghi nhớ và hiểu ư nghĩa các từ vựng. Chúng cũng sẽ giúp ta rèn luyện kỹ năng ngữ pháp, sự trôi chảy trong khi nói, viết và tăng lượng từ vựng.

Với bài tập hàng ngày, bạn có thể mở rộng kho từ mới và dễ dàng nhận diện các từ ngữ quen thuộc. Chẳng hạn, nếu bạn chỉ thường xuyên đọc những bản tin thể thao th́ bây giờ, hăy thử đọc những bài báo viết về thương mại một cách kỹ lưỡng.
Bạn sẽ tiếp cận với những từ mới, tuy nhiên, chúng sẽ dễ hiểu hơn khi đọc trong một văn cảnh nhất định và thậm chí, nếu bạn chưa hiểu được, bạn có thể tra cứu bằng từ điển. Hăy dành thời gian để hiểu những từ mới đó ngay trong ngữ cảnh văn bản, điều này sẽ giúp bạn xây dựng kỹ năng ngôn ngữ và dễ dàng vận dụng những từ ngữ mới trong cuộc sống hàng ngày cũng như công việc.




Nhận thức thị giác

Chúng ta đang sống trong một thế giới 3 chiều đầy màu sắc. Việc phân tích các thông tin về mặt thị giác là điều cần thiết và có thể được thực hiện ngay trong môi trường sống của bạn.

Để luyện tập chức năng tri giác này, bạn hăy đi vào một căn pḥng, chọn t́m 5 đồ vật và ghi nhớ vị trí của chúng. Khi ra khỏi pḥng, hăy cố gắng nhớ lại 5 vật đă chọn đó cùng vị trí của chúng. Bạn thấy điều này quá đơn giản ư? Hăy chờ qua 2 giờ đồng hồ sau đó, và nhớ lại những vật này cùng vị trí của chúng.
Hăy nh́n về phía trước và ghi lại mọi điều bạn có thể thấy trước mặt và hai bên tầm nh́n của bạn. Hăy bắt ḿnh nhớ lại mọi điều và ghi ra. Cách làm này sẽ buộc bạn phải sử dụng trí nhớ và rèn luyện cho trí năo khả năng tập trung vào những điều xung quanh bạn.




Chức năng hành động

Mặc dù có thể không nhận ra, nhưng bạn đang sử dụng kỹ năng logic và lập luận hàng ngày để đưa ra những quyết định, xây dựng các giả thuyết và xem xét những kết quả có thể diễn ra trong những hành động của ḿnh. Các hoạt động trong đó bạn phải xác định chiến lược để đạt được kết quả mong muốn và tính toán những hành động thích hợp để t́m ra giải pháp trong thời gian ngắn nhất có thể chính là những hoạt động yêu thích bạn làm mỗi ngày, giống như các hoạt động tương tác xă hội và các tṛ game chẳng hạn.

Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với một người bạn có thể kích thích hoạt động trí tuệ v́ bạn sẽ phải cân nhắc những lời đối đáp có thể và những kết quả mong muốn. Các tṛ game đ̣i hỏi người chơi phải có chiến lược và kỹ năng giải quyết những khó khăn để đạt được mục đích tốt nhất.




Luyện tập trí óc

Cùng với tuổi tác, việc rèn luyện trí óc cũng quan trọng như luyện tập cơ thể. Và bây giờ, bạn đă biết 5 nhóm chức năng tri giác của năo và cách thức luyện tập chúng, thế nên bạn sẽ nhận thấy dễ dàng hơn những hoạt động hàng ngày có thể giúp ḿnh rèn luyện trí óc và năo bộ ra sao.

Sưu tầm

florida80
04-03-2019, 19:13
Chứng Lơang Xương Và Mất Xương









Chứng Loăng Xương Và Mất Xương



Bác Sĩ Ngô Bá Định



Trong suốt cuộc đời, cơ thể con người trải qua một quá tŕnh tạo xương liên tục, trong đó những xương già bị hủy đi và những xương mới được tạo ra. Loăng xương xuất hiện là do sự mất thăng bằng trong chu tŕnh tạo xương đó, khi lượng xương bị hủy nhiều hơn lượng thay thế. Từ đó làm cho xương trở nên xốp hơn , và dần trở nên yếu và dễ găy hơn.

Ngày nay, có khoảng 28 triệu người Mỹ bị mắc chứng loăng xương - 80% trong số này là phụ nữ. Tuy nhiên, chỉ một lượng tương đối nhỏ những phụ nữ này được chẩn đoán và điều trị.

Bởi v́, ở giai đoạn sớm, loăng xương diễn ra rất thầm lặng, nghĩa là bạn không có một triệu chứng nào. Hơn nữa, nhiều phụ nữ tin rằng nếu họ duy tŕ một chế độ ăn tốt và tập thể dục đều đặn, họ sẽ không bị ảnh hưởng.



Hiểu biết chính là mấu chốt. Bạn càng hiểu biết nhiều về chứng mất xương và cách lựa chọn của bạn trong sự pḥng tránh và điều trị loăng xương, bạn càng có nhiều cơ hội để sống chủ động và không phụ thuộc. Chỉ dẫn này được cung cấp để đem lại cho bạn những kiến thức cơ bản về loăng xương, cũng như những thông tin về những xét nghiệm cần thiết.



Cơ thể mỗi người đều khác nhau, bạn có thể trao đổi với bác sĩ về t́nh trạng của cá nhân. Cách tốt nhất để giúp bác sĩ quyết định xem bạn có mật độ xương thấp hay loăng xương, và có nguy cơ găy xương do những chấn thương nhỏ hay không dựa vào xét nghiệm đo mật độ xương.

Xương b́nh thường có mật độ dày và khoẻ mạnh.

Trong bệnh loăng xương, xương bị làm cho mảnh và yếu đi.

Hăy hỏi bác sĩ về xét nghiệm đo mật độ xương.


Bởi v́, trong giai đoạn đầu, loăng xương không có triệu chứng, bạn có thể không biết rằng xương bạn đang trở nên yếu đi. Xét nghiệm đo mật độ xương là một cánh giúp bác sĩ chẩn đoán được bạn có loăng xương hay không. Xét nghiệm này cũng được dùngđể đánh giá tỷ lệ mất xương và đáp ứng với điều trị của bạn.



Có nhiều cách đo mật độ xương như sử dụng sóng âm thanh, hay dùng một lương nhỏ phóng xạ để xác định độ dày hay mật độ của xương. Xét nghiệm đo mật độ xương đơn giản, an toàn, và không đau và hầu hết các xét nghiệm chỉ tốn chừng vài phút.

Xét nghiệm chấm điểm (T-score) so sánh mật độ xương của bạn với xương của phụ nữ trẻ b́nh thường. T-score b́nh thương là -1 hay cao hơn. Xương bị yếu đi do loăng xương trở nên mỏng, dễ găy. Nếu T-score của bạn dưới mức b́nh thường, bạn nên điều trị.

Các xét nghiệm là một phương cách tốt để giúp xác định bạn có nguy cơ loăng xương hay không. Hăy hỏi bác sĩ xem bạn có nên thực hiện xét nghiệm đo mật độ xương không và dùng thuốc hay phương pháp điều trị loăng xương nào là thích hợp cho bạn.



Phụ nữ thời kỳ măn kinh có nguy cơ cao. Măn kinh thường bắt đầu ở độ tuổi 50. Cho dù có thể xuất hiện sớm hơn, ví dụ trong trường hợp người phụ nữ bị phẫu thuật lấy đi buồng trứng.

Các yếu tố khác có thể đóng góp vào các yếu tố nguy cơ gồm:

-Di truyền: Gia đ́nh có tiền căn loăng xương, Thân h́nh nhỏ con hay ốm.

Chủng tộc người da trắng hay Châu Á ( Nhóm người này có nguy cơ cao nhất cho dù loăng xương có thể ảnh hưởng đến mọi phụ nữ mọi dân tộc).

-Giảm mức estrogen:Trong hay sau khi măn kinh

-Thuốc: Steroide, Tăng nội tiết tố tuyến giáp

-Cách sống :Hút thốc lá, Dùng quá nhiều caffeine, Dùng quá nhiều rượu, Thiếu các hoạt động thể lực…

-Lượng vitamine D và calci không tương xứng. Ví dụ: không uống hoặc uống ít sữa hoặc ăn kiêng mỗi ngày.

Qua thời gian, khi xương bạn mỏng và yếu hơn, bạn có thể gặp phải các triệu chứng: Giảm cân, Đau lưng,C̣ng lưng, Găy xương hông, cổ tay, xương sống.

Măn kinh là yếu tố mấu chốt góp phần phát triển loăng xương. Ngay cả khi không có yếu tố nguy cơ nào tác động vào bạn, bạn vẫn có thể có loăng xương nếu bạn đă sau măn kinh.

Trong giai đoạn sớm của loăng xuơng, bạn có thể không có triệu chứng ǵ. Tuy nhiên, khi bệnh phát triển, bạn có thể bị găy xương chỉ do một chấn thương nhỏ, đặc biệt ở xương hông, cổ tay, xương sống.

Các xương bị yếu do loăng xương dễ bị găy hơn. Một sự té ngă hay căng cơ lưng quá nhiều có thể tăng nguy cơ găy xương. Việc này có thể dẫn đến đau, giảm chiều cao, giới hạn hoạt động, gù lưng. Đi kèm với tác động về mặt thể chất, loăng xương có thể dẫn đến cảm giác gây bơ vơ, thiếu tự tin, hay mất độc lập.

Ng̣ai việc thực hiện một xét nghiệm đo mật độ xương và biết đuợc thang điểm T- score, bạn có thể tự bảo vệ ḿnh thoát khỏi sự nguy hiểm của loăng xương bằng cách làm theo các bước sau:

-Tập thể dục nhiều và đều đặn :

Bạn có thể bảo vệ xương của bạn chống lại găy bằng tập thể dục và làm các hoạt động thể lực khác. Các bài tập thể dục nhằm tăng độ khỏe mạnh của cơ và nâng cao tính mềm dẻo giúp pḥng tránh té ngă.

-Bảo đảm chế độ ăn có đầy đủ calci và vitamine D :

Cơ thể của bạn cần calci và vitamine D để giữ cho xương khoẻ mạnh. Nguồn tốt nhất để cung cấp calci là thức ăn. nếu bạn không thể lấy đủ calci từ thức ăn, bạn có thể lấy thêm từ các nguồn phụ khác.

-Pḥng tránh tai nạn bằng cách sống an toàn :

Với loăng xương, bạn cần phải học cách sống an toàn pḥng tránh té ngă và chấn thương xương. Tạo một căn nhà an toàn bằng cách loại bỏ các mối nguy hiểm. Cẩn trọng khi mang vác, cúi xuống hay với tay ra.

-Làm xét nghiệm đo mật độ xương :

Bạn có thể không biết rằng xương của bạn đang yếu đi. Cách tốt nhất để bác sĩ của bạn quyết định bạn có mật độ xương thấp hay loăng xương và bạn có nguy cơ cao bị găy xương hay không là dựa vào xét nghiệm đo mật độ xương.

-Tṛ chuyện cùng bác sĩ của bạn :

Tham khảo ư kiến của bác sĩ về thuốc pḥng hay phương pháp điều trị nào là thích hợp với bạn.

-Hoạt động hàng ngày :

Tất cả phụ nữ nên biết về chứng mất xương và loăng xương. Gần như một phần hai phụ nữ trên 50 tuổi bị loăng xương bị găy xương. Một cú té ngă nặng nề hay căng cơ lưng quá mức có thể làm gia tăng nguy cơ găy xương. Điều này có thể dẫn đến đau, mất chiều cao, giới hạn hoạt động, và c̣ng lưng.



Pḥng Bảo Vệ Sức Khỏe

florida80
04-03-2019, 19:14
Tập Hít Thở Để Giữ Ǵn Sức Khỏe




Tập hít thở để giữ ǵn sức khỏe (rất đơn giản !)
Nguyễn Văn Cư






Lớn tuổi hay sắp già mới biết thở đúng cách, nhưng không trễ đâu.




Tập được lúc nào, ngày nào tốt ngày đó.



Chỉ cần vài phút, bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, khi ngồi hoặc nằm (trước khi ngủ, hoặc sau khi thức dậy), tập càng nhiều lần trong ngày càng tốt cho sức khỏe. Khi tập nhắm mắt hoặc mở mắt không thành vấn đề, chủ yếu là vận hành hơi thở từ từ nhẹ nhàng bằng mũi, sẽ khiến cho máu chạy đều, tim đập tốt hơn, đầu óc bớt căng thẳng và làm tiêu tan sự mệt mỏi.




Phương pháp hít thở theo nguyên tắc: hít vào ph́nh bụng ra, nín thở, rồi thở ra cùng lúc thót bụng vào, đều, chậm răi, êm dịu có tác dụng phục hồi sức khỏe rất kỳ diệu nhất là về tim. Cách thở này không những cung cấp đủ dưỡng khí mà c̣n giúp điều ḥa các rối loạn tạng phủ.






Chính tôi đă tập được hơn 3 năm rồi, thấy trong người khỏe khoắn và minh mẫn, tim đập b́nh thường (trước đó nhập viện 11 ngày, Bác Sĩ chuyên khoa về tim nói 2 valves tim của tôi hoàn toàn bị hỏng (nghẽn), cho uống thuốc điều trị tạm, trước khi có thể phải mổ, nhưng sau 9 tháng tập hít thở, tim mạch trở lại b́nh thường và sau đó không c̣n dùng thuốc về tim nữa)








Chỉ cần 3 động tác rất đơn giản bên dưới lập đi lập lại:








1/ Hít vào từ từ và nhẹ nhàng bằng mũi, đồng thời từ từ ph́nh bụng ra. êm dịu kéo dài đến mức có thể chịu được.








2/ Nín thở, giữ hơi càng lâu càng tốt.








3/ Thở ra từ từ và nhẹ nhàng bằng mũi, đồng thời từ từ thót bụng vào hết cỡ, êm nhẹ và kéo dài đến mức có thể chịu được.








Chúc các bạn yêu đời và gặp nhiều may mắn!

florida80
04-03-2019, 19:18
Ung Thư Tụy Tạng - Pancreatic Cancer











Theo tài liệu y học tổng quát về ung thư tụy tạng th́ bệnh này không có triệu chứng báo sớm. V́ vậy khi được phát hiện bệnh thuờng đă ở giai đoạn tiến triển xa và bệnh nhân không có hi vọng sống quá năm năm. Nhưng thật ra cũng có những dấu hiệu báo trước ung thư tụy tạng, Tuy nhiên muốn hiểu các dấu hiệu và triệu chứng này th́ điều quan trọng là chúng ta phải biết rơ tụy tạng nằm ở đâu và có chức năng ǵ

Tụy tạng (pancreas) là một bộ phân cơ thể nằm xâu trong bụng, chỉ dài khoảng 4 tới 6 inch, có h́nh dạng giống con ṇng nọc.

Ở “đuôi” (tail) tụy tạng có những tế bào sản xuất insulin, và những khối u ở phần đuôi này thuờng là khối u nội tiết (endocrinic tumors). Loại khối u này dễ phát hiện nhưng rất hiếm. Phía đầu (head) của tụy tạng có những tế bào sản xuất các enzim tiêu hóa và khối u ở đầu này cũa tụy tạng được gọi là khối u ngoại tiết (exocrine tumors). Loại khối u này thông thường hơn nhiều và khó phát hiện hơn



Cho rằng khối u tụy tạng không gây triệu chứng nào th́ có phần không hợp lư. Sau khi đào xâu các báo cáo khoa học và ḍ hỏi các bệnh nhân về những ǵ họ nhớ lại, người ta đă lập ra được một danh sách dài những dấu hiệu và triệu chứng của ung thư tụy tạng cần phải để ư. Nếu xét riêng từng triệu chứng một, th́ các triệu chứng trên có thể có nhiều nghĩa khác nhau. Nhưng nếu bạn thấy hai hay ba trong số những triêu chứng này xuất hiện th́ bạn cần gặp bác sĩ để yêu cầu được rà (scan) bệnh. Kỹ thuật chụp h́nh công hưởng từ(MRI) đôi khi có thể ḍ thấy ung thư tụy tạng tùy theo vị trị cũa khối u.



Các Dấu Hiệu Báo Sớm Ung Thư Tụy Tạng



1- Bệnh tiểu đường, đặc biệt là nếu bệnh xuất hiện đột ngột Gần đây một báo cáo của Mayo Clinic đă gây ngạc nhiên khi dẫn chứng là 40 phần trăm những bệnh nhân ung thư tuy tạng đă được chẩn đoán bị tiểu đường một hay hai năm trước khi khối u tụy tạng được phát hiện.

Các nhà khảo cứu cho rằng bệnh tiểu đường là do các khối u chưa được phát hiện gây ra. Vấn đề là bệnh tiểu đường rất thông thường mà phần lớn các bệnh nhân tiểu đường lại không bị ung thư tụy tạng, nên các bác sỉ đang t́m cách triển khai những phương cách sàng lọc thích ứng. Trong khi chờ đợi, tiền sử y lư của gia đ́nh bệnh nhân là một đầu mối quan trọng. Nếu bạn được chẩn đoán bị tiểu đường, mà nếu bệnh này xẩy ra đột ngột và gia đ́nh bạn không có tiền sử bị bệnh tiểu đường th́ bạn nên lưu ư bác sĩ về điều này và yêu cầu đuợc rà (scan) bệnh ung thư tuỵ tạng.



2- Mắt hay da vàng

Một khối u nhỏ ở tuỵ tạng cũng có thể làm nghẹt ống dẫn mật ở phía đầu (head) tụy tạng làm cho mật ứ lại và gây bệnh vàng da (jaundice)



3- Da, ḷng bàn tay hay gót bàn chân bị ngứa

Một tác dụng phụ ít được biết đến của bệnh vàng da là làm bàn tay và bàn chân bị ngứa, Đây là do phản ứng của da đối với chất bilirubin--một hóa chất mầu nâu vàng của gan gây ra bệnh vàng da



4-Ăn không ngon

Một báo cáo khoa học của Ư cho biết sáu hay tám tháng trước khi được chẩn đoán có khối u trong tụy tạng, bệnh nhân đột ngột ăn không thấy ngon và cảm thấy no chỉ sau khi ăn đôi chút



5- Vị giác thay đổi

Cũng báo cáo trên của Ư cho biết một số bệnh nhân đột nhiên không c̣n thấy hương vị của cà phê, rượu vang và hút thuốc thấy lạt lẽo. Thật ra, các bệnh nhân này cho biết họ cảm thấy chán ghét mùi vị của cà phê và rượu



6- Đau nơi bụng

Các bệnh nhân ung thư tụy tạng cho biết họ bi đau âm ỉ nơi bụng , chứ không thấy đau thắt hay đau nhức, và cái đau tỏa ra phía sau lưng. Một đầu mối đặc trưng: khi cúi người về phía trước th́ không c̣n thấy đau



7- Túi mật to ra

Sự tắc nghẽn ống dẫn mật không những gây bệnh vàng da mà c̣n có thể làm túi mật to ra. Rất may là triêu chứng này có thể được phát hiện khi chụp h́nh và cũng có thể được bác sĩ nhận ra khi khám sức khỏe



8- Phân có mầu lợt, nổi, có mùi

Nếu khối u tụy tạng ngăn không cho các enzim tiêu hóa xuống ruột, th́ hậu quả là các thức ăn béo không được tiêu hóa. Điều này dẫn đến t́nh trạng phân rời ra, nặng mùi, nổi lều bều do chất béo dư thừa. Bác sĩ cho biết triệu chứng này có thể là một dấu hiệu đăc biệt báo sớm, nhưng thường ra lại không được lưu ư tới



9- Phân đen, mầu hắc ín

Triêu chứng này xuất hiện do chảy máu phần ruột trên



10- Giảm cân đột ngột , không giải thích được

Trái với điều nhiều người nghĩ, giảm cân không phải luôn luôn là dấu hiệu của ung thư tiến triển (advanced cancer) lan tràn trong gan. Giảm cân cũng có thề là do thiếu các enzim tiêu hóa từ tụy tạng, làm cho chất béo không được tiêu hóa trong cơ thể



Bạn Phải Làm Ǵ Khi Quan Tâm Về Bất Cứ Triệu Chứng Nào Trên Đây



Bạn hăy ghi lại tất cả các triêu chứng và báo cáo chi tiết cho bác sĩ. Nếu bạn thuyết phục được bác sĩ là mối lo ngại cũa bạn chính đáng th́ bác sĩ sẽ cho tiến hành các thử nghiệm như siêu âm, CT scan, nội soi kèm theo sinh thiết để t́m kiếm khối u tuỵ tạng Ngoài ra cũng c̣n có thể thử máu để xác định lượng chất đánh dấu sinh học (biomarker) CA-19-9



Ung thư tụy tạng có tỉ lệ gây tử vong rất cao, như trường hợp đáng buồn của nhà kinh doanh thiên tài Steve Jobs. (Xem bài của Bác Sĩ Vũ Văn Dzi đă đăng trước đây) Tuy nhiên nếu phát hiện sớm, bệnh nhân vẫn có thể được cứu và tiếp tục một cuộc sống phong phú. Điển h́nh là trường hợp của vị Chánh Án Tối Cao Pháp Viện Rub Bader Ginsburg vẫn sinh hoạt b́nh thưởng sau khi cắt một bướu nhỏ nơi tụy tạng.

Sưu tầm

florida80
04-03-2019, 19:22
Bệnh Thấp Tim








H́nh ảnh hở van 2 lá do thấp tim.




Thấp tim hay c̣n gọi là thấp khớp cấp tính hoặc sốt thấp khớp (rheumatic fever) được coi là một trong những chứng bệnh của hệ miễn dịch mô liên kết hay thuộc hệ thống tạo keo.

Bệnh thường gặp ở trẻ từ 5 - 15 tuổi. Đây là căn bẹnh làm tổn thương khớp, tim, thần kinh, da và chỉ để lại di chứng ở tim. Những di chứng tại van tim là nguyên nhân chính của bệnh tim mắc phải, gây tử vong cho trẻ em từ 5 - 15 tuổi, làm mất sức lao động của những người trưởng thành.



Chẩn đoán xác định thấp tim khi nào?

Khi có bằng chứng của nhiễm liên cầu A đường hô hấp (biểu hiện lâm sàng của viêm đường hô hấp trên và/hoặc làm phản ứng ASLO dương tính và/hoặc cấy dịch họng t́m thấy liên cầu), kèm theo có ít nhất 2 tiêu chuẩn chính hoặc có 1 tiêu chuẩn chính kèm 2 tiêu chuẩn phụ. Sở dĩ là vậy v́ trong màng tế bào liên cầu khuẩn nhóm A có một thành phần protein rất giống với protein màng tế bào cơ tim và một số tổ chức liên kết khác của cơ thể. Ngoài ra, cấu trúc cacbon hydrat màng tế bào liên cầu khuẩn nhóm A cũng giống mucoprotein ở van tim người. Khi bị nhiễm liên cầu khuẩn nhóm A, cơ thể sẽ sản xuất các kháng thể chống liên cầu khuẩn, vô t́nh các kháng thể này cũng tấn công luôn cả cơ tim và các tổ chức liên kết có thành phần protein tương tự. Ngoài có cấu tạo protein rất giống với protein màng tế bào cơ tim dẫn tới sự “nhầm lẫn” kể trên, màng tế bào liên cầu khuẩn c̣n mang nhiều chất có độc tính với tế bào cơ tim, thận, phá hủy hồng cầu, tiểu cầu...




Dấu hiệu nhận biết

Sau khi bị viêm họng từ 1 - 5 tuần, những trẻ bị nhiễm liên cầu khuẩn nhóm A sẽ thấy xuất hiện t́nh trạng đau ở khớp với đặc điểm là đau từ khớp này sang khớp khác. Các khớp lớn như khớp gối, khớp khuỷu, khớp cổ chân, cổ tay sẽ bị sưng, đau, nóng đỏ khiến bệnh nhân đi lại và cử động rất khó khăn (riêng khớp cột sống hoặc khớp ngón tay, ngón chân rất ít khi đau nhức). Điểm đặc biệt của bệnh này là khi khớp sau bị sưng đau th́ các khớp bị sưng đau trước đó lại khỏi và trở lại hoạt động b́nh thường, không có biến dạng khớp và bị hạn chế cử động như các loại viêm khớp khác. Chính v́ biểu hiện như vậy mà căn bệnh này c̣n được gọi là bệnh thấp khớp cấp.





Cùng với những cơn đau ở khớp th́ ở tim cũng có tổn thương (cơ tim, các màng tim và các van tim) làm cho người bệnh mệt mỏi, đau tức ngực, khó thở, nhịp tim chậm hoặc nhanh, có thể không đều. Nếu viêm cơ tim nặng gây khó thở, tím tái, phù, gan to.

Tổn thương thường gặp khi bị thấp tim

Viêm tim: Viêm tim là một biểu hiện bệnh lư nặng của thấp tim và khá đặc hiệu. Có khoảng 41 - 83% số bệnh nhân thấp tim có biểu hiện viêm tim. Các biểu hiện của viêm tim có thể là viêm màng trong tim, viêm màng ngoài tim, viêm cơ tim. Viêm tim có thể biểu hiện từ thể không có triệu chứng ǵ đến các dấu hiệu suy tim cấp nặng hoặc tử vong. Các triệu chứng lâm sàng có thể gặp là: tăng nhịp tim, tiếng thổi tâm thu, tiếng thổi tâm trương, tiếng rung tâm trương, rối loạn nhịp, tiếng cọ màng tim, suy tim...

Một trong những biểu hiện phải chú ư và là biến chứng nặng của thấp tim là viêm van tim. Hở van hai lá là một trong những biểu hiện thường gặp nhất, trong khi hở van động mạch chủ ít gặp hơn và thường kèm theo hở van hai lá.

Viêm khớp: Viêm khớp là một biểu hiện hay gặp nhất trong thấp tim (80%) nhưng lại ít đặc hiệu. Biểu hiện của viêm khớp là sưng, nóng, đỏ, đau khớp, xuất hiện ở các khớp lớn (gối, cổ chân, cổ tay, khuỷu, vai...) và có tính chất di chuyển. Viêm khớp do thấp tim thường không bao giờ để lại di chứng ở khớp.

Múa giật Sydenham: Đây là biểu hiện của tổn thương ngoại tháp và khá đặc hiệu cho thấp tim. Các biểu hiện là những động tác vận động không mục đích và không tự chủ ở các cơ mặt, chi; giảm trương lực cơ, rối loạn cảm động. Các biểu hiện ban đầu có thể là khó viết, khó nói hoặc đi lại. Các biểu hiện này thường rơ khi bệnh nhân bị xúc động hoặc thức tỉnh và mất đi khi bệnh nhân ngủ.

Múa giật Sydenham là một trong những biểu hiện muộn của thấp tim, nó thường xuất hiện sau khi viêm đường hô hấp trên khoảng 3 tháng. Múa giật Sydenham thường biểu hiện đơn độc trong thấp tim và gặp ở khoảng 30%. Triệu chứng này thường mất đi sau 2 - 3 tháng.

Nốt dưới da: Đó là những nốt có đường kính khoảng 0,5 - 2cm, cứng, không đau, di động và thường xuất hiện ngay trên các khớp lớn hoặc quanh các khớp. Nốt dưới da có thể gặp ở khoảng 20% số bệnh nhân bị thấp tim và thường biến mất sau vài ngày. Da ở trên nốt này thường vẫn di động b́nh thường và không có biểu hiện viêm ở trên.

Đây là một loại ban trên da, có màu hồng và khoảng nhạt màu ở giữa tạo thành ban ṿng. Thường không hoại tử và có xu hướng mất đi sau vài ngày. Hồng ban ṿng là một dấu hiệu khá đặc hiệu trong thấp tim và ít gặp (5%), thường chỉ gặp ở những bệnh nhân có da mịn và sáng màu. Hồng ban ṿng thường xuất hiện ở thân ḿnh, bụng, mặt trong cánh tay, đùi và không bao giờ ở mặt. Khi có hồng ban ṿng th́ thường có kèm theo viêm cơ tim.

Do các triệu chứng nói trên, bệnh thấp tim hay bị nhầm với một số bệnh khác nên dễ bị bỏ qua. Điều này rất nguy hiểm, bởi nếu không được điều trị, bệnh cũng sẽ khỏi, nhưng sau đó một thời gian lại tái phát. Mỗi lần tái phát như vậy các tổn thương ở tim càng nặng hơn dẫn đến các chứng hẹp hay hở van tim, hoặc hở hay hẹp các van động mạch tại tim.

Lời khuyên của thầy thuốc

Khi thấy đau khớp sau một đợt viêm họng, nên nghĩ tới thấp tim và cần sớm đi khám bệnh, làm các xét nghiệm cần thiết để và có liệu tŕnh điều trị đúng đắn. Nếu đúng mắc bệnh thấp tim, trẻ nên tuân thủ chế độ điều trị dự pḥng nghiêm ngặt cụ thể: tiêm kháng sinh dự pḥng một tháng một lần theo chỉ dẫn của thầy thuốc. Thời gian dự pḥng là 5 năm, tốt nhất đến 18 tuổi, với thể tổn thương nặng ở tim, pḥng tái phát cho đến 25 tuổi.

Để pḥng bệnh thấp tim, trẻ cần tránh không để bị cảm, bị viêm họng, viêm khí - phế quản, đồng thời ǵn giữ vệ sinh răng miệng thật tốt. Cần chú trọng cải thiện các điều kiện ăn, ở, chú ư vấn đề vệ sinh môi trường, điều kiện dinh dưỡng đối với trẻ em.

BS. Lê Hưng




at 12:11 AM

maxima88
04-04-2019, 06:03
Thanks Florida80 - Very useful... Things that I never know before
"Đừng bao giờ bôi petroleum jelly (vaseline), rượu cồn ( alcohol ) hay ammonia lên con bọ ve - chúng sẽ cắn chặt sâu vào da hơn"

florida80
04-05-2019, 17:47
dây hoành tù: buo’u cổ (goiters), u hay nang ỏ cổ, nhũng khô’I u ỏ trung thâ’t (mediastinal masses), và nhũng bâ’t thụng của co hoành nhu: thoa’t vị bao tủ-hoành (hiatal hernia), trào nguọc dạ Dày thục quản (gastroesophageal reflux), hay nhũng ki’ch thi’ch trục tiê’p của nhũng abscess duo’I co hoành hay ki’ch thi’ch trong khi đang phẫu thuật
Hiccup kho’ chũa cũng là một biê’n chu’ng không thông thụng ỏ AIDS; hầu hê’t nhũng trụng họp do nâ’m candida thục quản hay nhũng bịnh kha’c của thục quản
2)Rô’I loạn thần kinh trung uong (Central nervous system disorders): gây hiccups dai dẳng và kho’ trị do qua’ tŕnh nhiễm trùng, mạch ma’u và câ’u tru’c; nhũng t́nh trạng này đuọc nghĩ do sụ giảI thoa’t của nhũng sụ u’c chê’ b́nh thụng của cung phản xạ Hiccup; nhũng tổn thuong câ’u tru’c nhu: u trong năo đặc biệt ỏ cuô’ng năo, multiple sclerosis, năo nuo’c (hydrocephalus) và syringomyelia; Nhũng nguyên nhân nhiễm trùng và mạch ma’u thụng gặp hon
3)Liên quan to’I thuô’c-chuyển hoa’ châ’t độc( toxic-metabolic or drug-related disorders): co’ thể gây hiccup do ảnh huỏng hệ Thần kinh trung uong hay dây thần kinh hoành hay dây X; hiccup kho’ chũa co’ thể xảy ra ỏ uremia, ngộ Độc ruọu và gây mê toàn thân (general anesthesia)
4)Tâm ly’: co’ thể gây hiccup tụ gio’I hạn và hiccup kho’ chũa; Vi’ dụ Nhu: lo lă‘ng, căng thẳng, ki’ch thi’ch hay malingering; nguyên nhân tâm ly’ chỉ đuọc kê’t luận sau khi đă co’ thăm kha’m kỷ (extensive medical evaluation)
ĐỊNH BỊNH(EVALUATION) không no’I v́ liên quan to’I chuyên môn nhiều; nhung hiccup nhẹ (brief hiccup bouts) thụng gặp và không cần y học can thiệp (medical intervention)
ĐIỀU TRỊ (TREATMENT)
Nhiều phuong ca’ch điều trị Đă đuọc nêu lên; tuy nhiên hầu nhu nhũng thông tin đuọc nêu ra tù trong nhũng ba’o ca’o tùng trụng họp (case reports) và sô’ luọng râ’t I’t do đo’ nhũng điều trị Này thụng dụa vào kiê’n thu’c quan sa’t (anecdotal information) hon là nghiên cu’u co’ kiểm tra (controlled studies)
Điều trị Trục tiê’p vào nguyên nhân nê’u co’
Điều trị Bao vây (empiric therapy) nê’u không t́m ra nguyên nhân; điều trị Bao vây chia ra 2 loại: dùng thuô’c và không dùng thuô’c;
Không dùng thuô’c: bao gồm nhũng phuong ca’ch dân gian co’ tù lâu nhu: ngung thỏ (breath holding), nuô’t một muỗng đụng (swallowing a teaspoon of sugar) và uô’ng nuo’c ỏ phi’a đô’I diện của ca’I ly (drinking from the opposite side of a glass); (Vietnam ta co’ ca’ch là uô’ng tùng ngụm nuo’c nhỏ ???) và phẫu thuật; nhiều phuong ca’ch điều trị Dân gian Thành công đă đuọc luu truyền tù đ̣I này sang đ̣I kha’c; một vàI ca’ch co’ co bản về sinh ly’ là chu’ng sẽ ngăn chận nha’nh đi lên của cung phản xạ Hiccup qua sụ ki’ch thi’ch mũI-hầu (nasopharyngeal stimulation), gia tăng ki’ch thi’ch dây X và ngăn cản chu’c năng hô hâ’p b́nh thụng;
Dùng thuô’c: (ba’c sĩ cho toa nên Fair1 không no’I ỏ đây); đôI khi dùng thuô’c vẫn không khỏI th́ co’ thể châm cu’u hay hypnosis

A desperate day

florida80
04-05-2019, 17:49
CÁC CƠ CHẾ GÂY PHÙ
drtho89 ( Theo wXw.diendanykhoa.com )


I.PHÙ TOÀN THÂN

Phù do sự mất quân b́nh giữa khu vực nội mạch và gian bào, bắt buộc kèm theo sự ứ nước – muối.

1. Phù do tim

Trong trường hợp suy tim, cung lượng tim giảm, dẫn đến giảm lượng máu đến thận, đặc biệt các nephron cạnh vùng lơi thận, gia tăng sự tái hấp thu H2O2.Na+ , chứng tăng aldosteron huyết xảy ra trong trường hợp này, một phần do rối loạn tưới máu vùng thận, phần khác do giảm sút sự thanh lọc,chuyển hóa ở gan. Đồng thời áp lực tĩnh mạch toàn thân và phổi gia tăng , dịch tái hấp thu sẽ đổ vào khoảng gian bào, gây triệu chứng phù. Duy nhất, chỉ có cải thiện cung lượng tim, mới có thể phá vỡ ṿng lẩn quẩn làm giảm phù.

Trường hợp suy tim ứ huyết, có cung lượng tim b́nh thường hoặc cao (thí dụ do thiếu máu, tăng năng tuyến giáp, ḍ động – tĩnh mạch, bệnh Paget, bệnh tê phù) cơ chế phù cũng tương tự như trên, chỉ có sự không đáp ứng của cung lượng tim đồi với nhu cầu của tế bào ngoại vi gây ra sự tái phân phối lượng máu. Sự giảm tưới máu vô thận, do hệ giao cảm gây co mạch, dường như có vai tṛ chủ yếu. T́nh trạng cường giao cảm này lại tạo điều kiện cho chứng cường aldosteron xảy ra trong trường hợp này.

Trong cả 2 trường hợp trên, tăng áp lực tĩnh mạch trong phổi dẫn đến t́nh trạng phù phổi và t́nh trạng giảm oxy huyết do phù phổi gây ra càng thúc đẩy suy tim và phù.

2. Phù do thận

Sự mất protein với số lượng lớn qua đường niệu gây ra giảm protid máu và kèm theo giảm albumin máu. Khi albumin huyết thanh giảm dưới 25g/l, phù toàn thân sẽ xuất hiện. Sự giảm áp lực thể keo gây ra sự giảm thể tích nội mạch kèm theo giảm lượng máu đến thân, tăng tái hấp thu Na+ và chứng cường aldosteron thứ phát Giảm áp lực thể keo hữu hiệu dẫn đếnsự tích tụ nước và muối trong khu vực gian bào và giảm thể tích máu.Vị trí phù phần lớn ảnh hưởng do tư thế bệnh nhân.

Trong chừng mực mà áp lực tuần hoàn phổi giảm ngay cả áp lực thể keo có giảm, phù phổi cũng có thể xảy ra.

3. Phù do xơ gan

Sự giữ nước, muối trong bệnh xơ gan cổ trướng liên quan đến 2 yếu tố:

a. Suy tế bào gan: nguồn gốc của giảm albumin máu là do giảm khả năng tổng hợp của gan, cũng tương tự trường hợp hội chứng thận hư. Giảm albumin máu làm giảm áp lực thể keo dẫn đến t́nh tạng giảm thể tích máu.

b. Sự nghẽn hệ thống cửa hay bạch huyết do xơ gan gây ra, làm tăng áp lực thủy tĩnh và tích tụ nước trong khu vực gian bào và khoảng cửa. Tăng áp lực cửa thông thường kèm theo sự tăng tính thấm của các mao mạch cửa đối với albumin và sự thất thoát albumin kiểu này càng thúc đẩy sự h́nh thành dịch cổ trướng. Nghẽn dẫn lưu hệ bạch huyết của gan càng tạo điều điện củng cố hội chứng phù do sự giàu protein tương đối của dịch cổ trướng. Sự tích lũy nước trong hệ thống cửa cũng tùy thuộc vào các địa hạt khác, cũng xảy ra t́nh trạng giảm thể tích máu hữu hiệu tạo điều kiện cho sự giữ nước và muối.

Chứng cường aldosteron xảy ra ở bệnh xơ gan liên quan đến việc tưới máu ở thận đồng thời cũng do giảm sự thanh lọc, chuyển hóa ở gan. Trường hợp cổ trướng lớn, sự tăng áp lực trong ổ bụng làm trở ngại tuần hoàn tĩnh mạch hệ chi.

4. Phù do suy dinh dưỡng

T́nh trạng thiếu ăn kéo dài, nuôi ăn qua đường tiêm truyền không đầy đủ hoặc kém hấp thu ruột măn tính trong khuôn khổ bệnh viện hoặc kư sinh trùng ruột là nguồn gốc của sự giảm albumin huyết và hậu quả là tăng thể tích dịch gian bào. Trên các bệnh nhân này, triệu chứng phù rất rơ ràng v́ bệnh nhân rất gầy. Dinh dưỡng tái phục hồi đột ngột cũng có thể làm phù nặng hơn trong giai đoạn đầu do tăng sự ứ nước và muối.

Nếu phối hợp với t́nh trạng tê phù và nếu có tổn thương tim th́ phù càng dễ xuất hiện.

5. Phù của các bệnh ruột xuất tiết

Mất protein quá nhiều và kéo dài qua đường tiêu hóa trong một số bệnh:
•Bệnh dạ dày: K dạ dày, bệnh Ménétrier, hội chứng sau khi cắt dạ dày, viêm dạ dày thể keo.

•Bệnh ruột non: bệnh scrue, bệnh Whipple, u lympho, tăng sinh tuần ḥa bạch huyết, lao ruột, viêm ruột cấp tính, xơ cứng b́, bệnh túi thừa, viêm ruột dị ứng.

•Bệnh ruột già: K đại tràng, viêm loét đại tràng, viêm đại tràng u hạt tiên phát, chứng to ruột kết.

•Linh tinh: suy tim phải, bệnh cơ tim tiên phát, thông liên thất, chứng không gamma globulin máu do có sự thay đổi niêm mạc ruột (viêm, loét, dị thường trong cấu trúc tế bào), tăng áp lực hệ bạch huyết. Điều quan trọng là mất toàn bộ protein, albumin cũng như globulin, sẽ làm giảm protein máu, tăng thể tích khu vực gian bào và phù càng hiển nhiên nếu bệnh nhân gầy mất nhiều mô mỡ.


6. Phù vô căn

Phù không rơ nguyên nhân xảy ra trên phụ nữ sau tuổi dậy th́, thường kèm theo rối loạn kinh nguyệt và xáo trộn tâm lư. Đặc điểm của bệnh này là xảy ra từng đợt phù toàn thân, không đặc tính viêm, tiểu ít, trong ngày thể trọng cơ thể tăng nhiều và dễ xảy ra khi bệnh nhân đứng lâu, do nắng, dùng thuốc và đôi khi do chu kỳ kinh nguyệt.

Người bị bệnh phù vô căn không hề có dữ kiện nào về một bệnh tim, thận, gan, nội tiết, dinh dưỡng dị ứng, tĩnh mạch, bạch huyết hoặc bệnh do dùng thuốc. Phân bố phù diễn tiến một cách lạ thường:

a. Buổi sáng sưng mặt

b. Trong ngày phù 2 chi, bụng chướng cho đến khi phù vùng ngực, khii bệnh nhân đứng huyết áp thương thấp, mạch rất nhanh, phản ánh t́nh trạng giảm thể tích máu lưu hành

Sinh bệnh học của phù vô căn rất phức tạp: môt số tác giả ghi nhận có t́nh trạng protein thoát ra ngoài mạch, gây hạ albumin huyết, hậu quả giảm thể tích máu, giảm tưới máu thận. Người ta cũng t́m thấy có hiện tượng tăng áp lực thể keo ở khu vực ngoại bào, tăng độ thấm và diện tích mao mạch. Người ta cũng đề cập đến vai tṛ của một số chất trung gian như Bradykinine, Histamin và hormon như oestrogen. Ngoài ra c̣n có nghẽn tuần hoàn bạch huyết, t́nh trạng cường aldosteron thứ thát, tăng tiết AND. Gần đây có một giả thuyết cho phép giải thích một số yếu tố của hội chứng này là do có sự suy yếu của hệ thống giải phóng Dopamin, bằng cớ là có sự giảm bài tiết Dopamin trong nước tiểu, từ đó giải thích đượccác rối loạn hành vi, rối loạn kinh nguyệt, rối loạn tính thấm mao mạch, sự ứ Na+ và t́nh trạng cường aldosteron thứ phát.

Tóm lại, tăng thể tích dịch gian bào tong hội chứng phù vô căn không những liên quan đến sự thay đổi bất thường của mao mạch mà c̣n liên hệ đến sự ứ nước, muối do thận gây ra và càng rơ trong tư thế đứng.

II.PHÙ VÀ CÁC BỆNH TĨNH MẠCH

Hội chứng giăn tĩnh mạch, hội chứng thuyên tắc và loạn sinh chảy máu, tất cả đều có thể gây ra phù và có tính chất cục bộ, liên quan đến sự tăng áp lực thủy tĩnh do nghẽn mạch cũng như do biến đổi thành mạch. Phù trong trường hợp này có ư nghĩa là suy hệ tĩnh mạch mất bù quan trọng kèm theo tím tái ngoại vi và cũng nặng thêm trong tư thế đứng, bất động và sốt cao.

Biến chứng về sau, nếu kéo dài sẽ dẫn đến t́nh trạng viêm dưới da, loét da. Trong khuôn khổ bệnh tĩnh mạch cấp như viêm tắc tĩnh nạch, th́ phù luôn là một yếu tố nhất định. Các chẩn đoán phân biệt cần nêu ra như phù trong trường hợp viêm tế bào nhiễm khuẩn, viêm mạch bạch huyết hoặc vỡ một nang Baxer.

III.PHÙ BẠCH HUYẾT

Bệnh có nguồn gốc: phù do tắc tuần hoàn bạch huyết, rất nhiều liên quan đến các nguyên nhân bẩm sinh, chấn thương, tân sinh, kư sinh trùng, viêm dị ứng, nhiễm trùng hoặc vô căn. Thường phù rất lớn, không đau, phù hướng về trung ương, phù trắng cứng, ít khi nào xảy ra biến chứng ở da. Ở chân, tổn thương ở mu bàn chân và các ngón chân là đặc điểm của sinh bệnh học này. Điều trị thường khó và không hiệu quả.

IV.PHÙ VÀ CÁC BỆNH LƯ NỘI TIẾT

Bệnh đái tháo đường, phù có thể liên quan đến một hội chứng thận hư, bệnh thần kinh thực vật hoặc do biến đổi đặc hiệu của màng đáy các mao mạch

Bệnh Basedow: suy tim và biến đổi các các mô nâng đỡ, giải thích hiện tượng phù. Phù kèm với bệnh mắt đặc biệt được giải thích bằng cơ chế miễn dịch

Bệnh suy giáp: phù có tính chất đặc thù của bệnh phù niêm. Trong một số trường hợp, ngừoi ta đă chứng minh có bài tiết ADH dẫn đến sự ứ nước

Bệnh Cushing: phù ngoại vi kín đáo, do tăng tiết cortisol gây giữ nước và do tính dễ vỡ của thành mao mạch

Bệnh to cực: bên cạnh sự dày lên của các phần mềm dưới tác dụng của các hormon phát triển, c̣n có phù thật sự do liên quan đến đái tháo đường, suy giáp và nhất là suy tim kèm theo

Hội chứng trước kỳ kinh nguyệt do mất quân b́nh hormon (oestrogen, progesteron) gồm có phù 2 chi, căng tuyến vú và tăng nhiều thể trọng.

V.PHÙ VÀ CÓ THAI

Sự ứ nước và Na+ gia tăng khi mang thai đạt đến trung b́nh 12,5kg, trong đó 4kg chất mỡ được giải thích là do có tăng tiết hormon mineral corticoid, oestrogen, prolactin, angiotensin và vasopressin.

Có khoảng 35% các trường hợp có mang b́nh thường kèm theo t́nh trạng phù rơ rệt, có lúc phù hạ chi, có lúc phù toàn thân, khi lượng nước giữ lại quá 8 lít. Phù này do trở ngại trên đường về của hệ tĩnh mạch từ hạ chi, do khối tử cung, do giảm áp lực thể keo, thay đổi các mô nâng đỡ dưới ảnh hưởng của hormon oestrogen. Trong trường hợp nhiễm độc huyết thai kỳ và cao huyết áp, có t́nh trạng giảm thể tích máu lưu hành, một cách tương đối, và phù được giải thích là do có sự thấm Na+ một cách bất thường qua các mao mạch làm tăng khu vực gian bào.

VI.PHÙ VÀ CÁC BỆNH COLLAGEN

Người ta nhận thấy trong các quá tŕnh tiến triển của một số bệnh (lupus ban đỏ rải rác, xơ cứng b́, viêm đa cơ, viêm quanh động mạch cơ cục và đa khớp dạng thấp) có xảy ra hiện tượng phù.

Đôi khi chứng phù này được giải thích là do suy tim, suy gan, suy thận, hạ albumin máu, có tác giả c̣n giải thích là do tăng độ thấm mao mạch, đối với albumin do có sự rối loạn chất collagen và dường như không có sự xáo trộn miễn dịch đặc hiệu nào xảy ra trên các mao mạch.

VII.PHÙ DO LOẠN THẦN KINH – MẠCH

Là thí dụ điển h́nh của phù do rối loạn thẩn kinh thể dịch. Đây là một di truyền thể hiện bằng các giai đoạn phù các chi, mặt và đường hô hấp, thường không có đau bụng kèm theo.

Phù chắc, không để lại dấu Godet, không ngứa, không đau và thường khởi phát sau một chấn thương ngoại khoa, nhổ răng. Nguy cơ lâu dài của bệnh này là khả năng xảy ra phù hầu, cần mở thông khí đạo. Bệnh này liên quan đến sự thiếu hụt oxy của bổ thể, có thể điều trị lâu dài bằng các thuốc làm đồng hóa.

VIII.PHÙ DO KẺ HỞ MAO MẠCH

Bao gồm một số bệnh cùng có chung triệu chứng như phù loại viêm, có định khu trú đặc biệt và xảy ra sau một chấn thương vật lư, hóa học, do dị ứng hoặc miễn dịch. Nhiều chất trung gian đă gây sự tăng tính thấm mao mạch có xuất xứ từ huyết thanh như: Kinine, Anaphylatoxine, Fibrinopeptide hoặc từ các mô như: Histamin, Hydroxytryptamine, Prostaglandine, chất P…

Phù Quinine là một t́nh huống của loại phù này. Do một kháng nguyên nào đó (thuốc, thức ăn, nhiễm trùng) đă gây ra một xung đột dị ứng, giải phóng các chất trung gian nói trên, gây phù các mô tế bào dứoi da và niêm mạc có khả năng đe dọa tai biến hô hấp.

IX. PHÙ DO SỬ DỤNG THUỐC

Nhiều loại thuốc có thể gây ra phù với các cơ chế khác nhau : do phản ứng miễn dịch, dị ứng kèm theo sự tăng tính thẩm mao mạch, xảy ra với Aspirine, kháng sinh, do thay đổi tính thẩm mao mạch, xảy ra với Oestrogen, thuốc chống rối lọan tâm thần, do ít nước, muối xảy ra với thuốc chống viêm, thuốc ưc chế tổng hợp, Prostaglandine, Gluco – corticoide, hormon nữ tổng hợp, các loại giăn mạch, do giữ nước : thông qua AND với Nicotine, Chlopropamide, Morphine, Barbiturique…

florida80
04-05-2019, 17:51
NHỮNG CĂN BỆNH THUỘC VỀ NĂO BỘ
(BRAIN DISEASES)
Lynn Ly phỏng dịch, tóm tắt theo thông tin từ website WebMD.com


Bệnh năo bao gồm nhiều dạng khác nhau. Nhiễm trùng, chấn thương, đột quỵ hay tai biến mạch máu năo, co giật, và u bướu là một số loại bệnh chính của những bệnh năo. Dưới đây là một cái nh́n tổng quát về các căn bệnh khác nhau thuộc về bộ năo.

I. NHỮNG BỆNH NĂO: NHIỄM TRÙNG (BRAIN DISEASES: INFECTIONS)

Những bệnh năo trong phân loại về nhiễm trùng bao gồm:
•Bệnh Viêm Màng Năo (Meningitis): Một t́nh trạng viêm tại màng bao phủ năo bộ hoặc tủy sống, thường là do nhiễm trùng. Đau cổ, nhức đầu, và lú lẫn / nhầm lẫn là những triệu chứng phổ biến.


•Bệnh Viêm Năo (Encephalitis): Một t́nh trạng viêm tại mô năo (brain tissue), thường là do nhiễm trùng. Viêm màng năo (Meningitis) và viêm năo (Encephalitis) thường xuất hiện cùng một lúc, được gọi là viêm năo màng năo (meningoencephalitis ).


•Áp-xe Năo (Brain abscess): Một t́nh trạng nhiễm trùng có bọc mủ nằm trong hộp sọ ở vị trí ngoài màng cứng, dưới màng cứng và trong năo mà thường gây ra bởi vi khuẩn. Thuốc kháng sinh và phẫu thuật giải thoát dịch mủ ở khu vực này thường là cần thiết.


II. NHỮNG BỆNH NĂO: CO GIẬT / ĐỘNG KINH (BRAIN DISEASES: SEIZURES)

Động Kinh Rối Loạn (Epilepsy = Seizure Disorder ) được gom chung vào trong các loại động kinh thuộc về bệnh năo. Những kiểu chấn thương đầu và các kiểu đột quỵ có thể gây ra động kinh / co giật, nhưng nguyên nhân thường không được xác định.

III. NHỮNG BỆNH NĂO: CHẤN THUƠNG ( BRAIN DISEASES: TRAUMA )

Chấn thương bao gồm những t́nh trạng sau đây:
•Chấn Động (Concussion): Một thương tích năo bộ gây ra một sự xáo trộn tạm thời trong chức năng hoạt động của năo, đôi khi kèm theo sự bất tỉnh và lú lẫn. Các tổn thuơng năo do chấn thuơng mà gây ra bởi những chấn động (concussions).


•Tổn Thương Năo Do Chấn Thương (Traumatic Brain Injury): Năo bị hư hại vĩnh viễn từ 1 vết thương ở đầu do chấn thương. Sự suy giảm tinh thần rơ ràngg hoặc có thể xảy ra biến đối tinh tế hơn về nhân cách và tính khí / tâm trạng (mood) .


• Xuất Huyết Nội Sọ (Intracerebral hemorrhage): Bất kỳ t́nh trạng chảy máu thế nào ở bên trong năo mà có thể xảy ra sau một tổn thương do chấn thương hoặc do bị cao huyết áp.


IV. NHỮNG BỆNH NĂO: NHỮNG U BƯỚU, NHỮNG KHỐI U, VÀ SỰ GIA TĂNG ÁP LỰC HỘP SỌ (BRAIN DISEASES: TUMORS, MASSES, AND INCREASED PRESSURE)

Các loại bệnh năo này bao gồm:
•Bướu Năo (Brain tumor) Bất kỳ sự phát triển mô bất thường ở bên trong năo. Cho dù những khối u năo ác tính (ung thư) hoặc lành tính, thường gây ra những vấn đề bởi áp lực mà tác động lên một bộ năo b́nh thường (normal brain).


•U Nguyên Bào Đệm (Glioblastoma): Một khối u năo ác tính hung hẵn. U nguyên bào đệm năo (Brain glioblastomas) tiến triển rất nhanh chóng và thường rất khó chữa trị.


•Năo úng thủy (Hydrocephalus): Một số lượng dịch năo(cerebrospinal fluid) gia tăng bất thường bên trong hộp sọ. Thông thường, t́nh trạng này là do các chất dịch lỏng không được lưu hành thỏa đáng.


•Năo Úng Thuỷ Áp Lực B́nh Thường (Normal pressure hydrocephalus): Một dạng năo úng thủy thường gây ra những vấn đề về đi đứng, cùng với sự sa sút trí tuệ (dementia) và chứng đi tiểu không tự chủ / chứng són tiểu(urinary incontinence). Những áp lực bên trong năo vẫn b́nh thường, mặc dù chất dịch gia tăng.


•U Giả Năo Bộ (pseudotumor cerebri), hay c̣n gọi là Tăng Áp Lực Nội Sọ Hiền Tính (Benign Intracranialhyperten sion) : Áp lực bên trong hộp sọ gia tăng mà không có nguyên nhân rơ ràng. Những thay đổi thị lực, đau đầu, chóng mặt, và buồn nôn là những triệu chứng phổ biến.


V. NHỮNG BỆNH NĂO: NHỮNG T̀NH TRẠNG THUỘC VỀ MẠCH MÁU ( BRAIN DISEASES: VASCULAR (BLOOD VESSELS) CONDITIONS )

Những bệnh năo liên kết đến những t́nh trạng thuộc về mạch máu bao gồm:
•Đột Quỵ (Stroke): lưu lượng máu và oxygen đột nhiên bị gián đoạn khi đi đến một vùng mô năo, rồi th́ vùng mô năo đó chết đi. Một phần cơ thể được điều khiển bởi các vùng năo bị hư hỏng đó (chẳng hạn như một cánh tay hoặc một chân) có thể không c̣n hoạt động thỏa đáng nữa.


•Đột Qụy Do Thiếu Máu Cục Bộ (ischemic stroke) : Một cục máu đông đột nhiên phát triến trong một động mạch(artery), ngăn chặn ḍng máu chảy và gây ra một cơn đột quỵ.


•Đột Quỵ Do Xuất Huyết (Hemorrhagic stroke): Sự chảy máu trong năo tạo ra sự ùn tắc(congestion) và áp lực lên mô năo, làm suy yếu việc vận chuyển máu và gây ra một cơn đột quỵ.


•Tai Biến Mạch Máu Năo( Cerebrovascular accident = CVA): Một tên gọi khác về đột quỵ.


•Cơn Thiếu Máu Năo Thoáng Qua (Transient ischemic attack = TIA): Một gián đoạn tạm thời về lưu lượng máu và oxygen đến một vùng năo bộ. Những triệu chứng tương tự như triệu chứng một cơn đột quỵ, nhưng chúng tan biến hoàn toàn không có sự thiệt hại đến mô năo.


•Chứng ph́nh động mạch năo (Brain aneurysm): Một động mạch trong năo phát triển một khu vực suy nhược mà phồng như bong bóng. Sụ vỡ động mạch năo tại nơi ph́nh ra đó gây ra đột quỵ do chảy máu.


•Máu Tụ Dưới Màng Cứng (Subdural Hematoma): Sự chảy máu ở bề mặt của năo bộ. Máu Tụ Dưới Màng Cứng có thể gây áp lực lên năo, gây ra các vấn đề về thần kinh.


•Máu Tụ Ngoài Màng Cứng (Epidural Hematoma = extradural hematoma): Sự chảy máu ở giữa hộp sọ và màng cứng của năo bộ. Sự chảy máu thường là từ động mạch, thông thường là ngay sau khi bị chấn thương đầu. Những triệu chứng ban đầu nhè nhẹ có thể tiến triển nhanh chóng đến bất tỉnh và tử vong nếu không được điều trị.


•Xuất Huyết trong Năo Bộ (IntraCerebral Hemorrhage): Sự chảy máu ở bên trong năo bộ .


•Phù năo (Cerebral edema): Sự sưng mô năo có thể là do những nguyên nhân khác nhau, bao gồm cả sự phản hồi của 1 thương tích hoặc sự mất cân bằng chất điện phân (electrolyte imbalances).


VI. NHỮNG BỆNH NĂO: T̀NH TRẠNG TỰ MIỄN DỊCH (BRAIN DISEASES: AUTOIMMUNE CONDITIONS)

Những bệnh năo liên quan đến t́nh trạng tự miễn dịch bao gồm:
•Viêm Mạch Máu (Vasculitis): Sự viêm các mạch máu của năo bộ. Lú lẫn/ lầm lẫn, co giật, nhức đầu, và bất tỉnh có thể là kết quả.


•Đa xơ cứng (Multiple sclerosis = MS): Hệ thống miễn dịch tấn công một cách nhầm lẫn và làm hư hại các dây thần kinh của cơ thể. Bắp thịt bị co thắt (chuột rút = vọp bẻ), mệt mỏi, và suy nhược là những triệu chứng. MS có thể xảy ra ở những cuộc tấn công bởi hệ thống miễn dịnh một cách định kỳ hoặc liên tục không gián đoạn.


VII. NHỮNG BỆNH NĂO: T̀NH TRẠNG THOÁI HÓA THẦN KINH (BRAIN DISEASES: NEURODEGENERATIVE CONDITIONS)

Những bệnh năo liên quan đến t́nh trạng thần kinh thoái hóa bao gồm:
•Bệnh Parkinson (Parkinson's disease): Những dây thần kinh trong một khu vực trung tâm năo bộ bị thoái hóa chầm chậm, gây ra các vấn đề về cử động và khả năng phối hợp. Run rẩy / run lẩy bẩy bàn tay là một dấu hiệu phổ biến ở thời kỳ khởi đầu của căn bệnh .


•Bệnh Huntington: Một chứng rối loạn thần kinh do di truyền có ảnh hưởng đến năo bộ. Chứng sa sút trí tuệ (dementia) và khó khăn trong việc kiểm soát các cử động là những triệu chứng của căn bệnh . Khi bệnh tiến triển đến giai đoạn cuối th́ người bệnh bị mất hoàn toàn các kỹ năng vận động ngay cả cử động nhai nuốt hay nói năng.


•Bệnh Pick (Pick's Disease) c̣n gọi là Bệnh Sa Sút Trí Tuệ Trán-Thái Dương ( Frontotemporal Dementia ): Qua nhiều năm, khu vực rộng lớn của các dây thần kinh ở phía trước (trán) và hai bên năo (thái dương) bị phá hủy do sự tích tụ một protein bất thường. Những thay đổi nhân cách, những hành vi không phù hợp, và mất trí nhớ cùng mất khả năng trí tuệ là những triệu chứng. Bệnh Sa Sút Trí Tuệ Trán-Thái Dương c̣n gọi là bệnh Pick th́ tiến triển liên tục một cách kiên định .


•Bệnh Xơ Cứng Cột Bên Teo Cơ = Bệnh Thoái Hóa Thần Kinh Vận Động Một Bên (Amyotrophic lateral sclerosis = ALS): Bệnh này c̣n được gọi là bệnh Lou Gehrig . Trong căn bệnh này, các dây thần kinh kiểm soát chức năng bắp thịt bị phá hủy liên tục thật đều đặn. Bệnh ALS tiến triển liên tục đến mức bại liệt và mất khả năng hô hấp khi không có máy hỗ trợ hô hấp. Chức năng nhận thức nói chung th́ không bị ảnh hưởng.


•Bệnh Sa Sút Trí Tuệ (Dementia): Sự suy giảm chức năng nhận thức, do các tế bào thần kinh trong năo chết đi hoặc không vận động. Những t́nh trạng mà trong đó các dây thần kinh trong năo thoái hóa, cũng tương tự như sự lạm dụng rượu và đột quỵ có thể gây ra chứng sa sút trí tuệ .


•Bệnh Mất Trí Nhớ = Bệnh Alzheimer (Alzheimer): Đối với những lư do không rơ ràng, các dây thần kinh trong vùng năo nhất định bị thoái hóa đi, gây ra sự mất dần trí nhớ và kỹ năng thuộc về tâm thần. Sự tích tụ những mô bất thường ở những khu vực năo bộ - thường được gọi là những tảo bẹ (tangles) và những mảng bợn (plaques) - được cho là góp phần gây ra căn bệnh này. Bệnh Alzheimer là dạng phổ biến nhất của chứng sa sút trí tuệ.

florida80
04-05-2019, 17:53
ĐỘT QUỴ (STROKE)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH


1/ ĐỘT QUỴ LÀ G̀ ?

Đột quỵ là một hội chứng lâm sàng, được xác định bởi các liệt thần kinh cấp tính trong khung cảnh gián đoạn khu trú tuần hoàn năo. Có một số tiểu loại, gồm có đột quỵ do huyết khối (atheothrombotic), đột quỵ do nghẽn mạch phát xuất từ tim (cardioembolic), đột quỵ ổ khuyết (lacunar), và xuất huyết (hemorrhagic). Đột quỵ không phải là một kết thúc chẩn đoán mà phải khiến t́m kiếm một giải thích nguyên nhân.

2/ ĐỊNH NGHĨA ĐỘT QUỴ DO THIẾU MÁU CỤC BỘ (ISCHEMIC STROKE).

Một cơn đột quỵ (stroke) là do sự gián đoạn luồng máu đến năo bộ. Sự thiếu máu cục bộ (ischemia) được định nghĩa như là giảm máu (hypoemia), một sự giảm phân phát oxy và glucose đến cơ quan đích (target organ), trong trường hợp này là năo bộ. Trong năo, sự thiếu máu cục bộ có thể gọi là toàn bộ (như trong ngừng tim) hay khu trú (liên quan một mạch máu đặc hiệu hay một nhóm mạch máu đặc hiệu trong năo bộ) ; nghẽn mạch (embolic) hay huyết khối (thrombotic) ; và mạch máu lớn (liên quan một trong những mạch máu lớn của năo bộ) hay mạch máu nhỏ (liên quan một trong những mạch máu nhỏ đi xuyên của năo bộ).

3/ NHỮNG YẾU TỐ NGUY CƠ QUAN TRỌNG CỦA ĐỘT QUỴ ?

Yếu tố nguy cơ quan trọng nhất được xác lập của đột quỵ là tuổi tác, và yếu tố nguy cơ quan trọng thứ hai là cao huyết áp. Những yếu tố nguy cơ được xác lập khác là :

1.Giới tính (nam)

2.Bệnh sử gia đ́nh

3.Bệnh đái đường

4.Bệnh tim

5.Trước đây đă bị đột quỵ

6.Cơn thiếu máu năo cục bộ tạm thời (TIA : transient ischemic attacks)

7.Tiếng thổi động mạch cảnh

8.Nghiện thuốc lá

9.Hematocrit gia tăng

10.Nồng độ fibrinogen tăng cao

11.Bệnh hemoglobin

12.Nghiện ma túy, như cocaine


4/ NHỮNG YẾU TỐ NGUY CƠ KHÁC ĐĂ ĐƯỢC MÔ TẢ ?


1. Tăng lipit-huyết

2.Chế độ ăn uống

3.Thuốc ngừa thai

4.Lối sống ít hoạt động

5.Chứng béo ph́

6.Bệnh huyết quản ngoại biên

7.Tăng axit uric-huyết

8.Nhiễm trùng


5/ NHỮNG YẾU TỐ NGUY CƠ QUAN TRỌNG CỦA NHỒI MÁU NĂO DO HUYẾT KHỐI (THROMBOTIC CEREBRAL INFARCTION) ?

Cao huyết áp là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất. Nguy cơ gia tăng tỷ lệ với mức độ của cao huyết áp. Tuổi tác cũng là một yếu tố nguy cơ : tỷ lệ bị nhồi máu năo bộ gia tăng với tuổi và ở đàn ông 1,3 lần cao hơn ở đàn bà. Những yếu tố nguy cơ khác gồm có bệnh đái đường, bệnh động mạch vành, suy tim sung huyết, rung nhĩ, và ph́ đại tâm thất trái. Béo ph́, tăng cholesterol-huyết, và tăng lipit-huyết là những yếu tố nguy cơ .

6/ NHỮNG YẾU TỐ NGUY CƠ QUAN TRỌNG CỦA NHỒI MÁU NĂO DO NGHẼN MẠCH (EMBOLIC CEREBRAL INFARCTION) ?

Những tai biến mạch máu năo do nghẽn mạch (embolic) thường có nguồn gốc ở tim. Những yếu tố nguy cơ quan trọng gồm có bệnh tim do thiếu máu cục bộ (ischemic heart disease) với cục huyết khối thành (mural thrombus) ; loạn nhịp tim, đặc biệt là rung nhĩ (atrial fibrillation) ; các van tim nhân tạo (prosthetic cardiac valves) ; bệnh thấp tim (rheumatic heart disease) ; các bất thường van tim, như hẹp van hai lá (mitral stenosis) ; và viêm nội tâm mạc do vi khuẩn (bacterial endocarditis). Một ḿnh rung nhĩ, mà không có bằng cớ bệnh thấp tim (rheumatic heart disease), gia tăng nguy cơ đột quỵ khoảng 5 lần. Những người già có nguy cơ cao nhất bị rung nhĩ, bởi v́ tỷ lệ đột quỵ do rung nhĩ gia tăng với tuổi tác. Xơ vữa động mạch chủ, các động mạch cổ, và các động mạch đốt sống (vertebral arteries) cũng là những yếu tố nguy cơ.

7/ NGUY CƠ ĐỘT QUỴ VỚI RUNG NHĨ ?

Rung nhĩ xảy ra nơi 2-4% những người 60 tuổi hoặc hơn. Nguy cơ hàng năm được ước tính nơi người trưởng thành 60 tuổi hoặc hơn với rung nhĩ là khoảng 3,8% mỗi bệnh nhân mỗi năm. Có một nguy cơ cao hơn bị đột quỵ nơi những người có những bệnh kèm theo như đái đường, cao huyết áp, cơn thiếu máu cục bộ năo tạm thời (transient ischemic attack), tuổi lớn hơn 65, và suy tim sung huyết mới đây.

TỶ LỆ BỊ ĐỘT QUỴ MỖI NĂM VỚI RUNG NHĨ



Tuổi ( năm )


Tỷ lệ ( % năm )


50-59

1,3


60 - 69

2.2


70 - 79

4.2


80 - 89

5,1


8/ NHỮNG NGUY CƠ ĐỘT QUỴ NÀO NƠI NHỮNG BỆNH NHÂN VỚI RUNG NHĨ ?

Tỷ lệ mắc bệnh đột quỵ hàng năm nơi các bệnh nhân với rung nhĩ không được điều trị kháng đông là khoảng 5%. Hầu hết các đột quỵ là do nghẽn mạch (embolic) và xảy ra trong ṿng 2 năm sau khi khởi đầu rung nhĩ. Những yếu tố liên kết với một nguy cơ gia tăng bị đột quỵ gồm có lớn tâm nhĩ trái, cao huyết áp, loạn chức năng tâm nhĩ trái, và cao tuổi. Vài thử nghiệm đă chứng tỏ rằng điều trị bằng thuốc kháng đông warfarin dùng bằng đường miệng làm giảm nguy cơ đột quỵ thứ phát nghẽn mạch (emboli) trong nhóm những bệnh nhân này.

9/ NÊN PHẢI LÀM G̀ ĐỂ GIẢM NGUY CƠ ĐỘT QUỴ NƠI MỘT BỆNH NHÂN VỚI RUNG NHĨ MĂN TÍNH HAY KỊCH PHÁT ?

Điều trị kháng đông thường thường nên được thực hiện trong những trường hợp rung nhĩ trong đó thuốc không bị chống chỉ định. Đối với một bệnh nhân vừa chịu một thủ thuật xâm nhập, phẫu thuật viên góp phần trong quyết định về nguy cơ chảy máu do liệu pháp kháng đông đặt ra.

Ở những bệnh nhân có huyết động ổn định và bị rung nhĩ trong hơn 48 giờ không nên thực hiện khử rung (cardioversion), trừ phi những bệnh nhân này đă được điều trị kháng đông trong 3 tuần hoặc đă được làm siêu âm qua thực quản để loại bỏ cục máu đông trong tâm nhĩ.

10/ NGHIỆN MA TUƯ CÓ LÀM DỄ ĐỘT QUỴ KHÔNG ?

Nghiện ma túy (drug abuse) đă xuất hiện như một yếu tố nguy cơ đáng kể dẫn đến đột quỵ nơi các bệnh nhân trẻ. Ít nhất một công tŕnh nghiên cứu đă chứng tỏ nghiện ma túy là yếu tố nguy cơ tiềm năng thường được nhận diện nhất trong các bệnh nhân đột quỵ dưới 35 tuổi.

11/ TRỊ SỐ B̀NH THƯỜNG ĐỐI VỚI LƯU LƯỢNG MÁU NĂO ?

Ở người trưởng thành, lưu lượng máu năo (cerebral blood flow) là khoảng 55 ml/100gam mô năo/phút, hay 15% lưu lượng tim b́nh thường. Khi lưu lượng máu giảm dưới 20 ml/100mg/phút evoked potential sẽ mất và điện năo đồ (electroencephalogra m) sẽ trở nên đẳng điện. Khi lưu lượng máu giảm dưới 15ml/100mg/phút và không được tái phục nhanh chóng, thương tổn năo không thể hồi phục được sẽ xảy ra.

12/ MÔ TẢ SỰ CUNG CẤP MÁU CHO NĂO

4 động mạch mang máu đến năo. Đó là hai động mạch cảnh trong(internal carotid artery) ở phía trước và hai động mạch đốt sống (vertebral artery) ở phía sau. Những động mạch cảnh trong xuất phát từ những động mạch cảnh chung (common carotid artery). Động mạch cảnh chung trái là một nhánh của động mạch dưới đ̣n trái ; động mạch cảnh phải xuất phát từ thân cánh tay-đầu (brachiocephalic trunk) phải. Mỗi động mạch cảnh chung, ở góc xương hàm, chia thành các nhánh trong và ngoài. Các động mạch cảnh trong cung cấp máu cho các dây thần kinh thị giác (optic nerves), vơng mạc, và phần lớn của những bán cầu đại năo (các thùy trán, đỉnh, và thái dương trước).

Các nhánh của động mạch cảnh gồm có (1) động mạch nhăn (ophthalmic artery), (2) động mạch thông sau ( posterior communicating artery), (3) động mạch màng mạch trước (anterior choriodal artery), (4) động mạch năo trước (anterior cerebral artery), và (5) động mạch năo trung (middle cerebral artery).

Tuần hoàn sau (posterior circulation) được chi phối bởi hai động mạch đốt sống (vertebral arteries). Những động mạch đốt sống phải và trái phát xuất từ các động mạch dưới đ̣n hai bên và đi vào hố sau (posterior fossa) qua foramen magnum. Chúng sinh ra động mạch tiểu năo sau dưới (posterior inferior cerebellar artery) và các động mạch tủy (spinal arteries) trước và sau trước khi hợp lại để tạo thành động mạch nền (basilar artery) ở pontomedullary junction. Hệ động mạch đốt sống-nền (vertebrobasilar system) cung cấp máu tủy sống cổ, thân năo, các thùy trán trong và sau, và các thùy chẩm.

Động mạch năo sau (PCA : posterior cerebral artery) cung cấp máu các thùy chẩm. Nơi đại đa số các bệnh nhân (70%), động mạch này phát xuất từ chĩa của động mạch nền (the bifurcation of the basilar artery). Trong 95% các trường hợp, một hay cả hai động mạch năo sau phát xuất tự động mạch nền, trong khi trong 5% c̣n lại động mạch năo sau phát xuất từ động mạch cảnh trong hai bên.

Các nhánh quan trọng của động mạch nền gồm có (1) động mạch mê cung (labyrinthine artery) đến tai trong. (2) động mạch tiểu năo trên (superior cerebellar artery), (3) động mạch năo sau, và (4) động mạch tiểu năo trước dưới (anterior inferior cerebellar artery).

13/ MÔ TẢ V̉NG ĐỘNG MẠCH NĂO WILLIS.

Hệ động mạch đốt sống-nền (vertebrobasilar system) được nối vào hệ động mạch cảnh (carotid system) bởi một ṿng nối động mạch (anastomotic ring). Các động mạch thông trước và sau (anterior and posterior communicating arteries) liên kết các tuần hoàn bán cầu đại năo trước/sau và trái/phải. 4 động mạch tạo nên ṿng động mạch Willis : động mạch thông sau (posterior communicating artery), động mạch năo sau (posterior cerebral artery) ở hai bên, động mạch thông trước (anterior communicating artery), và động mạch năo trước (anterior cerebral artery) ở hai bên.

14/ MỘT BỆNH CẢNH LÂM SÀNG CỦA ĐỘT QUỴ DO THIẾU MÁU CỤC BỘ MẠCH MÁU LỚN (LARGE VASCULAR ISCHMIC STROKE).

Triệu chứng lâm sàng của những bệnh nhân bị tai biến mạch máu năo do thiếu máu cục bộ tùy thuộc vào vị trị và kích thước của nhồi máu (infarct). Nhồi máu động mạch cảnh (carotid artery infarction) thường đưa đến những triệu chứng một bên : nhồi máu hệ đốt sống-nền ( vertebrobasilar system infarction) có thể đưa đến những triệu chứng cả hai bên.

TẮC ĐỘNG MẠCH CẢNH (CAROTID ARTERY OCCLUSION) : đưa đến liệt nhẹ nửa người bên đối diện, hemihypesthesia, bán manh cùng bên (homonymous hemianopsia), mất nhận thức (agnosia), và, nếu bán cầu đại năo trội (dominant hemisphere) bị thương tổn, mất ngôn ngữ toàn bộ (global aphasia).Vài bệnh nhân (15%) có một hội chứng Horner cùng bên.Thường kích thước của nhồi máu đưa đến phù năo rơ rệt, và bệnh nhân có thể obtunded hay hôn mê. Hầu hết những tắc động mạch cảnh là do huyết khối (thrombotic). Những tai biến thiếu máu cục bộ tạm thời (TIA) xảy ra trước những tắc động mạch cảnh quan trọng khoảng 50 % các trường hợp. Vài bệnh nhân với tắc hoàn toàn động mạch cảnh có thể có ít hoặc không có dấu hiệu liệt thần kinh bởi v́ lưu lượng máu phụ qua ṿng động mạch Willis có thể cho phép cung ứng lưu lượng máu đầy đủ để ngăn ngừa thiếu máu cục bộ.

THIẾU MÁU CỤC BỘ ĐỘNG MẠCH NĂO GIỮA ( MIDDLE CEREBRAL ARTERY ISCHEMIA): có thể đưa đến một bệnh cảnh lâm sàng tương tự với bệnh cảnh lâm sàng của tắc động mạch cảnh.Trong hẹp động mạch cảnh cấp tính (acute carotid stenosis) (một mạch máu bị xơ mỡ tiến đến chỗ đóng kín hoàn toàn) là lóc động mạch cảnh (carotid artery dissection), các nghẽn mạch (emboli) có thể đến động mạch năo giữa (middle cerebral artery), dẫn đến thiếu máu cục bộ trong địa phận động mạch năo giữa.Trong trường hợp điển h́nh, thiếu máu cục bộ như thế đưa đến loạn năng vận động chi phối ở mặt và chi trên nhưng không ảnh hưởng chi dưới. Tắc các nhánh đưa đến ít bại liệt hơn. Chức năng nói và ngôn ngữ có thể bị ảnh hưởng bởi v́ động mạch năo giữa cung cấp máu cho các trung tâm nói và ngôn ngữ của năo bộ (ở bán cầu năo trái trong đa số các trường hợp)

THIẾU MÁU CỤC BỘ ĐỘNG MẠCH NĂO TRƯỚC (ANTERIOR CEREBRAL ARTERY ISCHEMIA): ít xảy ra hơn nhiều. Đưa đến loạn năng vận động bên đối diện, ảnh hưởng cẳng chân hơn là cánh tay và mặt.

TẮC ĐỘNG MẠCH NỀN (BASILAR ARTEY OCCLUSION): đưa đến liệt các dây thần kinh sọ hai bên và liệt chi (quadriparesis). Nếu nhồi máu bao gồm reticular activating system nơi thân năo, bệnh nhân bị hôn mê.Tuy nhiên, reticular activating system ở phần trên trung năo có thể không bị thương tổn, trong khi các đường vận động bị thương tổn. Sự mất hoàn toàn chức năng vận động nơi một bệnh nhân thức tỉnh thường được gọi là locked-in syndrome. Những triệu chứng khác của thiếu máu cục bộ động mạch nền gồm có chóng mặt (vertigo), thất điều (ataxia), và song thị (diplopia).

TẮC ĐỘNG MẠCH ĐỐT SỐNG MỘT BÊN

• có thể dẫn đến thiếu máu cục bộ hành tủy bên (nếu động mạch tiểu năo sau dưới bị tắc). Thiếu máu cục bộ đường dẫn truyền gai thị (spinothalamic tracts) đưa đến thất điều cùng bên, tăng loạn cảm mặt (facial hypesthesia), và mất bên đối diện, phía dưới mặt, cảm giác đau và nhiệt độ. Mất chức năng các dây thần kinh sọ IX và X đưa đến khó nuốt và khàn giọng. Hội chứng Horner có thể xảy ra cùng bên với thương tổn. Hội chứng này thường được gọi là hội chứng tủy bên (lateral medullary syndrome) hay Wallenberg’s syndrome.

• Hội chứng Wallenberg là một hội chứng đột quỵ đặc biệt của tuần hoàn sau năo bộ, do tắc một động mạch đốt sống (vertebral artery) và/hay động mạch tiểu năo sau dưới (posterior inferior cerebellar artery). Những dấu hiệu gồm có mất cùng bên cảm giác đau và nhiệt độ ở mặt và mất bên đối diện những cảm giác này nhưng trên thân thể.


15/ NHỒI MÁU Ổ KHUYẾT (LACUNAR INFARCT) LÀ G̀ ?

Ổ khuyết (lacuna) là chữ Latin để chỉ một hốc hay xoang rỗng nhỏ. Các ổ khuyết năo (cerebral lacunes) chỉ nhiều nhồi máu nhỏ do tắc các nhánh xuyên (penetrating branches) nhỏ (đuờng kính 50 - 150 microns) của huyết quản năo lớn.Mô năo bị hoại tử mềm ra và bị mục, để lại những xoang nhỏ ( 1-3 mm đường kính), thấy rơ lúc giải phẫu tử thi. Các ổ khuyết gây ra các triệu chứng cảm giác và vận động thay đổi tùy theo vị trí của chúng. Nhiều ổ khuyết có thể đưa đến mất khả năng trí tuệ với thương tổn trí nhớ gần (recent memory). Trong vài trường hợp sa sút trí tuệ nặng có thể xảy ra. Có 4 hội chứng ổ khuyết (lacunar syndrome) cổ điển :

1.Liệt nhẹ nửa người thuần vận động (Pure motor hemiparesis) : liệt thường ảnh hưởng đều nhau mặt, cánh tay, và cẳng chân ở một phía của cơ thể, với sự bảo tồn chức năng cảm giác, trí tuệ, và ngôn từ.

2. Mất thuần cảm giác nửa người (Pure hemisensory loss) : mất một cảm giác ở một phía của cơ thể, với sự bảo tồn chức năng vận động, trí tuệ và ngôn từ.

3. Loạn vận ngôn-hội chứng bàn tay vụng về (Dysarthria-clumsy hand syndrome) : liệt chủ yếu ở bàn tay và loạn vận ngôn (nói lớ).

4.Thất điều-liệt nhẹ nửa người (Ataxia-hemiparesis) : thất điều và liệt mặt, cánh tay, và cẳng chân ở một phía của cơ thể, kết hợp với thất điều.


16/ NHỒI MÁU VÙNG BIÊN (WATERSHED OR BORDER-ZONE INFARCT) LÀ G̀ ?

Một nhồi máu vùng biên (watershed infarct) để chỉ một vùng thiếu máu cục bộ khu trú năo, do giảm áp lực đẩy máu (perfusion pressure). Nhồi máu vùng biên điển h́nh xảy ra cả hai bên nơi những vùng biên giới giữa các huyết quản lớn như động mạch năo giữa (middle cerebral artery) và động mạch năo sau (posterior cerebral artery). Nhồi máu vùng biên hai bên thường là do hạ huyết áp toàn thể. Những nhồi máu vùng biên một bên có thể được liên kết với hep mạch máu lớn một bên.

17/ NÓI VỀ ĐIỀU TRỊ ĐỘT QUỴ DO THIẾU MÁU CỤC BỘ CẤP TÍNH (ACUTE ISCHEMIC STROKE).

Ngăn ngừa đột quỵ qua biến đổi yếu tố nguy cơ, các tác nhân chống tiểu cầu, và kháng đông bằng warfarin trong trường hợp rung nhĩ đă tác động một cách thuận lợi lên tỷ lệ xảy ra những tai biến mới. Tuy nhiên , điều trị hiệu quả đột quỵ trong bối cảnh cấp tính đă chứng tỏ là một công việc khó hơn.

Năm 1995, sự sử dụng liệu pháp tan huyết khối bằng đường tĩnh mạch (intravenous thrombolytic therapy) với chất hoạt hóa plasminogen mô (rt-PA) đă chứng tỏ cải thiện tiên lượng nơi những bệnh nhân bị đột quỵ cấp tính nếu trị liệu có thể được bắt đầu trong ṿng 3 giờ từ khi phát khởi các triệu chứng. Những thử nghiệm khác dùng rt-PA bằng đường tĩnh mạch đă không chứng tỏ thành công bởi v́ chủ yếu là do time window (đến 5 giờ từ khi phát khởi triệu chứng). Những thứ nghiệm khác dùng rt-PA bằng đường tĩnh mạch đă không chứng tỏ thành công bởi v́ chủ yếu là do time window (đến 5 giờ từ khi phát khởi triệu chứng). Mới đây hơn, sự sử dụng prourokinase bằng đường trong động mạch đă chứng tỏ lợi ích trong điều trị tắc động mạch năo giữa nếu điều trị có thể được bắt đầu trong ṿng 6 giờ từ khi triệu chứng khởi phát. Những nghiên cứu đang được tiến hành để nghiên cứu liệu pháp phối hợp với rt-PA cho bằng đường tĩnh mạch, được cho tiếp theo sau bởi rt-PT bằng đường động mạch, để xác định lợi ích cộng lại so với sự sử dụng riêng rẽ mỗi điều trị.Mục đích là tái lập lưu lượng máu trước khi chết mô. Biến chứng quan trọng của liệu pháp tan huyết khối là xuất huyết trong năo. Trong công tŕnh nghiên cứu 1995, những tỷ lệ xuất huyết nói những bệnh nhân nhận rt-PA là trong khoảng 6%, trong khi những bệnh nhân không nhận rt-PA có tỷ lệ xuất huyết là 0,6%

Sự sử dụng các thuốc chống tiểu cầu trong giai đoạn cấp tính đă được chứng tỏ cho một lợi ích nhỏ nhưng đáng kể về mặt thống kê, và sự phối hợp aspirin với rt-PA cũng đă chứng tỏ lợi ích vẻ mặt tái tưới máu, mặc dầu nguy cơ xuất huyết có thể gia tăng.

Sự sử dụng héparine trong giai đoạn cấp tính của đột quỵ đă là một chủ đề được bàn cải trong nhiều năm.Việc sử dụng héparine được căn cứ trên quan niệm sự lan tràn của cục máu đông hay nghẽn mạch tái phát (recurrent embolism) từ nguồn gốc tim hay mạch máu, như là nguyên nhân của sự trở nặng các triệu chứng thần kinh trong đột quỵ. Trị liệu kháng đông đă chứng tỏ lợi ích trong việc làm giảm tỷ lệ đột quỵ nơi những bệnh nhân với rung nhĩ. Tuy nhiên việc sử dụng héparine trong điều trị đột quỵ do thiếu máu cục bộ cấp tính vẫn đang được bàn căi.

Những phương thức điều trị khác với trị liệu tiêu sợi huyết (thrombolytic therapy) cũng đang được nghiên cứu. Glutamate đă được chứng tỏ là một chất trung gian quan trọng của chết tế bào trong các mô h́nh đột quỵ do thiếu máu cục bộ (ischemic stroke). Các tác dụng của glutamate được trung gian bởi các thụ thể glutamate, là những kênh calcium nhạy cảm với điện thế (voltage-sensitive calcium channel). Tiếc thay không có một công tŕnh nghiên cứu nào xem xét các thuốc phong bế các kênh này đă chứng tỏ là hữu ích. Những nghiên cứu khác nghiên cứu các tác nhân bảo vệ thần kinh (neuroprotective agents) cũng không chứng tỏ lợi ích về mặt lâm sàng.

Những cân nhắc điều trị khác gồm có việc tránh giảm huyết áp một cách quá mức. Bởi v́ lưu lượng máu chung quanh những vùng năo bố bị hoại tử vốn đă thấp, sự giảm lưu lượng máu thêm nữa bằng cách hạ huyết áp có thể dẫn đến một sự lan rộng vùng bị hoại tử. Do đó các huyết áp cao nói chung được mong muốn trong bối cảnh đột quỵ cấp tính, và các cố gắng làm hạ huyết áp cần nên tránh. Việc sử dụng các thuốc an thân trong bối cảnh đột quỵ cấp tính cũng nên được giảm thiểu, bởi v́ sự sử dụng chúng có thể cản khả năng của thầy thuốc lâm sàng trong việc theo dơi chuỗi các thăm khám thần kinh.

Sau cùng, những cân nhắc về săn sóc thường quy, như những buổi luyện tập biên độ vận động (rang-of-motion exercises) đối với các chi bị làm bất động hay yếu đi do đột quỵ ; sự ngăn ngừa hít dịch, nghẽn mạch phổi, và loét da ; và sự hỗ trợ dinh dưỡng (nutritional support), cũng quan trọng.

18/ MÔ TẢ BỆNH NĂO DO CAO HUYẾT ÁP(HYPERTENSIVE ENEPHALOPATHY) ?

Thuật ngữ này chỉ một bệnh năo (encephalopathy), được đặc trưng bởi đau đầu, nôn, mửa, rối loạn thị giác, co giật, lú lẫn, và hôn mê trong khung cảnh cao huyết áp nghiêm trọng. Một lư thuyết gợi ư rằng sự gia tăng nhanh huyết áp làm mất sự điều ḥa tự trị của tuần hoàn năo, tạo nên những vùng co thắt mạch và thiếu máu cục bộ khu trú (focal vasospasm or ischemia), cùng với những vùng giăn mạch và tăng lưu lượng máu năo. Phù năo là một tính chất thường xảy nhưng không hằng định. Những nguyên nhân liên quan với tuổi tác và gồm có (1) viêm vi cầu thận cấp tính (trẻ em và thiếu niên), (2) viêm vi cầu thận măn tính (những người trưởng thành trẻ tuổi), (3) sản giật (phụ nữ mang thai), và (4) cao huyết áp ác tính (bệnh nhân hơn 30-40 tuổi). Dấu hiệu luôn luôn có là cao huyết áp toàn thân. Phù gai mắt (papilledema) hầu như luôn luôn hiện diện, và phải nghi ngờ chẩn đoán nếu thiếu dấu hiệu này.

19/ TIA LÀ G̀ ?

Một cơn thiếu máu cục bộ tạm thời (TIA : transient ischemic attack) là một cơn thiếu máu cục bộ có thể hồi phục, không dẫn đến nhồi máu hay bại liệt vĩnh viễn. Theo định nghĩa, các cơn phải hoàn toàn tan biến trong ṿng 24 giờ ; hầu hết sẽ biến mất trong ṿng 1 giờ. Cơn thiếu máu cục bộ tạm thời động mạch cảnh (carotid TIA) liên kết với bệnh xơ mỡ động mạch cảnh. Thiếu máu cục bộ trong lănh vực động mạch cảnh dẫn đến những khuyết trong thị trường cùng bên hay liệt vận động cảm giác bên đối diện. Trong trường hợp điển h́nh, những triệu chứng thị giác và bán cầu năo không xảy ra đồng thời. Mù ḷa tạm thời (amaurosis fugax) để chỉ mù một mắt cùng bên tạm thời do TIA. Các cơn bán cầu đại năo tạm thời (transient hemispheric attack) để chỉ sự thiếu máu cục bộ nơi vùng của động mạch năo giữa với liệt vận động và cảm giác khu trú ở cánh tay và bàn tay đối diện.

20/ BỆNH SỬ TỰ NHIÊN CỦA TIA ?

Bệnh sử tự nhiên của TIA được xác định bởi bệnh lư của động mạch cảnh cùng bên. Nơi những bệnh nhân với hẹp động mạch nặng (>70%), nguy cơ bị đột quỵ cùng bên trong 24 giờ là 26%. Đối với những bệnh nhân với hẹp vừa phải (50-69%), nguy cơ là 22% vào lúc 5 năm. Với hẹp tối thiểu (<30%), nguy cơ là 1% vào lúc 3 năm.

21/ TÁC DỤNG CỦA ASPIRIN LÊN TIA ?

Acetylsalicylic là một chất cản cyclooxygenase, làm giảm sự kết dính của các tiểu cầu và hạ tỷ lệ mắc phải TIA và đột quỵ.

22/ NHỮNG BỆNH NÀO ẢNH HƯỞNG LÊN CÁC ĐỘNG MẠCH CẢNH ?

Xơ mỡ (atherosclerosis)là thông thường nhất (chịu trách nhiệm 90% các thương tổn ở các nước Tây Phương). Động mạch cảnh cũng có thể bị thương tổn bởi loạn sản xơ-cơ (fibromuscular dysplasia), những bệnh động mạch do viêm (ví dụ Takayasu’s arteritis), đè ép ngoại tại (ví dụ ung thư) và chấn thương.

23/ NHỮNG TRIỆU CHỨNG THÔNG THƯỜNG NHẤT CỦA BỆNH ĐỘNG MẠCH CẢNH ?


• TIA (transient ischemic attack : cơn thiếu máu cục bộ tạm thời)

• RIND

• CVA hay Stroke

• Amaurosis Fugax (mù ḷa tạm thời).


24/ Ư NGHĨA CỦA HẸP ĐỘNG MẠCH CẢNH ?

Hẹp động mạch cảnh (carotid stenosis) có thể đưa đến thiếu máu cục bộ năo, được thể hiện bởi các đợt thiếu máu cục bộ năo (TIA) hoặc, trong những trường hợp nặng hơn, bởi đột quỵ. Thiếu máu cục bộ (ischemia) thường là kết quả của vi nghẽn mạch do xơ mỡ động mạch (atherosclerotic microembolism) hơn là nhồi máu phần xa do hẹp động mạch cảnh.

25/ TIẾNG THỔI ĐỘNG MẠCH CẢNH CÓ Ư NGHĨA G̀ ?

Tiếc thay, một tiếng thổi động mạch cảnh (carotid bruit) là một chỉ dấu tổng quát của chứng xơ vữa động mạch (atherosclerosis) và rất ít đặc hiệu. Tiếng thổi này có tính chất tiên đoán một biến cố tim hơn là thần kinh. Mặc dầu một tiếng thổi chỉ nguy cơ gia tăng bị những biến cố thần kinh, nhưng biến cố này cũng có thể xảy ra ở phía bên đối diện cũng như ở phía có tiếng thổi.

26/ CƯỜNG ĐỘ CỦA TIẾNG THỔI CÓ TƯƠNG QUAN VỚI MỨC ĐỘ HẸP ĐỘNG MẠCH HAY KHÔNG ?

Không. Khi một hẹp động mạch tiếng triển, tiếng thổi bị giảm và biến mắt khi lưu lượng máu dừng lại.

27/ TRẮC NGHIỆM NÀO NÊN ĐƯỢC THỰC HIỆN ĐỀ ĐÁNH GIÁ TIẾNG THỔI ?

Duplex scanning.

28/ KHI NÀO TH̀ PHẪU THUẬT ĐƯỢC CHỈ ĐỊNH ĐỔI VỚI BỆNH ĐỘNG MẠCH CẢNH CÓ TRIỆU CHỨNG ?

Phẫu thuật được chỉ định rơ đối với bệnh động mạch cảnh có triệu chứng (symptomatic carotid artery disease) liên kết với hẹp > 70%. Sự giảm nguy cơ tuyệt đối của đột quỵ là 17% lúc năm . Những dữ kiện mới đây cũng gợi ư một lợi ích nhỏ hơn nơi những bệnh nhân với hẹp triệu chứng 50%-69% ( giảm nguy cơ 6,5% lúc 5 năm). Những bệnh nhân với hẹp < 50% không có lợi ích do phẫu thuật.

29/ MỘT BỆNH NHÂN VỚI HẸP KHÔNG TRIỆU CHỨNG CÓ NÊN ĐƯỢC PHẪU THUẬT HAY KHÔNG ?

Sự giảm tuyệt đối nguy cơ bị đột quỵ là 6% trong một thời kỳ 5 năm nơi những bệnh nhân không triệu chứng với hẹp >60% chịu phẫu thuật cắt bỏ nội mạc động mạch cảnh (carotid endarterectomy) + aspirin so với những bệnh nhân được điều trị bởi aspirin đơn độc (5,1% so voi 11%). Do đó CEA nên được thực hiện đối với bệnh động mạch cảnh không triệu chứng khi bệnh nhân có hy vọng sống thêm ít nhất 3 năm và khi CEA có thể được thực hiện với một đột quỵ được kết hợp và tỷ lệ tử vong dưới 3%.

30/ HỘI CHỨNG TRỘM DƯỚI Đ̉N (SUBCLAVIAN STEAL SYNDROME) LÀ G̀ ?

Hội chứng này để chỉ những triệu chứng của bất túc động mạch cột sống-nền (vertebrobasilar insufficiency) xuất hiện khi thể dục, đặc biệt là của các cánh tay. Hội chứng phản ánh sự chuyển (hay trộm) máu từ động mạch đốt sống (vertebral artery) qua động mạch cánh tay (brachial artery). Khi sự giăn mạch liên kết với thể dục đi đôi với hẹp đoạn gần của động mạch dưới đ̣n hay động mạch vô danh (subclavian or innominate artery), máu có thể chảy ngược lại qua động mạch đốt sống để làm đầy vùng giăn mạch nơi cánh tay. Hội chứng này được xác nhận khi các triệu chứng được liên kết với giảm huyết áp nơi một cánh tay và một tiếng thổi trên đ̣n (supraclavicular bruit) cùng bên. Hội chứng thường xảy ra về phía trái hơn là phía phải.

BS NGUYỄN VĂN THỊNH (18/3/2010)

florida80
04-05-2019, 17:56
TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO
(TRANSIENT ISCHEMIC ATTACK AND
CEREBROVASCULAR ACCIDENT)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH


1/ SỰ KHÁC NHAU GIỮA MỘT CƠN THIẾU MÁU NĂO THOÁNG QUA VÀ MỘT TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO ?

Cơn thiếu máu năo thoáng qua (TIA : transient ischemic attack) và Tai biến mạch máu năo (CVA : Cerebrovascular accident) chỉ t́nh trạng thiếu máu cục bộ (ischemia) trong năo, đưa đến những triệu chứng liệt thần kinh. Nếu triệu chứng liệt lâm sàng (clinical deficit) biến mất trong 24 giờ, t́nh trạng thiếu máu cục bộ được gọi là cơn thiếu máu năo thoáng qua (TIA). Nếu liệt vẫn tồn tại vào lúc giờ 24 giờ, mặc dầu nó sẽ biến mất trong vài ngày, t́nh trạng này được gọi là tai biến mạch máu năo (CVA) hay đột qụy (stroke). Thuật ngữ trở nên phức tạp hơn bởi v́ 30% đến 50% những bệnh nhân với cơn thiếu máu năo thoáng qua được định nghĩa về mặt lâm sàng, có một bất thường thường trực trên CT Scan, MRI hay trong năo bộ lúc giải phẫu tử thi. Cơn thiếu máu năo thoáng qua có thể là biểu hiện lâm sàng của những vùng nhỏ tế bào chết trong năo bộ, mặc dầu không có triệu chứng liệt thần kinh thường trực.

2/ ĐỊNH NGHĨA TIA, RIND, VA CVA.

Những thuật ngữ lâm sàng này mô tả một phổ các hội chứng thiếu máu cục bộ năo (cerabral ischemic syndrome).
• Cơn thiếu máu năo thoáng qua (TIA : transient ischemic attack hay AIT : accident ischémique transitoire) là một liệt thần kinh kéo dài dưới 24 giờ. Hầu hết các cơn thiếu máu năo thoáng qua chỉ kéo dài 15-30 giây.

• Thiếu hụt thần kinh do thiếu máu cục bộ có thể hồi phục (RIND : reversible ischemic neurologic deficit) kéo dài lâu hơn 24 giờ và hoàn toàn biến mất trong ṿng một tuần (thường là trong ṿng 3 ngày).

• CVA (cerebral vascular accident) hay đột qụy cấp tính (acute stroke) là một bại liệt thần kinh ổn định, có thể biểu lộ sự cải thiện dần dần trong một thời gian dài.


3/ ĐỊNH NGHĨA CHỨNG THOÁNG MÙ (AMAUROSIS FUGAX) ?

Đó là một đợt mù một mắt tạm thời (vài phút đến vài giờ), thường bệnh nhân có cảm tưởng như một bức mành mành cửa sổ kéo qua mắt. Triệu chứng này được gây nên do sự giảm lưu lượng máu đi qua hay do nghẽn mạch động mạch nhăn (ophthalmic artery).

4/ ĐỐI VỚI HẦU HẾT CÁC ĐỘT QỤY TH̀ CHẲNG LÀM G̀ ĐƯỢC. THẾ TH̀ ĐIỀU TRỊ CẤP CỨU CÓ LỢI ÍCH G̀ ?

Mặc dầu hồi sức cấp cứu là có thể và chỉ thích hợp đối với một số ít bệnh nhân, các biến chứng của đột qụy và sự tái phát sớm của đột qụy nên được xử trí ở pḥng cấp cứu. Về mặt triết lư, điều này tương tự như thái độ xử trí đối với nhồi máu cơ tim. Nguy cơ cao nhất đối với một đột qụy tái phát là xảy ra trong vài ngày và vài tuần đầu sau một đột qụy khởi đầu hay sau một cơn thiếu máu năo thoáng qua (TIA). Điều chủ yếu là bệnh nhân phải được đánh giá một cách thích đáng để xác định nguyên nhân của đột qụy hầu một biến cố thiếu máu cục bộ thứ hai có thể tránh được. Bởi v́ nguyên nhân chính xác của đột qụy thường không rơ ràng ở pḥng cấp cứu, nên điều trị bằng aspirin hay bằng thuốc kháng đông (heparin) trong một thời gian ngắn, nên được khởi đầu trong lúc bệnh nhân lưu lại ở bệnh viện. Lúc xuất viện, một kế hoạch dài hạn có thể được đặt ra để giúp ngăn ngừa một cơn đột qụy khác.

NHỮNG ĐIỂM THEN CHỐT : NHỮNG CÁCH TỐT NHẤT ĐỂ LÀM GIA TĂNG MỘT ĐỘT QUỴ THIẾU MÁU CỤC BỘ Ỏ PH̉NG CẤP CỨU

1. Hạ huyết áp, làm phương hại sự thông máu năo hơn nữa
2. Lơ là quên cấp nước (rehydrate)
3. Chờ đợi cho bệnh nhân lên pḥng rồi mới cho một thuốc chống huyết khối hay chống đông máu
4. Để không điều trị bệnh nhân bị sốt từ nhẹ đến trung b́nh
5. Để nồng độ đường trong máu vẫn tăng cao

5/ VAI TR̉ CỦA CÁC THUỐC TIÊU SỢI HUYẾT ĐỐI VỚI ĐỘT QỤY ?

Việc sử dụng TPA (tissue phasminogen activator) đă được chấp thuận vào tháng 6 năm 1996 cho những bệnh nhân với đột qụy do thiếu máu cục bộ (ischemic stroke). Trong một công tŕnh nghiên cứu đưa đến sự chấp thuận của FDA, những bệnh nhân được cho TPA trong ṿng 3 giờ sau khi khởi đầu đột qụy, đă có những tiên lượng tốt hơn và không cho thấy gia tăng tỷ lệ tử vong hay tật nguyền nghiêm trọng. Đối với những bệnh nhân đến pḥng cấp cứu sớm (hay <2 giờ), đột qụy là một cấp cứu nội khoa, tương tự như chấn thương nặng bởi v́ những ǵ anh làm ở pḥng cấp cứu trong giờ đầu có thể ảnh hưởng rất nhiều tiên lượng sau này.

6/ TRONG ĐIỀU TRỊ ĐỘT QỤY, LÀM THẾ NÀO ĐỂ VIỆC SỬ DỤNG CÁC THUỐC TIÊU SỢI HUYẾT (THROMBOLYTICS) ĐƯỢC AN TOÀN ?

Trước hết, phải có các hỗ trợ cơ bản như chụp cắt lớp vi tính (CT scan), xét nghiệm, điều trị ở đơn vị điều trị tăng cường (ICU). Thứ hai, những thầy thuốc cấp cứu và các thầy thuốc chuyên khoa thần kinh phải phát triển một phác đồ điều trị đáp ứng nhanh để xử trí đột qụy. Thứ ba, những chỉ định và chống chỉ định cơ bản đối với các thuốc tiêu sợi huyết (thrombolytics), được căn cứ trên những thử nghiệm lâm sàng mới nhất, phải được tuân thủ. Thứ tư, nên thiết lập một kế hoạch hợp lư để xử trí các biến chứng của đột qụy, kể cả xuất huyết. Đối với nhiều bệnh viện, điều này bao gồm việc chuyển bệnh nhân đến đơn vị điều trị tăng cường thần kinh (Neuro-ICU) hay trung tâm giải phẫu thần kinh (neurosurgical center).

7/ CT SCAN GIÚP TÔI QUYẾT ĐỊNH TRONG VIỆC SỬ DỤNG THUỐC TIÊU SỢI HUYẾT NHƯ THẾ NÀO ?
• Chụp cắt lớp vi tính đă trở nên một khía cạnh quan trọng trong sự chọn lựa điều trị đối với liệu pháp tiêu sợi huyết (thrombolytic therapy). Mặc dầu một scan hoàn toàn b́nh thường là điều tốt nhất, nhưng sự hiện diện của các đột qụy cũ (nhiều tháng) hay những biến đổi thiếu máu cục bộ ở giai đoạn sớm xảy ra trong những vùng nhỏ, (nhỏ hơn 1/3 địa phận của động mạch năo giữa), không chống chỉ định việc cho một thuốc tiêu sợi huyết.


8/ VIỆC CHO CÁC THUỐC TIÊU SỢI HUYẾT CÓ NGUY HIỂM KHÔNG ?
• Việc sử dụng an toàn TPA (tissue plasminogen activator) đ̣i hỏi một sự hiểu biết về những nguy cơ xuất huyết. Đáng ghi nhớ nhất là sự sử dụng TPA sau thời hạn 3 giờ. Nhiều thử nghiệm với thuốc tiêu sợi huyết được thực hiện với giới hạn 6 giờ từ lúc khởi đầu đột qụy và đều cho các kết quả âm tính. Các thuốc tiêu sợi huyết bị chống chỉ định nếu có bất cứ một xuất huyết nào, nếu có những dấu hiệu chấn thương mới xảy ra, hoặc một vùng đột qụy lớn (hơn 1/3 địa phận do động mạch năo giữa chi phối).


9/ TÔI PHẢI LÀM G̀ NẾU BỆNH NHÂN CAO HUYẾT ÁP ?
• Huyết áp thường cao trong những phút đầu sau đột qụy nhưng giảm đều trong giờ đầu. Một trị số khởi đầu 220/120 mmHg thường giảm xuống mức có thể chấp nhận được 185/110 mmHg vào giờ thứ hai hay thứ ba. Vài trung tâm ấn định mức huyết áp có thể được hạ xuống (ví dụ 15/7 mmHg) bằng thuốc, để tạo điều kiện cho việc sử dụng các thuốc tiêu sợi huyết. Huyết áp nặng và kéo dài, đ̣i hỏi phải tiêm truyền tĩnh mạch liên tục các thuốc hạ huyết áp, là một chống chỉ định khác.


10/ NGUY CƠ XUẤT HUYẾT NĂO DO TPA ?
• Nguy cơ xuất huyết cao hơn ở những đột qụy có quy mô lớn nhất. Điều này giải thích tỷ lệ tử vong thấp hơn ở nhóm được điều trị bởi v́ những bệnh nhân bị đột qụy chết người hay nặng có những tiên lượng xấu, dầu cho họ có được điều trị với thuốc tiêu sợi huyết hay không. Ngay cả trong nhóm này, với điều trị bệnh nhân vẫn tốt hơn. Một nồng độ glucose tăng cao trong máu là một dấu hiệu tiên đoán về khả năng cao bị xuất huyết. Điều này không có nghĩa là các bệnh nhân với lượng đường trong máu tăng cao không nên được điều trị với thuốc tiêu sợi huyết, nhưng nên cần thận trọng hơn, và một nguy cơ lớn hơn nên được dự kiến. Tần số xuất huyết nặng khoảng 6% đối với TPA tĩnh mạch, so với 0,6% không co một điều trị nào. Trong công tŕnh nghiên cứu PROACT, những nguy cơ TPA động mạch là 10% đối với điều trị tiêu sợi huyết và 2% đối với placebo. Những yếu tố chỉ nguy cơ xuất huyết cao hơn là kích thước của đột qụy, nồng độ đường tăng cao, và điều trị bị tŕ hoăn.

• Cần ghi nhớ rằng phải cần vài năm để thuốc tiêu sợi huyết được chấp nhận trong điều trị nhồi máu cơ tim. Cũng cần cùng quá tŕnh và các dữ kiện tiên lượng lâm sàng bổ sung đối với các thuốc tiêu sợi huyết và bệnh đột qụy.


11/ NHỮNG NGUY CƠ CỦA TRỊ LIỆU VỚI THUỐC TIÊU SỢI HUYẾT (THROMBOLYTICS) ?

Với sự tuân thủ nghiêm ngặt những hướng dẫn điều trị, nguy cơ bị xuất huyết năo có triệu chứng là 6%. Một nửa các trường hợp là tử vong. Nguy cơ xuất huyết trong sọ gia tăng đáng kể nếu các hướng dẫn bị vi phạm. Liệu pháp tiêu sợi huyết có thể được liên kết với một nguy cơ xuất huyết cao hơn nếu điều trị được thực hiện sau 3 giờ, nếu dùng một liều lượng cao hơn hay nếu sử dụng một loại thuốc tiêu sợi huyết khác, nếu aspirin hay heparin được cho trong 24 giờ đầu, hay nếu huyết áp không được duy tŕ dưới 185/100 mmHg. Mặc dầu các nguy cơ do liệu pháp tiêu sợi huyết được công nhận, nhưng điều trị làm gia tăng 50% khả năng hồi phục rất tốt và làm giảm số bệnh nhân chết hay bị tật nguyền trầm trọng.

12/ VAI TR̉ CỦA ĐIỀU TRỊ TIÊU SỢI HUYẾT BẰNG ĐƯỜNG ĐỘNG MẠCH ?

Trị liệu tiêu sợi huyết bằng đường động mạch (intraarterial thrombolytic therapy) đă được chứng tỏ có lợi ở những bệnh nhân đột qụy với tắc động mạch năo giữa (middle cerebral artery) đến 6 giờ sau khởi đầu các triệu chứng. Những ưu điểm tiềm tàng của việc cho bằng đường động mạch (intraarterial) so với đường tĩnh mạch (intravenous) (xác nhận tắc động mạch, những liều lượng thuốc tiêu sợi huyết thấp hơn, tỷ lệ làm thông suốt động mạch bị tắc cao hơn) được đối trọng với những bất lợi (thuốc ít có sẵn để được sử dụng).

Những kết quả của PROCAT Trial đă chứng minh những lợi ích đối với tiêm truyền động mạch thuốc tiêu sợi huyết và đă ḿnh định rằng nhiều bệnh nhân có thể hưởng lợi sau giới hạn 3 giờ. Những công tŕnh nghiên cứu khác đang được thực hiện để xác định tốt hon những bệnh nhân nào nên được chọn lọc để điều trị với phương thức này. Ở những trung tâm đột qụy lớn, phương thức chung là sử dụng TPA tĩnh mạch đối với những đột qụy kích thước nhỏ đến trung b́nh và dành điều trị tiêu sợi huyết bằng đương động mạch đối với những bệnh nhân bị chống chỉ định đối với TPA tĩnh mạch và những bệnh nhân có những đột qụy rất lớn.

13/ ĐIỀU TRỊ TIÊU HUYẾT KHỐI BẰNG ĐƯỜNG ĐỘNG MẠCH CÓ TỐT HƠN BẰNG ĐƯỜNG TĨNH MẠCH HAY KHÔNG ?

Cho đến khi thử nghiệm lâm sàng so sánh những phương pháp điều trị tiêu sợi huyết này được thực hiện, không có thể có câu trả lời rơ ràng. Những dữ kiện của thử nghiệm PROACT về prourokinase dùng bằng đường tĩnh mạch, cho thấy trong hầu hết các trường hợp, sự tái thông huyết quản (recanalisation) tốt hơn và những tiên lượng tốt hơn ngay cả khi điều trị được bắt đầu sau 4 đến 5 giờ. Dường như kỹ thuật dùng bằng đường động mạch đạt được sự tái thông tốt hơn, nhưng cần thời gian lâu hơn để có thể khởi đầu điều trị. Bởi v́ “ Thời gian là năo bộ ” ( “ Time is brain ” ), nên sự tŕ chậm này có thể đi ngược lại những lợi ích.

Điều trị bằng đường động mạch được chấp nhận ở những bệnh nhân với nguy cơ xuất huyết toàn thân do những thay đổi liều lượng. Liều lượng của TPA tĩnh mạch ở người trưởng thành nặng 80 kg là 72 mg. Khi tiêm truyền bằng catheter trong động mạch, tổng liều từ 10 đến 20 mg. Tần số xuất huyết được cho là giống nhau đối với cả hai kỹ thuật, nhưng những nguy cơ toàn thân thấp hơn nhiều với TPA với liều thấp hơn cho bằng đường động mạch. Đó là lư do tại sao những bệnh nhân bị chống chỉ định TPA tĩnh mạch là những ứng viên đối với TPA động mạch.

14/ ĐIỀU G̀ XẢY RA NẾU TÔI ĐIỀU TRỊ CÁI G̀ ĐÓ VỀ SAU HÓA RA KHÔNG PHẢI LÀ ĐỘT QỤY ?

Sau khi chụp cắt lớp vi tính loại trừ các trường hợp xuất huyết, những bệnh có các triệu chứng giống với đột qụy không bị ảnh hưởng khi dùng các thuốc tiêu sợi huyết (thrombolytics). Bệnh thiên đầu thống có biến chứng (complicated migraine), liệt do nguyên nhân tâm thần (psychogenic weakness), liệt sau cơn động kinh (postictal weakness), và cơn thiếu máu năo thoáng qua (TIA) không bị ảnh hưởng khi dùng thuốc tiêu sợi huyết.

15/ CẦN CÓ SỰ ƯNG THUẬN CỦA BỆNH NHÂN RỒI MỚI ĐIỀU TRỊ VỚI TPA ?

Có được một sự ưng thuận được đả thông (informed consent), có thể là khó hay không có thể thực hiện được ở những bệnh nhân đột qụy với quy mô cần điều trị với TPA. Những bệnh nhân này thường mất ngôn ngữ (aphasic) (bán cầu trội) hay không chú ư (neglectful) (bán cầu không trội). Một trong hai t́nh trạng này làm cho cho việc ưng thuận có ư nghĩa có thể có vấn đề hay không có thể thực hiện được. Người nhà có thể bị sốc nên do dự khi đưa ra bất cứ quyết định nào. Trước khi TPA dùng bằng đường tĩnh mạch được chấp thuận bởi FDA, một văn bản thỏa thuận đầy chi tiết của bệnh nhân là không cần thiết.Thái độ chung là nhận được sự ưng thuận của bệnh nhân hay gia đ́nh ở bất cứ mức độ ưng thuận nào có thể được. Nếu không được, hăy xem việc sử dụng TPA như bất cứ thủ thuật cấp cứu khác, với giấy chứng nhận biện minh cho sự lựa chọn điều trị (hoặc là điều trị hoặc không điều trị với TPA) trong từng trường hợp.

16/ TẠI SAO CẦN CHỤP CẮT LỚP VI TÍNH TRONG KHI BỆNH NHÂN ỔN ĐỊNH VÀ RƠ RÀNG ĐĂ BỊ MỘT CƠN ĐỘT QỤY ?

Trong hầu hết các trường hợp, chụp cắt lớp vi tính (CT scan) ở một bệnh nhân bị đột qụy rơ rệt, mang lại rất ít thông tin. Trong 5% đến 10% các trường hợp, bại liệt là do xuất huyết, khối u, hay áp-xe. Bởi v́ điều trị bằng thuốc kháng đông hay kháng tiểu cầu ở các bệnh nhân này có thể gây tai họa, v́ vậy nên khuyên chụp cắt lớp vi tính ở tất cả các bệnh nhân bị đột qụy và cơn thiếu máu năo thoáng qua (TIA) trước khi bắt đầu một điều trị như thế.

NHỮNG ĐIỀM THEN CHỐT : NHỮNG CHỈ ĐỊNH ĐỐI VỚI CHỤP MẠCH MÁU QUY ƯỚC ( CONVENTIONAL ANGIOGRAPHY)

1. Để xác nhận vị trí cơ thể học và tính chất của các ph́nh mạch và những dị dạng động tĩnh mạch
2. Khi c̣n mơ hồ
3. Khi một thủ thuật can thiệp như angioplasty, stenting, hay phương pháp làm tan cục máu đông trực tiếp sẽ cần thiết
4. Khi protocol chụp h́nh ảnh không xâm nhập ,sử dụng CT,MRI, hay siêu âm không được thích đáng.

17/ VAI TR̉ CỦA CHỤP CỘNG HƯỞNG TỪ (MRI) TRONG ĐỘT QỤY LÀ G̀ ?

Nói chung, chụp cộng hưởng từ hạt nhân (MRI) chỉ được chỉ định khi nó có thể trả lời một câu hỏi đặc biệt mà chụp cắt lớp vi tính (CT scan) không thể có. Đột qụy do thiếu máu cục bộ (ischemic stroke) thường không biểu hiện trên chụp cắt lớp vi tính hay chụp cộng hưởng từ hạt nhân trong ṿng vài giờ đầu. Chụp cắt lớp vi tính được dùng trong những giờ đầu để loại trừ những quá tŕnh bệnh lư khác (xuất huyết, khối u, áp-xe) ; Về điểm này chụp cắt lớp vi tínhcũng làm tốt như chụp cộng hưởng từ hạt nhân. Chụp cắt lớp vi tính và chụp cộng hưởng từ hạt nhân có thể cho h́nh ảnh đột qụy một cách đầy đủ vào ngày thứ 5 đến thứ 7. Những đột qụy nhỏ hơn (nghĩa là nhẹ hơn) có thể được thấy tốt hơn với chụp cộng hưởng từ hạt nhân, nhưng tính đặc hiệu là một vấn đề. Chụp cộng hưởng từ hạt nhân là một thăm ḍ được lựa chọn để chụp h́nh một đột qụy (hay bất cứ cái ǵ khác) trong hố sau (thân năo và tiểu năo).

Chụp cộng hưởng từ hạt nhân có ưu điểm là có khả năng tốt hơn chụp h́nh các nhồi máu gây nên bởi những huyết quản nhỏ, ví dụ nhồi máu ổ khuyết (lacunar infarct). Chụp cộng hưởng từ hạt nhân có khuynh hướng có tính đặc hiệu kém, bởi v́ các bệnh nhân với các yếu tố nguy cơ huyết quản điển h́nh thường có nhiều bất thường có tín hiệu cao trong chất trắng do đột quỵ hay do những thay đổi liên quan với tuổi tác. Một kiến thức sâu rộng về cơ thể học thần kinh thường có thể cho phép nhận diện triệu chứng bất thường nhờ MRI scan.

Khi kỹ thuật chụp cộng hưởng từ hạt nhân và chụp cắt lớp vi tính được cải thiện, chúng ta có thể có khả năng dùng một trong hai dạng kỹ thuật như là thăm ḍ độc nhất để xem xét năo bộ, hệ mạch máu trong sọ, hệ mạch máu ngoài sọ, và lưu lượng máu của năo bộ. Những kỹ thuật thăm ḍ này cần chứng tỏ rằng thông tin muốn t́m kiếm là đáng mất thêm thời gian và phí tổn trước khi việc sử dụng chúng có thể trở nên thường quy đối với tất cả các đột qụy.

18/ KHI NÀO ANGIO CT SCAN (CTA : COMPUTED TOMOGRAPHY ANGIOGRAPHY) HAY ANGIO IRM (MRA : MAGNETIC RESONANCE ANGIOGRAPHY) ĐƯỢC CHỈ ĐỊNH ?

Thông tin do CTA hay MRA mang lại có thể hữu ích trên lư thuyết, nhưng tiếc thay những thăm ḍ này chiếm quá nhiều thời gian trong thực hành (đặc biệt là MRA). Vài cơ sở thực hiện một cách thường quy CTA với CT, chỉ thêm hơn vài phút. Điều này hữu ích nếu bệnh nhân được chọn lọc để can thiệp tĩnh mạch hay động mạch. Tuy nhiên nhiều trung tâm khác sử dụng kích thước của đột qụy cũng như những chống chỉ định đối với TPA tĩnh mạch để chọn lọc ai cần một can thiệp động mạch.

19/ CÓ NÊN CHO STEROIDS Ở MỘT BỆNH NHÂN VỚI ĐỘT QỤY HAY KHÔNG ?

Không. Mặc dầu steroids có hiệu quả đối với phù năo liên kết với khối u và áp-xe, nhưng steroids không có tác dụng trong đột qụy do thiếu máu cục bộ. Phù nề gây nên bởi một đột qụy là phức tạp hơn phù nề gây nên bởi khối u. Do một vài báo cáo thành công, steroids đôi khi được sử dụng, trong những đột qụy lớn, đe dọa mạng sống (large, life-threatening stroke), như là một hành động tuyệt vọng. Những cố gắng tương tự, với sự sử dụng barbiturates, gây mê tổng quát, naloxone, các chất phong bế kênh calcium (calcium channel blockers), hay làm loăng máu (hemodilution) nhằm làm giảm mức độ nghiêm trọng của đột qụy, đều không đáp ứng sự mong đợi.

20/ NHỮNG BỆNH NHÂN NÀO NÊN ĐƯỢC MONITORING ?

Ở những bệnh nhân với cơn thiếu máu năo thoáng qua hay đột qụy mà nguyên nhân không được biết đến hay những bệnh nhân với các nguy cơ tim không chắc chắn, có thể cần monitoring trong một thời gian ngắn (1 ngày) :
Monitoring làm gia tăng khả năng nhận diện một loạn nhịp tim (cardiac arrhythmia) hay thiếu máu cục bộ cơ tim (cardiac ischemia).
Monitoring trong đơn vị điều trị tăng cường (ICU) cho phép theo dơi sát những dấu hiệu thần kinh.

Những bệnh nhân với một cơ chế gây đột qụy được xác định rơ và một sinh lư tim ổn định thường không cần monitoring ở đơn vị điều trị tăng cường hay tim.

21/ C̉N VỀ HẠ THÂN NHIỆT ?

Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa hạ thân nhiệt (hypothermia) có hiệu quả cứu năo bộ trong khung cảnh ngừng tim hay những bối cảnh hạ huyết áp hay ngừng tuần hoàn trong khi mổ. Bởi v́ khó làm lạnh một con người so với một con chuột pḥng thí nghiệm, những thử nghiệm lam sàng để chứng tỏ một lợi ích trong đột qụy thiếu máu cục bộ và hướng dẫn sự sử dụng nó một cách an toàn, đă chưa được hoàn thành. Ở điểm này, có một sự nhất trí rằng tránh sốt trong ngày đầu hay sau đột qụy rơ ràng là có lợi. Sau đó, việc xác định hạ thân nhiệt bao nhiêu và phải được thực hiện sớm như thế nào, không được rơ ràng, và không có ǵ hơn là lư thuyết để hướng dẫn sự chọn lọc bệnh nhân.

22/ CÓ PHẢI TẤT CẢ CÁC BỆNH NHÂN ĐỘT QỤY ĐỀU CẦN MỘT SIÊU ÂM TÂM KƯ (EHOCARDIOGRAM) ?

Không, nhưng cần xác định cơ chế gây đột qụy ở tất cả các bệnh nhân. Siêu âm tim (cardiac ultrasound), hoặc qua ngực (transthoracic) hay qua thực quản (transesophageal), đă cho thấy rất nhiều nguồn xuất phát từ tim có khả năng gây nên các nghẽn mạch (emboli). Những nguồn thông thường gồm có rung nhĩ, van nhân tạo (prosthetic valves), viêm nội tâm mạc, và các huyết khối thành tim (mural thrombi), và những nguồn hiếm hơn như các nghẽn mạch nghịch lư (paradoxic emboli) đi qua các lỗ bầu dục không được đóng kín (patent foramen ovale). Những nạn nhân trẻ bị đột qụy (<45 tuổi ) có tỷ lệ bị lỗ bầu dục không được đóng kín, một đến ba lần cao hơn những người chứng cùng lứa tuổi, điều này gợi ư rằng những bất thường tim bẩm sinh này có một vai tṛ quan trọng trong việc gây nên đột qụy.

23/ LÀM SAO CÓ THẾ NGĂN NGỪA ĐỘT QỤY XẢY RA Ở PH̉NG CẤP CỨU ?

Ở pḥng cấp cứu, hai nhóm bệnh nhân có thể được nhận diện trước khi một đột qụy xảy ra.
Nhóm thứ nhất gồm những bệnh nhân với nhồi máu cơ tim cấp tính. Hầu hết các nghẽn mạch (emboli) liên kết với nhồi máu cơ tim xảy ra chẳng bao lâu sau khi bị nhồi máu. Những bệnh nhân với nhồi máu thành trước cơ tim (anterior wall MI) có nguy cơ cao nhất. Sự can thiệp thích đáng với điều trị kháng đông (anticoagulation) hay liệu pháp kháng tiểu cầu (antiplatelet therapy) ở pḥng cấp cứu có thể ngăn ngừa một đột qụy xảy ra vài giờ sau đó.
Nhóm thứ hai bao gồm những bệnh nhân bị đa chấn thương. Những bệnh nhân này nổi tiếng là dễ bị một đột qụy trong bệnh viện sau khi “ mạng sống đă được cứu thoát ”. Nguy cơ cao nhất của đột qụy có liên quan với chấn thương là ở những bệnh nhân bị chấn thương trực tiếp vào các động mạch cảnh hay đốt sống. Động mạch đốt sống đặc biệt dễ bị thương tổn do những cử động nhanh của đầu. Những găy xương mặt đă được liên kết với một nguy cơ thương tổn động mạch cảnh cao hơn, dẫn đến tắc động mạch cảnh, lóc động mạch cảnh (carotid dissection), hay nghẽn mạch động mạch-động mạch (artery-to-artery embolism). Nhận biết các bệnh nhân có nguy cơ cao và chụp mạch sớm cho phép những biện pháp pḥng ngừa, như điều trị kháng đông, được thiết đặt nếu không có các chống chỉ định.

24/ NHỮNG BỆNH NHÂN BỊ ĐỘT QỤY HAY CƠN THIẾU MÁU NĂO THOÁNG QUA CÓ ĐƯỢC CHO PHÉP ĂN UỐNG KHÔNG ?

Hầu hết những bệnh nhân đột qụy và cơn thiếu máu năo thoáng qua có thể nuốt không khó khăn. Đối với những bệnh nhân có sự phát ngôn khó khăn hay sự tỉnh táo bị giảm sút hay những bệnh nhân đă có những đột qụy rất lớn (large strokes), không nên cho ăn hay uống ǵ bằng đường miệng cho đến khi đă được thăm ḍ xét nghiệm. Khó nuốt do nguyên nhân thần kinh được trắc nghiệm với chất lỏng tốt hơn là với chất rắn. Mặc dầu sự dinh dưỡng có thể được tŕ hoăn cho đến khi bệnh nhân được nhận vào giường bệnh, nhưng cần cho bệnh nhân uống thuốc thường lệ trong lúc chờ đợi.

25/ ĐIỀU TRỊ NÀO ĐƯỢC SỬ DỤNG ĐỂ NGĂN NGỪA MỘT ĐỘT QỤY Ở NHỮNG BỆNH NHÂN VỚI CƠN THIẾU MÁU NĂO THOÁNG QUA (TIA) HAY ĐĂ BỊ ĐỘT QỤY TRƯỚC ĐÂY ?

Aspirin vẫn là thuốc phổ biến nhất được sử dụng để ngăn ngừa đột qụy thứ phát. Liều lượng chuẩn là 325 hay 81mg mỗi ngày. Có những tác giả chủ trương cho aspirin với liều lượng cao, nhưng những liều lượng cao hơn gây những tác dụng phụ dạ dày-ruột hơn, trong khi đó lại không có bằng cớ về một lợi ích lớn hơn.

26/ ASPIRIN ĐƯỢC CHO BAO NHIÊU LÀ ĐỦ ĐỂ NGĂN NGỪA ĐỘT QỤY ?

Mặc dầu lúc đầu aspirin được cho 4 viên mỗi ngày, sau đó 3 viên mỗi ngày, nhưng bằng cớ chứng tỏ rằng 1 viên aspirin mỗi ngày cũng có hiệu quả như aspirin cho với liều lượng cao hơn. Có thể giảm liều lượng này hơn nữa để ngay cả aspirin với những liều lượng thấp hơn (ví dụ 80mg/ngày, 1 viên 3 lần mỗi tuần) có thể trở nên điều trị chuẩn. Giảm liều lượng aspirin có thể làm giảm nguy cơ xuất huyết dạ dày-ruột và có lẽ xuất huyết năo. Nơi một vài bệnh nhân có các tiểu cầu tăng khả năng kết tụ (hyperaggregable), cần cho aspirin với liều lượng cao hơn để phong bế một cách hiệu quả sự kết tụ tiểu cầu (platelet aggregation). Không có những chỉ dẫn đặc hiệu về ai sẽ cần một liều lượng aspirin cao hơn hay ai sẽ dùng thuốc kháng tiểu cầu. Hăy dành aspirin với liều lượng cao hay những thuốc kháng tiểu cầu cho những bệnh nhân không thành công với aspirin liều lượng thấp, những bệnh nhân trẻ, hay những bệnh nhân không có những yêu tố nguy cơ điển h́nh đối với đột qụy .

27/ NHỮNG THUỐC KHÁNG TIỂU CẦU NÀO KHÁC VỚI ASPIRIN ĐƯỢC SỬ DỤNG ĐỂ PH̉NG NGỪA ĐỘT QỤY ?

Clopidrogel (Plavix) 75 mg mỗi ngày có hiệu quả hơn aspirin trong việc ngăn ngừa những sự cố do thiếu máu cục bộ (đột qụy, nhồi máu cơ tim, và chết huyết quản). Tỷ lệ giảm nguy cơ là 8-9%. Clopidogrel được chỉ định ở những bệnh nhân không chịu được aspirin và nên được xét đến ở những bệnh nhân có nguy cơ cao, ví dụ, những bệnh nhân thất bại với điều trị aspirin đơn độc.

Aspirin kết hợp với dipyridamole (Persantine) có tác dụng kéo dài, là một chế độ pḥng ngừa đột quỵ thứ phát có hiệu quả khác. Lợi ích của hai thứ thuốc được cộng lại trong phối hợp này. Đau đầu là tác dụng phụ thông thường nhất, có thể được quy cho sự hiện diện của dipyridamole.

Ticlopidine (Ticlid) là một chất đối kháng với thụ thể adenosine phosphate của tiểu cầu, về cấu tạo hóa học có liên quan với clopidogrel. Thuốc có một hiệu quả ưu việt hơn so với aspirin, nhưng những tác dụng phụ như nổi ban, tiêu chảy, và giảm bạch cầu trung tính làm cho sự theo dơi công thức máu là cần thiết. V́ những lư do này, ticlopidine hiếm khi được sử dụng như thuốc được chọn lựa đầu tiên.

28/ NHỮNG THUỐC KHÁNG TIỂU CẦU (ANTIPLATELET AGENTS) MỚI CÓ LỢI ÍCH NÀO ?

Thienopyridines (clopidogrel và ticlopidine) tác dụng tốt hơn aspirin khoảng 10%. Chỉ định chủ yếu là các bệnh nhân không dung nạp được aspirin. Clopidrogel (Plavix) hơi an toàn hơn ticlopidine (Ticlid) và không đ̣i hỏi xét nghiệm máu thường quy, v́ vậy đó là một lựa chọn được ưa thích. Do các dữ kiện chứng tỏ tác dụng làm thông suốt của các stent tim, nên sự phối hợp của một trong những tác nhân này (clopidogrel hay ticlopidine) với aspirine, thay v́ aspirine đơn độc, đă trở nên phổ biến ở những bệnh nhân đột qụy được cho là có nguy cơ cao, hay ở những bệnh nhân không thành công khi dùng aspirin đơn độc.

Dipyridamole (Persantine), trong những năm 1970 là thuốc thường được phối hợp với aspirin, đă bị bỏ không dùng nữa trong những năm 1980 bởi v́ các nghiên cứu đă không nhận thấy một lợi ích nào. Hai thử nghiệm mới đây của Châu Âu (ESPS-1 và ESPS-2) đă khơi lại niềm hy vọng rằng sự phối hợp aspirin/dipyridamole có thể có một giá trị nào đó dưới dạng tác dụng chậm. Bởi v́ những dữ kiện này không nhất quán từ thử nghiệm này qua thử nghiệm khác, nên việc phối hợp dipyridamole/aspirin cần được kiểm tra.

29/ VAI TR̉ CỦA CẮT BỎ NỘI MẠC ĐỘNG MẠCH CẢNH(CAROTID ENDARTERECTOMY) TRONG BỆNH MẠCH MÁU NĂO ?

Cắt bỏ nội mạc động mạch cảnh (carotid endarterectomy) đă được chứng tỏ là có tác dụng ngăn ngừa đột qụy thiếu máu cục bộ tái diễn (recurrent ischemic stroke) ở những bệnh nhân với hẹp động mạch cảnh mức độ cao (high-grade carotid stenosis). Ở những bệnh nhân có triệu chứng với hẹp động mạch cảnh trong (internal carotid stenosis) ở mức 70% hoặc hơn, th́ phẫu thuật làm giảm nguy cơ bị đột qụy về sau này. Lợi ích do phẫu thuật ít hơn ở những bệnh nhân có triệu chứng với hẹp 50-70%. Những thương tổn dưới 50% tốt hơn nên được điều trị nội khoa. Một lợi ích của cắt nội mạc động mạch cảnh cũng đă được chứng tỏ đối với những bệnh nhân không có triệu chứng với hẹp động mạch cảnh ở mức 60% hoặc lớn hơn, nhưng sự giảm tuyệt đối nguy cơ đột qụy nhỏ hơn nhiều.

30/ NHỮNG YẾU TỐ NÀO ẢNH HƯỞNG LỢI ÍCH CỦA CẮT BỎ NỘI MẠC ĐỘNG MẠCH CẢNH ?

Tỷ lệ bệnh tật và tử vong do phẫu thuật là những yếu tố chủ chốt xác định lợi ích của phẫu thuật động mạch cảnh. Hiệu quả của cắt bỏ nội mạc động mạch cảnh có một tỷ lệ bệnh tật và tử vong 6% hay thấp hơn đối với bệnh động mạch cảnh có triệu chứng (symptomatic carotid disease) và 3% hay thấp hơn đối với bệnh không có triệu chứng. Lợi ích của phẫu thuật có thể mất khi mức độ bệnh tật và tử vong vượt quá những tỷ lệ này.

31/ PHẪU THUẬT ĐỘNG MẠCH CẢNH (CAROTID SURGERY) CÓ THẬT SỰ CÓ HIỆU QUẢ KHÔNG ?

Vâng, đối với những bệnh nhân có triệu chứng (symptomatic patients). 3 thử nghiệm cắt bỏ nội mạc động mạch cảnh (carotid endarterectomy) đă báo cáo những kết quả trong điều trị những bệnh nhân có triệu chứng. Những bệnh nhân với hẹp động mạch cảnh (carotid stenosis) ở mức bằng hoặc lớn hơn 70%, nhờ phẫu thuật, đă có sự giảm nguy cơ 71% vào tháng thứ 24 (công tŕnh nghiên cứu NASCET: North American Symptomatic Carotid Trial). Những kết quả này được xác nhận bởi European Carotid Surgery Trial. Công tŕnh nghiên cứu NASCET xác nhận rằng phẫu thuật có một vai tṛ đối với những bệnh nhân với hẹp động mạch cảnh ở mức độ vừa phải (50% đến 69%), nhưng những lợi ich của phẫu thuật trong trường hợp này là khiêm tốn.

Có sự tranh căi đáng kể về tính hữu ích của phẫu thuật cắt bỏ nội mạc động mạch cảnh (carotid endarterectomy) trong trường hợp hẹp động mạch cảnh không có triệu chứng (asymptomatic carotid stenosis) hay hẹp động cảnh có triệu chứng ở mức độ vừa phải. Công tŕnh nghiên cứu ACAS (Asymptomatic Carotid Atherosclerosis Study) đă cho thấy một lợi ích (11% đến 5%) trong 5 năm đối với phẫu thuật.

32/ KHI NÀO ĐIỀU TRỊ KHÁNG ĐÔNG TRONG BỆNH MẠCH MÁU NĂO ?

Vai tṛ của điều trị kháng đông (anticoagulation) trong bệnh mạch máu năo rất gây tranh căi. Các thầy thuốc thần kinh nhất trí rằng điều trị kháng đông chủ yếu có lợi trong sự ngăn ngừa đột qụy do nghẽn mạch (embolic stroke) xuất phát từ tim. Sau một lần đầu bị nghẽn mạch năo (cerebral embolus) xuất phát từ tim, bệnh nhân có nguy cơ cao bị những nghẽn mạch năo tiếp theo, đặc biệt là trong vài ngày hoặc vài tuần lễ sau đó, và có bằng cớ gợi ư rằng việc điều trị kháng đông ngay sau tai biến làm giảm nguy cơ xảy ra tái phát. Mặc dầu điều trị kháng đông sẽ có khả năng làm trở nặng một đột qụy bằng cách biến hóa t́nh trạng thiếu máu cục bộ (ischemia) thành t́nh trạng xuất huyết, nhưng các dữ kiện gợi ư rằng nguy cơ của sự trở nặng này thấp hơn so với những lợi ích trong việc ngăn ngừa các nghẽn mạch tái phát.

33/ ĐIỀU TRỊ KHÁNG ĐÔNG CÓ C̉N HIỆU QUẢ KHÔNG ?

Không rơ là điều trị kháng đông (anticoagulation) có thật sự hiệu quả hay không.Tuy nhiên heparin cho bằng đường tĩnh mạch và warfarin vẫn được dùng phổ biến để ngăn ngừa sự tạo thành và sự làm nghẽn mạch (embolization) của những huyết khối đỏ có kích thước lớn (large red thrombus) hay các huyết khối nghẽn mạch (thromboemboli). Nhiều người ít có khuynh hướng dùng heparin, ngoại trừ ở bệnh nhân có nguy cơ cao. Heparin được sử dụng để pḥng ngừa huyết khối tĩnh mạch sâu (deep venous thrombosis). Những lợi ích của warfarin trong rung nhĩ vẫn nổi bật, với giảm nguy cơ 70%, bao gồm giảm các đột qụy lớn và gây tử vong. Việc sử dụng warfarin đối với van nhân tạo (prosthetic valve), lóc động mạch chủ (aortic dissection), và t́nh trạng tăng đông máu (hypercoagulable state) vẫn hợp lư.

34/ VAI TR̉ CỦA ĐIỀU TRỊ VỚI COUMADIN TRONG BỆNH MẠCH MÁU NĂO ?

Coumadin là điều trị pḥng ngừa được chọn lựa ở những bệnh nhân có nguy cơ cao bị nghẽn mạch do tim (cardiogenic emboli). Lư tưởng nhất, coumadin nên được bắt đầu lúc bệnh nhân được điều trị với heparin chuẩn (standard heparin) hay heparin trọng lượng phân tử thấp (low-molecular weight heparin). Trong sử dụng lâu dài, coumadin có hiệu quả làm giảm nguy cơ đột qụy trong trường hợp rung nhĩ không phải do van tim (nonvalvular atrial fibrillation), cũng như trong rung nhĩ có liên hệ với bệnh van do thấp (rheumatic valvular-related atrial fibrillation) và huyết khối trong tim (intracardiac thrombus). Lợi ích của coumadin tùy thuộc vào nguy cơ đột qụy so với nguy cơ xuất huyết quan trọng trong khi được điều trị với coumadin. Mặc dầu mục tiêu của điều trị với coumadin là đạt được INR (international normalized ratio) 2-3 trong hầu hết các trường hợp, nhưng tỷ số này có thể cao hơn đối với những bệnh nhân với van tim cơ học (mechanical cardiac valves), và có thể thấp hơn đối với những bệnh nhân rất già hay những người có nguy cơ bị biến chứng xuất huyết cao hơn. Nguy cơ xuất huyết có liên quan với cường độ của điều trị kháng đông.

35/ VAI TR̉ CỦA ANGIOPLASY HAY STENT TRONG ĐỘT QỤY ?

Với những catheter cỡ nhỏ và những thiết bị bảo vệ vật nghẽn mạch (embolus) được đưa về phía dưới của chỗ hẹp, angioplasty vối stenting hiện nay là phương pháp được chấp nhận đối với những bệnh nhân có nguy cơ với gây mê tổng quát và ngoại khoa. Những công tŕnh nghiên cứu khác đang được tiến hành đẻ xem những phương pháp này có thể được xem là tương đương hay không với cắt bỏ nội mạc động mạch cảnh (carotid endarterectomy) ỏ những bệnh nhân được mô tả trong những thử nghiệm NASCET ve ACAS.

36/ CÓ VAI TR̉ NÀO ĐỐI VỚI ĐIỀU TRỊ KHÁNG ĐÔNG CHỨNG ĐỘT QỤY TRONG PH̉NG CẤP CỨU ?

V́ lănh vực này không được nghiên cứu kỹ, phải có một lựa chọn. Những thuốc chống tiểu cầu, héparine non fractionnée, héparine có trọng lượng phân tử thấp, hay không điều trị (đối với những bệnh nhân có nguy cơ xuất huyết cao) là những lựa chọn thường được dùng nhất căn cứ trên nguy cơ tái phát và cơ chế của đột qụy. Một hội chần ngắn ngủi giữa thầy thuốc chuyên khoa cấp cứu và thầy thuốc nhận bệnh (Admitted Physician) cũng đủ để chọn một kế hoạch điều trị thích hợp.

NHỮNG ĐIỀM THEN CHỐT : NHỮNG CHỈ ĐỊNH CÙA ĐIỀU TRỊ CHỐNG ĐÔNG MÁU
1. Rung nhĩ
2. Các van tim cơ học
3. T́nh trạng tăng đông máu
4. Nghẽn mạch tái phát mặc dầu điều trị chống tiểu cầu
5. Bảo vệ trong thời gian ngắn do vỡ nội mạc như lóc hay thương tổn nội mạc do catheter

BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(15/11/2008 ) Update : 15/4/2012

florida80
04-05-2019, 17:57
TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO
( ACCIDENT VASCULAIRE CÉRÉBRAL)

JEAN-LOUIS VINCENT, Chef du Service de soins intensifs , Hôpital Erasme, Bruxelles.

Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh


ĐỊNH NGHĨA

Một tai biến mạch máu năo (accident vasculaire cérébral) là một liệt thần kinh khởi đầu đột ngột, gây nên những dấu hiệu thần kinh khu trú hơn là toàn bộ, kéo dài hơn 24 giờ hoặc đưa đến tử vong trong ṿng 24 giờ và nguyên nhân được giả định là do huyết quản không do chấn thương.

Có vài biến thể :
•tai biến thiếu máu cục bộ tạm thời (AIT : accident ischémique transitoire hay TIA : transient ischemic accident) : đợt cấp tính mất khu trú chức năng năo và thị giác và được quy cho là do một tai biến mạch máu.

•bệnh thiếu máu cục bộ hồi phục được hoặc tai biến mạch máu năo nhẹ (gần như biến mất toàn bộ trong ṿng 1-3 tuần)


CÁC LOẠI TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO
•Thiếu máu cục bộ do huyết khối-tắc mạch (ischémie thromboembolique) : 85%

•Xuất huyết : 15% :
◦với xuất huyết dưới màng nhện (5%)

◦không xuất huyết dưới màng nhện ( 10%)



•Tai biến mạch máu năo lỗ khuyết (AVC lacunaire) : những nhồi máu nhỏ và nằm sâu, gặp nhiều nhất nơi các người cao huyết áp và đái đường ; thường thuần vận động hoặc thuần cảm giác ; tiên lượng tương đối tốt.Trong trường hợp nhiều nhồi máu, các tai biến mạch máu năo lỗ hổng có thể dẫn đến bại liệt giả hành tủy (paralysie pseudo-bulbaire).


Khoảng 25% bệnh nhân có triệu chứng đau đầu. Các cơn đau đầu dai dẳng phải nghĩ đến chẩn đoán máu tụ dưới màng cứng (hématome sous-dural). Các cơn đau đầu đặt biệt dữ dội trong xuất huyết dưới màng nhện (hémorragie sous-arachnoide). Xuất huyết năo (hémorragie intracérébrale) đôi khi khởi đầu đột ngột hơn, không có dấu hiệu báo trước, liên kết với các cơn đau đầu dữ dội và một sự biến đổi tri giác nhanh chóng.

Chẩn đoán phân biệt của các tai biến mạch máu năo chủ yếu dựa vào h́nh ảnh (CT hay MRN) và rất quan trọng đối với quyết định điều trị.

CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ CHÍNH CỦA TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO
•Cao huyết áp : yếu tố tiên đoán quan trọng nhất.

•Nghiện thuốc lá (tai biến mạch máu năo xuất huyết và thiếu máu cục bộ)

•Không dung nạp gluxit (intolérance glucidique) (nhất là tai biến mạch
máu năo do thiếu máu cục bộ)

•Chứng béo ph́ (obésité)

•Sự nhàn rỗi ít hoạt động

•Tăng cholestérol huyết

•Nghiện rượu nghiêm trọng

•Sử dụng thuốc ngừa thai


CÁC BIẾN CHỨNG.
•Phù năo và tụt kẹt xuyên màng (engagement transtentoriel) (nhất là trong trường hợp nhồi máu hay xuất huyết trong năo)

•Tràn dịch năo (hydrocéphalie) (nhất là trong trường hợp tai biến mạch máu năo của hố sau, do tắc năo thất 4 )

•Lan rộng thương tổn : trong trường hợp tai biến mạch máu năo do thiếu máu cục bộ (AVC ischémique) thường hơn là trong trường hợp nhồi máu do nghẽn mạch (infarctus embolique), do lan xa cục huyết khối (thrombus), do lan rộng sự tắc nghẽn hay do sự biến đổi đổi hệ mạch máu bàng hệ.


NHỮNG THĂM D̉ PHỤ
•CT scan : cho phép xác định loại và mức độ lan rộng của tai biến mạch máu năo. CT scan có thể b́nh thường trong trường hợp tai biến mạch máu năo do thiếu máu cục bộ giai đoạn sớm (AVC ischémique précoce).

•T́m kiếm bệnh lư gây nghẽn mạch (pathologie emboligène), bằng siêu âm tâm kư xuyên ngực (échocardiographie transthoracique) và nếu có thể, siêu âm tâm kư xuyên thực quản (échocardiographie transoesophagienne), để t́m kiếm bệnh van tim (valvulopathie) hay shunt trong tim, cục huyết khối (thrombus)...Theo dơi tim (monitorage cardiaque) và/hay Holter nhằm t́m kiếm các loạn nhịp tim.

•Khám các huyết quản của cổ (Doppler-duplex) để t́m một hẹp động mạch cảnh quan trọng cùng bên.

•Chọc ḍ tủy sống cần phải tránh bởi v́ thủ thuật này không mang lại lợi ích ǵ hết (sẽ không cho thấy hồng cầu nếu xuất huyết xảy ra trong nhu mô năo) và có tiềm năng nguy hiểm (nguy cơ tụt kẹt). Chọc ḍ chỉ có thể được chỉ định trong trường hợp nghi xuất huyết dưới màng nhện, nếu như CT scan không chứng tỏ xuất huyết dưới mạng nhện, được gợi ư bởi thăm lâm sàng.


ĐIỀU TRỊ

1/ TƯ THẾ.

Trong 48 gió đầu, bệnh nhân được khuyên nằm ngửa (đầu được nâng lên cao tối đa 30 độ) để cải thiện sự đẩy máu ở các vùng tranh tối tranh sáng (zones de pénombre).Tuy nhiên phải xét đến nguy cơ hít chất dịch dạ dày (inhalation gastrique) : sự đặt ống thông hút dạ dày để hút dịch có thể cần thiết.

2/ HUYẾT ÁP CAO

Cao huyết áp thường hiện diện, ít nhất là tạm thời. Ngoài ra, nhiều bệnh nhân bị cao huyết áp măn tính. Điều trị phải rất thận trọng. Một mặt, huyết áp cao có thể bù sự thiếu máu cục bộ (ischémie) và/hoặc tăng áp lực trong sọ (hypertension intracranienne) và phải được duy tŕ. Mặt khác, huyết áp cao có thể làm dễ sự phát triển xuất huyết trong năo, phù năo, bệnh năo do cao huyết áp (encéphalopathie hypertensive), hay là một nguyên nhân của biến chứng tim (thiếu máu cục bộ hay suy tim). Ngoài ra, sự tự điều ḥa (autorégulation) của năo bộ có thể bị ảnh hưởng trong tai biến mạch máu năo, làm các vùng bị thiếu máu cục bộ dễ nhạy cảm hơn đối với một sự giảm áp lực động mạch. Tiếc thay, khó có thể đánh giá những tác dụng của thay đổi áp lực động mạch lên tuần hoàn năo bộ.

Nói chung, chúng ta chấp nhận một gia tăng huyết áp trung b́nh (pression artérielle moyenne) lên đến 130mmHg. Ngưỡng điều trị (seuil de traitement) này là :
•trong trường hợp xuất huyết năo thấp hơn là trong trường hợp tai biến mạch máu năo do thiếu máu cục bộ (AVC ischémique).

•cao hơn nơi bệnh nhân bị cáo huyết áp măn tính. Nơi những bệnh nhân này, các giới hạn của sự tự điều ḥa được hướng về những trị số cao hơn.


Trong tất cả các trường hợp, sự giảm nhanh huyết áp có thể có hại, bởi v́ sự giảm lưu lượng máu năo làm dễ sự lan rộng của quá tŕnh thiếu máu cục bộ.

Cũng như trong tất cả những bệnh lư thần kinh khác, các bêta-bloquants được ưa thích hơn là các thuốc giăn mạch (vasodilatateurs), nhất là trong trường hợp có nguy cơ tăng áp lực nội sọ.

3/ THỂ TÍCH MÁU VÀ ĐỘ NHỚT CỦA MÁU.

Sự gia tăng độ nhớt của máu(viscosité sanguine), do chứng tăng hồng cầu (polycythémie), mất nước, sự hoạt hóa các bạch cầu, có thể ảnh hưởng lưu lượng máu khu vực của năo bộ (débit cérébral régional). Nhiều bệnh nhân với tai biến mạch máu năo bị mất nước, và do đó cần cung cấp hào phóng các dịch bổ sung. Mặt khác, việc cho dịch không đúng lúc có thể làm kịch phát sự phù năo. Nguy cơ này tương đối giới hạn nơi bệnh nhân với teo năo (atrophie cérébrale), nhưng trái lại gia tăng nơi bệnh nhân đă có một mức độ phù năo nào đó.

4/ TRÁNH TĂNG GLUCOSE-HUYẾT.

Tăng glucose-huyết (hyperglycémie) trong vùng bị thiếu máu cục bộ làm gia trọng nhiễm axit lactic (acidose lactique), điều này có thể làm nặng các thương tổn do thiếu máu cục bộ. Khởi đầu, tốt hơn là tránh truyền glucose để làm giảm nguy cơ tăng glucose-huyết.

5/ CÁC CHỈ ĐINH NGOẠI THẦN KINH.

Việc thiết đặt đo lường áp lực nội sọ phải được xét đến trong trường hợp phù năo được phát hiện bởi CT scan.

Việc lấy hết khối máu tụ vùng thái dương (hématome temporal) có thể cần thiết để tránh một tụt kẹt xuyên màng (hernie tentorielle). Các nhồi máu tiểu năo thường cần dẫn lưu để tránh một sự đè ép thân năo hay tràn dịch năo (hydrocéphalie). Một tràn dịch năo có thể gây nên một sự biến đổi tri giác và cần đến mở thông năo thất (ventriculostomie).

6/ CORTICOIDES .

Không có vai tṛ trong bệnh lư này.

7/ THÔNG KHÍ CƠ HỌC (VENTILATION MECANIQUE)

Việc nhờ đến thông khí cơ học trong trường hợp suy thoái hô hấp phải được cân nhắc, v́ lẽ tiên lượng xấu nơi bệnh nhân bị tai biến mạch máu năo cần phải thông khí cơ học : hơn 50% những trường hợp tử vong xảy ra ngắn hạn, và các di chứng thường quan trọng nơi những người sống sót.

8/ CÁC THUỐC CHỐNG NGƯNG KẾT TIỂU CẦU.

Aspirine được chỉ định trong tất cả các trường hợp tai biến mạch máu năo do huyết khối (AVC thrombotique). Một liều lượng 325 mg/ngày thường được khuyên cho.

Ticlopidine (ức chế ADP mà không ảnh hưởng đến cyclo-oxygénase) có thể hiệu quả hơn aspirine, nhất là trong trường hợp thương tổn động mạch cột sống-nền (artère vertébro-basilaire). Tuy nhiên Ticlopidine có những tác dụng phụ quan trọng : nổi ban da, rối loạn tiêu hóa, ỉa chảy, giảm bạch cầu trung tính (neutropénie) (2-3% các trường hợp, nhưng có thể đảo ngược lúc ngừng điều trị). Thuốc này phải được xem như là thuốc dùng hàng thứ hai, dành cho những trường hợp aspirine không dung nạp được hay không có hiệu quả.

9/ ĐIỀU TRỊ KHÁNG ĐÔNG (ANTICOAGULATION)
Những chỉ định điều trị bằng Héparine :
•Tai biến mạch máu năo đang tiến triển.

•Hẹp huyết quản quan trọng.

•Nghẽn mạch (embolisation) phát xuất từ tim.


Một vấn đề quan trọng là khi nào bắt đầu điều trị. Nguy cơ là nguy cơ tái phát nếu điều trị được bắt đầu muộn, nhưng xuất huyết thứ phát (hémorragie secondaire) nếu điều trị bắt đầu quá sớm. Nguy cơ xuất huyết lớn hơn trong trường hợp bại liệt nghiêm trọng, tương đối được giới hạn sau khoảng 10 ngày.Vậy có thể đề nghị bắt đầu điều trị kháng đông ngay tức thời nếu bại liệt nhẹ nhưng vào ngày thứ 11 nếu bại liệt nghiêm trọng hơn.

10/ CÁC THUỐC LÀM TAN SỢI HUYẾT.

rtPA có hiệu quả nếu được cho rất sớm (nếu có thể trong ṿng 90 phút và phải trong ṿng 6 giờ), nhưng trước hết phải làm CT Scan năo để loại trừ một quá tŕnh xuất huyết. Nguy cơ chủ yếu là nguy cơ chảy máu trong sọ(được ước tính là 10%).

11/ PHẪU THUẬT HUYẾT QUẢN.

Cắt bỏ nội mạc động mạch (endartériectomie) nếu tai biến thiếu máu cục bộ năo tạm thời (TIA) hay tai biến mạch máu năo nhẹ (AVC mineur) và hẹp động mạch cảnh (sténose carotidienne) > 70% ở cùng bên . Trong trường hợp TIA hay tai biến mạch máu năo có những di chứng được giới hạn thuộc địa phận động mạch cảnh, một phẫu thuật có thể được đề nghị cấp cứu (trong ṿng 24-48 giờ). Trong trường hợp hẹp nặng (sténose serrée), một trị liệu bằng héparine phải đuợc xét đến trong lúc chờ đợi,

Angioplastie, các thủ thuật bắt cầu (bypass) (nhất là trong trường hợp thương tổn động mạch cột sống-nền (artère vertébro-basilaire)

12/ ĐIỀU TRỊ DÀI HẠN•thuốc chống ngưng kết tiểu cầu : aspirine 325 mg/ ngày

•ticlopidine 500 mg/ngày nếu không dung nạp tốt đối với aspirine

•nếu rung nhĩ nhưng không bị bệnh van tim :

•Bệnh nhân < 60 tuổi, không có yếu tố nguy cơ quan trọng :
không điều trị bằng thuốc kháng đông.

•Bệnh nhân > 75 tuổi : aspirine ít có hiệu quả, nhưng điều trị bằng thuốc kháng đông nguy hiểm hơn.



BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 4/12/2008)

florida80
04-05-2019, 17:59
TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO
DO THIẾU MÁU CỤC BỘ.
(ACCIDENT VASCULAIRE CEREBRAL ISCHEMIQUE)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH

N.Bruder
Service d’Anesthésie-Réanimation
Hôpital de la Timone, Marseille


Tai biến mạch máu năo thiếu máu cục bộ (AVC ischémique) là một cấp cứu nội khóa cũng như nhồi máu cơ tim vậy. Việc thực thi các phương tiện chẩn đoán phải càng nhanh càng tốt để có thể bắt đầu điều trị trong những thời hạn ngắn nhất. Mặc dầu các triệu chứng đă thoái lui, một sự trầm trong các triệu chứng thần kinh thường xảy ra trong những giờ sau tai biến ban đầu. Những đơn vị chuyên môn trong điều trị những bệnh nhân này (“stroke units ) tăng lên. Những đơn vị này phải được tiếp xúc ngay khi chẩn đoán được nghi ngờ nhằm thực hiện một liệu pháp tan huyết khối (thrombolyse) nếu có chỉ định.

A/ CHẨN ĐOÁN

I/ LÂM SÀNG

Các triệu chứng rất thay đổi tùy theo vùng năo bộ bị thương tổn và sai lầm chẩn đoán(do thiếu sót hay do quá mức) thường xảy ra. Các rối loạn tri giác hiếm xảy ra ở giai đoạn đầu và điều này khiến nghĩ đến một nguyên nhân khác (tai biến mạch máu năo xuất huyết : AVC hémorragique). Thăm khám phải t́m kiếm những dấu hiệu biện minh cho việc cần đưa vào pḥng điều trị tăng cường : sự biến đổi tri giác, bại liệt thần kinh rộng lớn, bại liệt thần kinh tiến triển, các rối loạn nuốt, bệnh lư xảy ra đồng thời nghiêm trọng.

II/ NHỮNG THĂM KHÁM PHỤ.

1/ Ban đầu


a.TDM năo không tiêm chất cản quang : một cách hệ thống bởi v́ không có một dấu hiệu lâm sàng nào đáng tin cậy để phân biệt một tai biến mạch máu năo xuất huyết (AVC hémorragique) với một tai biến mạch máu năo do thiếu máu cục bộ (AVC ischémique). Chụp cắt lớp vi tính năo có thể b́nh thường lúc khởi đầu hay cho thấy những dấu hiệu sớm (động mạch sylvienne hyperdense, phù năo khu trú, biến mất sự phân biệt giữa chất trắng và chất xám). Cần lập lại 12 đến 24 giờ sau. Angio-scanner có thể cho phép định vị trí nơi tắc động mạch.


b.IRM : hiếm khi có để thực hiện lúc ban đầu, cho thấy những h́nh ảnh đặc hiệu ngay những phút đầu tiên của tai biến mạch máu năo(IRM de diffusion et de perfusion), angio-IRM cho phép thăm ḍ những động mạch năo.


c.Điện tâm đồ : để chẩn đoán những rối loạn nhịp.


d.Chụp phim ngực : những dấu hiệu hít phế quản (signes d’inhalation bronchique).


e.NFS, chất điện giải, glucose-huyết, Quick, TC, khí huyết động mạch (Sp02).


2/ Trong 24 giờ.

•Siêu âm tim.

•Echodoppler các mạch máu cổ.

•Chụp mạch máu năo (angiographie cérébrale) trong vài trường hợp.- Điện năo đồ trong trường hợp nghi cơn động kinh.


III/ NHỮNG NGUYÊN NHÂN CẦN T̀M KIẾM CẤP CỨU.


•Những bệnh lư động mạch cảnh hay động mạch đốt sống : lóc động mạch (dissection) nơi người trẻ, hẹp xơ mỡ (sténose athéromateuse).

•Bệnh tim sinh cục nghẽn mạch (cardiopathie emboligène).


B/ ĐIỀU TRỊ

I/ ĐIỀU TRỊ TỔNG QUÁT

Sự điều trị không đặc hiệu này nhằm giới hạn sự trầm trọng hóa của các thương tốn năo bộ.

1/ Chống lại t́nh trạng giảm oxy mô (hypoxie) : Theo dơi liên tục Sp02. Liệu pháp oxy ngay khi Sp02 < 95%. Pḥng ngừa bệnh phổi do hít dịch (pneumopathie d’inhalation) bằng cách thiết đặt một ống thông dạ dày và ngừng nuôi dưỡng bằng đường miệng trong trường hợp lạc đường (fausses routes). Những chỉ định nội thông khí quản bị tranh căi và tính đến tiên lượng tổng quát. Một giám oxy huyết nghiêm trọng (hypoxémie sévère), một tăng thán huyết (hypercapnie), một hôn mê (score de Glasgow < 9) là những chỉ định cua nội thông khí quản.

2/ Huyết áp : một huyết áp tăng cao làm dễ sự phân bố mạch (vasculatisation) của những vùng tranh tối tranh sáng thiếu máu cục bộ (pénombre ischémique). Nơi bệnh nhân vốn có huyết áp b́nh thường, mục tiêu là một huyết áp thu tâm trên 120 mmHg. Nơi bệnh nhân cao huyết áp măn tính, mục tiêu là một huyết áp tâm thu khoảng 180 mmHg. Khi có một cao huyết áp nghiêm trọng, sự giảm huyết áp phải rất từ từ và vừa phải v́ lẽ huyết áp thường giảm một cách ngẫu nhiên trong 24 giờ đầu sau tai biến mạch máu năo.


SƠ ĐỒ ĐIỀU TRỊ CAO HUYẾT ÁP Ở GIAI ĐOẠN CẤP TÍNH CỦA TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO CỤC BỘ.
Huyết áp tâm thu 180-220mmHg
Huyết áp tâm trương 105-120mmHg
Huyết áp thu tâm > 220 mmHg (do nhiều lần)
hay
Huyết áp trương tâm > 120 mmg Hg

Không điều trị Labétalol 5-20 mmg tiêm tĩnh mạch rồi 4-10 mg/ giờ (trừ chống chỉ định đối với beta bloquants.
Urapidil 10-50mg tiêm tĩnh mạch rồi 5-20mg/giờ
Nicardipine 0,5-1mg tiêm tĩnh mạch rồi 1-4mg/giờ Mục tiêu huyết áp thu tâm 180-200 mmHg

3/ Glucose-huyết : Kiểm soát một cách hệ thống và lập lại. Điều trị tăng glucose-huyết ( > 10mmol/L) bằng insuline. Nếu glucose-huyết b́nh thường, tránh cung cấp glucose trong 24 giờ đầu.

4/ Sốt : sốt làm gia trọng tiên lượng thần kinh và cần điều trị bằng paracétamol (>37,8 độ C). Nơi những bệnh nhân với thông khí nhân tạo, cần điều trị tích cực sốt bằng cách làm lạnh bên ngoài (refroidissement externe) liên kết với an thần hoặc ngay cả curarisation.

5/ Cung cấp dịch : phải đầy đủ (2 đến 2,5 L/24 giờ với NaCl, 8 đến 12 g/24 giờ) để tránh giảm thể tích máu và giảm natri-huyết.

6/ Pḥng ngừa huyết khối tĩnh mạch : bas de contention, héparine trọng lượng phân tử thấp.

7/ Vật lư liệu pháp – phục hồi sớm (Kinésithérapie-rééducation précoce) : tránh cứng khớp và những biến chứng do nằm lâu.

II/ ĐIỀU TRỊ ĐẶC HIỆU.

1/ Điều trị tan huyết khối (traitement thrombolytique).


a.Tan huyết khối tĩnh mạch (thrombolyse intraveineuse) bởi rt-PA, được chỉ định trong 3 giờ sau khởi đầu của những dấu hiệu lâm sàng (0,9 mg/kg, tối đa 90mg, với 10% liều lượng tiêm trực tiếp và phần c̣n lại trong 1 giờ). Do nguy cơ xuất huyết năo, điều trị này chỉ có thể được đề nghị sau ư kiến của một thầy thuốc chuyên khoa trong điều trị các tai biến mạch máu năo do thiếu máu cục bộ và sau khi đả thông gia đ́nh. Khi sự khởi đầu của các triệu chứng không có thể được xác định một cách chính xác (tai biến mạch máu năo lúc thức dậy), liệu pháp tan huyết khối không được chỉ định.


b.Tan huyết khối động mạch (thrombolyse intraartérielle) được chỉ định trong 6 giờ sau khởi đầu của các triệu chứng. Phương pháp điều trị này cần thông siêu chọn lọc (cathétérisme supersélectif) các động mạch năo và do đó chỉ có thể được thực hiện trong vài trung tâm có một thầy thuốc quang tuyến thần kinh can thiệp (neuroradiologue interventionnel).


2/ Điều trị kháng đông (traitement anticoagulant) : hiếm khi được chỉ định v́ nguy cơ xuất huyết. Một tai biến mạch máu năo lan rộng (hơn 50% địa phận của động mạch sylvienne) là một chống chỉ định.

CHỈ ĐỊNH CỦA ĐIỀU TRỊ KHÁNG ĐÔNG Ở GIAI ĐOẠN CẤP TÍNH CỦA TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO.

•Bệnh tim sinh nghẽn mạch (Cardiopathie embogène) : van cơ học, rung nhĩ, huyết khối của tâm nhĩ trái, nhồi máu cơ tim.

•Lóc (Dissection) các động mạch ngoài sọ (động mạch cảnh, đốt sống)

•Sự hẹp sít của một động mạch ngoài hay trong sọ.

•Các bệnh đông máu : thiếu hụt protéine C hay S, sự đề kháng với protéine C hoạt hóa.




3/ Điều trị chống ngưng kết (traitement antiaggtégant). Aspirine (100 đến 300mg) được cho trong 48 giờ theo sau tai biến mạch máu năo làm giảm một cách khiêm tốn nhưng đáng kể tỷ lệ tử vong và nguy cơ tái phát.[/b][/size][/color][/center][/b][/size][/color]

4/ Phù năo và tăng áp lực nội sọ : đó là một biến chứng của các nhồi máu năo to lớn nơi bệnh nhân trẻ tuổi. Sự nhờ đến ngoại khoa đôi khi cần thiết. Ở tầng trên lều (étage sus-tentoriel), đó là một crâniectomie décompressive với các kết quả cơ năng đôi khi tốt. Ở tầng dưới lều (étage sous-tentoriel) nhồi máu tiểu năo có thể gây hôn mê do đè ép thân năo. Ngoại khoa thường có một tác dụng ngoan mục với những di chứng nhỏ về lâu về dài trong chỉ định này.

BS NGUYỄN VĂN THỊNH (20/6/2010)

florida80
04-05-2019, 18:00
TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO XUẤT HUYẾT
(ACCIDENT VASCULAIRE CEREBRAL HEMORRAGIQUE)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH

N.Bruder
Service d’Anesthésie-Réanimation
Hôpital de la Timone, Marseille


Chẩn đoán tai biến mạch máu năo xuất huyết được gợi ra trước những triệu chứng thần kinh đột ngột, bại liệt thần kinh khu trú liên kết hay không với một rối loạn tri giác. Những tai biến mạch máu năo là xuất huyết trong một trường hợp trên năm, và tính chất xuất huyết được xác nhận nhờ một scanner năo không tiêm chất cản quang. Nơi những bệnh nhân trẻ, người ta t́m thấy một thương tổn xuất huyết trong hơn 1/3 các trường hợp, ngược với những người lớn tuổi hơn, nơi những người này cao huyết áp thường là nguyên nhân.

I/ THÁI ĐỘ XỬ TRÍ BAN ĐẦU.

Vào lúc nhập viện, chính mức độ tri giác và sự tiến triển của nó trong những giờ đầu tạo nên mức độ nghiêm trọng. Thái độ xử trí ban đầu sẽ là giữ cho bệnh nhân được an toàn, đồng thời xác nhận vị trí xuất huyết và t́m kiếm một chỉ định ngoại khoa.

1/ Đặt bệnh nhân trong t́nh trạng an toàn.

Liệt khu trú (déficit focal) sau khi được chứng thực, sự bảo vệ các đường dẫn khí của bệnh nhân hôn mê bằng nội thông miệng-khí quản (intubation orotrachéale) là cần thiết. Trong khi thực hiện TDM (tomodensitométrie), người ta đặc biệt chú ư duy tŕ một huyết áp b́nh thường (huyết áp trung b́nh cần duy tŕ trên 65 mmHg, v́ một sự giảm quá rơ rệt có thể làm phương hại sự tưới máu năo, do đó sự điều trị quá mức của một cao huyết áp là nguy hiểm), và một sự thông khí được thích ứng với một thán huyết (capnie) b́nh thường hay thấp (CO2 cuối kỳ thở vào : ETCO2 từ 30 đến 35 mmHg), để không phải thêm vào một nguyên nhân của tăng áp lực nội sọ (HTIC : hypertension intracranienne).

2/ Chẩn đoán vị trí xuất huyết : vai tṛ của chụp h́nh ảnh.

TDM năo mang lại chẩn đoán và xác nhận vị trí của xuất huyết. Những khối máu tụ nằm ở sâu, quanh năo thất, với ngập năo thất (inondation ventriculaire) hay không, thường được liên kết với cao huyết áp. Những khối máu tụ có vị trí ở ngoài hơn (vỏ năo, thùy) sẽ phải t́m kiếm một dị dạng mạch máu (malformation vasculaire) hay viêm động mạch (artérite). Những khối máu tụ nằm trong thân năo có thể thứ phát cao huyết áp cũng như một dị dạng mạch máu. Những xuất huyết nằm trong tiểu năo thường nhất là biến chứng của cao huyết áp và có nguy cơ gia tăng bị tràn dịch năo (hydrocéphalie) do phong bế tuần hoàn của nước dịch năo tủy.

3/ T́m kiếm một chỉ định ngoại khoa.

Hai vũ khí ngoại khoa được bàn căi. Sự loại bỏ ngoại khoa (évacuation chirurgicale) của khối máu tụ (hay một phần) nhằm điều trị tăng áp lực nội sọ hơn là để có được một sự cầm máu. Sự thiết đặt của một dẫn lưu năo thất ngoài (dérivation ventriculaire externe) cho phép điều trị hoặc ngăn ngừa một tràn dịch năo (hydrocéphalie) và như thế cũng ngăn ngừa và điều trị tăng áp lực nội sọ. Những yếu tố thúc đẫy phải loại bỏ các khối máu tụ là kích thước của chúng và khả năng lớn bị tăng áp lực nội sọ, hay vị trí của chúng (hố sau, dẫn đến một tràn dịch năo do phong bế của dịch năo tủy). Trong trường hợp đặc biệt những khối máu tụ nằm rất sâu (các nhân xám, đồi thị, hay thân năo) được phẫu thuật.

Máu dồi dào trong các năo thất, hay trong năo thất ba, vị trí của sự xuất huyết trong hố sau, là những lư lẽ biện minh cho sự thiết đặt một một dẫn lưu năo thất ngoài (dérivation ventriculaire externe).

Vậy một hội chẩn ngoại thần kinh là cần thiết. Tùy theo các cơ sở điều trị, ư kiến này có thể có được từ xa bằng cách khai thác những khả năng viễn truyền các h́nh ảnh (télétransmission d’images).

II/ ĐIỀU CHỈNH NHỮNG BẤT THƯỜNG VỀ ĐÔNG MÁU.

Khi nguyên nhân của tai biến mạch máu năo là một tai biến của các thuốc kháng đông (AVK), sự điều chỉnh của sự đông máu huyết tương phải được thực hiện không chậm trễ. Sau khi cho một liều lượng lớn anti-vitamine K, ta nhờ đến các thành phần làm dễ đông máu (fractions procoagulantes) của phức hợp prothrombine (Kaskadyl), liên kết với vitamine K1 để có được một INR dưới 2.

III/ T̀M KIẾM MỘT NGUYÊN NHÂN.

Các nguyên nhân rất khác nhau tùy theo đó là một bệnh nhân trẻ hay một bệnh nhân lớn tuổi. Một cách sơ đồ, bệnh nhân già là nạn nhân của một tai biến mạch máu năo xuất huyết, biến chứng của cao huyết áp hay một điều trị chống đông máu, trong khi nơi người trẻ ta sẽ t́m thấy một dị dạng huyết quản (malformation vasculaire) hay một t́nh trạng nghiện ma túy (toxicomanie) bằng đường tĩnh mạch hoặc một bất thường thể địa của sự cầm máu.

Bệnh sử, các điều trị được theo đuổi, lối sống trước tai biến và vị trí của xuất huyết cho phép hoạch định các xét nghiệm phụ. Một chụp động mạch (artériographie) được thực hiện không tŕ hoăn nơi những bệnh nhân trẻ, với xuất huyết ngoại biên hay thùy. Nếu chụp động mạch âm tính, hăy hoạch định một bilan cầm máu (bilan de l’hémostase). Nơi người già, một tai biến mạch máu năo xuất huyết thùy hay vỏ năo, trong một bối cảnh sa sút trí tuệ, hay tái phát, phải t́m kiếm một bệnh mạch dạng tinh bột (angiopathie amyloide). Một viêm nội tâm mạc (endocardite), một viêm huyết quản (vascularite) liên kết với một bệnh hệ thống (maladie du système), có thể có biến chứng tai biến mạch máu năo xuất huyết.

Sau hết, một tai biến mạch máu năo xuất huyết liên kết với một xuất huyết màng năo, hay có vị trí xuất huyết trong vallée sylvienne hay trong thùy trán, hơi xa các động mạch năo trước hay péricalleuse, phải được xem như có thể đó là một vỡ ph́nh động mạch (rupture d’anévrisme) và phải được điều trị như thế.

IV/ TIẾN TRIỂN VỀ SAU.

Hy vọng tốt nhất của bệnh nhân là một sự hồi phục thần kinh có chất lượng tốt và một sự trở lại một khả năng độc lập nào đó. Sự hồi phục này xảy ra, nhưng đ̣i hỏi nhiều tháng, sự can thiệp của các thầy thuốc phục hồi chức năng trong những cơ sở thích ứng. Vào lúc đầu, rất khó, thậm chí không có thể tien lượng được mức độ của sự phục hồi này : không thể nói trước tương lai của những bệnh nhân này.

Các mục tiêu của những điều trị ban đầu, một mặt, là sự sống c̣n, nghĩa là sự quản lư t́nh trạng tăng áp lực nội sọ, mặt khác là sự ngăn ngừa các tái phát, và sau cùng là sự chuẩn bị cho thời kỳ phục hồi chức năng.

1/ Quản lư sự tăng áp lực nội sọ.

Ngoài những nhiễm trùng ngoại thần kinh đă được nói đến, việc quản lư tăng áp lực nội sọ chỉ nhắm vào triệu chứng và nhờ đến thông khi cơ học với thán huyết (capnie) khá thấp, sự an thần và thẩm thấu liệu pháp (osmothérapie) (bằng dung dịch ưu trương mannitol. MANNITOL 20%, 0,25 g/kg).Ta bàn với kíp ngoạ thần kinh sự thiết đặt một monitoring áp lực nội sọ đối với những bệnh nhân trầm trọng nhất, thậm chí thực hiện một craniectome décompressive.

2/ Ngăn ngừa các tái phát.

Đó là điều trị một dị dạng huyết quản (ngoại khoa hay radiologie interventionnelle), điều trị một viem mạch máu, hay cần bằng huyết áp, ngừng các thuốc kháng đông.

3/ Chuẩn bị phục hồi chức năng.

Chuẩn bị sự phục hồi chức năng sẽ cần có được một sự tự trị thông khí, một sự cho ăn bằng đường ruột (nếu không ăn được bằng đường tự nhiên), và tiếp tục bảo vệ những đường dẫn khí, pḥng ngừa bệnh huyết khối nghẽn mạch và ngăn ngừa những rối loạn dinh dưỡng (trouble trophique).

Những bệnh nhân khiến ta chú ư là những bệnh nhân bị thương tổn nặng nhất, nơi họ buộc phải kiểm soát các đường khí, lâu hay mau, và nơi họ không có được một sự trở lại mức tri giác thỏa măn. Có được một sự thông khí ngẫu nhiên trở lại bằng canun mở khí quản (canule de trachéotomie), cho phép bảo vệ lâu dài và tiện lợi các đường hô hấp trên. Sự nuôi ăn bằng đường ruột có thể được theo đuổi nhờ một ống nuôi ăn mũi dạ dày (sonde d’alimentation nasogastrique) hay cho ăn bằng mở dạ dày (gastrostomie d’alimentation). Sự ngăn ngừa bệnh huyết khối-nghẽn mạch (maladie thromboembolique), bằng héparine có trọng lượng phân tử thấp, có thể được bắt đầu 10 ngày sau khi xuất huyết

Sự ngăn ngừa các rối loạn dinh dưỡng (các mảng mô hoại tử gót chân, các mảng mô hoại tử vùng xương cùng) là một mốỉ quan tâm cần được xét đến ngay lúc bắt đầu điều trị và buộc, hoặc là những săn sóc điều dưỡng nặng nề, hoặc là nhờ đến những hỗ trợ có hiệu năng : giường khí (lits à air), các đệm đặc biệt, mà bất tiện duy nhất là phí tổn. Tuy nhiên đó là một phần chủ yếu của điều trị, bởi v́ những mảng mục hoại tử to lớn sẽ đè nặng một cách quan trọng lên tiến triển về sau.

Bệnh nhân được ổn định để có được tốt nhất t́nh trạng tự trị của ḿnh, được chuyển đến một khoa phục hồi chức năng, đơn vị duy nhất sẽ có thể đảm bảo khả năng tốt hơn của tiến triển.

BS NGUYỄN VĂN THỊNH (23/10/2010)

florida80
04-05-2019, 18:01
TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO
(ACCIDENT VASCULAIRE CEREBRAL)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH

Marc Freysz
Samu 21, CHU de Dijon

Benoit Guillon
Unité neurovasculaire, CHU de Nantes

Patrick Miroux
Service des Urgences, SMUR, CH de Compiène

XỬ TRÍ BỆNH VIỆN
(PRISE EN CHARGE HOSPITALIERE)


I/ LÚC ĐẾN BỆNH VIỆN

Đối với tất cả những bệnh nhân đến trực tiếp ở pḥng cấp cứu, tất cả đều dựa vào sự chọn lọc (tri) và đánh giá bệnh nhân, được thực hiện bởi thầy thuốc hay y tá tổ chức tiếp đón (MOA : médecin organisateur de l’accueil hay IOA : infirmier organisateur de l’acceuil). Trong trường hợp lư tưởng, mọi bệnh nhân nghi bị tai biến mạch máu năo phải có thể được khám trong những phút sau khi đến bởi một thầy thuốc (thí dụ thầy thuốc tiếp bệnh nhân : médecin d’accueil) để khởi động càng nhanh càng tốt khâu điều trị và nhất là rút ngắn thời hạn tiếp cận với chụp h́nh ảnh. Đă có những công cụ giúp nhận biết các trường hợp tai biến mạch máu năo dành cho nhân viên tiếp đón (personnel d’accueil). Thí dụ, thang điểm ROSIER (Recognition of Stroke in the Emergency Room) được phát triển mới đây ở Vương Quốc Anh, đă chứng tỏ hiệu quả với một độ nhạy cảm và đặc hiệu cao (92 và 86%).Thang điểm ghi sự hiện diện hay không của 7 dấu hiệu (mất tri giác, t́nh trạng khó ở, mặt bất đối xứng, yếu một cánh tay hay cẳng chân, rối loạn thị giác hay lời nói). Điểm số (score) càng cao, càng có thể đó là tai biến mạch máu năo. Tuy nhiên đó chỉ là một hỗ trợ, v́ một điểm số âm không loại bỏ hoàn toàn chẩn đoán. Ưu điểm của nó là một điểm số đáng tin cậy và đánh giá nhanh, do đó dễ sử dụng trong một khoa cấp cứu.

Dầu thế nào đi nữa, filière được thiết lập trước và thủ thuật điều trị tai biến mạch máu năo phải được khởi động.

Từ khi xuất hiện mới đây điều trị tiêu sợi huyết (thrombolyse) các nhồi máu năo, việc xử trí các tai biến mạch máu năo được xem như một cấp cứu điều trị, điều trị chỉ được cho phép trong một giới hạn 3 giờ sau khi xuất hiện các rối loạn. Tất cả các phương tiện phải được thực thi để một bệnh nhân vừa là nạn nhân của một tai biến mạch máu năo được đánh giá càng nhanh càng tốt và, nếu không có chống chỉ định, được điều trị tiêu sợi huyết.

Đối với những bệnh nhân đến một cách ngẫu nhiên trong một cơ sở cấp cứu không có khâu điều trị tai biến mạch máu năo, sự đánh giá chẩn đoán phải tức thời, và nếu có một chỉ định điều trị tiêu sợi huyết, bilan sẽ chỉ giới hạn vào biologie và điện tâm đồ, bệnh nhân phải đến một trung tâm điều trị tai biến mạch máu năo. Chụp cắt lớp vi tính chỉ được thực hiện nếu điều đó không làm tŕ hoăn việc vận chuyển.

II/ NHỮNG CƠ CẤU BỆNH VIỆN ĐIỀU TRỊ CẤP CỨU.

Theo những khuyến nghị của các hiệp hội bệnh lư thần kinh-mạch máu (pathologie neurovasculaire) Pháp và châu Âu, các bệnh nhân nghi bị tai biến mạch máu năo phải được chuyển không chậm trễ đến một đơn vị thần kinh - mạch máu (Unité NeuroVasculaire) gần nhất.

1/ ĐỊNH NGHĨA VÀ TỔ CHỨC CÁC ĐƠN VỊ THẦN KINH-MẠCH MÁU (UNV : UNITE NEURO-VASCULAIRE)

Đơn vị thần kinh mạch máu (UNV) là những trung tâm hay những đơn vị chuyên môn trong chẩn đoán và điều trị sớm các tai biến mạch máu năo. Hiện diện rộng răi trong các nước anglo-saxon, đơn vị thần kinh-mạch máu phát triển dần dần ở Pháp, dưới sự thúc đẩy của hai chỉ thị của bộ. Các đơn vị thần kinh-mạch máu có những giường dành cho điều trị tăng cường (lits de soins intensifs) để đảm bảo ở giai đoạn cấp tính, việc thực hiện những điều trị cấp cứu (đặc biệt là điều trị tiêu sợi huyết), sự theo dơi sát, sự duy tŕ những hằng số sinh tồn (constantes vitales) và sự khởi đầu phục hồi chức năng, và những giường dành cho những trường hợp tai biến mạch máu năo (lits dédiés aux AVC) để đảm bảo xử trí tức thời những bệnh nhân khác, những tiếp tục điều trị sau khi đă qua các giường điều trị tăng cường và sự thiết lập hay theo đuổi dự án y-xă hội (projet médico-social) thích ứng cho mỗi bệnh nhân. Các đơn vị thần kinh mạch máu quy tụ các thầy thuốc và những nhân viên bán y khoa, như y tá, aide-soignante, kinésithérapeute, chuyên viên chỉnh âm (orthophoniste), ergothérapeute, psychologue, assistantes sociales), được đào tạo nhằm xử tri đặc hiệu các tai biến mạch máu năo, có kinh nghiệm và làm việc phối hợp với nhau. Đơn vị mạch máu thần kinh phụ trách các bệnh nhân 24 giờ/24 giờ mỗi ngày trong năm. Permanence de soins được đảm bảo bởi một garde sur place. Các đơn vị mạch máu thần kinh là ch́a khóa của khâu xử trí phối hợp của các tai biến mạch máu năo, cộng tác chặt chẽ với các khoa cấp cứu và những service de régulation thuợng nguồn, với những khoa có liên hệ trong xử trí chẩn đoán các bệnh nhân (thần kinh quang tuyến, ngoại thần kinh, khoa tim…) và với những khoa điều trị tiếp tục ở hạ nguồn. Các đơn vị mạch máu thần kinh cũng tạo nên một mạng trong bệnh viện liên kết với những trung tâm ngoại biên không có đơn vị thần kinh mạch máu.

2/ NHỮNG LỢI ÍCH CỦA ĐƠN VỊ THẦN KINH MẠCH MÁU

Những phân tích méta của 23 thử nghiệm điều trị so sánh sự nhập viện trong đơn vị thần kinh mạch máu với sự nhập viện trong một đơn vị y tế không chuyên môn, cho thấy một sự giảm nguy cơ tử vong 14% lúc 1 năm và nguy cơ tử vong hay phụ thuộc 22%. Candelise và các cộng sự viên mới đây đă so sánh tương lai lúc 2 năm của hơn 11.000 bệnh nhân người Ư được nhập viện trong đơn vị thần kinh mạch máu trong 48 giờ (Đơn vị thần kinh-mạch máu được định nghĩa bởi những giường và nhân viên dành cho tai biến mạch máu năo) hay trong khoa nội không chuyên môn trong xử trí tai biến mạch máu năo. Những kết quả xác nhận ở quy mô lớn và trong thực hành hàng ngày phân tích méta : giảm tiêu chuẩn tử vong hay phế tật 20%. Tất cả các bệnh nhân dường như được lợi từ cơ sở này, dầu tuổi tác, loại tai biến mạch máu năo, mức độ nghiêm trọng của sót thần kinh. Trái lại tiên lượng không bị biến đổi bởi những bệnh nhân có những rối loạn sớm của tri giác.

3/ T̀NH TRẠNG Ở PHÁP

Mặc dầu sự xử trí các tai biến mạch máu năo đuợc khuyến nghị rộng răi bởi các société savante và chính quyền, ta buộc phải chứng thực rằng ở Pháp mạng lưới đơn vị thần kinh mạch máu (UNV) không đủ để đáp ứng tham vọng này. Tuy nhiên hai điều tra được thực hiện bởi Société Française NeuroVasculaire cho thấy rằng t́nh huống được cải thiện : 4% những tai biến mạch máu năo được điều trị trong 22 đơn vị thần kinh-mạch máu năm 1999, so với 20 đến 30% vào năm 2005 trong 58 đơn vị thần kinh-mạch máu.

Xét v́ các khả năng hạn chế nhập đơn vị thần kinh-mạch máu, các tai biến mạch máu năo cấp tính hay mới xảy ra ở những bệnh nhân với một khả năng cao nhiên hậu phục hồi lại sự độc lập được nhập ưu tiên. Những bệnh nhân không được nhập tức thời đơn vị thần kinh-mạch máu, được điều trị trong những khoa cấp cứu rồi sau đó chuyển đến đơn vị thần kinh-mạch máu hay trong một khoa nội hay một unité de proximité. Các khoa này bổ sung mạng lưới vùng trong những cơ sở tiếp đón đều đặn những trường hợp tai biến mạch máu năo nhưng không tuyển mộ đủ nhân viên để biện minh cho việc đầu tư những phương tiện để nâng lên tầm cỡ đơn vị thần kinh-mạch máu. Các khoa cấp cứu và những unité de proximité hoạt động theo mạng với một đơn vị thần kinh - mạch máu hay một thầy thuốc thần kinh tham chiếu (neurologue référent), và nhân viên được đào tạo để nhận biết (y tá tiếp đón và định hướng) và xử trí các tai biến mạch máu năo (protocoles điều trị chung, các cuộc họp chung…). Trong tất cả các trường hợp tai biến mạch máu năo dưới 3 giờ, một sự đánh giá tức thời bởi một thầy thuốc chuyên khoa cấp cứu và một thầy thuốc thần kinh phải được thực hiện nhằm điều trị tiêu sợi huyết.

III/ CHẤN ĐOÁN LÂM SÀNG

Một tai biến mạch máu năo được định nghĩa bởi sự xuất hiện đột ngột một thiếu sót thần kinh khu trú (déficit neurologique focal) được hệ thống hóa theo một vùng động mạch, nguồn gốc mạch máu. Các tai biến mạch máu năo là một nhóm không thuần nhất các bệnh, trong đó phải phân biệt những tai biến mạch máu năo thiếu máu cục bộ (AVC ischémique) hay các nhồi máu năo (85% các trường hợp) và những tai biến mạch máu năo xuất huyết (15), lại được chia thành những xuất huyết năo (10%) và màng năo (5%). Những tai biến thiếu máu cục bộ năo (accidents ischémiques cérébraux) tập hợp những nhồi máu năo và những tai biến thiếu máu cục bộ tạm thời (AIT).

Một định nghĩa mới của tai biến thiếu máu cục bộ tạm thời đă được đề nghị bởi HAS như là một đợt ngắn rối loạn chức năng thần kinh (dysfonction neurologique) do một thiếu máu cục bộ khu trú năo hay vơng mạc, trong đó những triệu chứng lâm sàng kéo dài dưới 1 giờ, nhưng không có bằng cớ nhồi máu cấp tính. Trong thực tiễn, khi một bệnh nhân được khám ngay sau một thiếu sót thần kinh nguồn gốc huyết quản và các triệu chứng đă thoái lui, sự xử trí là của một tai biến thiếu máu cục bộ tạm thời, mà các triệu chứng có thể thoái lui nhanh hay không.

Sự đánh giá ban đầu một bệnh nhân có một thiếu sót thần kinh khu trú kéo dài gợi một tai biến mạch máu năo phải trả lời 6 câu hỏi :

1/ Đó có phải là một tai biến mạch máu năo ?

Vấn chẩn bệnh nhân và/hoặc những người chung quanh xác nhận các tiền căn, các yếu tố nguy cơ mạch máu, các điều trị đang được tiến hành, cách xuất hiện thiếu sót thần kinh (đột ngột hay nhanh), sự tiến triển tức thời của nó và những triệu chứng liên kết (nhất là đau đầu). Thăm khám lâm sàng xác nhận những dấu hiệu thiếu sót thần kinh (signes déficitaires) và cường độ của chúng, và đánh giá t́nh trạng tri giác (vigilance). Sự sử dụng một score về thiếu sót thần kinh tiêu chuẩn hóa được khuyến nghị. Được sử dụng nhất là score NIHSS. Những chẩn đoán phân biệt chính là : cơn đau nửa đầu với tiền triệu (migraine với aura), cơn động kinh không hoàn toàn với thiếu sót thần kinh sau cơn vật (déficit post-critique), cơn mất trí nhớ thoáng qua (ictus amnésique), giảm đường huyết, bệnh Ménière và những bệnh tiền đ́nh (vestibulopathie) khác, u năo, xơ cứng rải rác, cơn hoảng sợ, conversion hystérique. Chụp h́nh ảnh là công cụ chẩn đoán xác định duy nhất của tai biến mạch máu năo.

2/ Có một bệnh cấp tính và nghiêm trọng liên kết không ?

Thăm khám tổng quát bệnh nhân t́m kiếm những lư lẽ cho một bệnh lư kết hợp cần xử trí cấp cứu (nhồi máu cơ tim, suy tim, détresse respiratoire)

3/ Tính chất của tai biến mạch máu năo ?

Mặc dầu đau đầu và những rối loạn tri giác thường được liên kết với những trường hợp xuất huyết năo, nhưng không có một tiêu chuẩn lâm sàng chính thức nào cho phép phân biệt một tai biến thiếu máu cục bộ với một tai biến xuất huyết năo. Chỉ có chụp h́nh ảnh mới có thể trả lời cho câu hỏi này.

4/ Vị trí của tai biến mạch máu năo ?

Sự tập hợp những dấu hiệu thăm khám cho phép xác định tai biến liên hệ đến tuần hoàn cảnh hay đốt sống-nền và có thể nhận diện những hội chứng đặc hiệu (nhánh sylvius nông, sâu hay toàn bộ ; năo trước ; năo sau…).Vài hội chứng quan trọng cần nhận biết bởi v́ có một nguy cơ sinh tồn (syndrome sylvien total, syndrome basilaire, nhồi máu tiểu năo). Chúng phải được theo dơi một cách chăm chú và nếu cần phải được điều trị một cách thích ứng. Vị trí của tai biến mạch máu năo sẽ được xác nhận bằng chụp h́nh ảnh.

5/ Cơ chế của tai biến mạch máu năo ?

Những tai biến thiếu máu cục bộ tùy theo cơ chế được chia thành xơ vữa huyết khối (athérothrombotique) (30% các trường hợp), tim• nghẽn mạch (cardio-embolique) (20%), ổ khuyết (lacunaire (20%), những nguyên nhân hiếm (loại tách thành động mạch cổ, 5%) và những nguyên nhân không được xác định khác (25%). Những dữ kiện của vấn chẩn, của thăm khám thần kinh và tổng quát (bao gồm nhịp tim, thính chẩn tim và mạch máu, ấn chẩn các mạch ngoại biên) có thể mang lại những lư lẽ cho các cơ chế, nhưng chỉ có những thăm ḍ phụ sẽ cho phép xếp loại một cách khẳng định tai biến mạch máu năo. Cũng vậy trong những tai biến xuất huyết (do cao huyết áp, vỡ dị dạng huyết quản, angiopathie amyloide, quá liều AVK…)

6/ Tiên lượng của tai biến mạch máu năo ?

Ngoài những bệnh nhân có tức thời những rối loạn tri giác, khó tiên đoán tương lai của bệnh nhân nếu không chụp h́nh ảnh (và đặc biệt là chụp cộng hưởng từ), do đó giá trị của một đánh giá thần kinh khởi đầu chính xác, định lượng và được lập lại.

IV/ CHỤP H̀NH ẢNH CẤP CỨU

Đứng trước sự xuất hiện của một tai biến mạch máu năo, hai thăm ḍ chụp h́nh ảnh năo được chủ trương cấp cứu là chụp cắt lớp vi tính năo không tiêm chất cản quang và chụp cộng hưởng từ hạt nhân. Một trong hai thăm ḍ này phải được thực hiện không chậm trễ sau khi một tai biến mạch máu năo xuất hiện.

Chụp cắt lớp vi tính năo không tiêm chất cản quang hiện nay là thăm ḍ đầu tiên trong đánh giá cấp cứu một tai biến mạch máu năo. Nó cho phép phân biệt dứt điểm giữa tai biến thiếu máu cục bộ (accident ischémique) và tai biến xuất huyết (accident hémorragique) và cũng có thể loại trừ những bệnh năo không phải do huyết quản.

Trong xuất huyết năo (hémorragie intracérébrale), một tăng mật độ (hyperdensité) tự nhiên được nh́n thấy rất sớm.

Trong những tai biến thiếu máu cục bộ, chụp cắt lớp vi tính có thể không cho thấy những thương tổn thiếu máu cục bộ (lésions ischémiques) trong những giờ đầu, giảm mật độ (hypodensité) chứng tỏ nhồi máu chỉ xuất hiện sau đó. Những dấu hiệu sớm của thiếu máu cục bộ gồm có sự giảm mật độ (atténuation de densité) và dấu hiệu choàng chỗ (effet de masse), sự hiện diện tăng mật độ tự nhiên của một động mạch năo (tắc do một cục huyết khối mới (thrombus frais) nhưng không luôn luôn có và khó giải thích. Sự tiêm chất cản quang (angioscanner) đôi khi được sử dụng bổ sung để thấy được sự phân bố mạch (vascularisation) ngoài và trong sọ (t́m kiếm hẹp và tắc) và bổ sung với chụp h́nh ảnh tưới máu năo (imagerie de perfusion cérébrale).

Sự tiếp cận chụp cộng hưởng từ (IRM) cấp cứu ở Pháp chỉ có thể trong vài trung tâm. Vả lại, thăm ḍ này buộc bệnh nhân phải cộng tác, không phải luôn luôn như thế ở giai đoạn cấp tính của một tai biến mạch máu năo. Tuy nhiên tất cả các công tŕnh nghiên cứu có khuynh hướng chứng minh mức độ nhạy cảm cao nhất của chụp cộng hưởng từ để thấy thương tổn (séquence de diffusion), một sự ăn khớp tốt hơn giữa người quan sát để đánh giá thương tổn và mức độ lan rộng của nó (lợi ích về tiên lượng), và để phân biệt những thương tổn cấp tính với những thương tổn di chứng (lésions séquellaires). Séquence d’écho de gradient cho phép thấy một xuất huyết năo. Sự phối hợp séquence de diffusion và séquence de perfusion cho phép xác định vị trí mô bị giảm tưới máu (tissu hypoperfusé) nhưng c̣n sống được, đe dọa bị hoại tử nếu không được tái tưới máu (reperfusion). Sau cùng những séquences d’angio-IRM có hay không tiêm chất cản quang, cho phép thấy sự phân bố mạch trong năo và cổ, và do đó phát hiện những trường hợp hẹp và tắc động mạch.

V/ NHỮNG THĂM D̉ KHÁC

Những thăm ḍ khác cần được thực hiện trong bối cảnh cấp cứu là một điện tâm đồ và một bilan biologique (NFS-plaquettes, INR-TCA, điện giải đồ, đường huyết, urê và creatinin).

Những thăm ḍ siêu âm phải được thực hiện một cách nhanh chóng, lư tưởng là trong một thời hạn 48 giờ. Siêu âm cổ và qua sọ cho phép nhận diện những bệnh lư hẹp-tắc (pathologies sténo-occlusives) vùng cổ và cũng có thể hữu ích để theo dơi tiêu sợi huyết (thrombolyse) ngẫu nhiên hay dùng thuốc. Siêu âm tim qua ngực và đôi khi qua thực quản được chỉ định đặc biệt khi một bệnh lư tim-nghẽn mạch (pathologie cardio-embolique) được nghi ngờ.

VI/ NHỮNG BIỆN PHÁP ĐIỀU TRỊ

1/ Theo dơi thần kinh và các tham số sinh tử.

a/ Theo dơi thần kinh.

T́nh trạng tri giác (état de vigilance) và t́nh trạng thần kinh phải được ghi nhận càng sớm càng tốt và được theo dơi một cách đều đặn cho đến khi t́nh trạng thần kinh ổn định. Khuyến nghị sử dụng những thang điểm (échelle) được tiêu chuẩn hóa, loại thang điểm hay Glasgow đối với t́nh trạng tri giác (vigilance), thang điểm NIHSS đối với thiếu sót thần kinh (déficit).

b/ Theo dơi những tham số sinh tử.

Huyết áp, chức năng hô hấp, nhiệt độ thân thể phải được theo dơi một cách đều đặn. Một sự theo dơi liên tục bằng cardioscope trong 48 gió đầu cho phép phát hiện một loạn nhịp tim kịch phát hay một bệnh lư tim liên kết.

2/ Điều trị những biến chứng chung.

a/ Huyết áp

Huyết áp thường tăng cao ở giai đoạn cấp tính của một tai biến mạch máu năo và sự tăng cao này phải được tôn trọng cho đến một ngưỡng 220/120 mmHg trong trường hợp nhồi máu và 185/110 trong xuất huyết năo, hay trong trường hợp những bệnh lư liên kết (tách thành động mạch chủ, bệnh năo cao huyết áp, suy tim mất bù). Nếu cần phải điều trị, đường tĩnh mạch được ưa thích hơn, sử dụng ưu tiên nicardipine (Rydène), urapidil (Eupressyl) hay labétalol (Trandate). Sự giảm huyết áp phải được thực hiện dần dần.

b/ Những rối loạn hô hấp

Sự khai thông đường hô hấp trên phải được đảm bảo. Ứ tiết phế quản (encombrement bronchique) và bệnh phổi do hít dịch (pneumopathie d’inhalation) phải được ngăn ngừa. Không cho oxy một cách hệ thống.

c/ Tăng thân nhiệt

Khuyên điều trị tăng thân nhiệt bằng thuốc hạ nhiệt (paracétamol) khi nhiệt độ trên 38 độ C. Phải t́m kiếm nguyên nhân của tăng thân nhiệt.

d/ Rối loạn nuốt

Các rối loạn nuốt được t́m kiếm trước khi cho ăn bằng đường miệng. Nếu có rối loạn, ngừng cho ăn bằng đường miệng và cho ăn bằng ống thông mũi-dạ dày.

e/ Các rối loạn điện giải, tăng đường huyết.

Các cân bằng nước-điện giải phải được theo dơi và các bất thường phải được điều chỉnh. Nếu cần tiêm truyền bằng đường tĩnh mạch, dung dịch sinh lư phải được ưu tiên. Nếu đường huyết trên 10 mmol/L, có thể điều trị bằng insuline.

f/ Pḥng ngừa bệnh huyết khối nghẽn tĩnh mạch

Sự pḥng ngừa dựa trên cho dậy sớm (lever précoce), trừ trong trường hợp t́nh trạng huyết động năo không ổn định (trầm trọng ở tư thế đứng, các dữ kiện của chụp h́nh ảnh và/hoặc của Doppler qua sọ), mobilisation và contention précoce và cho héparine có trọng lượng phân tử thấp (HBPM) liều pḥng ngừa trong trường hợp bất động hay liệt ở một chi dưới. Héparine có trọng lượng phân tử thấp có thể được bắt đầu sớm trong các nhồi máu năo, và sẽ được tŕ hoăn từ 24 đến 48 giờ trong các tai biến xuất huyết.

3/ Điều trị những biến chứng thần kinh của tai biến mạch máu năo

a/ Phù năo

Các thuốc làm tăng nồng độ osmole (agent hyperosmolaire) (mannitol) được đề nghị nhưng không có bằng cớ về tính hiệu quả chính thức. Phẫu thuật giảm áp (chirurgie de décompression) đôi khi được đề nghị.

b/ Cơn động kinh

Không có vấn đề phải điều trị pḥng ngừa sự xuất hiện các cơn (được báo cáo trong 20 đến 30% các tai biến mạch máu năo ở giai đoạn cấp tính của tai biến mạch máu năo). Các cơn xảy ra trong 2/3 các trường hợp và không biện minh một cách hệ thống một điều trị chống động kinh lâu dài.

4/ Những đặc điểm của điều trị các tai biến thiếu máu cục bộ năo

a/ Điều trị tiêu sợi huyết (fibrinolyse).

Điều trị tiêu sợi huyết với rt-PA (altéplase) bằng đường tĩnh mạch đă chứng tỏ tính hiệu quả của nó trong nhồi máu năo dưới 3 giờ, với liều 0,9mg/kg (liều tối đa 90mg, 10% tiêm trực tiếp tĩnh mạch, 90% tiêm truyền trong một giờ). Điều trị này làm giảm 42% nguy cơ tử vong và t́nh trạng phụ thuộc, nhưng không ảnh hưởng lên tỷ lệ tử vong. Lợi ích càng rơ rệt khi điều trị càng được tiến hành sớm.

Một công tŕnh nghiên cứu đang được tiến hành để so sánh lợi ích của rt-PA giữa 3 giờ và 4 giờ 30 (ECASS3). Có nhiều chống chỉ định và phải được loại bỏ trước khi điều trị. Một điều trị chống huyết khối (traitement antithrombotique) bị chống chỉ định trong 24 giờ sau điều trị tiêu sợi huyết, nhưng việc sử dụng aspirine trước đây không bị chống chỉ định. Biến chứng chính là xuất huyết năo, xảy ra trong 4 đến 5% các trường hợp, tiên lượng xấu.

Điều trị phải được thực hiện bởi một thầy thuốc được đào tạo và có kinh nghiệm trong thần kinh học (thầy thuốc chuyên khoa thần kinh hay thầy thuốc có văn bằng DIU de pathologies neurovasculaires). Đơn vị thần kinh-mạch máu là khung lư tưởng để cho rt-PA, để theo dơi chuyên môn sớm và để xử trí những biến chứng. Trong những cơ sở không có đơn vị thần kinh-mạch máu, điều trị phải được thực hiện và theo dơi ở đơn vị điều trị tăng cường (ICU) (với đào tạo nhân viên, những protocole các thủ thuật). Trong tất cả những cơ sở có thể thực hiện một điều trị tiêu sợi huyết, sự tiếp đón bệnh nhân phải được hoạch định một cách chính xác, đồng thời có xét đến những g̣ bó riêng đối với mỗi cơ sở, và những thủ thuật phải được viết dưới dạng protocole.

Theo yêu cầu của cơ quan dược phẩm châu Âu, sự cho phép sử dụng rt-PA trong 3 giờ đ̣i hỏi quản lư một số ghi các bệnh nhân được điều trị tiêu sợi huyết. Các kết quả được thực hiện trên 6483 bệnh nhân cho thấy rằng sự sử dụng rt-PA mang lại những kết quả có thể so sánh với những kết quả đuoc so sánh trong những công tŕnh nghiên cứu được kiểm tra. , về mặt lợi ích, tỷ lệ tử vong và những biến chứng xuất huyết, xác nhận tính hiệu quả và mức độ dung nap của nó. Ở Pháp, 1.080 điều trị tiêu sợi huyết được thực hiện năm 2005 (hoặc dưới 1% của toàn thể các tai biến mạch máu năo).

b/ Thuốc chống huyết khối (antithrombotique)

Điều trị chống huyết khối ở giai đoạn cấp tính dựa vào aspirine bằng đường miệng hay tĩnh mạch với liều 160 đến 300mg/ngày, bắt đầu cho càng sớm càng tốt, trừ phi một điều trị tiêu sợi huyết được dự kiến. Các thuốc kháng đông loại héparine liều điều trị (héparine à dose curative) đă không chứng tỏ tính hiệu quả.

Sự sủ dụng héparine được nhất trí trong những trường hợp sau đây :
• những bệnh tim có nguy cơ cao gây nghẽn mạch

• hẹp động mạch nặng

• sự hiện diện của một cục huyết khối trong ḷng động mạch.

• tách thành động mạch ngoài sọ.


Lợi ích tiềm tàng phải được cân bằng nguy cơ xuất huyết, đặc biệt cao trong trường hợp nhồi máu lan rộng, những dấu hiệu sớm của thiếu máu cục bộ trên chụp cắt lớp vi tính hay cao huyết áp không kiểm soát được. Trong một phân tich méta 7 công tŕnh nghiên cứu, so sánh điều trị kháng đông sớm (anticoagulation précoce) với những điều trị khác (aspirine, placebo) trong các nhồi máu nguồn gốc tim-nghẽn mạch (d’origine cardio-embolique), điều trị kháng đông không làm giảm một cách đáng kể nguy cơ tái phát sớm và không cải thiện tiên lượng, nhưng nó làm gia tăng nguy cơ xuất huyết nội sọ. Trong t́nh huống này, aspirine phải được ưu tiên ngay khi một thiếu sót thần kinh kéo dài.

c/ Điều trị ngọai thần kinh

Những nhồi máu phù nề của tiểu năo có thể có biến chứng tràn dịch năo cấp tính (hydrocéphalie aigue) (thiếu sót thần kinh trở nặng, đau đầu, rối loạn tri giác). Chúng cần được theo dơi sát để dẫn lưu ngoài năo thất (dérivation ventriculaire externe), thậm chí cắt bỏ vùng bị hoại tử (sau khi loại bỏ bằng chụp h́nh ảnh một sự lan rộng của thiếu máu cục bộ đến thân năo).

Bán mở hộp sọ giảm áp (hémicraniectomie décompressive) được thực hiện sớm (trong 24 giờ) đă chứng tỏ hiệu quả của nó trong những nhồi máu nhánh sylvius ác tính (infarctus sylvien malin) xảy ra ở những người dưới 55 tuổi : gia tăng 22% số người sống sót với phế tật nhẹ hay trung b́nh lúc 1 năm. Những chỉ định phải được bàn bạc tùy theo từng trường hợp.

d/ Điều trị nội huyết quản (traitement endovasculaire)

Điều trị nội huyết quản với hay không điều trị tan huyết khối trong động mạch (thrombolyse intra-artérielle) không được thực hiện một cách thông thường. Những điều trị này được xét đến trong những bệnh cảnh tắc động mạch nền (artère basilaire) (những triệu chứng hố sau trầm trọng dần trong những giờ đầu).

5/ Những đặc điểm của điều trị xuất huyết trong sọ

Một điều trị ngoại thần kinh ở giai đoạn cấp tính của một xuất huyết năo được xét đến trong :
• những khối máu tụ của tiểu năo (hématome du cervelet) hơn 3 cm với tràn dịch năo (hydrocéphalie), những rối loạn tri giác hay đè ép tiến triển của thân năo.

• những khối máu tụ thùy (hématome lobaire) với sự trở nặng lâm sàng, nếu không có chống chỉ định do t́nh trạng toàn thân.


Không có chỉ định ngoại khoa trong những máu tụ có kích thước nhỏ, với một thiếu sót thần kinh nhẹ, hay trong những khối máu tụ bán cầu năo (hématome hémisphérique) với một điểm số Glasgow < 5. Trong những trường hợp khác, thái độ tốt nhất vẫn không rơ ràng. Yếu tố VII activé recombinant đă không chứng tỏ tính hiệu quả. Trong những tai biến xuất huyết trong sọ xảy ra khi điều trị với AVK, điều trị phải tích cực với vitamine K và PPSB (Kaskadil) để làm đảo ngược tác dụng kháng đông.

6/ Phục hồi chức năng sớm

Kiné liệu pháp phải được bắt đầu càng sớm càng tốt, bằng một sự đặt tư thế (positionnement) trên giường, một sự vận động thụ động (mobilisation passive) và bắt đầu phục hồi chức năng đặc hiệu của thiếu sót thần kinh. Sự phục hồi chỉnh âm (rééducation orthophonique) cũng phải được bắt đầu càng sớm càng tốt.

VII/ NHỮNG CHỈ ĐỊNH ĐIỀU TRỊ Ở PH̉NG HỒI SỨC

Hiếm khi có những chỉ định chuyển pḥng hồi sức :
• điều trị những bệnh xảy ra đồng thời nặng và có thể chữa khỏi ở những bệnh nhân với một tiên lượng cơ năng tốt.

• tăng áp lực nội sọ nếu một động tác ngoại khoa có thể xét đến.

• những t́nh huống không ổn định hay có thể đảo ngược như huyết khối tĩnh mạch năo, trạng thái động kinh.

florida80
04-05-2019, 18:03
NẾU TÔI BỊ MỘT TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO CẤP TÍNH NĂM 2012
(SI J’AVAIS UN AVC AIGU EN 2012)

Marie Hervieu-Begue
Unité de Soins intensifs Neuro-Vasculaires
CHU Dijon


Tai biến mạch máu năo (AVC), trong đó nhồi máu năo (infarctus cérébral) (90% các trường hợp tai biến mạch máu năo) là một vấn đề y tế công cộng quan trọng, nguồn gốc của nguyên nhân đầu tiên gây phế tật vận động (handicap moteur), nguyên nhân thứ hai gây phế tật nhận thức (handicap cognitif) và nguyên nhân thứ ba gây tử vong. Ngược lại, ta có thể cải thiện, thậm chí chữa lành, bởi v́ trong ṿng 10 năm, ta đă chứng kiến một cuộc cách mạng điều trị thật sự với sự chứng minh tính hiệu quả, một mặt, của điều trị tiêu sợi huyết (fibrinolyse) bằng rt-PA trong những trường hợp nhồi máu năo và mặt khác, tính hiệu quả của filière pluridisciplinaire trong và ngoài bệnh viện, dẫn đến một cơ cấu điều trị tăng cường (structure de soins intensifs) được gọi là Đơn vị điều trị tăng cường mạch máu thần kinh (USINV : Unité de Soins Intensifs Neuro-Vasculaires )

Với tŕnh độ chuyên môn, tính chính xác và những cảm xúc, kíp y khoa và bán y khoa của Đơn vị mạch máu thần kinh của Trung tâm bệnh viên đại học Dijon lén vào bên trong một người bị một tai biến mạch máu năo. Như thế có thể khám phá lại tính thích đáng của chuỗi xích điều trị nhiều chuyên khoa, từ sự xử trí cấp cứu cho đến sự pḥng ngừa thứ cấp, trong đó bệnh nhân trở nên diễn viên của sự quản lư thời gian ngang hàng với người thầy thuốc.

I. GIAI ĐOẠN TIỀN BỆNH VIỆN : CẢNH GIÁC, KHẢ NĂNG PHẢN ỨNG VÀ CHẠY ĐUA VỚI THỜI GIAN

Nếu tôi bị một tai biến mạch máu năo, tôi mong ước rằng vùng nơi tôi ở đă thiết lập một filière lisible và opérationnelle dành cho tai biến mạch máu năo để hưởng tối đa sự tiêu chuẩn hóa điều trị trong vùng của tôi.

Tôi hy vọng rằng những người thân cận của tôi sẽ được nhạy cảm hóa với những triệu chứng sớm, được tóm tắt trong chữ FAST (Face : mặt, Arm : cánh tay, Speech : lời nói, Time : thời gian), và gọi càng sớm càng tốt 15.

Tôi mong ước rằng người trực SAMU nắm được tính chất cấp cứu của appel, chuyển tiếng gọi này cho thầy thuốc điều ḥa (médecin régulateur) và rằng người thầy thuốc này hiểu được những dấu hiệu gọi (signes d'appel) gợi một tai biến mạch máu năo, mà những người thân cận của tôi sẽ cho biết (thiếu sót vận động hay cảm giác của mặt hay của một chi, rối loạn thị giác, ngôn ngữ, cân bằng và những triệu chứng đau đầu bất thường), và yêu cầu chuyển càng nhanh càng tốt bằng phương tiện hiện có. Nếu tôi bị một détresse vitale, một transfert médicalisé sẽ đảm bảo cho tôi một liệu pháp oxy, một sự theo dơi mức độ tri giác và thiếu sót thần kinh, huyết áp và nhịp tim.

II. GIAI ĐOẠN BỆNH VIỆN : CHUYỂN ĐÚNG CHỖ VÀ ĐÚNG LÚC

Sự chuyển tôi ở tư thế nằm hẳn sẽ cho phép tôi một sự tiếp cận tức thời hướng về một Đơn vị điều trị tăng cường mạch máu thần kinh (USINV) mà tính hiệu quả trong đời sống thật phù hợp với những công tŕnh nghiên cứu của thế kỷ trước, với một sự giảm 20% tỷ lệ tử vong và phế tật.

Ngay khi đến bệnh viện, tôi mong ước được đảm nhận bởi một y tá mà sự tiếp đón và năng lực khiến tôi và gia đ́nh vững ḷng và an tâm, bởi một thầy thuốc chuyên khoa thần kinh, một thầy thuốc chuyên khoa cấp cứu hay với thầy thuốc mang văn bằng Diplôme inter-Universitaire Neuro-Vasculaire. Vị thầy thuốc chuyên khoa này sẽ loại bỏ chẩn đoán ngộ độc oxyde de carbone và hạ đường huyết và sẽ biết cho những chỉ định và chống chỉ định của điều trị tiêu sợi huyết (fibrinolyse) sau khi được tiếp cận ưu tiên một chụp h́nh ảnh năo.

Thật vậy, thăm khám đầu tiên phải được thực hiện là một chụp h́nh ảnh bằng cộng hưởng từ năo (IRM cérébrale), thăm ḍ duy nhất có khả năng xác nhận cơ chế xuất huyết hay thiếu máu cục bộ của tai biến mạch máu năo, và xác định mục tiêu của điều trị tiêu sợi huyết, nghĩa là zone de pénombre, có thể được tái sinh (revitalisé) nhờ khai thông động mạch, có khả năng xác định lúc xảy ra nhồi máu (có thể thấy rơ en diffusion ngay những phút đầu và en Flair sau 6 giờ) và có khả năng định vị động mạch bị tắc (H́nh 1).

UserPostedImage

Chụp cộng hưởng từ cũng cho phép khám phá hai thực thể vừa mới xảy ra : nhồi máu năo (infarctus cérébral) có thể thấy được en diffusion khi có một thiếu sót thần kinh tạm thời (déficit transitoire), và xuất huyết màng năo khu trú (hémorragie méningée focale) (H́nh 2), có thể giống với một cơn thiếu máu năo thoáng qua (AIT) nhưng không có triệu chứng đau đầu. Như thế, ta thấy vị trí chiến lược của chụp cộng hưởng từ trước mọi thiếu sót năo khu trú tạm thời hay thường trực nhằm chẩn đoán chính xác và đề nghị một điều trị thích hợp.

UserPostedImage

III. ĐIỀU TRỊ Ở GIAI ĐOẠN CẤP TÍNH : CÀNG SỚM CÀNG TỐT :

Nhưng thời gian quay và, nếu đó là một nhồi máu năo xảy ra dưới 4 giờ 30, thầy thuốc chuyên khoa thần kinh trực hẳn sẽ thực hiện một điều trị tiêu sợi huyết (fibrinolyse) bằng rt-PA (recombinant tissue plasminogen activator, activateur tissulaire du plasminogène recombinant), nhất là công tŕnh nghiên cứu SITS-MOST đă xác nhận tính hiệu quả và an toàn của điều trị tiêu sợi huyết bằng rt-PA. Tôi sẽ chấp nhận một điều trị tiêu sợi huyết sau 4h30, nếu có thể bằng đường động mạch, với điều kiện IRM de perfusion-diffusion cho thấy một mismatch lan rộng.

Nếu tôi hơn 80 tuổi, sự thực hiện fibrinolyse sẽ được thực hiện trong 3 giờ đầu để tránh nguy cơ xuất huyết năo.

Tôi trông mong vào các năng lực của các y tá và các thầy thuốc của USINV để phát hiện biến chứng đáng sợ của một nhồi máu trước đây được xem là gây tử vong, infarctus malin. Đối với nhồi máu ác tính này, một volet de décompression được thực hiện sớm cải thiện một cách đáng kể tiên lượng sinh tồn, như đă được chứng minh bởi công tŕnh nghiên cứu DECIMAL.

Ngoài điều trị tiêu sợi huyết tĩnh mach điều trị chữa lành duy nhất được chuẩn nhận, những yếu tố làm gia trọng sẽ phải được chống lại.

Lúc nhập viện, huyết áp có lẽ sẽ tăng cao do thương tổn năo bộ. Ngoài fibrinolyse, huyết áp tăng cao này sẽ phải được duy tŕ cho đến những trị số rất cao (240/100 mmHg nhất là nếu trước đây tôi bị cao huyết áp), bởi v́ tiên lượng cơ năng tốt hơn, trong khi hạ đột ngột huyết áp ở một bệnh nhân trước đây cao huyết áp làm gia trọng thiếu sót thần kinh qua trung gian của một sự lan rộng pénombre. Để tránh sụt huyết áp, không nên lập lại những thuốc chống cao áp mà tôi có thể dùng trước tai biến mạch máu năo, và nếu huyết áp phải được tăng cường, các ta có thể thiết đặt một tiêm truyền các dung dịch colloides, có thể được liên kết với các thuốc co mạch. Nếu đường huyết của tôi trên 1,5 g/l, nguy cơ tiên lượng xấu sẽ được nhân lên 2 lần bởi v́ sự gia tăng của lactates. Pḥng ngừa tăng đường huyết biện minh v́ sao không c̣n truyền sérum glucosé nữa, nhưng huyết thanh sinh lư có ưu điểm làm tăng cao huyet áp. Công tŕnh nghien cứu GIST đă không cho thấy lợi ích của insuline liệu pháp lên tiên lượng chức năng, những protocole được sử dụng không tránh khỏi bị tranh căi.

Sự duy tŕ một saturométrie pulsée en oxygène normale avec một oxy liệu pháp nếu cần, sẽ bảo vệ zone de pénombre, trong khi tôi doi hỏi đo nhiệt độ của tôi 3 lần môi ngày và sẽ được điều trị nêu trên 38 độ C. Nếu một nhiễm trùng đường tiểu hay phối xuất hiện, sẽ cần một liệu pháp kháng sinh.

Tôi chú tâm vào tư thế của thân ḿnh, như thế làm dễ sự thông khí phổi với điều kiện huyết áp trung b́nh đúng đắn, và để tránh fausses routes alimentaires, mà các y tá sẽ ngăn ngừa bằng cách kiểm tra sự hiện diện của sự nâng cao tự động và phản xạ của màng hầu (voile du palais)

Tôi phải được cho ăn và cấp nước trở lại bằng đường miệng ngay những giờ đầu nếu phản xạ nuốt b́nh thường.

Thông tiểu sẽ chỉ được đề nghị với tôi nếu có một cầu bàng quang, đồng thời tránh thông tiểu liên tiếp, những nguồn gốc của những nhiễm trùng đường tiểu.

Tôi sẽ bày tỏ mối lo ngại của tôi đối với nguy cơ viêm tĩnh mạch surale và nghẽn tắc động mạch phổi bằng cách cho thấy nhiều giăn tĩnh mạch (varices) của tôi. Sự đặt bas de contention và sự kê đơn một héparine có trọng lượng phân tử thấp liên kết với aspirine sẽ tránh xa nguy cơ này.

Nếu một sự trầm trọng của các thang điểm Glasgow và NIH được chứng thực bởi các đồng nghiệp của tôi, bắt buộc phải t́m một nguyên nhân với một sự t́m kiếm một hạ huyết áp hay một sự tăng cao đường huyết trên 1,5g/l rồi một scanner sẽ được thực hiện để loại bỏ một xuất huyết năo sau điều trị tiêu sợi huyết.

IV. PHỤC HỒI CHỨC NĂNG ĐỂ LÀM DỄ SỰ HỘI NHẬP XĂ HỘI

Sự xử trí cấp cứu trong đơn vị mạch máu thần kinh (UNV) bởi một rééducateur, một thầy thuốc vật lư trị liệu (kinésithérapeute) rồi ở Neuro-Réducation lúc ra khỏi khoa thần kinh, tiếp theo với một điều trị tại nhà bởi một thầy thuốc vật lư trị liệu, nếu cần bởi một orthophoniste, sẽ tạo điều kiện cho tôi sự tái hội nhập xă hội-nghề nghiệp (réintégration socio-professionnelle).

Ngoài bilan sinh học thông thường, việc t́m kiếm một hội chứng viêm, một giảm kali-huyết nguồn gốc của loạn nhịp tim, một suy tim, một thrombophilie, một tăng kali-huyết, một hypertriglycéridémie sẽ được thực hiện. Tôi chờ doi những kết quả của Doppler cổ và nội sọ (Doppler cervical et intracranien) để t́m kiếm một tách thành (dissection) (bởi v́ tôi c̣n trẻ) có thể thấy được sớm, nhưng rất phù du, hay một hẹp xơ vữa (sténose athéromateuse) ở góc của động mạch cảnh trong trên (artère carotide interne supérieure) 70%

Tôi cũng chờ đợi một cách nôn nóng siêu âm qua thực quản (échographie transoesophagienne) mặc dầu gây khó chịu, để loại bỏ một foramen ovale perméable với anévrysme du septum interauriculaire, nguyên nhân mới được nhận diện của infarctus cérébral cardio-emboliques ở những bệnh nhân ở mọi lứa tuổi.

Sau bilan này, tôi sẽ chờ các kết quả tất cả những thăm ḍ này để biết nguyên nhân của nhồi máu năo mà tôi là nạn nhân là ǵ, theo xếp loai TOAST :
• Nhồi máu do xơ vữa các động mạch lớn

• Nhồi máu do lipohyalinose các mạch máu xuyên nhỏ (petits vaisseaux perforants).

• Infarctus cardio-emboliques;

• Nhồi máu do những nguyên nhân khác (tách thành, polyglobulie), nhồi máu không được xác định hay cryptogénique.


Chẩn đoán nguyên nhân này sẽ đảm bảo cho tôi một chiến lược trong giai đoạn cấp tính và pḥng ngừa thứ phát cohérente và có hiệu quả.

V. SỰ PH̉NG NGỪA THỨ PHÁT : MỘT TRONG NHỮNG TIẾN BỘ Y KHOA NHỮNG NĂM QUA.

Để tránh một tái phát, nguồn gốc của phế tật vận động và nhất là nhận thức, tôi mong muốn được kê đơn 3 lớp điều trị (classe thérapeutique) :
• Một thuốc chống ngưng kết (antiagrégant) sẽ là lựa chọn đầu tiên của tôi, đặc biệt Aspégic 250 mg/ngày để có một tác dụng đồng thời chống ngưng kết và kháng viêm. Những dữ kiện của y liệu mang lại cho tôi vài do dự bởi v́ đúng là liên kết aspirine-dipyridamole có hiệu quả hơn và với những liều nhỏ aspirine, nhưng tần số lớn các triệu chứng đau đầu làm tôi có thái độ ngập ngừng với những tiền sử bệnh migraine của tôi, cũng như sự cần thiết dùng liên kết này 2 lần mỗi ngày thay v́ một lần đối với aspirine đơn độc. Tôi vẫn được thuyết phục bởi tính hiệu quả và sự dung nạp tốt của Clopidogrel.

• Công tŕnh nghiên cứu PROGRESS đă biến đổi sâu sắc thái độ xử trí của các thầy thuốc thần kinh trong chiến lược pḥng ngừa bằng cách cho thấy rằng không có tác dụng ngưỡng (effet seuil) trên huyết áp và rằng sự sử dụng một inhibiteur de l'enzyme de conversion và một thuốc lợi tiểu làm giảm nguy cơ tái phát một nhồi máu năo, nhưng cũng một xuất huyết năo, những lợi ích cũng hiện diện ngay cả ở những người không bị cao huyết áp. Vậy tôi có khuynh hướng sử dụng một inhibiteur de l'enzyme de conversion với liều thấp mặc dầu HA của tôi dưới 140/85 mmHg.

• Tôi sẽ không do dự sử dụng một statine từ khi công tŕnh nghiên cứu SPARCL đă chứng minh rằng một statine sẽ làm giảm nguy cơ những tái phát của một tai biến mạch máu năo (AVC) hay của một cơn thiếu máu năo thoáng qua (AIT), dầu cho mức LDL-cholestérol là ǵ, với một mục tiêu 1g/L. Nỗi ám ảnh về những triệu chứng đau cơ khi sử dụng thuốc này khiến tôi bắt đầu statine với liều thấp. Lựa chọn này được hợp thức hóa bởi công tŕnh nghiên cứu mới đây nhất EXPRESS, đă cho thấy tính hiệu quả của 3 phối hợp aspirine, thuốc chống cao áp và statine trong pḥng ngừa thứ cấp cơn thiếu máu năo thoáng qua.

• Nếu một hẹp động mạch cảnh trên 70% được t́m thấy, nguyên nhân của nhồi máu năo hay cơn thiếu máu năo thoáng qua của tôi, tôi sẽ chọn phẫu thuật cắt bỏ nội mạc động mạch (endartériectomie) không do dự, nhất là từ khi công tŕnh nghiên cứu EVA 35 đă cho thấy tính ưu việt của kỹ thuật này so với stent, và tôi sẽ năn nỉ thầy thuốc ngoại mạch máu để được mổ trong tuần thứ hai, bởi v́ di chứng tốt hơn.

• Nếu thầy thuốc chuyên khoa thần kinh phát hiện một loạn nhịp tim do rung nhĩ, tôi sẽ thận trọng dùng một antivitamine K mỗi ngày với định lượng hàng tháng INR. INR = 2 phải là mục tiêu cần đạt được từ khi có những công tŕnh nghiên cứu đáng chú ư 1993, trong lúc chờ đợi sự đánh giá của những thuốc kháng đông mới.

• Nếu thầy thuốc chuyên khoa tim khám phá lúc làm siêu âm qua thực quản một FOP (Foramen Ovale Perméable) với ph́nh vách liên nhĩ (anévrysme du septum interauriculaire), tôi sẽ chấp nhận tham dự vào trong thử nghiệm điều trị CLOSE. Công tŕnh thử nghiệm này sẽ đánh giá ba vế điều trị : điều trị chống ngưng kết tiểu cầu, điều trị chống đông riêng rẻ và đặt một chiếc dù (ombrelle).

• Sau cùng, một khi về đến nhà, tôi mong được theo dơi trong réseau de Soins de Ville-Hôpital dành cho tai biến mạch máu năo và tôi sẽ pḥng ngừa sự tạo thành một xơ vữa trên 3 khu vực bằng cách ăn 5 trái cây và rau xanh mỗi ngày, bằng cách thực hiện mỗi tuần 3 buổi bước nhanh với thời gian 30 phút và bằng cách giữ tâm trạng vui vẻ và tinh thần lạc quan mỗi ngày.


Nguyên tắc thận trọng này của Pháp cũng được hợp thức hóa trên b́nh diện châu Âu.

VI. NHỮNG TRIỄN VỌNG

Sự ủy thác công tác điều trị tiêu sợi huyết bởi thầy thuốc trực chuyên khoa thần kinh cho các thầy thuốc chuyên khoa cấp cứu, qua Télémédecine, hẳn sẽ làm gia tăng số những bệnh nhân có thể điều trị tiêu sợi huyết.

VII. KẾT LUẬN

Tai biến mạch máu năo đă trở thành một bệnh lư cấu trúc (une pathologie structurante), bởi v́ sự xử trí bệnh nhân là một cuộc chạy đua thật sự trong một filière pluridisciplinaire. Filière này có mục tiêu cho phép một số lượng tối đa các bệnh nhân được tiếp cận điều trị tiêu sợi huyết và một Đơn vị điều trị tăng cường mạch máu thần kinh (USINV), mà những kết quả rất thuận lợi trong những thứ nghiệm lâm sàng lên những tỷ lệ tử vong và tái phát, được kiểm tra trong dân chúng, như Réseau Bourgogne-AVC đă chứng minh. Réseau này đă được giải nhất về Những chiến thắng của y khoa năm 2010.

BS NGUYỄN VĂN THỊNH

florida80
04-05-2019, 18:05
HỒI SINH CAO CẤP TRẺ SƠ SINH VÀ NHI ĐỒNG
(EUROPEAN PEDIATRIC LIFE SUPPORT)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH

NHẬP ĐỀ
NHỮNG NGUYÊN NHÂN CỦA NGỪNG TIM-HÔ HẤP
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM Ở TRẺ EM



Quote:

Những mục tiêu


Cuối chương này, các bạn hẳn có thể :
• Thảo luận và so sánh căn nguyên của ngừng tim-hô hấp của trẻ em và người lớn.

• Thảo luận tiên lượng của ngừng tim nguyên phát và thứ phát.

• Biết những đặc điểm cơ thể học, sinh lư và thần kinh của nhũ nhi và trẻ em.



I. NHỮNG NGUYÊN NHÂN CỦA NGỪNG TIM HÔ HẤP

Những nguyên nhân của ngừng tim-hô hấp của trẻ em không giống với người lớn do những khác nhau về sinh lư học, cơ thể học và bệnh lư học. Những khác nhau này thay đổi trong thời kỳ tăng trưởng, thời kỳ sơ sinh, vào tuổi ấu thơ (bao gồm tuổi thiếu niên) và cho đến tuổi trưởng thành.

Ngừng tim nguyên phát do một loạn nhịp tim loại rung thất hay tim nhịp nhanh thất vô mạch là thường xảy ra hơn ở người lớn. Sự xuất hiện đột ngột và không tiên đoán được, phản ánh bệnh tim nội tại. Khử rung sớm là điều trị của rung thất. Mỗi phút mất di trước khi khử rung làm giảm những khả năng trở lại một tuần hoàn ngẫu nhiên 10%.

Ngừng tim thứ phát thường xảy ra hơn ở trẻ em và phản ánh một quá tŕnh tận cùng khi bệnh nguyên không được kiểm soát. Nhịp trước tận cùng (rythme préterminal) thường xảy ra nhất là tim nhịp chậm dẫn đến vô tâm thu hay hoạt động điện vô mạch.

Những nhịp này không phải do một bệnh của tim nhưng do một chức năng tim bất b́nh thường, hậu quả của một giảm oxy mô (hypoxie tissulaire) nghiêm trọng dẫn đến một loạn năng cơ tim (dysfonction myocardique). Điều này có thể là do một suy hô hấp với oxygénation không thích đáng hay một hạ huyết áp do một bất túc tuần hoàn. Lúc khởi đầu, cơ thể thực hiện một đáp ứng sinh lư thích ứng nhằm bảo vệ tim và năo bộ khỏi t́nh trạng giảm oxy mô, dẫn đến một t́nh huống suy hô hấp hay tuần hoàn bù (insuffisance respiratoire ou circulatoire compensée).Tuy nhiên, cơ thể cuối cùng bị kiệt quệ.

Đó là giai đoạn suy hô hấp hay tuần hoàn mất bù (insuffisane respiratoire ou circulatoire décompensée) tùy theo nguyên nhân gây bệnh. Hai loại suy hô hấp và tuần hoàn có thể hiện diện đồng thời. Khi t́nh huống trở nên nghiêm trọng, suy hô hấp và/hoặc tuần hoàn dẫn đến suy tim-hô hấp và sau đó dẫn đến ngừng tim-hô hấp (bảng 1).


UserPostedImage

Bảng 1. Những hậu quả của một suy hô hấp hay tuần hoàn tiến triển không được điều trị ở nhũ nhi và trẻ em.


II. TIÊN LƯỢNG

Tiên lượng của hồi sinh khi ngừng tim-hô hấp là u tối, nhất là nếu ngừng kéo dài. Sự nhận biết những t́nh huống đi trước ngừng tim-hô hấp và sự điều trị nó một cách thích đáng là thiết yếu. Sự nhận biết và hồi sinh một đứa bé ngừng hô hấp (giai đoạn cuối cùng của suy hô hấp mất bù) mà tim vẫn đập được liên kết với một tỷ lệ sống c̣n lâu dài 50 đến 70% trong khi tỷ lệ sống sót không di chứng thần kinh của một đứa bé ngừng tim hô hấp là dưới 5%. Những nguyên nhân của các bệnh của trẻ em so với những bệnh của người lớn phải được đặt tương quan với những khác nhau về sinh lư và cơ thể học.Những khác nhau này hàm ư một tŕnh tự ưu tiên điều trị căn cứ trên A• đường dẫn khí (với sự bất động cột sống cổ trong chấn thương Ac), B-hô hấp (Breathing), C-tuần hoàn và D-trạng thái tâm thần (Disability). Phương tiện để nhớ ABCD chỉ ưu tiên dành cho những giai đoạn chủ yếu của xử trí về mặt đánh giá và điều trị, có thể áp dụng cho tất cả các trẻ em. Phương pháp này cho phép cứu sống.

III. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA TRẺ EM

A. ĐƯỜNG DẪN KHÍ.

1. MŨI VÀ HẦU

Vào lúc sinh, nắp thanh môn (épiglotte) nằm ở mức cột sống cổ thứ nhất, nghĩa là nằm cao và rất về phía trước. V́ lư do này đường dẫn khí đặc biệt dễ bị tắc do đè ép bên ngoài của các mô mềm.

Nhũ nhi bắt buộc phải thở bằng mũi cho đến 6 tháng tuổi. Do đó, năng lực mà nó có thể tiêu xài khi bị tắc mũi (ví dụ do những chất tiết v́ bị nhiễm trùng hô hấp) có thể đáng kể và dẫn đến suy hô hấp. Những lư do cơ học như atrésie des choanes, tắc gây nên bởi một ống thông mũi-dạ dày hay do sparadrap làm tắc các lỗ mũi, có thể gây nên một chướng ngại đáng kể đối với không khí đi qua mũi.

2. TƯƠNG QUAN GIỮA ĐẦU VÀ CỔ.

Về mặt tỷ lệ, đầu của trẻ sơ sinh là lớn so với thân ḿnh của nó. Được kết hợp với một xương chẩm tương đối dô ra, nên ở tư thế nằm đầu có khuynh hướng gập lên cổ, điều này dẫn đến tắc thanh quản, vốn mềm mại. Tuổi càng lớn, về mặt tỷ lệ, đầu càng trở nên nhỏ hơn so với ngực và cổ dài ra, và thanh quản trở nên đề kháng hơn với áp lực bên ngoài. Mặt và miệng của nhũ nhi v́ hẹp so với lưỡi có kích thước lớn, nên lưỡi làm tắc dễ dàng đường khí của đứa bé trong t́nh trạng mất tri giác. Sàn miệng dễ đè ép, điều này có thể gây nên tắc đường khí nếu ta không áp dụng những biện pháp thận trọng khi mở đường khí.

3. THANH QUẢN

Ở nhũ nhi thanh quản nằm cao so với thanh quản của người lớn (ở người lớn thanh quản nằm ở mức các đốt sống cổ thứ 5 hay 6). Nắp thanh môn (épiglotte) cong h́nh chữ U lồi ra trong hầu với một góc 45 độ ; các dây thanh âm ngắn.

Dưới 8 tuổi, phần hẹp nhất của thanh quản là sụn nhẫn (cartilage cricoide) trong khi sau 8 tuổi, thanh quản có h́nh trụ cho đến tận các phế quản gốc.

Những đặc điểm cơ thể học này có những hàm ư về thực hành sau đây :
• Các thủ thuật khai tắc một vật lạ có thể thất bại ở trẻ em nhỏ tuổi bị tắc đường dẫn khí một phần, với nguy cơ biến đổi tắc một phần thành tắc hoàn toàn. Vật lạ có thể kẹt vào phần hẹp nhất của thanh quản, nghĩa là ở mức sụn nhẫn.

• Khi đưa vào lưỡi đèn thanh quản, việc kiểm soát lưỡi tương đối lớn có thể khó khăn và sự xê dịch của lưỡi về phía sau có thể gây tắc đường dẫn khí do vị trí cao của nắp thanh môn và thanh quản.

• Vị trí đầu (position céphalique) của thanh quản tạo một góc nhọn giữa khẩu hầu và thanh môn (glotte). Điều này làm cho việc nh́n trực tiếp thanh môn khó khăn với một đèn soi thanh quản. Do đó để nh́n dễ dàng hơn, hăy dùng một lưỡi thẳng (lame droite) hơn là một lưỡi cong (lame courbe).

• Việc đưa vào ống thông khí quản có thể bị trở ngại bởi commissure trước của các dây thanh âm, nằm cao hơn so với commissure postérieure.

• Một ống thông khí quản không có quả bóng có thể được sử dụng ở trẻ em dưới 8 tuổi v́ lẽ kích thước của ống thông được xác định bởi phần hẹp nhất của đường khí, nghĩa là ở mức ṿng sụn nhẫn. Một ống thông có kích thước đúng đắn cho phép đóng kín vùng sụn nhẫn, điều này cho phép thông khí áp lực dương mà không quá gây ṛ quanh ống thông. Một ống thông khí quản quá nhỏ gây nên ṛ khí, liên kết với một sự thông khí không hiệu quả. Cho đến cách nay ít lâu, các ống thông có quả bóng (sonde à ballonnet) bị chống chỉ định ở trẻ em dưới 8 tuổi. Tuy nhiên người ta đă chứng minh rằng khi ống thông có quả bóng có kích thước thích đáng và khi áp suất quả bóng được theo dơi, nó có thể được sử dụng ở trẻ nhỏ (xem chương 3)


Đường dẫn khí của trẻ em và nhũ nhi hẹp hơn so với đường dẫn khí của người lớn. Do đó nhũ nhi đặc biệt nhạy cảm với phù nề. Đường kính tuyệt đối của đường dẫn khí cũng nhỏ hơn, các nhiễm trùng hô hấp gây nên một tỷ lệ tử vong quan trọng hơn ở các trẻ em so với người lớn. Các hậu quả của phù nề có thể hiểu được do áp dụng định luật Poiseuille. Định luật này đặt sự liên hệ giữa sức cản của một khí lưu thông trong ống với chiều dài của nó, viscosité của chất khí và đường kính ống dẫn theo công thúc sau đây :


UserPostedImage


Một sự giảm nhẹ đường kính của đường dẫn khí có một ảnh hưởng quan trọng lên lưu lượng oxy và CO2 qua hệ hô hấp.

B. HÔ HẤP

Các lá phổi không được thành thục vào lúc sinh với một interface khí-phế nang 3m2 so với 70m2 ở người lớn. Số lượng những đường dẫn khí nhỏ gia tăng 10 lần giữa lúc sinh và tuổi trưởng thành. Vào lúc sinh, sự mở của các phế nang của một trẻ sơ sinh sinh non có thể bị biến đổi bởi một thiếu hụt surfactant. Sự cho surfactant ngoại tại có thể cho phép mở các phế nang và sau đó việc duy tŕ sự mở này có thể cần thiết.

Cơ học thông khí (mécanique ventilatoire) thay đổi với tuổi tác. Ở nhũ nhi, các xương sườn có thể uốn nắn và các cơ gian sườn tương đối yếu và không hiệu quả so với cơ hoành. Điều này đóng một vai tṛ quan trọng trong động lực học hô hấp (dynamique respiratoire) của trẻ nhỏ. Cơ hoành là cơ chủ yếu của thông khí nhũ nhi và cử động của nó về phía dưới lúc thở vào kéo ngực về phía bụng điều này tạo nên một effet de vide cho phép mang không khí vào đường hô hấp trên và trong hai lá phổi. Những chướng ngại vật lư đối với sự co cơ hoành có thể có nguồn gốc ở bụng (căng trướng dạ dày, tràn khí phúc mạc, tắc ruột) hay nguồn gốc ở phổi (tăng phồng trong trường hợp viêm tiểu phế quản, hen phế quản hay hít vào một vật lạ) và có thể dẫn đến một thông khí không có hiệu quả.

Ở trẻ lớn hơn, các cơ gian sườn được phát triển hơn và góp phần một cách đáng kể vào cơ học thông khí ; các xương sườn cốt hóa và biến hóa thành một cấu trúc cứng, trở nên đề kháng hơn trong trường hợp détresse respiratoire. Có thể có một co rút gian sườn và ức quan trọng ở trẻ nhỏ trong trường hợp suy hô hấp, trong khi co rút này không quan trọng ở trẻ lớn hơn.

C. TUẦN HOÀN

Thể tích lưu thông của một trẻ sơ sinh là 80ml/kg và giảm với tuổi để đạt 60-70 ml/kg ở người lớn. Đối với một trẻ sơ sinh 3kg, thể tích này là 240 ml ; ở 6 tháng tuổi với một trọng lượng 6kg, thể tích lưu thông là 480 ml. V́ lẽ thể tích lưu thông bé, các trẻ rất nhạy cảm với sự mất nước. Do đó không lấy làm ngạc nhiên khi những trường hợp ỉa chảy giết chết mỗi năm hàng triệu trẻ em trên thế giới.

D. TRẠNG THÁI TÂM THẦN

Một trong những khó khăn mà ta có thể gặp với trẻ rất nhỏ là nó không thể diễn tả những xúc cảm của nó. Do đó, khi ta điều trị một trẻ bệnh hay bị thương, điều rất quan trong là đến với nó với sự cảm thông và tử tế. Không phải là khó lắm khi tưởng tượng một đứa bé có thể hoảng sợ như thế nào khi nó bị bệnh và khi bố mẹ bi căng thẳng đem nó đến bệnh viện, trong một môi trường xa lạ hay những người lạ mang lại cho nó những điều không thoải mái. Sự nhận thức làm giảm sự sợ hăi. Điều quan trọng là hăy giải thích rơ ràng những điều một cách trực tiếp cho đứa trẻ. Nếu có thể những lời giải thích phải được thực hiện bằng một ngôn ngữ dễ hiểu đối với đứa bé. Bố mẹ phải có thể được ở gần con ḿnh, ngay cả trong khi hồi sinh ; sự hiện diện của họ trong điều trị cho phép làm giảm sự e sợ, stress và sự lo âu của đứa bé và của bố mẹ của nó.

Năng lực diễn đạt của đứa bé được cải thiện khi lớn lên. Tuy nhiên phải nhớ rằng trong t́nh huống stress, lo âu hay đau đớn, đứa bé có thể thoái lui. Phải xét đến điều đó khi đánh giá thần kinh đứa bé. V́ lẽ trạng thái c̣n non nớt về mặt diễn đạt trước 5 tuổi, thang điểm Glasgow được biến đổi đối với lứa tuổi này.

E. TUỔI VÀ TRỌNG LƯỢNG

Đứa trẻ khác với người lớn v́ tầm vóc nhỏ thay đổi với tuổi. Chính v́ thế ở đứa trẻ trọng lượng quan trọng v́ lẽ các loại thuốc được cho tùy theo trọng lượng cơ thể.

Trong t́nh huống cấp cứu, ta không có thời gian để cân đứa bé. Công thức sau đây cho phép đánh giá gần đúng trong lượng của đứa bé tùy theo tuổi tính bằng số năm (giữa 1 và 10 tuổi).

Trọng lượng (kg) = 2 x (tuổi tính bằng số năm + 4)

Có những giải pháp khác thí dụ règle de Broselow. Thước này đo kích thước của đứa bé và suy ra trọng lượng của nó. Đối diện với trọng lượng của đứa bé được chỉ những liều lượng của các loại thuốc cấp cứu được tính theo trọng lượng này. Kích thước của các thiết bị khác nhau, có thể cần thiết, được chỉ tùy theo trọng lương. Những thước chính xác hơn những công thức để đánh giá trọng lượng của đứa bé. Dầu thế nào đi nữa, và dầu phương pháp được lựa chọn là ǵ, điều quan trọng, đó là người chăm sóc phải đủ quen với phương pháp này để có thể áp dụng nó một cách nhanh chóng và hiệu quả.

IV. NHỮNG NGUYÊN NHÂN VÀ PH̉NG NGỪA TỬ VONG.

Trong thời kỳ sơ sinh, các bất thường bẩm sinh là nguyên nhân thông thường nhất của tử vong, tiếp theo bởi những tai biến chu sinh và sau đó bởi chết đột ngột của nhũ nhi. Ở nhũ nhi, các bất thường bẩm sinh vẫn là nguyên nhân gây tử vong đầu tiên, tiếp theo bởi các bệnh hô hấp và tim mạch, các nhiễm trùng và các chấn thương. Nguyên nhân thông thường nhất gây tử vong ở trẻ em lứa tuổi trước học đường là chấn thương, tiếp theo sau bởi những bất thường bẩm sinh, các bệnh tim mạch và ung thư. Chấn thương là nguyên nhân đâu tiên gây tử vong (gấp đôi ung thư) ở trẻ em lứa tuổi học đường. Ở thiếu niên và thanh niên (giữa 15 và 24 tuổi), tự tử và những vết thương do chính thiếu niên gây nên là nguyên nhân thứ hai gây tử vong ; giết người là nguyên nhân thứ ba.

Những nguyên nhân của tử vong thay đổi đối với tuổi. Do đó điều quan trọng là xác lập những sơ đồ pḥng ngừa. Những sơ đồ pḥng ngừa này gồm ba điều : giáo dục, biển đổi môi trường và tăng cường pháp lư về an toàn. Mọi nhân viên điều trị có thể tham gia vào sự cải thiện của pḥng ngừa những tai nạn : pḥng ngừa nguyên phát (thí dụ pḥng ngừa những tai nạn bằng cách sử dụng đồ dùng an toàn trong những khu vực chơi) ; pḥng ngừa thứ phát (giảm những hậu quả của tai nạn thí dụ bằng cách khuyến khích đội casque ở những trẻ đi xe đạp) và pḥng ngừa tam phát (giảm những hậu quả của sự cố bằng cách cải thiện appel de service de secours sau tai nạn ; thí dụ bằng cách tham gia vào một cours như RANP-EPLS)

Sự pḥng ngừa tam phát được minh họa bởi chaine de survie, có mục đích cung cấp những điều trị cấp cứu tốt nhất một cách phối hợp.

Chaine de survie
Mắt xích 1 : Nhận biết sớm và gọi cứu
Mắt xích 2 : Hồi sinh tim-phối sớm để lợi thời gian
Mắt xích 3 : Khử rung sớm để phát khởi tim trở lại
Mắt xích 4 : Hồi sinh sau ngừng tim để cải thiện tiên lượng.



UserPostedImage


Chaine de vie của Hội đồng hồi sinh châu Âu (ERC) có thể được áp dụng cho đứa bé. Mắt xích đầu tiên nhằm nhận biết vấn đề của đứa bé (thường nhất là một suy hô hấp hay tuần hoàn) và gọi giúp đỡ (sau một phút hồi sinh tim phổi ở đứa bé) ; mắt xích thứ hai nhằm bắt đầu một hồi sinh cơ bản sớm ; mắt xích thứ ba nhằm có thể khử rung sớm khi cần thiết và mắt xích cuối cùng nhằm hồi sinh sau ngung tim để bảo vệ năo.

CHẾT ĐƯỢC DỰ KIẾN VÀ CHẾT BẤT NGỜ

Ta có thể đứng trước một đứa trẻ mà t́nh huống làm cho những thủ thuật hồi sinh không thích hợp. Đứa trẻ này và gia đ́nh của nó phải được xử trí với ḷng trắc ẩn bởi một kíp được đào tạo soins palliatifs.

Cái chết của một đứa bé là một lúc âu lo và căng thẳng đối với bố mẹ, những người thân cũng như đối với kíp điều trị có can dự vào. Điều quan trọng là kíp điều trị này có thể tiếp cận một buổi debriefing sau cái chết để có thể diễn đạt những cảm xúc và t́nh cảm được cảm thấy khi điều trị đứa bé. Mọi thành viên của một kíp điều trị phải có khả năng gọi giúp đỡ hay yêu cầu những lời khuyên ở các đồng nghiệp, những référent hay những thầy thuốc tâm lư.

Vài tuần sau khi đứa bé qua đời, bố mẹ phải được mời gặp thầy thuốc chịu trách nhiệm điều trị đứa bé. Điều đó cho phép bố mẹ có những câu trả lời cho những câu hỏi vẫn chưa được giải quyết của họ và nhận những kết quả của những thăm ḍ hay những bệnh phẩm được thực hiện lúc đứa trẻ chết.

Điều quan trọng là bố mẹ cảm thấy rằng những điều trị tốt nhất đă được cho con họ mặc dầu sự hồi sinh đă thất bại. Một xử trí sớm dựa trên phương pháp ABD làm giảm số những trường hợp tử vong bất ngờ. Đào tạo RANP (Réanimation Avancée Néonatale & Pédiatrique)
• EPLS (European Pediatric Life Support) có mục đích cung cấp những điều trị tốt nhất cho các em bé.


Quote:

Những điểm chủ yếu

• Ngừng tim hộ hấp thứ phát thường gặp nhất ở trẻ em và là biến cố tận cùng của một bệnh hay một thương tổn.

• Sự nhận biết và phương pháp cơ cấu hóa ABCD của đứa bé bị bệnh ngăn ngừa sự tiến triển về hướng ngừng tim hô hấp.

• Đường dẫn khí, hô hấp, tuần hoàn, và t́nh trạng thần kinh có những đặc điểm khác ở đứa bé so với người lớn.

• Sự pḥng ngừa nguyên phát (pḥng ngừa tai nạn), pḥng ngừa thứ phát (giới hạn những hậu quả của tai nạn) và pḥng ngừa tam phát (xử trí tốt nhất của cấp cứu) phải được hướng về những nguyên nhân đặc hiệu của tử vong tùy theo tuổi.



BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(23/7/2013)

Reference : European Pediatric Life Support (EPLS) Manual. Edition 1. Avril 2009.

florida80
04-05-2019, 18:09
NHỮNG CĂN BỆNH THUỘC VỀ NĂO BỘ
(BRAIN DISEASES)
Lynn Ly phỏng dịch, tóm tắt theo thông tin từ website WebMD.com


Bệnh năo bao gồm nhiều dạng khác nhau. Nhiễm trùng, chấn thương, đột quỵ hay tai biến mạch máu năo, co giật, và u bướu là một số loại bệnh chính của những bệnh năo. Dưới đây là một cái nh́n tổng quát về các căn bệnh khác nhau thuộc về bộ năo.

I. NHỮNG BỆNH NĂO: NHIỄM TRÙNG (BRAIN DISEASES: INFECTIONS)

Những bệnh năo trong phân loại về nhiễm trùng bao gồm:
•Bệnh Viêm Màng Năo (Meningitis): Một t́nh trạng viêm tại màng bao phủ năo bộ hoặc tủy sống, thường là do nhiễm trùng. Đau cổ, nhức đầu, và lú lẫn / nhầm lẫn là những triệu chứng phổ biến.


•Bệnh Viêm Năo (Encephalitis): Một t́nh trạng viêm tại mô năo (brain tissue), thường là do nhiễm trùng. Viêm màng năo (Meningitis) và viêm năo (Encephalitis) thường xuất hiện cùng một lúc, được gọi là viêm năo màng năo (meningoencephalitis ).


•Áp-xe Năo (Brain abscess): Một t́nh trạng nhiễm trùng có bọc mủ nằm trong hộp sọ ở vị trí ngoài màng cứng, dưới màng cứng và trong năo mà thường gây ra bởi vi khuẩn. Thuốc kháng sinh và phẫu thuật giải thoát dịch mủ ở khu vực này thường là cần thiết.


II. NHỮNG BỆNH NĂO: CO GIẬT / ĐỘNG KINH (BRAIN DISEASES: SEIZURES)

Động Kinh Rối Loạn (Epilepsy = Seizure Disorder ) được gom chung vào trong các loại động kinh thuộc về bệnh năo. Những kiểu chấn thương đầu và các kiểu đột quỵ có thể gây ra động kinh / co giật, nhưng nguyên nhân thường không được xác định.

III. NHỮNG BỆNH NĂO: CHẤN THUƠNG ( BRAIN DISEASES: TRAUMA )

Chấn thương bao gồm những t́nh trạng sau đây:
•Chấn Động (Concussion): Một thương tích năo bộ gây ra một sự xáo trộn tạm thời trong chức năng hoạt động của năo, đôi khi kèm theo sự bất tỉnh và lú lẫn. Các tổn thuơng năo do chấn thuơng mà gây ra bởi những chấn động (concussions).


•Tổn Thương Năo Do Chấn Thương (Traumatic Brain Injury): Năo bị hư hại vĩnh viễn từ 1 vết thương ở đầu do chấn thương. Sự suy giảm tinh thần rơ ràngg hoặc có thể xảy ra biến đối tinh tế hơn về nhân cách và tính khí / tâm trạng (mood) .


• Xuất Huyết Nội Sọ (Intracerebral hemorrhage): Bất kỳ t́nh trạng chảy máu thế nào ở bên trong năo mà có thể xảy ra sau một tổn thương do chấn thương hoặc do bị cao huyết áp.


IV. NHỮNG BỆNH NĂO: NHỮNG U BƯỚU, NHỮNG KHỐI U, VÀ SỰ GIA TĂNG ÁP LỰC HỘP SỌ (BRAIN DISEASES: TUMORS, MASSES, AND INCREASED PRESSURE)

Các loại bệnh năo này bao gồm:
•Bướu Năo (Brain tumor) Bất kỳ sự phát triển mô bất thường ở bên trong năo. Cho dù những khối u năo ác tính (ung thư) hoặc lành tính, thường gây ra những vấn đề bởi áp lực mà tác động lên một bộ năo b́nh thường (normal brain).


•U Nguyên Bào Đệm (Glioblastoma): Một khối u năo ác tính hung hẵn. U nguyên bào đệm năo (Brain glioblastomas) tiến triển rất nhanh chóng và thường rất khó chữa trị.


•Năo úng thủy (Hydrocephalus): Một số lượng dịch năo(cerebrospinal fluid) gia tăng bất thường bên trong hộp sọ. Thông thường, t́nh trạng này là do các chất dịch lỏng không được lưu hành thỏa đáng.


•Năo Úng Thuỷ Áp Lực B́nh Thường (Normal pressure hydrocephalus): Một dạng năo úng thủy thường gây ra những vấn đề về đi đứng, cùng với sự sa sút trí tuệ (dementia) và chứng đi tiểu không tự chủ / chứng són tiểu(urinary incontinence). Những áp lực bên trong năo vẫn b́nh thường, mặc dù chất dịch gia tăng.


•U Giả Năo Bộ (pseudotumor cerebri), hay c̣n gọi là Tăng Áp Lực Nội Sọ Hiền Tính (Benign Intracranialhyperten sion) : Áp lực bên trong hộp sọ gia tăng mà không có nguyên nhân rơ ràng. Những thay đổi thị lực, đau đầu, chóng mặt, và buồn nôn là những triệu chứng phổ biến.


V. NHỮNG BỆNH NĂO: NHỮNG T̀NH TRẠNG THUỘC VỀ MẠCH MÁU ( BRAIN DISEASES: VASCULAR (BLOOD VESSELS) CONDITIONS )

Những bệnh năo liên kết đến những t́nh trạng thuộc về mạch máu bao gồm:
•Đột Quỵ (Stroke): lưu lượng máu và oxygen đột nhiên bị gián đoạn khi đi đến một vùng mô năo, rồi th́ vùng mô năo đó chết đi. Một phần cơ thể được điều khiển bởi các vùng năo bị hư hỏng đó (chẳng hạn như một cánh tay hoặc một chân) có thể không c̣n hoạt động thỏa đáng nữa.


•Đột Qụy Do Thiếu Máu Cục Bộ (ischemic stroke) : Một cục máu đông đột nhiên phát triến trong một động mạch(artery), ngăn chặn ḍng máu chảy và gây ra một cơn đột quỵ.


•Đột Quỵ Do Xuất Huyết (Hemorrhagic stroke): Sự chảy máu trong năo tạo ra sự ùn tắc(congestion) và áp lực lên mô năo, làm suy yếu việc vận chuyển máu và gây ra một cơn đột quỵ.


•Tai Biến Mạch Máu Năo( Cerebrovascular accident = CVA): Một tên gọi khác về đột quỵ.


•Cơn Thiếu Máu Năo Thoáng Qua (Transient ischemic attack = TIA): Một gián đoạn tạm thời về lưu lượng máu và oxygen đến một vùng năo bộ. Những triệu chứng tương tự như triệu chứng một cơn đột quỵ, nhưng chúng tan biến hoàn toàn không có sự thiệt hại đến mô năo.


•Chứng ph́nh động mạch năo (Brain aneurysm): Một động mạch trong năo phát triển một khu vực suy nhược mà phồng như bong bóng. Sụ vỡ động mạch năo tại nơi ph́nh ra đó gây ra đột quỵ do chảy máu.


•Máu Tụ Dưới Màng Cứng (Subdural Hematoma): Sự chảy máu ở bề mặt của năo bộ. Máu Tụ Dưới Màng Cứng có thể gây áp lực lên năo, gây ra các vấn đề về thần kinh.


•Máu Tụ Ngoài Màng Cứng (Epidural Hematoma = extradural hematoma): Sự chảy máu ở giữa hộp sọ và màng cứng của năo bộ. Sự chảy máu thường là từ động mạch, thông thường là ngay sau khi bị chấn thương đầu. Những triệu chứng ban đầu nhè nhẹ có thể tiến triển nhanh chóng đến bất tỉnh và tử vong nếu không được điều trị.


•Xuất Huyết trong Năo Bộ (IntraCerebral Hemorrhage): Sự chảy máu ở bên trong năo bộ .


•Phù năo (Cerebral edema): Sự sưng mô năo có thể là do những nguyên nhân khác nhau, bao gồm cả sự phản hồi của 1 thương tích hoặc sự mất cân bằng chất điện phân (electrolyte imbalances).


VI. NHỮNG BỆNH NĂO: T̀NH TRẠNG TỰ MIỄN DỊCH (BRAIN DISEASES: AUTOIMMUNE CONDITIONS)

Những bệnh năo liên quan đến t́nh trạng tự miễn dịch bao gồm:
•Viêm Mạch Máu (Vasculitis): Sự viêm các mạch máu của năo bộ. Lú lẫn/ lầm lẫn, co giật, nhức đầu, và bất tỉnh có thể là kết quả.


•Đa xơ cứng (Multiple sclerosis = MS): Hệ thống miễn dịch tấn công một cách nhầm lẫn và làm hư hại các dây thần kinh của cơ thể. Bắp thịt bị co thắt (chuột rút = vọp bẻ), mệt mỏi, và suy nhược là những triệu chứng. MS có thể xảy ra ở những cuộc tấn công bởi hệ thống miễn dịnh một cách định kỳ hoặc liên tục không gián đoạn.


VII. NHỮNG BỆNH NĂO: T̀NH TRẠNG THOÁI HÓA THẦN KINH (BRAIN DISEASES: NEURODEGENERATIVE CONDITIONS)

Những bệnh năo liên quan đến t́nh trạng thần kinh thoái hóa bao gồm:
•Bệnh Parkinson (Parkinson's disease): Những dây thần kinh trong một khu vực trung tâm năo bộ bị thoái hóa chầm chậm, gây ra các vấn đề về cử động và khả năng phối hợp. Run rẩy / run lẩy bẩy bàn tay là một dấu hiệu phổ biến ở thời kỳ khởi đầu của căn bệnh .


•Bệnh Huntington: Một chứng rối loạn thần kinh do di truyền có ảnh hưởng đến năo bộ. Chứng sa sút trí tuệ (dementia) và khó khăn trong việc kiểm soát các cử động là những triệu chứng của căn bệnh . Khi bệnh tiến triển đến giai đoạn cuối th́ người bệnh bị mất hoàn toàn các kỹ năng vận động ngay cả cử động nhai nuốt hay nói năng.


•Bệnh Pick (Pick's Disease) c̣n gọi là Bệnh Sa Sút Trí Tuệ Trán-Thái Dương ( Frontotemporal Dementia ): Qua nhiều năm, khu vực rộng lớn của các dây thần kinh ở phía trước (trán) và hai bên năo (thái dương) bị phá hủy do sự tích tụ một protein bất thường. Những thay đổi nhân cách, những hành vi không phù hợp, và mất trí nhớ cùng mất khả năng trí tuệ là những triệu chứng. Bệnh Sa Sút Trí Tuệ Trán-Thái Dương c̣n gọi là bệnh Pick th́ tiến triển liên tục một cách kiên định .


•Bệnh Xơ Cứng Cột Bên Teo Cơ = Bệnh Thoái Hóa Thần Kinh Vận Động Một Bên (Amyotrophic lateral sclerosis = ALS): Bệnh này c̣n được gọi là bệnh Lou Gehrig . Trong căn bệnh này, các dây thần kinh kiểm soát chức năng bắp thịt bị phá hủy liên tục thật đều đặn. Bệnh ALS tiến triển liên tục đến mức bại liệt và mất khả năng hô hấp khi không có máy hỗ trợ hô hấp. Chức năng nhận thức nói chung th́ không bị ảnh hưởng.


•Bệnh Sa Sút Trí Tuệ (Dementia): Sự suy giảm chức năng nhận thức, do các tế bào thần kinh trong năo chết đi hoặc không vận động. Những t́nh trạng mà trong đó các dây thần kinh trong năo thoái hóa, cũng tương tự như sự lạm dụng rượu và đột quỵ có thể gây ra chứng sa sút trí tuệ .


•Bệnh Mất Trí Nhớ = Bệnh Alzheimer (Alzheimer): Đối với những lư do không rơ ràng, các dây thần kinh trong vùng năo nhất định bị thoái hóa đi, gây ra sự mất dần trí nhớ và kỹ năng thuộc về tâm thần. Sự tích tụ những mô bất thường ở những khu vực năo bộ - thường được gọi là những tảo bẹ (tangles) và những mảng bợn (plaques) - được cho là góp phần gây ra căn bệnh này. Bệnh Alzheimer là dạng phổ biến nhất của chứng sa sút trí tuệ.


Lynn Ly (17/10/2012)

florida80
04-05-2019, 18:10
CÁC LOẠI BỆNH GAN
(LIVER DISEASES c̣n được gọi là HEPATIC DISEASES)

Lynn Ly Phỏng Dịch theo trang web MedLine Plus
( wxw.nlm.nih.gov/medlineplus/liverdiseases.html )



CÁC LOẠI BỆNH GAN
(LIVER DISEASES c̣n được gọi là HEPATIC DISEASES)

Gan là cơ quan nội tạng lớn nhất trong cơ thể của bạn. Nó cũng là một trong những cơ quan nội tạng quan trọng nhất. Gan có nhiều việc làm, bao gồm cả thay đổi thức ăn thành năng lượng và làm sạch chất alcohol / chất rượu và các chất độc ra khỏi máu. Gan cũng tạo ra mật, một chất lỏng màu vàng-xanh để trợ giúp tiêu hóa.

Có nhiều loại bệnh gan. Virus / virut/ siêu vi gây ra một số trong số bệnh gan, giống như viêm gan A (hepatitis A), viêm gan B (hepatitis B) và viêm gan C (hepatitis C). Những bệnh gan khác có thể là kết quả của thuốc uống, độc tố / thuốc độc, hoăc uống quá nhiều rượu / loại nước uống có chứa nhiều alcohol. Nếu gan h́nh thành mô sẹo do một loại bệnh, th́ được gọi là xơ gan (cirrhosis). Vàng da (Jaundice), hoặc vàng da (yellowing of the skin) , có thể là một dấu hiệu của bệnh gan.

Giống như các bộ phận khác của cơ thể, ung thư có thể ảnh hưởng đến gan. Bạn cũng có thể bị di truyền một căn bệnh gan như bệnh nhiễm sắc tố sắt mô (hemochromatosis).

VIÊM GAN A
(Hepatitis A c̣n được gọi là HAV)

Viêm gan A là một loại viêm gan - một loại bệnh gan - gây ra bởi virus/virut/siêu vi viêm gan A (HAV). Bệnh lây lan chủ yếu qua thức ăn hoặc nước bị ô nhiễm từ phân người bị nhiễm bệnh. Bạn có thể bị viêm gan A (HAV) từ :
•Ăn thực phẩm do một người bị bệnh viêm gan A (HAV) mà họ không rửa tay sau khi đi nhà vệ sinh (đi tiêu tiểu)

•Quan hệ t́nh dục qua đường hậu môn hay đường miệng với người mắc bệnh viêm gan A (HAV)

•Không rửa tay sau khi thay tă lót

•Uống nước bị ô nhiễm


Viêm gan A (HAV)gây nên sự sưng gan, nhưng hiếm khi gây tổn hại lâu dài. Bạn có thể có cảm thấy giống như bạn từng bị cảm cúm, hoặc bạn có thể không có triệu chứng nào cả. T́nh trạng sức khỏe thường tự trở nên tốt hơn sau vài tuần.

Thuốc chủng ngừa viêm gan A có thể pḥng chống bệnh viêm gan A (HAV) . Những thói quen lành mạnh cũng tạo nên sự khác biệt. Rửa tay kỹ càng trước khi chuẩn bị thức ăn, sau khi sử dụng nhà vệ sinh hoặc sau khi thay tă lót . Những du khách quốc tế / du khách nước ngoài nên cẩn thận khi uống nước máy.

(Dựa theo Tài liệu của NIH = National Institute of Diabetes and Digestive and Kidney Diseases )

VIÊM GAN B
(Hepatitis B c̣n được gọi là HBV)

Viêm gan B là một loại viêm gan - một loại bệnh gan - gây ra bởi virus/virut/siêu vi viêm gan B (HBV). Viêm gan B lây lan qua tiếp xúc với máu, tinh dịch của người bị nhiễm bệnh hoặc chất dung dịch / chất lỏng của cơ thể người khác. Một phụ nữ bị nhiễm bệnh viêm gan B có thể truyền cho em bé của cô ta lúc sinh nở.

Nếu bạn mắc bệnh viêm gan B (HBV), bạn có thể cảm thấy giống như là bạn từng bị cảm cúm, hoặc bạn có thể không có triệu chứng nào cả. Một xét nghiệm máu có thể cho biết nếu bạn có bị bệnh viêm gan B hay không. Viêm gan B (HBV) thường sẽ tự trở nên tốt hơn sau một vài tháng. Nếu căn bệnh không trở nên tốt hơn, nó được gọi là viên gan B mạn tính (chronic HBV) , căn bệnh mà kéo dài suốt cả cuộc đời. viên gan B mạn tính (chronic HBV) có thể dẫn đến tạo ra vết sẹo trong gan, gan bị hư hỏng hoặc ung thư gan.

Hiện có thuốc chủng ngừa viêm gan B. Đ̣i hỏi ba mũi chích ngừa. Tất cả các em bé nên chich ngừa, nhưng trẻ lớn và người lớn có thể chích ngừa luôn. Nếu bạn đi du lịch đến các nước nơi mà bệnh viêm gan B là phổ biến, bạn nên chính ngừa.

VIÊM GAN C
(Hepatitis C c̣n được gọi là HCV)

Viêm gan C là một loại viêm gan - một loại bệnh gan - gây ra bởi virus / virut/siêu vi viêm gan C (HCV). Nó thường lây lan qua tiếp xúc với máu nhiễm bệnh. Nó cũng có thể lan truyền qua quan hệ t́nh dục với người mắc bệnh và từ mẹ truyền sang con trong khi sinh.

Hầu hết những người bị nhiễm viêm gan C không có bất kỳ triệu chứng trong nhiều năm. Một xét nghiệm máu có thể cho biết nếu bạn có bị viêm gan C. Thông thường, viêm gan C không tự trở nên tốt hơn / không tự thuyên giảm. Nhiễm trùng có thể kéo dài suốt đời và có thể dẫn đến việc tạo ra sẹo trên lá gan hoặc bệnh ung thư gan. Thuốc men đôi khi trợ giúp, nhưng tác dụng phụ có thể là một vấn đề. Trường hợp nghiêm trọng có thể cần phải cấy ghép gan.

Hiện giờ không có thuốc chủng ngừa cho viêm gan C

BỆNH VÀNG DA
(Jaundice c̣n được gọi là Icterus)

Bệnh vàng da (Jaundice) khiến cho da của bạn và tṛng trắng mắt bạn chuyển sang màu vàng. Quá nhiều bilirubin cũng khiến cho vàng da . Bilirubin là một hóa chất màu vàng trong hemoglobin, chất này vận chuyển oxy trong tế bào hồng huyết cầu của bạn. Khi các tế bào hồng huyết cầu phân tách / phá vỡ ra, cơ thể của bạn tạo ra các tế bào mới để thay thế chúng. Những tế bào cũ được xử lư khôi phục (processed) bởi lá gan. Nếu gan không thể xử lư khôi phục các tế bào máu khi chúng đă bị phá vỡ, bilirubin tích tụ trong cơ thể và da của bạn có thể cho trông thấy mầu vàng vàng.

Nhiều trẻ sơ sinh khỏe mạnh có chút bệnh vàng da trong tuần lễ đầu tiên của cuộc đời. Bệnh vàng da này thường biến mất. Tuy nhiên, bệnh vàng da có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi và có thể là một dấu hiệu của một vấn đề. Bệnh vàng da có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân, chẳng hạn như:
•Những bệnh về máu (Blood diseases)

•Những hội chứng di truyền (Genetic syndromes).

•Những loại bệnh gan, như viêm gan hoặc xơ gan (Liver diseases, such as hepatitis or cirrhosis)

•Tắc nghẽn đường ống mật (Blockage of bile ducts)

•Nhiễm trùng (Infections)

•Thuốc men (Medicines)


BỆNH XƠ GAN
(Cirrhosis c̣n được gọi là Hepatic fibrosis)

Xơ gan tạo ra vết sẹo trong gan. Mô sẹo h́nh thành bởi v́ chấn thương hoặc 1 căn bệnh lâu dài / căn bệnh măn tính. Mô sẹo không thể làm những ǵ mà mô gan khỏe mạnh làm - (thí dụ) tạo ra protein / tạo ra chất đạm, trợ giúp chống nhiễm trùng, làm sạch máu, giúp tiêu hóa thức ăn và dự trữ năng lượng. Xơ gan có thể dẫn đến :
• Dễ bị bầm tím hoặc chảy máu, hoặc chảy máu cam / chảy máu mũi (Easy bruising or bleeding, or nosebleeds)

•Sưng to ở bụng hoặc ở chân (Swelling of the abdomen or legs)

•Thêm nhiều sự mẫn cảm đối với thuốc men (Extra sensitivity to medicines)

•Huyết áp cao ở trong tĩnh mạch nơi đi vào lá gan (High blood pressure in the vein entering the liver)

•Các tĩnh mạch nở to lên ở thực quản và dạ dày (Enlarged veins in the esophagus and stomach)

•Suy thận / Hư thận (Kidney failure)



Khoảng 5% người bệnh xơ gan mắc bệnh ung thư gan

Bệnh xơ gan có nhiều nguyên nhân . Tại Hoa Kỳ / Mỹ, những nguyên nhân phổ biến nhất là nghiện rượu và viêm gan măn tính . Không có cách ǵ sẽ làm cho các mô sẹo biến mất, nhưng điều trị nguyên nhân có thể ǵn giữ không cho nó trở nên tồi tệ hơn. Nếu quá nhiều mô sẹo h́nh thành, bạn có thể cần phải xem xét việc cấy ghép gan.

UNG THƯ GAN
(Liver Cancer c̣n được gọi là Hepatocellular carcinoma )

Lá Gan là cơ quan nội tạng lớn nhất trong cơ thể bạn. Nó gạn lọc các chất có hại từ máu, tiêu hóa chất béo từ thức ăn và lưu trữ chất đường mà cơ thể của bạn sử dụng tạo ra năng lượng. Ung thư gan nguyên bào (Primary liver cancer) bắt đầu từ trong gan. Ung thư gan do di căn (Metastatic liver cancer) bắt đầu ở một nơi khác và lây lan đến gan của bạn.

Nhưng yếu tố hung hiểm cho ung thư gan nguyên bào gồm có:
•Mắc bệnh viêm gan (Having hepatitis)

•Mắc bệnh xơ gan, hoặc sự tao ra vết sẹo trong gan (Having cirrhosis, or scarring of liver)

•Nam hóa / chuyển đổi giới tính ở người phụ nữ (Being male)

•Trọng lượng lúc sơ sinh thấp (nhẹ cân lúc sơ sinh) (Low weight at birth)



Các triệu chứng có thể bao gồm một khối u hoặc sự đau nhức ở phía bên phải của bụng và vàng da. Tuy nhiên, bạn có thể không có triệu chứng và bệnh ung thư có thể không được t́m thấy cho đến khi nó phát triển đến mức độ cao . Điều này làm cho căn bệnh khó điều trị. Sự chọn lựa điều trị bao gồm phẫu thuật, xạ trị, hóa trị hoặc cấy ghép gan

BỆNH NHIỄM SẮC TỐ SẮT MÔ
(Hemochromatosis c̣n được gọi là Iron overload disease )

Bệnh nhiễm sắc tố sắt mô (Hemochromatosis) là một bệnh di truyền mà trong đó có quá nhiều sắt tích tụ trong thân thể bạn. Căn bệnh này là một trong hầu hết các loại bệnh di truyền phổ biến nhất ở Hoa Kỳ / Mỹ .

Chất sắt (Iron) là một khoáng chất được t́m thấy trong nhiều loại thực phẩm. Cơ thể bạn thường hấp thụ khoảng 10% chất sắt trong thực phẩm bạn ăn. Nếu bạn mắb bệnh nhiễm sắc tố sắt mô (hemochromatosis), bạn thường hấp thụ chất sắt nhiều hơn số lượng bạn cần. Cơ thể của bạn không có phương cách tự nhiên để loại bỏ các chất sắt dư thừa . Nó lưu trữ lại chất sắt trong các mô cơ thể, đặc biệt là gan, tim, và tuyến tụy. Sư dư thừa chất sắt có thể làm hỏng các bộ phận nội tạng của bạn. Nếu không điều trị, căn bệnh này có thể khiến cho các cơ quan của bạn hư hại không thể hoạt động được nữa.

Việc điều trị phổ biến nhất là loại bỏ một lượng máu, giống như khi bạn hiến máu. Việc này được gọi là phép điều trị trích lấy bớt máu ra (therapeutic phlebotomy)̣ Các loại thuốc cũng có thể giúp loại bỏ các chất sắt dư thừa. Bác sĩ có thể đề nghị một số thay đổi trong chế độ dinh dưỡng của bạn.

Lynn Ly (16/12/2010)

florida80
04-05-2019, 18:11
CÁC VẤN ĐỀ VỀ GAN
(LIVER PROBLEMS)
Lynn Ly Phỏng Dịch theo trang web MedLine Plus
( wXw.mayoclinic.com/health/liver-problems/DS01133/METHOD=print )


Bài viết do các Nhân viên của Trạm Xá Mayo (Mayo Clinic staff)

ĐỊNH NGHĨA (DEFINITION)

Những vấn đề về gan bao gồm một loạt các bệnh và các t́nh huống có thể ảnh hưởng đến gan của bạn. Gan của bạn là một cơ quan nội tạng có kích thước khoảng 1 trái banh mà tọa vị ngay dưới xương sườn trong lồng ngực bạn về phía bên phải của bụng. Nếu không có lá gan, bạn không thể tiêu hóa thức ăn và hấp thụ dinh dưỡng, loại bỏ các chất độc từ cơ thể hoặc duy tŕ sự sống.


UserPostedImage


H́nh ảnh của trang web Mayo Clinic về vị trí lá gan trong cơ thể bạn

Những vấn đề về gan có thể là do di truyền, hoặc những vấn đề về gan có thể xảy ra do phản hồi đối với virus và các hóa chất. Một số vấn đề về gan th́ tạm thời và tự biến mất, trong khi những vấn đề về gan khác có thể kéo dài trong một thời gian dài và dẫn đến những biến chứng nghiêm trọng.


UserPostedImage


H́nh ảnh của trang web Mayo Clinic về lá gan b́nh thường và lá gan bị bệnh

Những vấn đề về gan có thể xảy ra bao gồm bệnh gan nhiễm mỡ (fatty liver disease)và xơ gan (cirrhosis). Gan và các tế bào của nó - như đă thấy qua kính hiển vi - thay đổi đáng kể khi một lá gan b́nh thường trở nên nhiễm mỡ hoặc xơ gan.

NHỮNG TRIỆU CHỨNG (SYMPTOMS)

Những dấu hiệu và triệu chứng của những vấn đề về gan bao gồm:
•Da bị đổi mầu và mắt xuất hiện màu vàng (Discolored skin and eyes that appear yellowish)

•Bụng đau và Bụng sưng to lên (Abdominal pain and swelling)

•Da bị ngứa ngáy mà dường như không biến mất (Itchy skin that doesn't seem to go away)

•Nước tiểu đậm mầu (Dark urine color)

•Phân nhạt màu (Phân có chút mầu xanh rêu) (Pale stool color)

•Phân có máu hoặc phân có màu hắc ín (Bloody or tar-colored stool)

•Mỏi mệt kinh niên (Chronic fatigue)

•Buồn nôn (Nausea)

•Chán ăn (Loss of appetite)



Khi nào cần đi gập Bác Sĩ (When To See A Doctor)

Hăy hẹn gập bác sĩ nếu bạn có bất cứ những dấu hiệu hay triệu chứng ǵ kéo dài mà làm bạn lo âu. Hăy t́m đến sự quan tâm về y tế ngay lập tức nếu bạn bị đau bụng nghiêm trọng mà bạn không thể nằm / ngồi / đứng yên được

NHỮNG NGUYÊN NHÂN ( CAUSES )

Những vấn đề có thể xảy ra ở trong gan bao gồm:
•Suy gan cấp tính (Acute liver failure)

•Viêm gan do rượu (Alcoholic hepatitis)

•Sự thiếu hụt Alpha-1-antitrypsin (Alpha-1-antitrypsin deficiency)

•Viêm gan tự miễn nhiễm (Autoimmune hepatitis)

•Tắc nghẽn ống dẫn mật (Bile duct obstruction)

•Suy gan măn tính (Chronic liver failure)

•Xơ gan (Cirrhosis)

•Gan bị to lớn lên (Enlarged liver)

•Hội chứng Gilbert (Gilbert syndrome)

•Bệnh nhiễm sắc tố sắt mô (Hemochromatosis)

•Viêm gan A (Hepatitis A)

•Viêm gan B (Hepatitis B)

•Viêm gan C (Hepatitis C)

•Viêm gan D (Hepatitis C)

•Viêm gan E (Hepatitis E)

•U bướu gan (Liver adenoma)

•Ung thư gan (Liver cancer)

•U nang gan (Liver cyst)

•U mao mạch gan / u mạch máu gan (Liver hemangioma)

•Hạch gan (sự gia tăng nhiều tiêu diểm hạt nho nhỏ) - Liver nodule (focal nodular hyperplasia)

•Bệnh gan nhiễm mỡ mà không có chất cồn rượu (Nonalcoholic fatty liver disease)

• Nhiễm kư sinh trùng (Parasitic infection)

•Tắt nghẹn tĩnh mạch mà vận chuyển máu đến gan( Portal vein không biết gọi tắt là ǵ???!!!) - Portal vein thrombosis

•Sơ gan mật sơ cấp (Primary biliary cirrhosis)

•Viêm gan do nhiễm độc (Toxic hepatitis)

•Bệnh Wilson (Wilson's disease)



NHỮNG YẾU TỐ NGUY HIỂM / YẾU TỐ RỦ DO (RISK FACTORS )

Những yếu tố có thể làm gia tăng nguy cơ bệnh gan bao gồm:
•Một công việc mưu sinh mà khiến bạn tiếp cận đến máu và dung dịch cơ thể của của người khác

•Sự truyền máu trước năm 1992

•Sự đục lỗ để đeo khuyên, đeo trang sức lên thân thể (thí dụ đục lỗ đeo hoa/bông tai)

•Một số loại thảo mộc và những chất bổ xung nào đó

•Một số thuốc theo toa bác sĩ

•Bệnh đái thoái đường / bệnh tiểu đường

•Sử dụng rượu mạnh

•Mực độ chất béo trung tính trong máu của bạn cao

•Tiêm chích ma túy mà sử dụng chung kim tiêm

•Bệnh mật ph́

•Xâm h́nh lên người

•Quan hệ t́nh dục không an toàn

•Làm việc với hóa chất hoặc chất độc mà không có biện pháp pḥng ngừa an toàn kèm theo



CHUẨN BỊ CHO CUỘC HẸN GẬP BÁC SĨ CỦA BẠN (PREPARING FOR YOUR APPOINTMENT)

Nếu bạn nghi ngờ bạn có vấn đề về gan, khởi đầu bằng cuộc hẹn gập bác sĩ gia đ́nh của bạn hoặc một bác sĩ đa khoa trước hết. Nếu được xác định rằng bạn có thể có vấn đề về gan, bạn có thể được giới thiệu đến một bác sĩ chuyên về gan (hepatologist).

Bởi v́ các cuộc hẹn có thể tóm tắt, và bởi v́ thường bao gồm nhiều vấn đề căn bản, ư tưởng chuẩn bị kỹ thật tốt cho cuộc hẹn của bạn . Dưới đây là một số thông tin để giúp bạn chuẩn bị cho cuộc hẹn của bạn, và những ǵ cần mong đợi từ bác sĩ.

Điều ǵ bạn có thể làm:
•Hăy cẩn thận về bất kỳ hạn chế nào trước cuộc hẹn. Vào thời điểm bạn lấy cuộc hẹn, hăy chắc chắn là có thể hỏi bất cứ điều ǵ bạn cần nên hỏi trước, chẳng hạn như hạn chế chế độ ăn uống dinh dưỡng của bạn

•Hăy viết ra bất kỳ triệu chứng nào bạn đang có, bao gồm bất kỳ những triệu chứng mà có vẻ không liên quan đến nguyên nhân cho cuộc hẹn theo thời hạn.

•Hăy viết ra những thông tin cá nhân quan trọng, bao gồm bất kỳ những căng thẳng chính yếu hoặc những thay đổi trong cuộc sống mới gần đây.

•Hăy làm 1 bảng liệt kê tất cả các loại thuốc , bao gồm luôn tất cả các loại vitamin hoặc các chất bổ xung, mà bạn sử dụng / uống

•Nên có 1 thân nhân hoặc người bạn đi cùng, nếu có thể . Đôi khi thật khó tiếp thu tất cả các thông tin được cung cấp trong một cuộc hẹn. Một người đi cùng bạn có thể nhớ một số điều ǵ đó mà bạn bị bỏ sót không nghe kịp hoặc quên

•Hăy viết ra những thắc mắc để hỏi bác sĩ bạn



Thời gian của bạn với bác sĩ rất giới hạn, nên việc chuẩn bị một bảng liệt kê các câu hỏi sẽ giúp bạn tận dụng tối đa thời gian đó. Bảng liệt kê các câu hỏi từ quan trọng nhất đến ít quan trọng hơn trong trường hợp hết thời gian. Đối với các vấn đề về gan, một số câu hỏi cơ bản để hỏi bác sĩ của bạn bao gồm:
•Điều ǵ dường như gây ra vấn đề về gan của tôi ?

•Tôi cần những loại xét nghiệm nào ?

•Lá gan của tôi bị vấn đề tạm thời hay măn tính ?

•Những vấn đề về lá gan của tôi có thể được điều trị không ?

•Có phương pháp điều trị làm giảm các dấu hiệu và triệu chứng của tôi không?

•Tôi có nên ngừng dùng một số thuốc bổ sung không?

•Tôi có nên tránh uống rượu không ?

•Tôi có nên gập chuyên gia không ? Chi phí sẽ là bao nhiêu và bảo hiểm của tôi có bao chi phí đó không?

•Có những tài liệu tóm tắt ngắn gọn hoặc tài liệu nhiều trang khác được in ra mà tôi có đem về không? Bác sĩ có đề nghị trang web nào cho tôi xem không ?



Ngoài các câu hỏi mà bạn đă chuẩn bị để hỏi bác sĩ, đừng ngần ngại đặt câu hỏi ở bất kỳ thời điểm nào mà bạn không hiểu điều ǵ đó.

NHỮNG XÉT NGHIỆM VÀ CHUẨN ĐOÁN (TESTS AND DIAGNOSIS)

Các xét nghiệm và tiến tŕnh được sử dụng để chẩn đoán những vấn đề về gan bao gồm:
•Những xét nghiệm máu . Xét nghiệm một nhóm máu được gọi là xét nghiệm chức năng gan có thể được sử dụng để chuẩn đoán những vấn đề về gan . Những xét nghiệm máu khác có thể được thực hiện để t́m rơ vấn dề ǵ của gan hoặc t́nh huống di truyền mà ảnh hưởng đến gan

•Xét nghệm h́nh ảnh / chuẩn đoán h́nh ảnh . Những tiến tŕnh mà tạo ra h́nh chụp lá gan của bạn, như là kỹ thuật rà quét vi tính chụp cắt lớp (computerized tomography Scan = CT scan),h́nh ảnh cộng hưởng từ trường (magnetic resonance imaging = MRI)và siêu âm (ultrasound), có thể tiết lộ / cho thấy vấn đề về gan.

•Những xét nghiệm về mô của gan. Một tiến tŕnh để lấy mô ra từ gan của bạn (sinh thiết gan = liver biopsy) có thể trợ giúp trong chẩn đoán các vấn đề về gan. Sinh thiết gan thường được thực hiện bằng cách sử dụng một cây kim dài đưa qua da để lấy ra một mẫu mô (kim sinh thiết = needle biopsy). Các mẫu mô được gửi đến một pḥng thí nghiệm, nơi nó có thể được quan sát dưới kính hiển vi.



UserPostedImage


H́nh ảnh siêu âm của Lá gan có khối u của website Mayo Clinic

ĐIỀU TRỊ VÀ THUỐC MEN (TREATMENTS AND DRUGS)

Điều trị bệnh gan phụ thuộc vào những chẩn đoán cho bạn. Một số vấn đề về gan có thể được điều trị bằng thuốc. Những vấn đề khác có thế đ̣i hỏi đến phẫu thuật

Cấy ghép gan có thể được yêu cầu cuối cùng cho vấn đề về gan mà gây ra sự suy gan.

NHỮNG THUỐC THAY THẾ (ALTERNATIVE MEDICINE)

Một số thảo dược bổ xung được sử dụng như là phương pháp điều trị thay thế thuốc có thể có hại cho gan của bạn. Để bảo vệ gan, hăy nói chuyện với bác sĩ về những rủi ro tiềm ẩn trước khi bạn dùng:
•Black cohosh

•Một số loại dược thảo Trung Quốc / thuốc Bắc, bao gồm ma-huang (Certain Chinese herbs, including ma-huang)

•Chaparral

•Comfrey

•Germander

•Greater celandine

•Kava

•Mistletoe

•Pennyroyal

•Skullcap

•Valerian



PH̉NG NGỪA (PREVENTIONS)

Pḥng ngừa những vấn đề về gan bằng cách bảo vệ lá gan của bạn. Ví dụ:
•Uống rượu vừa phải, nếu ở mọi t́nh huống / mọi trường hợp . Giới hạn số lượng rượu bạn uống không quá một ly mỗi ngày cho phụ nữ và không có nhiều hơn hai ly một ngày đối với nam giới.

•Hăy tránh những ứng sử hung hiểm. Tiếp nhận trợ giúp nếu bạn sử dụng bất hợp pháp các loại thuốc tiêm tĩnh mạch. Không dùng chung kim tiêm được sử dụng để tiêm chích ma túy. Nếu bạn chọn lựa quan hệ t́nh dục, sử dụng bao cao su . Nếu bạn chọn xâm h́nh lên người hay đục lỗ đeo khuyên lên cơ thể, cân phải cầu kỳ khén chọn sự sạch sẽ và an toàn khi đến các cửa tiệm mà bạn chọn ra.

•Tiếp nhận chủng ngừa. Nếu bạn đang có nguy cơ mắc bệnh viêm gan, hoặc nếu bạn đă bị nhiễm bất kỳ dạng viêm gan vurus/virut nào, hăy nói chuyện với bác sĩ về việc chủng ngừa viêm gan B. Một chủng ngừa cũng có sẵn cho bệnh viêm gan A.

•Sử dụng thuốc men một cách khôn ngoan. Chỉ sử dụng thuốc theo toa bác sĩ và thuốc không cần toa thuốc khi bạn cần thuốc đó và chỉ uống đúng liều lượng khuyến cáo. Không dùng thuốc trộn với rượu. Hăy nói chuyện với bác sĩ trước khi pha trộn thảo dược hay thuốc theo toa hoặc thuốc không cần toa thuốc.

•Tránh tiếp xúc với máu và dịch cơ thể của người khác. Bệnh viêm gan virus /virut có thể lây lan bằng sự đâm kim bất ngờ hoặc sự làm sạch máu hay chất dung dịch cơ thể không đúng cách . Cũng có thể bị lây nhiễm bởi việc dùng chung lưỡi dao cạo hoặc bàn chải đánh răng.

•Hăy cẩn thận với thuốc xịt aerosol. Khi bạn sử dụng một b́nh xịt aerosol để sạch, phải chắc chắn là căn pḥng được thông gió, hoặc phải đeo khẩu trang. Thực hiên các biện pháp bảo vệ tương tự như khi phun thuốc trừ sâu, thuốc diệt nấm, sơn và hóa chất độc hại khác. Luôn luôn tuân theo chỉ dẫn của nhà sản xuất.

•Hăy coi chừng những ǵ bám lên trên da của bạn. Khi sử dụng thuốc trừ sâu và hoá chất độc hại khác, che đậy da của bạn với găng tay, áo tay dài, đội mũ và mặt nạ.

•Chọn một chế độ ăn uống dinh dưỡng lành mạnh. Chọn một chế độ ăn uống dinh dưỡng thực vật với nhiều loại trái cây và rau quả. Hạn chế các thực phẩm giàu chất béo.

•Duy tŕ một trọng lượng cơ thể khỏe mạnh. Béo ph́ có thể gây ra một t́nh trạng gọi là bệnh gan nhiễm mỡ không do chất rượu cồn, có thể bao gồm gan mỡ, viêm gan và xơ gan.



Lynn Ly (17/12/2010)

florida80
04-05-2019, 18:12
TIẾN TRIỂN / DIỄN TIẾN BỆNH GAN
(THE PROGRESSION OF LIVER DISEASE)
Lynn Ly Phong Dịch theo trang web American Liver Foundation (Hiệp hội Gan của Hoa Kỳ)
( wXw.liverfoundation. org/abouttheliver/info/progression// )


Bệnh gan có rất nhiều loại khác nhau. Nhưng dù bất kể loại ǵ mà bạn mắc phải, những tổn hại cho gan của bạn dường như tiến triển trong cùng 1 chiều hướng tương tự.

Cho dù gan của bạn bị nhiễm virus / virut / siêu vi, do bị tổn thương do hóa chất, hoặc đang bị tấn công từ hệ thống tự miễn dịch của bạn , nguy hiểm cơ bản đều như nhau - đó là lá gan của bạn sẽ trở nên hư hỏng nặng nề khiến nó không thể tiếp tục làm công việc ǵn giữ sinh mạng của bạn .

LÁ GAN KHỎE MẠNH (THE HEALTHY LIVER)

Lá gan của bạn trợ giúp chống nhiễm trùng và làm sạch máu . Nó cũng trợ giúp tiêu hóa thức ăn và dự trữ năng lượng khi bạn cần đến . Một lá gan khỏe mạnh có khả năng tuyệt vời về sự phát triển trở lại, hoặc sự tái tạo / sự tái sinh khi nó bị hư hại . Bất cứ điều ǵ mà khiến lá gan của bạn không làm đúng nhiệm vụ của nó - hoặc không phát triển trở lại sau khi tổn thương - th́ có thể đưa cuộc sống của bạn gặp nguy hiểm

SỰ VIÊM NHIỄM (INFLAMMATION)

Ở giai đoạn đầu của bất kỳ bện gan nào, lá gan của bạn có thể bị viêm . Nó có thể trở nên mềm mỏng đi và bị to lên . Sự viêm biểu lộ ra cơ thể bạn đang cố gắng chống lại sự nhiễm trùng hoặc làm lành một tổn thương / chấn thương . Những t́nh trạng viêm tiếp tục kéo dài, nó có thể bắt đầu làm tổn thương lá gan của bạn vĩnh viễn .

Khi hầu hết các bộ phận khác của cơ thể bạn bị viêm, bạn có thể cảm giác ra - khu vực đó trở nên nóng và đau đớn. Tuy nhiên, một lá gan bị viêm có thể không gây cho bạn bất kỳ cảm giác khó chịu nào cả.

Nếu bệnh gan của bạn được chuẩn đoán và được trị liệu thành công ở giai đoạn này, sự viêm nhiễm có thể tan biến mất

SỰ XƠ HÓA (FIBROSIS)

Nếu không chữa trị, lá gan bị viêm (inflamed liver) sẽ bắt đầu có vết sẹo. Khi mô sẹo phát triển nhiều lên, chúng sẽ thay thế các mô gan khỏe mạnh. Quá tŕnh này được gọi là xơ hóa. (các mô sẹo là một loại mô xơ hóa.)

Những mô sẹo không thể làm công việc mà những mô gan khỏe mạnh có thể làm . Hơn thế nữa, những mô sẹo có thể không cho máu chạy qua gan . Khi mô sẹo tích tụ nhiều hơn, gan của bạn có thể làm tốt công việc như nó đă từng làm. Hoặc, phần lành mạnh của lá gan bạn phải làm việc nhiều hơn để bù cho phần bị sẹo (xơ hóa) trầm trọng.

Nếu bệnh gan của bạn được chẩn đoán và được điều trị thành công ở giai đoạn này, vẫn c̣n một cơ hội mà gan bạn có thể tự hồi phục / tự lành lại theo thời gian.

BỆNH XƠ GAN (CIRRHOSIS)

Nhưng nếu không chữa trị, gan của bạn có thể trở nên bị sẹo nghiêm trọng rồi th́ không c̣n có thể tự lành bệnh được. Giai đoạn này - khi mà sự tổn hại không thể đảo ngược / không thể làm lành lại - được gọi là bệnh xơ gan.

Bệnh xơ gan có thể dẫn đến một số biến chứng, bao gồm cả ung thư gan. Ở một số người, những triệu chứng của bệnh xơ gan có thể là dấu hiệu đầu tiên của bệnh gan.
•Bạn có thể chảy máu hoặc bầm tím dễ dàng (You may bleed or bruise easily)

•Nước có thể tích tụ ở chân bạn và / hoặc ở bụng (bệnh phù nề) (Water may build up in your legs and/or abdomen).

•Da và mắt của bạn có thể chuyển sang màu vàng, một t́nh trạng gọi là bệnh vàng da (Your skin and eyes may take on a yellow color, a condition called jaundice.)

•Làn da của bạn có thể bị ngứa ngáy dữ dội (Your skin may itch intensely).

•Trong các mạch máu dẫn đến lá gan, máu có thể bị dội ngược lại v́ sự tắc nghẽn. Các mạch máu có thể bị vỡ ra.

•Bạn có thể trở nên nhạy cảm / mẫn cảm với thuốc men cùng các phản ứng phụ của thuốc .

•Bạn có thể phát triển sự chống kháng insulin và bị tiểu đường loại 2 / bệnh đái tháo đường loại 2.

•Những độc tố có thể tích tụ trong năo của bạn, gây ra những vấn đề đối với khả năng tập trung suy tưởng , trí nhớ, giấc ngủ, hoặc những chức năng tâm thần / chức năng thần kinh khác



Một khi bạn đă được chẩn đoán là bị bệnh xơ gan, việc điều trị sẽ tập trung vào việc ǵn giữ t́nh trạng của bạn khỏi trở nên tồi tệ hơn. Sự việc này có thể ngăn chặn hoặc làm chậm quá tŕnh tổn thương lá gan. Điều quan trọng là bảo vệ các tế bào gan khỏe mạnh bạn tồn tại.

BỆNH SUY GAN / GAN KHÔNG C̉N HOẠT ĐỘNG (LIVER FAILURE)

Bệnh suy gan có nghĩa là gan của bạn đang mất dần hoặc mất tất cả các chức năng làm việc. Đó là một t́nh trạng đe dọa tính mạng mà yêu cần cần được chăm sóc về y tế khẩn cấp

Những triệu chứng đầu tiên của suy gan là thường buồn nôn, chán ăn, mệt mỏi, và tiêu chảy. Bởi v́ các triệu chứng này có thể có nhiều nguyên nhân, nó có thể là khó cho biết rằng gan đang bị mất chức năng hoạt động.

Nhưng khi suy gan tiến triển, các triệu chứng trở thành nghiêm trọng hơn. Bệnh nhân có thể trở nên lú lẫn và mất phương hướng, và cực kỳ buồn ngủ. Có nguy cơ về hôn mê sâu (coma) và chết . Việc trị liệu ngay lập tức là cần thiết . Các nhóm y tế sẽ cố gắng cứu chữa bất cứ một phần nào của lá gan vẫn hoạt động. Nếu việc này không thể thực hiện, sự lựa chọn duy nhất có thể là cấy ghép gan.

Khi bệnh suy gan xảy ra như là kết quả của bệnh xơ gan, căn bệnh này thường có nghĩa là lá gan đă đang mất khả năng hoạt động từng bước từng bước một theo thời gian, có thể trong ṿng nhiều năm. Điều này được gọi là suy gan măn tính.

Suy gan măn tính cũng có thể gây ra bởi sự suy dinh dưỡng . Hiếm khi hơn, suy gan có thể xảy ra thật bất ngờ, như trong ṿng ít nhất là 48 giờ. T́nh huống này được gọi là suy gan cấp tính và thường là một phản ứng đối với ngộ độc hoặc sử dụng thuốc quá liều

Bệnh Xơ Gan, Ung Thư Gan, và Suy Gan là những t́nh trạng nghiêm trọng mà có thể đe dọa tính mạng của bạn . Một khi bạn đến những giai đoạn này của bệnh gan, sự lựa chọn điều trị cho bạn có thể rất ư là giới hạn / rất ư bị hạn chế

Đó là lư do tại sao điều quan trọng là phát hiện bệnh gan mới khởi phát, ở trong giai đoạn viêm và xơ hóa. Nếu bạn được điều trị thành công ở các giai đoạn này, lágan của bạn có thể có một cơ hội để tự chữa bệnh và phục hồi.

Hăy báo cho bác sĩ của bạn về bệnh gan . T́m ra nếu bạn đang ở mức nguy hiểm hoặc nếu bạn nên trải qua những xét nghiệm nào đó hoặc tiêm chủng ngừa

Lynn Ly (19/12/2010)

florida80
04-05-2019, 18:13
CÁC LOẠI BỆNH PHỔI
(Types of Lung Disease)
Lynn Ly Biên Soạn tóm lược dựa theo thông tin Đại Học Y OHIO-Hoa Kỳ


Một số bệnh phổi gây ra vấn đề về thở không khí ra khỏi phổi được gọi là thở ra. "Thở ra" mà có vấn đề th́ được gọi là bệnh phổi tắc nghẽn (obstructive lung diseases). Đối với các loại bệnh phổi này, phổi trở nên lớn dần theo thời gian v́ không khí tồn đọng lại trong phổi. Những bệnh phổi trong nhóm này bao gồm:
•Bệnh phổi tắc nghẽn măn tính COPD (COPD-chroni obstructive pulmonary disease)

•Khí phế thũng (Emphysema)

•Viêm phế quản (Bronchitis)

•Giăn phế quản (Bronchiectasis)

•Xơ hóa nang = bệnh nhầy nhớt (Cystic Fibrosis = mucoviscidosis)
Lynn chú thích: Cystic Fibrosis là một căn bệnh di truyền của các tuyến ngoại tiết, thường phát triển trong thời thơ ấu và ảnh hưởng chủ yếu là tuyến tụy, hệ thống hô hấp, và tuyến mồ hôi. Căn bệnh có đặc trưng là việc sản xuất chất nhầy nhớt bất thường do các tuyến bị ảnh hưởng, điều này thường dẫn đến căn bệnh nhiễm trùng hô hấp măn tính và suy giảm chức năng tuyến tụy. Cystic Fibrosis cũng được gọi là mucoviscidosis.


•Hen suyễn (Asthma)

Các loại bệnh phổi khác th́ do hạn chế khả năng phổi giăn nở khi không khí được hít mang vào phổi. "Hít vào" mà có vấn đề th́ gọi là bệnh phổi hạn chế (restrictive lung diseases). Đối với các loại bệnh phổi này, phổi trở nên nhỏ dần theo thời gian . Những bệnh phổi trong nhóm này bao gồm:
• Xơ hóa phổi (Pulmonary fibrosis)

• Bệnh sarcoid (Sarcoidosis)

• Xơ cứng b́ (Scleroderma)

• Bệnh phổi do asbestos (Asbestosis)

• Bụi phổi silic , bệnh nhiễm silic ( Silicosis)

• Viêm khớp dạng thấp và Lupus (Rheumatoid Arthritis and Lupus)

Để biết bệnh nhân mắc phải loại bệnh phổi nào, bác sĩ có thể thực hiện kiểm tra hơi thở, chụp x-quang hay CT scan.

Hăy kiểm tra các bệnh phổi liệt kê trong trong danh sách trên. Nếu bạn không chắc chắn, hăy hỏi bác sĩ hay nhân viên phục hồi chức năng phổi để được trợ giúp.

BỘ PHẬN NÀO CỦA LÁ PHỔI BẠN ĐANG HOẠT ĐỘNG KHÔNG TỐT ?(WHAT PART OF YOUR LUNGS IS NOT WORKING RIGHT?)

Những căn bệnh về ống dẫn khí, đường hô hấp(Airway Diseases)

Một số căn bệnh về phổi ảnh hưởng đến đường hô hấp. Các đường hô hấp thường mở ra và không khí có thể đi xuyên qua chúng một cách dễ dàng. Khi đường dẫn khí bị hẹp lại hoặc chỉ mở ra ít ít v́ do bắp cơ thắt chặt (muscle tightening) hoặc chất nhầy tích tụ (mucus build up), khiến cho ít ít không khí có thể đi qua. Việc trao đổi dưỡng khí oxygen và thán khí carbon dioxide không xảy ra khi ḍng luân lưu của không khí suy giảm.
•Đối với bệnh hen suyễn (ashma), đường hô hấp có thể thắt chặt để làm ống dẫn khi bị thu hẹp. Một số người lại có nhiều chất nhầy tích tụ nên có thể khiến cho đường hô hấp tiếp tục bị thu hẹp.

•Đối với viêm phế quản (bronchitis), sự sưng phù (phù nề = swelling) xảy ra trong đường hô hấp và khi có nhiều chất nhầy tích lũy th́ càng kiến cho đường hô hấp bị hẹp hơn.

•Đối với bệnh giăn phế quản (bronchiectasis ) hoặc bệnh Xơ hóa nang /bệnh nhầy nhớt (Cystic Fibrosis = mucoviscidosis), chất nhầy tích tụ làm thu hẹp đường hô hấp / ống dẫn khí.

Bệnh hô hấp măn tính (Air Sac Disease = Chronic respiratory disease (CRD))

Những túi khí hoặc phế nang lành mạnh th́ rất đàn hồi (elastic) và chúng có thể để giăn dài và trở lại kích thước b́nh thường. Đối với khí phế thũng (Emphysema), các túi khí bị phá hủy hoặc bị mất khả năng căng giăn. Không khí bị kẹt lại bên trong các túi khí khiến cho dưỡng khi oxygen ít đi vào máu .

Bệnh phổi tắc nghẽn măn tính (COPD) (Chronic Obstructive Pulmonary Disease = COPD)

Căn bệnh phổi này th́ thường do kết hợp một số bệnh phổi, chẳng hạn như:
• Khí phế thũng(Emphysema)

• Viêm phế quản(Bronchitis)

• Hen suyễn(Asthma)

Ở căn bệnh này, đường hô hấp (đường dẫn khí) và các túi khí (air sac) có vấn đề khiến làm giảm sự trao dổi dưỡng khi oxygen và thán khi carbon dioxide.

Bệnh Mô Liên Kết (Connective Tissue Diseases)

Trong một số bệnh phổi, các lớp ở giữa các túi khí và các mạch máu mà lớp này được gọi là mô liên kết(connective tissue) bị sưng phồng lên hoặc bị những vết sẹo/thẹo. Điều này có thể làm suy giảm khả năng giăn nở của phổi . Điều này làm suy giảm trao đổi dưỡng khí oxygen từ phổi vào máu. Điều này có thể xảy ra đối với những căn bệnh như sau:
• Bệnh sarcoid (Sarcoidosis)

• Xơ hóa phổi (Pulmonary fibrosis)

• Bệnh phổi do asbestos (Asbestosis)

• Bụi phổi silic , bệnh nhiễm silic ( Silicosis)

• Xơ cứng b́ (Scleroderma)

florida80
04-05-2019, 18:16
H́nh Ảnh Các Loại Bệnh về Mắt : Cách Nhận Ra Những T́nh Trạng Phổ Biến về Mắt
(Eye Diseases Pictures Slideshow: Recognize These Common Eye Conditions)
Lynn Ly Phỏng Dịch từ Trang Web MedicineNet.com ( ww.medicinenet.com/eye_diseases_picture s_slideshow/article.htm ) [/b]


Nhiều người Mỹ bỏ quên những dấu hiệu biểu hiện về những bệnh mắt và Tŕnh Trạng Mắt

UserPostedImage
H̀nh ảnh cặp mắt ở tŕnh trạng khỏe mạnh - the picture of MedicineNet.com

Một cuộc khảo sát gần đây ở 1,000 người lớn cho thấy rằng gần phân nửa - 47% - lo ngại nhiều về việc mất thị giác hơn là mất trí nhớ và khả năng đi đứng hay thính giác . Tuy nhiên gần 30% cho biết rằng họ không được kiểm tra khám mắt . Nhiều người Mỹ không biết quan tâm về những dấu hiệu cảnh báo của các bệnh về mắt và các t́nh trạng mà có thể gây ra tổn hại và mù ḷa nếu không được phát hiện và điều trị sớm. Chúng ta hăy xem xét một số các bệnh về mắt phổ biến nhất và những t́nh trạng

GIẢI PHẪU HỌC VỀ MẮT (ANATOMY OF THE EYE)

UserPostedImage
Giải Phẫu học về Mắt -The picture of MedicineNet.com

Mắt được tạo thành từ nhiều thành phần. Khi bạn tiến hành theo dơi từng h́nh ảnh theo thứ tự, bạn có thể sử dụng những h́nh minh hoạ để tham khảo cấu trúc chính yếu cũng như giải phẫu học về mắt.

•Giác mạc (Cornea): Cánh cửa sổ trong suốt nằm ở phía trước của mắt mà ánh sáng truyền qua và hội tụ vào trong mắt.
(Lynn phụ chú: Giác mạc là một mảnh mô trong suốt nằm phía trước tṛng đen c̣n gọi là con ngươi)


•Mống mắt / Tṛng đen (Iris): Phần có mầu của mắt mà giúp điều chỉnh lượng ánh sáng đi vào mắt


•Con ngươi / Đồng tử (Pupil): Lỗ mở (aperture) tối trong mống mắt /tṛng đen mà xác định số lượng ánh sáng được cho phép vào trong mắt


•Thủy Tinh Thể / Thấu kính (Lens): Cấu trúc trong suốt bên trong mắt nơi hội tụ những tia ánh lên trên vơng mạc


•Vơng mạc (Retina): Màng mỏng dây thần kinh lót mặt trong thành nhăn cầu giúp ta cảm nhận ánh sáng, và tạo ra những xung điện (electrical impulses) mà di chuyển xuyên qua dây thần kinh thị giác đi tới năo.


• Hoàng Điểm / Điểm vàng (Macula): Vùng nhỏ trung tâm trong vơng mạc mà chứa đựng các tế bảo đặc biệt nhạy cảm với ánh sáng và cho phép chúng ta nh́n thấy những chi tiết một cách rơ ràng


•Dây thần kinh thị giác (Optic nerve): Thần kinh kết nối mắt tới năo và mang những xung điện được h́nh thành bởi vơng mạc (retina) tới vỏ năo thị giác (visual cortex) của năo bộ.


•Pha Lê Thể / Dịch Kính (Vitreous): chất dung dịch có dạng keo trong suốt mà nằm ở trong nhăn cầu .
(Lynn phụ chú: Pha Lê Thể / Dịch Kính là một khối dung dịch lỏng trong suốt, nằm ở ngay sau đồng tử / con ngươi và trước vơng mạc. Pha Lê Thể / Dịch Kính có khả năng điều tiết và hội tụ các tia sáng lên vơng mạc giúp chúng ta nh́n rơ ràng.)



BỆNH GLÔCÔM / BỆNH TĂNG NHĂN ÁP / BỆNH CƯỜM NƯỚC (GLAUCOMA)


UserPostedImage
Bệnh Glôcôm / Bệnh Tăng Nhăn Áp / Cườm Nước - The picture of MedicineNet.com

Bệnh Glôcôm / Bệnh Tăng Nhăn Áp / Cườm Nước (Kẻ trộm tầm nh́n thị giác = the sneak thief of sight) dùng để chỉ các bệnh mắt nhất định có ảnh hưởng đến các dây thần kinh thị giác và gây ra sự mất thị giác . Căn bệnh thường tạo áp lực cao trong mắt (nhăn áp cao), gọi là áp suất trong mắt (intraocular pressure = IOP) và thông thường có thể được phân loại là 1 trong 2 loại bệnh tăng nhăn áp như bệnh tăng nhăn áp góc mở (open-angle glaucoma) (là tŕnh trạng măn tính do thời gian kéo dài) hoặc bệnh tăng nhăn áp góc đóng (close-angle glaucoma) (angle closure = sự đóng góc), mà xảy ra đột ngột . Những người cao tuổi, người Mỹ gốc Phi, và những người có lịch sử gia đ́nh về bệnh này có nguy cơ mắc bệnh cao nhất . Không có các triệu chứng trong những giai đoạn đầu và vào khoảng thời gian mà bệnh nhân lưu ư nhận ra thị lực thay đổi, sự mất thị giác do bởi bệnh Bệnh Glôcôm / Bệnh Tăng Nhăn Áp /Cườm Nước chỉ có thể được chận đứng lại, chứ không thể làm đảo ngược cho tốt lại . Bệnh Glôcôm / Bệnh Tăng Nhăn Áp /Cườm Nước thường được điều trị bằng thuốc nhỏ mắt, mặc dù laser và phẫu thuật cũng có thể được sử dụng. Hầu hết các trường hợp có thể được kiểm soát tốt với các phương pháp trị liệu, do đó ngăn ngừa được sự mất mát thêm nữa về tầm nh́n. Chẩn đoán sớm và điều trị là ch́a khóa để giữ ǵn tầm nh́n thị lực ở những người bị bệnh Glôcôm / Bệnh Tăng Nhăn Áp / Bệnh cườm Nước

Lynn Ly phụ chú: Lynn theo cách gọi tên bệnh Glôcôm là bệnh Cườm Nước của bác sĩ nhăn khoa Nguyễn Cường Nam . Lynn sẽ bổ xung bài viết của Bác Sĩ Nhăn Khoa Nguyễn Cường Nam sau


BỆNH ĐỤC THỦY TINH THỂ (CATARACTS)

UserPostedImage
Bệnh Đục Thủy Tinh Thể - The picture of MedicineNet.com

Bệnh Đục Thủy Tinh Thể (Cataracts) là một t́nh trạng không đau đớn mà nơi Thủy Tinh Thể / thấu kính trong suốt của mắt có kích thước cỡ viên thuốc aspirin b́nh thường bắt đầu trở nên như có đám mây trong đó. Kết quả rất giống vết dầu mỡ hoen ố trên thấu kính của máy chụp h́nh khiến suy giảm thị lực b́nh thường (normal vision). Nguyên nhân của đục thủy tinh thể bao gồm thuốc do cortisone, chấn thương, tiểu đường, và lăo hóa (aging). Trong thực tế, đục thủy tinh thể sẽ ảnh hưởng đến hầu hết mọi người, nếu người có tuổi thọ dài . Chuẩn đoán có thể được được thực hiện khi một bác sĩ kiểm tra mắt với một công cụ khám mắt . Các triệu chứng của đục thủy tinh sớm có thể được cải thiện bằng các loại kính mới, làm tia sáng chiếu sáng hơn, kính râm chống ánh sáng chói ḷa, hoặc loại thấu kính phóng ảnh lớn (kính lúp = magnifying lenses). Nếu những biện pháp này không giúp đỡ được, phẫu thuật loại bỏ thủy tinh thể bị mờ như có mây và thay thế nó bằng một thủy tinh thể nhân tạo là điều trị duy nhất có hiệu quả. Việc loại bỏ chỉ cần thiết khi sự mất mát thị lực ảnh hưởng đến các hoạt động hàng ngày của bạn, chẳng hạn như lái xe, đọc sách, hoặc xem TV. Bạn và bác sĩ nhăn khoa của bạn có thể thảo luận về phẫu thuật và một khi bạn hiểu rơ những lợi ích cũng như những nguy cơ, bạn có thể khẳng định là nên phẫu thuật điều trị bệnh đục thủy tinh thể là phù hợp cho bạn hay không . Trong hầu hết các trường hợp, việc đ́nh trệ phẫu thuật điều trị bệnh đục thủy tinh thể sẽ không gây tổn hại lâu dài cho mắt của bạn hoặc làm phẫu thuật trở nên khó khăn .

BỆNH THOÁI HÓA HOÀNG ĐIỂM DO TUỔI TÁC (AGE-RELATED MACULAR DEGENERATION (AMD) )

UserPostedImage
Bệnh Thoái hóa Hoàng Điểm do Tuổi Tác - The picture of MedicineNet.com

Thoái hóa Hoàng Điểm do Tuổi Tác là một bệnh về mắt thường khởi phát sau 60 tuổi mà dần dần phá hủy hoàng điểm , phần trung tâm của vơng mạc, làm suy yếu trung tâm thị lực . Căn bệnh ít khi gây mù ḷa bởi v́ chỉ có trung tâm của thị lực / tầm nh́n bị ảnh hưởng. Có hai loại thoái hóa hoàng điểm do tuổi tác - loại ướt và loại khô - không có loại nào của bệnh này gây đau đớn cả . Ở loại thoái hóa hoàng điểm ướt do tuổi tác (Wet AMD) , các mạch máu bất thường ở phía sau vơng mạc bắt dầu lớn dần lên ở bên dưới hoàng điểm và ṛ rỉ máu cùng chất dịch gây nên sự mất mát tầm nh́n trung ương mà sự suy giảm thị lực có thể xảy ra nhanh chóng . Việc điều trị bao gồm phẫu thuật laser, liệu pháp Photodynamic, và tiêm thuốc vào mắt. Không ai trong trường hợp này sẽ được chữa khỏi bệnh và sự mất mát về tầm nh́n vẫn c̣n có thể tiếp tục tiến triển . Ở loại thoái hóa hoàng điểm khô do tuổi tác (Dry AMD) , những tế bào nhạy cảm với ánh sáng ở trong hoàng điểm từ từ bị phân hủy gây nên tầm nh́n trung ương bị thu hẹp theo theo gian . Giai đoạn đầu của bệnh thoái hóa hoàng điểm khô do tuổi tác (Dry AMD) có thể được điều trị bằng các chất chống oxy hóa và kẽm với công thức ở liều lượng cao, việc này có thể tŕ hoăn và có thể ngăn ngừa bệnh thoái hóa hoàng điểm khô phát triển đến các giai đoạn nặng hơn . Một khi đă ở giai đoạn cuối / giai đoạn trầm trọng, th́ không có h́nh thức điều trị nào có thể khôi phục sự mất mát về thị lực

BỆNH BONG VƠNG MẠC (RETINAL DETACHMENT)

UserPostedImage
Bệnh Bong Vơng Mạc (Retinal Detachment) - The picture of MedicineNet.com

Bệnh Bong Vơng Mạc là một sự tách rời vơng mạc từ phần nó gắn kết đến những mô nằm bên dưới nó ở trong mắt . Đa số bệnh bong vơng mạc là kết quả do vơng mạc bị vỡ, bị lủng lỗ , hoặc bị rách . Mội khi vơng mạc bị rách , chất lỏng từ chất dịch kính ( vitreous gel = chất keo trong veo mà phủ hết phần trong của nhăn cầu) đi qua vết rách và tích tụ phía sau vơng mạc. Sự tích tụ gia tăng của chất dịch lỏng bên dưới vơng mạc là nguyên nhân làm tách vơng mạc ra khỏi mặt sau của mắt . Những tia chớp / lóe sáng và những đóm sáng di chuyển có thể là triệu chứng ban đầu của bệnh bong vơng mạc hoặc triệu chứng ban đầu của vơng mạc bị rách mà dẫn đến sự tự tách rời . Bệnh Bong Vơng Mạc có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi nhưng phổ biến nhất xảy ra ở người lớn trẻ (25-50 tuổi), người bị cận thị nặng và ở người lớn tuổi sau phẫu thuật đục thủy tinh thể. Phẫu thuật trị liệu cho bệnh bong vơng mạc thường thành công trong việc gắn lại vơng mạc, mặc dù tiến tŕnh phẫu thuật có thể cần thiết phải làm nhiều lần. Một khi vơng mạc được gắn dính lại, tầm nh́n thường được cải thiện và sau đó ổn định.

BỆNH VIÊM KẾT MẠC VI KHUẨN CẤP TÍNH TRUYỀN NHIỄM ( BACTERIAL CONJUNCTIVITIS (PINK EYE) )

UserPostedImage
Bệnh Viêm Kết Mạc Vi Khuẩn Cấp Tính Truyền Nhiễm ( Bacterial Conjunctivitis (Pink Eye) )
The picture of MedicineNet.com

Viêm kết mạc cấp tính truyền nhiễm (Pink Eye), hay bệnh viêm kết mạc (conjunctivitis), thường bị đỏ và viêm màng niêm mạc (conjuctiva), màng niêm mạc là màng bao trùm tṛng trắng của mắt và những màng nằm trên phần bên trong của mi mắt. Thuật ngữ "Pink Eye = đau mắt đỏ" được sử dụng phổ biến nhất để chỉ loại bệnh truyền nhiễm do virus hay vi khuẩn của bệnh viêm kết mạc truyền nhiễm (conjunctivitis), tuy nhiên cũng có thể là kết quả từ phản ứng do dị ứng hay những chất kích thích hóa học như sự ô nhiễm không khí, khói hay khí độc hại . Các h́nh thức lây nhiễm này rất phổ biến ở trẻ em và rất dễ lây lan . Trẻ em và người lớn mà bị viêm kết mạc cấp tính truyền nhiễm phát triển cần nên gặp bác sĩ để xác định xem việc điều trị kháng sinh là cần thiết hay không . Phần lớn các trường hợp lây nhiễm là do virus và sẽ không có phản ứng với thuốc kháng sinh. Trong trường hợp này, chất gèn / gỉ mắt th́ trong veo và như nước và là triệu chứng của bệnh cảm. Sự lây nhiễm do virus th́ kéo dài từ 7 đến 10 ngày . Bệnh viêm kết mạc cấp tính truyền nhiễm do vi khuẩn (Bacterial pink eye) thường cho kết quả là có 1 lượng lớn chất gèn / gỉ mắt mầu xanh xanh vàng vàng . Chất gèn này có thể tích lũy vào ban đêm và khiến cho việc mở mắt trở nên khó khăn vào buổi sáng . Bệnh viêm kết mạc cấp tính truyền nhiễm do vi khuẩn (Bacterial pink eye) thường kéo dài từ 3 đến 5 ngày và đ̣i hỏi phải nhỏ thuốc kháng sinh để trợ giúp cơ thể loại bỏ các vi khuẩn gây lây nhiễm . Sử dụng khăn ấm ấm để lau chùi vùng mắt cũng có hiệu quả loại bỏ chất gèn / gỉ mắt . Để làm giảm cơ hội lây lan truyền nhiễm căn bệnh viêm kết mạc cấp tính truyền nhiễm / bệnh mắt đỏ , những người bị ảnh hưởng nên tránh lấy tay đụng chạm vào vùng mắt và nên rửa tay thường xuyên, đặc biệt là trước khi nhỏ thuốc vào mắt . Dùng chung khăn lau, bông vải lau, mỹ phẩm hoặc thuốc nhỏ mắt cũng có thể lây bệnh .

BỆNH VIÊM MÀNG MẠCH NHO / VIÊM MÀNG BỒ ĐÀO (UVEITIS)

UserPostedImage
Bệnh viêm màng mạch nho / viêm màng bồ đào (Uveitis) -
The picture of MedicineNet.com

Bệnh viêm màng mạch nho / viêm màng bồ đào (Uveitis) (được phát âm là you-vee-EYE-tis ) bao gồm tất cả các quá tŕnh viêm nhiễm của những lớp màng chính giữa của mắt, cũng được gọi là vùng bồ đào hay màng bồ đào / bồ đào mạc (uvea) . Màng bồ đào / bồ đào mạc rất quan trọng v́ có nhiều tĩnh mạch và động mạch chuyên chở máu đến các bộ phận của mắt mà những bộ phận này rất quan trọng cho thị giác . Các triệu chứng của bệnh viêm màng bồ đào có thể bao gồm mắt bị đỏ và ngứa ngáy, mờ mắt, mắt đau nhức, độ nhạy cảm với ánh sáng tăng (dễ bị chói mắt), và thấy các đốm sáng bay bay (như đom đóm bay bay = floating spots). Những nguyên nhân chính bao gồm lây nhiễm do 1 loại virus, nấm, vi khuẩn hoặc kư sinh (parasite), 1 loại bệnh viêm mà đang ảnh hưởng trên các bộ phận khác của cơ thể, hoặc bị chấn thương ở mắt . Bởi v́ bệnh viêm màng bồ đào là nghiêm trọng, việc điều trị cần phải bắt đầu ngay lập tức . Đối với bệnh viêm màng bồ đào mà nguyên nhân không gây ra do nhiễm trùng, bác sĩ nhăn khoa (ophthalmologist ) của bạn có thể khai thuốc nhỏ mắt chứa chất steroid để làm giảm sưng và thuốc để giảm đau. Thuốc kháng sinh cần được sử dụng ở bệnh nhân bị bệnh viêm màng bồ đào do truyền nhiễm . Kính đeo có mầu tối (kính râm) sẽ trợ giúp cho cảm giác bị chói mắt (light sensitivity = sự nhạy cảm về ánh sáng ).

BỆNH MẮT BỊ DỊ ỨNG (EYE ALLERGIES)

UserPostedImage
Bệnh Mắt bị dị ứng (Eye Allergies) -
The picture of MedicineNet.com

Những triệu chứng mắt bị dị ứng khốc liệt có thể là rất khó chịu và là nguyên nhân phổ biến cho việc đi thăm khám tại các chuyên gia về bệnh dị ứng hoặc bác sĩ nhăn khoa . Thỉnh thoảng, những dị ứng về mắt khốc liệt gây ra những thiệt hại nghiêm trọng và đe dọa đến thị lực . Bệnh mắt dị ứng thường liên quan đến những t́nh trạng bị dị ứng khác, bệnh sốt đặc tính mùa hè (particularly hay fever) = bệnh viêm mũi dị ứng (allergic rhinitis) và viêm da (atopic eczema = dermiatitis) . Thuốc và mỹ phẩm cũng có thể đóng một vai tṛ quan trọng trong gây dị ứng mắt. Hầu hết những người bị dị ứng mắt tự chữa trị và làm như vậy cũng khá hiệu quả đối với các sản phẩm OTC như thuốc nhỏ mắt cũng như các thuốc kháng histamin (antihistamines) và những tác nhân làm tản máu (decongestants). Nếu những biện pháp trị liệu này không hiệu quả hoặc nếu mắt bị đau nhức , bị đỏ cùng cực, hoặc chảy nhiều gèn /nhiều gỉ mắt , bạn nên đi khám bệnh .

BỆNH MẮT NỔI MỤN LẸO ( STY (STYE) )

UserPostedImage
Bệnh Mắt Nổi Mụn Lẹo ( Sty (Stye) ) -
The picture of MedicineNet.com

Bệnh Mắt nổi mụn lẹo (Sty đôi khi c̣n viết là Stye) là 1 cục u nho nhỏ, mầu đỏ , cứng cứng và đau nhức nằm ngay tại chân lông mi hoặc bên trong mí mắt . Mắt nổi mụn lẹo là do một sự nhiễm trùng cấp tính của tuyến dầu của mí mắt mà xảy ra sau khi các tuyến này bị bế tắc . Một mụn lẹo cũng có thể phát sinh từ một nang lông tóc bị nhiễm trùng tại chân lông mi . Triệu chứng phổ thông là đỏ, cứng và đau nhức tại vùng bị ảnh hưởng . Mắt có thể có cảm giác ngứa ngáy hoặc bị "ngứa ngáy như cào cấu" . Triệu chứng sau đó có thể bao gồm sưng tấy , không thoải mái khi chớp mắt, chảy nước mắt , và bị nhạy cảm với ánh sáng / bị chói măt . Một dấu hiệu phổ biến của 1 mụn lẹo là có 1 điểm nho nhỏ màu vàng ở chính giữa cục mụn mà phát triển lan rộng thành mủ trong khu vực . Những người ở mọi lứa tuổi và cả hai giới tính đều có thể bị mụn lẹo . Việc áp dụng dùng vật trườm nóng hoặc khăn lau nóng vào khu vực bị ảnh hưởng khoảng 10 phút, 4 đến 6 lần trong 1 ngày, có thể tăng tốc độ làm vỡ mụn lẹo và trợ giúp giảm những triệu chứng . Một mụn lẹo không nên nặn ra hay bóp cho thoát chất dịch . Nếu một mụn leo tồn lại trong nhiều ngay, bác sĩ có thể rạch 1 đường trên vùng bị viêm nhiễm để làm thoát chất dịch mủ kết hợp sự gây tê khu vực .

Lynn phụ chú: Từ kinh nghiệm thực tế của 1 bác sĩ nhăn khoa , ông chia sẻ kinh nghiệm điều trị bệnh mắt nổi mụn lẹo là trườm lạnh (trườm nước đá) thay v́ trườm nóng th́ hiệu quả trị liệu nhanh hơn !!! ( Theo trang web Clinical Advices - 1 website chuyên ngành )


BỆNH GIÁC MẠC H̀NH CHÓP / H̀NH NÓN (KERATOCONUS)

UserPostedImage
Bệnh Giác Mạc H́nh Chóp / H́nh Nón (Keratoconus) -
The picture of MedicineNet.com

Chúng ta nh́n xuyên qua giác mạc (cornea), giác mạc là bộ phận chính giữa, trong suốt nằm ở bề mặt phía trước của mắt / nhăn cầu . Thông thường, giác mạc có một h́nh dạng tṛn, như một quả bóng bàn (ping-pong ball) . Tuy nhiên, thỉnh thoảng th́ cấu trúc của giác mạc không đủ mạnh dể giữ h́nh dạng tṛn này . Áp lực b́nh thường trong mắt làm cho giác mạc phồng ra ngoài giống như một h́nh nón, gây ra sự méo mó h́nh ảnh khi nh́n (distorted vision). T́nh trạng này được gọi là Bệnh Giác Mạc H́nh Chóp / H́nh Nón (Keratoconus). Nguyên nhân thông thường của Bệnh Giác Mạc H́nh Chóp / H́nh Nón (Keratoconus) chưa được biết rơ . Các bệnh thường thường không gây ra mù ḷa . Tuy nhiên, những thay đổi về giác mạc sẽ làm nó không thể khiến cho mắt điều chỉnh tiêu điểm tốt ngay cả khi đeo kính hay kính áp tṛng loại mềm mại (soft contact lens). Kính áp tṛng loại cứng (rigid contact lenses) hoặc việc cấy ghép giác mạc có thể cần thiết để cung cấp tầm nh́n tốt .

BỆNH VIÊM MÍ MẮT (BLEPHARITIS)

UserPostedImage
Bệnh Viêm Mí Mắt (Blepharitis) -
The picture of MedicineNet.com

Bệnh Viêm Mí Mắt / bệnh toét mắt (Blepharitis) là 1 sự viêm mí mắt và xuất hiện ở 2 dạng, phía trước (phía bên ngoài mí mắt) và phía sau (bên trong mí mắt) . Cả hai loại viêm mí mắt này đều có thể gây ra sự nóng rát hay cảm giác cơ thể có dị vật, toét rách ra, ngứa ngáy, chói mắt , mí mắt bị đỏ sưng , mắt bị đỏ, mờ mắt , nước mắt có bọt (frothy tear), mắt khô, có vẩy li ti tại chân lông mi (flaking at the base of the lashes), hoặc có những chất gỉ (gèn) tại lông mi sau khi tỉnh giấc ngủ . Những nguyên nhân phổ biến về bệnh viêm mí mắt bờ mi phía ngoài là do vi khuẩn (Vi khuẩn tụ cầu = Staphylococcus) và gầu da dầu (scalp dandruff), trong khi đó những loại viêm mi mắt phía bên trong mí mắt th́ gây ra bởi những vấn đề về các tuyến chất nhờn / tuyến dầu trong mí mắt . Việc điều trị cho cả 2 loại bệnh viêm mí mắt này bao gồm việc giữ ǵn mí mắt sạch sẽ và không để mí mắt dính bụi bặm chất gỉ . Những miếng gạc âm ấm / dụng cụ trườm nóng âm ấm (warm compresses) nên được áp dụng để làm lỏng lớp gỉ gèn cứng , tiếp theo sau là chà chà nhẹ nhẹ bằng que g̣n có thấm hợp chất nước chộn với xà bông trẻ sơ sinh . Bởi v́ bệnh viêm mí mắt hiếm khi khỏi hẳn, hầu hết các bệnh nhân phải duy tŕ thói quen vệ sinh về mắt suốt đời . Nếu bệnh viêm mí mắt nghiêm trọng, bác sĩ nhăn khoa cũng có thể khai toa thuốc kháng sinh hoặc thuốc nhỏ mắt có chất steroid.

BỆNH LOÉT GIÁC MẠC (CORNEAL ULCER)

UserPostedImage
Bệnh Loét Giác Mạc (Corneal Ulcer) -
The picture of MedicineNet.com

Hầu hết các bệnh Loét Giác Mạc bị gây nên bởi sự nhiễm trùng và có thể là do vi khuẩn (do vi khuẩn th́ phổ biến ở những người đeo kính áp tṛng (contact lenses)), virus herpes simplex và virus varicella, hoặc nấm (do sự chăm sóc kính áp trong không đúng cách hoặc dùng thuốc nhỏ mắt quá hạn mà có chứa chất steroids). Những triệu chứng bao gồm là mắt đỏ, đau nhức, cảm giác giống như có vật ǵ ở trong mắt, chảy nước mắt, chảy mủ / chất gèn / chất gỉ mắt đặc, mờ mắt / nh́n không rơ, đau nhức khi thấy ánh sáng, mí mắt bị sưng, hoặc có 1 điểm trắng hay xám tṛn tṛn trên giác mạc . Việc tự điều trị bao gồm việc tháo bỏ kính áp tṛng, sử dụng dụng cụ trườm lạnh vào mắt bị ảnh hưởng, rửa tay thường xuyên và dùng thuốc trị đau OTC như Tylenol hoặc Motrin . Bất kỳ ai mà bị bệnh Loét Giác Mạc cần nên được thăm khám ngay lập tức bởi bác sĩ nhăn khoa , bác sĩ sẽ làm thử nghiệm và rất có thể khai toa thuốc kháng sinh và thuốc nhỏ mắt khác . Nếu vết loét tồn tại và trở nên nặng hơn, một tiến tŕnh phẫu thuật cấy ghép giác mạc có thể được thực hiện .

BỆNH VƠNG MẠC TIỂU ĐƯỜNG (DIABETIC RETINOPATHY)

UserPostedImage

Bệnh Vơng Mạc Tiểu Đường (Diabetic retinopathy), một biến chứng thường gặp của bệnh tiểu đường, ảnh hưởng đến các mạch máu ở vơng mạc (lớp màng mỏng nhạy cảm với ánh sáng bao phủ phần sau của mắt). Bệnh Vơng Mạc Tiểu Đường là do vơng mạc không tiếp nhận đủ dưỡng khí oxy . Nếu không trị liệu, căn bệnh này có thể dẫn đến mù ḷa . Nếu được chẩn đoán và điều trị kịp thời, sự mù ḷa thường được ngăn chặn. Bệnh này có 2 loại: bệnh vơng mạc không tăng sinh (nonproliferative retinopathy) và bệnh vơng mạc tăng sinh (proliferative retinopathy) . Bệnh vơng mạc không tăng sinh (nonproliferative retinopathy) là loại ít khốc liệt hơn trong đó có thể có sự chảy máu (hemorrhages = bleeding) trong vơng mạc và sự ṛ rỉ máu hoặc huyết thanh (serum) gây ra sự ẩm ướt vơng mạc (a wet retina) . Rồi th́ như vậy hệ quả tầm nh́n có thể bị thu hẹp lại . Bệnh vơng mạc tăng sinh (proliferative retinopathy) là loại khốc liệt hơn của bệnh vơng mạc tiểu đường (Diabetic retinopathy). Những ống mạch mới mà dễ vỡ dị thường phát triển trên bề mặt của vơng mạc và có thể phát triển lớn lên về phía trung tâm của mắt . Những ống mạch này thường xuyên chảy máu vào trong dịch kính / pha lê thể (vitreous = pha lê thể là lớp dịch keo trong suốt tại trung tâm của nhăn cầu). Những đợt chảy máu như vậy gây ra những vấn đề thị giác nghiêm trọng . Việc điều trị là phẫu thuật laser hoặc phẫu thuật trên pha lê thể / dịch kính (vitreous) . Những kỹ thuật này có thể làm chậm tiến tŕnh của căn bệnh vơng mạc tiểu đường và đôi khi sẽ đảo ngược sự mất mát thị giác (ư nói là có thể khôi phục thị giác). Tuy nhiên những tổn hại trong thực hiện có thể là vĩnh viễn . Bệnh Vơng Mạc Tiểu Đường có thể được ngăn ngừa bằng sự sửa đổi lối sống, bao gồm việc giảm cân / giảm trọng lượng cơ thể, thay đổi chế độ dinh dưỡng, và thể dục . Thêm vào đó, việc kiểm soát kỹ càng lượng đường huyết làm giảm tỉ lệ và tiến triển của bệnh vơng mạc tiểu đượng

BỆNH MẮT LÉ (MẮT LÉ TRONG = HAI MẮT DI CHUYỂN HƯỚNG VÀO NHAU) (STRABISMUS (CROSSED EYES) )

UserPostedImage
Bệnh Mắt Lé ( Lé Trong = Hai mắt di chuyển hướng vào nhau) (Strabismus (crossed eyes) ) -
The picture of MedicineNet.com

Bệnh mắt lé (Strabismus) , cũng được biết là bệnh mắt lé trong (hai mắt đâu vào nhau / hướng vào nhau ) (Crossed eyes), là một t́nh trạng hai mắt không thể nh́n về 1 vật cùng phương hướng như nhau . Một trong hai mắt có thể nh́n vào trong hay ra ngoài hoặc chuyển hướng lên trên hoặc xuống dưới (gọi là lé trong, lé ngoài , lé trên , lé dưới) . Sự nguy hiểm về bệnh mắt lé là năo bộ có thể tin cậy vào một mắt này hơn mắt kia và con mắt ít được năo bộ sử dụng sẽ không phát triển đúng cách, dẫn đến mù con mắt này . Cách điều trị cổ điển cho mắt lé nhẹ đến lé vừa phải là thường xuyên dùng 1 mảng che mắt (eyepatch) để bịt con mắt khỏe , việc làm này thúc đẩy con mắt yếu hơn phải làm việc tốt lên để theo kịp con mắt khỏe . Mắt lé nặng có thể cần đến phẫu thuật .

Chú Thích: Do Lynn tổng hợp các định nghĩa từ nhiều trang web vision problems , th́ tóm gọn như sau :
Strabismus là bệnh lé mắt (hay lác mắt), ... Nhưng mắt lé hay mắt lác có phân ra làm mấy loại theo chiều hướng lệch lạc của mắt như
• Lé trong (2 mắt hướng vào sống mũi , 2 mắt đâu vào nhau ) = crossed - eyes

• Lé ngoài (2 mắt hướng ra ngoài , về hướng thái dương) = Walleyes

• Lé trên (1 mắt có xu hướng nh́n lên trên, cao hơn so với mắt kia ) = hypertropia

• Lé dưới (1 mắt có xu hướng nh́n xuống dưới , thấp hơn so với mắt kia ) = hypotropia

Bệnh mắt lé Strabismus thường hay phát triển đến t́nh trạng 1 mắt không làm việc , hoặc làm việc rất ít th́ gọi là Amblyopia hay "lazy eye" (mắt làm biếng)


Lynn ly ( 21/01/2010 )

florida80
04-05-2019, 18:18
H́nh Ảnh Các Loại Bệnh về Mắt : Cách Nhận Ra Những T́nh Trạng Phổ Biến về Mắt
(Eye Diseases Pictures Slideshow: Recognize These Common Eye Conditions)
Lynn Ly Phỏng Dịch từ Trang Web MedicineNet.com
( ww.medicinenet.com/eye_diseases_picture s_slideshow/article.htm )
Tiếp theo ...


FLOATERS

UserPostedImage
Bệnh Ruồi Bay Trước Mắt (Eye Floaters) - The picture of MedicineNet.com

UserPostedImage
Bệnh Ruồi Bay Trước Mắt (Eye Floaters) -
The picture of Mayo Foundation for Medical Education and Research

UserPostedImage
H́nh ảnh mà người bị bệnh ruồi bay trước mắt nh́n thấy
-- h́nh của ww.eye-floaters.info

Bệnh Ruồi Bay Trước Mắt ("Eye floaters" ) là những chất lắng đọng hoặc chất cô đọng ở trong dịch keo pha lê thể của mắt . Người ta sử dụng thuật ngữ "eye floaters" (Bệnh Ruồi Bay Trước Mắt ) để mô tả sự nh́n thấy những đốm bay bay trong tầm nh́n khi họ nh́n xung quanh . Người mô tả Bệnh Ruồi Bay Trước Mắt ("Eye floaters") như những đốm, đường thẳng hay cong, những sợi dây, hoặc những giọt nước có dạng chữ "O" hoặc chữ "C". Vài người thấy đơn độc 1 vật thể trôi nổi di chuyển trong khi những người khác có thể nghĩ họ nh́n thấy hàng trăm . Những vật thể trôi nổiI (floaters) có thể hiện diện trong 1 hay cả hai mắt . Đa bệnh ruồi bay trước mắt ( "eye floaters" ) là do sự thay đổi về lăo hóa một cách b́nh thường bên trong mắt. Tuy nhiên , một người có các triệu chứng phát triển về bệnh ruồi bay trước mắt cần nền kiểm tra bởi bác sĩ nhăn khoa để chắc chắn rằng không có sự bất thường ǵ liên quan tới mắt mà đ̣i hỏi việc trị liệu . Hầu hết bệnh ruồi bay trước mắt (eye floaters) sẽ mờ dần theo thời gian và trở nên ít gây phiền nhiễu hoặc đáng chú ư . Thảo dược, vitamin, và sản phẩm có chứa iốt đă được quảng cáo là có hiệu quả trong việc giảm bệnh ruồi bay trước mắt (eye floaters). Tuy nhiên, không chất nào trong số này chứng minh là có hiệu quả trong các thử nghiệm lâm sàng.

BỆNH VIỄN THỊ (FARSIGHTEDNESS (HYPEROPIA))

UserPostedImage
Bệnh Viễn Thị (Farsightedness (hyperopia))-
The picture of MedicineNet.com

Khoảng 1 trong 4 người ở Mỹ bị bịnh viễn thị , trong t́nh trạng này người ta khó điều chỉnh tiêu điểm vào các vật thể ở gần . Sự xuất hiện về bệnh viễn thị gia tăng theo tuổi, tối thiểu là phân nửa số người ở lứa tuổi hơn 65 bị viễn thị ở mức độ nào đó . T́nh trạng này xuất hiện khi ánh sáng đi vào mắt tập chung phía sau vơng mạc (retina) thay v́ trực tiếp trên vơng mạc Một giác mạc (cornea) bằng phẳng bất thường hoặc nhăn cầu ngắn hẹp (short eyes) có thể gây ra ánh sánh tập chung theo kiểu này . Để điều chỉnh bệnh viễn thị bạn phải thay đổi cách thức các tia sáng uốn cong khi vào mắt của bạn . Kính đeo, kính áp tṛng, hoặc phẫu thuật khúc xạ (refractive surgery) đều có thể được sử dụng để điều chỉnh bệnh viễn thị

BỆNH CẬN THỊ (NEARSIGHTEDNESS (MYOPIA) )

UserPostedImage
Bệnh Cận Thị (Nearsightedness (Myopia) ) - The picture of MedicineNet.com

Bệnh Cận Thị (Nearsightedness (Myopia) ) ảnh hưởng đến 20% -30% dân số, nhưng sự rối loạn về mắt này dễ dàng điều chỉnh bằng kính mắt , kính áp tṛng hoặc phẫu thuật . Những người đă cận thị có khó khăn khi nh́n các vật thể ở xa, nhưng có thể thấy các vật thể ở gần một cách rơ ràng . Ở người bị cận thị , nhăn cầu quá dài hoặc giác mạc quá cong, cho nên ánh sáng đi vào mắt không hội tụ 1 cách chính xác . Những tia sáng của h́nh ảnh hội tụ tại phía trước vơng mạc, phần nhạy cảm đối với ánh sáng của mắt, hơn là trực tiếp ở trên vơng mạc, gây ra mờ mắt (h́nh ảnh nh́n bị lờ mờ)

BỆNH LOẠN THỊ (ASTIGMATISM)

UserPostedImage
Bệnh Loạn Thị (Astigmatism) - The picture of MedicineNet.com

Bệnh Loạn Thị (Astigmatism) là một dạng phổ biến của sự khiếm thị , trong đó h́nh ảnh bị lờ mờ là do một bất thường trong độ cong của phần mặt phía trước của mắt , gọi là giác mạc (cornea) . Ở bệnh Loạn thị (astigmatism), độ cong của giác mạc có dạng giống trái banh h́nh thoi loại banh túc cầu của người Mỹ (an American football ) hoặc trái banh h́nh bầu dục (rugby fall) hơn là trái banh tṛn vo loại banh của thể thao bóng chày ( basketball.) Bệnh loạn thị xuất hiện hầu như gần hết tất cả mọi người ở mức độ nào đó . Bệnh loạn thị có thể do di truyền (hereditary) và thường được hiện diện từ khi mới sinh. Nó cũng là kết quả từ áp lực từ mí mắt lên trên giác mạc . Hầu như tất cả các mức độ loạn thị có thể được sửa chữa với kính đeo mắt hoặc kính áp tṛng mà có qui định phù hợp . Đối với một người chỉ bị loạn thị ở mức độ nhẹ, sự điều chỉnh thấu kính (len) có thể hoàn toàn không cần thiết , miễn sao các t́nh trạng khác như cận thị hoặc viễn thị không tồn tại. Một phương pháp để điều chỉnh bệnh loạn thị là thay đổi h́nh dạng của giác mạc thông qua phẫu thuật khúc xạ mắt bằng tia laser (refractive laser eye surgery)

BỆNH MÙ MẦU (COLOR BLINDNESS)

UserPostedImage
Bệnh Mù Mầu (Color Blindness) - The picture of MedicineNet.com

Khi chúng ta nh́n thấy những màu sắc khác biệt, chúng ta đang nhận thấy sự khác biệt trong ánh sáng mà đi vào mắt chúng ta . Đường lối chúng ta nh́n thấy những mầu sắc khác biệt là giống như đường lối chúng ta nghe sự khác biệt âm thanh như đang ở mức thấp hoặc cao . Những màu sắc của cầu vồng (rainbow) luôn xuất hiện trong theo thứ tự: đỏ, cam, vàng, xanh lá, xanh dương, chàm và tím. Những mầu sắc khác biệt ở trong từng phần của cầu vồng liền quan đến độ dài bước sóng khác biệt của ánh sáng . Bệnh mù mầu là kết quả từ một sự vắng mặt hoặc sự trục trặc về những tế bào nhạy cảm về màu sắc nhất định ở trong vơng mạc . Vơng mạc là lớp màng thần kinh ở mặt sau của mắt mà hoán chuyển ánnh sáng thành tín hiệu thần kinh gởi đến năo bộ . Một người bị mù mầu có khó khăn nh́n mâu đỏ, màu xanh lá cây, mầu xanh dương, hoặc sự pha trộn giữa các màu sắc này . Hầu hết các vấn đề về sự nh́n thấy mầu sắc là được di truyền và hiển hiện ngay từ khi mới sinh . Các vấn đề khác về việc nh́n mầu sắc là do sự lăo hóa, bệnh tật, thương tích ở mắt (vấn đề thu thập mầu sắc khi nh́n), vấn đê dây thần kinh thị giác, hoặc bị phản ứng phụ của thuốc . Các xét nghiệm được dùng cho việc đo lường khả năng nhận diện mầu sắc khác biệt với các khám nghiệm phổ biến nhất là dùng tấm bảng pseudoisochromatic (c̣n gọi là thử nghiệm màu Ishihara). Sự phân loại về vấn đề mầu sắc mà bạn bị có thể thường được xác định bằng các mẫu mà bạn có thể thấy và không thấy ở các tấm bảng khác nhau khi khám nghiệm . Những vấn đề về nh́n mầu sắc do di truyền không thể được trị liệu hoặc được điều chỉnh . Một số vấn đề khác về nh́n mầu sắc có thể trị liệu tùy thuộc vào nguyên nhân .

[color=blue] TÍCH CỰC CHĂM SÓC SỨC KHỎE MẮT (PROACTIVE EYE HEALTH)

UserPostedImage

Sức khỏe của mắt và việc chăm sóc mắt tốt là tối quan trọng đối với năng lực của thị giác . Hăy tích cực chủ động trong lĩnh vực sức khỏe mắt của bạn bằng cách đóng vai tṛ duy tŕ và bảo vệ thị giác của bạn, pḥng ngừa những rối loạn phổ thông về mắt, và điều trị sớm những vấn đề về mắt . Các chuyên gia về mắt, bao gồm ophthalmologists (bác sĩ chuyên về bệnh và phẫu thuật mắt) và optometrists (bác sĩ nhăn khoa thông thường), khuyên nhủ rằng mọi người có những triệu chứng hay dấu hiệu ǵ khác thường về mắt , về thị lực cần nên kiểm tra mắt . Ở những người mà không có triệu chứng, th́ lời khuyên là ai hơn 40 tuổi th́ cần kiểm tra mắt 2 năm 1 lần và những người qua 60 tuổI th́ mỗi năm kiểm tra mắt 1 lần

Lynn ly ( 21/01/2010 )
Edited by user Monday, July 7, 2014 12:17:15 PM(UTC) | Reason: Chỉnh font size

florida80
04-05-2019, 18:19
Các Loại Mắt Lé (Types of Strabismus)
Lynn tổng hợp thông tin từ nhiều nguồn Y Học


Lynn tổng hợp thông tin từ nhiều nguồn Y Học trên web , đặc biệt từ bài viết của Dr. Jeffrey Cooper and RAchel Cooper (edition: 2001 -2009) Types of Strabismus and their Recommended Treatments" ( http://www.strabismus.org/types_treatments.htm l )(Các loại mắt lé và những trị liệu được đề nghị ) th́ liệt kê tóm tắc và có h́nh ảnh như sau :

Cross - Eyes = Mắt lé mà 2 mắt hướng vào sống mũi = lé trong

UserPostedImage

Walleyes = Mắt lé mà 2 mắt hướng ra = lé ngoài

UserPostedImage

Các loại lé 1 mắt :
•Esotropia = 1 mắt bị lé lệch hướng vào trong

•Exotropia = 1 mắt bị lé lệch hướng ra ngoài

•Hypertropia = 1 mắt bị lé lệch hướng lên trên so với mắt kia

•Hypotropia = 1 mắt bị lé lệch hướng xuống dưới so với mắt kia


UserPostedImage

Các t́nh trạng mắt liên quan đến mắt lé (Strabismus) :
•Amblyopia (Lazy Eye) = Một mắt không hoạt động hoặc hoạt động rất yếu có thể tiến tới t́nh trạng mù 1 mắt

•Anisometropia = Bệnh lệch thị lực

•Brown's Syndrome = Hội chứng mắt không thể di chuyển lên cao hoặc vào trong do 1 số cơ mắt bị tê liệt , Lynn tạm dịch là mắt bị đứng tṛng ... bị giới hạn nằm tại 1 vị trí hay di chuyển trong phạm vi rất hạn hẹp

•After Cataracts = Sau khi điều trị bệnh Đục Thủy Tinh Thể

•Convergence Insufficiency = Chứng suy kém khả năng hội tụ ánh sáng h́nh ảnh

•Double Vision = bệnh song thị , bệnh song ảnh, nh́n 1 ảnh mà thấy 2 bóng

•After Retinal Detachment = Sau khi điều trị bệnh bong giác mạc

•Esophoria = 1 mắt bị lé lệch hướng vào trong

•Exophoria =1 mắt bị lé lệch hướng vào trong

•Grave's Disease = Bệnh Grave c̣n gọi là hyperthyroidism (tăng năng tuyến giáp) là bệnh có thể dẫn đến sự nhô ra 1 hay hai mắt (bị lồi mắt), khô giác mạc (dry eye) tiến đến bong giác mạc (cornea exposure), chứng suy kém khả năng hội tụ ánh sáng h́nh ảnh (Convergence Insufficiency)

•Myasthenia Gravis = Bệnh mắt song thị (double vision) trở nên tồi tệ do nhược cơ mắt nghiêm trọng

•Orbital Fracture = Blow-Out Fracture = Bệnh gẫy vỡ xương bao quanh nhăn cầu mà xương này tạo ra quỹ đạo giữ nhăn cầu đứng đúng vị trí . Bệnh gây ra bởI bị chấn thương mắt




"Kẻ Ác lo không hăm hại được người,
Người Hiền sợ không cứu giúp được ai"

florida80
04-05-2019, 18:21
Các Loại Bệnh Về Mắt mà Trẻ Con Hay Bị
Lynn tổng hợp thông tin từ nhiều nguồn Y Học


Lynn thu gom được thêm một số tên các loại bệnh về mắt mà trẻ sơ sinh hoặc trẻ nhỏ hay bị như sau:
•U bướu vơng mạc / Bướu Nguyên Bào Vơng Mạc / Ung Thư Nguyên Bào Vơng Mạc (retinoblastoma): trẻ em mới sinh đều được bác sĩ nhi khoa rọi đèn ophthalmoscope vào mắt để xem có đốm đỏ b́nh thường (normal red reflex) phản chiếu lại hay không. Nếu trẻ bị retinoblastoma, một con ngươi (đồng tử) sẽ phản chiếu lại màu trắng (leukocoria), cũng như trong trường hợp cườm mắt khô bẩm sinh (congenital cataract). Đôi khi chụp h́ng các bé có flash, nếu một bên con ngươi màu trắng thay v́ đỏ như thường lệ, có thể nhờ đó người nhà phát hiện được chứng “đồng tử trắng” này.

•Cườm nước bẩm sinh (congenital glaucoma)

•Chứng bạch tạng (albinism), người bịnh không có sắc tố ở mắt, da và tóc

•Chứng không có đồng tử (aniridia), do di truyền

•Achromatopsia, một bịnh di truyền gây thị giác kém và không cảm nhận được màu sắc (decreased visual acuity and inability to perceive colors)

•Mắt cườm (thủy tinh thể bị đục) bẩm sinh (congenital cataract)

•Những bịnh thoái hoá vơng mạc (macular degeneration)

•Teo thần kinh thị giác (optic atrophy): Thần kinh thị giác (optic nerve) đem tín hiệu từ vơng mạc mắt vào năo bộ (giống như dây điện nối liền video camera vào computer), những trẻ bị teo dây thần kinh thị giác có thể bị mù.

florida80
04-06-2019, 17:26
Thiết bị cấy ghép y khoa : Dấu kiểm định chất lượng châu Âu có đáng tin cậy ?

UserPostedImage
Bà Marga van Amersfoort, chủ tịch hiệp hội các nạn nhân ghép độn silicone giữ lại túi silicone đă dùng để làm bằng chứng buộc tội tại ṭa án.Rfi/Antoine Mouteau

Tại Mỹ, theo thống kê, các thiết bị cấy ghép y khoa đă cướp đi sinh mạng của 82.000 người và làm hơn 1,7 triệu người bị thương. Tai tiếng « Implants Files » (Hồ sơ Bộ phận cấy ghép) - theo cách gọi của Hiệp hội các Phóng viên điều tra Quốc tế (ICIJ) - cho thấy rơ những lỗ hổng và yếu kém trong việc kiểm định chất lượng các thiết bị cấy ghép ngày càng được sử dụng rộng răi.

Thị trường thiết bị cấy ghép y khoa là một thị trường lớn, mỗi năm mang về cho nhà sản xuất khoảng 300 tỷ euro. Với mục đích là hỗ trợ bệnh nhân, các dụng cụ cấy ghép chữa bệnh có nguy cơ là những « sát thủ » vô h́nh.

Theo điều tra của hơn 250 nhà báo thuộc 59 cơ quan truyền thông quốc tế, các thiết bị cấy ghép y khoa như dụng cụ bơm chất insulin có trang bị chip cảm biến, thiết bị chạy thận nhân tạo tự động hóa, mảnh ghép xương hông, hay như miếng độn ngực giả… đă gây ra gần 5,5 triệu sự cố, đôi khi dẫn đến tử vong.

Túi lưới đựng quưt : Dụng cụ chống sa nội tạng ?

Nhật báo Le Monde cho biết mọi việc bắt đầu từ « chiếc túi lưới đựng quưt ». Năm 2014, một nhà báo người Hà Lan, bà Jet Schouten nảy sinh ư định muốn có được chứng nhận kiểm định chiếc túi lưới này như là một thiết bị y tế. Bất chấp bộ hồ sơ chứa đầy lỗi kỹ thuật, nhưng nhà báo Schouten vẫn nhận được ư kiến chấp nhận về mặt nguyên tắc từ ba công ty kiểm định khác nhau. Thế là « chiếc túi lưới quưt » của Schouten có cơ may trở thành một thiết bị chống sa nội tạng. Với ch́a khóa trong tay là « sản phẩm » của nhà báo Hà Lan có thể được đưa ra thị trường châu Âu một cách hợp pháp.

Năm 2017, Cơ quan An toàn Quốc gia về Thuốc và Sản phẩm Y tế (Agence nationale de sécurité du médicament et des produits de santé, ANSM) thống kê có 18.208 sự cố liên quan đến các thiết bị chăm sóc sức khỏe tại Pháp. Nếu tính từ năm 2008, số các sự cố này đă tăng hơn gấp đôi trong ṿng mười năm (từ 7.799 vụ lên 18.208). Người ta c̣n nhận thấy chỉ có từ 1-10% các vụ việc là được thông báo. Làm sao đến nông nỗi này ?

Để t́m hiểu sự việc, báo Le Monde cùng với 58 hăng truyền thông khác trên thế giới tiến hành một cuộc điều tra trong ṿng hơn một năm và phát hiện rằng phương thức đưa ra thị trường các thiết bị cấy ghép đơn giản đến mức không thể tưởng : Chỉ cần nhà sản xuất chứng minh được hai điểm : Thứ nhất, thiết bị hoạt động được như dự kiến. Thứ hai là phải an toàn.

Ngược lại, không cần chứng minh về tính hiệu quả, nghĩa là thiết bị có khả năng mang lại lợi ích ǵ cho sức khỏe bệnh nhân th́ không được đề cập đến. Một cách cụ thể, làm thế nào đưa ra thị trường châu Âu thiết bị cấy ghép xương hông. Bà Chloé Hecketsweiler, phóng viên điều tra của báo Le Monde, giải thích với đài RFI :

« Để có thể đưa ra thị trường châu Âu, một thiết bị cấy ghép xương hông phải có được tờ giấy chứng nhận tuân theo chuẩn của châu Âu - CE, do một cơ quan kiểm định cấp, thường là hăng tư nhân. Những cơ quan này, từ những năm 1990, có nhiệm vụ xem xét một bộ hồ sơ do nhà sản xuất cung cấp. Thường các bộ hồ sơ này chứa đựng nhiều thông tin, nhất là các dữ liệu thí nghiệm lâm sàng. Dựa vào bộ hồ sơ đó, các cơ quan kiểm định sẽ xác nhận sản phẩm có thể được đưa ra thị trường châu Âu hay là không, cần phải nghiên cứu thêm ».

Đây cũng chính là những ǵ nhà báo Hà Lan đă thử làm với chiếc túi lưới đựng quưt của cô. Đầu tiên, cô đến gơ cửa một trong số 60 « cơ quan kiểm định » hiện diện tại Châu Âu. Trong bộ hồ sơ này, sản phẩm được nêu rơ cùng với các tiêu chuẩn kỹ thuật sản xuất hay chi tiết các chuẩn được sử dụng. Để thử hệ thống đánh giá này, nhà báo Jet Schouten và nhóm làm việc của cô đă lập một bộ hồ sơ kỹ thuật chứa đầy những yếu tố đáng báo động.

« Trong bộ hồ sơ kỹ thuật, chúng tôi có ghi là thiết bị cấy ghép này để lại vết sẹo suốt đời cho 1/3 phụ nữ và chúng tôi cũng có ghi rơ là chúng tôi hầu như không có một dữ liệu chứng minh cho sự an toàn sản phẩm này. Chúng tôi đề nghị họ đọc hồ sơ của chúng tôi và nhờ họ đánh giá xem là chúng tôi có thể có được chiếc dấu kiểm định theo tiêu chuẩn Châu Âu - CE hay không trên cơ sở bộ hồ sơ kỹ thuật đầy lỗi và đáng lo này.

Rồi chúng tôi có hỏi thẳng : "Quư vị đă đọc bộ hồ sơ này chưa ?". Và họ trả lời : "Rồi". Thế là chúng tôi hỏi tiếp : "Vậy là các ngài chấp nhận sản phẩm này ?". Họ nói : "Chúng tôi thấy chẳng có vấn đề ǵ cả !" »

Dấu kiểm định : Mua dễ như mua quưt ?

Kết quả là với phương pháp này, các nhà sản xuất có thể dễ dàng đưa ra thị trường các thiết bị cấy ghép y khoa mà người ta không thể biết rằng các sản phẩm đó có an toàn hay có hiệu quả hay không. Hơn nữa các nhà báo điều tra chỉ trích phần lớn các hệ thống kiểm định này đều có xung đột lợi ích. Phóng viên Chloé Hecketsweiler cho biết tiếp :

« Điều đáng lo của chiếc dấu kiểm định là chính các nhà sản xuất công nghiệp lại là người trả tiền cho các nhà kiểm định để có được chiếc dấu CE. Chúng tôi nghi ngờ là các nhà kiểm định sợ soi xét kỹ quá th́ sẽ mất khách hàng và như vậy điều này có thể tác động đến việc đưa ra các quyết định độc lập ».

Về điểm này, giáo sư Eric Vicaut, lănh đạo Trung tâm Đánh giá Thiết bị y khoa thuộc bệnh viện Saint-Louis Lariboisiere, trên RFI lưu ư thêm có hiện tượng « nhất bên trọng, nhất bên khinh » trong việc đóng dấu kiểm định đối với thuốc men và các thiết bị cấy ghép.

« Hiện tại, khi một loại thuốc được đưa ra thị trường, để có được giấy phép, người ta yêu cầu hăng dược phải có những nghiên cứu lâm sàng rất tỉ mỉ, vô cùng nghiêm ngặt, nghiêm túc trên khoảng hàng trăm bệnh nhân, với các phương pháp rất chính xác.

Vấn đề ở đây là những yêu cầu này theo tôi là hoàn toàn tự nhiên thôi. Đây là một trong những điều kiện để người ta có thể đưa ra kinh doanh bởi v́ đó là sản phẩm của tôi dành cho bệnh nhân. Thế nhưng, đ̣i hỏi này lại không được áp dụng đối với các thiết bị cấy ghép ».

Đâu là tầm mức thiệt hại ? Bà Stephane Horel, phóng viên báo Le Monde, giải thích :

« Vấn đề chính là các thiết bị y tế đó không thể truy tầm nguồn gốc và có rất ít sự cố được thông báo. Và như vậy, khó có thể biết được có bao nhiêu thiết bị cấy ghép y khoa đă được đưa vào thị trường châu Âu cũng như là không thể biết là có bao nhiêu sự cố có liên quan đến các thiết bị cấy ghép y khoa này ».

Phụ nữ : Nạn nhân đầu tiên

Theo các số liệu do Hội các phóng viên điều tra thu thập được, tại Mỹ, trong ṿng 10 năm (2007 - 2018), người ta phát hiện có 3,6 triệu sai sót từ các thiết bị y tế đó, 82.000 người chết, và khoảng 1,7 triệu người bị thương.

Vẫn theo nhật báo Le Monde, có rất ít dữ liệu chính thức, điều đó có nghĩa là trong trường hợp có vấn đề, các nhà chức trách cũng khó có thể truy t́m những bệnh nhân nào có cài đặt các mảnh cấy ghép y khoa. Một cách cụ thể : Bệnh nhân thường là vật thí nghiệm mà không hề hay biết, để rồi chính họ bị bỏ rơi khi xảy ra sự cố.

Le Monde nhắc lại vụ tai tiếng ṿng tránh thai Essure của hăng dược Bayer được bán rộng răi trên thị trường châu Âu trong ṿng 15 năm (2002 - 2017). Dụng cụ y khoa này hiện không c̣n được lưu hành tại châu Âu nữa sau một loạt các báo động nghiêm trọng về tác dụng phụ.

Trong một phóng sự của kênh truyền h́nh France 3, một bệnh nhân thuật lại vụ việc : « Ngày đầu tiên, đúng hơn đêm đầu tiên, có nhiều chuyện đă xảy ra : Người bốc hỏa, thức giấc giữa đêm, tim đập nhanh, sau đó là những cơn chóng mặt, chóng mặt dữ dội đến mức tôi không ngồi dậy nổi, tôi không thể sống một cách b́nh thường được ».

Hăng dược của Đức c̣n bị kiện tập thể tại Mỹ và Pháp v́ « thiếu thận trọng » và « đưa ra thị trường một sản phẩm kém chất lượng ». Cuộc điều tra của các nhà báo c̣n cho thấy rơ sự tŕ trệ của các nhà làm luật châu Âu. Khởi động từ năm 2008 nhưng việc nghiên cứu một dự luật quy định các chuẩn cho thiết bị cấy ghép y khoa mới hoàn tất vào tháng 4/2017.

Hiện tại, mạng lưới các cơ quan kiểm định vẫn tiếp tục hoạt động, các cuộc vận động hành lang vẫn tiếp diễn một cách dữ dội. Lợi ích kinh tế đă vượt lên trên cả vấn đề sức khỏe cộng đồng. Và người bệnh chẳng khác ǵ một con cờ trong tṛ chơi may rủi. Trong số này, phụ nữ là những nạn nhân hàng đầu trả giá cho sự thờ ơ lănh đạm của những nhà quản lư sức khỏe cộng đồng.



Back to top










Thiết bị cấy ghép y khoa : Dấu kiểm định chất lượng châu Âu có đáng tin cậy ?

UserPostedImage
Bà Marga van Amersfoort, chủ tịch hiệp hội các nạn nhân ghép độn silicone giữ lại túi silicone đă dùng để làm bằng chứng buộc tội tại ṭa án.Rfi/Antoine Mouteau

Tại Mỹ, theo thống kê, các thiết bị cấy ghép y khoa đă cướp đi sinh mạng của 82.000 người và làm hơn 1,7 triệu người bị thương. Tai tiếng « Implants Files » (Hồ sơ Bộ phận cấy ghép) - theo cách gọi của Hiệp hội các Phóng viên điều tra Quốc tế (ICIJ) - cho thấy rơ những lỗ hổng và yếu kém trong việc kiểm định chất lượng các thiết bị cấy ghép ngày càng được sử dụng rộng răi.

Thị trường thiết bị cấy ghép y khoa là một thị trường lớn, mỗi năm mang về cho nhà sản xuất khoảng 300 tỷ euro. Với mục đích là hỗ trợ bệnh nhân, các dụng cụ cấy ghép chữa bệnh có nguy cơ là những « sát thủ » vô h́nh.

Theo điều tra của hơn 250 nhà báo thuộc 59 cơ quan truyền thông quốc tế, các thiết bị cấy ghép y khoa như dụng cụ bơm chất insulin có trang bị chip cảm biến, thiết bị chạy thận nhân tạo tự động hóa, mảnh ghép xương hông, hay như miếng độn ngực giả… đă gây ra gần 5,5 triệu sự cố, đôi khi dẫn đến tử vong.

Túi lưới đựng quưt : Dụng cụ chống sa nội tạng ?

Nhật báo Le Monde cho biết mọi việc bắt đầu từ « chiếc túi lưới đựng quưt ». Năm 2014, một nhà báo người Hà Lan, bà Jet Schouten nảy sinh ư định muốn có được chứng nhận kiểm định chiếc túi lưới này như là một thiết bị y tế. Bất chấp bộ hồ sơ chứa đầy lỗi kỹ thuật, nhưng nhà báo Schouten vẫn nhận được ư kiến chấp nhận về mặt nguyên tắc từ ba công ty kiểm định khác nhau. Thế là « chiếc túi lưới quưt » của Schouten có cơ may trở thành một thiết bị chống sa nội tạng. Với ch́a khóa trong tay là « sản phẩm » của nhà báo Hà Lan có thể được đưa ra thị trường châu Âu một cách hợp pháp.

Năm 2017, Cơ quan An toàn Quốc gia về Thuốc và Sản phẩm Y tế (Agence nationale de sécurité du médicament et des produits de santé, ANSM) thống kê có 18.208 sự cố liên quan đến các thiết bị chăm sóc sức khỏe tại Pháp. Nếu tính từ năm 2008, số các sự cố này đă tăng hơn gấp đôi trong ṿng mười năm (từ 7.799 vụ lên 18.208). Người ta c̣n nhận thấy chỉ có từ 1-10% các vụ việc là được thông báo. Làm sao đến nông nỗi này ?

Để t́m hiểu sự việc, báo Le Monde cùng với 58 hăng truyền thông khác trên thế giới tiến hành một cuộc điều tra trong ṿng hơn một năm và phát hiện rằng phương thức đưa ra thị trường các thiết bị cấy ghép đơn giản đến mức không thể tưởng : Chỉ cần nhà sản xuất chứng minh được hai điểm : Thứ nhất, thiết bị hoạt động được như dự kiến. Thứ hai là phải an toàn.

Ngược lại, không cần chứng minh về tính hiệu quả, nghĩa là thiết bị có khả năng mang lại lợi ích ǵ cho sức khỏe bệnh nhân th́ không được đề cập đến. Một cách cụ thể, làm thế nào đưa ra thị trường châu Âu thiết bị cấy ghép xương hông. Bà Chloé Hecketsweiler, phóng viên điều tra của báo Le Monde, giải thích với đài RFI :

« Để có thể đưa ra thị trường châu Âu, một thiết bị cấy ghép xương hông phải có được tờ giấy chứng nhận tuân theo chuẩn của châu Âu - CE, do một cơ quan kiểm định cấp, thường là hăng tư nhân. Những cơ quan này, từ những năm 1990, có nhiệm vụ xem xét một bộ hồ sơ do nhà sản xuất cung cấp. Thường các bộ hồ sơ này chứa đựng nhiều thông tin, nhất là các dữ liệu thí nghiệm lâm sàng. Dựa vào bộ hồ sơ đó, các cơ quan kiểm định sẽ xác nhận sản phẩm có thể được đưa ra thị trường châu Âu hay là không, cần phải nghiên cứu thêm ».

Đây cũng chính là những ǵ nhà báo Hà Lan đă thử làm với chiếc túi lưới đựng quưt của cô. Đầu tiên, cô đến gơ cửa một trong số 60 « cơ quan kiểm định » hiện diện tại Châu Âu. Trong bộ hồ sơ này, sản phẩm được nêu rơ cùng với các tiêu chuẩn kỹ thuật sản xuất hay chi tiết các chuẩn được sử dụng. Để thử hệ thống đánh giá này, nhà báo Jet Schouten và nhóm làm việc của cô đă lập một bộ hồ sơ kỹ thuật chứa đầy những yếu tố đáng báo động.

« Trong bộ hồ sơ kỹ thuật, chúng tôi có ghi là thiết bị cấy ghép này để lại vết sẹo suốt đời cho 1/3 phụ nữ và chúng tôi cũng có ghi rơ là chúng tôi hầu như không có một dữ liệu chứng minh cho sự an toàn sản phẩm này. Chúng tôi đề nghị họ đọc hồ sơ của chúng tôi và nhờ họ đánh giá xem là chúng tôi có thể có được chiếc dấu kiểm định theo tiêu chuẩn Châu Âu - CE hay không trên cơ sở bộ hồ sơ kỹ thuật đầy lỗi và đáng lo này.

Rồi chúng tôi có hỏi thẳng : "Quư vị đă đọc bộ hồ sơ này chưa ?". Và họ trả lời : "Rồi". Thế là chúng tôi hỏi tiếp : "Vậy là các ngài chấp nhận sản phẩm này ?". Họ nói : "Chúng tôi thấy chẳng có vấn đề ǵ cả !" »

Dấu kiểm định : Mua dễ như mua quưt ?

Kết quả là với phương pháp này, các nhà sản xuất có thể dễ dàng đưa ra thị trường các thiết bị cấy ghép y khoa mà người ta không thể biết rằng các sản phẩm đó có an toàn hay có hiệu quả hay không. Hơn nữa các nhà báo điều tra chỉ trích phần lớn các hệ thống kiểm định này đều có xung đột lợi ích. Phóng viên Chloé Hecketsweiler cho biết tiếp :

« Điều đáng lo của chiếc dấu kiểm định là chính các nhà sản xuất công nghiệp lại là người trả tiền cho các nhà kiểm định để có được chiếc dấu CE. Chúng tôi nghi ngờ là các nhà kiểm định sợ soi xét kỹ quá th́ sẽ mất khách hàng và như vậy điều này có thể tác động đến việc đưa ra các quyết định độc lập ».

Về điểm này, giáo sư Eric Vicaut, lănh đạo Trung tâm Đánh giá Thiết bị y khoa thuộc bệnh viện Saint-Louis Lariboisiere, trên RFI lưu ư thêm có hiện tượng « nhất bên trọng, nhất bên khinh » trong việc đóng dấu kiểm định đối với thuốc men và các thiết bị cấy ghép.

« Hiện tại, khi một loại thuốc được đưa ra thị trường, để có được giấy phép, người ta yêu cầu hăng dược phải có những nghiên cứu lâm sàng rất tỉ mỉ, vô cùng nghiêm ngặt, nghiêm túc trên khoảng hàng trăm bệnh nhân, với các phương pháp rất chính xác.

Vấn đề ở đây là những yêu cầu này theo tôi là hoàn toàn tự nhiên thôi. Đây là một trong những điều kiện để người ta có thể đưa ra kinh doanh bởi v́ đó là sản phẩm của tôi dành cho bệnh nhân. Thế nhưng, đ̣i hỏi này lại không được áp dụng đối với các thiết bị cấy ghép ».

Đâu là tầm mức thiệt hại ? Bà Stephane Horel, phóng viên báo Le Monde, giải thích :

« Vấn đề chính là các thiết bị y tế đó không thể truy tầm nguồn gốc và có rất ít sự cố được thông báo. Và như vậy, khó có thể biết được có bao nhiêu thiết bị cấy ghép y khoa đă được đưa vào thị trường châu Âu cũng như là không thể biết là có bao nhiêu sự cố có liên quan đến các thiết bị cấy ghép y khoa này ».

Phụ nữ : Nạn nhân đầu tiên

Theo các số liệu do Hội các phóng viên điều tra thu thập được, tại Mỹ, trong ṿng 10 năm (2007 - 2018), người ta phát hiện có 3,6 triệu sai sót từ các thiết bị y tế đó, 82.000 người chết, và khoảng 1,7 triệu người bị thương.

Vẫn theo nhật báo Le Monde, có rất ít dữ liệu chính thức, điều đó có nghĩa là trong trường hợp có vấn đề, các nhà chức trách cũng khó có thể truy t́m những bệnh nhân nào có cài đặt các mảnh cấy ghép y khoa. Một cách cụ thể : Bệnh nhân thường là vật thí nghiệm mà không hề hay biết, để rồi chính họ bị bỏ rơi khi xảy ra sự cố.

Le Monde nhắc lại vụ tai tiếng ṿng tránh thai Essure của hăng dược Bayer được bán rộng răi trên thị trường châu Âu trong ṿng 15 năm (2002 - 2017). Dụng cụ y khoa này hiện không c̣n được lưu hành tại châu Âu nữa sau một loạt các báo động nghiêm trọng về tác dụng phụ.

Trong một phóng sự của kênh truyền h́nh France 3, một bệnh nhân thuật lại vụ việc : « Ngày đầu tiên, đúng hơn đêm đầu tiên, có nhiều chuyện đă xảy ra : Người bốc hỏa, thức giấc giữa đêm, tim đập nhanh, sau đó là những cơn chóng mặt, chóng mặt dữ dội đến mức tôi không ngồi dậy nổi, tôi không thể sống một cách b́nh thường được ».

Hăng dược của Đức c̣n bị kiện tập thể tại Mỹ và Pháp v́ « thiếu thận trọng » và « đưa ra thị trường một sản phẩm kém chất lượng ». Cuộc điều tra của các nhà báo c̣n cho thấy rơ sự tŕ trệ của các nhà làm luật châu Âu. Khởi động từ năm 2008 nhưng việc nghiên cứu một dự luật quy định các chuẩn cho thiết bị cấy ghép y khoa mới hoàn tất vào tháng 4/2017.

Hiện tại, mạng lưới các cơ quan kiểm định vẫn tiếp tục hoạt động, các cuộc vận động hành lang vẫn tiếp diễn một cách dữ dội. Lợi ích kinh tế đă vượt lên trên cả vấn đề sức khỏe cộng đồng. Và người bệnh chẳng khác ǵ một con cờ trong tṛ chơi may rủi. Trong số này, phụ nữ là những nạn nhân hàng đầu trả giá cho sự thờ ơ lănh đạm của những nhà quản lư sức khỏe cộng đồng.



Back to top




Thiết bị cấy ghép y khoa : Dấu kiểm định chất lượng châu Âu có đáng tin cậy ?

UserPostedImage
Bà Marga van Amersfoort, chủ tịch hiệp hội các nạn nhân ghép độn silicone giữ lại túi silicone đă dùng để làm bằng chứng buộc tội tại ṭa án.Rfi/Antoine Mouteau

Tại Mỹ, theo thống kê, các thiết bị cấy ghép y khoa đă cướp đi sinh mạng của 82.000 người và làm hơn 1,7 triệu người bị thương. Tai tiếng « Implants Files » (Hồ sơ Bộ phận cấy ghép) - theo cách gọi của Hiệp hội các Phóng viên điều tra Quốc tế (ICIJ) - cho thấy rơ những lỗ hổng và yếu kém trong việc kiểm định chất lượng các thiết bị cấy ghép ngày càng được sử dụng rộng răi.

Thị trường thiết bị cấy ghép y khoa là một thị trường lớn, mỗi năm mang về cho nhà sản xuất khoảng 300 tỷ euro. Với mục đích là hỗ trợ bệnh nhân, các dụng cụ cấy ghép chữa bệnh có nguy cơ là những « sát thủ » vô h́nh.

Theo điều tra của hơn 250 nhà báo thuộc 59 cơ quan truyền thông quốc tế, các thiết bị cấy ghép y khoa như dụng cụ bơm chất insulin có trang bị chip cảm biến, thiết bị chạy thận nhân tạo tự động hóa, mảnh ghép xương hông, hay như miếng độn ngực giả… đă gây ra gần 5,5 triệu sự cố, đôi khi dẫn đến tử vong.

Túi lưới đựng quưt : Dụng cụ chống sa nội tạng ?

Nhật báo Le Monde cho biết mọi việc bắt đầu từ « chiếc túi lưới đựng quưt ». Năm 2014, một nhà báo người Hà Lan, bà Jet Schouten nảy sinh ư định muốn có được chứng nhận kiểm định chiếc túi lưới này như là một thiết bị y tế. Bất chấp bộ hồ sơ chứa đầy lỗi kỹ thuật, nhưng nhà báo Schouten vẫn nhận được ư kiến chấp nhận về mặt nguyên tắc từ ba công ty kiểm định khác nhau. Thế là « chiếc túi lưới quưt » của Schouten có cơ may trở thành một thiết bị chống sa nội tạng. Với ch́a khóa trong tay là « sản phẩm » của nhà báo Hà Lan có thể được đưa ra thị trường châu Âu một cách hợp pháp.

Năm 2017, Cơ quan An toàn Quốc gia về Thuốc và Sản phẩm Y tế (Agence nationale de sécurité du médicament et des produits de santé, ANSM) thống kê có 18.208 sự cố liên quan đến các thiết bị chăm sóc sức khỏe tại Pháp. Nếu tính từ năm 2008, số các sự cố này đă tăng hơn gấp đôi trong ṿng mười năm (từ 7.799 vụ lên 18.208). Người ta c̣n nhận thấy chỉ có từ 1-10% các vụ việc là được thông báo. Làm sao đến nông nỗi này ?

Để t́m hiểu sự việc, báo Le Monde cùng với 58 hăng truyền thông khác trên thế giới tiến hành một cuộc điều tra trong ṿng hơn một năm và phát hiện rằng phương thức đưa ra thị trường các thiết bị cấy ghép đơn giản đến mức không thể tưởng : Chỉ cần nhà sản xuất chứng minh được hai điểm : Thứ nhất, thiết bị hoạt động được như dự kiến. Thứ hai là phải an toàn.

Ngược lại, không cần chứng minh về tính hiệu quả, nghĩa là thiết bị có khả năng mang lại lợi ích ǵ cho sức khỏe bệnh nhân th́ không được đề cập đến. Một cách cụ thể, làm thế nào đưa ra thị trường châu Âu thiết bị cấy ghép xương hông. Bà Chloé Hecketsweiler, phóng viên điều tra của báo Le Monde, giải thích với đài RFI :

« Để có thể đưa ra thị trường châu Âu, một thiết bị cấy ghép xương hông phải có được tờ giấy chứng nhận tuân theo chuẩn của châu Âu - CE, do một cơ quan kiểm định cấp, thường là hăng tư nhân. Những cơ quan này, từ những năm 1990, có nhiệm vụ xem xét một bộ hồ sơ do nhà sản xuất cung cấp. Thường các bộ hồ sơ này chứa đựng nhiều thông tin, nhất là các dữ liệu thí nghiệm lâm sàng. Dựa vào bộ hồ sơ đó, các cơ quan kiểm định sẽ xác nhận sản phẩm có thể được đưa ra thị trường châu Âu hay là không, cần phải nghiên cứu thêm ».

Đây cũng chính là những ǵ nhà báo Hà Lan đă thử làm với chiếc túi lưới đựng quưt của cô. Đầu tiên, cô đến gơ cửa một trong số 60 « cơ quan kiểm định » hiện diện tại Châu Âu. Trong bộ hồ sơ này, sản phẩm được nêu rơ cùng với các tiêu chuẩn kỹ thuật sản xuất hay chi tiết các chuẩn được sử dụng. Để thử hệ thống đánh giá này, nhà báo Jet Schouten và nhóm làm việc của cô đă lập một bộ hồ sơ kỹ thuật chứa đầy những yếu tố đáng báo động.

« Trong bộ hồ sơ kỹ thuật, chúng tôi có ghi là thiết bị cấy ghép này để lại vết sẹo suốt đời cho 1/3 phụ nữ và chúng tôi cũng có ghi rơ là chúng tôi hầu như không có một dữ liệu chứng minh cho sự an toàn sản phẩm này. Chúng tôi đề nghị họ đọc hồ sơ của chúng tôi và nhờ họ đánh giá xem là chúng tôi có thể có được chiếc dấu kiểm định theo tiêu chuẩn Châu Âu - CE hay không trên cơ sở bộ hồ sơ kỹ thuật đầy lỗi và đáng lo này.

Rồi chúng tôi có hỏi thẳng : "Quư vị đă đọc bộ hồ sơ này chưa ?". Và họ trả lời : "Rồi". Thế là chúng tôi hỏi tiếp : "Vậy là các ngài chấp nhận sản phẩm này ?". Họ nói : "Chúng tôi thấy chẳng có vấn đề ǵ cả !" »

Dấu kiểm định : Mua dễ như mua quưt ?

Kết quả là với phương pháp này, các nhà sản xuất có thể dễ dàng đưa ra thị trường các thiết bị cấy ghép y khoa mà người ta không thể biết rằng các sản phẩm đó có an toàn hay có hiệu quả hay không. Hơn nữa các nhà báo điều tra chỉ trích phần lớn các hệ thống kiểm định này đều có xung đột lợi ích. Phóng viên Chloé Hecketsweiler cho biết tiếp :

« Điều đáng lo của chiếc dấu kiểm định là chính các nhà sản xuất công nghiệp lại là người trả tiền cho các nhà kiểm định để có được chiếc dấu CE. Chúng tôi nghi ngờ là các nhà kiểm định sợ soi xét kỹ quá th́ sẽ mất khách hàng và như vậy điều này có thể tác động đến việc đưa ra các quyết định độc lập ».

Về điểm này, giáo sư Eric Vicaut, lănh đạo Trung tâm Đánh giá Thiết bị y khoa thuộc bệnh viện Saint-Louis Lariboisiere, trên RFI lưu ư thêm có hiện tượng « nhất bên trọng, nhất bên khinh » trong việc đóng dấu kiểm định đối với thuốc men và các thiết bị cấy ghép.

« Hiện tại, khi một loại thuốc được đưa ra thị trường, để có được giấy phép, người ta yêu cầu hăng dược phải có những nghiên cứu lâm sàng rất tỉ mỉ, vô cùng nghiêm ngặt, nghiêm túc trên khoảng hàng trăm bệnh nhân, với các phương pháp rất chính xác.

Vấn đề ở đây là những yêu cầu này theo tôi là hoàn toàn tự nhiên thôi. Đây là một trong những điều kiện để người ta có thể đưa ra kinh doanh bởi v́ đó là sản phẩm của tôi dành cho bệnh nhân. Thế nhưng, đ̣i hỏi này lại không được áp dụng đối với các thiết bị cấy ghép ».

Đâu là tầm mức thiệt hại ? Bà Stephane Horel, phóng viên báo Le Monde, giải thích :

« Vấn đề chính là các thiết bị y tế đó không thể truy tầm nguồn gốc và có rất ít sự cố được thông báo. Và như vậy, khó có thể biết được có bao nhiêu thiết bị cấy ghép y khoa đă được đưa vào thị trường châu Âu cũng như là không thể biết là có bao nhiêu sự cố có liên quan đến các thiết bị cấy ghép y khoa này ».

Phụ nữ : Nạn nhân đầu tiên

Theo các số liệu do Hội các phóng viên điều tra thu thập được, tại Mỹ, trong ṿng 10 năm (2007 - 2018), người ta phát hiện có 3,6 triệu sai sót từ các thiết bị y tế đó, 82.000 người chết, và khoảng 1,7 triệu người bị thương.

Vẫn theo nhật báo Le Monde, có rất ít dữ liệu chính thức, điều đó có nghĩa là trong trường hợp có vấn đề, các nhà chức trách cũng khó có thể truy t́m những bệnh nhân nào có cài đặt các mảnh cấy ghép y khoa. Một cách cụ thể : Bệnh nhân thường là vật thí nghiệm mà không hề hay biết, để rồi chính họ bị bỏ rơi khi xảy ra sự cố.

Le Monde nhắc lại vụ tai tiếng ṿng tránh thai Essure của hăng dược Bayer được bán rộng răi trên thị trường châu Âu trong ṿng 15 năm (2002 - 2017). Dụng cụ y khoa này hiện không c̣n được lưu hành tại châu Âu nữa sau một loạt các báo động nghiêm trọng về tác dụng phụ.

Trong một phóng sự của kênh truyền h́nh France 3, một bệnh nhân thuật lại vụ việc : « Ngày đầu tiên, đúng hơn đêm đầu tiên, có nhiều chuyện đă xảy ra : Người bốc hỏa, thức giấc giữa đêm, tim đập nhanh, sau đó là những cơn chóng mặt, chóng mặt dữ dội đến mức tôi không ngồi dậy nổi, tôi không thể sống một cách b́nh thường được ».

Hăng dược của Đức c̣n bị kiện tập thể tại Mỹ và Pháp v́ « thiếu thận trọng » và « đưa ra thị trường một sản phẩm kém chất lượng ». Cuộc điều tra của các nhà báo c̣n cho thấy rơ sự tŕ trệ của các nhà làm luật châu Âu. Khởi động từ năm 2008 nhưng việc nghiên cứu một dự luật quy định các chuẩn cho thiết bị cấy ghép y khoa mới hoàn tất vào tháng 4/2017.

Hiện tại, mạng lưới các cơ quan kiểm định vẫn tiếp tục hoạt động, các cuộc vận động hành lang vẫn tiếp diễn một cách dữ dội. Lợi ích kinh tế đă vượt lên trên cả vấn đề sức khỏe cộng đồng. Và người bệnh chẳng khác ǵ một con cờ trong tṛ chơi may rủi. Trong số này, phụ nữ là những nạn nhân hàng đầu trả giá cho sự thờ ơ lănh đạm của những nhà quản lư sức khỏe cộng đồng.



Back to top





Thiết bị cấy ghép y khoa : Dấu kiểm định chất lượng châu Âu có đáng tin cậy ?

UserPostedImage
Bà Marga van Amersfoort, chủ tịch hiệp hội các nạn nhân ghép độn silicone giữ lại túi silicone đă dùng để làm bằng chứng buộc tội tại ṭa án.Rfi/Antoine Mouteau

Tại Mỹ, theo thống kê, các thiết bị cấy ghép y khoa đă cướp đi sinh mạng của 82.000 người và làm hơn 1,7 triệu người bị thương. Tai tiếng « Implants Files » (Hồ sơ Bộ phận cấy ghép) - theo cách gọi của Hiệp hội các Phóng viên điều tra Quốc tế (ICIJ) - cho thấy rơ những lỗ hổng và yếu kém trong việc kiểm định chất lượng các thiết bị cấy ghép ngày càng được sử dụng rộng răi.

Thị trường thiết bị cấy ghép y khoa là một thị trường lớn, mỗi năm mang về cho nhà sản xuất khoảng 300 tỷ euro. Với mục đích là hỗ trợ bệnh nhân, các dụng cụ cấy ghép chữa bệnh có nguy cơ là những « sát thủ » vô h́nh.

Theo điều tra của hơn 250 nhà báo thuộc 59 cơ quan truyền thông quốc tế, các thiết bị cấy ghép y khoa như dụng cụ bơm chất insulin có trang bị chip cảm biến, thiết bị chạy thận nhân tạo tự động hóa, mảnh ghép xương hông, hay như miếng độn ngực giả… đă gây ra gần 5,5 triệu sự cố, đôi khi dẫn đến tử vong.

Túi lưới đựng quưt : Dụng cụ chống sa nội tạng ?

Nhật báo Le Monde cho biết mọi việc bắt đầu từ « chiếc túi lưới đựng quưt ». Năm 2014, một nhà báo người Hà Lan, bà Jet Schouten nảy sinh ư định muốn có được chứng nhận kiểm định chiếc túi lưới này như là một thiết bị y tế. Bất chấp bộ hồ sơ chứa đầy lỗi kỹ thuật, nhưng nhà báo Schouten vẫn nhận được ư kiến chấp nhận về mặt nguyên tắc từ ba công ty kiểm định khác nhau. Thế là « chiếc túi lưới quưt » của Schouten có cơ may trở thành một thiết bị chống sa nội tạng. Với ch́a khóa trong tay là « sản phẩm » của nhà báo Hà Lan có thể được đưa ra thị trường châu Âu một cách hợp pháp.

Năm 2017, Cơ quan An toàn Quốc gia về Thuốc và Sản phẩm Y tế (Agence nationale de sécurité du médicament et des produits de santé, ANSM) thống kê có 18.208 sự cố liên quan đến các thiết bị chăm sóc sức khỏe tại Pháp. Nếu tính từ năm 2008, số các sự cố này đă tăng hơn gấp đôi trong ṿng mười năm (từ 7.799 vụ lên 18.208). Người ta c̣n nhận thấy chỉ có từ 1-10% các vụ việc là được thông báo. Làm sao đến nông nỗi này ?

Để t́m hiểu sự việc, báo Le Monde cùng với 58 hăng truyền thông khác trên thế giới tiến hành một cuộc điều tra trong ṿng hơn một năm và phát hiện rằng phương thức đưa ra thị trường các thiết bị cấy ghép đơn giản đến mức không thể tưởng : Chỉ cần nhà sản xuất chứng minh được hai điểm : Thứ nhất, thiết bị hoạt động được như dự kiến. Thứ hai là phải an toàn.

Ngược lại, không cần chứng minh về tính hiệu quả, nghĩa là thiết bị có khả năng mang lại lợi ích ǵ cho sức khỏe bệnh nhân th́ không được đề cập đến. Một cách cụ thể, làm thế nào đưa ra thị trường châu Âu thiết bị cấy ghép xương hông. Bà Chloé Hecketsweiler, phóng viên điều tra của báo Le Monde, giải thích với đài RFI :

« Để có thể đưa ra thị trường châu Âu, một thiết bị cấy ghép xương hông phải có được tờ giấy chứng nhận tuân theo chuẩn của châu Âu - CE, do một cơ quan kiểm định cấp, thường là hăng tư nhân. Những cơ quan này, từ những năm 1990, có nhiệm vụ xem xét một bộ hồ sơ do nhà sản xuất cung cấp. Thường các bộ hồ sơ này chứa đựng nhiều thông tin, nhất là các dữ liệu thí nghiệm lâm sàng. Dựa vào bộ hồ sơ đó, các cơ quan kiểm định sẽ xác nhận sản phẩm có thể được đưa ra thị trường châu Âu hay là không, cần phải nghiên cứu thêm ».

Đây cũng chính là những ǵ nhà báo Hà Lan đă thử làm với chiếc túi lưới đựng quưt của cô. Đầu tiên, cô đến gơ cửa một trong số 60 « cơ quan kiểm định » hiện diện tại Châu Âu. Trong bộ hồ sơ này, sản phẩm được nêu rơ cùng với các tiêu chuẩn kỹ thuật sản xuất hay chi tiết các chuẩn được sử dụng. Để thử hệ thống đánh giá này, nhà báo Jet Schouten và nhóm làm việc của cô đă lập một bộ hồ sơ kỹ thuật chứa đầy những yếu tố đáng báo động.

« Trong bộ hồ sơ kỹ thuật, chúng tôi có ghi là thiết bị cấy ghép này để lại vết sẹo suốt đời cho 1/3 phụ nữ và chúng tôi cũng có ghi rơ là chúng tôi hầu như không có một dữ liệu chứng minh cho sự an toàn sản phẩm này. Chúng tôi đề nghị họ đọc hồ sơ của chúng tôi và nhờ họ đánh giá xem là chúng tôi có thể có được chiếc dấu kiểm định theo tiêu chuẩn Châu Âu - CE hay không trên cơ sở bộ hồ sơ kỹ thuật đầy lỗi và đáng lo này.

Rồi chúng tôi có hỏi thẳng : "Quư vị đă đọc bộ hồ sơ này chưa ?". Và họ trả lời : "Rồi". Thế là chúng tôi hỏi tiếp : "Vậy là các ngài chấp nhận sản phẩm này ?". Họ nói : "Chúng tôi thấy chẳng có vấn đề ǵ cả !" »

Dấu kiểm định : Mua dễ như mua quưt ?

Kết quả là với phương pháp này, các nhà sản xuất có thể dễ dàng đưa ra thị trường các thiết bị cấy ghép y khoa mà người ta không thể biết rằng các sản phẩm đó có an toàn hay có hiệu quả hay không. Hơn nữa các nhà báo điều tra chỉ trích phần lớn các hệ thống kiểm định này đều có xung đột lợi ích. Phóng viên Chloé Hecketsweiler cho biết tiếp :

« Điều đáng lo của chiếc dấu kiểm định là chính các nhà sản xuất công nghiệp lại là người trả tiền cho các nhà kiểm định để có được chiếc dấu CE. Chúng tôi nghi ngờ là các nhà kiểm định sợ soi xét kỹ quá th́ sẽ mất khách hàng và như vậy điều này có thể tác động đến việc đưa ra các quyết định độc lập ».

Về điểm này, giáo sư Eric Vicaut, lănh đạo Trung tâm Đánh giá Thiết bị y khoa thuộc bệnh viện Saint-Louis Lariboisiere, trên RFI lưu ư thêm có hiện tượng « nhất bên trọng, nhất bên khinh » trong việc đóng dấu kiểm định đối với thuốc men và các thiết bị cấy ghép.

« Hiện tại, khi một loại thuốc được đưa ra thị trường, để có được giấy phép, người ta yêu cầu hăng dược phải có những nghiên cứu lâm sàng rất tỉ mỉ, vô cùng nghiêm ngặt, nghiêm túc trên khoảng hàng trăm bệnh nhân, với các phương pháp rất chính xác.

Vấn đề ở đây là những yêu cầu này theo tôi là hoàn toàn tự nhiên thôi. Đây là một trong những điều kiện để người ta có thể đưa ra kinh doanh bởi v́ đó là sản phẩm của tôi dành cho bệnh nhân. Thế nhưng, đ̣i hỏi này lại không được áp dụng đối với các thiết bị cấy ghép ».

Đâu là tầm mức thiệt hại ? Bà Stephane Horel, phóng viên báo Le Monde, giải thích :

« Vấn đề chính là các thiết bị y tế đó không thể truy tầm nguồn gốc và có rất ít sự cố được thông báo. Và như vậy, khó có thể biết được có bao nhiêu thiết bị cấy ghép y khoa đă được đưa vào thị trường châu Âu cũng như là không thể biết là có bao nhiêu sự cố có liên quan đến các thiết bị cấy ghép y khoa này ».

Phụ nữ : Nạn nhân đầu tiên

Theo các số liệu do Hội các phóng viên điều tra thu thập được, tại Mỹ, trong ṿng 10 năm (2007 - 2018), người ta phát hiện có 3,6 triệu sai sót từ các thiết bị y tế đó, 82.000 người chết, và khoảng 1,7 triệu người bị thương.

Vẫn theo nhật báo Le Monde, có rất ít dữ liệu chính thức, điều đó có nghĩa là trong trường hợp có vấn đề, các nhà chức trách cũng khó có thể truy t́m những bệnh nhân nào có cài đặt các mảnh cấy ghép y khoa. Một cách cụ thể : Bệnh nhân thường là vật thí nghiệm mà không hề hay biết, để rồi chính họ bị bỏ rơi khi xảy ra sự cố.

Le Monde nhắc lại vụ tai tiếng ṿng tránh thai Essure của hăng dược Bayer được bán rộng răi trên thị trường châu Âu trong ṿng 15 năm (2002 - 2017). Dụng cụ y khoa này hiện không c̣n được lưu hành tại châu Âu nữa sau một loạt các báo động nghiêm trọng về tác dụng phụ.

Trong một phóng sự của kênh truyền h́nh France 3, một bệnh nhân thuật lại vụ việc : « Ngày đầu tiên, đúng hơn đêm đầu tiên, có nhiều chuyện đă xảy ra : Người bốc hỏa, thức giấc giữa đêm, tim đập nhanh, sau đó là những cơn chóng mặt, chóng mặt dữ dội đến mức tôi không ngồi dậy nổi, tôi không thể sống một cách b́nh thường được ».

Hăng dược của Đức c̣n bị kiện tập thể tại Mỹ và Pháp v́ « thiếu thận trọng » và « đưa ra thị trường một sản phẩm kém chất lượng ». Cuộc điều tra của các nhà báo c̣n cho thấy rơ sự tŕ trệ của các nhà làm luật châu Âu. Khởi động từ năm 2008 nhưng việc nghiên cứu một dự luật quy định các chuẩn cho thiết bị cấy ghép y khoa mới hoàn tất vào tháng 4/2017.

Hiện tại, mạng lưới các cơ quan kiểm định vẫn tiếp tục hoạt động, các cuộc vận động hành lang vẫn tiếp diễn một cách dữ dội. Lợi ích kinh tế đă vượt lên trên cả vấn đề sức khỏe cộng đồng. Và người bệnh chẳng khác ǵ một con cờ trong tṛ chơi may rủi. Trong số này, phụ nữ là những nạn nhân hàng đầu trả giá cho sự thờ ơ lănh đạm của những nhà quản lư sức khỏe cộng đồng.



Back to top

florida80
04-06-2019, 17:28
rfi - THỨ TƯ 20 THÁNG BẨY 2011

Chữa bệnh mà không dùng thuốc tại Pháp

UserPostedImage
Tháp dinh dưỡng (DR)

Trọng Thành
Ngày 7/6/2011 vừa qua, Cơ quan Giám định Chất lượng Y tế của Pháp (Haute Autorité de Santé – HAS) công bố một bản báo cáo khuyến nghị nhằm thay đổi quan niệm về « các điều trị không dùng thuốc ». Trong một đất nước mà y học trị bệnh bằng thuốc có một ảnh hưởng vững chắc và lâu đời, sự ra đời của khuyến nghị của cơ quan này quả là một điều bất ngờ.
HAS là một tổ chức chuyên gia công lập, tiến hành các thẩm định khoa học độc lập trong lĩnh vực y tế xă hội. Một trong các mục tiêu chính của báo cáo định hướng của Cơ quan Giám định Chất lượng Y tế là nêu ra được v́ sao các biện pháp « trị liệu không dùng thuốc » lại gặp trở ngại tại Pháp, và đưa ra một số giải pháp để hóa giải các trở lực.

Việc áp dụng các biện pháp « trị liệu không dùng thuốc » thật ra không phải là mới đối với Pháp cũng như nhiều nước trên thế giới, tuy nhiên nh́n chung các biện pháp này thường được nh́n nhận như các phương tiện mang tính hỗ trợ, hơn là chính thức. Việc áp dụng một cách phổ biến và triệt để « các trị liệu không dùng thuốc » rơ ràng mang lại một thay đổi lớn trong quan niệm ở những người điều hành xă hội, giới y tế, cũng như ở người bệnh.

Trong tạp chí Khoa học về Sức khỏe ngày hôm nay, nhà dinh dưỡng học Quỳnh Hoa sẽ giải thích với thính giả trước hết về một số nội dung chính của báo cáo kể trên, và đặc biệt là phương pháp điều trị bằng cách thay đổi lối ăn uống, mà chị hướng dẫn các bệnh nhân thực hiện. Chị Quỳnh Hoa là một thành viên của nhóm thẩm định các tài liệu dùng cho bản báo cáo của Cơ quan Giám định Chất lượng Y

florida80
04-06-2019, 17:30
Cẩn trọng khi dùng vitamin bổ sung


Có lẽ không ở đâu việc dùng thêm các chất vitamin lại phát triển như ở Hoa Kỳ. Những loại dưỡng chất bổ sung này được bán như là một thứ thực phẩm trong các siêu thị. Thế nhưng, đối với đa số chúng ta, việc dùng vitamin bổ sung là vô ích. Thậm chí, một số loại thuốc bổ này có thể gây ra rủi ro chết người đối với những phụ nữ cao tuổi.

Theo một nghiên cứu được đăng trên tạp chí Archives of Internal Medicine, của Hiệp hội Y tế Mỹ, ngày 10/10/2011, giới chuyên gia c̣n nhấn mạnh, chất sắt bổ sung là yếu tố đáng lo ngại nhất, trong khi đó các chất khác có nguồn gốc từ calcium th́ dường như lại giúp làm giảm nguy cơ tử vong.

Các tác giả của công tŕnh nghiên cứu nói trên bao gồm các nhà khoa học Mỹ và Phần Lan cho biết, « chúng tôi đă phát hiện ra rằng nhiều sản phẩm bổ sung có chứa vitamin hoặc khoáng chất, thường được sử dụng, như các sản phẩm vitamin tổng hợp, vitamin B6, acide folique, sắt, magnesium, kẽm, đồng có liên quan đến các rủi ro tử vong cao ».

Kết luận này được đưa ra trên cơ sở các dữ liệu của một công tŕnh nghiên cứu được thực hiện ở tiểu bang Iowa, Hoa Kỳ. 38 772 phụ nữ trong độ tuổi trung b́nh 62 đă trả lời bằng cách điền vào bảng câu hỏi. Họ cho biết đă dùng các chất vitamin bổ sung ra sao trong các năm 1986, 1997 và 2004.

Công tŕnh nghiên cứu công bố ngày 10/10 vừa qua đă chỉ rơ là yếu tố sắt có dính líu rất nhiều đến hiện tượng tăng số nguời tử vong, tùy thuộc vào liều lượng đă dùng.

Tuy nhiên, các tác giả cũng lưu ư là họ không thể xác định được mối liên quan giữa một bên là những lư do thúc đẩy những người phụ nữ này dùng chất sắt bổ sung và bên kia là tỷ lệ tử vong cao. Vấn đề này đ̣i hỏi phái có những nghiên cứu rộng lớn và sâu hơn.

Ngược lại, calcium có liên quan đến việc giảm tỷ lệ tử vong. Trong thông báo đi kèm công tŕnh nghiên cứu, các bác sĩ ghi nhận là những phát hiện này, xin trích, « củng cố ḷng tin của chúng tôi rằng một số chất vitamin chống lăo hóa như vitamin E, vitamin A hay beta carotène có thể nguy hiểm ».

Đồng thời, các chuyên gia cũng nhấn mạnh, đừng nghĩ là cứ dùng thêm vitamin là tốt và trong mọi trường hợp, đối với những người có chế độ ăn uống đầy đủ th́ không nên dùng các chất vitamin bổ sung như là một liệu pháp pḥng ngừa.

Thực ra, đă từ lâu, các chuyên gia đă cảnh báo việc dùng dưỡng chất bổ sung, đặc biệt là ở những nguời cao tuổi. Ví dụ, năm 2009, các nhà khoa học thuộc đại học North Carolina, Hoa Kỳ đă tiến hành một công tŕnh nghiên cứu, thu thập dữ liệu liên quan đến việc dùng dưỡng chất bổ sung trong một thời gian dài, ở nhóm người có độ tuổi từ 50-76. Kết quả cho thấy dường như có mối liên hệ theo tỷ lệ thuận giữa thời gian sử dụng dưỡng chất bổ sung và nguy cơ bị ung thư.

florida80
04-06-2019, 17:31
Tụ cầu khuẩn trong thực phẩm đông lạnh Trung Quốc



Thụy My
Dư luận Trung Quốc phản đối việc Bộ Y tế cho phép sự hiện diện của tụ cầu khuẩn trong thực phẩm đông lạnh. Loại tụ cầu khuẩn này có thể gây ra bệnh viêm phổi và viêm màng năo.
Theo các quy định mới của Bộ Y tế Trung Quốc được công bố ngày 24/11/2011, một lượng nhỏ tụ cầu vàng được cho phép hiện diện trong các sản phẩm đông lạnh như cơm hay ḿ.

Hăng tin AFP nhắc lại, gần đây cơ quan quản lư y tế Trung Quốc đă ra lệnh thu hồi các loại sản phẩm như há cảo của công ty Synear Food – một trong những nhà sản xuất thực phẩm đông lạnh lớn nhất – sau khi phát hiện tụ cầu vàng trong mặt hàng trên. Loại tụ cầu khuẩn này có thể gây ra bệnh viêm phổi và viêm màng năo.

Nhân dân Nhật báo đă phẫn nộ kêu gọi Bộ Y tế phải “đáp ứng nỗi lo ngại của công chúng” v́ “không thể làm ngơ trước sự quan ngại của người dân về an toàn thực phẩm”. Tờ báo chính thức của đảng Cộng sản Trung Quốc đă nêu lên “sự cần thiết phải lập lại ḷng tin về các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm”, nhắc nhở các x́-căng-đan đă gây xôn xao trong những năm gần đây như sữa nhiễm melamine hay dầu tái chế từ dầu thải thu hồi được ở những ống cống.

Phản ứng của cư dân mạng cũng tương tự. Một blogger viết : “Với các tiêu chuẩn mới này, th́ độc chất được cho phép hiện diện trong thực phẩm miễn là chưa đến mức gây chết người”.

Hồi tháng 9/2010, Bộ Công an Trung Quốc đă kêu gọi tăng cường các biện pháp trừng phạt thậm chí có thể tử h́nh, đối với những người gây ra các vụ tai tiếng về thực phẩm nghiêm trọng nhất.

florida80
04-06-2019, 17:32
Trẻ măi không già có lẽ là ước mơ từ khi loài người xuất hiện trên trái đất. Từ cổ chí kim nhân loại vẫn đi t́m nguồn suối trường sinh và bỏ công nghiên cứu, t́m kiếm những phương thuốc cải lăo hoàn đồng. Thời buổi bây giờ, với những nghiên cứu khoa học và những khám phá mới, nhiều người lớn tuổi nghĩ rằng họ có thể nhờ cậy đến kết quả các nghiên cứu để giúp cho họ trẻ lâu, khỏe mạnh như tuổi thanh xuân. Chính v́ ước mơ này mà nhiều người đă tiền mất tật mang và bị một số những người trong ngành y lợi dụng thị hiếu để làm giàu. Câu Chuyện nước Mỹ hôm nay mời quí thính giả theo dơi một số phương cách kiếm tiền của các bác sỹ dựa trên ước mơ trẻ măi không già và những hệ quả của các phuơng cách sử dụng hormones. Sau đây là Lan Phương trong bài viết dựa trên báo chí tại Hoa Kỳ.
Lan Phương


UserPostedImage
H́nh: Getty Images/Cultura RF

Theo ước tính, ngành công nghiệp được mệnh danh là chống lăo hóa trên toàn thế giới có thể thu về hơn 291 tỉ đô la tính từ nay cho đến năm 2015.

Tại Hoa Kỳ, nhiều ngàn bác sỹ đă nhảy vào lănh vực này và kiếm tiền như nước. Theo bác sỹ chuyên về sản phụ khoa Steven R. Goldstein, giáo sư tại trường y thuộc đại học New York, vấn đề nằm ở chỗ rất nhiều người tự nhận là các bác sỹ chống lăo hóa thường đưa ra những lời hứa hẹn hăo huyền, nhắm tới những con mồi với những quảng cáo như “già lăo là do chính quí vị, nếu nghe chúng tôi, chúng tôi có thể sửa chữa.”

Ai cũng biết lăo hóa là một tiến tŕnh tự nhiên, không ai trẻ măi không già, và không ai sống măi ngàn năm. T́m những phương thuốc chống chỏi lại tiến tŕnh tự nhiên, t́m đến các bác sỹ ở một xă hội như tại nước Mỹ với ước mơ níu kéo lại tuổi xuân, theo bài báo, hầu hết đều tiền mất tật mang, có khi c̣n mất mạng nữa cho dù y khoa ở Mỹ được xếp hạng tiên tiến nhất thế giới.

Bài báo của CNN.com trưng dẫn trường hợp bà Hanneke Hops, 56 tuổi, cư dân California. Bà không sợ chết, nhưng lại sợ già. Bà muốn trong lứa tuổi ngũ tuần, bà vẫn c̣n cưỡi ngựa, chạy bộ đường trường, hay lái máy bay như hồi c̣n trẻ trung. V́ vậy bà t́m đến ông Alan Mintz, một bác sỹ chuyên khoa quang tuyến quay sang thành lập Viện Y Khoa Cenegenics tại Las Vegas, chuyên về:” y học quản lư tuổi tác.“

Bà được bác sỹ kê toa cho dùng hormone HGH, Human Growth Hormone, một loại kích thích tố tăng trưởng được cho là nguồn suối trường sinh kỳ diệu. Mặc dù cơ quan Kiểm soát Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ đă cảnh báo sử dụng HGH sẽ đưa đến nhiều hệ quả phụ hết sức nguy hại. Bà Hops, không hề hay biết về những nguy hại, bắt đầu chích 6 lần mỗi tuần.
Bà không già hơn, v́ bà đă chết 6 tháng sau đó, trong gan đầy những bướu độc.

Theo tiến sỹ S.J Olshansky một chuyên gia thuộc trung tâm nghiên cứu tuổi già của đại học Chicago cho biết không có trị liệu nào có thể đổi ngược hay làm chậm lại tiến tŕnh lăo hóa. Những bác sỹ tự nhận là “chống lăo hóa “ đơn giản chỉ hơn những kẻ măi vơ sơn đông bán cao đơn hoàn tán một tí thôi.

Những hiệp hội y khoa chính thức của Hoa Kỳ, từ Hiệp Hội Chuyên Khoa Nội Tiết đến Hiệp Hội Y Học Hoa Kỳ cảnh báo về việc sử dụng những phương thuốc chống lăo hóa. Và trong khi những bác sỹ chuyên khoa truyền thống như nội tiết và lăo khoa được huấn luyện đặc biệt để chữa trị những triệu chứng và bệnh tật của tuổi già do mất quân b́nh về kích thích tố (hormones), không phải bác sỹ nào tự nhận là “chuyên môn về chống lăo hóa” đều có bằng cấp chuyên môn cao.

Và thực sự “chống lăo hóa” không phải là một chuyên khoa được Ủy ban Cấp bằng Chuyên Khoa Y Học của Hoa Kỳ công nhận. Tuy nhiên các bác sỹ tự thành lập một hiệp hội riêng cho ngành nghề của họ với tên gọi là American Academy of Anti-Aging Medicine (A4M). Thành lập năm 1992, hiệp hội này tự nhận là có đến 24.000 hội viên khắp thế giới, và cấp bằng về “chống lăo hóa" cho bất cứ một bác sỹ nào.

Một khi đă mở pḥng mạch để hành nghề trong lănh vực này, thường các bác sỹ thu về rất nhiều lợi nhuận. Theo tiến sỹ Olshansky, hầu hết các loại bảo hiểm y tế đều không trả cho những loại chữa trị này, do đó khách hàng phải bỏ tiền túi ra chi, thường số tiền lên đến hàng ngàn, hay hàng chục ngàn đô la, một năm. Và trong thời buổi mà các bác sỹ ngày càng bị các công ty bảo hiểm hoặc hệ thống bảo hiểm y tế chính phủ hạn chế tiền chi trả, không ai ngạc nhiên khi các bác sỹ thuộc đủ mọi ngành, từ ngành cấp cứu đến quang tuyến, đều đổ xô sang “chống lăo hóa.”

Làm sao để biết được bác sỹ chỉ đưa ra lời hứa hẹn hăo huyền? Sau đây là những hiểm nguy cho sức khỏe mà các vụ điều tra đă phát hiện:

Trị liệu bằng kích thích tố (hormones), một vũ khí chính trong việc “trị liệu chống lăo hóa,” nhưng phương cách này chưa được chứng minh và đầy rủi ro cho sức khỏe. Theo bác sỹ Nanette Santoro, giám đốc ngành nội tiết sản khoa và hiếm muộn của trường y khoa Albert Einstein, tăng lượng kích thích tố nơi một phụ nữ tuổi 60 lên bằng với lượng ở tuổi đôi mươi rồi nghĩ là sẽ làm cho người đó trẻ lại th́ thật là quá đơn giản hóa vấn đề mà c̣n gây tai hại, v́ cơ thể con người không đơn giản như vậy.

Sử dụng kích thích tố để trị liệu hết sức nguy hiểm v́ hầu hết các bác sỹ trong lănh vực “chống lăo hóa” không hề được huấn luyện về những loại kích thích tố gây tác dụng cực mạnh này. Bài viết của CNN nhắc đến lời nhận định của bác sỹ Thomas Perls, giáo sư y khoa và lăo khoa tại trườøng y của đại học Boston: “Trong toàn bộ ngành “chống lăo hóa” tôi chỉ mới gặp 1 bác sỹ thật sự có bằng chuyên khoa về nội tiết. Thật là đáng giận khi người ta (các bác sỹ ngành khác) nghĩ họ có thể kê toa cho bệnh nhân dùng các loại hormones kết hợp rất độc này.” Loại kích thích tố chính là HGH, human growth hormone, kích thích tố tăng trưởng của con người, theo tự nhiên, lượng HGH trong cơ thể sẽ giảm đi khi con người ngày càng lớn tuổi.

Trị liệu bằng kích thích tố này kết hợp với một số các hóa chất khác mỗi năm tốn đến 12 ngàn đô la hay hơn, và các bác sỹ trị liệu tự cho là họ sẽ giúp thân chủ tiêu mỡ, tăng cơ bắp, tăng năng lực và hồi xuân.

Nhưng theo bác sỹ Perls th́ không hề có một chứng minh khoa học nào như vậy, mà ngược lại có những cuộc nghiên cứu cho thấy trị liệu bằng HGH kèm thêm với các loại thuốc sẽ làm cho người ta dễ bị bệnh tim, ung thư, và tiểu đường, và gợi ư rằng HGH có thể là một yếu tố trong cái chết của bà Hanneke Hops.

Trên thực tế, Cơ Quan Kiểm Soát Thực Phẩm và Dược Phẩm Hoa Kỳ chỉ chấp thuận cho sử dụng HGH trong một trường hợp thật hiếm hoi quá thiếu kích thích tố này nơi người trưởng thành, c̣n sử dụng nó cho trị liệu chống lăo hóa là bất hợp pháp.

Một loại khác nữa được sử dụng là kích thích tố nữ estrogen. Trong nhiều thập niên nhiều phụ nữ đă dùng loại estrogen tổng hợp với Progesterone để giúp giảm bớt những triệu chứng khó chịu thời kỳ măn kinh như bốc hỏa và khô trong người. Đến năm 2002, một cuộc nghiên cứu lâu năm đă phát hiện rằng sử dụng loại kích thích tố này dễ đưa đến t́nh trạng máu đóng cục, đột quị, bệnh tim và ung thư vú nên cách chữa trị đă bị đ́nh chỉ.

Nhưng một số các bác sỹ ”chống lăo hóa” đă kê toa để các dược pḥng bào chế ra những viên thuốc tổng hợp các loại kích thích tố sinh học làm cho giới y khoa chính mạch hết sức lo ngại.

Ngoài ra c̣n chẩn đoán mà các bác sỹ về “ chống lăo hóa” thường đưa ra gây lo ngại thêm cho giới y học ḍng chính như “thiếu kích thích tố tuyến thượng thận do quá nhiều áp lực đời sống “gây mệt mỏi và mất ngủ v..v”.

Theo bác sỹ Perls, chỉ có các bác sỹ chuyên khoa về nội tiết, sau khi cho hàng loạt thử nghiệm, mới đủ thẩm quyền chẩn đoán là bệnh nhân có thiếu kích thích tố tuyến thượng thận hay không, c̣n hầu hết chẩn đoán do những bác sỹ ” chống lăo hóa” không có huấn luyện chuyên môn đưa ra đều không có cơ sở.

Nhiều bác sỹ trong lănh vực này c̣n đặc chế các loại vitamin riêng của họ và quảng cáo rằng chúng giúp chống lăo hóa hiệu nghiệm hơn các loại mua ở tiệm thuốc tây. Họ bán với cái giá đắt khủng khiếp. Bác sỹ Perls đưa ra nhận xét hóm hỉnh “lợi nhuận mà những loại vitamin do các bác sỹ đó đặc chế đem về cao hơn là lợi nhuận mà các tay buôn lậu cocaine thu về.”

Và thưa quí vị, những người trên 50 không thể đ̣i hỏi trẻ như tuổi đôi mươi, nhưng cái tin vui ở đây là có rất nhiều người trong lứa tuổi trung niên hay hơn, “lăo hóa theo phong cách tốt đẹp” (aging gracefully),” họ vẫn khỏe mạnh, sinh động, yêu đời, đẹp…lăo và ngay cả… sexy nữa. Theo các chuyên gia và các nhà nghiên cứu, lời khuyên hay nhất để giữ sức khỏe trong tiến tŕnh lăo hóa là duy tŕ trọng lượng cơ thể ở mức độ lành mạnh, năng vận động, sống điều độ, ăn uống những thực phẩm tươi tốt và đầy đủ dinh dưỡng, và nhất là không hút thuốc không nghiện rượu. Theo bác sỹ Goldstein, hai chất dinh dưỡng rất cần thiết cho cơ thể là calcium, 1.200 miligram, nguồn tốt nhất là từ thực phẩm, và 2.000 IU vitamin D, mỗi ngày.

Ngoài ra, ở lứa tuổi trung niên trở ra, mọi người nên đi khám định kỳ với bác sỹ gia đ́nh và bác sỹ sản phụ khoa nếu là phụ nữ. Trên đây là những người giúp cho chúng ta một lối sống vui, sống khỏe, đường lối đă được chứng nghiệm lâu dài qua thời gian, tuy không có vẻ tối tân, cầu kỳ như trị liệu bằng kích thích tố hay những phương thuốc đặc biệt đắt giá, rồi kèm thêm với thể dục, thể thao, nó không làm hại cho túi tiền và sức khỏe của chúng ta như … kích thích tố HGH!

florida80
04-06-2019, 17:33
Tập đoàn Coca-Cola thay đổi công thức v́ một chất tạo màu nghi gây ung thư

UserPostedImage
© AFP

Thụy My
Tập đoàn Mỹ Coca-Cola đă buộc ḷng phải thay đổi công thức huyền thoại của thức uống nổi tiếng Coca-Cola để phù hợp với luật lệ của California, v́ một chất tạo màu caramel bị xem là có tiềm năng gây ung thư. Coca-Cola và đối thủ cạnh tranh là Pepsi đều trấn an người tiêu dùng là mùi vị các loại nước giải khát này không thay đổi.

Cũng tương tự như Pepsi, Coca-Cola phải thay đổi như trên để tránh việc phải cho in lên bao b́ tại California thông tin cảnh báo về sự hiện diện của chất 4-méthylimidazole (4-MEI). Đây là một chất tạo màu caramel có nguồn gốc từ ammoniac và sulfite, khi thử nghiệm với súc vật trong pḥng thí nghiệm đă cho thấy nếu hấp thu với lượng lớn sẽ gây ung thư.

Coca-Cola vốn duy tŕ huyền thoại xưa nay về công thức pha chế loại nước giải khát nổi tiếng có từ hàng trăm năm qua, được cất kỹ trong một tủ sắt, đă cho biết thức uống này là vô hại, và mùi vị của Coca-Cola vẫn được giữ nguyên. Ben Sheidler, một trong các phát ngôn viên của tập đoàn tuyên bố : « Chúng tôi không hề thay đổi ǵ cả, từ phương pháp sản xuất cho đến công thức pha chế. Chúng tôi sẽ yêu cầu các nhà cung cấp caramel giảm tỉ lệ chất 4-MEI xuống, cho phù hợp với quy định của tiểu bang California ». Điều này cũng sẽ được áp dụng trên toàn nước Mỹ, tuy Coca-Cola hiện chưa thể xác định được ngày tháng cụ thể.

Tương tự, tập đoàn Pepsi cũng khẳng định là loại nước giải khát của ḿnh « đang và sẽ luôn luôn là thức uống sạch cho người tiêu dùng ». Trong thông cáo, Pepsi cho biết : « Người tiêu thụ sẽ không nhận thấy bất cứ một sự khác biệt nào trong sản phẩm của chúng tôi, và không có lư do ǵ để phải lo lắng về bất kỳ vấn đề ǵ về sức khỏe. Không có một bằng chứng khoa học nào cho thấy chất 4-MEI sử dụng trong thực phẩm là một mối đe dọa cho sức khỏe con người ».

Chất 4-MEI cũng hiện diện trong các loại nước soda khác, bia và nước tương, là một chất được nh́n nhận là gây ung thư cho loài vật, nhưng c̣n đối với con người th́ vẫn là chủ đề đang được tranh căi. Hiệp hội Nước giải khát Hoa Kỳ (ABA) cho rằng khả năng gây ung thư chỉ mới được công nhận qua một công tŕnh nghiên cứu trên loài chuột, các cơ quan an toàn thực phẩm Mỹ (FDA), Canada và châu Âu (EFSA) vẫn chưa cấm sử dụng, và chưa quy định ngưỡng tối đa cho các sản phẩm tiêu dùng.

Thông cáo của ABA nhận định : « Trên thực tế, các cơ quan trên đây coi chất tạo màu caramel sử dụng trong thực phẩm là không nguy hiểm ». Hiệp hội đại diện cho các nhà sản xuất nước giải khát nói rằng cần phải tiêu thụ đến 2.900 lon nước ngọt một ngày, trong ṿng 70 năm, th́ mới đạt đến ngưỡng mà loài chuột đă mắc phải nguy cơ ung thư trong các thí nghiệm trên.

Nhưng tiểu bang California đă áp dụng nguyên tắc pḥng ngừa nghiêm ngặt. Một đạo luật được thông qua vào năm 1986 buộc phải bảo vệ người tiêu thụ đối với « các sản phẩm hóa học gây ung thư, gây quái thai hoặc vô sinh », và phải « thông báo cho người tiêu thụ biết các nguy cơ ẩn chứa ».

Tháng 12/2011, tiểu bang này đă ghi thêm chất 4-MEI vào danh sách các sản phẩm gây ung thư. California ấn định tỉ lệ tối đa của chất 4-MEI là 29 microgram cho mỗi sản phẩm tiêu thụ. Theo một công tŕnh nghiên cứu mới đây tại Washington do hiệp hội người tiêu dùng CSPI (Center for Science in the Public Interest) thực hiện, th́ một lon nước ngọt Coca hay Pepsi chứa từ 103 đến 153 microgram chất này.

Michael Jacobson, giám đốc CSPI tuyên bố : « Coca-Cola và Pepsi luôn khẳng định là tỉ lệ chất tạo màu này không có nguy cơ ǵ cho sức khỏe. Họ chỉ t́m cách giữ thể diện mà thôi. Từ hai, ba năm qua họ đă kiện tiểu bang California ra ṭa, nhưng họ đă không thuyết phục được ṭa án và đă thua cuộc ».

Hiệp hội CSPI đă kiến nghị lên FDA để chất 4-MEI được xếp vào danh sách các chất gây ung thư. Ông Jacobson nói : « Vấn đề hiện nay là biết được đến bao giờ th́ Pepsi và Coca sẽ tiến hành các thay đổi này, không chỉ tại California mà c̣n trên toàn thế giới ? ».

florida80
04-06-2019, 17:34
Kéo dài tuổi thọ nhờ ăn nho cả vỏ

UserPostedImage
Một nghiên cứu của Đại học Harvard cho thấy chất resveratrol tồn tại trong vỏ nho có tác dụng rất tốt trong việc chống lăo hóa cho con người.
Resveratrol không những chứa chất chống oxy hóa mà c̣n có thể pḥng tránh được các bệnh tim mạch và các bệnh ung thư.
Một cuộc điều tra của Tổ chức y tế Thế giới cho thấy rằng, mặc dù người Pháp rất yêu thích các loại bơ nhưng tỉ lệ mắc bệnh tim mạch vành và tỉ lệ tử vong v́ căn bệnh này của người Pháp vẫn thấp hơn ở những quốc gia phương Tây khác. Các chuyên gia cho rằng điều này có thể liên quan đến việc người Pháp thường xuyên uống các loại rượu vang.
Vỏ nho, đặc biệt là vỏ nho tím c̣n chứa chất flavonoids giúp giảm huyết áp, thúc đẩy lipoprotein mật độ cao trong máu tăng lên, làm giảm lượng cholesterol có hại, bảo vệ tim mạch. Ngoài ra, cellulose, pectin và sắt có trong vỏ nho có thể bù đắp dinh dưỡng trong chế độ ăn hiện nay. Các chuyên gia khuyên rằng, nên ăn nho cả quả cùng với vỏ và hạt, cơ thể sẽ hấp thu được nhiều chất dinh dưỡng hơn.
Các chuyên gia dinh dưỡng đă t́m thấy resveratrol trong 72 loại thực phẩm như đậu phông, dâu tằm... nhưng lượng resveratrol trong vỏ nho là cao nhất. Tuy nhiên, nho lại không phải là loại trái cây nên ăn hàng ngày mặc dù nó chứa giá trị dinh dưỡng cao.

(theo vietnamplus)

florida80
04-06-2019, 17:36
TẤT CẢ NHỮNG G̀ BẠN MUỐN BIẾT VỀ
QUẢ TRỨNG

Không có món ăn nào quen thuộc với mọi gia đ́nh hơn quả trứng. Thế nhưng có rất nhiều điều bạn chưa biết về quả trứng!

TRỨNG BỔ DƯỠNG NHƯ THẾ NÀO?
Khi ta ăn một miếng thịt luộc hay rô ti, th́ đó chỉ là một phần thịt heo, ḅ… với vài chục dưỡng chất mà chủ yếu là các acid amin… C̣n lại các chất khoáng cần cho xương cốt th́ ở phần xương; các sinh tố ở gan, ḷng; gelatin cần cho da th́ ở da; keratin cần cho lông tóc lại ở sừng ḅ… mà ta không thể ăn được. Ngược lại, khi ta ăn một quả trứng th́ ta hưởng được trọn vẹn hơn 60 dưỡng chất trong quả trứng, mà nếu để ấp sau 21 ngày sẽ nở ra một cá thể gà hay vịt con có đủ da, thịt, xương, lông, cánh… không dư không thiếu một chất nào. Tính bổ dưỡng toàn phần này được chứng minh bằng giá trị sinh học của trứng, nghĩa là lấy lượng nitrogen của protein tăng cân (sinh cơ) chia cho lượng nitrogen của protein trứng được ăn vào sẽ có tỉ số bằng 1, tức là ăn bao nhiêu protein của trứng vào th́ sẽ biến bấy nhiêu thành protein cơ thể.

Lấy tỉ số này nhân với 100 ta sẽ có giá trị sinh học của trứng là 100, trong khi của các thực phẩm khác luôn thấp hơn. Protein của trứng hoàn hảo như vậy nên được gọi là protein lư tưởng. Lưu ư trứng ở đây là trứng gà, vịt, cút… ăn cả ḷng trắng và ḷng đỏ th́ mới đạt hiệu quả toàn vẹn được. Để thấy rơ tính chất bổ dưỡng của trứng, người ta phân tích thành phần acid amin trong protein trứng. Chất lượng này được dựa trên sự dồi dào và cân bằng của các acid amin thiết yếu trong protein trứng. Bảng 1 cho ta thấy hàm lượng protein cũng như các acid amin thiết yếu trong trứng rất giàu và có tỉ lệ cân bằng như trong cơ thể con người. Trứng rất giàu sinh tố và khoáng chất mà trên 70% chúng nằm ở ḷng đỏ (2 quả trứng gà hay vịt hoặc 10 trứng chim cút đủ cung cấp trên 50% nhu cầu các sinh tố và khoáng chất thiết yếu cho cơ thể người lớn trong ngày).

TRỨNG GÀ, TRỨNG VỊT, TRỨNG CÚT, TRỨNG LỘN, TRỨNG MUỐI, TRỨNG VỮA… TRỨNG NÀO BỔ HƠN?
Theo nguyên tắc chung: trứng vịt bổ hơn trứng gà v́ nó vừa to vừa cùng giá tiền với trứng gà. Hơn nữa vịt thường được thả rong hay lùa đi ăn ngoài đồng nên trứng vịt có nhiều chất bổ dưỡng hơn gà công nghiệp, tuy về mặt cảm quan, trứng gà sạch sẽ hơn và ít tanh hơn trứng vịt (gà đẻ trong chuồng khô sạch; vịt đẻ dưới đất bẩn). Ngoài ra, Vịt thuộc nhóm chim chân màng (vịt, ngỗng, le le, thiên nga) mỡ của nó chứa nhiều acid béo omega-3 có lợi cho tim mạch hơn mỡ gà. Trứng chim cút bổ nhất v́ 50% là ḷng đỏ, trong khi trứng gà, vịt chỉ có 35-40% là ḷng đỏ.

- Trứng càng tươi càng tốt (ở các nước người ta thường ghi ngày đẻ trên mỗi quả trứng), trứng để quá một tuần th́ kém chất lượng hơn. Ở Pháp, trứng đă ấp sau 7-10 ngày loại ra chỉ được dùng làm thức ăn gia súc nói ǵ đến trứng vữa, trứng ung!
- Trứng lộn th́ bổ hơn v́ đă biến thành phôi dễ tiêu hóa hấp thu, nhưng đôi khi nó dễ gây dị ứng đối với trẻ con dưới 6 tuổi hơn trứng tươi.
- Trứng muối th́ ăn được nhưng không bổ dưỡng mấy v́ protein đă bị biến chất, sinh tố bị hủy gần hết và mặn không dùng được nhiều.
- Trứng vữa, trứng ung th́ không nên dùng v́ protein đă bị biến chất, hơi có độc v́ lưu huỳnh trong trứng đă biến thành sulfur hidrogen (mùi trứng thối). Tuy vậy dân nhậu lại thích trứng ung, trứng vữa mà mới đây người ta chứng minh rằng, một H2S hữu cơ lại có tính làm tăng NO giống như Viagra!
- Trứng bách thảo cũng bị biến chất, sinh tố bị giảm nhiều, dùng để ăn chơi lấy hương vị…

ĂN TRỨNG CÓ BỊ TĂNG CHOLESTEROL KHÔNG ?
Bảng cholesterol trong 100g thực phẩm:
Nghêu: 454 mg
Cật heo: 410 mg
Gan heo: 368 mg
Mực ống: 348 mg
Cật ḅ: 340 mg
Gan ḅ: 323 mg
Oc heo: 310 mg
Trứng: 266 mg
Mực tươi: 265 mg
Bơ, mỡ ḅ: 260 mg
Tôm hùm: 200 mg
Thịt bê: 173 mg
Lạp xưởng: 150 mg
Kem (cream)140 mg
Thịt ḅ nạc: 125 mg
Phô mai: 100 mg
Ḷng trắng trứng: 0
Dầu thực vật: 0
Rau quả tươi: 0

Theo bảng 3, trứng không phải là thực phẩm giàu cholesterol lắm. Tuy cholesterol chỉ tập trung ở ḷng đỏ trứng, nhưng đây là "cholesterol tốt". Có 2 nhóm cholesterol chính:
(red)-HDL-C(High-Density Lipoprotein cholesterol), cholesterol tỉ trọng cao, c̣n gọi là cholesterol tốt và VHDL-C (Cholesterol tỉ trọng rất cao),
-LDL-C (Low-Density Lipoprotein cholesterol) c̣n gọi cholesterol tỉ trọng thấp, cholesterol xấu và VLDL-C... (red)

Cholesterol trong ḷng đỏ trứng nhờ kết nối với glycerol, cholin, phosphor và các acid béo nhiều nối đôi trong phức hợp gọi là lecithin. Lecithin có đặc tính nhũ tương hóa rất mạnh giúp chất béo ḥa tan được trong nước (máu) nên cholesterol ḥa vào máu đi đến những chỗ tế bào bị hư hại để sửa chữa lại, nhờ vậy mà cơ thể không bị tổn thương; lượng cholesterol dư thừa lại được dưa về gan sử dụng tạo ra muối mật và các nội tiết tố điều hành cơ thể. Cholesterol như vậy là rất cần thiết cho cơ thể, kể cả cho việc sinh sản tế bào. Đối với trẻ con đang lớn và người lớn đang đang phát triển khối cơ như các vận động viên, nhất là vận động viên thể dục thể h́nh, cần tăng nhanh tế bào cơ th́ không thể thiếu cholesterol được. Người b́nh thường và ngay cả người già yếu, cao tuổi vẫn cần cholesterol hàng ngày cho việc sửa chữa tế bào hư hại. Thật ra cholesterol do thực phẩm ăn vào (gọi là cholesterol ngoại sinh) chiếm tỉ lệ không nhiều.

Thường người bị cholesterol máu cao là do cholesterol nội sinh, do gan tạo ra từ thực phẩm giàu acid béo no (không nối đôi, trong mỡ ḅ, bơ, dầu dừa, dầu cọ, dầu hidrogen hóa như margarin, shortening) và do ta ăn uống không đúng cách (thiếu rau quả tươi, thiếu cholin và các chất hướng mỡ khác), thiếu vận động… Nói chung cholesterol từ trứng không những vô hại mà c̣n tốt cho cơ thể v́ lecithin làm tăng HDL-C và cholesterol nằm trong công thức lecithin được gọi là chất hướng mỡ (lipotropic) giúp cơ thể biến dưỡng chất béo tốt hơn, thuận lợi cho sức khỏe. (Chính tác giả, trong 40 năm nay gần như ngày nào cũng ăn 1 quả trứng luộc (trung b́nh tuần 5 trứng) mà khi thử máu (lipidogramme) mỗi năm 1 lần, lúc nào lipid máu, cholesterol máu cũng ở trị số normal)

MỖI NGÀY ĂN ĐƯỢC BAO NHIÊU TRỨNG ?
Theo thống kê hàng năm (World Almanac), trung b́nh mỗi người Mỹ tiêu thụ 300 quả trứng/năm, người Pháp 280 trứng. Nếu muốn có đủ lecithin th́ mỗi ngày phải ăn 3 trứng mới đủ cho nhu cầu cơ thể. Nhưng v́ ngũ cốc, nhất là đậu mè cũng có lecithin nên mỗi ngày ta nên ăn 1 trứng là vừa. Các chuyên gia dinh dưỡng khuyên dùng từ 5 trứng mỗi tuần. Đối với các vận động viên có thể dùng gấp đôi hay hơn số lượng trên (2-3 trứng mỗi ngày).

NÊN ĂN TRỨNG SỐNG HAY TRỨNG CHÍN? L̉NG TRẮNG HAY L̉NG ĐỎ?
Cơ thể ta không thể tiêu hóa được ḷng trắng trứng sống, ngoài ra nó c̣n chứa chất avidin, ăn sống vào sẽ kết hợp với biotin làm hại sinh tố này. Ngoài ra, ḷng trắng trứng sống c̣n có thể bị nhiễm khuẩn. Do đó ta nên luộc trứng để dùng là tốt nhất. Trứng luộc chín (cả ḷng trắng lẫn ḍng đỏ) hoặc trứng la cót (luộc cho ḷng trắng trứng vừa chín mà ḷng đỏ c̣n mềm) đều bổ dưỡng giống nhau và là cách ăn trứng tốt nhất. Trứng tráng (omelet), trứng ốp la (tráng ḷng trắng chín mà ḷng đỏ c̣n mềm) cũng được nhưng hai cách này đều có thêm nhiều dầu mỡ không tốt bằng luộc. Không nên ăn trứng sống, hoặc nếu có th́ chỉ dùng ḷng đỏ trong các ly "sô đa hột gà sữa" hoặc "sô đa hột gà cam đường" nhưng phải dùng trứng thật tươi và lấy ḷng đỏ cẩn thận tránh nhiễm trùng từ vỏ trứng. Từ tháng 8 đến tháng 2 dương lịch năm sau không nên ăn trứng sống kiểu trên để ngừa cúm gà.

SỮA GÀ MÁI CÓ TỐT KHÔNG?
"Sữa gà mái": đập 1-2 quả trứng gà thật tươi vào một ly lớn, đánh tan đều với ít đường hay mật ong rồi chế nước đang sôi vào (nước phải thật sôi và tối thiểu 200 ml mới làm chín trứng) khuấy đều, ta sẽ có 1 ly trắng đục như sữa nên gọi là sữa gà mái, người lớn tuổi dùng cho bữa điểm tâm, rất bổ dương. Người sợ lên cân cũng có thể điểm tâm bằng sữa gà mái. Mỗi tuần có thể dùng vài ba ly sữa gà mái này nghĩa là không quá 5 trứng/tuần.

TRỨNG NGÂM GIẤM TRỊ ĐƯỢC BỆNH G̀?
Có người chế ra kiểu ăn lạ: trứng gà mới đẻ, rửa sạch, rồi dùng g̣n thấm cồn 70 lau sạch, để nguyên vỏ, sắp đầy vào keo lọ rồi đổ giấm thật chua vào cho ngập trứng, để yên trong 10 ngày. Giấm (acid acetic) sẽ làm tan vỏ trứng, (biến carbonat calcium vỏ trứng thành acetat calcium tan trong nước), khuấy đều rồi để dành dùng dần, mỗi ngày tương ứng với vài ba muỗng canh (½ -1 trứng). Có thể thêm một ít mật ong khi dùng. Dùng trứng cách này có thể hưởng được hết các chất khoáng và vi chất dinh dưỡng khác trong vỏ trứng (xem bảng 6), bổ túc dưỡng chất mỗi ngày cũng tốt nhưng một số sinh tố sẽ bị giấm làm hư. Theo kinh nghiệm dân gian th́ trứng gà ngâm giấm trị được nhiều bệnh, nhưng theo chúng tôi đây chỉ là thức ăn bổ sung hoặc được coi như thuốc bổ tổng quát mà thôi. D́mg trứng gà ngâm giấm ở mức độ mỗi ngày vài muỗng canh cũng có cái tốt khác là nếu dùng trong bữa ăn th́ giấm cũng giúp cho một số khoáng có hóa trị 2 thành dạng cation như Ca++, Zn++, Fe++ … dễ hấp thu hơn.

TẠI SAO NGƯỜI TA ĐỒN RẰNG CÁC VẬN ĐỘNG VIÊN THỂ DỤC THỂ H̀NH CHỈ ĂN TOÀN L̉NG TRẮNG TRỨNG VÀ BỎ HẾT L̉NG ĐỎ?
Hầu hết chất bổ dưỡng đều nằm trong ḷng đỏ trứng.Ḷng trắng chỉ có chất đạm (albumin) và mặc dù chất đạm này không chứa cholesterol, không chứa chất béo, nhưng nếu tách riêng ḷng trắng ra th́ chất đạm của nó không c̣n hoàn hảo nữa. Mặc dù các vận động viên thể h́nh Mỹ đều được các “chuyên gia” của họ khuyên nên dùng ḷng trắng không thôi (chế độ tiết thực trước lúc thi đấu để giảm cân: Vận động viên Jay Cutler ăn 26 ḷng trắng trứng mỗi ngày, Eddie Robinson 27-34 ḷng trắng/ngày, Dennis Newman 21 ḷng trắng/ngày, Laura Creavalle 6 ḷng trắng/ngày…) nhưng đó là chế độ tiết thực của người Mỹ để giảm mỡ, tăng cơ. Người Mỹ v́ đă ăn quá nhiều thịt cá, trứng, sữa, bơ, mỡ như thống kê nói trên nên họ mới (red)dùng ḷng trắng trứng như là cách để giảm chất béo và giảm cholesterol(red). Vă lại ḷng trắng trứng là thứ rẻ tiền nhất lại đễ t́m khi đi thi đấu ở xứ khác (ở Mỹ người ta dùng ḷng đỏ sấy khô làm lecithin để bán như dược phẩm hoặc thực phẩm bổ sung cho người già (để tăng trí nhớ), người cao huyết áp; c̣n ḷng trắng đóng hộp bán riêng rất rẻ), dễ chế biến nhất nên họ dùng trong những ngày bận rội cho việc chuẩn bị thi đấu mà thôi (thường là 2 trứng nguyên + 6-10 ḷng trắng cho một bữa điểm tâm với ít bánh ḿ và rau).

Trong hoàn cảnh nước ta, các VĐV thể h́nh đang thiếu dinh dưỡng, việc dùng trứng cả ḷng đỏ là nguồn thực phẩm chẳng những bổ dưỡng mà c̣n rất cần thiết cho việc tăng khối cơ (2-4 trứng cả ḷng trắng và ḷng đỏ/ngày là rất tốt trong thời gian tập luyện thể h́nh. Lượng cholesterol trong ḷng đỏ không nhiều mà lại c̣n cần thiết để phát triển tế bào cơ bắp. Vă lại, người thực hành thể dục thể thao tự nó làm cho cholesterol máu thấp dù họ có ăn nhiều cholesterol trong trứng. Thay v́ chỉ dùng ḷng trắng trứng, các vận động viên thể dục thể h́nh có thể dùng 2 quả trứng gà vịt hoặc 10 trứng cút nguyên và 300g cá mỗi ngày th́ tốt hơn và kinh tế hơn.

ĂN TRỨNG CÓ HẠI GAN KHÔNG?
Ngày xưa, khi khoa học c̣n sơ khai, người ta thí nghiệm bằng cách lấy ḷng trắng trứng tiêm vào da thỏ th́ thấy da thỏ bị phù, nổi mẩn ngứa nên cho rằng trứng gây dị ứng. Và v́ thời đó cho dị ứng là do yếu gan nên qui cho trứng là không tốt đối với gan. Gần đây, ở thập niên 1960 trở về trước, các hiểu biết về cholesterol chưa rơ ràng nên thấy ḷng đỏ trứng chứa nhiều cholesterol th́ cho là trứng không tốt. Thật ra từ đầu thập niên 80 đến nay người ta đă chứng minh (red)cholesterol của trứng là cholesterol tốt và trứng chẳng những không hại gan mà c̣n có lợi cho gan nữa v́ cholin bảo vệ gan. Thật vậy, với thành phần acid amin cân bằng và giá trị sinh học cao nhất trong các thực phẩm (bảng 1 và 2), th́ trứng tốt cho gan. Protein trứng giàu methionin và lecithin là chất bảo vệ gan, giải độc gan mà Tây y dùng làm thuốc Methionin cho bệnh nhân đau gan. Cholin rất giàu trong ḷng đỏ trứng là chất hướng mỡ giúp gan biến dưỡng chất béo dễ dàng hơn tránh t́nh trạng gan nhiễm mỡ (red) (thuốc tây có viên Sulfarlem-choline là thuốc trợ gan nổi tiếng một thời)… Gan cũng biến cholin thành acetylcholin là chất dẫn truyền thần kinh quan trọng trong hoạt động của hệ thần kinh cũng như làm tăng trí nhớ của chúng ta. Ngoài ra (red)các sinh tố trong ḷng đỏ trứng cũng giúp gan làm việc tốt hơn(red).Khoa học ngày càng tiến bộ, giúp chúng ta rất nhiều điều, nhưng hiểu biết của mỗi người có giới hạn nhưng họ lại biến nó thành định kiến, truyền đi, truyền lại cho nên mới có sự hiểu lầm đáng tiếc nêu trên!

ĂN TRỨNG CÓ NÓNG KHÔNG? CÓ KHÓ TIÊU KHÔNG?
Cảm giác nóng hay mát đối với một thức ăn c̣n rất mơ hồ. Nếu người nội trợ ít khi đi chợ, chỉ mua trứng về để dành rồi ngày nào cũng trứng, hết trứng luộc dằm nước mắm, đến trứng chiên, trứng tráng, trứng ốp la… th́ trứng nóng thiệt nhưng nóng v́ thiếu rau quả tươi, v́ thực phẩm không đa dạng, nóng v́ nhiều dầu mỡ chiên trứng chứ không phải v́ trứng. Bản thân trứng đă có nhiều chất béo (trứng gà chứa 11% và trứng vịt 14% chất béo), nếu c̣n chiên rán, ốp la th́ c̣n thêm nhiều dầu mỡ hơn nữa nên ăn vào có cảm giác no lâu chứ không phải nóng. V́ thức ăn có nhiều chất béo sẽ lưu lại ở dạ dày lâu hơn thức ăn không béo chứ không phải là khó tiêu. Ngoài ra, chất bổ nào cũng vậy, khả năng dung nhận của cơ thể mỗi người đều có giới hạn nhất định. Có người ăn một lúc 3-4 trứng không sao nhưng có người ăn 1 trứng đă thấy khó chịu, nhưng đôi khi cũng do thành kiến hay định kiến chứ chưa hẵn như vậy. Chỉ có đối với người nào có cơ địa dị ứng với trứng (ăn trứng vào th́ bị ngứa ngáy, nổi mề đay mới cử trứng mà thôi. Một số trẻ con dưới 3 tuổi v́ chức năng gan chưa ḥan chỉnh, ăn trứng có thể dễ bị dị ứng, nhưng sau 5-6 tuổi th́ ăn không bị ǵ nữa.

Tóm lại, trứng gà, vịt, cút là thực phẩm rất cân bằng dưỡng chất, cần thiết cho mọi lứa tuổi, mọi đối tượng, nhất là trẻ con, vận động viên và học sinh, sinh viên, người lao động trí óc và cả phụ nữ có thai, cho con bú nữa, rất cần trứng. Nếu dùng thường xuyên th́ mỗi ngày nên ăn 1 trứng và 5 ngày mỗi tuần là rất tốt. Phụ nữ mang thai nên ăn mỗi ngày 1 trứng (5 ngày/tuần) th́ năo bộ bào thai phát triển rất tốt, sau này bé sẽ thông minh hơn con các bà mẹ không ăn trứng.

THẾ NÀO LÀ TRỨNG TƯƠI ?
Điều hiển nhiên là trứng càng tươi càng tốt về mặt dinh dưỡng. Trên thị trường thế giới, trứng gà, vịt được gói trong một tờ giấy xốp, trên đó có ghi “trứng tươi” (frais), “trứng thật tươi” (extra-frais), thậm chí c̣n ghi ngày gà đẻ trên trứng (pond le…) và được xác nhận của hiệp hội chăn nuôi nữa; trứng này thuộc loại tươi hơn hết. Cũng c̣n có sự phân biệt trứng gà thả rong, gà nuôi trong sân (và không ghi ǵ cả là gà nhốt chuồng)...Thật ra các nhà nghiên cứu cũng đă xác nhận rằng thành phần dưỡng chất trong trứng không những suy giảm theo thời gian tồn trữ, cách bảo quản mà c̣n thay đổi tùy theo giống gà, thức ăn mà gà đẻ đang ăn và tuổi của gà mái... Về mặt trứng tươi, có thể giữ được dưỡng chất nguyên vẹn hoặc gần nguyên vẹn trong nhiều tháng nếu vỏ trứng c̣n nguyên vẹn (chẳng những không bể nứt mà c̣n không được chùi rửa mất lớp phấn nhầy bảo vệ tự nhiên của nó) và được giữ mát ở 12 – 15¬¬¬¬oC kể từ lúc gà vừa đẻ ra.

Với hai điều kiện trên chỉ có những trại gà đại công nghiệp mới đáp ứng được. Ơ Pháp muốn được gọi là trứng ghi ngày có xác nhận (daté approuvé) phải có một hợp đồng kư giữa nhà chăn nuôi, người phân phối và hội người tiêu dùng, trong đó gà mái được nuôi với ít nhất là 65% ngũ cốc (chủ yếu là bắp để ḷng đỏ trứng có màu đỏ cam), trứng được vô bao b́ và chuyển tới tiệm buôn chậm nhất là 36 giờ kể từ lúc gà đẻ và bảo quản ở dưới 18oC. Ta biết rằng trứng gà mới đẻ luôn có một lớp màng bảo vệ để giữ cho từ 1.000 – 15.000 lổ nhỏ li ti quanh mỗi vỏ trứng được thông khí qua lại, đáp ứng sự hô hấp của trứng nhưng không cho vi trùng xâm nhập. Để đáp ứng điều này, lớp nhầy bên ngoài và bên trong trứng c̣n có chất kháng sinh tự nhiên (lysozym) nữa. Lúc trứng mới đẻ, buồng khí ở đầu to của trứng rất nhỏ, dưới 2 mm vuông, trứng rất tươi 4mm, trứng tươi 6mm và từ 9mm trở lên là trứng đă để lâu (tiêu chuẩn ở Pháp).
(red)
Trứng mới đẻ th́ khi đập vỡ nhẹ ta tách ḷng đỏ khỏi ḷng trắng dễ dàng, và dây treo ḷng đỏ ở hai đầu trứng rất xoắn. Khi để lâu, có sự thoát khí carbonic ra ngoài nên khiến ḷng trắng trở nên kiềm (trứng mới pH = 7,4), có thể lên pH = 9, khiến ḷng trắng bị nhăo mềm hơn. Do đó ở Mỹ người ta dùng tiêu chuẩn này để đánh giá độ tươi của trứng. Đập vỡ trứng nhẹ nhàng và để khối trứng không vỏ trên mặt phẳng nằm ngang và đo chiều cao chỗ ḷng trắng phía đầu lớn (chỗ mũi tên trong h́nh). Ḷng trắng mềm c̣n do sự rút nước từ ḷng đỏ và làm hư hủy màng ngoài của ḷng đỏ khiến nó dính chặt vào ḷng trắng hơn (khó tách ra). Gà mái già cũng cho trứng có chiều cao ḷng trắng thấp. Thật ra giá trị của trứng ngày nay c̣n được các nhà chăn nuôi tiên tiến điều chỉnh sao cho có nhiều sinh tố A, D, E, K nữa. Trứng đă ấp sau 6 ngày sẽ được soi qua máy chiếu để loại trứng ung, trứng không có c̣i.

Ngày trước, những trứng ung sau 13 ngày ấp được chuyển qua làm bánh kẹo, kem hay sản phẩm có trứng, sữa. Nhưng nay các nước tiên tiến chỉ dùng trứng ung ấy làm thức ăn gia súc v́ phát hiện có những chất độc có hại cho sức khỏe. Ơ Mỹ và Canada trứng ung bị cấm sử dụng làm thực phẩm cho người từ lâu v́ người ta t́m thấy trong trứng ung có chất acid lactic (không độc) và acid succinic làm chuột chết với liều 8mg/kg, và acid beta hydroxybutyric. Do đó luật lệ ở Mỹ và Pháp sẽ xử phạt các sản phẩm có chứa quá 0,3mg acid beta hydroxybutyric/kg trứng. Để tránh sự thiệt hại kinh tế này, các nhà ấp trứng sử dụng loại máy soi để loại trứng không có c̣i ra vào ngày thứ 6 sau khi ấp trứng để acid beta hydroxybutyric chưa vượt tiêu chuẩn trên..

ĂN TRỨNG CÓ NGUY CƠ CAO BỊ LÂY CÚM GIA CẦM KHÔNG ?
Thông thường khi gà vịt bị bệnh dịch th́ chúng không đẻ được. Nhưng nếu siêu vi khuẩn cúm gia cầm từ những con khác gần đó có truyền sang trứng th́ siêu vi cũng sẽ bị chết sau 12 giờ, v́ ngoài vỏ trứng luôn có chất nhầy bảo vệ có tính diệt khuẩn. Mặt khác, (red)nếu con gia cầm bị toi mà ráng đẻ được trứng sau cùng th́ trứng này có thể bị nhiễm siêu vi. Thế nhưng số ít siêu vi ấy dù có ở bên trong quả trứng th́ cũng sẽ nhanh chóng bị ḷng trắng có tính kháng sinh hủy diệt và nếu không bị diệt th́ không sinh sôi phát triển được v́ tế bào trứng chưa hoạt động. Chúng ta biết rằng trứng gà vịt khi chưa ấp th́ tế bào chưa hoạt động. Mà đa dố trứng gà đều không có trống, có nghĩa là nó là cái noản chứ không phải là tế bào. Siêu vi khuẩn là những tế bào chưa hoàn chỉnh, chúng không thể tự sinh sản được mà chúng chỉ thâm nhập vào tế bào sống và bắt tế bào ấy làm cái máy sinh sản giúp ra các thế hệ sau của siêu vi. Như vậy chỉ ở các trứng được ấp th́ siêu vi nếu có bên trong trứng mới sinh sản được mà thôi . Thế nhưng (red)người ta chỉ ăn trứng lộn sau khi được luộc chín th́ siêu vi nếu có cũng không c̣n. Do đó cơ hội bị lây siêu vi cúm gia cầm qua việc dùng trứng là rất hi hữu.

Sưu tầm trên net .

florida80
04-06-2019, 17:37
BS Nguyễn Trần Hoàng nói về sức khỏe người cao niên
Wednesday, June 06, 2012 7:37:44 PM


WESTMINSTER (NV) - Bác Sĩ Nguyễn Trần Hoàng vừa có một buổi nói chuyện với đề tài “Một số vấn đề sức khỏe thường gặp ở người lớn tuổi” tại Viện Việt Học, Westminster, hôm Chủ Nhật.


UserPostedImage
Bác Sĩ Nguyễn Trần Hoàng nói chuyện về sức khỏe của người cao niên tại Viện Việt Học, Westminster. (H́nh: Đỗ Dzũng/Người Việt)

Theo bác sĩ, dù là bác sĩ gia đ́nh, nhưng ông lại rất quan tâm đến người cao niên, nhất là vấn đề tâm lư.

“Tâm lư người bệnh, nhất là người cao niên, rất quan trọng,” Bác Sĩ Hoàng nói với cử tọa. “Những vấn đề của người cao niên, và cả trung niên nữa, ví dụ như bệnh cao huyết áp, ung thư, té ngă, tai biến mạch máu năo (stroke), đều rất đáng quan tâm. Và để những căn bệnh này không hành hạ chúng ta, bệnh nhân phải biết bí quyết sống, và sống khỏe. Đó là ‘viên thuốc thần’ cho sức khỏe.”


Cao huyết áp

Theo Bác Sĩ Hoàng, trong số 50 triệu người bị bệnh cao huyết áp tại Hoa Kỳ, “chỉ có 34% được chăm sóc đủ để mức huyết áp trở lại mức b́nh thường”.

“Trong khi đó, cao huyết áp là một trong những nguy cơ chính dẫn tới tai biến mạch máu năo, nhồi máu cơ tim, suy tim và suy thận,” bác sĩ cho biết. “Nếu điều trị cao huyết áp, tai biến mạch máu năo sẽ giảm từ 30 đến 40%, nhồi máu cơ tim sẽ giảm từ 20 đến 25%, suy tim giảm trên 50% và suy thận cũng giảm.”

Không chỉ chữa bệnh, mà thay đổi lối sống cũng là điều cần thiết để giảm cao huyết áp.

Bác Sĩ Hoàng khuyên: “Giảm cân để cơ thể có chỉ số BMI (Body Mass Index) vừa phải, ở mức 18.5, là điều rất cần thiết. Thêm vào đó, phải ăn nhiều trái cây, rau, sữa ít béo, ăn ít chất béo và chất béo băo ḥa, giảm muối, tập thể dục 30 phút/ngày. Nếu có uống rượu th́ uống vừa phải, và tránh thuốc lá.”

Huyết áp giảm là nhờ thuốc, không nên tự động ngừng thuốc khi thấy huyết áp không c̣n cao, và cần phải phối hợp với bác sĩ và phải chú ư bệnh t́nh thường xuyên, Bác Sĩ Hoàng cho biết thêm.


Ung thư

Đối với căn bệnh ung thư, Bác Sĩ Hoàng cho biết: “Không phải ung thư nào cũng giống nhau. Đây là nguyên nhân gây chết đứng hàng thứ hai ở Hoa Kỳ. Thống kê cho thấy, phân nửa đàn ông và 1/3 đàn bà bị ung thư trong cuộc đời.”

Và để giảm bớt sự phát triển của ung thư, “chúng ta phải thay đổi cách sống, như là ngưng hút thuốc, ăn uống đúng cách, và ung thư được phát hiện càng sớm th́ khả năng chữa khỏi càng cao”, theo bác sĩ cho biết.

Ngoài ra, bác sĩ cho biết, người bị ung thư nên giảm hoặc bỏ rượu, ăn ít chất béo, nhiều rau quả tươi, tránh thức ăn chế biến sẵn, tập thể dục, ngừa viêm gan siêu vi, t́nh dục an toàn. Riêng đối với phụ nữ, phải làm Pap's smear, khám vú hàng năm, bắt đầu khi 40 tuổi. Đối với nam giới, nên thực hiện PSA, khám nhiếp hộ tuyến, bắt đầu khi 50 tuổi. Cả nam lẫn nữ, khi được 50 tuổi, nên truy tầm ung thư ruột già.


Té ngă

Té ngă có lẽ là một để tài quan trọng và ảnh hưởng sức khỏe người cao niên.

Theo Bác Sĩ Hoàng, tỉ lệ và độ trầm trọng của té ngă tăng lên từ từ khi bắt đầu 60 tuổi.

“Mỗi năm, có một phần ba số người từ 65 tuổi trở lên bị té, tỉ lệ này càng cao hơn sau tuổi 75,” bác sĩ nói. “Đối với người cao niên, té thường gây ra hậu quả nghiêm trọng hơn như găy xương, và khi phải nằm liệt giường, các hậu quả tiếp theo về tâm thần cũng như thể chất cũng trầm trọng hơn ở người trẻ rất nhiều. Khoảng 5% người cao niên bị té phải vào bệnh viện. Họ thường mất tự tin, làm cho họ giảm các hoạt động thể lực cần thiết và càng suy yếu hơn, cũng như bị cách ly hơn về mặt xă hội, càng yếu hơn và dễ bị chết sớm.”

Về nguyên nhân, bác sĩ cho biết, té ngă có thể do tai nghểnh ngảng, mắt mờ, rối loạn về thăng bằng (cũng là một chức năng của tai), lăng trí, rối loạn tâm lư như lo lắng, trầm cảm, bệnh về xương khớp, tim mạch, tiểu đường, bệnh của tuyến giáp trạng, bệnh của bàn chân như bị u chai ở bàn chân.

Các yếu tố bên ngoài có thể do thuốc men, lên xuống cầu thang, thiếu ánh sáng, giày không vừa, sàn nhà trơn, không có tay nắm an toàn trong nhà tắm và nhà vệ sinh, thảm lỏng lẻo, dây điện vướng chân...

Bác Sĩ Hoàng nói: “Một điều ít ai để ư là xuống thang thường dễ bị té hơn lên thang. Ngoài ra, c̣n có một nguyên nhân nữa là nguy hiểm ngoài đường như đường trơn, lề đường không bằng phẳng.”

Bác sĩ cho biết, có nhiều cách pḥng ngừa té ngă:

-Kiểm tra xem đă điều trị đúng mức các bệnh về mắt, tai, khớp.

-Kiểm tra xem thuốc men đă dùng đủ và đúng chưa, ngay cả thuốc mua không cần toa bác sĩ. Nên thảo luận với bác sĩ để uống thuốc hoặc ngưng thuốc, không nên tự ư. Các thuốc trị các bệnh kinh niên như cao huyết áp, tiểu đường là các thuốc phải uống thường xuyên, nếu không sẽ có các biến chứng rất nguy hiểm.

“Điều quan trọng là nếu cần th́ phải dùng đúng, nếu không cần th́ không lạm dụng,” Bác Sĩ Nguyễn Trần Hoàng khuyên.

Sự an toàn trong nhà cũng là điều cần chú ư, theo bác sĩ. Những điều này không tốn kém ǵ nhiều và cũng không mất nhiều thời gian.

Ông nói thêm: “Bị găy xương hoặc các biến chứng nặng hơn v́ những điều không đáng là chuyện không nên để xảy ra. Nếu đi không vững th́ dùng gậy chống, không nên mắc cỡ đến nỗi không dám ra đường. Nên nhớ là nếu v́ sợ té mà không dám nhúc nhích, hoạt động ǵ cả, th́ c̣n tệ hơn là bị té. Cái chính là phải có cố gắng vận động vừa sức và thường xuyên.”

Và để tránh té ngă, theo Bác Sĩ Hoàng, khi mới thức dậy, người cao niên nên nằm yên khoảng nửa phút cho tỉnh táo hẳn, ngồi dậy nửa phút trên giường cho tỉnh thêm và để máu lên năo, bỏ chân xuống giường, chờ thêm nửa phút để máu bơm lên năo thật đủ và tỉnh thêm, sau đó mới di chuyển.

“Nhưng trước khi làm những chuyện này, quư vị nhớ phải bật đèn cho đủ sáng,” bác sĩ nói thêm.


Tai biến mạch máu năo

Khi bị tai biến mạch máu năo, phải được đưa đi cấp cứu ngay, bác sĩ cho biết. Các dấu hiệu báo động của tai biến mạch máu năo có thể là sự xuất hiện đột ngột một (hoặc nhiều hơn) các triệu chứng như bất th́nh ĺnh tê hay yếu một bên của cơ thể, bất th́nh ĺnh bị mất hay rối loạn thị giác, bất th́nh ĺnh bị nhức đầu dữ dội, chóng mặt hoặc lú lẫn, mất thăng bằng, giọng nói lắp bắp hoặc khó khăn trong việc truyền đạt tư tưởng.

“Các triệu chứng này thường xuất hiện đột ngột,” Bác Sĩ Hoàng giải thích. “Đôi khi, tai biến mạch máu năo có thể được báo trước bằng các cơn thiếu máu năo tạm thời, trong đó các triệu chứng không b́nh thường kéo dài khoảng 5 đến 20 phút, tối đa là 24 tiếng đồng hồ.”

Để tránh tử vong, Bác Sĩ Hoàng khuyên: “Khi bị tai biến mạch máu năo, thời gian điều trị có thể có hiệu quả nhất là trong ṿng 90 phút từ khi có triệu chứng. Nên gọi bác sĩ hoặc cấp cứu ngay khi có các triệu chứng lạ.”


“Nên nhớ, thời gian từ lúc bị đến lúc được chữa trị trong các trường hợp này là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định bệnh nhân có hồi phục hay không,” Bác Sĩ Hoàng cảnh báo. “Nên nhớ rằng, 90 phút ‘sống chết’ này bao gồm cả thời gian làm xét nghiệm để xác định chẩn đoán trước khi bắt đầu cho thuốc. Đừng mất thời 'sửa soạn' hay chờ 'người này người kia.' Nếu không kịp 90 phút th́ càng sớm vẫn càng tốt hơn.”

Kết thúc buổi nói chuyện, Bác Sĩ Nguyễn Trần Hoàng khuyên: “Chúng ta nên làm chủ sức khỏe, ăn uống hợp lư, vận động đúng mức, cân bằng tâm lư, bỏ hút thuốc và bớt uống rượu. 'Thích những cái ḿnh (thật sự) cần' (hơn là thích những cái mà ḿnh tưởng là cần) có lẽ là 'viên thuốc thần' duy nhất giúp chúng ta sống đơn giản, mạnh khỏe, thành công và hạnh phúc.”

Đỗ Dzũng/Người Việt

––

florida80
04-06-2019, 17:38
Hệ tiêu hóa : "Bộ năo thứ hai" của cơ thể con người

UserPostedImage


Trọng Thành
Trạng thái khỏe mạnh hay đau ốm có liên hệ nhiều với chuyện ăn uống là điều hầu như ai cũng biết. Tuy nhiên, bộ máy tiêu hóa không chỉ đơn giản là một phương tiện thẩm lọc những ǵ ta đưa vào bụng. Ngay cả khi y học đă có rất nhiều tiến bộ, bộ máy tiêu hóa vẫn c̣n chứa đựng rất nhiều bí ẩn. Tạp chí Khoa học của đài RFI hôm nay muốn đưa đến quí vị một số hiểu biết mới trong lĩnh vực này và một số biện pháp phổ thông giúp cho việc bảo vệ được hệ thống rất quan trọng này của cơ thể chúng ta.

Tại Pháp, trong thời gian gần đây, bộ máy tiêu hóa ngày càng được giới y khoa chú ư hơn. Cuốn sách « Các bí mật về đường ruột, bộ lọc của cơ thể chúng ta » (Les secrets de l'intestin, filtre de notre corps) ra đời năm ngoái 2011, một lần nữa nhắc lại tầm quan trọng và tính chất độc lập rất cao của hệ tiêu hóa với hệ thần kinh trung ương, đối với sức khỏe con người. Bộ phận cơ thể này được ví như một « bộ năo thứ hai », với số lượng tế bào thần kinh tương đương với hệ tủy sống. Hai tác giả của cuốn sách kể trên là bác sĩ Jacqueline Warnet, chuyên gia về tiêu hóa, về ám thị y học và vi dinh dưỡng, và bác sĩ Louis Berthelot, chuyên khoa mạch máu, nhà châm cứu chuyên về y học Trung Hoa và cũng là chuyên gia về vi dinh dưỡng.

Việc bộ máy tiêu hóa và đặc biệt là hệ thần kinh tiêu hóa ngày càng được coi trọng nhắc chúng ta đến cuốn sách “Bộ năo thứ hai, một hiểu biết mới mang tính đột phá về chứng rối loạn thần kinh dạ dày và đường ruột” (The Second Brain, A Groundbreaking New Understanding of Nervous Disorders of the Stomach and Intestine) của nhà nghiên cứu người Mỹ Michael Gershon (đại học Columbia), ra đời cách đây hơn 10 năm. Đây là cuốn sách đầu tiên đưa ư tưởng về hệ thần kinh tiêu hóa như "một bộ năo thứ hai" đến với đại chúng.

Chúng ta cũng biết rằng, trong một số nền văn hóa, trong đó có Việt Nam, bụng không chỉ là một bộ phận của cơ thể, mà c̣n là nơi diễn ra nhiều hoạt động tinh thần chủ yếu. "Nghĩ bụng", "tốt bụng", "vừa ḷng" hay "phải ḷng" ai đó, hay "ghi ḷng, tạc dạ"... là một vài trong số rất nhiều diễn đạt có từ lâu đời và được dùng phổ biến trong văn hóa người Việt.

Các phát hiện gần đây cho thấy, vẫn c̣n rất nhiều bí ẩn trong những mối quan hệ giữa hệ thần kinh trung ương và hệ thần kinh bụng.

Hệ vi khuẩn đường ruột : một thế giới bí ẩn

Bên cạnh phương diện thần kinh của hệ tiêu hóa, hệ vi khuẩn đường ruột cũng là một đối tượng ngày càng được cho rằng có tác dụng vô cùng lớn lao đến sức khỏe con người. Lĩnh vực này cho đến nay c̣n ít được nghiên cứu.

Năm 2008, Châu Âu tiến hành chương tŕnh nghiên cứu MetaHIT (Metagenomics of the Human Intestinal Tract) để t́m hiểu về hệ vi khuẩn này, được ước tính có số lượng lên tới 100 000 tỷ vi khuẩn, tức là gấp 10 lần số tế bào có trong cơ thể chúng ta. MetaHit, chương tŕnh nghiên cứu đầu tiên trên thế giới trong lĩnh vực này, được Ủy ban Châu Âu tài trợ 22 triệu đô la, và được tiến hành tại 8 quốc gia. Chương tŕnh này có mục tiêu phân lập toàn bộ gen của các vi khuẩn trong đường ruột, với số lượng ước tính khoảng nửa triệu gen. Chương tŕnh MetaHIT sắp kết thúc. Một dự án mới quy mô lớn tương tự (mang tên MétaGénoPolis, do Inra - Viện Nông học Pháp - phụ trách cùng với hai công ty thực phẩm Danone và Nestlé), đang chuẩn bị tiến hành, có mục tiêu t́m hiểu tác động của hệ vi khuẩn đường ruột đến sức khỏe, với việc thành lập một ngân hàng mẫu phân của khoảng 100.000 người.

Những kết quả nghiên cứu mới về hệ thần kinh tiêu hóa và hệ vi khuẩn đường ruột mang lại hy vọng sẽ có nhiều ứng dụng quan trọng trong trị liệu, đặc biệt trên phương diện trị liệu không dùng thuốc, đối với rất nhiều căn bệnh mà từ trước đến nay vẫn được coi là không dính dáng trực tiếp đến chuyện tiêu hóa, như : chứng đau nửa đầu, căng thẳng, suy nhược thần kinh, lo hăi, mất ngủ, các bệnh về da, các bệnh về tai mũi họng, các bệnh về hô hấp hay các chứng nhiễm trùng... Tuy nhiên, trong lĩnh vực này, một số nhà nghiên cứu cũng cảnh báo về xu thế tiêu thụ tràn lan các sản phẩm trợ sinh (probiotic) hay tiền trợ sinh (prebiotic),...

florida80
04-06-2019, 17:40
Câu Chuyện Nước Mỹ cuối cùng, Lan Phương và lời giă từ

UserPostedImage
Lan Phương - VOA - 17.06.2012
Thưa quí vị, thế giới thực phẩm quanh ta đầy những món hấp dẫn, ngọt ngào trong đó nào đường, nào mật, mật mía, mật bắp, mật ong. Nhưng mật ngọt không những chỉ làm… chết ruồi mà về lâu, về dài, c̣n có thể làm… chết người nữa. Câu chuyện Nước Mỹ hôm nay do Lan Phương đem đến quí vị, sẽ nói về những cái hại của đường, cùng chiến dịch của thị trưởng thành phố New York và công ty giải trí Disney chống những thứ đồ ăn thức uống có hại cho sức khỏe dân chúng, một chiến dịch có thể làm cho hăng nước ngọt Coca-Cola và các hăng tương tự… thót ruột!

Nhớ lại thời c̣n bé tại Việt nam, mỗi lần nghe tiếng rao, vừa rao, vừa hát của ông bán kẹo kéo, (mà không hiểu tại sao chỉ đàn ông mới bán kẹo kéo!), là trẻ con mừng rỡ chạy ào đến, xúm đông xúm đỏ để quay số và mua kẹo. Bây giờ ở nước Mỹ, cứ buổi chiều, từ mùa xuân đến hết hè, mỗi lần nghe tiếng xe kem với tiếng nhạc vui tươi rộn ră tiến vào khu xóm và đám trẻ xếp hàng chờ mua, người Việt xa xứ lại t́m thấy h́nh ảnh của chính ḿnh ngày cũ: hạnh phúc cầm trên tay một món ăn thật ngọt ngào, miếng kẹo kéo hay que kem đều có chung nguồn gốc: đường, đường và đường!

Đường có nhiều nguồn, chiết xuất từ mía, củ cải đường, bắp, thốt nốt hay các loại mật ngọt như mật ong, mật bắp, mật cây Maple… nhưng đường nào mà người ta lạm dụng cũng gây hại cho sức khỏe.

Tiến sỹ về dịch vụ y tế Nancy Appleton trong tờ báo mạng Mercola.com đă đưa ra một danh sách dài lê thê đến 70, 80 tai hại của việc ăn quá nhiều đường. Trong khuôn khổ bài viết này, Lan Phương không thể kê khai hết, chỉ xin thu tóm những điểm chính:

- Đường gây nghiện (từ “hảo ngọt,” theo nghĩa đen, là vậy!), ăn quá nhiều bánh kẹo, chè cháo làm lên cân, đưa đến những chứng bệnh đi kèm theo với bệnh béo ph́. Nó c̣n làm cho người tiêu thụ cứ thèm ngọt và tiếp tục lục kiếm đồ ngọt để… ăn tiếp!

- Ăn nhiều đường có thể làm sâu răng và gây các chứng bệnh về nướu răng.

- Nó làm cho người ta cảm thấy mệt và đau nhức bắp thịt.

- Gây chứng đường máu thấp.

- Hủy hoại thành mạch máu, gây chứng giăn tĩnh mạch.

- Quá nhiều đường nạp vào cơ thể trong một thời gian dài có thể biến ta thành người cau có khó chịu hoặc trầm cảm.

- Nó có thể gây bệnh tim: đường bị liên kết với chứng sơ cứng động mạch, làm tăng huyết áp.

- Làm sưng gan và thận, có thể gây sạn thận.

- Ăn quá nhiều đường tinh chế có thể gây rối loạn giấc ngủ và gây chứng mất ngủ.

- Đường nuôi dưỡng những tế bào ung thư làm chúng mau phát triển. Nó được liên kết với sự phát triển của nhiều loại ung thư: ung thư vú, buồng trứng, tuyến tiền liệt, hậu môn, tụy tạng, phổi, bàng quang và dạ dày.

- Làm cho ta chóng già v́ nó làm mất đi tính đàn hồi của các mô và có thể làm cho da sớm nhăn (Quí bà, quí cô nhớ nhé, muốn giữ cho trẻ đẹp lâu th́ ăn ít đường thôi!)

- Mỗi lần cơ thể tiếp nhận đồ ngọt, mức đường trong máu tăng vọt, tụy tạng phải làm việc tiết ra nhiều insulin để hạ lượng đường trong máu xuống mức b́nh thường. Thỉnh thoảng th́ không sao nhưng lạm dụng đường từ ngày nọ qua ngày kia sáng chiều chè cháo, bánh kẹo là một cách hành hạ tụy tạng, bắt nó lao động quá sức, một ngày nào đó nó… đ́nh công, không làm việc nữa, không tiết insulin, hệ quả là chứng tiểu đường.

- Đường tiếp sức cho sự sản sinh mau chóng của loại nấm Candida Albican, gây chứng nhiễm trùng nấm.

- Nó ức chế hệ thống miễn nhiễm, làm suy yếu hệ thống tự vệ của cơ thể chống lại các chứng bệnh nhiễm trùng.

- Làm suy kém khả năng theo dơi, thiếu tập trung tư tưởng, và khiến trẻ em náo động, đứng ngồi không yên, hay quậy phá, ảnh hưởng đến khả năng học hỏi, tiếp thu kiến thức.

- Làm yếu thị lực, có thể dẫn tới chứng đục thủy tinh thể và cận thị.

- Nhiều đường quá làm tăng nguy cơ các chứng bệnh về tự miễn như sưng khớp, hen suyễn, và đa sơ cứng (bệnh thần kinh multiple sclerosis).

- Các chứng bệnh về đường tiêu hóa, khó tiêu, ợ chua, loét dạ dày, lan tràn của nấm candida, hấp thu kém, dị ứng với thực phẩm, bệnh Crohn và sưng ruột kết.

- Hấp thu kém các chất khoáng: đường tinh chế gây trở ngại cho việc hấp thu các chất calcium, magnesium, một yếu tố thêm vào nguyên nhân bệnh loăng xương. Nó cũng gây ra t́nh trạng thiếu chromium và đồng.

Tờ Time số ra ngày 18 tháng Sáu năm nay cho biết chính v́ những tai hại này mà thị trưởng thành phố New York Michael Bloomberg mới đây đă đề nghị cấm bán những ly nước ngọt cỡ đại gần 1 lít cho khách tại các nhà hàng ăn và các nơi khác. Đề nghị này đă gây nhiều phản ứng trong cư dân. Một người dân New York lên tiếng chống đối:

"Đây là quốc gia dân chủ, chúng tôi có quyền chọn lựa thứ nước ngọt nào mà chúng tôi muốn uống."

Ông David Almasi thuộc Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu chính sách công, chỉ trích đề nghị của Thị trưởng Bloomberg:

"Theo đề nghị của ông th́ người ta có thể mua một ly bia nặng đến 1134 gram nhưng không được mua một ly coca lớn đến như vậy!"

Nhưng có những người tán thành đề nghị của ông Thị trưởng, v́ họ hiểu rằng đề nghị này nhắm đến mục tiêu bảo vệ sức khỏe cho quần chúng. Một cư dân cho biết:

"Phải thành thật mà nói, tôi nghiện uống Coca Cola. Giờ đây tôi cảm thấy khó mà bỏ được."

Một cư dân khác cũng đồng ư:

"Thực t́nh tôi cho rằng đây là ư kiến hay. Tôi cũng thuộc loại hơi nặng cân."

Đây không phải là hành động đầu tiên t́m cách bảo vệ sức khỏe cho cư dân thành phố của thị trưởng Bloomberg. Trong quá khứ ông đă thành công trong việc dẹp bỏ những điều không lành mạnh cho sức khỏe dân chúng.

Thành phố New York đ̣i các nhà hàng ăn và những sạp, quán bán thức ăn phải loại bỏ trans fat, những chất mỡ béo băo ḥa gây hại cho sức khỏe. Chiến dịch này đă mở đường cho những thành phố khác là Philadelphia và San Francisco noi theo.

Ngoài ra từ năm 2008 các nhà hàng ăn trong thành phố phải kê khai số calorie của mỗi món ăn trên thực đơn. Đến nay th́ điều này đă trở thành luật định toàn quốc áp dụng cho các hệ thống bán thức ăn nào có hơn 20 cơ sở.

Và hiện nay thuốc lá cũng đă bị loại bỏ ra khỏi những nơi công cộng như công viên, quảng trường và những băi biển của thành phố New York. Những thành phố khác có thể sẽ theo chân là San Jose, bang California và Boulder, bang Colorado.

Cũng ư thức được vấn đề sức khỏe của công chúng, công ty giải trí Disney hiện đă đưa ra những tiêu chuẩn gắt gao về dinh dưỡng áp dụng cho những quảng cáo về thực phẩm trên các kênh truyền h́nh, đài phát thanh, các trang web và tại những công viên giải trí của công ty như Disneyland và Disney World, để t́m cách bảo vệ sức khỏe cho quần chúng và tập thói quen ăn uống tốt cho trẻ em.

Cả hai nỗ lực này, hiện đang được truyền thông chú ư quảng bá, đều nhắm tới giải pháp giảm bớt nạn mập ph́ tại nước Mỹ với tỉ lệ hiện nay của người lớn là 35% và thanh thiếu niên dưới 19 tuổi là 17%.

Trước chiến dịch bảo vệ sức khỏe cho cư dân của thị trưởng Bloomberg và cho quần chúng của công ty Disney, những công ty như Coca-Cola và các hăng tương tự sản xuất những thứ nước ngọt đóng chai cảm thấy bị dồn vào thế thủ và có lẽ cần chuẩn bị đón chờ một sự sút giảm trong mức cầu.

Tuy nhiên, thưa quí vị, các nhà dinh dưỡng không hề ngăn cản chúng ta năm th́, mười họa, nếm một chút hạnh phúc ngọt ngào, một bánh xôi nếp mật “mẹ già như chuối ba hương, như xôi nếp mật như đường mía lau” (ca dao), ... , hay vài ba miếng sô cô la cho đậm đà ngày lễ t́nh nhân.

Kính thưa quí khán thính giả, độc giả, hôm nay, ngày cuối cùng, Lan Phương gửi đến quí vị Câu Chuyện Nước Mỹ. Sau 25 năm có cơ duyên hiếm hoi được phục vụ quí vị tại Việt Nam và khắp nơi trên thế giới qua đài Tiếng Nói Hoa Kỳ, mang đến quí vị những tin tức hàng ngày, các bài trường tŕnh, phóng sự và Câu Chuyện Nước Mỹ hàng tuần, nhịp cầu nối thính giả, độc giả với sinh hoạt, văn hóa, lịch sử Hoa Kỳ qua làn sóng phát thanh lúc ban đầu rồi sau đó trên cả trang web và thỉnh thoảng qua h́nh ảnh webcast, giờ đây đă đến lúc chia tay cho dù luật nước Mỹ không bắt buộc các công chức liên bang phải về hưu ở một hạn tuổi nào đó.

Lan Phương đa tạ những đóng góp ư kiến xây dựng mà quí vị dành cho chuyên mục này từ nhiều năm nay, đa tạ ḷng quí mến của quí vị và cầu chúc quí vị dồi dào sức khỏe để tiếp tục theo dơi, đóng góp ư kiến cho các bài vở của ban Việt ngữ. Tre già, măng mọc, thế hệ đàn em với nhiệt huyết và đầy đủ khả năng sẽ nối tiếp sứ mạng mang đến quí vị những tin tức trung thực và những tường tŕnh mà quí vị mong đợi.

Lan Phương xin giă từ.
UserPostedImage

florida80
04-06-2019, 17:42
Công ty dược phẩm Đức tạ lỗi về bi kịch Thalidomide

Thuốc viên thalidomide, tháng 4/1998.

VOA - 01.09.2012
Một công ty bào chế dược phẩm Đức đă đưa ra lời tạ lỗi đầu tiên về bi kịch thalidomide -- 50 năm sau khi loại thuốc chữa các triệu chứng ốm nghén mà các thai phụ sử dụng trong những năm của thập niên 1950 và đầu thập niên 1960 làm cho hàng ngàn em bé chào đời với những dị tật bẩm sinh nghiêm trọng.

Tổng Giám đốc Công ty Grunenthal Haral Stock đă tạ lỗi hôm thứ Sáu. Ông nói rằng “Bấy lâu nay chúng tôi đă giữ im lặng và chúng tôi rất hối hận về việc đó.”

Ông Stock phát biểu như vậy ở thành phố Stolberg của Đức tại buổi lễ khánh thành bức tượng đồng, tượng trưng một em bé bị tật, không có tay chân, v́ hậu quả của thuốc thalidomide.

Ông nói rằng nhiều phụ nữ đă uống loại thuốc này “mà không có lư do ǵ để tưởng tượng là nó có thể gây tổn thương nghiêm trọng cho những đứa con chưa chào đời của ḿnh”. Ông Stock nói thêm rằng “chúng tôi xin quí vị xem sự im lặng rất lâu của chúng tôi như một dấu hiệu của sự bàng hoàng thầm lặng mà số phận của quí vị đă mang đến cho chúng tôi.”

Ông Stock cho biết công ty Grunenthal đă bắt đầu thực hiện những dự án với các nạn nhân của thuốc này để cải thiện điều kiện sinh hoạt của họ. Một số tổ chức tranh đấu cho quyền lợi của nạn nhân đă bác bỏ những dự án của Grunenthal. Họ cho rằng những dự án đó “quá ít và quá trễ.”

Tổ chức Y tế Thế giới cho biết hơn 10.000 ca dị tật bẩm sinh sau khi phô nhiễm với thuốc thalidomide đă được ghi nhận ở 46 nước

florida80
04-06-2019, 17:43
WHO kêu gọi mọi người bớt ăn muối


5 gram muối/ngày d'oh!
Những người trưởng thành nên tiêu thụ dưới 2 gram sodium và dưới 5 gram muối mỗi ngày


VOA - 31.01.2013
Tổ Chức Y Tế Thế Giới, WHO, đă đưa ra các hướng dẫn mới, kêu gọi người trưởng thành tiêu thụ ít muối, và có lượng potassium tối thiểu trong chế độ ăn uống của ḿnh.

Trong một thông cáo đưa ra hôm thứ Năm, WHO nói rằng những người trưởng thành nên tiêu thụ dưới 2 gram sodium và dưới 5 gram muối mỗi ngày.

WHO cũng khuyên nên tiêu thụ một số lượng tối thiểu potassium là 3,5 gram, trong chế độ dinh dưỡng mỗi ngày.

Tổ Chức này nói rằng, khuyến cáo này nhằm giúp mọi người giảm bớt nguy cơ huyết áp cao, nguyên nhân hàng đầu gây ra bệnh đau tim và đột quỵ.

WHO nói rằng sodium có trong những thực phẩm thiên nhiên, kể cả sữa, kem, và trứng; chất này có nhiều trong những thực phẩm chế biến như thịt heo ướp muối và các thức ăn vặt.

Những thực phẩm nhiều potassium gồm có đậu, các loại hạt, và các rau trái như rau dền và chuối.

florida80
04-06-2019, 17:44
Cuốn sách gây tranh luận tại Pháp: "Sự thật về cholesterol"

UserPostedImage
Tuần báo Le Nouvel Observateur giới thiệu về cuốn sách của Gs Philippe Even

Trọng Thành
Trong lĩnh vực y khoa tại Pháp từ một tuần nay, có một cuộc tranh luận với tâm điểm là cuốn sách « Sự thật về cholesterol » của giáo sư Philippe Even. Quan điểm chính của cuốn sách cho rằng lượng cholesterol cao trong cơ thể nh́n chung không phải là nhân tố gây ra các bệnh tim mạch, đi ngược lại một quan điểm phổ biến từ nhiều thập kỷ nay, được hầu hết y giới thừa nhận. Quan điểm này đă bị phản đối dữ dội, nhưng cũng có không ít người chia sẻ.

Ngày 13/02, tuần báo Le Nouvel Observateur giới thiệu trên trang nhất cuốn sách của giáo sư Philippe Even và hàng tựa là tên của sách : « La vérité sur le cholestérol/Sự thật về cholesterol », với hàng tít phụ : « Nếu cholesterol không nguy hiểm. Giáo sư Even mở màn cuộc tranh luận ». Sách sẽ chính thức ra mắt bạn đọc vào ngày mai 21/02/2013.

Le Nouvel Observateur ghi nhận : « Giáo sư Even dấn thân vào một cuộc hành tŕnh đầy thách thức mới : tận mắt thẩm định lại các nghiên cứu kinh điển về tính độc hại của cholesterol và các thử nghiệm lâm sàng với các thuốc statin, các dược phẩm giảm cholesterol rất mạnh – thị trường dược phẩm lớn nhất với doanh số 25 tỷ đô la năm 2011 ».

Theo khẳng định của tác giả cuốn sách : « Không có cholesterol xấu. Người ta đă phóng đại tác dụng của nó. Nó không phải là nguyên nhân của chứng nhồi máu cơ tim và các tai biến mạch máu năo. Cholesterol là một phi vụ làm ăn, cho phép ngành công nghiệp dược phẩm ăn không 2 tỷ euro/năm, với việc bán ra một cách đại trà các thuốc statin giảm cholesterol ». Giáo sư Even cũng là đồng tác giả một cuốn sách gây sốc khác cách đây nửa năm : « Guide des 4.000 médicaments utiles, inutiles ou dangereux/Hướng dẫn về 4.000 dược phẩm có ích, vô ích hay nguy hiểm », trong đó có nhận định rằng các thuốc statin chỉ cần thiết đối với 9/10 trường hợp đang sử dụng hiện nay.

Hàng loạt tổ chức y khoa, đặc biệt là tim mạch, cũng như nhiều bác sĩ ngay lập tức đă lên tiếng phản đối quan điểm của giáo sư Even, thái độ chủ quan « vơ đũa cả nắm » của tác giả cuốn sách, chủ yếu trong việc phủ nhận tác dụng của việc dùng các thuốc statin để hạ cholesterol, rất nguy hiểm đối với sinh mệnh của nhiều bệnh nhân đang điều trị bằng statin. Nếu biết rằng, tại Pháp có khoảng từ gần 5 triệu đến gần 7 triệu người sử dụng statin, tùy theo các nguồn thống kê khác nhau, th́ không khó khăn ǵ để đoán biết cuốn sách phủ nhận tác hại của cholesterol gây ra một làn sóng phản đối dữ dội như vậy.

Trong số các tổ chức y khoa kư vào thông cáo chung ngày 18/02/2013 phản đối cuốn sách này, có nhiều hiệp hội bác sĩ tim mạch Pháp : Collège National des Cardiologues français, Collège des Cardiologues de Hôpitaux, Société français de cardiologie, Fédération française de cardiologie…

La Haute Autorité de santé (HAS)/Cơ quan Giám định Chất lượng Y tế Pháp, đă ra thông cáo về chủ đề này ngay vào ngày 14/02.

Thông cáo của HAS nhắc lại rằng, tiếp theo một nghiên cứu phân tích vào năm 2010, Cơ quan Giám định Chất lượng Y tế HAS khẳng định các thuốc hạ cholesterol có tác dụng không thể tranh căi với mục đích ngăn ngừa các tai biến tim mạch tái phát. HAS cho biết các thuốc statin làm giảm nguy cơ tử vong 10% đối với nguy cơ tái phát tai biến tim mạch, đặc biệt với chứng nhồi máu cơ tim. C̣n đối với các trường hợp người không có tiền sử tai biến tim mạch, th́ HAS cho rằng, các thuốc hạ cholesterol chỉ nên dùng đối với những người nào cùng lúc với tỷ lệ cholesterol cao, có thêm nhiều nguy cơ gây tai biến tim mạch khác, như tiểu đường, huyết áp cao hay hút thuốc lá… Ngược lại, các trường hợp đối với người chỉ có lượng cholesterol cao, nhưng không có các yếu tố rủi ro khác, th́ việc dùng statin để hạ cholesterol là không cần thiết.

Le Figaro trong bài « Cholesterol, những điều dối trá và những sự thực của giáo sư Even » th́ nhấn mạnh đến các lo ngại của HAS, về tác động của cuốn sách « khiến người bệnh lo lắng, khiến họ mất ḷng tin vào một trị liệu có hiệu quả và vào các bác sĩ của ḿnh. Làm tăng nguy cơ dừng các trị liệu đối với các bệnh nhân thực sự có nhu cầu, tác giả cuốn sách kể trên phải gánh chịu một trách nhiệm lớn ». Cơ quan Giám định Chất lượng Y tế Pháp HAS cũng khuyến cáo các bệnh nhân « không nên tự ngừng dùng thuốc, nếu không có ư kiến của bác sĩ điều trị ».

Quan điểm cho rằng cholesterol không có hại đối với hệ tim mạch, của bác sĩ Even trong cuốn sách sắp được phát hành, thực ra không hoàn toàn mới. Cũng theo Le Nouvel Observateur, từ đầu những năm 2000, tiếp theo « Những huyền thoại về cholesterol », cuốn sách của bác sĩ Thụy Điển Uffe Ravnskov, và tiếp theo hơn một trăm bài báo bảo vệ quan điểm này được đăng tải, 98 người - bao gồm các nhà nghiên cứu và các bác sĩ phủ nhận tác hại của cholesterol - đă tập hợp thành một mạng lưới Thincs (the International network of cholesterol skeptics) vào năm 2002. Mặc dù các nghiên cứu của nhóm được đăng tải trên một số tạp chí khoa học có uy tín như Lancet, nhưng quan điểm « tác hại của cholesterol chỉ là một huyền thoại » của họ ít được chú ư.

Gần đây tại Pháp, cũng về chủ đề này, có cuốn sách của bác sĩ chuyên khoa tim mạch Michel Lorgeril, « Cholesterol, những lời dối trá và sự tuyên truyền », ấn hành năm 2007. Bác sĩ Lorgeril cũng là người từng đề xuất « nghịch lư Pháp » hay chế độ ăn uống đặc thù của khu vực Địa Trung Hải vào năm 1992, ghi nhận hiện tượng : Dù người Pháp và dân cư ở khu vực Nam Âu có tỷ lệ cholesterol cao tương đương người Mỹ, nhưng lại ít mắc các bệnh tim mạch hơn nhiều so với người Mỹ. Một trong các lư do của nghịch lư này là các cư dân tại khu vực Địa Trung Hải uống rượu vang và sử dụng các chất béo không băo ḥa có trong dầu ô liu, một thực phẩm phổ biến của khu vực.

Cho dù có những bất đồng sâu sắc trong vấn đề sử dụng các thuốc statin hạ cholesterol giữa bên ủng hộ và bên chống, Cơ quan Giám định Chất lượng Y tế HAS, trong thông cáo kể trên nhân cuốn sách của giáo sư Even, cũng thừa nhận rằng các thuốc statin cho những người có nguy cơ tim mạch, không phải lúc nào cũng được kê đúng. HAS thừa nhận: « có một số trường hợp lạm dụng statin ở Pháp ; việc lạm dụng statin trong việc ngăn ngừa nguy cơ tim mạch ở những người không có tiền sử tai biến (…), ở những người mà nguy cơ bị tai biến không cao ».

Về chủ đề này, Libération số ra ngày 13/02 có bài « Cholesterol, các thuốc statin bị chỉ trích dữ dội ». Libération lưu ư đến một số điều hợp lư trong quan điểm phản bác tác hại của cholesterol. Đặc biệt là góc nh́n của giáo sư Bernard Bégaud, người phụ trách một cơ sở theo dơi dược phẩm lớn nhất tại Pháp, có trụ sở ở Bordeaux. Bác sĩ Bégaud ghi nhận, kể từ hơn 10 năm nay, không có một nghiên cứu nào cho thấy các tác dụng tích cực của statin tại Châu Âu, đối với các bệnh nhân ở giai đoạn pḥng ngừa sơ cấp, tức là có tỷ lệ cholesterol hơi cao, nhưng chưa từng bị nhồi máu. Mà trên thực tế, các bác sĩ đă kê thuốc statin một cách phổ biến cho những người này. Ngay từ năm 2005, bác sĩ Bégaud đă cho rằng 20% trường hợp điều trị với statin là không cần thiết.

Libération cũng lưu ư đến cái nh́n thận trọng của giáo sư Simon Weber, bệnh viện Cochin Paris, theo đó, bác bỏ hoàn toàn tác dụng của statin là « hồ đồ ». Bên cạnh đó, bác sĩ chuyên khoa tim mạch bệnh viên Cochin cũng nghiêm khắc chỉ trích áp lực của các tập đoàn công nghiệp dược phẩm, từ năm này qua năm khác, thúc đẩy việc sử dụng statin với liều cao, mà điều này là không cần thiết, thậm chí c̣n nguy hiểm.

Hạ cholesterol bằng các thuốc statin có cần thiết hay không ? Nếu cần th́ trong những trường hợp nào ? Và rộng hơn nữa, để pḥng ngừa các căn bệnh tim mạch, các biện pháp căn bản là ǵ ?... Đây là những câu hỏi hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp một lần nữa lại đặt ra trong công luận Pháp, nhân cuốn sách của bác sĩ Even, trong bối cảnh nhiều bê bối dược phẩm quy mô lớn mới bị bung ra trong thời gian gần đây, như vụ Mediator. Giới chuyên gia cũng như công luận cũng ngày càng quan tâm nhiều hơn đến các chiến lược điều trị và chăm sóc sức khỏe sát thực, hiệu quả và chi phí tiết kiệm hơn.

Phần phỏng vấn bác sĩ Nguyễn Ư Đức (Texas)

RFI : Xin Bác sĩ cho biết về quan điểm phủ nhận tác hại của cholesterol đối với các bệnh tim mạch được nh́n nhận như thế nào tại Hoa Kỳ.

BS Nguyễn Ư Đức : Đây là một vấn đề khá quan trọng, ngoài tầm hiểu biết của chúng tôi, cho nên cũng chỉ xin có vài ư kiến hết sức căn bản, thông thường.

Cho tới nay, ư kiến chung của y giới cũng như quần chúng tại Hoa Kỳ vẫn cho là cao cholesterol có liên hệ tới bệnh tim mạch. Và người ta đă đặt ra các tiêu chuẩn cholesterol tới mức độ nào là phải điều trị bằng được phẩm, bằng giảm tiêu thụ chất béo, chất cholesterol hoặc các phương thức khác…

Tuy nhiên, từ lâu cũng đă có nhiều nghiên cứu cho rằng cao cholesterol không đưa tới bệnh tim mạch. Họ nêu ra kết quả nghiên cứu của Framingham, Boston, kéo dài 30 năm cho hay cao cholesterol là một rủi ro đưa tới bệnh tim mạch nhưng không giải thích tại sao, và ½ bệnh nhân có bệnh tim mạch th́ cholesterol lại thấp, trong khi đó ½ người không có bệnh tim mạch th́ cholesterol lại cao.

Cũng nên để ư rằng yếu tố rủi ro (risk) không phải là nguyên nhân gây ra bệnh mà chỉ là một nguy cơ, một cơ hội để bệnh có thể xảy ra. Chẳng hạn có nghiên cứu nói là phụ nữ cao lớn thường hay bị bệnh ung thư nhũ hoa, th́ không có nghĩa là cứ cao lớn là bị ung thư này. Tất nhiên là không phải vậy.

Có thể dẫn thêm một số nghiên cứu khác như một nghiên cứu tại Canada trong 12 năm cho hay cao cholesterol không liên quan ǵ tới bệnh tim mạch. Hoặc người Nhật thường được coi như ăn ít thực phẩm chứa cholesterol và ít có rủi ro bệnh tim. Khi họ định cư tại Hoa Kỳ, tiếp tục món ăn truyền thống th́ lại bị bệnh tim mạch nhiều hơn là người Nhật tiêu thụ món ăn Hoa Kỳ nhiều chất béo. Như vậy th́ có thể là có một rủi ro nào khác, chẳng hạn stress…

Như vậy th́, tại sao cho là cao cholesterol đưa tới bệnh tim mạch vẫn c̣n rất phổ biến. Có ư kiến cho rằng các nhà sản xuất dược phẩm cũng như kỹ nghệ chế biến thực phẩm, v́ lợi nhuận tài chánh, vẫn liên tục bảo vệ quảng bá tin tưởng rằng cao cholesterol là xấu trong quần chúng, và quần chúng tin theo. Cho nên, nhiều người e ngại khi nói mức độ cholesterol không liên hệ tới bệnh tim là đi ngược với ư kiến được coi là không phải bàn căi hiện nay.

RFI : Xin Bác sĩ cho biết thêm về cholesterol.

BS Nguyễn Ư Đức : Cholesterol là một thành phần cần thiết của màng các tế bào, được dùng để sản xuất một số kích thích tố, tạo ra sinh tố D trên da bằng tia nắng, cũng như tạo ra acit mật để tiêu hóa chất béo... Cholesterol chiếm 70% các chất cấu tạo tế bào của năo bộ, cho nên cơ thể đă tự cung cấp tới 75% cholesterol. Khi ta tiêu thụ nhiều cholesterol, th́ cơ thể giảm sản xuất mà khi tiêu thụ giảm th́ cơ thể tăng sản xuất để giữ quân b́nh tự nhiên.

Do đó giảm tiêu thụ cholesterol chưa đủ để hạ cao cholesterol. Vả lại, theo một số nghiên cứu, cholesterol chỉ bám vào thành động mạch bị tổn thương v́ lư do khác, như là đường quá cao, chất béo ôi hư. V́ thành động mạch b́nh thường rất trơn chu để máu lưu thông dễ dàng. Khi có một vết thương, th́ LDL (Low-density lipoprotein) mới dính vào đó mà gây ra rủi ro.

RFI : Xin Bác sĩ cho biết quan niệm của Bác sĩ về việc pḥng ngừa các bệnh tim mạch.

Chúng tôi cứ nghĩ rằng, cái quan niệm trung dung của Á đông vẫn là điều nên áp dụng, và nhà văn Hoa Kỳ Mark Twain có nói là ông tin tưởng ở sự vừa phải moderation trong mọi lănh vực (kể cả sự vừa phải).

Cholesterol nói riêng, thức ăn nói chung, rất cần thiết cho cơ thể, nhưng sự cần thiết này có giới hạn. Nếu cung cấp quá giới hạn th́ cơ thể không sử dụng hết và phải t́m cách loại ra khỏi cơ thể, ấy là không kể sự bội thu gây ra sự mất cân bằng tự nhiên của các chức năng cũng như cấu trúc của cơ thể và gây ra rủi cho cho sức khỏe cũng như gây ra bệnh.

Thành ra, trung dung vừa phải là điều cần. Tiêu thụ cho đúng với nhu cầu. Tiêu thụ đa dạng nhiều chất dinh dưỡng khác nhau, nhưng phải theo một tỷ lệ nhiều ít chấp nhận được.

Như vậy sức khỏe mới được bảo toàn một phần nào. Rồi ta cũng cần áp dụng các phương thức bảo vệ sức khỏe khác như vận động cơ thể, ngủ nghỉ đầy đủ, giải trí thư giăn trí óc và tránh xúc động quá mức.

Ngoài ra cũng nên để ư là kết quả nghiên cứu khoa học không có giá trị vĩnh viễn. Kết quả đúng hôm nay chưa chắc đă đúng vào vài năm nữa. V́ để phát triển, khoa học cần được liên tục nghiên cứu. Một kết quả mới được thông báo mới chỉ là kết quả sơ khởi, cần nhiều nghiên cứu khác có cùng ư kiến th́ kết quả đó mới được coi là chung kết và được phổ biến để dân chúng áp dụng...

RFI : C̣n về thuốc hạ cholesterol, Bác sĩ có ư kiến như thế nào ?

BS Nguyễn Ư Đức : Thực t́nh ra, những loại thuốc để hạ cholesterol, các nhà bào chế cũng đă lưu ư với giới tiêu thụ rằng, thuốc có thể gây ra một số những rủi ro cho cơ thể chúng ta. Đặc biệt nhiều người uống statin có cảm giác rằng đau nhức cơ bắp, đôi khi rất trầm trọng, tổn thương cho gan, thận, thần kinh, thậm chí tử vong mà lư do tại sao vẫn chưa được xác định. Lư do làm sao, th́ vẫn chưa xác định được, thành ra chúng tôi cũng chỉ xin thưa thế này. Khi sử dụng loại thuốc đó, th́ nhiều khi phải sử dụng lâu dài, chúng ta cũng phải hết sức dè dặt, theo dơi. Nếu có những biến chứng, hoặc có những khó khăn ǵ xảy ra, th́ phải cho bác sĩ hay, để bác sĩ có thể điều chỉnh cái lượng thuốc của ḿnh để giảm thiểu các rủi ro cho sức khỏe.

RFI xin cảm ơn Bác sĩ Nguyễn Ư Đức đă dành thời gian cho cuộc phỏng vấn hôm nay



Back to top

florida80
04-06-2019, 17:46
Rank: Advanced Member



Groups: Registered
Joined: 3/26/2011(UTC)
Posts: 13,716



Thanks: 6458 times
Was thanked: 2706 time(s) in 1905 post(s)





Anh, Mỹ xếp hạng kém về sức khỏe


Người dân Vương quốc Anh thuộc số dân nhiều bệnh tật nhất ở phương Tây bất chấp sáu thập niên hưởng dịch vụ y tế miễn phí, theo một nghiên cứu đăng trên tạp chí Lancet.
Các nhà nghiên cứu quốc tế phân tích tỉ lệ bệnh tật và tử vong tại Anh từ 1990 đến 2010 so với 15 nước Tây Âu và Úc, Canada và Mỹ.
Họ mô tả kết quả tại Anh là “gây sốc” và nói Anh không giải quyết những nguy cơ sức khỏe trong dân số như huyết áp cao, béo phí, lạm dụng thuốc và rượu.
“Không ai lại nghĩ Anh quốc đứng gần chót bảng,” Tiến sĩ Christopher Murray, tác giả chính của báo cáo, nói.
Trong bảng xếp hạng về số năm khỏe mạnh trung b́nh trong đời người, Anh quốc xếp thứ 12. Đa số người Anh, theo nghiên cứu, có 68.6 năm khỏe mạnh mặc dù tuổi thọ trung b́nh là 79.9.
Hoa Kỳ xếp thứ 17 trên 19 nước, với 67.9 năm khỏe mạnh.
Tây Ban Nha đứng đầu với 70.9 năm khỏe mạnh so với tuổi thọ trung b́nh là 81.4.
Phần Lan xếp chót bảng – đa số người dân nước này chỉ có 67.3 năm khỏe mạnh so với tuổi thọ 80.1.
Các yếu tố hàng đầu ảnh hưởng sức khỏe người Anh là hút thuốc, huyết áp cao, béo ph́, ít vận động, uống rượu và chế độ ăn uống kém.

florida80
04-06-2019, 17:47
Thuốc trụ/kháng sinh


UserPostedImage

Bác sĩ Hồ Văn Hiền - VOA - 21.03.2013
Chuyên gia phụ trách giải đáp thắc mắc y học kỳ này là Bác sĩ Hồ Văn Hiền, chuyên khoa nhi và y khoa tổng quát, có pḥng mạch và đang làm việc cho các bệnh viện ở Bắc Virginia.

Thính giả Lê Giang ở Philadelphia, bang Pennsylvania, email đến câu hỏi sau đây:

“Xin hỏi về thuốc trụ sinh.

Khi tôi c̣n ở Việt Nam cách nay khoảng 20 năm, đau bệnh ǵ đi các thầy thuốc cũng được cho uống ‘thuốc trụ sinh’, đứt tay, ghẻ lở cũng ra nhà thuốc mua bột thuốc trụ sinh xức vào, có lúc khỏi bệnh, có lúc không. Thuốc th́ lúc màu vàng, lúc màu đỏ, nhưng h́nh như đều có tên với cái đuôi là ‘cillin’.

Khi tôi di dân sang Mỹ, thuốc trụ sinh không mua được dễ dàng như vậy nữa và phải có toa bác sĩ theo quy định về thuốc men ở Mỹ -- là điều tôi có thể hiểu được. Thế nhưng cách uống thuốc th́ khác, dường như lần nào phải uống trụ sinh, bác sĩ đều ra toa cho tôi phải uống 10 ngày liên tục, cho dù bệnh không c̣n thấy nữa sau vài ngày uống thuốc.

Xin hỏi:

1. Thuốc trụ sinh và kháng sinh là một phải không?
2. Tên thuốc có đuôi “cillin” là trụ sinh có đúng không? Khi xưa, thời c̣n chiến tranh ở Việt Nam, tôi hay nghe nói đến thuốc penicillin lắm, bây giờ thuốc này có c̣n hữu dụng như vậy nữa hay không?
3. Tại sao phải uống thuốc trụ sinh 10 ngày liên tục như vậy, như trong trường hợp của tôi?
4. Uống trụ sinh nhiều bị vàng răng, có đúng không?"

Chúng tôi đă chuyển thắc mắc cho bác sĩ Hồ Văn Hiền, và sau đây là phần giải đáp của bác sĩ Hiền:

1) Trụ sinh hay kháng sinh: ”trụ” - từ Hán Việt có nghĩa là “chống”, “kháng” có nghĩa tương tự. “Sinh” là đời sống. Trước 1975, miền nam VN gọi là trụ sinh, hiện nay gọi là kháng sinh để dịch từ antibiotic, (có lẽ theo tiếng quan thoại cũng gọi là kháng sinh) (anti=chống, “bio” đời sống, ví dụ biology là khoa học về đời sống.)

2) Penicillin:

Sir Alexander Fleming (1881-1955) là một nhà bác học người Tô cách lan (Scottish), t́nh cờ t́m ra một chất do nấm Penicillium notatum sản xuất (1928). Fleming để quên không rửa một đĩa Petri cấy vi khuẩn staphylococcus, và mấy ngày sau, ông thấy một loại nấm từ đâu rơi vào, mọc trong môi trường cấy. Chung quanh các chỗ nấm mọc, vi khuẩn staphylococcus không mọc được, ông mới kết luận là những nấm này tiết ra một chất có khả năng chống lại vi khuẩn. Ông trích được từ môi trường cấy một chất mà ông đặt tên là penicillin (PNC). Nhờ đó mà năm 1945 ông được chung giải Nobel y khoa với hai nhà khoa học khác có công ứng dụng penicillin trong y học lâm sàng. Chất này được gọi là penicillin do tên của nấm (fungus) penicillium sản xuất ra nó.

Tuy nhiên, hồi đó Fleming chỉ nghĩ đến dùng penicillin như một chất sát trùng ngoài da. Phải nhờ nhiều nghiên cứu khác th́ năm 1942 mới có những thử nghiệm lâm sàng dùng penicillin chữa bệnh trên người.Thuốc hồi đó cực kỳ hiệu nghiệm với một số vi khuẩn như vi trùng gây bệnh giang mai (syphilis), bệnh lậu (gonorrhea), vi trùng bệnh scarlet fever, là những bệnh ghê gớm nhất thời đó. Thuốc penicillin V để uống,c̣n có penicillin chích thịt hoặc truyền tĩnh mạch, thuốc procaine Penicillin chích thịt (tác dụng kéo dài hơn, chích mỗi ngày một lần, thuốc benzathine penicillin c̣n kéo dài hơn nữa, chỉ cần chích một tháng một lần, để chữa giang mai, ngừa viêm khớp thấp cấp tính (acute rheumatic fever).

Sau này những thuốc trụ sinh khác được tổng hợp cũng như được khám phá ra từ các nguồn khác. Một số lớn thuốc tương tự trong gia đ́nh penicillin (“beta-lactam antibiotics”) tên có đuôi -cillin như amoxicillin, methicillin, được dùng cho những hoàn cảnh với nhu cầu khác nhau. Ví dụ ampicillin có quang phổ trị liệu rộng hơn penicillin, amoxicillin hấp thụ tốt hơn ampicillin, methicillin trị các vi khuẩn kháng penicillin.

Hiện nay, người ta không dùng penicillin để rảy bột, thoa trên vết thương v́ các vi trùng ngoài da phần lớn đă lờn thuốc, thuốc PNC dùng vào vết thương rát và khó chịu, thuốc hấp thụ vào máu không đồng đều, đi vào các khe vết thương cũng không tin cậy, có thể gây cơ thể dị ứng với penicillin và nhất là có những thuốc thoa tốt hơn như bacitracin, neomycin, hay gần đây mupirocin (Bactroban) hiệu nghiệm với vi trùng staphylococcus hơn.

3) Tại sao bác sĩ dặn dùng trụ sinh trong 10 ngày?

Thuốc dùng 10 ngày trong một số trường hợp mà bs sĩ ước tính, căn cứ trên các nghiên cứu lâm sàng, là thời gian 10 ngày cần để chữa cho dứt bệnh. Ví dụ, bệnh nhân bị nhiễm streptococcus Group A trong amidan, bác sĩ dặn uống mười ngày, dù hết nóng, hết đau họng. Lư do bs muốn dứt hẳn vi khuẩn trong người bệnh, để tránh hậu hoạ về sau, v́ nhiễm vi trùng này có thể gây ra bệnh thấp khớp cấp tính (acute rheumatic fever) là một bệnh có thể làm đau tim, viêm cơ tim, viêm và hư các van tim. Tuy nhiên, đây chỉ là ước tính, căn cứ trên thống kê số đông từng được nghiên cứu.

Ví dụ khác, như thuốc azithromycin dùng chữ viêm tai giữa (otitis media) nhưng chỉ uống 5 ngày, trong lúc dùng amoxicillin th́ uống 10 ngày; đều là những khuyến cáo trên các nghiên cứu lâm sàng. Nhiễm trùng đường tiểu nếu chỉ ở bọng đái có thể chỉ uống kháng sinh một liều cao, hoặc ba ngày, nhưng nếu bs nghi nhiễm trùng liên hệ đến thận, có thể cho bệnh nhân uống 2-3 tuần kháng sinh, nhất là ở trẻ em, để tránh hư hại thận và các biến chứng về sau.Hay người bệnh lao có thể uống thuốc hàng tháng , hàng năm.

Căn cứ trên những nghiên cứu mới, hiện nay y khoa Mỹ cũng như thế giới thiên về y khoa thực chứng (evidence based medicine), người ta xét lại rất thường xuyên, rất nhiều các khuyến cáo này.

4) Răng vàng do tetracycline (tetracycline tooth staining)

Một số thuốc như thuốc kháng sinh loại tetracycline (oxytetracycline, chlortetracycline, minocycline), nếu trẻ em uống vào lúc chúng dưới 8 tuổi (lúc các răng thường trực đang thành h́nh), kháng sinh sẽ đi vào cơ cấu mô răng của chúng làm cho răng đổi màu vàng (sau đó có thể biến thành màu nâu), cũng như ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của các xương khác. Đàn bà có bầu cũng không được dùng tetracycline và các kháng sinh liên hệ v́ tác dụng tương tự trên thai nhi, làm răng sữa chúng bị vàng. Sau 8 tuổi dùng kháng sinh tetracycline không làm vàng răng. Các thuốc kháng sinh khác không làm vàng răng vĩnh viễn như tetracycline, trừ một số ngoại lệ như ciprofloxacin . Thường bác sĩ chữa cho các em đều biết chuyện này và tránh tetracycline cho trẻ em dưới 8 tuổi, trừ trường hợp bất khả kháng, dùng rất ngắn hạn.

Chúc quư thính giả may mắn.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền

florida80
04-07-2019, 19:14
Cuốn sách gây tranh luận tại Pháp: "Sự thật về cholesterol"

UserPostedImage
Tuần báo Le Nouvel Observateur giới thiệu về cuốn sách của Gs Philippe Even

Trọng Thành
Trong lĩnh vực y khoa tại Pháp từ một tuần nay, có một cuộc tranh luận với tâm điểm là cuốn sách « Sự thật về cholesterol » của giáo sư Philippe Even. Quan điểm chính của cuốn sách cho rằng lượng cholesterol cao trong cơ thể nh́n chung không phải là nhân tố gây ra các bệnh tim mạch, đi ngược lại một quan điểm phổ biến từ nhiều thập kỷ nay, được hầu hết y giới thừa nhận. Quan điểm này đă bị phản đối dữ dội, nhưng cũng có không ít người chia sẻ.

Ngày 13/02, tuần báo Le Nouvel Observateur giới thiệu trên trang nhất cuốn sách của giáo sư Philippe Even và hàng tựa là tên của sách : « La vérité sur le cholestérol/Sự thật về cholesterol », với hàng tít phụ : « Nếu cholesterol không nguy hiểm. Giáo sư Even mở màn cuộc tranh luận ». Sách sẽ chính thức ra mắt bạn đọc vào ngày mai 21/02/2013.

Le Nouvel Observateur ghi nhận : « Giáo sư Even dấn thân vào một cuộc hành tŕnh đầy thách thức mới : tận mắt thẩm định lại các nghiên cứu kinh điển về tính độc hại của cholesterol và các thử nghiệm lâm sàng với các thuốc statin, các dược phẩm giảm cholesterol rất mạnh – thị trường dược phẩm lớn nhất với doanh số 25 tỷ đô la năm 2011 ».

Theo khẳng định của tác giả cuốn sách : « Không có cholesterol xấu. Người ta đă phóng đại tác dụng của nó. Nó không phải là nguyên nhân của chứng nhồi máu cơ tim và các tai biến mạch máu năo. Cholesterol là một phi vụ làm ăn, cho phép ngành công nghiệp dược phẩm ăn không 2 tỷ euro/năm, với việc bán ra một cách đại trà các thuốc statin giảm cholesterol ». Giáo sư Even cũng là đồng tác giả một cuốn sách gây sốc khác cách đây nửa năm : « Guide des 4.000 médicaments utiles, inutiles ou dangereux/Hướng dẫn về 4.000 dược phẩm có ích, vô ích hay nguy hiểm », trong đó có nhận định rằng các thuốc statin chỉ cần thiết đối với 9/10 trường hợp đang sử dụng hiện nay.

Hàng loạt tổ chức y khoa, đặc biệt là tim mạch, cũng như nhiều bác sĩ ngay lập tức đă lên tiếng phản đối quan điểm của giáo sư Even, thái độ chủ quan « vơ đũa cả nắm » của tác giả cuốn sách, chủ yếu trong việc phủ nhận tác dụng của việc dùng các thuốc statin để hạ cholesterol, rất nguy hiểm đối với sinh mệnh của nhiều bệnh nhân đang điều trị bằng statin. Nếu biết rằng, tại Pháp có khoảng từ gần 5 triệu đến gần 7 triệu người sử dụng statin, tùy theo các nguồn thống kê khác nhau, th́ không khó khăn ǵ để đoán biết cuốn sách phủ nhận tác hại của cholesterol gây ra một làn sóng phản đối dữ dội như vậy.

Trong số các tổ chức y khoa kư vào thông cáo chung ngày 18/02/2013 phản đối cuốn sách này, có nhiều hiệp hội bác sĩ tim mạch Pháp : Collège National des Cardiologues français, Collège des Cardiologues de Hôpitaux, Société français de cardiologie, Fédération française de cardiologie…

La Haute Autorité de santé (HAS)/Cơ quan Giám định Chất lượng Y tế Pháp, đă ra thông cáo về chủ đề này ngay vào ngày 14/02.

Thông cáo của HAS nhắc lại rằng, tiếp theo một nghiên cứu phân tích vào năm 2010, Cơ quan Giám định Chất lượng Y tế HAS khẳng định các thuốc hạ cholesterol có tác dụng không thể tranh căi với mục đích ngăn ngừa các tai biến tim mạch tái phát. HAS cho biết các thuốc statin làm giảm nguy cơ tử vong 10% đối với nguy cơ tái phát tai biến tim mạch, đặc biệt với chứng nhồi máu cơ tim. C̣n đối với các trường hợp người không có tiền sử tai biến tim mạch, th́ HAS cho rằng, các thuốc hạ cholesterol chỉ nên dùng đối với những người nào cùng lúc với tỷ lệ cholesterol cao, có thêm nhiều nguy cơ gây tai biến tim mạch khác, như tiểu đường, huyết áp cao hay hút thuốc lá… Ngược lại, các trường hợp đối với người chỉ có lượng cholesterol cao, nhưng không có các yếu tố rủi ro khác, th́ việc dùng statin để hạ cholesterol là không cần thiết.

Le Figaro trong bài « Cholesterol, những điều dối trá và những sự thực của giáo sư Even » th́ nhấn mạnh đến các lo ngại của HAS, về tác động của cuốn sách « khiến người bệnh lo lắng, khiến họ mất ḷng tin vào một trị liệu có hiệu quả và vào các bác sĩ của ḿnh. Làm tăng nguy cơ dừng các trị liệu đối với các bệnh nhân thực sự có nhu cầu, tác giả cuốn sách kể trên phải gánh chịu một trách nhiệm lớn ». Cơ quan Giám định Chất lượng Y tế Pháp HAS cũng khuyến cáo các bệnh nhân « không nên tự ngừng dùng thuốc, nếu không có ư kiến của bác sĩ điều trị ».

Quan điểm cho rằng cholesterol không có hại đối với hệ tim mạch, của bác sĩ Even trong cuốn sách sắp được phát hành, thực ra không hoàn toàn mới. Cũng theo Le Nouvel Observateur, từ đầu những năm 2000, tiếp theo « Những huyền thoại về cholesterol », cuốn sách của bác sĩ Thụy Điển Uffe Ravnskov, và tiếp theo hơn một trăm bài báo bảo vệ quan điểm này được đăng tải, 98 người - bao gồm các nhà nghiên cứu và các bác sĩ phủ nhận tác hại của cholesterol - đă tập hợp thành một mạng lưới Thincs (the International network of cholesterol skeptics) vào năm 2002. Mặc dù các nghiên cứu của nhóm được đăng tải trên một số tạp chí khoa học có uy tín như Lancet, nhưng quan điểm « tác hại của cholesterol chỉ là một huyền thoại » của họ ít được chú ư.

Gần đây tại Pháp, cũng về chủ đề này, có cuốn sách của bác sĩ chuyên khoa tim mạch Michel Lorgeril, « Cholesterol, những lời dối trá và sự tuyên truyền », ấn hành năm 2007. Bác sĩ Lorgeril cũng là người từng đề xuất « nghịch lư Pháp » hay chế độ ăn uống đặc thù của khu vực Địa Trung Hải vào năm 1992, ghi nhận hiện tượng : Dù người Pháp và dân cư ở khu vực Nam Âu có tỷ lệ cholesterol cao tương đương người Mỹ, nhưng lại ít mắc các bệnh tim mạch hơn nhiều so với người Mỹ. Một trong các lư do của nghịch lư này là các cư dân tại khu vực Địa Trung Hải uống rượu vang và sử dụng các chất béo không băo ḥa có trong dầu ô liu, một thực phẩm phổ biến của khu vực.

Cho dù có những bất đồng sâu sắc trong vấn đề sử dụng các thuốc statin hạ cholesterol giữa bên ủng hộ và bên chống, Cơ quan Giám định Chất lượng Y tế HAS, trong thông cáo kể trên nhân cuốn sách của giáo sư Even, cũng thừa nhận rằng các thuốc statin cho những người có nguy cơ tim mạch, không phải lúc nào cũng được kê đúng. HAS thừa nhận: « có một số trường hợp lạm dụng statin ở Pháp ; việc lạm dụng statin trong việc ngăn ngừa nguy cơ tim mạch ở những người không có tiền sử tai biến (…), ở những người mà nguy cơ bị tai biến không cao ».

Về chủ đề này, Libération số ra ngày 13/02 có bài « Cholesterol, các thuốc statin bị chỉ trích dữ dội ». Libération lưu ư đến một số điều hợp lư trong quan điểm phản bác tác hại của cholesterol. Đặc biệt là góc nh́n của giáo sư Bernard Bégaud, người phụ trách một cơ sở theo dơi dược phẩm lớn nhất tại Pháp, có trụ sở ở Bordeaux. Bác sĩ Bégaud ghi nhận, kể từ hơn 10 năm nay, không có một nghiên cứu nào cho thấy các tác dụng tích cực của statin tại Châu Âu, đối với các bệnh nhân ở giai đoạn pḥng ngừa sơ cấp, tức là có tỷ lệ cholesterol hơi cao, nhưng chưa từng bị nhồi máu. Mà trên thực tế, các bác sĩ đă kê thuốc statin một cách phổ biến cho những người này. Ngay từ năm 2005, bác sĩ Bégaud đă cho rằng 20% trường hợp điều trị với statin là không cần thiết.

Libération cũng lưu ư đến cái nh́n thận trọng của giáo sư Simon Weber, bệnh viện Cochin Paris, theo đó, bác bỏ hoàn toàn tác dụng của statin là « hồ đồ ». Bên cạnh đó, bác sĩ chuyên khoa tim mạch bệnh viên Cochin cũng nghiêm khắc chỉ trích áp lực của các tập đoàn công nghiệp dược phẩm, từ năm này qua năm khác, thúc đẩy việc sử dụng statin với liều cao, mà điều này là không cần thiết, thậm chí c̣n nguy hiểm.

Hạ cholesterol bằng các thuốc statin có cần thiết hay không ? Nếu cần th́ trong những trường hợp nào ? Và rộng hơn nữa, để pḥng ngừa các căn bệnh tim mạch, các biện pháp căn bản là ǵ ?... Đây là những câu hỏi hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp một lần nữa lại đặt ra trong công luận Pháp, nhân cuốn sách của bác sĩ Even, trong bối cảnh nhiều bê bối dược phẩm quy mô lớn mới bị bung ra trong thời gian gần đây, như vụ Mediator. Giới chuyên gia cũng như công luận cũng ngày càng quan tâm nhiều hơn đến các chiến lược điều trị và chăm sóc sức khỏe sát thực, hiệu quả và chi phí tiết kiệm hơn.

Phần phỏng vấn bác sĩ Nguyễn Ư Đức (Texas)

RFI : Xin Bác sĩ cho biết về quan điểm phủ nhận tác hại của cholesterol đối với các bệnh tim mạch được nh́n nhận như thế nào tại Hoa Kỳ.

BS Nguyễn Ư Đức : Đây là một vấn đề khá quan trọng, ngoài tầm hiểu biết của chúng tôi, cho nên cũng chỉ xin có vài ư kiến hết sức căn bản, thông thường.

Cho tới nay, ư kiến chung của y giới cũng như quần chúng tại Hoa Kỳ vẫn cho là cao cholesterol có liên hệ tới bệnh tim mạch. Và người ta đă đặt ra các tiêu chuẩn cholesterol tới mức độ nào là phải điều trị bằng được phẩm, bằng giảm tiêu thụ chất béo, chất cholesterol hoặc các phương thức khác…

Tuy nhiên, từ lâu cũng đă có nhiều nghiên cứu cho rằng cao cholesterol không đưa tới bệnh tim mạch. Họ nêu ra kết quả nghiên cứu của Framingham, Boston, kéo dài 30 năm cho hay cao cholesterol là một rủi ro đưa tới bệnh tim mạch nhưng không giải thích tại sao, và ½ bệnh nhân có bệnh tim mạch th́ cholesterol lại thấp, trong khi đó ½ người không có bệnh tim mạch th́ cholesterol lại cao.

Cũng nên để ư rằng yếu tố rủi ro (risk) không phải là nguyên nhân gây ra bệnh mà chỉ là một nguy cơ, một cơ hội để bệnh có thể xảy ra. Chẳng hạn có nghiên cứu nói là phụ nữ cao lớn thường hay bị bệnh ung thư nhũ hoa, th́ không có nghĩa là cứ cao lớn là bị ung thư này. Tất nhiên là không phải vậy.

Có thể dẫn thêm một số nghiên cứu khác như một nghiên cứu tại Canada trong 12 năm cho hay cao cholesterol không liên quan ǵ tới bệnh tim mạch. Hoặc người Nhật thường được coi như ăn ít thực phẩm chứa cholesterol và ít có rủi ro bệnh tim. Khi họ định cư tại Hoa Kỳ, tiếp tục món ăn truyền thống th́ lại bị bệnh tim mạch nhiều hơn là người Nhật tiêu thụ món ăn Hoa Kỳ nhiều chất béo. Như vậy th́ có thể là có một rủi ro nào khác, chẳng hạn stress…

Như vậy th́, tại sao cho là cao cholesterol đưa tới bệnh tim mạch vẫn c̣n rất phổ biến. Có ư kiến cho rằng các nhà sản xuất dược phẩm cũng như kỹ nghệ chế biến thực phẩm, v́ lợi nhuận tài chánh, vẫn liên tục bảo vệ quảng bá tin tưởng rằng cao cholesterol là xấu trong quần chúng, và quần chúng tin theo. Cho nên, nhiều người e ngại khi nói mức độ cholesterol không liên hệ tới bệnh tim là đi ngược với ư kiến được coi là không phải bàn căi hiện nay.

RFI : Xin Bác sĩ cho biết thêm về cholesterol.

BS Nguyễn Ư Đức : Cholesterol là một thành phần cần thiết của màng các tế bào, được dùng để sản xuất một số kích thích tố, tạo ra sinh tố D trên da bằng tia nắng, cũng như tạo ra acit mật để tiêu hóa chất béo... Cholesterol chiếm 70% các chất cấu tạo tế bào của năo bộ, cho nên cơ thể đă tự cung cấp tới 75% cholesterol. Khi ta tiêu thụ nhiều cholesterol, th́ cơ thể giảm sản xuất mà khi tiêu thụ giảm th́ cơ thể tăng sản xuất để giữ quân b́nh tự nhiên.

Do đó giảm tiêu thụ cholesterol chưa đủ để hạ cao cholesterol. Vả lại, theo một số nghiên cứu, cholesterol chỉ bám vào thành động mạch bị tổn thương v́ lư do khác, như là đường quá cao, chất béo ôi hư. V́ thành động mạch b́nh thường rất trơn chu để máu lưu thông dễ dàng. Khi có một vết thương, th́ LDL (Low-density lipoprotein) mới dính vào đó mà gây ra rủi ro.

RFI : Xin Bác sĩ cho biết quan niệm của Bác sĩ về việc pḥng ngừa các bệnh tim mạch.

Chúng tôi cứ nghĩ rằng, cái quan niệm trung dung của Á đông vẫn là điều nên áp dụng, và nhà văn Hoa Kỳ Mark Twain có nói là ông tin tưởng ở sự vừa phải moderation trong mọi lănh vực (kể cả sự vừa phải).

Cholesterol nói riêng, thức ăn nói chung, rất cần thiết cho cơ thể, nhưng sự cần thiết này có giới hạn. Nếu cung cấp quá giới hạn th́ cơ thể không sử dụng hết và phải t́m cách loại ra khỏi cơ thể, ấy là không kể sự bội thu gây ra sự mất cân bằng tự nhiên của các chức năng cũng như cấu trúc của cơ thể và gây ra rủi cho cho sức khỏe cũng như gây ra bệnh.

Thành ra, trung dung vừa phải là điều cần. Tiêu thụ cho đúng với nhu cầu. Tiêu thụ đa dạng nhiều chất dinh dưỡng khác nhau, nhưng phải theo một tỷ lệ nhiều ít chấp nhận được.

Như vậy sức khỏe mới được bảo toàn một phần nào. Rồi ta cũng cần áp dụng các phương thức bảo vệ sức khỏe khác như vận động cơ thể, ngủ nghỉ đầy đủ, giải trí thư giăn trí óc và tránh xúc động quá mức.

Ngoài ra cũng nên để ư là kết quả nghiên cứu khoa học không có giá trị vĩnh viễn. Kết quả đúng hôm nay chưa chắc đă đúng vào vài năm nữa. V́ để phát triển, khoa học cần được liên tục nghiên cứu. Một kết quả mới được thông báo mới chỉ là kết quả sơ khởi, cần nhiều nghiên cứu khác có cùng ư kiến th́ kết quả đó mới được coi là chung kết và được phổ biến để dân chúng áp dụng...

RFI : C̣n về thuốc hạ cholesterol, Bác sĩ có ư kiến như thế nào ?

BS Nguyễn Ư Đức : Thực t́nh ra, những loại thuốc để hạ cholesterol, các nhà bào chế cũng đă lưu ư với giới tiêu thụ rằng, thuốc có thể gây ra một số những rủi ro cho cơ thể chúng ta. Đặc biệt nhiều người uống statin có cảm giác rằng đau nhức cơ bắp, đôi khi rất trầm trọng, tổn thương cho gan, thận, thần kinh, thậm chí tử vong mà lư do tại sao vẫn chưa được xác định. Lư do làm sao, th́ vẫn chưa xác định được, thành ra chúng tôi cũng chỉ xin thưa thế này. Khi sử dụng loại thuốc đó, th́ nhiều khi phải sử dụng lâu dài, chúng ta cũng phải hết sức dè dặt, theo dơi. Nếu có những biến chứng, hoặc có những khó khăn ǵ xảy ra, th́ phải cho bác sĩ hay, để bác sĩ có thể điều chỉnh cái lượng thuốc của ḿnh để giảm thiểu các rủi ro cho sức khỏe.

florida80
04-07-2019, 19:16
Trung Quốc: Bố mẹ thích cho con uống sữa ngoại

UserPostedImage
Baby Milk Formula

VOA - 28.05.2013
Sau khi một đường giây bán thịt chuột được dán nhăn là thịt cừu bị phá vỡ, sau khi hàng ngàn heo chết được thả trôi trên sông Thượng Hải, bố mẹ người Trung Quốc bây giờ không biết nuôi bé sơ sinh bằng thức ăn ǵ.

Nhiều người săn lùng sữa ngoại đến độ bây giờ có nạn buôn lậu sữa bột và nan khan hiếm sữa bột tại một số nước phương Tây.

Bà Vũ Thiếu Sai cho đài CBS của Mỹ biết trong chuyến đi Mỹ mới đây, bà đă mua 1.800 đôla tiền sữa bột, đủ để dùng cho cháu bé của bà trong một năm rưỡi.

Bà Vũ nói bầu trời ô nhiễm của Bắc Kinh là bằng chứng cho thấy có cái ǵ không ổn với sữa bột do Trung Quốc sản xuất.

Niềm tin vào sữa bột Trung Quốc bị xói ṃn từ năm 2008 khi có 6 bé sơ sinh chết v́ dùng sữa bột có chất melamine, một hóa chất độc hại để làm bao plastic.

Vụ tai tiếng này làm các nhà sản xuất sữa Trung Quốc đánh mất thị trường 12,5 tỉ đôla một năm về sữa bột trẻ em, và làm các nhà sản xuất nước ngoài có thương hiệu đáng tin cậy từ lâu tăng gấp đôi doanh số trong 5 năm qua.

Các hiệu sữa nước ngoài bây giờ chiếm phân nửa thị trường tại Trung Quốc.

Nguồn: CBS, foodworldnews.com

florida80
04-07-2019, 19:17
Tử vong v́ thuốc giảm đau tăng nhanh ở nữ giới

UserPostedImage
Tử vong liên quan đến việc kê toa thuốc giảm đau ngày càng tăng tại Hoa Kỳ trong thập niên qua.


VOA - 03.07.2013
Trung tâm Kiểm soát và Pḥng chống bệnh của Hoa Kỳ, gọi tắt là CDC, cho hay việc dùng quá liều lượng các loại thuốc giảm đau mua phải có toa bác sĩ đang ngày càng phổ biến, nhất là ở phái nữ.

Trung tâm này cho hay từ năm 1999 đến năm 2010 đă có 48.000 phụ nữ chết v́ dùng thuốc giảm đau quá liều lượng.

Theo trung tâm này, số phụ nữ tử vong do dùng thuốc quá liều tăng 400% kể từ năm 1999, so với mức 265% ở nam giới.

CDC nói rằng xu hướng tử vong ở nam giới vẫn cao v́ dùng quá liều các thuốc giảm đau có kê đơn, khoảng cách biệt này đang thu hẹp lại.

Trung tâm này nói tỉ lệ tử vong liên quan đến việc kê toa thuốc giảm đau ngày càng tăng tại Hoa Kỳ trong thập niên qua.

CDC kêu gọi giới chuyên môn trong ngành chăm sóc sức khỏe cần phải cảnh giác khi kê toa cho các loại thuốc giảm đau rằng phụ nữ gặp phải rủi ro cao hơn khi dùng thuốc qua liều.

Các loại thuốc giảm đau được nêu ra trong báo cáo của trung tâm CDC gồm các loại opioid thông dụng hoặc các loại thuốc giảm đau có chất gây mê, như hydrocodone, oxycodone, oxymorphone và methadone.

Back to top

florida80
04-07-2019, 19:18
Các loại thuốc dùng chung có thể chữa viêm gan siêu vi C

Carol Pearson - VOA - 25.09.2013
Theo Tổ Chức Y Tế Thế Giới, ít nhất cũng có 150 triệu người trên thế giới bị bệnh viêm gan mạn tính gọi là Viêm gan siêu vi C. Bệnh này có đủ mọi mức độ từ nhẹ tới gây tử vong. Thông tín viên VOA Carol Pearson tường thuật rằng trong lúc không có loại vắc-xin nào để ngăn ngừa nó, các nhà khảo cứu đă t́m thấy một kết hợp các thuốc có thể chữa lành được các ca bệnh khó khăn.

Các nhà khảo cứu lâu nay vẫn t́m cách để chữa lành hay ngăn ngừa viêm gan siêu vi C, một bệnh hay lây và có thể gây ra chứng suy gan, ung thư gan gây tử vong.

Bác sĩ Anthony Fauci thuộc Viện Y tế Quốc Gia Hoa Kỳ nói về bệnh đó như sau:

“Bệnh viêm gan siêu vi C măn tính là nguyên nhân hàng đầu khiến chúng ta phải ghép gan tại Hoa Kỳ.”

Bác sĩ Fauci lănh đạo một cuộc khảo cứu tập trung vào các bệnh nhân sống trong những khu vực thành thị nghèo khó, hầu hết là người Mỹ gốc Châu Phi, đă mắc các bệnh gan. Những bệnh nhân này được sử dụng một loại thuốc mới, sofosbuvir chưa được chứng nhận bởi Cơ quan Quản lư Thực phẩm và Dược phẩm FDA. Ông cho biết:

“Sofosbuvir là một tác nhân đánh trực tiếp vào vi-rút viêm gan siêu vi C. Nó tác động vào một trong những enzyme quan trọng đối với loại vi-rút này để tái tạo chính nó.”

Các bệnh nhân cũng nhận được rivavirin, một loại thuốc xưa hơn, chống lại viêm gan siêu vi C.

Sau khi được sử dụng cả hai loại thuốc trong một khoảng thời gian, có từ 50 tới 70% bệnh nhân được chữa lành, và các xét nghiệm sau đó thấy không có vi-rút viêm gan siêu vi C trong máu họ.

Liệu pháp này không dùng interferon, một loại thuốc thường hay chích để chống lại bệnh này.

Interferon có thể gây ra tác dụng phụ nghiêm trọng khiến các nhà khảo cứu không muốn sử dụng, nhưng sự phối hợp các thuốc vừa thử chỉ có rất ít tác dụng phụ, và không có bệnh nhân nào phải bỏ cuộc, ngưng chữa trị.

Viêm gan siêu vi C được coi như một kẻ giết người thầm lặng bởi v́ hầu hết không biết ḿnh bị nhiễm cho tới khi căn bệnh đă phát triển tới giai đoạn nghiêm trọng hơn. Chẩn đoán sớm sẽ ngăn ngừa được ung thư gan hoặc suy gan, và có nhiều cơ may được chữa lành, đó là lư do tại sao Bác sĩ Fauci nói rằng tích cực kiểm tra bệnh cũng quan trọng như t́m được thuốc dễ sử dụng. Ông nói:

“Thúc đẩy người ta chẩn bệnh và nếu họ cần th́ cho họ một chế độ điều trị, là một vấn đề hết sức quan trọng của ngành y tế công cộng.”

Cuộc khảo cứu này được đăng trên tạp chí Journal of the American Medical Association.

florida80
04-07-2019, 19:19
Ông đă mất gần 60 kg mà không nói cho gia đ́nh của ḿnh, và làm họ được bất ngờ

UserPostedImage
Francetv info : ông giảm gần 60 kg mà không có cho gia đ́nh của ḿnh, và làm họ được bất ngờ

HTMT dịch tin tức báo điện tử Pháp - Francetv info - 08.1.2014 / Yahoo FR
Trong một năm, từ 136 kg xuống c̣n 77 kg và ông đă giấu người thân của ḿnh. Một người Mỹ đă chú ư giữ ǵn ăn uống trong năm 2013 và mất gần 60 kg, ông quyết định gây bất ngờ cho gia đ́nh về việc giảm cân của ḿnh, web chuyên ngành của Hoa Kỳ Gawker ( tiếng Anh) cho hay hôm thứ Hai, 6-1-2014.Ông nói em gái cùng mẹ khác cha, quay phim phản ứng của cha mẹ khi họ phát hiện ra điều này trong mùa lễ. Ông đă không gặp họ trong một năm. Ông đăng video trên YouTube vào ngày 2,tháng Giêng, với bí danh Bob Jones .
"Oh, chúa ơi, mẹ rất tự hào về con", mẹ ông kêu lên và ôm chầm lấy ông.
Trước đó, em gái cùng mẹ khác cha của ông đă không nhận ra ông trước khi bà ngoại của ông nói với cô đấy là ai. "Khi cô tới nhà, cô ấy nh́n tôi và đi mà không có bất kỳ phản ứng nào", ông kể trên trang web.
Trong cùng một trang web đă giải thích làm thế nào ông có thể giảm cân rất nhiều như thế. "Không có thực phẩm nào bị cấm, nhưng tôi chủ yếu là ăn salade với cá ngừ (cá thu), thịt gà nấu xốt, các loại rau đông lạnh, đậu và gạo, sandwich với thịt gà tây hoặc thịt ḅ nướng, rau dền và trứng. Khi tôi bị mất 100 £ [ 45 kg ], tôi bắt đầu đi bộ đến chỗ làm việc ( 8 km ) trong ṿng hai tháng cho đến khi thời tiết quá lạnh ngoài trời", ông viết, theo trang web Nouvel Obs nơi đă chuyển tiếp câu chuyện của ông hôm thứ Ba.

florida80
04-07-2019, 19:21
Tác dụng của chất xơ và dược thảo Diên Hồ trong việc trị bệnh

UserPostedImage

VOA - 09.01.2014
Một số chất xơ trong thực phẩm có thể pḥng ngừa bệnh suyễn, một chứng bệnh phổi mà cho tới gần đây chưa được nhiều người biết tới tại các nước đang phát triển. Các chuyên gia nói rằng số người mắc bệnh suyễn ngày càng gia tăng tại các quốc gia ít phát triển, v́ dân chúng ở đó chuyển thói quen ăn uống từ những thực phẩm có chất xơ cao sang các thực phẩm chế biến.

Đồng thời các nhà khảo cứu đă khám phá ra công thức tự nhiên trong một cây dược thảo thời cổ đại, làm giảm bớt chứng đau nhức mạn tính trong đó có đau lưng. Hợp chất này trích ra từ củ của một loại cây hoa có tên là Diên Hồ (Corydalis) mà người Trung Hoa đă sử dụng để trị đau nhức từ nhiều thế kỷ trước.

Câu chuyện Khoa Học và Đời Sống kỳ này đề cập tới hai cuộc khảo cứu dựa theo các bài tường thuật của thông tín viên đài VOA Jessica Berman.

Chúng ta có hai loại chất xơ từ thực phẩm – không thể ḥa tan và có thể ḥa tan. Chất xơ không thể ḥa tan, từ các thực phẩm như ngũ cốc nguyên hạt, dưa chuột, và súp lơ xanh, trong đó có những thứ được gọi là chất không tiêu hóa được chỉ có tác dụng cơ học đối với ruột, giúp làm sạch ruột.

Một cuộc khảo cứu mới do các nhà khoa học tại Thụy Sĩ gợi ư rằng, chất xơ có thể ḥa tan được - từ trái cây và rau - được phân hóa bởi vi khuẩn trong ruột có thể giảm bớt viêm phổi.

Ông Benjamin Marsland là một nhà nghiên cứu miễn dịch tại Trường Đại học Lausanne. Ông nói trong một cuộc phỏng vấn qua Skype rằng cho tới gần đây bệnh suyễn hầu như không được biết tới tại các quốc gia nơi dân chúng ăn nhiều chất xơ có thể ḥa tan.

“Tại một số quốc gia, chẳng hạn Burkina Faso, số lượng chất xơ ḥa tan được đưa vào cơ thể rất cao và không có phát triển dị ứng, trong khi tại các nước tây phương hóa, ta có một lượng hấp thụ chất xơ trong thực phẩm thấp và các loại dị ứng ngày càng gia tăng.”

Vi khuẩn trong ruột phân hóa chất xơ có thể ḥa tan trong đó có pectin từ trái táo, từ các trái cây họ dâu và họ cam thành các acid béo. Ông Marsland nói rằng những acid béo này tương tác với các mô xốp bên trong xương, nơi các tế bào miễn nhiễm được tạo ra, và giúp điều tiết hệ thống miễn nhiễm hoạt động quá tích cực. Một phản ứng miễn nhiễm quá tích cực có thể dẫn tới viêm.

Để xem chất xơ trong thực phẩm có thể ảnh hưởng tới phát triển bệnh tật bên ngoài đường tiêu hóa như suyễn chẳng hạn, ông Marsland và các đồng nghiệp đă khảo cứu hai nhóm chuột. Một nhóm chuột được nuôi bằng chế độ dinh dưỡng có hàm lượng chất xơ có thể ḥa tan cao trong hai tuần lễ, trong khi nhóm kia được nuôi với một chế độ dinh dưỡng với mức pectin thấp.

Cả hai nhóm sau đó được phơi nhiễm ve bụi, nguyên nhân chính gây bệnh suyễn, một điều kiện có dấu hiệu viêm phổi, làm hẹp lại khí quản và thở kḥ khè.

Ông Marsland nói rằng, những con chuột ăn ít chất xơ có thể ḥa tan phản ứng mạnh với dị ứng bụi trong đó có sự hiện diện của các hợp chất gây viêm phổi và làm nghẽn khí quản tương tự như những ǵ ta thấy ở loài người.

Những con chuột ăn thực phẩm phong phú về pectin, có mức độ tế bào miễn nhiễm thường tăng cao trong dị ứng suyễn.Ông Marsland nói tiếp:

“Như vậy cơ chế qua đó chế độ dinh dưỡng giúp cho phổi là chất xơ dinh dưỡng thay đổi vi khuẩn trong đường ruột, thay đổi chất chuyển hóa trong hệ thống tuần hoàn, và việc đó ảnh hưởng tới phương cách phát triển của các tế bào miễn nhiễm.”

Các nhà khảo cứu xác nhận những phát hiện của họ bằng cách chích cho những con chuột này một chuỗi ngắn acid béo khác. Lại một lần nữa có ít hơn các chỉ dấu viêm trong số những con chuột được chích hợp chất này.

Bài báo mô tả sự liên hệ giữa chất cơ có thể ḥa tan và suyễn được đăng trong tạp chí Nature Medecine.



Cây Diên Hồ (Corydalis) chủ yếu mọc ở miền đông trung bộ Trung Quốc. Trong suốt hàng ngàn năm, dân chúng tại quốc gia châu Á này đă thu hoạch củ của loại cây này và luộc chúng trong dấm. Hỗn hợp này chế biến với trà và được sử dụng để trị đau nhức. Mặc dù Diên Hồ hữu hiệu trong việc làm giảm bớt tất cả các loại đau nhức, trong đó có đau nhức tạm thời và đau viêm khớp mạn tính, Diên Hồ có thể mang lại lợi ích lớn nhất trong việc điều trị đau nhức dai dẳng mà các chuyên gia nói rằng hiện chưa có được một loại thuốc tốt cho chứng bệnh này.

UserPostedImage
Cây Diên Hồ (Ảnh: Creative Commons-Wikimedia)

Một nhà khảo cứu thuộc Trường Đại học California phân hiệu Davis, ông Olivier Civelli, nói rằng hoạt chất trong cây Diên Hồ đă được các nhà khảo cứu xác định là dehydrocorybulbine hay DHCB. Trong những cuộc thí nghiệm trên thú vật, DHCB có vẻ hữu hiệu trong việc làm giảm bớt đau nhức mạn tính ở mức độ thấp. Cây này thuộc ḍng họ của cây anh túc.

Ông Civelli giải thích rằng loại thuốc được gọi là opiod giống như morphine thường được được dùng để điều trị đau nhức mạn tính chỉ nên sử dụng một thời gian ngắn bởi v́ tính chất gây nghiện của nó.

Nhưng DHCB có vẻ vừa hữu hiệu, vừa không gây nghiện trong việc điều trị chứng đau nhức dai dẳng. Ông nói:

“Như vậy, điều chúng tôi t́m thấy là hợp chất của chúng tôi không có tác dụng như vậy. Nó không bị mất tác dụng qua thời gian. Bởi v́ chúng tôi đă chích cho thú vật trong bảy ngày và tác dụng giảm đau mà chúng tôi thấy là vẫn ổn định.”

Các thuốc gây nghiện hoạt động theo chiều hướng của morphine trong năo bộ.
Nhưng ông Civelli nói rằng có vẻ như DHCB hoạt động qua một hóa chất vận chuyển trong năo bộ khác được gọi là một dopamine D2 thụ thể, mà các cuộc khảo cứu gợi ư là đóng một vai tṛ trong cảm giác đau.

Ông Civilli và các đồng nghiệp đă khám phá DHCB như là một phần trong dự án “dược thảo” để xác định và sắp loại công thức hoạt động trong y học cổ truyền Trung Hoa.

Ghi nhận rằng việc phát triển một loại thuốc mới có thể tốn kém một tỉ đô la hay hơn, ông Civili nói rằng dự án này có mục đích khám phá những hợp chất thiên nhiên rẻ tiền hơn. Ông nói:

“T́m cách hiểu tại sao dân tộc Trung Hoa đă sử dụng loại dược thảo này từ khoảng ba ngàn năm trước? Và dược thảo này hữu hiệu. Có bao nhiêu hợp chất ngoài thị trường có thể giúp làm giảm bớt đau nhức ? Và đó là lư do khiến chúng tôi quan tâm tới công cuộc khảo cứu hiện nay.”

Các dược thảo liên quan tới cây Diên Hồ có thể mua trên Internet, nhưng nếu không có thêm các cuộc thí nghiệm nữa để biết chắc chúng an toàn, th́ ông Civelli sẽ không khuyên mọi người sử dụng chúng.

Một bài báo về việc khám phá công thức thuốc làm giảm đau ở dược thảo cổ truyền của Trung Hoa sử dụng cây Diên Hồ được đăng trong tạp chí Current Biology.
Back to top

florida80
04-07-2019, 19:22
Nghiên cứu mới: Xài multivitamin chỉ phí tiền
Monday, January 20, 2014 6:55:13 PM

HOA KỲ (NV) - “Hăy ngưng phí phạm tiền bạc cho mấy thứ thuốc bổ đa sinh tố (multivitamin). Chúng chẳng ích lợi chút nào!” HNGN.com trích dẫn lời nhắn của các nhà khảo cứu qua một nghiên cứu mới nhất gửi đến chúng ta.

UserPostedImage
(H́nh minh họa: Justin Sullivan/Getty Images)

Thông điệp này muốn nhắn nhủ đến những người hiện đang có một chế độ kiêng cữ “tương đối tốt,” biết lo cho sức khỏe nhưng không hay biết đến thông tin liên quan đến ngành kỹ nghệ trị giá $53 tỉ ở nước Mỹ.

Theo thống kê, khoảng 53% người Mỹ đang dùng ít nhất một loại thuốc bổ nào đó.

Bài viết mới được đăng trên tập san Annals of Internal Medicine, theo đó ba cuộc nghiên cứu về lợi ích do thuốc bổ đa sinh tố mang lại cho thấy chúng chỉ là con số không. Nghiên cứu phân tích tác dụng của thuốc bổ đối với bệnh tim mạch, ung thư, mức tử vong và sự giảm thiểu nhận thức. Họ khám phá thấy không có sự khác biệt nào giữa người có dùng thuốc bổ với người không hề uống.

Các nhà khảo cứu ghi nhận rằng mua thuốc bổ là hoàn toàn phí phạm tiền bạc, đặc biệt đối với người không bị vấn đề thiếu sinh tố nào và người biết ăn uống có đầy đủ sinh tố.

Thuốc bổ thảo mộc là ngành kỹ nghệ trị giá $5 tỉ bạc. Nhiều người xoay qua uống dược thảo thay v́ thuốc theo toa bác sĩ, tin tưởng rằng làm vậy có được sức khỏe tốt hơn. Lư do v́ chúng được quảng cáo là bào chế từ “thiên nhiên” và chất “hữu cơ”. Chúng được bày bán ở khắp các tiệm thuốc. Điều mà người ta không ư thức được là những nghiên cứu trước đây cho thấy dược thảo mang lại hơn 50,000 hiệu ứng tai hại.

Cơ thể con người chỉ có thể hấp thụ một vài liều lượng vitamin và khoáng chất mỗi ngày. Khi vượt qua giới hạn, lượng dư thừa sẽ bị tống khứ ra ngoài theo đường tiểu. Các sinh tố ḥa tan trong chất béo tích tụ trong cơ thể, sau này gây hại cho sức khỏe.

Các nhà nghiên cứu ở Cleveland Clinic nhận thấy rằng thặng dư vitamin E làm gia tăng nguy cơ bị ung thư tuyến tiền liệt. Nghiên cứu khác cũng khám phá thấy dùng quá nhiều vitamin A gia tăng nguy cơ bị rỗng xương và nứt xương hông.

Tuy nhiên, mặc dù những khám phá từ nghiên cứu mới này, nhiều chuyên gia về sức khỏe vẫn bênh vực cho thuốc bổ multivitamin. Theo họ, nhiều người bị bệnh kinh niên không ăn được thức ăn có đầy đủ sinh tố, thuốc bổ đa sinh tố là giải pháp duy nhất đối với họ. Có người không dùng nhiều rau quả nên cũng cần đến multivitamin. Vitamin B12 là thứ sinh tố cần yếu chỉ có trong thịt, do đó người ăn chay phải lệ thuộc vào multivitamin để có đủ lượng sinh tố hằng ngày.

Nói tóm lại, dựa theo các nghiên cứu, không thể cho rằng multivitamin là vô bổ cho cơ thể, mà chính là sự tiêu thụ thái quá mới có hại mà thôi. (T.P.)/NV

Back to top

florida80
04-07-2019, 19:24
Water! Water@

florida80
04-07-2019, 19:25
NHỮNG TRIỆU CHỨNG CẦN LƯU Ư CHO NGƯỜI CAO TUỔI

1- Bỗng nhiên thấy tức thở

Lư do: có thể là do nghẽn mạch phổi(pulmonary embolus). Nhận xét: Cảm thấy khó thở sau khi tập thể dục hay đang ngồi có thể là do vận động hay do ưu tư lo lắng. Nhưng nếu đột nhiên bị khó thở có thể là do chứng nghẽn mạch phổi do cục đông máu làm nghẹt mạch máu trong phổi. Bệnh này có thể nguy hiểm tới tính mạng. Một lư do khác là tim lên cơn đau hoặc trụy tim. Cả hai t́nh huống trên đều làm cho bệnh nhân thở gấp hay khó chịu hoặc cảm thấy thiếu không khí . Cẩn đưa bệnh nhân đi cấp cứu.

2- Tim đập rộn trong khi đang ngồi yên

Lư do: có thể là do lên cơn đau tim (heart attack). Nhận xét: Đánh trống ngực (palpitations) có thể chỉ là v́ ưu tư lo lắng, nhưng cũng có thể là dấu hiệu của cơn đau tim hay chứng loạn nhịp tim (arrhythmia) .Nên liên lạc với bác sĩ ngay.

3- Choáng váng chóng mặt khi ra khỏi giường

Lư do: có thể là do huyết áp thấp. Nhận xét: Chóng mặt vào buổi sáng được gọi là "huyết áp thế đứng thấp" (orthostatic hypotension) gây ra bởi sự loại nước (dehydration) , bệnh tiểu đường, bệnh Parkinson, bệnh trụy tim, hay thuốc men bao gồm cả thuốc lợi tiểu và thuốc huyết áp. Một lư do khác có thể là chứng "chóng mặt tư thế nhẹ " (benign positional vertigo) gây ra bởi sự xáo trộn của các bộ phận cân bằng của tai trong. Nên đi gặp bác sĩ để chẩn đoán.

4- Nước tiểu ṛ rỉ

Lư do: có thể là do chứng són đái (urinary incontinence) mà nguyên nhân không phải v́ lăo hoá, nhiểm khuẩn đường tiểu (urinary tract infection-UTI) , bệnh tiền liệt tuyến, dây thẩn kinh bị ép. hoặc tiểu đường Nhận xét: đi gặp bác sĩ để chẩn đóan

5- Đầu đau như búa bổ

Lư do: có thể là do xuất huyết năo Nhận xét: Trong phần lớn trường hợp đó là triệu chứng của chứng nhức nửa đầu (migraine) chỉ cần uống thuốc giảm đau và nghỉ ngơi là hết. Nhưng một vài trường hợp hiếm xẩy ra là chứng nhức đầu có thể là dấu hiệu có khối u hay xuất huyết trong năo. Cẩn đặc biệt chú ư là khi bị đau nhiều nửa bên đầu một cách đột ngột và kéo dài mà lại kèm theo buồn nôn, ói mửa, và chảy nước mắt. Trong trường hợp sau này phải đi bệnh viện gấp.

6- Mắt bị sưng vù

Lư do: có thể là do viêm dây thần kinh mắt (optic neuritis). Nhận xét: Dây thần kinh mắt có thể bị nhiễm khuẩn hay bị dị ứng. Nếu chữa sớm th́ không hại ǵ cho mắt v́ vậy cần đi bác sĩ khẩn cấp.

7- Tai đau và mắt nh́n thấy hai h́nh (song thị)

Lư do: có thể do tai giữa bị nhiễm khuẩn Nhận xét: Bệnh có thể trở thành nghiêm trọng bất ngờ v́ vậy cần đi bác sĩ cấp thời nếu chứng đau không dứt và/hoặc có bị thêm chóng mặt lảo đảo, nhức đầu, ói mửa, song thị, nửa ngủ nửa thức, cổ cứng đơ, sưng ở sau tai, sốt nhiều và liệt mặt.

8- Tự nhiên giảm sút kư

Lư do: có thể là do ung thư. Nhận xét: Nếu ăn uống vẫn b́nh thường như cũ mà đột nhiên bị sút cân th́ có thể là bị bệnh ác tính. Một nguyên nhân khác cũng có thể là do sự bất b́nh thường nội tiết (endocrinic abnormality) như bệnh tuyến giáp trạng (thyroid disorder), trầm cảm hay tiểu đường. Nên đi gặp bác sĩ ngay để chẩn đoán.

9- Đột nhiên đau háng

Lư do: có thể là do tinh hoàn bị xoắn Nhận xét: Đây là một khuyết tật bẩm sinh khá thông thường. Ống dẫn tinh trùng bị xoắn làm máu không chạy tới tinh hoàn. Cơn đau cũng giống như bị đá vào háng. Đôi khi ngoài cơn đau c̣n thấy bị sưng nữa. Trong ṿng 4 hay 6 tiếng th́ c̣n cứu đươc, chứ trễ từ 12 đến 24 tiếng th́ coi như phải cắt bỏ. Một nguyên nhân khác có thể là nhiểm khuẩn mào tinh hoàn (epididymis) tức là bộ phận trữ tinh trùng. Trong trường hợp này có thể dùng trụ sinh để chữa trị.

10 - Đau nhói gan bàn chân

Lư do: có thể là do bệnh thần kinh (neuropathy) . Nhận xét: Đau nhói cứ tái phát ở bất cứ chỗ nào trên cơ thể có thể là do sự nén ép dây thần kinh, tăng thông khí phổi (hyperventilation) hoặc bệnh thần kinh. Liên lạc với bác sĩ càng sớm càng tốt.

11- Vết thâm tím măi không tan Điều ǵ xẩy ra:

Lư do: bệnh tiểu đường. Nhận xét: Vết đứt hay thâm tím chậm lành có thể là dấu hiệu của bệnh tiểu đường (dấu hiệu khác gồm có da bị ngứa hoặc đau nhói bàn tay hay bàn chân). Nên t́m cách giảm cân (giảm 10 phẩn trăm trọng lượng ảnh hưởng đáng kể lên mức đường trong máu), tập thể dục và coi chừng thói quen ăn uống.

12 - Răng đau buốt khi ăn Sô-cô-la Điều ǵ sẽ xẩy ra:

Lư do: viêm lợi. Nhận xét: Một trong những dấu hiệu đầu tiên của sâu răng là nhạy cảm với đồ ngọt. Dấu hiệu đầu tiên khác là răng mất mầu và có mùi khi cà răng. Kỹ thuật laser có thể phát hiện sớm các ổ răng sâu và tiêu diệt các vi khuẩn trước khi làm sâu răng.

13 - Ṿng eo rộng 42 inch Điều ǵ sẽ xẩy ra:

Lư do: bất lực. Nhận xét: Có thể bây giờ chưa có vấn đề nhưng trong tương lai bạn có thể bị loạn năng cường dương (erectile disfunction) . Nguyên do là v́ khi đàn ông quá mập các động mạch thường hay bị nghẹt nên ḍng máu không đủ làm cho cương. Hăy tập thể dục đều cho đến khi eo thon lại, thắt vừa dây lưng 34 inch.

14 - Mắt thoáng không thấy ǵ - chỉ trong một giây

Lư do: có thể là do đột quỵ (stroke). Nhận xét: Các yếu tố rủi ro chính của đột quỵ là cao huyết áp (trên 140/90) và cholesterol toàn phần cao hơn 200. Bị tê một bên người và tạm thời hai mắt không nh́n thấy ǵ là những dấu hiệu đáng chú ư nhất. Đột nhiên bị tê, nói liú lưỡi, hay mất thăng bằng có thể là bẳng chứng của một cơn đột quỵ nhẹ gọi là đột quỵ thiếu máu cục bộ đoản kỳ (transient ischemic attack- TIA). Đột quỵ nhẹ này thường báo trước một đột quỵ thật sự nên khi có triệu chứng của TIA th́ phải gặp bác sĩ ngay.

15 - Có cảm giác như bị ợ nóng (heartburn)

Lư do: có thể là do chứng đau thắt (angina). Nhận xét: Đau ngực cả hàng giờ, lúc có lúc không, được bác sĩ gọi là "hội chứng mạch vành không ổn định" (unstable coronary syndrome). Nguyên nhân là v́ các cục đông máu đươc tạo thành bên trong thành động mạch vành ngay tại chỗ mảng (plaque) bị bể vỡ. Khoảng 50 phẩn trăm những người có hội chứng trên đây sẽ bị lên cơn đau tim trong ṿng 6 tháng sau. Mỗi khi thấy đau thắt ngực, cần phải đi bệnh viện.

16 - Đau lưng nhiều

Lư do: có thể là do chứng ph́nh mạch (aneurysm). Nhận xét: Đau cũng tương tự như vừa dọn dep xong tủ quẩn áo bề bộn. Thế nhưng chườm nóng, nghỉ ngơi, uống thuốc giảm đau thông thường lại không khỏi. Nếu không phải v́ tập thể dục th́ đau lưng bất chợt như vậy có thể là dấu hiệu của chứng ph́nh mạch. Chứng đau này chỉ hết khi động mạch chủ bị bể. Một nguyên nhân khác của chứng đau lưng này - kém phần nguy hiểm hơn - là sạn thận. Bác sĩ cho chụp CT scan để xác định vị trí và h́nh dạng của chỗ mạch ph́nh, sau đó cho uống thuốc huyết áp hay giải phẫu ghép nối nhân tạo.

17- Ngồi lâu trên ghế không yên

Lư do : có thể do các cơ lưng bị căng thẳng. Nhận xét : Nếu cứ phải thay đổi vị thế ngồi luôn tức là có dấu hiệu các cơ lưng bị căng thẳng và điều này có thể dẫn đến đau lưng dưới. Cẩn phải lựa chọn ghế ngồi cho thoải mái, sao cho đầu ở vị trí ngay đối với cột sống để giảm tối thiểu sức căng thẳng trên cổ, vai và lưng dưới.

18 - Bạn mới biết thân phụ bị cao huyết áp

Điều ǵ sẽ xẩy ra: bạn cũng sẽ bị cao huyết áp luôn. Nhận xét: V́ bệnh cao huyết áp vừa phải không có dấu hiệu bên ngoài nên cẩn phải đo huyếp áp mỗi năm một lần, nhất là nếu trong gia đ́nh có tiền sử bị cao huyết áp. Nghiên cứu cho thấy là những người bị căng thẳng tinh thần v́ cha mẹ mắc bệnh cao huyết áp cũng có nhiểu rủi ro bị bệnh này luôn. Nếu số đo huyết áp cao hơn 140/90, bạn nên tập thể dục nhiều hơn, t́m cách sụt cân, giảm sodium trong chế độ ăn uống, ăn loại cá tốt cho tim, uống nhiều vitamin C.

19 - Tay bị run khi tập thể dục

Lư do: có thể là do cơ bắp bị mỏi mệt. Nhận xét: Nếu bạn đă bỏ tập cả nhiều tháng th́ cơ bắp bị run có thể là v́ mệt mỏi. V́ vậy khi mới tập trở lại bạn nên tập vừa phải, đừng tập quá mệt. Bạn hăy ngưng tập khi cảm thấy các cơ bắp bắt đầu run.

20 - Trong bàn tiệc bạn thấy mọi thứ đều quay cuồng

Lư do: do bạn đă quá chén. Nhận xét: Rượu làm suy yếu hệ thần kinh trung ương. V́ vậy nếu bạn uống quá nhiều, tất cả những ǵ trong cơ thể có liên quan tới hệ này sẽ đều bị suy yếu: trí phán đoán, khí sắc, khả năng phối hợp và quân b́nh, sự nhạy cảm với đau đớn, khả năng sinh dục… Bạn nên tránh đừng uống rươu nhiều. Bạn nên nhớ là nếu nồng độ rượu trong máu hơn 0.06 phần trăm là trên pháp lư bạn đă bị coi như là say rượu.

21- Đau dai dẳng ở bàn chân và cẳng chân

Lư do: nhiều triển vọng là do gẫy xương v́ sức nén (stress fracture). Nhận xét: Cũng giống như các mô khác trong cơ thể, xương tự tái tạo. Nhưng nếu bạn tập thể dục quá mạnh, xương không có cơ hội để lành trở lại nên một vết gẫy v́ sức nén (stress fracture) sẽ có thể xuất hiện. V́ thế mu bàn chân và phiá trước cẳng chân sẽ đau dai dẳng. Bạn càng tập thể dục th́ càng đau và ngay cả khi ngưng nghỉ cũng đau. Uống thuốc ibuprofen hay paracetamol không ăn thua ǵ. Thuốc mầu phóng xạ cho thấy chỗ xương gẫy qua h́nh chụp tia X, và bác sĩ sẽ bắt bạn phải nghỉ tập cho đến khi xương lành. Trường hợp xấu nhất là bạn phải bó bột vài tuần.

22 - Đau như cắt ở bụng

Lư do: V́ vùng giữa xương sườn và háng có kẹt đầy các bộ phận nên đau có thể là triệu chứng hoặc của viêm ruột thừa, viêm tụy tạng hoặc của túi mật bị sưng. Cả ba trường hợp đểu có cùng một nguyên nhân : v́ một lư do nào đó các bộ phận này đă bị nhiễm khuẩn nguy hại đến tính mạng. Nhận xét : Nếu để bộ phận nói trên bể vỡ ra th́ bệnh nhân có thể bị chết, v́ vậy cẩn đi bệnh viện cấp thời.

23- Cẳng chân bị đau và sưng to

Lư do: có thể là do chứng huyết khối tĩnh mạch sâu (deep vein thrombosis –DVT). Nhận xét: Chỉ cẩn ngổi một chỗ liền chừng 6 tiếng hay hơn là máu sẽ tụ ở cẳng chân dưới tạo thành cục đông máu (gọi là chứng huyết khối tĩnh mach sâu). Cục đông máu đủ lớn sẽ làm nghẹt tĩnh mạch bắp chân gây đau và sưng. Xoa cẳng chân là điểu đầu tiên bạn sẽ làm nhưng cũng là điều tệ hại nhất v́ cục đông máu lớn có thể chạy ngược lên phổi, điều nầy gây nguy hiểm đến tính mạng của bạn. Muốn chụp h́nh tia X để định bệnh DVT bác sĩ phải chích chất mẩu vào tĩnh mach. Bác sĩ sẽ cho thuốc làm tan cục đông máu hoặc đặt cái lọc vào tĩnh mạch để chặn cục đông máu không cho chạy lên phổi.

24 - Tiểu tiện bị đau

Lư do: có thể là do ung thư bàng quang (bọng đái). Nhận xét: Rặn tiểu là cả một cực h́nh và nước tiểu lại có màu rỉ sắt. Đau và máu trong nước tiểu là hai triệu chứng của ung thư bàng quang. Hút thuốc là yếu tố rủi ro bị bệnh lớn nhất. Nếu khám phá sớm bệnh có 90 phẩn trăm triển vọng được chữa khỏi. Nhiễm khuẩn bàng quang cũng có cùng các triệu chứng như trên (Theo "24 warning signs you cannot afford to ignore").

(st) / MGP


Back to top

florida80
04-07-2019, 19:26
« Ăn uống đúng cách » vừa thoát bệnh, vừa cứu Trái đất

Ăn uống sai cách có hại cho sức khỏe là điều đông đảo mọi người ngày càng hiểu rơ. Tuy nhiên, c̣n ít người gắn liền việc ăn uống đúng cách, có lợi cho sức khỏe cá nhân, với việc bảo vệ môi trường tự nhiên, hay nói cách khác đối với « sức khỏe » của hành tinh.

Hôm thứ Tư vừa qua, trên The Lancet, tạp chí y học nổi tiếng Anh Quốc, 37 nhà khoa học (từ 16 quốc gia) công bố « Thực đơn lư tưởng » có tên gọi « Sức khỏe Hành Tinh / Planetary Health ». Nếu nhân loại thực hiện được thực đơn này, ít nhất sẽ có 11 triệu người thoát chết hàng năm, và đồng thời lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính sẽ giảm mạnh và đa dạng sinh học được bảo vệ.

Bí quyết của thực đơn này là ǵ ? Theo nghiên cứu được công bố trên The Lancet, Thực đơn lư tưởng hàng ngày gồm trung b́nh 300 gram rau, 200 gram quả, 200 gram hạt toàn phần các loại (gạo, ngô…), 250 gram sữa hoặc thực phẩm tương đương, nhưng chỉ có 14 gram thịt đỏ. Để bù vào lượng protein thiếu hụt, có thể thay thịt đỏ bằng thịt gia cầm (29 g), cá (28 g), trứng (13 g) hay các loại hạt có chứa nhiều protein, như hồ đào, óc chó… (50 g).


Tiêu thụ thịt ở quy mô lớn tại các nước giàu, các nhóm xă hội khá giả ở những nước đang phát triển không những gây tổn hại cho sức khỏe của chính người sử dụng mà cho cả môi trường, và là một nguồn khí thải gây hiệu ứng nhà kính quan trọng. Thay đổi lớn cần có trong chế độ ăn với cư dân các nước phát triển là tăng gấp bội lượng rau quả và các loại hạt, đồng thời giảm ít nhất là một nửa lượng thịt và đường, trong khẩu phần ăn hàng ngày. Cụ thể là với người Mỹ, trung b́nh cần giảm tiêu thụ « thịt đỏ » 20 lần so với hiện nay (đang ở mức 280 gram/ngày), với người Pháp, khoảng 3 lần (46 gram/ngày).

« Thay đổi triệt để chế độ ăn » là có thể

Giáo sư Tim Lang, Đại học Luân Đôn, người lănh đạo cuộc nghiên cứu nói trên, nhấn mạnh là trong vấn đề ăn uống, nhân loại đang phạm phải « những sai lầm nghiêm trọng ».

Tại các nước phát triển hay đang tăng trưởng mạnh, hàng loạt căn bệnh măn tính, như béo ph́, tiểu đường, huyết áp, hoặc một số loại bệnh ung thư là do chế độ ăn uống không đúng cách. Theo nghiên cứu nói trên, ăn uống thừa chất và không đúng cách là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu. Người chết do nguyên nhân này c̣n cao hơn cả tổng số người thiệt mạng do tiêu thụ rượu, thuốc lá, ma túy, quan hệ t́nh dục không được bảo vệ. Ước tính khoảng 2,4 tỉ dân cư thế giới đang sử dụng quá nhiều thực phẩm so với mức cần thiết.

Ngược lại với t́nh trạng ở các nước phát triển, tại phần c̣n lại của thế giới, hơn 800 triệu người hoặc thiếu ăn, hoặc phải sử dụng thực phẩm không bảo đảm chất lượng. Đây là nguồn gốc của nhiều bệnh tật và tử vong sớm.

Theo giáo sư Tim Lang, việc « thay đổi triệt để chế độ ăn » trong thế kỷ 21 là điều tuy khó, nhưng không phải là không thể được, bởi kinh nghiệm cho thấy chế độ ăn uống của con người đă thay đổi rất nhiều trong thế kỷ 20. Những ai có dịp sống qua nhiều thời kỳ, nhiều xă hội, nhiều điều kiện khác nhau, th́ ngay trong thời gian một đời người cũng có thể ghi nhận điều này.

Các nhà nghiên cứu không hy vọng toàn nhân loại áp dụng nhất loạt « Thực đơn lư tưởng » này. Chỉ cần áp dụng một phần t́nh trạng sức khỏe cá nhân và sức khỏe của hành tinh cũng có đă có những cải thiện trông thấy.

florida80
04-07-2019, 19:27
thể thao hiệu nghiệm như thuốc »

Thể dục, thể thao đều đặn thường xuyên là liều thuốc ngừa bệnh hiệu nghiệm nhất. Đó là kết quả kiểm chứng khoa học vừa được công bố.

Với tựa « thể thao hiệu nghiệm như thuốc », Le Figaro công bố kết quả nghiên cứu của Viện nghiên cứu y tế và khoa học Pháp Inserm. Sau hai năm nghiên cứu, với 1800 chương tŕnh khoa học chuẩn bị cho xu hướng lăo hóa tại Pháp, Inserm cho biết nếu tập luyện ba lần mỗi tuần và kiên nhẫn lâu dài, 10 loại bệnh kinh niên như tiểu đường loại 2, suyễn, béo ph́, suy tim có thể được cải thiện đến 25%.

florida80
04-07-2019, 19:28
XOA BÓP HUYỆT VỊ Ở CHÂN MỖI NGÀY,
HIỆU QUẢ DƯỠNG SINH HƠN THUỐC BỔ

Dưỡng sinh chân trần là một loại phương pháp rất đặc biệt, bởi vì lòng bàn chân có rất nhiều huyệt vị, đi lại bằng chân trần có thể kích thích huyệt vị lòng bàn chân, do đó dẫn đến hiệu quả dưỡng sinh bảo vệ sức khỏe. Đi bằng chân trần giúp tăng cường khả năng chống lạnh, khiến cơ thể ít sinh bệnh, còn có thể kích thích đầy đủ lòng bàn chân, do đó tăng cường khả năng của não bộ. Kích thích huyệt vị bàn chân thời gian dài sẽ làm tăng tuần hoàn máu, trị liệu bệnh ở chân cũng rất tốt.

NHỮNG ĐIỂM TỐT CỦA DƯỠNG SINH BẰNG CHÂN TRẦN:

1. CHÂN TRẦN LĂN QUẢ BÓNG TENNIS, GIẢM ĐAU LƯNG

Bạn có thể thử đem quả bóng tennis đặt ở dưới lòng bàn chân, chầm chậm lăn quả bóng từ gót chân đến ngón chân và ngược lại, làm trong 2-3 phút, là có thể làm giãn cơ vùng lưng và giảm đau nhức.

2. VỪA XEM TIVI VỪA GIẪM LÊN ĐẬU TƯƠNG, CÓ THỂ GIẢM BÉO BÀI ĐỘC

Ở phía trước ghế sô-pha rải một ít hạt đậu tương, sau đó mỗi ngày xem tivi thì đồng thời dùng chân trần dẫm lên. Bởi vì đậu tương có kích thước thích hợp, kích thích vừa phải lên huyệt vị lòng bàn chân, giúp tăng cường chuyển hóa, nên đạt được tác dụng bài độc đốt mỡ.

3. XƠ MƯỚP XÁT LÒNG BÀN CHÂN, LÀM ĐẸP DA

Mỗi ngày sau khi rửa chân xong lấy xơ mướp dùng sức xát lên lòng bàn chân, cho đến khi nóng thì dừng. Làm như vậy giúp tuyến thượng thận tăng cường bài tiết hooc-môn, dẫn đến giảm lắng đọng sắc tố, do đó khiến da trắng nõn mà đàn hồi.

4. TẬP QUẶP NGÓN CHÂN, GIÚP TĂNG CƯỜNG CHỨC NĂNG DẠ DÀY RUỘT

Nếu như chức năng dạ dày ruột suy nhược, thì bạn có thể tập luyện quặp ngón chân, hoặc tập dùng ngón 2 và ngón 3 để cặp đồ vật, như vậy sẽ kích thích kinh lạc, nếu kiên trì thực hiện thì các triệu chứng như tiêu hóa không tốt, táo bón, tiêu chảy sẽ được cải thiện.


3 PHƯƠNG PHÁP TẬP BÀN CHÂN

1. ĐẤM LÒNG BÀN CHÂN

Buổi tối trước khi đi ngủ dùng nắm đấm đấm vào lòng bàn chân, có thể tiêu trừ mệt nhọc của cả một ngày dài, tăng cường tuần hoàn máu toàn thân, khiến cho chức năng bài độc của nội tạng được nâng cao, tuần hoàn máu lưu thông không trở ngại, đồng thời tăng cường tốc độ thiêu đốt mỡ.

Cách làm: lấy lòng bàn chân làm trung tâm, tiến hành có tiết tấu, lực đấm sao cho hơi có cảm giác đau, đấm chừng 100 lần, khoảng 2 phút là hoàn thành.

2. ĐUNG ĐƯA HAI CHÂN

Tuần hoàn máu hai chân không tốt, sẽ dẫn đến mất cân bằng chức năng nội tạng và bài tiết hooc-môn, độc tố trong cơ thể không kịp thời loại bỏ, tốc độ trao đổi chất quá chậm dẫn đến tích lũy mỡ, gây béo phì. Chỉ cần kích thích vùng chân là có thể gia tăng tuần hoàn máu, tăng nhanh chuyển hóa.

Cách làm: Nằm ngửa trên giường hoặc sàn nhà, giơ hai chân lên, sau đó hai chân làm động tác như đạp xe đạp. Thực hiện 2 phút, sẽ khiến tuần hoàn máu thông suốt, thiêu đốt mỡ, ngoài ra còn có thể cải thiện giấc ngủ.

3. ĐI LẠI BẰNG CHÂN TRẦN

Ưu điểm lớn nhất của phương pháp này là khiến cho lòng bàn chân có cơ hội được rèn luyện, khi đi lại thì cố gắng để lòng bàn chân được kích thích, như đi chân trần trên nền đá cuội, hoặc chuẩn bị một tấm thảm có những chỗ gồ tròn mịn.

Đại Hải biên dịch Theo secretchina

florida80
04-07-2019, 19:29
HỘI CHỨNG RUỘT KÍCH THÍCH
(HCRKT=Irritable Bowel Syndrome=IBS)
BS Trần Minh Thiệu



HỘI CHỨNG RUỘT KÍCH THÍCH (HCRKT=Irritable Bowel Syndrome=IBS) là một rối loạn tiêu hoá chức năng đặc trưng bởi triệu chứng đau bụng và thay đổi thói quen đi tiêu mà không t́m thấy tổn thương thực thể nào. Osler đặt ra tên gọi “VIÊM ĐẠI TRÀNG NHẦY” vào năm 1892 khi ông viết về một rối loạn bao gồm đau bụng và tiêu phân nhày xảy ra với một tỷ lệ cao ở những bệnh nhân có bệnh tâm lư đi kèm. Kể từ đó, hội chứng này đă được gọi bằng nhiều thuật ngữ khác nhau như đại tràng co thắt, đại tràng kích thích, đại tràng thần kinh…

Một trong những bệnh lư đường ruột thường gặp nhất ở nước ta cũng như trên thế giới là HỘI CHỨNG RUỘT KÍCH THÍCH - IBS (Irritable bowel syndrome) (Viết tắc là HCRKT)
•Tỷ lệ mắc bệnh từ 5%- 20% dân số, tỷ lệ này thay đổi theo từng nghiên cứu, theo từng vùng dân cư. Tỷ lệ nữ mắc gấp hai lần nam giới, hoàn cảnh xă hội có ảnh hưởng tới sự phát sinh của HCKT.

•Ở Hoa Kỳ là khoảng 20% dân số mắc phải và chi phí điểu trị khoàng 8 tỷ đô la hàng năm .

•Ở Việt Nam chiếm tới 83,38% ở các người bệnh có vấn đề về tiêu hóa

•Các nước Âu Mỹ có tỷ lệ mắc IBS cao hơn ở châu Á và Trung Đông.

Bệnh không nguy hiểm đến tính mạng nhưng ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống, bệnh kéo dài làm người bệnh luôn lo lắng căng thẳng mất ngủ, luôn luôn lo sợ bị các bệnh hiểm nghèo khác của ruột.

1. HỘI CHỨNG RUỘT KÍCH THÍCH LÀ G̀?

Có nhiều nghiên cứu trên thế giới đă chứng minh HCRKT là rối loạn chức năng của ống tiêu hóa nhưng biểu hiện chủ yếu là các triệu chứng của đại tràng theo Thomson W.D.(1990) đă định nghĩa: Các rối loạn chức năng của ruột tái đi tái lại nhiều lần mà không t́m thấy các tổn thương về giải phẫu, tổ chức học, sinh hóa ở ruột gọi là HCRKT (irritable bowel sydrome - IBS).
Hiện nay, nhờ các thăm ḍ hiện đại về h́nh thái và chức năng của ruột trên thực nghiệm và lâm sàng đă dần làm sáng tỏ cơ chế điều chỉnh ống tiêu hóa chủ yếu là sự tác động qua lại giữa hệ thống thần kinh trung ương với hệ thống thần kinh ruột ( trục năo-ruột) - hệ thống mạng lưới thần kinh (plexuces) hoạt động cùng với nhau để thực hiện nhịp nhàng chức năng b́nh thường của ruột.

2. CƠ CHẾ SINH BỆNH CỦA HCRKT: GỒM 3 NỘI DUNG SAU.
•Sự cảm thụ bất thường chức năng ống tiêu hóa: Tăng tính nhậy cảm, nội tạng dễ kích thích.

•Thay đổi tính chịu đựng của ruột, giảm khả năng chịu áp lực của khối thức ăn ở một số đoạn ruột.

•Rối loạn vần động của ruột, tăng nhu động ruột gây ỉa chảy, giảm nhu động ruột gây táo bón.


3. CHẨN ĐOÁN HCRKT:

3.1. Triệu chứng lâm sàng:
•Rối loạn chức năng tiêu hóa có thể biểu hiện các triệu chứng lâm sàng trên toàn bộ ống tiêu hóa.

•Phần trên ống tiêu hóa: Hội chứng trào ngược dạ dày-thực quản, chứng khó tiêu, đầy tức bụng.

•Phần dưới ống tiêu hóa: Triệu chứng chủ yếu ở đại tràng (táo bón chức năng, ỉa chảy chức năng) được gọi là đại tràng co thắt, hoặc đại tràng bị kích thích, hoặc rối loạn chức năng đại tràng.

3.2. Tiêu chuẩn Rome III:

HCRKT được chẩn đoán dựa theo tiêu chuẩn Rome III. Năm 2006, hội nghị tiêu hóa quốc tế tại Rome đă đưa ra tiêu chuẩn chẩn đoán HCRKT như sau:

Đau bụng hoặc cảm giác khó chịu ở bụng kéo dài 12 tuần hoặc trong 12 tháng trước đó, không nhất thiết liên tục, kèm theo:
•Giảm đi sau đại tiện.

•Thay đổi h́nh dạng khuôn phân.

•Thay đổi số lần đi đại tiện.

Ngoài các triệu chứng trên có thể gặp thêm các triệu chứng không đặc hiệu nhưng gợi ư chẩn đoán HCRKT:
•Số lần đại tiện không b́nh thường (>3 lần/ngày hoặc <3lần/tuần).

•Phân không b́nh thường (lỏng, cứng, nhăo).

•Đại tiện có lúc phải chạy vội vào nhà xí, hoặc phải rặn nhiều,hoặc cảm giác đi chưa hết phân.

•Bụng chướng hơi, cảm giác nặng tức bụng.

•Phân có nhầy mũi nhưng không bao giờ có máu.

•Các triệu chứng không đặc hiệu trên luôn thay đổi theo thời gian, phụ thuộc vào chế độ và thức ăn đồ uống
•Nếu ăn uống các thức ăn không thích hợp ngay lập tức xuất hiện các triệu chứng rối loạn; nếu ăn kiêng các triệu chứng có thể hết.

HCRKT gồm nhiều triệu chứng cơ năng, các triệu chứng thay đổi, trong các triệu chứng có thể phân thành 2 thể loại:
•Các triệu chứng về tiêu hóa biểu hiện chính là đau bụng, bụng chướng hơi, rối loạn đai tiện, rối loạn phân.

•Các triệu chứng ngoài ống tiêu hóa phụ thuộc vào thời gian bệnh kéo dài: Đau đầu, mất ngủ, các triệu chứng về rối loạn tâm lư (lo lắng, sợ bệnh hiểm nghèo...).

3.3. Triệu chứng cận lâm sàng:
•Xét nghiệm máu b́nh thường.

•Xét nghiệm phân, cấy phân t́m vi khuẩn b́nh thường.

•Sinh thiết, xét nghiệm mô bệnh học đại tràng b́nh thường.

•Chụp X.Q khung đại tràng, b́nh thường hoặc có rối loạn co bóp nhu động
•Nội soi đại-trực tràng b́nh thường.

•Qua thăm khám và xét nghiệm có thể giúp chúng ta phát hiện một số triệu chứng báo động về bệnh lư thực tổn để chẩn đoán phân biệt với HCRKT.

Các triệu chứng báo động:
•Chán ăn, sụt cân.

•Thiếu máu.

•Sốt, tăng BC, tốc độ máu lắng tăng.

•Đại tiện phân có nhầy máu.

•Phân nhỏ dẹt thường xuyên.

•Các triệu chứng rối loạn phân mới xảy ra ở người > 40 tuổi.

•Tiền sử gia đ́nh có người bị ung thư đại tràng.

4. Chẩn đoán phân biệt: HCRKT với một số bệnh thường gặp.

4.1. HCRKT có ỉa chảy:
•Nhiễm trùng đường ruột.

•Suy giảm miễn dịch.

•Ung thư đại-trực tràng.

•U lympho ruột.

•Dị ứng thức ăn.

•Thiếu men lactase.

•Viêm loét đại trực tràng chảy máu.

•Viêm đại tràng vi thể.

•Hội chứng Crohn

4.2. HCRKT có táo bón - đau bụng nổi trội:
• U đại tràng.

•Bệnh to giăn đại tràng.

•U tụy.

•Ngộ độc ch́.

•Thoát vị.

•Bệnh sỏi mật và viêm túi mật.

•Rối loạn chuyển hóa porphyrine.

5. ĐIỀU TRỊ:

Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy bệnh nhân bị HCRKT dễ tăng nhu động ruột so với người b́nh thường, các triệu chứng thường tái đi tái lại, kéo dài nhiều năm, bệnh nhân phải đi khám bệnh nhiều nơi, tâm lư luôn ngờ vực, lo lắng sợ bệnh nặng, bệnh ác tính. Bác sĩ điều trị cần thiết lập mối quan hệ tin cậy, chắc chắn, kiên định với người bệnh, cần giải thích cho bệnh nhân hiểu thấu đáo về HCRKT làm nhẹ đi sự lo lắng từ các triệu chứng của chính họ, hướng dẫn họ điều trị chi tiết, cẩn thận, tạo ḷng tin cho người bệnh.

Một số lưu ư khi điều trị HCRKT:
•Điều trị theo triệu chứng nổi trội là hợp lư và hữu ích.

•Chưa có thuốc riêng biệt nào điều trị hết mọi triệu chứng của HCRKT.

•Điều trị có thể không làm dứt hẳn triệu chứng nhưng sẽ cải thiện tốt hơn chất lượng cuộc sống của người bệnh, các triệu chứng lâm sàng có thể giảm hoặc mất sau điều trị nhưng rất dễ tái phát.

•Không nên dùng thuốc kháng sinh, chỉ dùng kháng sinh khi có nhiễm khuẩn ruột.


ĐIỀU TRỊ CỤ THỂ:

5.1. Chế độ ăn rất quan trọng trong điều trị HCRKT:
•Khi đang có triệu chứng rối loạn tiêu hóa nên tránh ăn các thức ăn, nước uống không thích hợp.

•Thức ăn khó tiêu, dễ sinh hơi như: Khoai, sắn, bánh ngọt nhiều bơ, hoa quả có nhiều đường (cam, quưt, soài, mít...)
•Đồ uống nhiều đường và có gas, chất kích thích (rượu, cà fê, gia vị chua cay...)
•Những thức ăn để lâu, bảo quản không tốt
•Nếu có ỉa chảy tránh ăn qua nhiều thức ăn có nhiều chất xơ (rau muống, rau cải, dưa...).

5.2. Chế độ luyện tập rất cần thiết, phải kiên tŕ:
•Luyện tập chế độ đại tiện 1 lần trong ngày, xoa bụng buổi sáng khi ngủ dậy để gây cảm giác muốn đại tiện.

•Luyện tập thư giăn, khí công, tập thể dục, đi bộ thường xuyên.

5.3. Thuốc điều trị triệu chứng:
•Chống đau, giảm co thắt: Duspataline, No-spa, Spasfon...

•Chống táo bón: uống nhiều nước, ăn thức ăn nhiều chất xơ, thuốc nhuận tràng (Forlax, Tegaserod, Duphalac...)

•Chống ỉa chảy: Smecta, Actapulgite, Imodium....

•Chống sinh hơi: Meteospasmyl, pepsan, than hoạt...

•Thuốc an thần kinh: Rotunda, Seduxen, Dogmatyl...


XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ NẶNG CỦA HCRKT VÀ XỬ TRÍ (THEO GI-MIMS, 2005-2006):

A. Nhẹ:
•Triệu chứng không thường xuyên.

•Rối loạn tâm lư ít.

•Điều trị: Giáo dục về bệnh, ăn kiêng, chọn thức ăn thích hợp.

B. Trung b́nh:
•Triệu chứng thường xuyên, ảnh hưởng đến hoạt động b́nh thường.

•Suy giảm tâm lư.

•Triệu chứng nặng lên - t́m yếu tố thúc đẩy.

•Thay đổi nếp sinh hoạt, tâm lư liệu pháp, chế độ ăn kiêng.

•Dùng thuốc kiểm soát triệu chứng.

C. Nặng:
•Đau bụng thường xuyên.

•Suy giảm tâm thần tiềm ẩn.

•Điều trị như trên kết hợp với thuốc an thần hoặc thuốc tâm thần.

florida80
04-07-2019, 19:31
NỘI KHOA - NỘI TIẾT (ENDOCRINOLOGY)
12 Dấu Hiệu Chắc Chắn Của Bệnh Thận


(Theo Sina Health)


Làm thế nào để phát hiện sớm và điều trị kịp thời bệnh thận? Giáo sư Vương Bạo Khôi ở Trung Quốc đă đưa ra 12 dấu hiệu rơ ràng nhất. Vào thời kỳ đầu của bệnh thận, người bệnh ít cảm thấy đau đớn. Do đó, những dấu hiệu manh nha của những căn bệnh này thường dễ dàng bị bỏ qua. Mới đây, trang Sina Health đă phỏng vấn chuyên gia đầu ngành về thận – giáo sư Vương Bạo Khôi về vấn đề này.


Quote:
Sơ Lược Thông Tin về Giáo sư Vương Bạo Khôi:

Giáo Sư Vương Bạo Khôi được coi là nhân tài ưu tú của Y học Trung Quốc hiện tại, Ông hiện là Bác Sĩ và là Giám đốc bệnh viện thận Đông Phương trực thuộc Đại học Y Dược Bắc Kinh. Bên cạnh đó, ông c̣n đảm nhiệm chức Phó chủ nhiệm Ủy ban nghiên cứu thận tại Bắc Kinh, nguyên là ủy viên ban thường vụ của Hiệp hội Y khoa nghiên cứu về bệnh thận trong nước.


Chia sẻ về những dấu hiệu đầu của các bệnh về thận, giáo sư Vương Bạo Khôi cho biết: "Nhiều người bị mắc các căn bệnh này chỉ tiến hành thăm khám khi cảm thấy cơ thể không khỏe mạnh. Do đó, phần lớn bệnh t́nh của họ đều được phát hiện khi đă vào giai đoạn nghiêm trọng, thậm chí có trường hợp nguy hiểm đến t́nh mạng, phải tiến hành lọc máu".

Dưới đây là danh sách 12 dấu hiệu báo trước những thay đổi về t́nh trạng của thận được đưa ra bởi giáo sư - bác sĩ đầu ngành Vương Bạo Khôi.

CƠ THỂ VÀ TINH THẦN BẤT THƯỜNG

Khi công năng thận có biểu hiện không tốt, nhiều chất cặn bă sẽ không được bài tiết qua đường nước tiểu. Sự ứ đọng của các chất này sẽ khiến tinh thần mệt mỏi, cơ thể bải hoải, cả người cảm thấy như không c̣n chút sức lực.

Nếu thận có bệnh, protein và các chất dinh dưỡng khác sẽ bị ṛ rỉ qua đường nước tiểu, làm cho cơ thể mất sức.

Tuy nhiên, dấu hiệu này có thể bị nhiều người nhầm lẫn với t́nh trạng lao lực quá độ hay một vài nguyên nhân khác. Cũng v́ thế, sự bất thường về cơ thể và tinh thần này dễ bị các bệnh nhân bỏ qua.

CHÁN ĂN

Không có cảm giác thèm ăn, kén ăn, thậm chí nôn mửa cũng được coi là một số dấu hiệu sớm của bệnh thận.

Khi rơi vào t́nh trạng này, nhiều người thường chủ động xét nghiệm, khám về đường tiêu hóa hoặc chuyên khoa gan.

Nếu dạ dày và gan không phát hiện vấn đề khác lạ, không thể loại trừ khả năng các căn bệnh về thận là nguyên nhân gây nên những triệu chứng này.

NƯỚC TIỂU CÓ BỌT

Bọt xuất hiện trong nước tiểu có thể bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có bệnh thận.

Khi công nặng thận gặp rối loạn, protein trong cơ thể sẽ bị thoát ra từ đường nước tiểu, tạo thành các bọt có thể phát hiện bằng mắt thường.

ĐAU THẮT LƯNG

Vị trí của thận nằm ở hai bên của cột sống. Khi thận mắc bệnh, cơ thể sẽ được báo hiệu bằng những cơn đau ở vùng thắt lưng.

LƯỢNG NƯỚC TIỂU BẤT THƯỜNG

Người khỏe mạnh thường đi tiểu từ 4 - 6 lần/ngày và thải ra khoảng 800 – 2000ml nước tiểu.

T́nh trạng nước tiểu quá nhiều hoặc quá ít là một trong những dấu hiệu báo trước các chứng bệnh liên quan đến thận.

PHÙ NỀ

Uống quá nhiều nước hoặc ngủ nhiều là những nguyên nhân phổ biến gây ra t́nh trạng phù nề ở mặt, mí mắt, chân tay hoặc một số bộ phận khác.

Tuy nhiên, ít ai biết rằng, các bệnh về thận cũng là một trong số những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng phù nề.

NƯỚC TIỂU ĐỤC NHƯ L̉NG TRẮNG TRỨNG HOẶC ĐI TIỂU RA MÁU

Đây được xem là hai dấu hiệu nổi bật giúp người bệnh có thể sớm phát hiện các bệnh về thận. Khi bắt gặp t́nh trạng này, chúng ta nên nhanh chóng tiến hành thăm khám.

Lưu ư: một số thầy thuốc không thuộc chuyên khoa thận thường bỏ qua hai dấu hiệu nguy hiểm này. Do đó, người bệnh cần thăm khám đúng chuyên khoa tại các bệnh viện uy tín để có được kết quả chính xác nhất và tiến hành điều trị kịp thời.

THIẾU MÁU

Một trong số những nguyên nhân phổ biến gây ra thiếu máu chính là do các vấn đề về thận.

Bên cạnh công năng bài tiết, thận c̣n có vai tṛ điều ḥa nội tiết và các hormone trong máu. Do đó, khi cơ quan này rơi vào t́nh trạng rối loạn chức năng, người bệnh có thể bị chứng thiếu máu.

TIỂU ĐƯỜNG

Bệnh thận đái tháo đường là nguyên nhân chiếm vị trí thứ nhất của suy thận mạn ở các nước phương Tây. “Cầu thận đái tháo đường” là tên bệnh dùng để chỉ những tổn thương cầu thận thứ phát do tiểu đường gây nên.

Do đó, các bệnh nhân đái tháo đường nên điều trị kịp thời để tránh các biến chứng như urê huyết hay một số chứng bệnh về thận.

CAO HUYẾT ÁP

Nhiều nghiên cứu đă chỉ ra rằng chứng tăng huyết áp gây ra suy thận và ngược lại, suy thận có thể gây nên tăng huyết áp.

Do đó, vấn đề đặt ra là phải kiếm soát được huyết áp để tránh bị suy thận, và cần điều trị tốt suy thận mới có thể hạn chế được tăng huyết áp.

BỆNH GOUT VÀ TĂNG ACID URIC MÁU

Axit uric máu tăng cao sẽ gây ra tăng huyết áp và biến chứng suy thận.

Gout là một bệnh khớp do rối loạn chuyển hoá, gây ra bởi t́nh trạng lắng đọng các tinh thể urat ở các mô của cơ thể, do tăng acid uric trong máu.

Hàm lượng uric quá cao trong máu sẽ khiến acid uric gây ra chứng cao huyết áp hoặc lắng đọng ở thận, làm tổn thương chức năng của cơ quan này.

NHIỄM TRÙNG ĐƯỜNG TIẾT NIỆU

Người bệnh bị nhiễm trùng đường tiết niệu thường xuyên và kéo dài có thể dẫn đến chứng suy thận.

Giáo sư Vương Bạo Khôi cho biết, ông từng tiếp xúc với nhiều bệnh nhân bị nhiễm trùng đường tiết niệu. Đa số họ đều tiến hành điều trị muộn và không triệt để nên thường rơi vào t́nh trạng suy giảm chức năng thận.

florida80
04-07-2019, 19:32
PHƯƠNG PHÁP "ĐƠN GIẢN" ĐỂ G̀N GIỮ SỨC KHỎE:
Uống 1 ly Nước Ấm vào Buổi Sáng khi thức dậy
(Nguồn: MyiLife)


ĐIỀU G̀ XẢY RA VỚI CƠ THỂ KHI BẠN "UỐNG NƯỚC ẤM" LÚC ĐÓI VÀO MỖI SÁNG?

Nhiều người thường bắt đầu ngày mới với một tách trà nóng hay cà phê. Nhưng bạn có biết rằng, uống một cốc nước lọc ấm mỗi sáng sẽ rất có lợi cho bạn.

Uống nước ấm khi dạ dày trống rỗng vào mỗi buổi sáng có nhiều tác dụng tích cực đối với cơ thể của bạn, bao gồm cả thúc đẩy tiêu hóa, loại bỏ độc tố khỏi cơ thể, giảm đau, cải thiện lưu thông...

Dưới đây là những ǵ sẽ xảy ra khi bạn uống nước ấm mỗi sáng khi đang đói:

1) Giải độc cho các cơ quan trong cơ thể

Uống một cốc nước nóng vào buổi sáng có thể loại bỏ các độc tố nguy hiểm từ cơ thể của bạn. Nước và các chất lỏng khác có tác phân hủy thức ăn trong dạ dày và thúc đẩy tiêu hóa. Bởi vậy, ngay cả sau bữa ăn, thay v́ uống nước lạnh, bạn hăy uống nước ấm để cải thiện quá tŕnh tiêu hóa.

2) Cải thiện sự trao đổi chất

Nếu bạn bị đau dạ dày, hăy uống một cốc nước ấm vào buổi sáng trước khi ăn sáng. Điều này sẽ cải thiện sự trao đổi chất và cơ thể của bạn sẽ hoạt động đúng cách. Hơn nữa, uống nước ấm lúc này sẽ làm dịu các chứng đau dạ dày và giúp bạn cảm thấy dễ chịu.

3) Giúp giảm đau

Những cơn đau do chuột rút trong thời ḱ kinh nguyệt có thể được xoa dịu bằng cách uống nước ấm. Trên thực tế, đây là một phương thuốc tự nhiên mà vẫn có tác dụng. Nước ấm làm giăn các cơ bắp của dạ dày và giúp làm dịu cơn đau. Uống nước ấm không chỉ tốt cho những cơn đau do chuột rút trong ḱ kinh nguyệt mà c̣n có tác dụng đối với bất ḱ cơn đau do chuột rút ở thời điểm nào v́ nước ấm khi vào cơ thể giúp cải thiện lưu thông mao mạch và làm thư giăn các cơ bắp.

4) Giúp giảm cân

Uống một cốc nước ấm vào buổi sáng có thể giúp bạn giảm cân nhanh hơn. Lư do là bởi v́ nước ấm làm tăng nhiệt độ của cơ thể và các cơ quan bên trong cơ thể. Điều này dẫn đến khả năng đốt cháy nhiều calo hơn. Uống nước ấm cũng có tác dụng tích cực đối với hoạt động thận và các cơ quan bài tiết nên sẽ giảm t́nh trạng tích nước trong cơ thể, dẫn đến tăng cân.

5) Làm chậm quá tŕnh lăo hóa

Không ai thích lăo hóa sớm và nhanh già, đặc biệt là phụ nữ. May mắn thay, nguy cơ này có thể tránh được bằng cách uống nước ấm mỗi sáng. Độc tố trong cơ thể thúc đẩy quá tŕnh lăo hóa, nhưng uống nước ấm mỗi sáng lại giúp loại bỏ độc tố ra ngoài một cách hiệu quả. Nhờ đó, việc làm này cũng có tác dụng làm chậm quá tŕnh lăo hóa. Ngoài ra, uống nước ấm c̣n cải thiện độ đàn hồi của da, giúp bạn luôn có làn da sáng, khỏe mạnh và giảm nếp nhăn.

florida80
04-07-2019, 19:33
CHỨNG SỢ TUỔI GIÀ (GERASCOPHOBIA)


Do những hoàn cảnh nhất định, một số người có biểu hiện sợ tuổi già một cách bất thường và dai dẳng, mà y văn gọi là CHỨNG SỢ TUỔI GIÀ (GERASCOPHOBIA). Những người này sợ một cách thái quá dù đang trong t́nh trạng khỏe mạnh và no đủ về vật chất. Họ lo lắng nhan sắc phai tàn đi kèm với bệnh tật triền miên. Họ sợ ḿnh sẽ không c̣n được tự do đi lại, phải sống cuộc sống thụ động và phụ thuộc chẳng khác nào bị “giam lỏng” trong nhà sau khi về hưu. Những quan điểm tiến bộ của xă hội về sắc đẹp và tuổi già cũng không có tác dụng làm vơi đi nỗi sợ của họ. Thuật ngữ “GERASCOPHOBIA” có xuất xứ từ tiếng Hy Lạp, gồm “GERAS” nghĩa là tuổi già và “PHOBOS” là nỗi sợ. GERASCOPHOBIA là một chứng sợ lâm sàng thường được xếp vào nhóm các chứng sợ cụ thể, tức nỗi sợ được kích hoạt bởi một nhân tố, vật thể hoặc hoàn cảnh cụ thể nhất định.

Chứng sợ tuổi già thường khởi đầu bằng những nỗi lo sợ bị bỏ mặc, mất khả năng lao động và tự chăm lo cho bản thân. Phần lớn các đối tượng mắc chứng sợ này là những người c̣n trẻ và khỏe mạnh.

TRIỆU CHỨNG CỦA CHỨNG SỢ TUỔI GIÀ

Các triệu chứng bao gồm việc đánh mất vẻ đẹp ngoại h́nh, lo sợ tương lai, sợ phải phụ thuộc vào người khác trong sinh hoạt hằng ngày, và sợ mất đi vị trí xă hội khi về già.

Những biểu hiện cụ thể:
•Sống tách biệt với hiện thực;

•Thường xuyên lo âu, sợ hăi mà không rơ nguyên nhân;

•Khó thở;

•Đổ mồ hôi nhiều;

•Buồn nôn;

•Miệng khô;

•Cơ thể run rẩy;

•Tim đập nhanh;

•Không thể giao tiếp hoặc suy nghĩ một cách b́nh tĩnh, lưu loát;

•Sợ chết.

Đặc điểm chung của chứng sợ tuổi già

Những người mắc phải chứng sợ này luôn thường trực nỗi lo nhan sắc và sức khỏe giảm sút khi tuổi cao, từ đó dẫn đến e sợ tương lai. Nhờ khả năng tự lập mà con người có được sự tự tin, v́ vậy càng lớn tuổi, họ càng cảm thấy mất dần sự tự tin đó khi phải thường xuyên nhờ sự hỗ trợ của người khác để thực hiện những sinh hoạt hằng ngày. Khi nỗi sợ này lớn dần, người bệnh có xu hướng tách biệt với cuộc sống hằng ngày và tự cô lập ḿnh. Đây thực sự là một chứng sợ đáng quan tâm trong thời đại ngày nay, khi mà giá trị của sắc đẹp và sự trẻ trung luôn được truyền thông đề cao. Xă hội ca ngợi tuổi trẻ đến mức khiến cho người ta dễ đánh đồng tuổi già với sự vô dụng. V́ vậy, ở một góc độ nhất định, có thể thấy việc con người ngày nay trở nên nhạy cảm với tuổi già là một điều dễ hiểu, khi chính xă hội cũng góp phần tạo ra áp lực đó.

CHỨNG SỢ TUỔI GIÀ Ở PHỤ NỮ

Nhan sắc luôn là một trong những mối quan tâm hàng đầu của phụ nữ, nhất là trong thời đại ngày nay, với sự ra đời của những công nghệ làm đẹp như mỹ phẩm và phẫu thuật thẩm mỹ. Đồng thời, nỗi lo về tuổi tác và sự tàn phá của thời gian cũng tăng theo. Hầu hết phụ nữ thường bị ám ảnh bởi quan niệm già nua là xấu xí, mà một phần trong đó có sự tác động không nhỏ của xă hội.

Bên cạnh những đặc điểm chung đă đề cập ở phần trên, chứng sợ tuổi già ở phụ nữ c̣n có những nguyên nhân do đặc thù giới tính. Ngoài việc mất dần sức hấp dẫn bên ngoài do tuổi tác, phụ nữ càng lớn tuổi th́ khả năng sinh con càng giảm sút và tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Đối với phụ nữ c̣n độc thân, tuổi cao là một trở ngại lớn trong việc t́m kiếm bạn đời, chưa kể đến ảnh hưởng từ định kiến xă hội. Thực tế cũng chứng minh, ngay ở kinh đô điện ảnh Hollywood, trong khi tài tử George Clooney vẫn liên tục được xướng tên trong danh sách những người đàn ông hấp dẫn nhất hành tinh hằng năm dù nam diễn viên này đă 50 tuổi; th́ nữ diễn viên Glenn Close – một biểu tượng t́nh dục trên màn bạc được các đấng mày râu ngưỡng mộ vào thập niên 80-90 – nay đă không c̣n được xem là hấp dẫn ở độ tuổi ngoài lục tuần.

Ngoài ra, các thống kê cho thấy phụ nữ càng lớn tuổi càng đối mặt với nhiều nguy cơ về bệnh tật, đặc biệt là ung thư, như ung thư vú, ung thư buồng trứng hay ung thư ruột kết. Về mặt xă hội, việc phải sống phụ thuộc cũng sẽ khiến cho phụ nữ khi về già có nhiều nguy cơ đối mặt với những khó khăn hoặc tranh chấp về mặt tài chính, gia đ́nh hay nhà ở.

ĐIỀU TRỊ CHỨNG SỢ TUỔI GIÀ

Cũng như đối với những chứng rối loạn lo lắng khác, người mắc chứng sợ tuổi già cần phải đến bác sĩ và làm theo các chỉ dẫn để t́m ra phương pháp điều trị phù hợp nhất với ḿnh. Bằng các phương pháp trị liệu và tham vấn, bệnh nhân được tạo điều kiện bày tỏ căn nguyên của nỗi sợ và những ǵ dẫn đến nỗi sợ đó. Các phương pháp điều trị thường gặp đối với chứng sợ tuổi già là dùng thuốc chống trầm cảm, áp dụng liệu pháp hành vi, tái hiện kư ức, các kĩ thuật thư giăn và các liệu pháp hồi phục tinh thần. Bệnh nhân thường sợ rằng họ sẽ mất dần vai tṛ chủ động và vị trí xă hội khi về già, c̣n các chuyên gia điều trị sẽ giúp họ nhận ra rằng về hưu không phải là dấu chấm hết, rằng có một cuộc sống thú vị khác sau khi nghỉ hưu.

Đối với những phụ nữ sợ tuổi già, chị em cần học cách chấp nhận tuổi già như một quy luật tất yếu và không thể tránh khỏi của cuộc sống. Thay v́ để cho tâm trí bị ám ảnh bởi những nếp chân chim, hăy nghĩ về những việc có ích, những điều hay lẽ phải ḿnh đă làm được trong cuộc sống và hăy tự hào v́ điều đó. Thay v́ để cho cảm giác nuối tiếc lấn át, chị em cần h́nh thành quan niệm rằng con người được sinh ra để làm những việc có ích phù hợp với mỗi giai đoạn của cuộc đời và tuổi già không đồng nghĩa với sự vô dụng. Hăy sống một cuộc sống năng động, làm những công việc ưa thích như đọc sách, xem phim, hoặc đi chơi, tham gia các hoạt động xă hội với bạn bè thuộc đủ mọi lứa tuổi.

Luôn ǵn giữ một lối sống lành mạnh và chủ động, th́ dù tuổi đă cao, chúng ta vẫn có thể sống ích cho gia đ́nh và xă hội, bằng cách này hay cách khác.

florida80
04-07-2019, 19:35
HỒI SINH CAO CẤP TRẺ SƠ SINH VÀ NHI ĐỒNG
(EUROPEAN PEDIATRIC LIFE SUPPORT)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH

NHẬP ĐỀ
NHỮNG NGUYÊN NHÂN CỦA NGỪNG TIM-HÔ HẤP
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM Ở TRẺ EM



Quote:

Những mục tiêu


Cuối chương này, các bạn hẳn có thể :
• Thảo luận và so sánh căn nguyên của ngừng tim-hô hấp của trẻ em và người lớn.

• Thảo luận tiên lượng của ngừng tim nguyên phát và thứ phát.

• Biết những đặc điểm cơ thể học, sinh lư và thần kinh của nhũ nhi và trẻ em.



I. NHỮNG NGUYÊN NHÂN CỦA NGỪNG TIM HÔ HẤP

Những nguyên nhân của ngừng tim-hô hấp của trẻ em không giống với người lớn do những khác nhau về sinh lư học, cơ thể học và bệnh lư học. Những khác nhau này thay đổi trong thời kỳ tăng trưởng, thời kỳ sơ sinh, vào tuổi ấu thơ (bao gồm tuổi thiếu niên) và cho đến tuổi trưởng thành.

Ngừng tim nguyên phát do một loạn nhịp tim loại rung thất hay tim nhịp nhanh thất vô mạch là thường xảy ra hơn ở người lớn. Sự xuất hiện đột ngột và không tiên đoán được, phản ánh bệnh tim nội tại. Khử rung sớm là điều trị của rung thất. Mỗi phút mất di trước khi khử rung làm giảm những khả năng trở lại một tuần hoàn ngẫu nhiên 10%.

Ngừng tim thứ phát thường xảy ra hơn ở trẻ em và phản ánh một quá tŕnh tận cùng khi bệnh nguyên không được kiểm soát. Nhịp trước tận cùng (rythme préterminal) thường xảy ra nhất là tim nhịp chậm dẫn đến vô tâm thu hay hoạt động điện vô mạch.

Những nhịp này không phải do một bệnh của tim nhưng do một chức năng tim bất b́nh thường, hậu quả của một giảm oxy mô (hypoxie tissulaire) nghiêm trọng dẫn đến một loạn năng cơ tim (dysfonction myocardique). Điều này có thể là do một suy hô hấp với oxygénation không thích đáng hay một hạ huyết áp do một bất túc tuần hoàn. Lúc khởi đầu, cơ thể thực hiện một đáp ứng sinh lư thích ứng nhằm bảo vệ tim và năo bộ khỏi t́nh trạng giảm oxy mô, dẫn đến một t́nh huống suy hô hấp hay tuần hoàn bù (insuffisance respiratoire ou circulatoire compensée).Tuy nhiên, cơ thể cuối cùng bị kiệt quệ.

Đó là giai đoạn suy hô hấp hay tuần hoàn mất bù (insuffisane respiratoire ou circulatoire décompensée) tùy theo nguyên nhân gây bệnh. Hai loại suy hô hấp và tuần hoàn có thể hiện diện đồng thời. Khi t́nh huống trở nên nghiêm trọng, suy hô hấp và/hoặc tuần hoàn dẫn đến suy tim-hô hấp và sau đó dẫn đến ngừng tim-hô hấp (bảng 1).


UserPostedImage

Bảng 1. Những hậu quả của một suy hô hấp hay tuần hoàn tiến triển không được điều trị ở nhũ nhi và trẻ em.


II. TIÊN LƯỢNG

Tiên lượng của hồi sinh khi ngừng tim-hô hấp là u tối, nhất là nếu ngừng kéo dài. Sự nhận biết những t́nh huống đi trước ngừng tim-hô hấp và sự điều trị nó một cách thích đáng là thiết yếu. Sự nhận biết và hồi sinh một đứa bé ngừng hô hấp (giai đoạn cuối cùng của suy hô hấp mất bù) mà tim vẫn đập được liên kết với một tỷ lệ sống c̣n lâu dài 50 đến 70% trong khi tỷ lệ sống sót không di chứng thần kinh của một đứa bé ngừng tim hô hấp là dưới 5%. Những nguyên nhân của các bệnh của trẻ em so với những bệnh của người lớn phải được đặt tương quan với những khác nhau về sinh lư và cơ thể học.Những khác nhau này hàm ư một tŕnh tự ưu tiên điều trị căn cứ trên A• đường dẫn khí (với sự bất động cột sống cổ trong chấn thương Ac), B-hô hấp (Breathing), C-tuần hoàn và D-trạng thái tâm thần (Disability). Phương tiện để nhớ ABCD chỉ ưu tiên dành cho những giai đoạn chủ yếu của xử trí về mặt đánh giá và điều trị, có thể áp dụng cho tất cả các trẻ em. Phương pháp này cho phép cứu sống.

III. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA TRẺ EM

A. ĐƯỜNG DẪN KHÍ.

1. MŨI VÀ HẦU

Vào lúc sinh, nắp thanh môn (épiglotte) nằm ở mức cột sống cổ thứ nhất, nghĩa là nằm cao và rất về phía trước. V́ lư do này đường dẫn khí đặc biệt dễ bị tắc do đè ép bên ngoài của các mô mềm.

Nhũ nhi bắt buộc phải thở bằng mũi cho đến 6 tháng tuổi. Do đó, năng lực mà nó có thể tiêu xài khi bị tắc mũi (ví dụ do những chất tiết v́ bị nhiễm trùng hô hấp) có thể đáng kể và dẫn đến suy hô hấp. Những lư do cơ học như atrésie des choanes, tắc gây nên bởi một ống thông mũi-dạ dày hay do sparadrap làm tắc các lỗ mũi, có thể gây nên một chướng ngại đáng kể đối với không khí đi qua mũi.

2. TƯƠNG QUAN GIỮA ĐẦU VÀ CỔ.

Về mặt tỷ lệ, đầu của trẻ sơ sinh là lớn so với thân ḿnh của nó. Được kết hợp với một xương chẩm tương đối dô ra, nên ở tư thế nằm đầu có khuynh hướng gập lên cổ, điều này dẫn đến tắc thanh quản, vốn mềm mại. Tuổi càng lớn, về mặt tỷ lệ, đầu càng trở nên nhỏ hơn so với ngực và cổ dài ra, và thanh quản trở nên đề kháng hơn với áp lực bên ngoài. Mặt và miệng của nhũ nhi v́ hẹp so với lưỡi có kích thước lớn, nên lưỡi làm tắc dễ dàng đường khí của đứa bé trong t́nh trạng mất tri giác. Sàn miệng dễ đè ép, điều này có thể gây nên tắc đường khí nếu ta không áp dụng những biện pháp thận trọng khi mở đường khí.

3. THANH QUẢN

Ở nhũ nhi thanh quản nằm cao so với thanh quản của người lớn (ở người lớn thanh quản nằm ở mức các đốt sống cổ thứ 5 hay 6). Nắp thanh môn (épiglotte) cong h́nh chữ U lồi ra trong hầu với một góc 45 độ ; các dây thanh âm ngắn.

Dưới 8 tuổi, phần hẹp nhất của thanh quản là sụn nhẫn (cartilage cricoide) trong khi sau 8 tuổi, thanh quản có h́nh trụ cho đến tận các phế quản gốc.

Những đặc điểm cơ thể học này có những hàm ư về thực hành sau đây :
• Các thủ thuật khai tắc một vật lạ có thể thất bại ở trẻ em nhỏ tuổi bị tắc đường dẫn khí một phần, với nguy cơ biến đổi tắc một phần thành tắc hoàn toàn. Vật lạ có thể kẹt vào phần hẹp nhất của thanh quản, nghĩa là ở mức sụn nhẫn.

• Khi đưa vào lưỡi đèn thanh quản, việc kiểm soát lưỡi tương đối lớn có thể khó khăn và sự xê dịch của lưỡi về phía sau có thể gây tắc đường dẫn khí do vị trí cao của nắp thanh môn và thanh quản.

• Vị trí đầu (position céphalique) của thanh quản tạo một góc nhọn giữa khẩu hầu và thanh môn (glotte). Điều này làm cho việc nh́n trực tiếp thanh môn khó khăn với một đèn soi thanh quản. Do đó để nh́n dễ dàng hơn, hăy dùng một lưỡi thẳng (lame droite) hơn là một lưỡi cong (lame courbe).

• Việc đưa vào ống thông khí quản có thể bị trở ngại bởi commissure trước của các dây thanh âm, nằm cao hơn so với commissure postérieure.

• Một ống thông khí quản không có quả bóng có thể được sử dụng ở trẻ em dưới 8 tuổi v́ lẽ kích thước của ống thông được xác định bởi phần hẹp nhất của đường khí, nghĩa là ở mức ṿng sụn nhẫn. Một ống thông có kích thước đúng đắn cho phép đóng kín vùng sụn nhẫn, điều này cho phép thông khí áp lực dương mà không quá gây ṛ quanh ống thông. Một ống thông khí quản quá nhỏ gây nên ṛ khí, liên kết với một sự thông khí không hiệu quả. Cho đến cách nay ít lâu, các ống thông có quả bóng (sonde à ballonnet) bị chống chỉ định ở trẻ em dưới 8 tuổi. Tuy nhiên người ta đă chứng minh rằng khi ống thông có quả bóng có kích thước thích đáng và khi áp suất quả bóng được theo dơi, nó có thể được sử dụng ở trẻ nhỏ (xem chương 3)


Đường dẫn khí của trẻ em và nhũ nhi hẹp hơn so với đường dẫn khí của người lớn. Do đó nhũ nhi đặc biệt nhạy cảm với phù nề. Đường kính tuyệt đối của đường dẫn khí cũng nhỏ hơn, các nhiễm trùng hô hấp gây nên một tỷ lệ tử vong quan trọng hơn ở các trẻ em so với người lớn. Các hậu quả của phù nề có thể hiểu được do áp dụng định luật Poiseuille. Định luật này đặt sự liên hệ giữa sức cản của một khí lưu thông trong ống với chiều dài của nó, viscosité của chất khí và đường kính ống dẫn theo công thúc sau đây :


UserPostedImage


Một sự giảm nhẹ đường kính của đường dẫn khí có một ảnh hưởng quan trọng lên lưu lượng oxy và CO2 qua hệ hô hấp.

B. HÔ HẤP

Các lá phổi không được thành thục vào lúc sinh với một interface khí-phế nang 3m2 so với 70m2 ở người lớn. Số lượng những đường dẫn khí nhỏ gia tăng 10 lần giữa lúc sinh và tuổi trưởng thành. Vào lúc sinh, sự mở của các phế nang của một trẻ sơ sinh sinh non có thể bị biến đổi bởi một thiếu hụt surfactant. Sự cho surfactant ngoại tại có thể cho phép mở các phế nang và sau đó việc duy tŕ sự mở này có thể cần thiết.

Cơ học thông khí (mécanique ventilatoire) thay đổi với tuổi tác. Ở nhũ nhi, các xương sườn có thể uốn nắn và các cơ gian sườn tương đối yếu và không hiệu quả so với cơ hoành. Điều này đóng một vai tṛ quan trọng trong động lực học hô hấp (dynamique respiratoire) của trẻ nhỏ. Cơ hoành là cơ chủ yếu của thông khí nhũ nhi và cử động của nó về phía dưới lúc thở vào kéo ngực về phía bụng điều này tạo nên một effet de vide cho phép mang không khí vào đường hô hấp trên và trong hai lá phổi. Những chướng ngại vật lư đối với sự co cơ hoành có thể có nguồn gốc ở bụng (căng trướng dạ dày, tràn khí phúc mạc, tắc ruột) hay nguồn gốc ở phổi (tăng phồng trong trường hợp viêm tiểu phế quản, hen phế quản hay hít vào một vật lạ) và có thể dẫn đến một thông khí không có hiệu quả.

Ở trẻ lớn hơn, các cơ gian sườn được phát triển hơn và góp phần một cách đáng kể vào cơ học thông khí ; các xương sườn cốt hóa và biến hóa thành một cấu trúc cứng, trở nên đề kháng hơn trong trường hợp détresse respiratoire. Có thể có một co rút gian sườn và ức quan trọng ở trẻ nhỏ trong trường hợp suy hô hấp, trong khi co rút này không quan trọng ở trẻ lớn hơn.

C. TUẦN HOÀN

Thể tích lưu thông của một trẻ sơ sinh là 80ml/kg và giảm với tuổi để đạt 60-70 ml/kg ở người lớn. Đối với một trẻ sơ sinh 3kg, thể tích này là 240 ml ; ở 6 tháng tuổi với một trọng lượng 6kg, thể tích lưu thông là 480 ml. V́ lẽ thể tích lưu thông bé, các trẻ rất nhạy cảm với sự mất nước. Do đó không lấy làm ngạc nhiên khi những trường hợp ỉa chảy giết chết mỗi năm hàng triệu trẻ em trên thế giới.

D. TRẠNG THÁI TÂM THẦN

Một trong những khó khăn mà ta có thể gặp với trẻ rất nhỏ là nó không thể diễn tả những xúc cảm của nó. Do đó, khi ta điều trị một trẻ bệnh hay bị thương, điều rất quan trong là đến với nó với sự cảm thông và tử tế. Không phải là khó lắm khi tưởng tượng một đứa bé có thể hoảng sợ như thế nào khi nó bị bệnh và khi bố mẹ bi căng thẳng đem nó đến bệnh viện, trong một môi trường xa lạ hay những người lạ mang lại cho nó những điều không thoải mái. Sự nhận thức làm giảm sự sợ hăi. Điều quan trọng là hăy giải thích rơ ràng những điều một cách trực tiếp cho đứa trẻ. Nếu có thể những lời giải thích phải được thực hiện bằng một ngôn ngữ dễ hiểu đối với đứa bé. Bố mẹ phải có thể được ở gần con ḿnh, ngay cả trong khi hồi sinh ; sự hiện diện của họ trong điều trị cho phép làm giảm sự e sợ, stress và sự lo âu của đứa bé và của bố mẹ của nó.

Năng lực diễn đạt của đứa bé được cải thiện khi lớn lên. Tuy nhiên phải nhớ rằng trong t́nh huống stress, lo âu hay đau đớn, đứa bé có thể thoái lui. Phải xét đến điều đó khi đánh giá thần kinh đứa bé. V́ lẽ trạng thái c̣n non nớt về mặt diễn đạt trước 5 tuổi, thang điểm Glasgow được biến đổi đối với lứa tuổi này.

E. TUỔI VÀ TRỌNG LƯỢNG

Đứa trẻ khác với người lớn v́ tầm vóc nhỏ thay đổi với tuổi. Chính v́ thế ở đứa trẻ trọng lượng quan trọng v́ lẽ các loại thuốc được cho tùy theo trọng lượng cơ thể.

Trong t́nh huống cấp cứu, ta không có thời gian để cân đứa bé. Công thức sau đây cho phép đánh giá gần đúng trong lượng của đứa bé tùy theo tuổi tính bằng số năm (giữa 1 và 10 tuổi).

Trọng lượng (kg) = 2 x (tuổi tính bằng số năm + 4)

Có những giải pháp khác thí dụ règle de Broselow. Thước này đo kích thước của đứa bé và suy ra trọng lượng của nó. Đối diện với trọng lượng của đứa bé được chỉ những liều lượng của các loại thuốc cấp cứu được tính theo trọng lượng này. Kích thước của các thiết bị khác nhau, có thể cần thiết, được chỉ tùy theo trọng lương. Những thước chính xác hơn những công thức để đánh giá trọng lượng của đứa bé. Dầu thế nào đi nữa, và dầu phương pháp được lựa chọn là ǵ, điều quan trọng, đó là người chăm sóc phải đủ quen với phương pháp này để có thể áp dụng nó một cách nhanh chóng và hiệu quả.

IV. NHỮNG NGUYÊN NHÂN VÀ PH̉NG NGỪA TỬ VONG.

Trong thời kỳ sơ sinh, các bất thường bẩm sinh là nguyên nhân thông thường nhất của tử vong, tiếp theo bởi những tai biến chu sinh và sau đó bởi chết đột ngột của nhũ nhi. Ở nhũ nhi, các bất thường bẩm sinh vẫn là nguyên nhân gây tử vong đầu tiên, tiếp theo bởi các bệnh hô hấp và tim mạch, các nhiễm trùng và các chấn thương. Nguyên nhân thông thường nhất gây tử vong ở trẻ em lứa tuổi trước học đường là chấn thương, tiếp theo sau bởi những bất thường bẩm sinh, các bệnh tim mạch và ung thư. Chấn thương là nguyên nhân đâu tiên gây tử vong (gấp đôi ung thư) ở trẻ em lứa tuổi học đường. Ở thiếu niên và thanh niên (giữa 15 và 24 tuổi), tự tử và những vết thương do chính thiếu niên gây nên là nguyên nhân thứ hai gây tử vong ; giết người là nguyên nhân thứ ba.

Những nguyên nhân của tử vong thay đổi đối với tuổi. Do đó điều quan trọng là xác lập những sơ đồ pḥng ngừa. Những sơ đồ pḥng ngừa này gồm ba điều : giáo dục, biển đổi môi trường và tăng cường pháp lư về an toàn. Mọi nhân viên điều trị có thể tham gia vào sự cải thiện của pḥng ngừa những tai nạn : pḥng ngừa nguyên phát (thí dụ pḥng ngừa những tai nạn bằng cách sử dụng đồ dùng an toàn trong những khu vực chơi) ; pḥng ngừa thứ phát (giảm những hậu quả của tai nạn thí dụ bằng cách khuyến khích đội casque ở những trẻ đi xe đạp) và pḥng ngừa tam phát (giảm những hậu quả của sự cố bằng cách cải thiện appel de service de secours sau tai nạn ; thí dụ bằng cách tham gia vào một cours như RANP-EPLS)

Sự pḥng ngừa tam phát được minh họa bởi chaine de survie, có mục đích cung cấp những điều trị cấp cứu tốt nhất một cách phối hợp.

Chaine de survie
Mắt xích 1 : Nhận biết sớm và gọi cứu
Mắt xích 2 : Hồi sinh tim-phối sớm để lợi thời gian
Mắt xích 3 : Khử rung sớm để phát khởi tim trở lại
Mắt xích 4 : Hồi sinh sau ngừng tim để cải thiện tiên lượng.



UserPostedImage


Chaine de vie của Hội đồng hồi sinh châu Âu (ERC) có thể được áp dụng cho đứa bé. Mắt xích đầu tiên nhằm nhận biết vấn đề của đứa bé (thường nhất là một suy hô hấp hay tuần hoàn) và gọi giúp đỡ (sau một phút hồi sinh tim phổi ở đứa bé) ; mắt xích thứ hai nhằm bắt đầu một hồi sinh cơ bản sớm ; mắt xích thứ ba nhằm có thể khử rung sớm khi cần thiết và mắt xích cuối cùng nhằm hồi sinh sau ngung tim để bảo vệ năo.

CHẾT ĐƯỢC DỰ KIẾN VÀ CHẾT BẤT NGỜ

Ta có thể đứng trước một đứa trẻ mà t́nh huống làm cho những thủ thuật hồi sinh không thích hợp. Đứa trẻ này và gia đ́nh của nó phải được xử trí với ḷng trắc ẩn bởi một kíp được đào tạo soins palliatifs.

Cái chết của một đứa bé là một lúc âu lo và căng thẳng đối với bố mẹ, những người thân cũng như đối với kíp điều trị có can dự vào. Điều quan trọng là kíp điều trị này có thể tiếp cận một buổi debriefing sau cái chết để có thể diễn đạt những cảm xúc và t́nh cảm được cảm thấy khi điều trị đứa bé. Mọi thành viên của một kíp điều trị phải có khả năng gọi giúp đỡ hay yêu cầu những lời khuyên ở các đồng nghiệp, những référent hay những thầy thuốc tâm lư.

Vài tuần sau khi đứa bé qua đời, bố mẹ phải được mời gặp thầy thuốc chịu trách nhiệm điều trị đứa bé. Điều đó cho phép bố mẹ có những câu trả lời cho những câu hỏi vẫn chưa được giải quyết của họ và nhận những kết quả của những thăm ḍ hay những bệnh phẩm được thực hiện lúc đứa trẻ chết.

Điều quan trọng là bố mẹ cảm thấy rằng những điều trị tốt nhất đă được cho con họ mặc dầu sự hồi sinh đă thất bại. Một xử trí sớm dựa trên phương pháp ABD làm giảm số những trường hợp tử vong bất ngờ. Đào tạo RANP (Réanimation Avancée Néonatale & Pédiatrique)
• EPLS (European Pediatric Life Support) có mục đích cung cấp những điều trị tốt nhất cho các em bé.


Quote:

Những điểm chủ yếu

• Ngừng tim hộ hấp thứ phát thường gặp nhất ở trẻ em và là biến cố tận cùng của một bệnh hay một thương tổn.

• Sự nhận biết và phương pháp cơ cấu hóa ABCD của đứa bé bị bệnh ngăn ngừa sự tiến triển về hướng ngừng tim hô hấp.

• Đường dẫn khí, hô hấp, tuần hoàn, và t́nh trạng thần kinh có những đặc điểm khác ở đứa bé so với người lớn.

• Sự pḥng ngừa nguyên phát (pḥng ngừa tai nạn), pḥng ngừa thứ phát (giới hạn những hậu quả của tai nạn) và pḥng ngừa tam phát (xử trí tốt nhất của cấp cứu) phải được hướng về những nguyên nhân đặc hiệu của tử vong tùy theo tuổi.



BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(23/7/2013)

florida80
04-07-2019, 19:36
HỒI SINH CAO CẤP TRẺ SƠ SINH VÀ NHI ĐỒNG
(EUROPEAN PEDIATRIC LIFE SUPPORT)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH

CHƯƠNG I
NHẬN BIẾT TRẺ BỊ BỆNH NẶNG
(RECONNAÎTRE L’ENFANT GRAVEMENT MALADE)



Quote:

Những mục tiêu


Cuối chương này các bạn hẳn có khả năng :
• Mô tả và nhận biết đứa trẻ bị bệnh nặng

• Nhận biết và thảo luận chức năng hô hấp b́nh thường và bất b́nh thường.

• Nhận biết và thảo luận chức năng tuần hoàn b́nh thường và bất b́nh thường

• Định nghĩa choáng

• Biết những ưu tiên điều trị đứa trẻ bị bệnh nặng.




PHẦN I


Tiên lượng của ngừng tim hô hấp cua đứa trẻ là u tối. Chẩn đoán sớm và điều trị thích đáng đứa trẻ bị bệnh nặng cho phép làm ngừng sự tiến triển về ngừng tim hô hấp và làm giảm tỷ lệ tử vong và bệnh của những t́nh huống này.

Chương này mô tả thực hiện như thế nào một đánh giá nhanh chóng một đứa trẻ cũng như những triệu chứng và những dấu hiệu lâm sàng liên kết với suy hô hấp và tuần hoàn (choáng), cả hai có thể dẫn đến ngừng tim hô hấp.

Sự nhận diện đứa trẻ bị bệnh nặng và sự xử trí theo những nguyên tắc ABC :

A = Airway (đường dẫn khí)
B = Breathing (Thở)
C = Tuần hoàn

Ta cho thể thêm D vào ABC. D thay thế cho chữ disability (những rối loạn về t́nh trạng tri giác). Sự đánh giá t́nh trạng tri giác bổ sung sự đánh giá suy hô hấp và tuần hoàn.

I. NHẬN BIẾT SUY HÔ HẤP

1. CHỨC NĂNG HÔ HẤP B̀NH THƯỜNG.

Một chức năng hô hấp b́nh thường đ̣i hỏi những chuyển động khí đi vào và đi ra khỏi hai lá phổi cũng như những trao đổi oxy và CO2 ở màng phế nang-mao mạch.

Sự thông khí phút (ventilation minute) (yếu tố quyết định chính của trao đổi CO2) tùy thuộc đồng thời thể tích lưu thông (volume courant) (thể tích khi mỗi lần hô hấp) và tần số hô hấp.


Quote:

Thông khí phút = Thể tích lưu thông x Tần số hô hấp


Một hô hấp b́nh thường đ̣i hỏi một cố gắng tối thiểu. Tần số hô hấp thay đổi theo tuổi, sự kích động, sự lo âu hay sốt. Tiến triển của các tần số hô hấp theo thời gian là một tham số tốt hơn một trị số riêng rẻ của tần số hô hấp. Thể tích lưu thông (Vc) vẫn không thay đổi trong suốt cuộc đời với một trị số từ 7 đến 9 ml/kg. Thể tích hô hấp có thể được đánh giá về chất lượng bằng cách thính chẩn phổi (sự đi vào của không khí trong tất cả các vùng của phổi) và những cử động của lồng ngực trong khi thở.

UserPostedImage

2. NHỮNG CƠ CHẾ CỦA SUY HÔ HẤP.

Suy hô hấp cấp tính có thể được gây nên bởi tất cả các bệnh lư ảnh hưởng lên những chuyển động khí đi vào và đi ra khỏi phổi, do đó làm biến đối sự thải CO2 (sự thông khí) và/hoặc ảnh hưởng lên sự trao đổi khí ở màng phế nang-mao mạch (oxygénation).

Sự thất bại duy tŕ thông khí phút (ventilation minute) (giảm thông khí phế bào) được liên kết với một sự gia tăng PaCO2. Điều này có thể được gây nên bởi một sự giảm của tần số hô hấp (thí dụ ngộ độc nha phiến) hay do một sự giảm của thế tích lưu thông (volume courant) (thí dụ tắc đường dẫn khí hay bệnh lư thần kinh cơ).

Sự biến đổi của các trao đổi khí ở màng phế nang-mao mạch nói chung là do sự tích tụ dịch trong các phế nang. Sự biến đổi này được liên kết với một sự giảm PaO2 và một sự gia tăng độ cứng của phổi, nghĩa là giảm độ dẻo (compliance) của phổi. Sự giảm PaO2 kích thích trung tâm hô hấp và làm gia tăng tần số hô hấp. Công hô hấp gia tăng do sự gia tăng của tần số hô hấp và mức độ cứng của phổi.

Dấu hiệu xanh tía trung tâm (cyanose) xuất hiện khi độ bảo ḥa oxy dưới 80%, chỉ rằng hémoglobine không bảo ḥa dưới 5g/dl. Sự vắng mặt của triệu chứng xanh tía đặc biệt ở những bệnh nhân thiếu máu không hàm ư một oxygénation b́nh thường. Sự gia tăng PaCO2 có thể được kèm theo tim nhịp nhanh, co mạch và mạch nhảy nhưng những dấu hiệu này không đáng tin cậy.

Các tần số hô hấp bất thường được xếp loại thành những tần số quá nhanh (thở nhịp nhanh, tachypnée), quá chậm (thở nhịp chậm, bradypnée) và vắng mặt (ngừng thở, apnée). Thở nhịp nhanh và thở nhịp chậm có thể được kèm theo bởi suy kiệt hô hấp (détresse respiratoire). Suy kiệt hô hấp là một hội chứng lâm sàng, phản ảnh một sự gia tăng công hô hấp, thường được liên kết với một cố gắng làm gia tăng thể tích lưu thông.

3. T̀NH TRẠNG HÔ HẤP BÙ

Các cơ chế bù gồm có sự gia tăng tần số hô hấp khi thể tích lưu thông bị giảm hay một sự gia tăng thể tích lưu thông khi tần số quá chậm. Suy hô hấp cũng được liên kết với một sự gia tăng của lưu lượng tim (chủ yếu bởi một tần số tim nhanh hơn) nhằm cải thiện những trao đổi khí và sự thông máu mô.

Những dấu hiệu của suy kiệt hô hấp (détresse respiratoire) :
• Sử dụng các cơ phụ.

• Sự gia tăng tần số hô hấp.

• Sự gia tăng tần số tim.


T́nh trạng tăng thán huyết (hypercapnie) (gia tăng nồng độ CO2 động mạch) và/hoặc giảm oxy mô (hypoxie) phản ánh sự mất khả năng của đứa bé để bù bệnh hô hấp.

4. SUY HÔ HẤP

Trên quan điểm sinh lư, suy hô hấp (insuffisance respiratoire) thường được định nghĩa như là " sự bất túc của hệ hô hấp trong sự duy tŕ một paO2 > 60 mmHg (= 9 kPa) đối với 21% FiO2 ” (điều này tương ứng với một SpO2 khoảng 90%) hay bất túc trong sự duy tŕ một PaCO2 < 60 mmHg (= 9 kPa) ”. Có được một khí huyết động mạch không phải luôn luôn dễ dàng và đôi khi không đáng tin cậy ở đứa bé. Ngoài ra, một đứa bé trong t́nh trạng suy kiệt hô hấp (détresse respiratoire) có thể có khả năng duy tŕ những trị số b́nh thường của khí huyết động mạch bằng cách làm gia tăng những cố gắng hô hấp. Điều quan trọng là phải đánh giá xem t́nh h́nh hô hấp có ổn định không hay sự mất bù có sắp tiến về suy hô hấp hay không.

Trên quan điểm thực hành, suy hô hấp bù hay mất bù không được xác định bởi phân tích khí huyết nhưng bởi những thăm ḍ lâm sàng. Sự đánh giá này đ̣i hỏi phải biết những triệu chứng và dấu hiệu của suy hô hấp. Khi các cơ chế bù bị vượt quá, sự suy thoái xảy ra rất nhanh và một ngừng tim-hô hấp phải được xét đến.

Những dấu hiệu xác định suy hô hấp mất bù là sự giảm t́nh trạng tri giác, sự giảm trương lực (hypotonie), sự giảm gắng sức hô hấp, xanh tía và xanh tái cực kỳ mặc dầu được cho oxy, vă mồ hôi và tim nhip chậm.

II. ĐÁNH GIÁ TRẠNG THÁI HÔ HẤP : A VÀ B

A. AIRWAY = ĐƯỜNG DẪN KHÍ (VOIES RESPIRATOIRES)

Để đảm bảo những chuyển động thích đáng của khí vào trong phổi và do đó một sự thông khí phút (ventilation minute) thích đáng, đường dẫn khí của trẻ em phải được thông suốt và an toàn. Nếu đường dẫn khí có nguy cơ và không được đảm bảo an toàn, chúng có thể trở nên bị tắc (thí dụ ở một đứa trẻ bất tỉnh thở tự nhiên, lưỡi có thể bị xê dịch ra phía sau trong xoang miệng và gây tắc đường dẫn khí).

Để cải thiện khí đi vào, đứa trẻ, mà đường dẫn khí bị tắc một phần hay hoàn toàn, gia tăng tần số hô hấp và công hô hấp. Khi đánh giá t́nh trạng thông thương của đường khí, phải ghi nhớ rằng sự hiện diện của những cử động của lồng ngực không hàm ư rằng đường khí thông thương. Phải đánh giá sự đi vào của không khí bằng cách nghe và cảm thấy những chuyển động khí và những tiếng thở.

B. BREATHINH = SỰ HÔ HẤP (RESPIRATION)

1. TẦN SỐ HÔ HẤP

Ở trẻ sơ sinh, thở nhịp nhanh (tachypnée) có thể là dấu hiệu đầu tiên của suy hô hấp. Thở nhịp nhanh không có suy kiệt hô hấp (thở nhịp nhanh b́nh yên) có thể có một nguyên nhân không phải do phổi (thí dụ trong choáng, acidocétose diabétique, ngộ độc bởi salicylate hay suy thận).

Những biến đổi của tần số hô hấp theo thời gian là quan trọng. Một sự gia tăng tần số hô hấp thể hiện một sự bù sinh lư của một sự suy thoái của chức năng hô hấp. Một sự giảm đột ngột của tần số hô hấp ở một đứa trẻ đau nặng rất là có ư nghĩa và có thể là một biến cố trước tận cùng (un événement pré-terminal). Những nguyên nhân của giảm tần số hô hấp có thể hoặc là hạ thân nhiệt, hoặc là một sự suy giảm của hệ thần kinh trung ương hoặc là mệt. Phải luôn luôn xét đến sự suy kiệt (épuisement) : một đứa bé có một tần số hô hấp 80/phút mệt rất nhanh và sự giảm đột ngột tần số hô hấp là một dấu hiệu báo động.

2. CÔNG HÔ HẤP

Sự gia tăng của công hô hấp được thể hiện bởi sự tăng cao của tần số hô hấp, của co kéo liên sườn (rétraction intercostale), trên ức và dưới sườn, sự sử dụng các cơ phụ (các cánh mũi phập phồng, những cử động giật của đầu, co kéo mũi ức). Những dấu hiệu này hiện diện trong những bệnh lư hô hấp như tắc đường dẫn khí hay các bệnh lư phế bào. Để đáp ứng với sự gia tăng của công hô hấp, một phần quan trọng hơn của lưu lượng tim được chuyển về các cơ hô hấp với một sự gia tăng thứ phát của sự sản xuất CO2. Khi công hô hấp vượt quá khả năng vận chuyển oxy đến các cơ hô hấp, nhiễm toan hô hấp biến chứng thành nhiễm toan chuyển hóa (tương ứng với sự gia tăng của nồng độ acide lactique).

a. Co kéo (tirage).

Co kéo dễ được quan sát ở nhũ nhi và trẻ nhỏ tuổi v́ tính dẻo (compliance) cao của lồng ngực. Tầm quan trọng của nó cho một chỉ dẫn về mức độ nghiêm trọng của suy kiệt hô hấp. Ở trẻ em trên 5 tuổi, lồng ngực ít đàn hồi hơn và co kéo chứng tỏ một sự biến đổi nghiêm trọng của chức năng hô hấp.

b. Các cử động giật của đầu (bobbing : đầu gật gù) và balancement thoraco-abdominal.

Khi công hô hấp gia tăng, các cơ ức đ̣n chũm có thể được sử dụng như các cơ phụ. Ở nhũ nhi, điều này gây nên một cử động ra trước và ra sau của đầu mỗi lần thở, điều này làm giảm tính hiệu quả của sự thông khí.

Balancement thoraco-abdominal là một cử động nghịch lư của bụng. Trong khi thở vào, trong lúc cơ hoành co lại : bụng căng ra và lồng ngực thu rút lại. Hô hấp trở nên không hiệu quả, v́ thể tích lưu thông bị giảm đối với một cố gắng cơ gia tăng.

UserPostedImage

Suy hô hấp mất bù một đứa trẻ có một suy kiệt hô hấp (détresse respiratoire) (co kéo gian và dưới sườn, co kéo mũi uc và cánh mũi phập phồng) và một sự giảm tiếp xúc với người điều trị

c. Những tiếng thở vào và thở ra.

B́nh thường, đường dẫn khí ngoài ngực hẹp lại và những đường dẫn khí trong ngực giăn ra trong giai đoạn thở vào của hô hấp. T́nh huống này đảo ngược trong giai đoạn thở ra.

Quan sát xem những tiếng thở bất thường có xảy ra trong giai đoạn thở vào hay thở ra, có thể cho phép xác định nơi tắc nghẽn đường dẫn khí. Một tiếng thở vào âm cao (tiếng thở rít : stridor) là đặc trưng của một tắc không hoàn toàn của đường hô hấp trên (ngoài ngực). Tiếng thở rít là do sự đi qua nhanh và chảy rối của không khí qua một phần hẹp của đường hô hấp trên. Tiếng rít hai th́ (thở vào và thở ra) là đặc trưng cho một tắc đường dẫn khí ở phần trên của khí quản. Khi tắc nằm ở phần thấp của khí quản, tiếng rít ở th́ thở ra. Tiếng thở kḥ khè (wheezing) là một tiếng thở ra kèm theo một th́ thở ra kéo dài. Tiếng thở kḥ khè có thể nghe thấy bằng tai hay thính chẩn. Tiếng thở kḥ khè là một dấu hiệu tắc phế quản hay tiểu phế quản (trong ngực). Tiếng này trở nên mạnh hơn khi đường hô hấp càng hẹp và khi sự đi qua của không khí càng giảm. Tiếng thở kḥ khè giảm có thể là dấu hiệu của một tắc hoàn toàn hay sự kiệt quệ của đứa bé, cũng như là dấu hiệu của một sự cải thiện.

d. Thở rên (grunting)

Thở rên (geignement expiratoire = grunting) được gặp chủ yếu ở các trẻ sơ sinh nhưng cũng có ở các nhũ nhi hay những trẻ nhỏ. Tiếng động này được gây nên do thở ra chống lại một thanh môn đóng lại một phần nhằm tạo nên một áp suất dương cuối thời kỳ thở ra (PEP) để giữ ǵn hay làm gia tăng capacité résiduelle fonctionnelle. Thở rên được nghe ở những bệnh nhân mà bệnh gây nên xẹp phế nang và mất thể tích phổi (phù phổi, viêm phổi, xẹp phổi hay hội chứng SDRA). Nó cũng được mô tả trong những bệnh của đường hô hấp trên và dưới, các viêm cơ tim, các nhiễm trùng nghiêm trọng (nhiễm trùng huyết, viêm màng năo) và trong trường hợp tắc ruột. Thở rên là một chứng cớ của một bệnh nặng.

3. THỂ TÍCH LƯU THÔNG : TÍNH HIỂU QUÁ CỦA SỰ THÔNG KHÍ

Sự nở của lồng ngực có thể được đánh giá bằng thị chẩn, ấn chẩn, đả chẩn và thính chẩn. Thị chẩn và ấn chẩn đánh giá mức độ và sự đối xứng của sự nở lồng ngực. Đả chẩn hữu ích để chẩn đoán những vùng xẹp phổi (âm đục) hay một tăng vang khí (tràn khí màng phổi). Thính chẩn cho một chỉ dẫn về thể tích khí đi vào trong hai lá phổi. Những tiếng thở phải đối xứng và dễ nghe. Một thính chẩn cẩn thận cả lồng ngực, đặc biệt ở nách, có thể phát hiện những tiếng thở được truyền từ một vùng khác (thí dụ trong tràn khí màng phổi hay xẹp phổi). Điều hữu ích là so sánh thính chẩn một phía của ngực với phía kia. Một lồng ngực im lặng là một dấu hiệu báo động chỉ một sự giảm nghiêm trọng của thể tích lưu thông.

4. OXYGENATION : XANH TÍA VÀ XANH TÁI

Xanh tía là một dấu hiệu muộn và không thường có của suy hô hấp. Xanh tía rơ rệt hơn ở các niêm mạc miệng và ở ḷng móng tay. Xanh tía giới hạn ở các chi (xanh tía ngoại biên) thường là do một suy tuần hoàn hơn là một suy hô hấp (xanh tía trung ương). Giảm oxy huyết có thể gây nên một sự co mạch làm che khuất t́nh trạng xanh tía. SpO2 phải được đo bằng oxymétrie de pouls ngay khi một suy hô hấp đuoc nghi ngờ ngay cả khi không có xanh tía.

C. T̀NH TRẠNG TRI GIÁC

Đứa trẻ trong t́nh trạng giảm oxy mô và/hoặc tăng thán huyết có thể trở nên bị kích động hay ngủ gà khi suy hô hấp tiến triển. Biến cố tận cùng là mất tri giác. Bố mẹ có thể giải thích rằng đứa bé không phản ứng như lệ thường hay nó không c̣n nhận biết ra họ nữa. Nhà lâm sàng đánh giá t́nh trạng tri giác của đứa bé bằng cách cố đạt được một sự tiếp xúc thị giác và/hoặc một đáp ứng với những kích thích lời nói hay đau đớn.

III. MONITORAGE

Oxymétrie de pouls là một công cụ quư báu trong đánh giá suy hô hấp. Nó phải được sử dụng một cách hệ thống để đo độ bảo ḥa oxy động mạch qua da (saturation transcutanée artérielle en oxygène : Sp02). Trị số của Sp02 ít đáng tin cậy hơn khi dưới 70% đứng trước choáng và/hoặc trong trường hợp ngộ độc CÓ hay méthémoglobinémie

IV. NHẬN BIẾT CHOÁNG

1. ĐỊNH NGHĨA

CHOÁNG

Choáng là một t́nh trạng lâm sàng trong đó lưu lượng máu và sự cung cấp các substrat đến các mô không thỏa măn nhu cầu chuyển hóa. Sự mang không đủ các substrat như oxy và glucose đến các mô và lấy đi các chất chuyển hóa tế bào gây nên một sự chuyển hóa kỵ khí với sự tích tụ acide lactique. Sự biến đổi chuyển hóa tế bào này sẽ gây nên những thương tổn tế bào không hồi phục được.

Choáng có thể liên kết với một luu lượng tim b́nh thường, bị giảm hay được gia tăng hay một huyết áp b́nh thường hay giảm. Choáng được mô tả như là bù hay mất bù.

CHOÁNG BÙ là giai đoạn sớm của choáng không hạ huyết áp. Mặc dầu huyết áp b́nh thường, ta quan sát thấy những dấu hiệu thông máu bất b́nh thường như tim nhịp nhanh, mạch ngoại biên khó ấn chẩn, thở nhịp nhanh và thiểu niệu.

CHOÁNG MẤT BÙ hiện diện khi hạ huyết áp phát triển và khi sự thông máu các cơ quan sinh tử (năo, tim) bị ảnh hưởng.

LƯU LƯỢNG TIM


Quote:

Lưu lượng tim = Tần số tim x thể tích phóng máu


HUYẾT ÁP


Quote:

Huyết áp = Lưu lượng tim x Sức cản mạch máu toàn thể


Tiền gánh (précharge) là thể tích làm đầy (volume de remplissage) của tim. Hậu gánh (postcharge) chủ yếu được biểu hiện bởi các sức cản mạch máu toàn thể. Một sự gia tăng tần số tim có thể giúp duy tŕ luu lượng tim nếu một thể tích phóng máu (volume d’éjection) sụt giảm. Một sự co mạch (nghĩa là sự gia tăng sức cản mạch máu toàn thể) có thể giúp duy tŕ một huyết áp b́nh thường khi lưu lượng tim giảm. Hai cơ chế bù này giải thích những dấu hiệu sớm của choáng : tim nhịp nhanh và giảm thông máu da.

Sự thông máu của các cơ quan tùy thuộc đồng thời lưu lượng tim và huyết áp (chủ yếu là huyết áp trung b́nh).

Trong số những tham số bị ảnh hưởng hay ảnh hưởng lưu lượng tim, vài tham số có thể đo được (tần số tim và huyết áp) và những tham số khác (thể tích phóng máu và sức cản ngoại biên toàn thể) có thể được đánh giá một cách gián tiếp bằng cách khám biên độ và chất lượng của các mạch ngoại biên, sự thích đáng của áp suất thông máu của các cơ quan bia (t́nh trạng tri giác, thời gian đầy lại mao mạch, nhiệt độ da và nếu có thể được lượng nước tiểu bài xuất và đo nồng độ lactate trong máu). Các sức cản mạch máu toàn hệ hạ có thể được nghi ngờ nếu huyết áp động mạch trương tâm dưới những trị số b́nh thường đối với tuổi của đứa bé.

UserPostedImage

2. NGUYÊN NHÂN CỦA CHOÁNG.

Choáng có thể do suy tuần hoàn hay hô hấp. Phần lớn trẻ em bị choáng nghiêm trọng dầu cho nguyên nhân là gi, có một mức độ loạn năng tim mạch đ̣i hỏi nhiều loại điều trị (thí dụ xử trí đường dẫn khí (A), thở (B) và tuần hoàn (C).

a/ CHOÁNG GIẢM THỂ TÍCH.

Choáng giảm thể tích được đặc trưng bởi một thể tích lưu thông (tiền gánh) bị giảm. Choáng giảm thể tích có thể do mất dịch quan trọng như trong một mất nước hay xuất huyết.

b/ CHOÁNG PHÂN BỐ

Choáng phân bố được đặc trưng bởi một sự phân bố không thích đáng của lưu lượng máu, không đủ đối với nhu cầu chuyển hóa của các mô. Loại choáng này được gặp trong trường hợp sepsis hay phản vệ khi dịch đi ra khỏi các khoang mạch máu vào các mô chung quanh. Nói chung lưu lượng tim bị giảm trong suy tuần hoàn, nhưng choáng phản vệ và choáng nhiễm khuẩn có thể được đặc trưng bởi một lưu lượng tim gia tăng. Trong trường hợp này sức cản mạch máu toàn thân (résistance vasculaire systémique) bị giảm và đứa trẻ có vẻ được thông máu tốt với mạch ngoại biên nhảy và một sự gia tăng của sự khác biệt tâm thu-trương tâm (différence systolo-diastolique). Mặc dầu sự thông máu có vẻ đúng đắn và mặc dầu lưu lượng tim tăng cao, có một sự không ḥa hợp giữa lưu lượng máu đến mô và những nhu cầu chuyển hóa không đủ. Loại choáng này khó chẩn đoán trong giai đoạn sớm của nó. Sự quan sát chăm chú những dấu hiệu lâm sàng sớm của choáng liên kết với sự phân tích khí huyết động mạch cho phép chẩn đoán đúng.

c/ CHOÁNG TIM (CHOC CARDIOGENIQUE)

Choáng tim là do suy cơ tim hay một loạn nhịp tim

d/ CHOÁNG DO TẮC (CHOC OBSTRUCTIF)

Choáng do tắc được đặc trưng bởi một loạn năng tim do một tắc ngăn cản sự làm đầy và/hoặc sự phóng máu của tim (tràn khí màng phổi dưới áp lực, chèn ép tim). .

UserPostedImage

Suy tuần hoàn mất bù ở một đứa trẻ nhiễm trùng màng năo cầu khuẩn với những dấu hiệu mắt bù (giảm mức độ tri giác).

V. ĐÁNH GIÁ T̀NH TRẠNG TIM MẠCH : C

Sự đánh giá của t́nh trạng tim-mạch phải bắt đầu một cách hệ thống bằng sự đánh giá t́nh trạng tri giác, của các đường dẫn khí (A) và của sự thở (B). Sự xử trí các đường dẫn khí và sự thông khí phải được bắt đầu trước khi đánh giá t́nh trạng tuần hoàn.

1. TẦN SỐ TIM.

Tần số tim gia tăng để đáp ứng với một sự gia tăng của nhu cầu chuyển hóa mô. Tim nhịp nhanh xoang là đáp ứng thông thường với t́nh trạng âu lo và sốt nhưng cũng có thể là do giảm oxy mô, toan chuyển hóa, tăng thán huyết, giảm thể tích máu hay đau đớn. Các trẻ sơ sinh có rất ít dự trữ tim (réserve cardiaque) : chúng gia tăng lưu lượng tim chủ yếu bằng cách làm gia tăng tần số hơn là thể tích phóng máu (volume d’éjection). Đáp ứng đầu tiên của chúng đối với giảm oxy mô là tim nhịp chậm ; những trẻ lớn hơn lúc khởi đầu phát triển một tim nhịp nhanh.

Khi sự gia tăng tần số tim không c̣n đủ nữa để duy tŕ một oxygénation mô thích đáng ; giảm oxy mô và toan chuyển hóa xảy ra và dẫn đến một tim nhịp chậm báo hiệu một ngừng tim-hô hấp sắp xảy ra.

2. HUYẾT ÁP

Những cơ chế bù để tái lập một lưu lượng tim trong trường hợp giảm thể tích lưu thông là :
• co mạch

• tim nhịp nhanh

• gia tăng khả năng co bóp cơ tim.


Thể tích phóng máu (volume d’éjection) giảm với giảm thể tích máu (hypovolémie). Trong thời gian đầu, huyết áp được duy tŕ nhờ sự gia tăng của tần số tim và sức cản ngoại biên toàn thể.

Khi các cơ chế bù bị vượt qua, hạ huyết áp xuất hiện. Tim nhịp nhanh vẫn tồn tại cho đến khi các dự trữ catécholamine của cơ tim cạn kiệt. Hạ huyết áp xảy ra muộn trong choáng giảm thể tích (sau khi mất 40% thể tích lưu thông)

Dầu choáng thuộc loại nào, hạ huyết áp là một dấu hiệu mất bù và phải được điều trị tích cực, v́ lẽ suy tim-hô hấp và ngừng tim sắp xảy ra.

Khi huyết áp thu tâm nằm dưới giới hạn dưới của b́nh thường, phải t́m kiếm những dấu hiệu choáng khác. Nếu choáng được xác nhận, nó phải được điều trị tích cực.

UserPostedImage

3. CƯỜNG ĐỘ CỦA MẠCH

Tim nhịp nhanh là một dấu hiệu sớm nhưng không đặc hiệu của choáng và hạ huyết áp là một dấu hiệu đặc hiệu nhưng xảy ra muộn. Vậy những chỉ đấu khác cần thiết để xác lập một chẩn đoán sớm của choáng.

Thể tích phóng máu có thể được đánh giá bằng cách ấn chẩn biên độ của mạch.

Khi thể tích phóng máu bị giảm, biên độ của các mạch giảm. Biên độ của các mạch phản ánh hiệu số giữa áp suất động mạch thu tâm và áp suất động mạch trương tâm. Trong choáng, sóng áp suất (onde de pression) giảm biên độ làm cho mạch khó bắt rồi không bắt được. Biên độ của các mạch ngoại biên (động mạch quay, chày, pédieuse...) giảm nhanh hơn biên độ của các mạch trung tâm (động mạch cảnh, cánh tay, đùi). Sự so sánh giữa các mạch ngoại biên và trung tâm có thể hữu ích. Các mạch xa cũng có thể bị giảm do co mạch gây nên bởi sốt, lạnh hay âu lo.

Sự giảm các mạch trung tâm là một dấu hiệu báo hiệu ngừng tim hô hấp sắp xảy ra.

4. THÔNG MÁU NGOẠI BIÊN

Các sức cản mạch máu toàn thể có thể được đánh giá một cách gián tiếp bằng thời gian đầy lại mao mạch, nhiệt độ của da và huyết áp tâm thu

5. TIỀN GÁNH

Đánh giá lâm sàng của tiền gánh cho phép gián biệt choáng tim với những dạng khác của choáng và đánh giá tác dụng của một bolus dung dịch làm đầy (soluté de remplissage). Ở một trẻ em khỏe mạnh, các tĩnh mạch cổ (veines jugulaires) chỉ hơi thấy rơ và bờ gan có thể ấn chẩn tối đa 1 cm dưới bờ sườn. Nếu tiền gánh trở nên quá quan trọng (thí dụ trong trường hợp tăng gánh thể tích hay trong suy tim), các tĩnh mạch cổ trở nên ứ máu, gan lớn lên và các ran ẩm có thể nghe được trong hai lá phổi

6. THÔNG MÁU CỦA CÁC CƠ QUAN BIA

Sự thông máu của các cơ quan tùy thuộc vào lưu lượng tim và áp suất thông máu. Chất lượng của sự thông máu của các cơ quan được đánh giá một cách hiệu quả ở da, thận và năo bộ.

a. DA

Ở đứa trẻ khỏe mạnh, da nóng, khô và hồng hào từ đầu đến chân, ngoại trừ nhiệt độ bên ngoài quá lạnh. Thời gian đầy lại mao mạch (TRC : temps de recoloration capillaire) được sử dụng để đánh giá sự thông máu ở da. Nếu như nó kéo dài, đó là một dấu hiệu sớm của choáng. Thời gian đầy lại mao mạch được đánh giá bằng cách đếm thời gian mà da của pulpe của một ngón tay hay vùng trước ức cần để trở lại màu sau khi bị làm trắng đi do một đè ép 5 giây. B́nh thường thời gian đầy lại mao mạch dưới 2 giây. Để đánh giá một cách đúng đắn thời gian đầy lại mao mạch, chi phải ở cùng mức với tim (hay hơi được đưa cao lên) để tránh mọi sự ứ đọng tĩnh mạch (stase veineuse). Sự giảm tưới máu đă phản ảnh một sự co mạch ngoại biên, dấu hiệu sớm của choáng.

Những dấu hiệu co mạch ngoại biên khác, có thể xuất hiện khi lưu lượng tim sụt, là :
• sự xuất hiện một biên giới giữa nóng và lạnh, bắt đầu ở các ngón tay rồi lan lên thân ḿnh

• những marbrures

• xanh tái

• xanh tía ngoại biên


b. NĂO : T̀NH TRẠNG TRI GIÁC

Những dấu hiệu giảm thông máu năo tùy thuộc vào thời gian và mức độ nghiêm trọng của hiện tượng.

Nếu khởi đầu thiếu máu cục bộ xảy ra đột ngột (như trong một loạn nhịp tim), dấu hiệu đầu tiên có thể là một sự mất tri giác liên kết với những co giật và giăn đồng tử. Nêu sự giảm thông máu xảy ra từ từ, như trong một suy tuần hoàn hay suy hô hấp, những dấu hiệu sẽ là những luân phiên các thời kỳ kích động, ngủ gà hay cáu kỉnh.

Những rối loạn tri giác của trẻ em trong t́nh trạng choáng tiến triển theo thứ tự sau đây : ta có thể nhớ chúng theo thứ tự nhờ AVPU (bằng tiếng Anh)

A : Alert (éveillé) : Bệnh nhân tỉnh
V : Voice (réponse à la voix) : Đáp ứng với lời nói
P : Pain (réponse à là douleur) : Đáp ứng với đau đớn
U : U (Unresponsive) : không đáp ứng với một kích thích nào

c. THẬN

Sự giảm lượng nước tiểu thải ra mỗi giờ (<1ml/kg/giờ) chỉ một sự thông máu thận không thích đáng. Sự theo dơi xuất lượng nước tiểu là hữu ích để đánh giá tính hiệu quả của điều trị choáng.

UserPostedImage

florida80
04-07-2019, 19:39
Chứng Tiểu Đêm Ở Người Già











Người lớn tuổi thường bị mất ngủ, lư do thường gặp nhất là phải đi tiểu nhiều ban đêm. Ngoài việc gây rối loạn giấc ngủ, bệnh nhân sáng sớm mệt mỏi, không nghỉ ngơi đầy đủ, nguy cơ té và có thể gẫy xương có thể là những chuyện nguy hiểm đi kèm theo chứng tiểu đêm.




Bệnh nhân đàn ông có thể có những triệu chứng kèm theo ở đường tiểu phía dưới (lower urinary tract): như ban ngày đi tiểu liên miên (urinary frequency, (trên 8 lần/ngày)), ḍng ">nước tiểu yếu, cần đi tiểu ngay (urgency), hay són tiểu (urinary incontinence).












Nguyên nhân chúng ta thường nghe đến là tuyến tiền liệt ph́ đại lành tính (benign prostate hypertrophy) (không phải ung thư) làm đường thoát ra của nước tiểu bị nhỏ lại và tiểu không thông, chia làm nhiều lần.

Phụ nữ có thể đi tiểu nhiều lần hơn lúc lớn tuổi, hoặc do kết quả sinh đẻ, hoặc do thói quen phụ nữ hay đi tiểu.



A. Vài ư niệm về cơ thể học:










Chúng ta có hai trái thận (E: kidney, F: rein) hai bên, phía sau và phía trên bụng. Hai thận lọc máu và bài tiết nước tiểu, đi xuống hai ống niệu quản (ureter), vào bọng đái (bladder) nằm giữa, phía dưới bụng. Bọng đái người lớn có nước tiểu chừng 300ml th́ mắc tiểu, nếu năo cho phép “mở cửa” th́ nước tiểu thoát ra niệu đạo, nếu nín thêm bọng đái có thể chứa đến 600ml là tối đa.




Tuyến tiền liệt (prostate) trước đây c̣n gọi là “nhiếp hộ tuyến”, là một tuyến ngoại tiết của bộ phận sinh dục nam. Tuy nhiên gần đây người ta cũng đặt tên lại cho một số tuyến tương tự ở phái nữ là tuyến tiền liệt nữ (female prostate).








Ở phái nam, tuyến nằm dưới và nằm ngay trước ngơ nước tiểu đi ra của bàng quang (= bọng đái: bladder). Tuyến này tiết vào tinh dịch một số thành phần giúp nuôi dưỡng các tinh trùng.




Tuyến tiền liệt bao quanh, ôm lấy niệu đạo (urethra) là ống dẫn nước tiểu thoát ra từ bọng đái, nếu tuyến lớn quá (ph́ đại, hypertrophy), hoặc có ung bướu, tuyến có thể bóp nghẽn đường đi ra của nước tiểu và làm khó tiểu hoặc bí tiểu. Tuy nhiên, chứng đi tiểu đêm không phải luôn luôn do tuyến tiền liệt.











B. Những lư do khác nhau có thể gây chứng tiểu đêm:


1) Nước tiểu nhiều lúc ban đêm (nocturnal polyuria) do:
- Suy tim.

- Rối loạn chất nội tiết ADH (antidiuretic hormone, hay arginin vasopressin được hypothalamus của năo bộ tiết ra) là chất đáng lẽ làm thận giữ lại nước nhiều hơn, làm nước tiểu cô đọng hơn, và thể tích nước tiểu giảm đi lúc ban đêm. Ngược lại ở một số người già có rất ít chất vasopressin này tiết ra ban đêm, nên lượng nước tiểu ban đêm quá nhiều.

- Nước ứ phần dưới cơ thể (hạ chi), do các tĩnh mạch không hoạt động b́nh thường, do suy tim, do thiếu protein trong máu, do ăn mặn quá.



- Uống thuốc lợi tiểu (diuretic) trước khi đi ngủ (ví dụ thuốc loại thiazide trị bệnh cao máu)
- Ngưng thở (apnea) trong giấc ngủ v́ bị đường hô hấp tắc nghẹt (obstructive sleep apnea), thiếu oxy trong máu gây ra áp suất trong động mạch phổi tăng, làm áp suất trong tâm nhĩ phải tăng và gây tác dụng tạo ra nước tiểu nhiều hơn.


Nếu bệnh nhân ngáy to, thỉnh thoảng yên lặng không nghe tiếng thở, nhất là người mập, nên coi chừng có sleep apnea hay không, bằng cách đo polysomnogram (đo tim, nhịp thở, oxy trong hơi thở, năo điện đồ cùng một lúc trong khi bệnh nhân ngủ). Nếu cần, dùng CPAP cho apnea (máy tạo nên áp suất dương thường trực trong đường hô hấp trong lúc ngủ.)

2) Bệnh tạo ra quá nhiều nước tiểu:
- Do bệnh tiểu đường (đái tháo đường, diabetes)


- Đái tháo nhạt (diabetes insipidus, do tổn thương năo bộ, hoặc do thận bị hư /nephrogenic diabetes insipidus)
- Uống nước quá nhiều (polydipsia).

3) Do thể tích (dung tích, capacity) bọng đái quá nhỏ về đêm:


- Hệ thần kinh bọng đái bất thường (neurogenic bladder) không kiểm soát được.
-Viêm bọng đái (cystitis)
- Ung thư bọng đái, tiền liệt, niệu đạo (cancer of the bladder, prostate, urethra).
-Thói quen đi tiểu lúc bọng đái chưa đầy (~300-600ml).

- “Overactive bladder” (OAB) (bọng đái “quá hoạt động”).

- Lo âu (anxiety).

- Rượu, café
- Sạn trong bọng đái
- Thuốc men:



+ Caffeine, theophylline trị thông cuống phổi, thuốc lợi tiểu.
+ Thuốc beta blockers (dùng trị bệnh cao huyết áp, làm cơ detrusor bọng đái co lại tăng risk són tiểu), thuốc alpha blocker (giản nở các sợi cơ cỗ bọng đái), thuốc lợi tiểu (dùng trị bệnh cao huyết áp).

C. Lời khuyên:

Nói chung, nếu cần nên đến bác sĩ gia đ́nh để t́m xem chính xác nguyên nhân ở đâu, ngoài khả năng do tuyến tiền liệt gây ra.



Nếu bác sĩ cho phép, có thể thử những biện pháp thông thường như: – Tránh uống nước quá nhiều, nhất là tối, 6h trước khi đi ngủ, ăn trái cây khô trước khi đi ngủ để giảm bớt nước tiểu ban đêm.

– Tránh cà phê, trà, rượu, bia (la ve) và những thuốc lợi tiểu nếu có thể được.

– Kê chân lên cao (lúc ngồi, nằm) ban ngày để tránh nước tụ xuống hai chân, mang vớ bó chặt để giảm bởt phù hai chân.

– Cẩn thận thắp đèn sáng, nếu cần đi khám mắt xem thị lực có tốt không, có bị cườm mắt hay không, để tránh té, tai nạn lúc đi tiểu đêm.
Chúc bệnh nhân may mắn.


Bác sĩ Hồ Văn Hiền

florida80
04-07-2019, 19:41
:thankyou::thankyou:

florida80
04-07-2019, 19:42
Bệnh Khớp Thoái Biến









Khớp (joint) là các chỗ những đầu xương nối với nhau. Trong khớp có nhiều cơ cấu rất tinh vi, phối hợp hoạt động để khớp vừa vững chắc vừa linh động. Sụn khớp (articular cartilage), phần quan trọng của khớp, bao bọc các đầu xương như một lớp đệm, giúp các đầu xương trong khớp nhẹ nhàng trượt lên nhau khi khớp chuyển động.


Ở Mỹ đă lâu, chúng ta cần ḥa nhập vào ḍng y khoa Mỹ, dùng những từ y khoa Mỹ họ dùng: đau cổ (neck pain), đau vai (shoulder pain), đau khuỷu tay (elbow pain), đau cổ tay (wrist pain), đau lưng (back pain), đau lưng dưới (low back pain), đau hông (hip pain), đau gối (knee pain), đau cổ chân (ankle pain), đau khớp (joint pain), viêm khớp (arthritis: khớp vừa đau, vừa sưng to, nóng đỏ). Nên bỏ hai chữ “phong thấp” vào sọt rác quá khứ, v́ những chữ này mơ hồ, không biết dịch sang tiếng Anh thế nào. Xin nhớ, vào nhà thương, các bác sĩ, y tá họ nói tiếng Anh, chúng ta cần dùng đúng chữ để họ hiểu (nếu cần thông dịch, người thông dịch cũng dịch được dễ dàng). Các thuốc Ibuprofen, Motrin, Aleve, Celebrex, ..., thuần túy, chỉ là thuốc chống đau như Tylenol, Aspirin, không nên gọi chúng là “thuốc phong thấp”.


Bệnh khớp nhiều lắm. Ba bệnh khớp làm khổ chúng ta nhiều nhất: “osteoarthritis”, (bệnh viêm xương-khớp), “rheumatoid arthritis” (bệnh viêm khớp rheumatoid) và “gout” (thống phong). Hôm nay, chúng ta t́m hiểu bệnh “osteoarthritis”, tên khác dễ hiểu hơn: “degenerative joint disease” (bệnh khớp thoái biến).


Bệnh khớp thoái biến xảy ra nhiều nhất trong các loại bệnh khớp. Ở Mỹ, đến 12% dân số mang bệnh khớp thoái biến, và với các vị trên 70 tuổi, tỉ lệ gần 35% (tức cứ 3 người, 1 người bị). Rất nhiều vị, đi từ pḥng ngủ sang pḥng tắm cũng khó khăn, v́ khớp gối, khớp hông đau nhức quá.


Đời người chúng ta ví như chiếc xe hơi, chập chững chạy đầu đời, bon bon chạy giữa đời, rồi chậm dần vào cuối đời. Do máy đă rêm, bánh đă ṃn. Các khớp của ta giống những bánh xe hơi, dùng lâu tất ṃn. Bệnh khớp thoái biến gây do sự ṃn lở của sụn khớp (articular cartilage), nhất là ở những vùng sụn phải trực tiếp nâng đỡ sức nặng của cơ thể. Do thế, bệnh thường tấn công các khớp mang sức nặng (hông, gối, lưng dưới, ...), hoặc khớp sử dụng nhiều trong công việc hàng ngày (các khớp ngón tay, khớp nơi gốc ngón tay cái).


Dưới tuổi 55, các khớp ṃn giống nhau ở cả nam lẫn nữ. Tuổi cao hơn, khớp hông bị nhiều hơn ở đàn ông, c̣n phụ nữ hay có bệnh ở các khớp ngón tay và gốc ngón cái. Phụ nữ cũng đau khớp gối nhiều hơn đàn ông.


Ai dễ bị bệnh khớp thoái biến?


Nhiều yếu tố đưa ta đến với bệnh khớp thoái biến:

- Tuổi tác: yếu tố quan trọng nhất. Càng cao tuổi, các khớp ta càng dễ hao ṃn.

- Phái tính: phụ nữ dễ mang bệnh hơn đàn ông. (Phải chăng, so ra, nữ giới vẫn phải làm việc nhiều hơn nam giới, việc sở, việc nhà?).

- Chấn thương: những khớp trước từng bị chấn thương hoặc sử dụng nhiều quá dễ mang bệnh. Chẳng hạn, người vũ ballet hay có bệnh ở khớp cổ chân. Ngược lại, các vơ sĩ boxing hay mang bệnh ở khớp nối bàn tay và ngón tay. Người làm những nghề nghiệp cần qú gối dễ mang bệnh ở khớp gối.

- Nặng cân: xe nặng, bánh tất mau ṃn. Người nặng, khớp mau hư, nhất là khớp gối.

- Bệnh bẩm sinh: khiến khớp bất thường ngay từ lúc mới sanh.

- Bệnh nội tiết: tiểu đường, suy tuyến giáp trạng, ...


Định bệnh


Ta đă biết, trong khớp có sụn khớp (articular cartilage), bao bọc các đầu xương như một lớp đệm, giúp các đầu xương nhẹ nhàng trượt lên nhau khi khớp chuyển động. Bệnh khớp thoái biến gây do sự ṃn lở của sụn khớp. Khi sụn ṃn hoặc lở vỡ, các đầu xương không c̣n uyển chuyển trượt lên nhau, nên gây đau nhức, cứng khớp, ...

Tuy vậy, rất nhiều trường hợp bệnh không gây đau ǵ cả. Có người chẳng bao giờ đau, t́nh cờ chụp phim, phim chụp cho thấy khớp đă ṃn.


Đau khớp, nếu xảy ra, trong giai đoạn đầu, thường là cái đau âm ỉ, cảm thấy sâu trong khớp bệnh: khớp lưng, hoặc khớp hông, khớp gối, khớp ngón tay, ... Người bệnh thấy đau nhiều hơn khi đi lại, sử dụng khớp, và bớt đau lúc nghỉ ngơi. Khi bệnh tiến triển đến giai đoạn nặng hơn, cái đau thành liên tục, làm khổ cả vào ban đêm.




“Công chúa đứt tay, ăn mày đổ ruột”. Mỗi người chúng ta cảm nhận cái đau một khác. Cùng một mức độ bệnh lư của khớp, phụ nữ than đau nhiều hơn đàn ông, người hưởng trợ cấp than đau nhiều hơn người đi làm, và người ly dị than nhiều hơn người có gia đ́nh hạnh phúc. Người ta cho rằng trong bệnh khớp thoái biến, như chứng đau lưng, như nhiều bệnh khác, những yếu tố tâm lư và xă hội có ảnh hưởng quan trọng, khiến người bệnh cảm thấy đau nhiều hay ít.


Triệu chứng quan trọng khác là cứng khớp (stiffness). Khớp thường cứng vào buổi sáng mới ngủ dậy hoặc sau lúc nghỉ ngơi một thời gian ngắn trong ngày. Cứng khớp không kéo dài lâu, chỉ khoảng 20 phút.


Đến giai đoạn nặng, khớp mất h́nh dạng b́nh thường, méo mó, to lên, và không c̣n gập, duỗi được hết mức. Có khi, đang đi, khớp khựng lại. Khớp sờ thấy đau, hoặc sưng và hơi nóng. Khi khớp chuyển động, sờ như thấy các đầu xương trong khớp chạm vào nhau, kêu “lục cục lạc cạc”.


Sự định bệnh dựa vào bệnh sử (triệu chứng do người bệnh kể), sự thăm khám, và phim chụp. Phim chụp cho thấy hai đầu xương trong khớp sát vào nhau ở chỗ sụn bị ṃn, có khi thấy những chồi xương mọc ra bất thường. Khi sụn khớp ṃn nhiều, trên phim, khớp lệch lạc thấy rơ (subluxation), mất h́nh dạng b́nh thường.


Điểm đáng chú ư là triệu chứng và mức độ tàn tật do bệnh gây nên, nặng hay nhẹ, thường không ăn khớp với phim chụp. Nếu đem 100 người trên 40 tuổi ra chụp phim, theo phim chụp, 90 người sẽ có những thay đổi bất thường ở các khớp nâng đỡ sức nặng cơ thể (lưng dưới, hông, gối, ...), tuy vậy, chỉ 30 người có triệu chứng đau nhức. Đau dữ hay ít, như đă bàn, c̣n tùy thuộc nhiều yếu tố, đặc biệt những yếu tố tâm lư và xă hội.
Chữa Trị:







Sự trị liệu nhắm mục đích giảm đau, giúp các khớp duy tŕ được cơ năng, và hoạt động b́nh thường. Những trường hợp bệnh nhẹ, người bệnh chỉ cần được trấn an, chỉ dẫn cách vận động, thu xếp công việc hàng ngày để tránh những hoạt động khiến khớp dễ tổn thương thêm, và thỉnh thoảng uống thuốc giảm đau nếu cần. Với những trường hợp nặng hơn, có thể phải phối hợp nhiều phương pháp chữa trị khác nhau:

1. Vận động:
Bắp thịt và xương, khớp như anh em ruột thịt, phối hợp, giúp đỡ nhau trong lúc hoạt động. Bắp thịt quanh khớp nếu dẻo dai, vững chắc sẽ giúp khớp bớt làm việc, hoặc làm việc hữu hiệu hơn, và cái đau sẽ nhẹ đi.



Các vận động nhẹ nhàng, không đặt nhiều sức nặng trên khớp (low-impact, nonweight-bearing) rất tốt. Bơi lội tuyệt nhất. Không th́ những thể dục năng động nhẹ (low-impact aerobics exercises), hoặc các cách tập đặc biệt dùng cho người mang bệnh khớp. Đạp xe đạp đều có thể làm bớt đau khớp gối bị bệnh. Một chuyên viên thấu đáo về việc tập luyện cho người mang bệnh khớp (physical therapist) có thể giúp ta rất nhiều, chỉ dẫn cho ta những cách tập đúng với nhu cầu của tật bệnh ta.



Kiên nhẫn là mẹ thành công. Tập 4-5 lần mỗi tuần, đều như vậy, sau hai tháng, thường sẽ bắt đầu thấy có tiến triển tốt.



2. Đắp, thoa tại chỗ:



- Ấp nhiệt (khăn, b́nh nước nóng, heating pad, ...) vào khớp đau có thể giúp khớp bớt đau và cứng. Cách giản dị và rẻ tiền là tắm nước ấm vào buổi sáng lúc khớp hay bị cứng. Có vị thấy bớt đau khi dùng nước đá thay v́ dùng nhiệt.


- Một loại kem được xem có tác dụng giảm đau, mua bên ngoài không cần toa bác sĩ là capsaicin cream. Thoa kem capsaicin ngày vài lần trên khớp, có khi bạn không cần uống thuốc giảm đau nữa. Kem capsaicin rất hữu hiệu cho các khớp gối và bàn tay. Khi mới dùng, có thể thấy nóng ở chỗ thoa thuốc, song tiếp tục dùng, phản ứng khó chịu này sẽ bớt dần.


3. Tránh bắt khớp bệnh làm việc quá sức:


- Luôn giữ cơ thể trong tư thế thẳng thắn. Khi nghỉ ngơi, học hành, làm việc, lái xe, bạn nên ngồi ghế có lưng tựa thoải mái (thêm tay dựa càng tốt), sát người vào lưng ghế, để lưng ghế nâng đỡ cơ thể bạn cho thẳng, giúp các khớp xương, bắp thịt lưng và cổ không mỏi.


- Trong công việc hàng ngày, bạn xếp đặt công việc và dụng cụ làm việc hợp lư, thuận tầm tay, vừa tầm mắt, hầu khỏi cong cúi nhiều trong lúc làm việc. Đồng thời, ứng dụng tinh thần “chị ngă em nâng”, sử dụng càng nhiều khớp càng tốt trong lúc làm việc. Chẳng hạn, bưng tách cà phê với cả hai tay, nâng b́nh cà phê bằng cách đỡ cả trên lẫn dưới (một tay đỡ đáy b́nh, một tay xách quai xách phía trên), ... Với cách này, lực tác động sẽ lan tỏa, không khớp nào phải làm việc quá sức.


Cũng nhớ, khi nhặt vật ǵ dưới đất, thay v́ cúi lưng, bạn cong hai gối trong lúc giữ lưng cho thẳng. Khi bưng bê vật nặng, bạn đưa sát vào người, từ từ đứng lên, trong lúc vẫn thẳng lưng. Nếu vật quá nặng, cách tốt nhất là nhờ thêm người khác giúp sức.

- Người bị bệnh ṃn khớp hông hay khớp gối nên tránh đứng, qú, ngồi chồm hổm (squatting) lâu.

- Xe nặng, bánh mau ṃn. Nên xuống cân nếu béo mập.

- Giữ sự cân bằng giữa hoạt động và nghỉ ngơi. Những dịp nghỉ ngắn (10-20 phút) trong ngày giúp các khớp nghỉ ngơi sau những lúc hoạt động.

- Người bị bệnh ṃn khớp gối hay khớp hông một bên, có thể dùng gậy chống (cầm bằng tay bên không đau) để nâng đỡ cơ thể trong lúc đi lại, giúp các khớp đau đỡ làm việc trong lúc đi lại.

- Giày thể thao loại tốt, hấp thu bớt các sức tác động (impact-absorbing shoes), giúp giảm sức nặng đè trên các khớp ở chân, có thể khiến bớt đau khi đi lại, và có lẽ cũng làm chậm đà tiến triển của căn bệnh. Khổ nỗi, các cụ ta ít quen đi giày thể thao, thích đi dép cao su, dép Nhật cho nhẹ, thoáng, và chỉ... vài đồng một đôi.


4. Chữa trị bằng thuốc:


Thuốc giúp bớt đau. Những trường hợp đau nhẹ hoặc vừa, ta dùng Tylenol là đủ, rẻ, lại an toàn. Không mang bệnh gan hay thận, ta có thể dùng đến 8 viên Tylenol 500 mg mỗi ngày (2 viên ngày 4 lần). Những thuốc giảm đau chứa chất nha phiến như Tylenol số 2, số 3, Vicodin, ... thường không cần thiết, v́ tác dụng không dài. Hơn nữa, dùng liên tục, lâu ngày, thuốc có thể sẽ mất tác dụng và gây nghiện.




Các thuốc chống viêm không chứa chất steroid (non-steroid anti-inflammatory drugs, viết tắt NSAID) như Advil, Nuprin, Motrin, ... làm bớt đau và cứng khớp. Dùng Tylenol không bớt đau, ta có thể dùng đến những thuốc loại này. Cái bất lợi là, dùng lâu ngày, chúng có thể gây khó chịu, lở bao tử, chảy máu đường tiêu hóa, và hại cho thận, ... Dùng những thuốc này, ta nên uống lúc bụng no (đang ăn hoặc sau khi ăn). Thấy khó chịu vùng bụng trên, hoặc đi cầu ra phân đen, bạn nên ngưng thuốc và cho bác sĩ biết ngay. Một thuốc giảm đau khác có tên Ultram, cũng giúp nhiều người bớt đau, nhưng không gây những tác dụng độc hại như các thuốc trên. Tất nhiên, nó có thể gây những tác dụng phụ khác.


Gần đây, một số tài liệu đề cập đến việc dùng chất glucosamine và chất chondroitin để chữa bệnh khớp thoái biến, cho rằng hai chất này có khả năng giúp sửa chữa, tái tạo sụn khớp, và bổ khuyết lượng chất nhờn cần có trong khớp. Chúng tác dụng chậm, ít nhất 4 tuần mới công hiệu, và cũng có thể gây một số tác dụng phụ. Sự an toàn và hiệu quả về lâu về dài của thuốc chưa được biết rơ. Thuốc mua bên ngoài không cần toa, bạn có thể thử, song nên cho bác sĩ biết.

Ngoài các thuốc uống, trong nhiều trường hợp, bác sĩ cũng chích thuốc chứa chất steroid hoặc thuốc Synvisc thẳng vào khớp giúp khớp bớt đau.


5. Giải phẫu:

Giải phẫu dùng cho những trường hợp bệnh quá nặng gây đau nhức liên tục, chữa trị hết mức bằng những phương pháp nội thương song không kết quả. Có nhiều phương pháp giải phẫu khác nhau:

- Thay hẳn một khớp: khớp hông, khớp gối nay có thể thay.

- Gọt bớt xương (osteotomy).

- Mài bớt sụn (chondroplasty, abrasion arthroplasty).

- Đưa ống soi vào khớp, dọn dẹp những chỗ bị hư hoại trong khớp.




Sau cùng, ta cũng đừng quên vai tṛ của tinh thần trong sự chữa trị bệnh khớp thoái biến. Tinh thần và thể xác tuy hai nhưng là một. Trong điều kiện sức khỏe cho phép, nên thường xuyên vận động, hầu giúp cơ thể khỏe mạnh. Thể xác khỏe khoắn, ta thấy yêu đời, yêu người, đỡ căng thẳng tinh thần, và cảm nhận cái đau ít hơn. Một thể xác khỏe mạnh, một tinh thần lạc quan, một lư tưởng hoặc triết lư sống trong sáng, đấy là những viên thuốc bổ của đời sống. Xin biên toa để bạn dùng hàng ngày.

florida80
04-07-2019, 19:43
Trụ Sinh Không Chữa Được Cảm Cúm









Bác sĩ Nguyễn Văn Đức



Những ngày nắng nóng chắc đă qua, hôm nay trời mát nhiều rồi, thu đă ngoài ngơ. Tháng 10, 11 chúng ta nhắc nhau đi ngừa cúm.



Mùa lạnh là mùa của bộ hô hấp, trong đó có cảm (cold), cúm (flu). Nhiều vị trong chúng ta vẫn nghĩ cảm, cúm cần có trụ sinh mới mau hết.



Sự sử dụng trụ sinh ở Mỹ c̣n quá lung tung, và hiện tượng vi trùng kháng thuốc trụ sinh đang là mối lo ngại, nên Trung Tâm Kiểm Soát và Pḥng Ngừa Bệnh (CDC) thiết lập website www.cdc.gov/getsmart để giáo dục việc sử dụng trụ sinh, đồng thời gửi đến văn pḥng các bác sĩ tài liệu “Cold or Flu, Antibiotics Don’t Work for You” (Cảm hay cúm, các trụ sinh không giúp bạn đâu) để bác sĩ hướng dẫn những bệnh nhân của ḿnh về vấn đề này.



Xin dịch tài liệu “Cold or Flu, Antibiotics Don’t Work for You” của CDC, chúng ta cùng đọc:


Khi bạn bệnh, bạn muốn mau khỏe. Nhưng trụ sinh không phải là câu trả lời cho mọi thứ bệnh tật. Tập sách nhỏ này giúp bạn biết khi nào trụ sinh có tác dụng và khi nào không. Muốn t́m hiểu thêm, bạn hỏi bác sĩ bạn hoặc viếng website cdc.gov/drugresistance/community.

Nguy hiểm: Vi trùng sẽ kháng thuốc
Nếu bạn dùng trụ sinh hoài, sẽ có tai hại ǵ? Dùng trụ sinh lúc không cần thiết có thể làm các vi trùng trở thành kháng thuốc.


Các vi trùng kháng thuốc trụ sinh sẽ mạnh hơn và khó tiêu diệt. Các vi trùng này có thể tiếp tục ở trong cơ thể bạn và gây những bệnh hiểm nghèo không c̣n trị được với trụ sinh. Muốn trị được bệnh, chúng ta phải dùng những thuốc mạnh hơn, và có thể bạn phải vào nhà thương để chữa.


Để tránh t́nh trạng các bệnh nhiễm trùng kháng trụ sinh, Trung Tâm Kiểm Soát và Pḥng Ngừa Bệnh khuyên bạn nên tránh dùng trụ sinh khi không cần thiết.


Trụ sinh không phải là câu trả lời trong mọi trường hợp
Hầu hết các bệnh nhiễm trùng gây do hai loại trùng: vi trùng (bacteria) và siêu vi (virus). Trụ sinh chỉ chữa được bệnh do vi trùng, không chữa được bệnh do siêu vi.


Vi trùng gây bệnh viêm họng “strep throat” (viêm họng do vi trùng Streptococcus), vài bệnh sưng phổi (pneumonia) và nhiễm trùng xoang (sinus infections). Trụ sinh có tác dụng trong các bệnh này.


Siêu vi gây bệnh cảm (cold), cúm (flu), và hầu hết các trường hợp ho, chảy mũi, đau họng. Trụ sinh không có tác dụng trong các trường hợp này.


Dùng trụ sinh để chữa bệnh do siêu vi:

- Sẽ KHÔNG chữa được bệnh
- Sẽ KHÔNG giúp bạn mau khỏe hơn
- Sẽ KHÔNG ngừa được việc lây bệnh cho người nhà.




Câu hỏi hay được đặt ra
* Làm sao tôi biết được tôi bị bệnh do vi trùng hay siêu vi?

Bạn hăy hỏi bác sĩ bạn và nghe theo lời khuyên của bác sĩ.
Nên nhớ, nếu bạn bị cảm hay cúm, đây là bệnh siêu vi và trụ sinh không chữa được.




* Khi bị cảm hay cúm, trụ sinh không giúp tôi mau khỏe hơn sao? Không, trụ sinh hoàn toàn không có tác dụng ǵ với bệnh gây do siêu vi. Trụ sinh không hề giúp bạn mau khỏi bệnh.

Bạn hăy hỏi bác sĩ bạn về những cách chữa giúp bạn dễ chịu trong lúc chờ căn bệnh qua đi.




Hăy thông minh (Get smart)
- Trụ sinh là các thuốc mạnh, nhưng không phải bệnh nào chúng cũng chữa.

- Dùng không đúng, trụ sinh có thể gây hại cho sức khỏe của bạn.
- Trụ sinh chữa được hầu hết các bệnh vi trùng, nhưng không chữa được các bệnh siêu vi.
- Trụ sinh giết vi trùng, không giết được siêu vi; v́ vậy, trụ sinh không có tác dụng ǵ khi dùng để chữa cảm, cúm, chảy mũi, đau họng không do vi trùng Streptococcus, hầu hết các trường hợp ho và viêm ống phổi (bronchitis).
- Khi bạn bịnh, trụ sinh không phải lúc nào cũng là câu trả lời cho vấn đề sức khỏe của bạn.




Tự bảo vệ với sự chăm sóc tốt nhất Bạn không nên dùng trụ sinh để trị cảm thường (common cold) hay cúm (flu). Nếu bác sĩ biên toa trụ sinh cho bạn để chữa một bệnh nhiễm vi trùng (bacterial infection), chẳng hạn như bệnh “strep throat” (viêm họng do vi trùng Streptococcus), bạn nên dùng hết số lượng thuốc trong chai thuốc. Mới uống vài ngày thấy bớt đă ngưng thuốc, bệnh chỉ mới trị một phần, vi trùng chưa bị tiêu diệt hết có thể sẽ tấn công bạn trở lại, và nguy hiểm hơn, lúc đó chúng có thể đă trở thành kháng thuốc trụ sinh. Điều này cũng áp dụng cho cả trẻ em, chúng ta cần cho các em uống hết thuốc như chỉ dẫn của bác sĩ, dù thấy các em đă mau chóng bớt nhiều, khỏe hơn.




Thuốc trụ sinh nếu uống không hết (như trường hợp thuốc gây tác dụng phụ, bác sĩ khuyên bạn ngưng thuốc, đổi sang thuốc khác) nên vất đi, bạn không nên trữ lại ở nhà, và tự ư đưa cho người khác dùng thuốc trụ sinh của ḿnh.





Sưu tầm

florida80
04-07-2019, 19:45
Soi Ruột Cứu Người








Bác sĩ Nguyễn Văn Đức

Tôi có tất cả 12 người bệnh ung thư ruột già (colon cancer). Vài vị đă qua đời.


Một vị trên 50 tuổi không có bảo hiểm, Medi-Cal, nhiều năm lần lữa không đi soi ruột già, đến khi đi cầu ra máu, tôi gửi đi soi, ra ung thư ruột già, phải mổ cắt rộng chỗ ung thư, đoạn ruột già trên chỗ ung thư không nối lại với khúc dưới được, vị này nay phải đeo bọc phân ở bụng (colostomy), săn sóc bọc phân mỗi ngày. Rồi ung thư chuyển di đến phổi, lại mổ phổi, chuyển di đến gan, lại mổ gan. Hiện vị này c̣n đang trị liệu với hóa chất (chemotherapy).



Một vị khác nghe lời bạn bè, “Chị không có triệu chứng ǵ, đi soi ruột già làm chi”, cứ nhất định từ chối lời khuyên soi ruột già của tôi, đến khi thử phân, ba mẫu phân đều thấy có máu, lúc đó vị này mới chịu đi soi, ra ung thư ruột già, phải mổ, mổ xong tắc ruột, lại vào nhà thương lần nữa chữa tắc ruột. Con cái phải nghỉ việc nhiều ngày trông coi mẹ trong bệnh viện, rồi khi ra viện, chở đi bác sĩ ung thư và thông dịch.





Mỗi năm, có 11 triệu trường hợp ung thư ruột già mới xảy ra trên toàn thế giới. Riêng tại Mỹ, ung thư ruột già nhiều chỉ sau ung thư phổi, mỗi năm có thêm 150.000 trường hợp, làm thiệt mạng khoảng 50.000 người.

- Bác trên 50, nên đi soi ruột già. Bác để trễ chuyện này 16 năm rồi.

- Không bác sĩ ạ, tôi không đi soi, tôi muốn tiết kiệm tiền cho chính phủ.

- Nếu thương chính phủ, bác càng nên đi soi sớm. V́ chữa ung thư ruột già rất tốn kém trường hợp nó nặng, kể từ lúc khám phá ra ung thư ruột già, đến khi bác qua đời v́ căn bệnh, chính phủ phải bỏ ra mấy trăm ngàn đô-la để cố cứu bác. Tiền mổ, có khi nhiều lần, tiền chữa bằng hóa chất, tiền săn sóc bọc phân đeo ở bụng. Khổ cho bác, cho con cái bác, mà cho cả chính phủ.



Trong các tổ hợp y tế HMO (Health Maintenance Organizations, Tổ Chức Duy Tŕ Sức Khỏe) chăm sóc sức khỏe cho các vị cao niên, theo lệnh của Medi-Cal, Medicare, bác sĩ phải làm việc nghiêm túc, chú trọng việc pḥng ngừa bệnh cho các vị cao niên. Một trong những việc quan trọng này là nhắc nhở các vị đi soi ruột già để truy t́m ung thư ruột già (colon cancer screening) đúng hạn kỳ, bắt đầu từ tuổi 50, dù người bệnh không có triệu chứng ǵ cả.






Ba phương pháp truy t́m ung thư ruột già Medi-Cal, Medicare, qua tổ hợp y tế HMO, muốn các bác sĩ phải làm cho người bệnh 50 tuổi trở lên của ḿnh: soi toàn ruột già (colonoscopy) mỗi 10 năm, hoặc soi đoạn cuối của ruột già (sigmoidoscopy) mỗi 5 năm, hoặc thử phân hàng năm.



Soi toàn ruột già


Tốt nhất, chúng ta nên soi toàn ruột già (colonoscopy) mỗi 10 năm để truy t́m và ngừa ung thư ruột già.



Soi toàn ruột già giúp bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa nh́n trực tiếp niêm mạc lót ḷng của toàn thể ruột già, khám phá hầu hết các bướu thịt và ung thư nếu có.






Chiều hôm trước khi soi, người bệnh ăn lỏng (clear liquid diet), uống thuốc xổ để xúc sạch ruột. Khi soi, bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa cho người bệnh ngủ, và đưa một ống soi vào hậu môn người bệnh, đẩy dần lên để coi, cho đến khi đi hết ruột già từ trái sang phải. Thấy có chỗ nào trông bất thường, qua ống soi bác sĩ có thể cắt đi đem thử thịt.



Soi toàn ruột già có thể gây chảy máu hoặc làm rách ḷng ruột già với tỉ lệ 1/1000. V́ được cho ngủ, hôm đi soi, người bệnh cần có người chở về, và không thể đi làm trong cùng ngày. Trả tiền mặt, soi toàn ruột già tốn khoảng 900-1000 Mỹ kim; trong các tổ hợp y tế HMO, các vị cao niên không phải trả tiền.






Sigmoidoscopy

Đây là phương pháp soi đoạn cuối của ruột già (phần ruột già bên trái) gần về phía hậu môn (ống soi chỉ vào sâu 60 cm), và nếu b́nh thường, sẽ làm lại mỗi 5 năm.






Chiều trước ngày soi sigmoidoscopy, người bệnh ăn thức ăn lỏng, và chỉ cần được bơm thuốc vào hậu môn để đi cầu cho sạch hết phân ngày hôm sau trước khi soi. Thường khi soi, người bệnh không phải ngủ và có thể trở lại làm việc trong ngày.


Soi sigmoidoscopy có thể khám phá các bướu thịt hoặc ung thư trong phạm vi các vùng được soi. Việc soi rất ít nguy hiểm, hiếm khi xảy ra chảy máu hoặc rách ḷng ruột già.







Sigmoidoscopy rẻ hơn colonoscopy, ít nguy hiểm hơn, song điểm bất lợi nhất của sigmoidoscopy là không t́m được những bướu thịt hoặc ung thư ở phía bên phải của ruột già. Ngoài ra, khi t́m thấy bướu thịt hoặc ung thư tại những vùng soi, sau đó cũng sẽ phải làm colonoscopy (tức tốn thêm lần tiền nữa) để soi toàn ruột già, v́ bướu thịt hoặc ung thư có thể xuất hiện luôn tại cả những vùng ruột già bên phải.





Thử phân






Ung thư ruột già hay gây chảy máu ít một, mắt chúng ta thường không nh́n thấy, song thử phân có thể khám phá thấy máu trong phân.

Vị nào không thích truy t́m ung thư ruột già bằng hai phương pháp kể trên, có thể thử t́m máu trong phân hàng năm. Thử thấy có máu trong phân, cần soi toàn ruột già t́m ung thư.






Tuy nhiên, phương pháp truy t́m bằng thử phân kém nhất, không mấy chính xác, do các bướu thịt trong ḷng ruột già hiếm khi chảy máu nên trắc nghiệm hay ra âm tính (không thấy có máu), ngược lại, nhiều trường hợp trắc nghiệm dương tính (thấy có máu), nhưng thực ra v́ những nguyên nhân khác không phải ung thư, chẳng hạn như trĩ.






Trên là ba phương pháp truy t́m ung thư ruột già từ tuổi 50 cho người b́nh thường, không có triệu chứng, thực hiện trong các tổ hợp y tế HMO theo lệnh của Medi-Cal, Medicare. Với các vị có những yếu tố quan trọng dễ đưa đến ung thư ruột già (có người thân trong gia đ́nh bị ung thư ruột già, bệnh viêm ruột, …) tùy trường hợp, bác sĩ sẽ đề nghị truy t́m sớm hơn so với người thường.






Đầu năm 2014 tới, tất cả các vị Medi-Medi sẽ lần lượt phải gia nhập một tổ hợp y tế, và vào cuối năm nay, sẽ nhận được thư thông báo, yêu cầu chọn bác sĩ chính (primary care doctor) và tổ hợp y tế, nếu không, sẽ bị chỉ định bác sĩ và tổ hợp. V́ trong tổ hợp, các vị sẽ được chăm sóc kỹ càng hơn với những chỉ thị trực tiếp của Medi-Cal, Medicare các bác sĩ trong tổ hợp phải thi hành, c̣n như bây giờ, người có Medi-Medi muốn đi đâu th́ đi, dễ sa vào tay những bác sĩ chỉ muốn kiếm tiền bằng những phương cách bất chính gây tốn kém công quĩ, mà không khuyên người bệnh những việc cần làm. Với mô thức tổ hợp y tế, chính phủ biết chắc những chỉ thị đưa xuống các bác sĩ sẽ phải thi hành, đồng thời nắm vững được đồng tiền chi ra để chăm sóc sức khỏe cho các vị Medi-Medi, của công không c̣n bị lọt vào tay những kẻ gian giảo.



Soi ruột già vừa cứu mạng chúng ta, vừa tiết kiệm tiền cho hệ thống y tế chúng ta đang hưởng. Mà cũng chẳng phải tiền ǵ của hệ thống y tế, nhưng chính tiền của những người công dân Mỹ cần cù đi làm đóng thuế.






Cũng xin nhớ, trong lănh vực sức khỏe, một lời khuyên vô ư thức có thể gây hại, thậm chí ảnh hưởng đến tính mạng của người thân chúng ta. Chớ nên khuyên người kiểu, “Chị không có triệu chứng ǵ, đi soi ruột già làm chi, bác sĩ chỉ vẽ chuyện”, song nên khuyên, “Chuyện sức khỏe, chị hỏi ư kiến bác sĩ, c̣n chị hỏi chuyện bếp núc, làm vườn, mua hột xoàn, tui chỉ chị”.






Lời nói chúng ta nên thận trọng, nhất là trong những địa hạt chuyên môn ḿnh không rành.





Sưu tầm

florida80
04-07-2019, 19:46
Khắc Phục Găy Xương Đùi Ở Người Già









Găy cổ xương đùi là kiểu găy nội khớp của xương lớn nhất cơ thể. Đối với trẻ em và người lớn trẻ tuổi, găy cổ xương đùi thường xảy ra sau một chấn thương mạnh. Nhưng ở người cao tuổi, loại găy này có thể xảy ra chỉ do một chấn thương nhẹ như trượt chân, ngă đập vùng chậu hông xuống nền cứng, đây là loại găy xương nặng có thể dẫn đến tử vong.




V́ sao hay bị găy cổ xương đùi?




Cấu tạo các bè xương vùng cổ xương đùi chia hai bè cung nhọn và nan quạt, tiếp giáp giữa hai bè này là điểm yếu gọi là cổ phẫu thuật, v́ vậy mọi trường hợp găy cổ xương đùi thường xảy ra ở điểm yếu này. Do cấu tạo của mạch máu nuôi dưỡng nhiều ít khác nhau, nên khi găy xương càng sát chỏm th́ nguy cơ hoại tử chỏm càng lớn, v́ ở đây ít mạch máu nuôi dưỡng.




Ngược lại, găy ở xa chỏm, nhờ dinh dưỡng tốt hơn bởi có nhiều mạch máu nên ít bị hoại tử. Găy cổ xương đùi là găy xương phạm khớp, làm máu từ ổ găy chảy vào khớp, v́ vậy nếu bất động lâu sẽ dẫn đến thoái hóa và dính khớp, do khớp được nuôi bởi dịch khớp nhờ thẩm thấu, khi máu tràn vào khớp làm thay đổi dịch khớp, nên việc nuôi dưỡng kém và gây dính khớp. Cho nên các trường hợp găy cổ xương đùi cần điều trị sớm, phẫu thuật sớm, cố định tốt, vận động sớm để tránh dính khớp.




Có 2 nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp làm găy cổ xương đùi: trực tiếp do chấn thương đập mạnh vùng mấu chuyển lớn và cổ xương đùi gây ra găy dạng; gián tiếp do bị ngă mà bàn chân, đầu gối đập xuống nền cứng, trọng lượng cơ thể dồn từ trên xuống và phản lực từ dưới lên gây nên cơ chế “cắt kéo” làm găy cổ xương đùi. Mặt khác loăng xương cũng làm tăng tỷ lệ găy cổ xương đùi.




Phát hiện găy cổ xương đùi




Nhiều thống kê cho thấy: đa số trường hợp găy cổ xương đùi là người già, nữ nhiều hơn nam. Các dấu hiệu cần chú ư để phát hiện găy cổ xương đùi là: sau một chấn thương, bệnh nhân thấy đau chói tại khớp háng, đau vùng nếp bẹn; Nếu bất lực vận động một phần: bệnh nhân c̣n cử động được một số động tác của khớp háng, khớp gối, có khi c̣n tự đứng dậy và đi được vài bước.




Nếu bất lực vận động hoàn toàn: bệnh nhân hoàn toàn không cử động được. Trường hợp điển h́nh thấy chi bị biến dạng, sưng nề, nếu đo chu vi vùng đùi nghi ngờ thấy lớn hơn bên lành là có găy; đo chiều dài chi bên găy ngắn hơn bên lành; trục chi găy thay đổi; cổ và bàn chân bên găy xoay ngoài, ngả xuống mặt giường; để chân găy duỗi thẳng tác động nhẹ vào gót chân bệnh nhân thấy đau ở khớp háng.

Ấn vào trên cung đùi vùng mạch máu, bệnh nhân kêu đau chói ở ổ găy. Dấu hiệu đặc trưng là bàn chân xoay ngoài chừng 60 độ, trong khi bên lành bàn chân chỉ xoay ngoài được khoảng 30 độ. Nếu ổ găy nội khớp th́ gốc chi không sưng nề, không có máu tụ bầm tím. Trường hợp găy ngoại khớp th́ gốc chi sưng nề to, máu tụ bầm tím lan tỏa. Chụp Xquang có thể thấy rơ đường găy.




Cách chữa trị khi bị găy cổ xương đùi




- Sơ cứu: giảm đau cho bệnh nhân bằng thuốc uống hay tiêm; cố định xương dùng nẹp cố định của y tế (nẹp Cramer) hay nẹp tự tạo; vận chuyển bệnh nhân về cơ sở y tế trên ván cứng.

- Điều trị: hiện nay không dùng bảo tồn bằng nắn chỉnh bó bột do nặng nề, nhiều biến chứng. Phẫu thuật kết hợp xương bằng những chùm đinh nhỏ; các vít xương xốp tự do có ép hoặc không ép; các phương tiện kết hợp xương vững chắc như nẹp một khối, nẹp hai khối; kết xương bằng nẹp DHS (Dynamic hip sereust) vít vùng khớp háng có sức ép là biện pháp tốt nhất hiện nay nhờ các ưu điểm như sức ép tốt, chống xoay tốt, kết xương xong tập vận động được ngay. Phương pháp thay chỏm xương, thay ổ khớp cũng là cách điều trị tiên tiến.




Nếu điều trị bảo tồn, bất động nằm lâu có thể gặp các biến chứng: viêm phổi, viêm tiết niệu, loét do tỳ đè, suy kiệt, hoại tử chỏm, khớp giả, liền lệch trục, thoái hóa khớp háng, teo cơ cứng khớp háng...




Pḥng chống loăng xương ở người già




Chống loăng xương bằng cách dùng thực phẩm tốt cho xương như sữa và các chế phẩm từ sữa; ăn cá thay cho thịt mỗi ngày, ăn các loại rau xanh đậm màu như: cải xoăn, súp lơ xanh, cà rốt, củ cải, ḷng đỏ trứng gà, nước cam tươi, nước dâu tây, sữa tươi ít béo...




Pḥng tránh ngă cho người già bằng cách điều trị tích cực các bệnh viêm phổi, nhồi máu cơ tim, các bệnh gây kém mắt, kém tai, đeo kính và dùng máy trợ thính để cải thiện thị lực và thính lực. Khắc phục các yếu tố dễ gây ngă bằng cách san phẳng những chỗ mấp mô, lấp hố sâu trên lối đi, mắc thêm đèn ở những chỗ tối, làm thêm lan can vịn tay ở những chỗ cần thiết; bỏ bớt bàn ghế và những thứ không cần thiết trong nhà để việc đi lại được dễ dàng; dùng thảm không trơn trượt trong sàn nhà, sàn pḥng vệ sinh; dùng giầy dép có đế vững chắc, không trơn trượt, không đi guốc cao gót.





ThS. Bs. Trần Ngọc Hương

florida80
04-07-2019, 19:48
V́ Sao Hư Bộ Nhớ






Nếu tưởng người già mới lẫn th́ chưa đủ. T́nh trạng sa sút trí nhớ đến độ "vừa nghe đă quên" của người trẻ từ lâu đă vượt xa mức báo động.







Ai chưa tin xin thử xem có bao nhiêu người nhớ nổi số... driver license ! Nhiều người quên tuốt luốt, quên giờ vào sở, quên luôn công việc, quên cả vợ con, đến độ sau giờ làm việc phải ngồi hàng giờ ở bàn nhậu để cố nhớ nẻo về nhà, thậm chí quên hết đến độ chỉ c̣n nhớ có mỗi ngày... lănh lương!

Chuyện ǵ cũng có lư do. Bộ nhớ mau hư thường v́ nạn nhân chính là thủ phạm do thiếu nhiều thứ cùng lúc lại thừa vài món trong cuộc sống thường ngày. Đó là:




* Thiếu ngủ: Không kể người lỡ chọn nghề trực đêm, thiếu ngủ v́ thức quá khuya dường như là "mốt" của nhiều cư dân trong các thành phố. Kẹt một điểm là chất lượng của trí nhớ gắn liền với độ sâu của giấc ngủ, theo kết quả nghiên cứu ở Đại học Schleiweg- Holstein. Nhưng nếu tưởng như thế chỉ cần dùng thuốc ngủ để ngủ cho được nhằm tăng cường trí nhớ th́ lầm. Thuốc an thần tuy tạo được giấc ngủ nhưng năo bộ đồng thời cũng mê một lèo khiến bộ nhớ quên luôn công việc.






* Thiếu nước: Năo lúc nào cũng tiêu thụ không dưới 20% năng lượng của cơ thể riêng cho chức năng tư duy. Năo v́ thế rất cần nước và chất đường sinh năng. Theo chuyên gia ở Đại học Erlangen, uống không đủ nước trong ngày lại thêm bữa ăn chiều thiếu chất ngọt là một trong các lư do khi tín hiệu thần kinh vừa nhập vào lại ra ngay, cứ như nước đổ đầu vịt.



* Thiếu dầu mỡ: Chất béo loại cần thiết cho cấu trúc của tế bào thần kinh như 3-Omega, Acid Linoleic... là món ăn chính của năo bộ. Đừng tưởng kiêng cử là béo tốt cho năo. Trái lại là khác. Tất nhiên đừng để tăng chất mỡ máu v́ đó là yếu tố bất lợi cho hoạt động của bộ năo. Nhưng thiếu mỡ cũng tai hại tương tự.



* Thiếu dưỡng khí: Thêm vào đó, năo không thể dán tín hiệu thần kinh, dù là h́nh ảnh hay âm thanh vào bộ nhớ nếu tế bào thiếu dưỡng khí v́ thiếu máu. Chính v́ thế mà nhiều thầy thuốc khuyên dùng cây thuốc có công năng cải thiện hàm lượng dưỡng khí trong năo bộ ngay cả cho người chưa phát hiện triệu chứng "đụng đâu quên đó”.



* Thiếu vận động: Nhiều công tŕnh nghiên cứu cho thấy người cao tuổi nếu vận động thể dục thể thao trong ngày th́ ít quên hơn người không vận động. Theo các nhà nghiên cứu về lăo khoa ở Hoa Kỳ, vận động trong ngày là điều kiện để bộ năo không thiếu dưỡng khí trong đêm. Cũng không cần h́nh thức thái quá, nhẹ nhàng thôi, như đi bộ, bơi, chạy xe, khí công..., miễn là ngày nào cũng có.



* Thiếu tập luyện: Muốn năo "bén nhọn" như xưa mà không tập luyện chẳng khác nào chưa học bài. Chơi ô chữ, sudoku, học ngoại ngữ, vẽ tranh..., kiểu nào cũng tốt, càng nhiều cách giải trí càng hay, miễn là đừng ngồi yên mỗi ngày nhiều giờ trước máy truyền h́nh v́ đó là h́nh thức tai hại cho bộ năo.




* Thừa Stress: Bôi sạch bộ nhớ là một trong các phản ứng phụ của nội tiết tố nẩy sinh trong t́nh huống Stress. Biết vậy nên t́m cách pha loăng Stress bằng thể dục thể thao, thiền định, kiểu nào cũng được, miễn vui là chính. Thêm vào đó, đừng tự đầu độc cơ thể và bộ năo bằng thuốc lá, rượu bia, thịt mỡ... Với bộ năo "ngập rác" th́ quên là cái chắc v́ đâu c̣n chỗ nào để nhớ!



* Thừa chất oxy-hóa: Hàm lượng chất gây rỉ sét tế bào sản sinh từ rối loạn biến dưỡng, độc chất trong môi trường ô nhiễm, khói thuốc lá, độ cồn, phụ gia trong thực phẩm công nghệ, hóa chất trong dược phẩm... càng cao, tế bào năo càng mau già trước tuổi. Cầm chân chất oxy-hóa bằng hoạt chất kháng oxy-hóa v́ thế là biện pháp chủ động để bộ nhớ đừng mau "hết đát".
Hăy đừng "đem năo bỏ chợ" qua lối sống chẳng khác nào có thù sâu với năo bộ. Nếu đối xử với năo bạc bẻo th́ đừng trách có lúc "có vay có trả”




BS. LƯƠNG LỄ HOÀNG

florida80
04-07-2019, 19:50
Hăy Tắt Facebook Trước Khi Năo Suy Sụp










Người sử dụng internet hàng ngày đối đầu với một lượng thông tin quá tải, dễ dẫn đến mất những thông tin quan trọng trong bộ nhớ của chính ḿnh, trong khi đó họ được đưa vào trí nhớ những thông tin không mấy quan trọng.

Bộ nhớ ngắn hạn của con người, khác với phần bộ nhớ dài hạn, chỉ có chỗ chứa rất hạn chế và thời gian cũng có hạn, tờ báo Ư Corriere della Sera đă viết về việc con người càng mất nhiều thời gian vào Faceboook và các mạng xă hội khác th́ họ có nguy cơ bị nhanh chóng chiếm hết phần bộ nhớ ngắn hạn.




Trong một nghiên cứu gần đây, các nhà khoa học Thụy Điển đă cảnh báo rằng chúng ta không được gây quá tải cho phần bộ nhớ ngắn hạn, nếu không nó sẽ bị lấp đầy và dễ sụp đổ. Các nhà khoa học khuyên những người sử dụng internet không nên tốn quá nhiều thời gian trên Facebook, v́ nó có thể làm nguy hại đến dung lượng của bộ nhớ và dẫn đến mất nhiều thông tin quan trọng.

Không có chỗ cho những thông tin quan trọng




Ảnh minh họa



Quả đất nóng dần lên tầng ôzôn có vấn đề ǵ đó
Sọ dừa gặp vấn đề tŕ trệ
tri thức nhồi vào tri thức cứ pḥi ra
(Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ - Nguyễn Duy)




Theo các nhà khoa học ở Viện Công nghệ Hoàng gia Stockholm th́ khi đọc các mạng xă hội hàng ngày, người sử dụng đứng trước một khối lượng thông tin quá tải, dễ dẫn đến mất những thông tin quan trọng trong bộ nhớ của chính ḿnh, trong khi đó họ được đưa vào trí nhớ những thông tin không mấy quan trọng. Bộ nhớ ngắn hạn sẽ dễ bị tắc nghẽn và sinh ra vấn đề. Erik Fransen - người đứng đầu nhóm nghiên cứu - nói rằng hậu quả của việc sử dụng nhiều mạng xă hội thiếu sự nghỉ ngơi hồi phục sinh lực có thể dẫn đến mất chỗ chứa của bộ nhớ.
Những nhà tâm lư thường gọi nó là working memory (WM) tức là bộ nhớ làm việc hơn là bộ nhớ ngắn hạn. Bộ nhớ làm việc có hai hạn chế: hạn chế về thời gian và hạn chế về số lượng. Có nghĩa là khoảng thời gian để xử lư những thông tin nào đó được giữ ở trong hệ thống nhận biết, trước khi loại bỏ và quên đi hoặc đưa vào bộ nhớ dài hạn, vốn rất ngắn, chỉ kéo dài khoảng 20 giấy. V́ phải chạy đua với thời gian nên bộ năo bị bắt buộc phải lựa chọn, trở nên rất dễ bị căng thẳng.


Bộ nhớ con người không tính đến internet




Hệ thống hoạt động của bộ nhớ ngắn hạn giúp cho chúng ta không bị lấp đầy những bởi những kích thích cảm giác và lượng thông tin tới quá nhiều từ môi trường bên ngoài. Nói cách khác bộ nhớ ngắn hạn bảo vệ chúng ta. Nhưng bộ nhớ ngắn hạn không tính đến việc h́nh thành internet và trước hết là những mạng xă hội, và v́ thế nó không thích ứng được với hoạt động này.


Theo ông Erik Fransen, phương pháp giải quyết là phải điều độ và suy tính: Facebook cũng được, nhưng chỉ với thời gian sử dụng thích hợp, trước hết phải để cho năo có thời gian nghỉ ngơi. Bộ năo thầm lặng của con người hoạt động không ngừng hoàn toàn xứng đáng có những khoảng thời gian để nghỉ ngơi.


Người dịch: Nguyễn Minh (vietinfo.eu)

florida80
04-08-2019, 18:32
Tin Vui Cho Con Người: Đă T́m Ra Phương Pháp Trị Liệu Mới Cho Ung Thư Máu !






Thank you Cali Today News







Thay v́ sử dụng hóa trị và xạ trị tấn công thẳng vào các tế bào ung thư, những bác sĩ tại Philadelphia đă "huấn luyện" cho các tế bào miễn dịch trong cơ thể của Nick trở nên mạnh mẽ hơn và "chuyên nghiệp" hơn trong việc tiêu diệt những tế bào ung thư.


Cali Today News- Nick Wilkins được các bác sĩ chẩn đóan bị mắc bệnh ung thư bạch cầu từ khi mới lên 4 tuổi. Sau 10 năm điều trị, các tế bào ung thư vẫn tiếp tục quay trở lại dù cho các bác sĩ đă sử dụng tất cả các phương pháp trị liệu, sau cùng người cha đă phải nói chuyện với chính đứa con trai của ḿnh.

http://www.baocalitoday.com/vn/tin-tuc/khoa-hoc-doi-song/tin-vui-cho-con-nguoi-da-tim-ra-phuong-phap-tri-lieu-moi-cho-ung-thu-mau.html#





Ông John Wilkins giải thích cho Nick, cậu bé con 14 tuổi hiểu rằng các bác sĩ đă cố gắng hết sức, dùng mọi phương pháp trị liệu từ hóa trị cho đến xạ trị, thậm chí là đă tiến hành cấy ghép tủy do chị gái của cậu bé hiến tặng, thế nhưng t́nh trạng bệnh của cậu bé có vẻ không mấy khả quan hơn.





Ông John hồi tưởng lại: “Tôi nói với thằng bé rằng chúng ta không c̣n sự lựa chọn nào khác.”




Chỉ c̣n một phương pháp điều trị duy nhất mà họ có thể thử: một liệu pháp đang trong quá tŕnh thử nghiệm của Đại học Pennsylvania.




Dù 14 tuổi nhưng Nick hiểu rằng nếu lần thử nghiệm này thất bại sẽ đồng nghĩa với việc cậu bé có thể chết, thằng bé lúc ấy rất kiên cường.




Vài tháng sau đó, Nick rời Virginia, nơi gia đ́nh cậu bé đang sống, chuyển đến Philadelphia mang theo hy vọng sống mong manh. Cậu bé chính thức trở thành một phần của cuộc thử nghiệm phương pháp mới này.




Phương pháp mới này được các bác sĩ mô tả là hoàn toàn khác hẳn với những phương pháp mà Nick đă được dùng trước đó: Thay v́ sử dụng hoá trị và xạ trị tấn công thẳng vào các tế bào ung thư, những bác sĩ tại Philadelphia đă “huấn luyện” cho các tế bào miễn dịch trong cơ thể của Nick trở nên mạnh mẽ hơn và “chuyên nghiệp” hơn trong việc tiêu diệt những tế bào ung thư.




Hai tháng sau, kết quả thật ngoài sức tưởng tượng, mọi người gọi đó là một phép màu, Nick xuất viện với kết quả xét nghiệm cho thấy cậu bé không c̣n bị tế bào ung thư đeo bám nữa.




Đă sáu tháng trôi qua kể từ ngày Nick tham gia thử nghiệm phương pháp trị liệu mới, kết quả của những cuộc xét nghiệm và kiểm tra đều đặn đă chứng minh được thành công của phương pháp thần kỳ này. Hiện Nick đă bước sang tuổi 15, sống khoẻ mạnh và không c̣n dấu hiệu của bệnh tật.


Có khoảng 21 người trẻ khác cũng đă được trị liệu bằng phương pháp mới này tại bệnh viện trẻ em The Children’s Hospital of Philadelphia, và 18 bệnh nhân trong số đó, cũng giống như Nick, đang có dấu hiệu thuyên giảm hoàn toàn tế bào ung thư; một trong số đó cũng đă được công bố là không c̣n tế bào ung thư trong cơ thể.




Các bác sĩ của Đại học Penn đă công bố phát hiện mới của họ vào cuối tuần này tại hội nghị thường niên của Hội huyết học Mỹ (The American Society of Hematology).




Cũng tại hội nghị này, hai trung tâm nghiên cứu về ung thư khác là Memorial Sloan – Kettering tại New York và National Cancer Institute cũng sẽ công bố kết quả mà họ đạt được bằng phương pháp miễn dịch trị liệu giống như phương pháp mà Nick đă được dùng để chữa trị.











Các công bố này đă mang lại nhiều hứa hẹn cho các bệnh nhân của căn bệnh ung thư, đặc biệt là những bệnh nhân đă thử qua nhiều phương pháp trị liệu mà vẫn không thành công.






Tiến sĩ David Porter, một chuyên gia về huyết học và là một bác sĩ chuyên khoa thuộc Đại học Penn nói: “Phương pháp này thật sự là một bước tiến vượt bậc so với những phương pháp điều trị ung thư mà tôi từng được thấy suốt 20 năm qua. Chúng ta đang bước vào một thời kỳ mới của y học.”






Trong phương pháp mới này, đầu tiên các bác sĩ sẽ loại bỏ các tế bào T-cell (một dạng tế bào bạch cầu), tế bào này đóng vai tṛ quan trọng trong hệ thống miễn dịch. Sau đó họ tiến hành tổ chức lại cấu tạo của tế bào bằng cách chuyển đổi cấu tạo gene của nó. Khi được đưa trở lại vào cơ thể bệnh nhân, mỗi tế bào đă được biến đổi sẽ nhân lên đến 10,000 tế bào mới. Những tế bào “thợ săn” này sau đó sẽ theo dơi và tiêu diệt các tế bào ung thư bên trong cơ thể của bệnh nhân.






Về cơ bản, các nhà nghiên cứu đang cố gắng để đào tạo cơ thể của Nick chống lại căn bệnh ung thư, tương tự như cách cơ thể chúng ta chống lại bệnh cảm lạnh thông thường.






Ngoài những bệnh nhân thuộc khoa nhi, các nhà khoa học của Đại học Penn cũng đă thử phương pháp mới này trên 37 người lớn mắc bệnh bạch cầu và 12 trong số 37 bệnh nhân đó đă hoàn toàn khỏi bệnh. Tám người khác đang dần có dấu hiệu khả quan và các kết quả kiểm tra cho thấy t́nh trạng bệnh của họ đang ngày càng thuyên giảm.






Khi tham gia phương pháp điều trị này, các bệnh nhân sẽ có những triệu chứng giống như bệnh cảm cúm trong một quăng thời gian ngắn.






Các bác sĩ và nhà khoa học của Đại học Penn đang làm việc với những trung tâm y tế khác để có tể kiểm tra tính thành công của phương pháp mới này trên nhiều bệnh nhân hơn nữa. Họ cũng có kể hoạch sẽ thử áp dụng phương pháp này cho điều trị các loại ung thư máu và các khối u rắn.






Câu hỏi lớn được đặt ra là: liệu căn bệnh bạch cầu của Nick có quay trở lại?






Các nghiên cứu chỉ được tiến hành từ năm 2010, nhưng cho đến nay, tỉ lệ tái phát được xác định là tương đối thấp: trong 18 bệnh nhi khác, những bệnh nhân có dấu hiệu khỏi bệnh chỉ có 5 trường hợp bị tái phát bệnh; và trong 12 trường hợp bệnh nhân ở độ tuổi trưởng thành, những người cũng đă được xác định là đang thuyên giảm sau khi tham gia điều trị bằng phương pháp miễn dịch trị liệu này, chỉ có một trường hợp bị mắc bệnh trở lại. Một số bệnh nhân đă khỏi bệnh được ba năm và không có dấu hiệu tái phát của bệnh.






Tiến sĩ Porter kể lại: Đầu tiên, chúng tôi đă rất vui mừng khi t́m thấy các tế bào T-cell - những tế bào “thợ săn” vẫn c̣n sống sót trong cơ thể của bệnh nhân sau hơn ba năm. Chúng vẫn c̣n hoạt động và vẫn làm tốt chức năng của chúng: t́m kiếm và tiêu diệt tế bào ung thư, v́ thể khả năng tái phát bệnh là rất thấp. Hơn nữa, trước khi tuyên bố bệnh nhân đă thuyên giảm hay khỏi bệnh, chúng tôi phải lùng sục các tế bào ung thư, điều này đặc biệt khó khăn, nhất là với những tế ung thư đă biến đổi, rất khó để nhận dạng chúng. Thông thường, dạng tế bào bệnh bạch cầu mà Nick mắc phải, các bác sĩ có thể t́m thấy từ một trong số 1,000 tến bào cho đến một trong số 10,000 tế bào ung thư. Nhưng công nghệ cua Penn có thể t́m thấy một trong số 100,000 cho đến một trong 1 triệu tế bào ung thư, và chúng tôi đă không t́m thấy bất kỳ tế bào ung thư nào trong cơ thể của Nick hoặc bất cứ bệnh nhân nào đă được tuyên bố khỏi bệnh hoàn toàn.






Một trong những khía cạnh tốt nhất của phương pháp điều trị mới này là nó sẽ không quá khó khăn hay phức tạp để tiến hành tại những trung tâm y tế khác. Tiến sĩ Porter hy vọng một ngày nào đó, phương pháp này sẽ chính thức được công nhận và sử dụng để điều trị cho những bệnh nhân chứ không chỉ là phương pháp thực nghiệm.






“Chúng tôi hy vọng điều này sẽ sớm thành sự thật. Có thể năm tới phương pháp này vẫn chưa được đưa vào sử dụng, nhưng tôi nghĩ rằng sẽ không lâu đến một thập kỷ để chờ đợi phương pháp này.”






Cho tới thời điểm này, các bệnh nhân chỉ có thể nhận được phương pháp điều trị này nếu họ đang tham gia vào quá tŕnh nghiên cứu và thử nghiệm, nhưng Tiến sĩ Renier Brentjens, giám đốc của dự án điều trị ung thư bằng liệu pháp tế bào (tương tự phương pháp miễn dịch trị liệu) tại Memorial Sloan – Kettering dự đoán rằng phương pháp này sẽ sớm được phổ biến trong ṿng ba đến năm năm tới.






Ông khẳng định, sự thành công của liệu pháp này không phải là một tṛ chơi may rủi mà là quá tŕnh của sự nghiên cứu và sự tham gia thử nghiệm của rất nhiều bệnh nhân mắc bệnh ung thư. Ông nói rằng ông sẽ không bao giờ quên bệnh nhân đầu tiên mà ông điều trị, bệnh nhân này ban đầu có một lượng lớn các tế bào ung thư trong tủy xương của ḿnh. Nhưng sau khi tham gia thử nghiệm phương pháp mới này, Renier đă quan sát dưới kính hiển vi và kinh ngạc nhận ra ông không thể t́m thấy bất cứ một tế bào ung thư nào nữa cả. Ông kể lại với một niềm tự hào: “Tôi không thể mô tả cảm giác lúc đó. Thật tuyệt vời!”






Kha Trần

florida80
04-08-2019, 18:34
Thay Thận










Với bệnh nhân bị suy cả hai trái thận và đă trải qua nhiều năm lọc máu nhân tạo, thay thận là một trị liệu nên làm, v́:




- Không c̣n phải phụ thuộc vào lọc máu mỗi tuần lễ ba lần.

- Cảm thấy thoải mái, khỏe mạnh, nhiều sinh lực hơn sau khi nhận thận mới.
- Không phải kiêng khem ăn uống và giới hạn hoạt động hàng ngày như trường hợp lọc máu.
- Tuổi thọ kéo dài hơn là nếu tiếp tục lọc máu. Tỷ lệ sống sót sau ghép thận là :


* 92% với 1 năm

* 80% với 5 năm
* 54% với 10 năm

- Trong lâu dài, chi phí cho thay thận ít hơn so với lọc máu suốt đời.

Phẫu thuật thay thận hiện nay rất phổ biến với kỹ thuật tân tiến, ít biến chứng. Rủi ro chính là:
- sự chối từ rejection thận mới, nhưng có thể hóa giải được bằng thuốc ức chế miễn dịch.
- nhiễm trùng trầm trọng;
- xuất huyết;
- phản ứng với thuốc mê…


B́nh thường th́ nhóm máu và mẫu mô bào của người cho và người nhận phải phù hợp để tránh sự chối bỏ cơ quan do tính miễn dịch người nhận tấn công mô mới ghép. Ngày nay, nhờ trị liệu miễn dịch đặc biệt ở người nhận trước khi cấy ghép cho nên trở ngại trên đă được loại bỏ.

Sau đây là mấy hiểu biết căn bản cho người muốn ghép thận và người hiến thận. Người bị thận suy, chỉ cần nhận được một trái thận là đủ kéo dài cuộc sống b́nh thường.




Người nhận.




1-Suy thận v́ những lư do sau đây đều được ghép thận:

- Bệnh tiểu đường

- Viêm thận-tiểu cầu (Glomerulonephritis)

- Cao huyết áp trầm trọng và không kiểm soát được

- Một vài loại bệnh nhiễm.






2-Không được ghép thận nếu:

- Có bệnh nhiễm như bệnh lao.

- Không thể uống thuốc mỗi ngày trong suốt cuộc đời c̣n lại

- Đang có bệnh tim, phổi hoặc gan

- Có các bệnh khác có thể đe dọa tới tính mệnh.




3-Sửa soạn ghép

Bệnh nhân phải sẵn sàng tuân theo các chương tŕnh y tế trước và sau khi giải phẫu, như là tự chăm sóc và dùng dược phẩm ức chế miễn dịch mỗi ngày, suốt đời để tránh cơ thể chối từ thận mới.

Phải hợp tác chặt chẽ với bác sĩ và các chuyên viên để hưởng lợi ích tối đa và giảm thiểu rủi ro của phẫu thuật.

Trước khi nhận thận, bệnh nhân cần được bác sĩ khám tổng quát rất kỹ và làm một số thử nghiệm như:

- Thử máu để biết loại máu cùa ḿnh có thích hợp với thận người cho hoặc coi xem có bị bệnh nhiễm như HIV, viêm gan.

- Chụp h́nh tim phổi, đo điện tâm đồ.

- Chủng ngừa các bệnh viêm gan, viêm phổi… để tăng cưởng khả năng miễn dịch bảo vệ cơ thể.

Đồng thời cũng phải thảo luận với các giới chức liên hệ về chi phí, v́ chi phí cho một cuộc thay thận và thuốc men cần uống suốt đời đều khá cao.

Phẫu thuật kéo dài khoảng 3 giờ.

Thận cho được đặt vào phần dưới của bụng; mạch máu thận người cho nối với mạch máu người nhận; ống dẫn tiểu nối với bàng quan người nhận. Thận cho bắt đầu hoạt động ngay.

Trong đa số các trường hợp, thận bị suy không cần lấy ra trừ khi bị nhiễm trùng trầm trọng, ung thư thận, hội chứng hư thận (nephrotic syndrome) hoặc thận đa nang ( polycystic kidney.)




4-Những việc cần làm sau khi ghép thận

Ghép thận là một đại giải phẫu, thường là phải ở lại bệnh viện từ 7 tới 10 ngày rồi cần ít nhất 6 tuần lễ để hồi phục. Sau đây là một sồ điều nên lưu ư:

a- Để ư theo dơi xem có dấu hiệu cơ thể từ chối thận mới, như là nhiệt độ cơ thể trên 38C ( 104F), giảm lượng nước tiểu, tăng cân trên 2lb (900gr) trong 1 tuần lễ, tăng huyết áp, cảm giác đau ở vùng thận.

b- Uống thuốc theo đúng hướng dẫn: không bẻ nhỏ thuốc, không quên một liều nào, không uống gấp đôi khi quên.

c- Giảm thiểu muối để tránh ứ nước; tránh rượu v́ rượu gây tổn thương cho thận đặc biệt là khi dùng chung với thuốc ức chế miễn dịch.

d- Tránh làm công việc nặng nhọc trong 6 tuần lễ. Khi nằm nên cử động hạ chi để tránh máu cục.

e- Giới hạn tiêu thụ các thuốc chống đau trong tuần lễ đầu sau giải phẫu, ngoại trừ khi có chỉ định khác của bác sĩ.

f- Sinh hoạt b́nh thường trở lại khi thấy có thể, nhưng không nên cố gắng quá sức, không nâng nhấc vật nặng, không làm tổn thương tới trái thận mới.

g- Đo ghi nhiệt độ, huyết áp trước và sau bữa ăn trưa, tối. Thông báo cho bác sĩ nếu nhiệt độ cao quá 99.6F

h- Cân trọng lượng cơ thể mỗi ngày vào cùng giờ và thông báo cho bác sĩ ngay nếu tăng 2 lb một tuần lễ.




Người cho thận

Thận có thể được lấy từ:

- Người mới măn phần, không có bệnh thận măn tính. Đa số thận cho đều do nguồn cung cấp này.

- Người cho c̣n sống có liên hệ với người nhận như cha, mẹ, anh chị em hoặc con cái. Tỷ lệ thành công rất cao ở trường hợp cho này v́ không bị chối từ.

- Người cho c̣n sống nhưng không có liên hệ gia đ́nh, như bạn bè.

Người cho không nên quá mập, không cao huyết áp, ung thư, bệnh nhiễm măn tính, bệnh tim, thận.

Đôi khi, người cho cũng được yêu cầu làm một trắc nghiệm tâm lư để coi họ có hiểu rơ ư nghĩa và rủi ro có thể xảy ra khi cho thận.

Họ có thể thay đổi ư kiến vào phút chót và họ cũng không nên có ư nghĩ là cho thận tức là có quyền kiểm soát đời sống người nhận.

Luật lệ Hoa Kỳ cũng như nhiều quốc gia khác không cho phép người cho nhận tiền khi hiến thận.

Chi phí cho các dịch vụ y tế khi cho thận như thử nghiệm, phẫu thuật lấy thận, chăm sóc tại bệnh viện sẽ do bảo hiểm người nhận trả. Tại Hoa Kỳ thẻ bảo hiểm Medicare gánh chịu các phí tổn này. Tuy nhiên người tặng không được bồi hoàn các thua thiệt tài chánh trong thời gian cho và nằm bệnh viện cũng như điều trị các bệnh xảy ra do giải phẫu.




Dù thận từ đâu, sự thành công của ghép thật tùy thuộc vào việc tế bào và máu của đôi bên phải càng thích hợp với nhau càng tốt..

Thận người cho được giữ trong nước muối sinh lư lạnh trong ṿng 48 giờ để người nhận có th́ giờ sửa soạn.

Sau khi cho thận, cần thời gian từ 4-6 tuần lễ để hồi sức. Trong thời gian này, tránh những công việc nặng nhọc.

Theo một kết quả nghiên cứu của Đại học Minnesota được phổ biến trên tạp chí y học New Journal of Medicine ngày 29-1-2009, th́ người cho một thận sống lâu và khỏe mạnh như người có hai thận.



Tại Hoa Kỳ hiện nay có 77,000 bệnh nhân trong danh sách đợi để được thay thận.

Mỗi năm có khoảng 17,000 trường hợp ghép thận trong đó 10,500 thận đến từ người mới măn phần, 6000 thận từ thân nhân bạn bè cho. Thường thường người cần thận phải đợi khá lâu, có khi cả mấy năm mới đến lượt ḿnh.

V́ chờ đợi hơi lâu, có khi cả 5-7 năm, cho nên mỗi năm 4000 bệnh nhân trong danh sách đành măn phần, xa lánh cơi trần gian.






Kỹ thuật lấy thận

Từ lâu bác sĩ vẫn phải mổ bụng người cho để lấy thận. Vết mổ thường dài, người cho đau nhiều hơn, thời gian nằm bệnh viện và lành vết mổ cũng lâu.

Mới đây, các phẫu thuật gia tại Johns Hopkins University School of Medicine, Maryland, Hoa Kỳ đă thành công lấy trái thận lành mạnh của một phụ nữ qua âm đạo người này để tặng một cô cháu gái. Họ rạch ba vết mổ nhỏ bằng hạt đậu trên bụng để đưa ống nội soi có máy chụp h́nh và dụng cụ giải phẫu vào trong. Sau khi cắt, thận được bọc trong túi plastic rồi kéo ra ngoài qua một vết mổ nhỏ ở mặt sau âm đạo người cho.

Phẫu thuật kéo dài khoảng 3 giờ như trường hợp mổ bụng nhưng sẹo của lỗ mổ vừa mau lành vừa nhỏ hơn, nằm dưới cạp quần bikini, nên không mất thẩm mỹ.

Bác sĩ Anthony Kallo, Giám đốc bộ môn Dạ Dày-Ruột của đại học Johns Hopkins, người sáng chế phương pháp này, cho biết: “Giải phẫu với ống nội soi qua các lỗ /cửa mở thiên nhiên của cơ thể giúp bệnh nhân có sẹo nhỏ, ít đau đớn và rất an toàn đối với người mập ph́”

Thực ra th́ các cơ quan bị bệnh như túi mật, thận, ruột dư cũng đă được giải phẫu qua âm đạo hoặc miệng từ lâu, nhưng đây là lần đầu mà thận lành mạnh được lấy qua cơ quan sinh dục người nữ.

Mới đây, ngày 6 tháng 6, 2009, nhóm phẫu thuật tại Đại Học Illinois, Chicago đă sử dụng người máy da Vinci Robotic System đưa qua vết cắt dài 4cm trên da bụng để ghép thận cho một phụ nữ quá mập có nhiều rủi ro lây nhiễm. Nếu áp dụng phẫu thuật cổ điển phải rạch dài từ lớn hơn, 12-16 cm vết mổ lâu lành và dễ nhiễm trùng, chảy máu.

Thực là mầu nhiệm và nhân đạo v́ Y khoa học càng ngày càng tiến bộ để phục vụ sức khỏe con người.




Bác sĩ Nguyễn Ư-Đức

florida80
04-08-2019, 18:36
Bệnh Ngưng Thở Lúc Ngủ - (Obstructive Sleep Apnea)








Bệnh ngưng thở lúc ngủ là một biến chứng mà người ngủ bị ngưng thở khoảng 10 giây hay lâu hơn trong lúc ngủ.


Rất là nhiều người bị bệnh ngưng thở lúc ngủ này (obstructive sleep apnea). Bệnh này có thể xảy ra từ trẻ em nhi đồng cho tới mấy cụ già. Bệnh này thường xảy ra trong những người 20 tới 40 và xảy ra khá nhiều trong đàn ông.




Những nguyên nhân ǵ có thể gây ra bệnh này?




Có nhiều nguyên nhân có thể tạo ra bệnh này và thường là do bệnh mũi hay miệng bị nghẽn. Sau đây là các lư do:




Trẻ em:

a) Amidan (thịt dư) (tonsils) lớn

b) Amidan VA (adnoid) lớn

c) Cằm lẹm

d) Bệnh dị ứng (allergy)

e) Nặng cân

f) Bệnh khờ (Down’s Syndrome)

g) Bệnh bẩm sinh như là khuôn mặt và đầu sọ không được thành đúng h́nh (dị dạng) (craniofacial deformity), khe hở ṿm miệng (cleft palate) v.v..




Người lớn:

a) Mập béo (obesity)

b) Vách ngăn trong mũi bị lệch

c) Thịt dư trong mũi (nasal polyps)

d) Lưỡi gà (uvula) bị dài

e) Ṿm miệng mềm (soft palate) bị tḥng xuống miệng

f) Lưỡi lớn

g) Cằm lẹm v.v..

Những ví dụ trên có thể gây ra bệnh ngưng thở tại v́ mấy nguyên nhân này sẽ chận đường thở ở mũi, cổ họng và miệng nên hơi không khí không xuống phổi được và sẽ gây ra bệnh ngưng thở. Ngoài ra những ví dụ ở trên, bệnh ngưng thở có thể xảy ra nếu năo tủy (medulla oblongata) không hoạt động thường được.




Triệu chứng của bệnh ngưng thở lúc ngủ:

Dĩ nhiên chính người bệnh thường sẽ không biết ḿnh bị bệnh ngưng thở trong lúc ngủ v́ thường triệu chứng ngưng thở xảy ra trong lúc người bệnh đang ch́m trong giấc điệp. Thường là người thân ngủ cạnh nhận thức được cho người bệnh.




Các triệu chứng thông thường của bệnh ngưng thở:

a) Ngáy lớn

b) Ngưng thở hơn 10 giây trong lúc ngủ và có thể xảy ra từ 5-50 lần mỗi giờ

c) Ngủ không ngon giấc buổi tối

d) Ngủ gục ban ngày.

Mặc dù mũi, cổ họng, và miệng bị nghẹt, lâu lâu không khí cũng có thể đi qua mấy chỗ này và làm cho lưỡi gà bị rung nên gây ra ngáy. Tại v́ ngưng thở nên tối ngủ bị chập chờn không được ngon giấc bị thức nhiều lần cho nên sẽ gây ra sựûï ngủ gục trong ban ngày.




Ngủ bị chập chờn hay lăn qua lại, cảm thấy nghẹt thở, toát mồ hôi, tức ngực, không cảm thấy thoải mái hay khoẻ khoắn khi thức dậy. Không tập trung tư tưởng, mệt mỏi.




Tại sao ḿnh nên quan tâm về bệnh ngưng thở?

Bệnh ngưng thở có thể gây ra sự nguy hiểm đến sức khoẻ v́ nếu mà không trị bệnh này th́ lâu năm (có thể 10 tới 20 năm sau) bệnh này có thể gây ra bệnh suy tim (heart failure), cao áp huyết (hypertension), loạn nhịp tim (arrythmia), sudden infant death syndrome (SIDS) v.v... Ngoài những bệnh nguy hiểm này bệnh này có thể gây ra bệnh trầm cảm (depression), mất trí nhớ, mệt mỏi (fatigue), giảm t́nh dục, dễ đụng xe v́ ngủ gục trong khi lái, v.v...




Làm sao bác sĩ sẽ biết ḿnh bị bệnh ngưng thở?




Bệnh nhân nên tham khảo với bác sĩ về bệnh ngưng thở lúc ngủ nếu bạn hay người thân cho bạn biết bạn ngáy to như kéo gỗ, ngáy khoan ḥ hay ngáy như sấm. Người ngủ có thể thấy bạn sẽ bị ngưng thở hay nghẹn trong lúc ngủ. Bệnh nhân cảm thấy ḿnh ngủ không được ngon giấc, ngủ gục ban ngày; đôi khi có người bị nặng quá ngủ gục trong lúc đang ăn hay lúc nói chuyện, hay bị quên và lúc nào cũng mệt. Nếu bệnh nhân khai những triệu chứng kể trên, bác sĩ sẽ khám bệnh để xem bệnh nhân có bị những nguyên nhân như đă nói ở trên. Sau khi khám bệnh, bác sĩ sẽ làm thử nghiệm ngủ (sleep study). Có hai loại thử nghiệm ngủ, đó là ambulatory và sleep over. Nếu thử nghiệm bằng ambulatory study th́ nhân viên y tế sẽ mang máy tới nhà bệnh nhân và gắn máy trên người bệnh nhân một đêm và sẽ trở lại nhà bệnh nhân ngày sau và lấy máy về để xét kết quả. Nếu thử nghiệm sleep over th́ bệnh nhân phải tới pḥng thí nghiệm và ngủ qua đêm.




Bác sĩ cũng có thể dùng máy đo dưỡng khí (pulse oximeter) lúc bệnh nhân ngủ. Nếu dưỡng khí trong máu bị thấp là có thể bệnh nhân bị thiếu dưỡng khí v́ ngưng thở lúc ngủ. Bác sĩ có thể nội soi yết hầu để xem thanh quản có bị hẹp không.




Nếu bệnh nhân bị bệnh ngưng thở này v́ mập béo và bị ngưng thở dưới 5 lần mỗi giờ th́ họ phải cố gắng t́m cách để làm sụt cân và nằm xấp lúc ngủ. Tránh rượu bia và dùng thuốc ngủ hay thuốc an thần.




Ngủ cho đầy đủ. Nếu sau khi làm các cố gắng trên mà vẫn bị ngưng thở th́ bác sĩ sẽ ra ư kiến cho bệnh nhân thử máy thở (CPAP machine). Lúc sử dụng máy này, bệnh nhân sẽ đeo một cái mặt nạ (mask) mỗi đêm khi đi ngủ để máy thổi hơi và dưỡng khí oxygen vô miệng và cổ họng trong lúc ngủ.







Nhiều người không chịu quen được với máy CPAP th́ có thể cần phải giải phẫu. Tuỳ theo nguyên nhân gây ra bệnh này mà cách giải phẫu khác nhau. Nếu amidan bị lớn th́ nên cắt; nếu vách ngăn bị lệch th́ phải chỉnh vách ngăn; nếu ṿm miệng mềm và lưỡi gà bị dài th́ cắt bớt cho bộ phận này ngắn lại. Nhiều bệnh nhân mà bị ngưng thở nặng th́ vẫn có thể phải dùng máy CPAP sau khi mổ.




Bác Sĩ Đinh Ḥang Ngôn



at 12:36 AM

florida80
04-08-2019, 18:37
"Lịch tŕnh" Lăo Hóa Của Các Bộ Phận Trong Cơ Thể







Theo thời gian, cơ thể con người sẽ bị lăo hóa, thể hiện bằng những biến đổi về h́nh thái và chức năng của các bộ phận của cơ thể. Quá tŕnh lăo hóa không diễn ra đột ngột, mà đến từ từ.


Vậy hăy xem lịch tŕnh lăo hóa của các bộ phận trong cơ thể như thế nào nhé.

Tim: Lăo hóa từ tuổi 40

Ở tuổi 40, mạch máu dần mất đi sự đàn hồi, động mạch cũng có thể trở nên cứng hoặc bị tắc, nguyên nhân gây ra sự thay đổi này là do chất béo tích tụ ở động mạch vành. Điều này làm cho hiệu quả truyền máu của tim tới toàn bộ cơ thể cũng bắt đầu giảm xuống. Do đó, để giữ cho trái tim khỏe mạnh, tốt nhất bạn không nên ăn quá nhiều chất béo băo ḥa.




Phổi: Lăo hóa từ tuổi 20

Dung tích của phổi bắt đầu giảm dần từ tuổi 20. Đến tuổi 40, một số yếu tố như lồng ngực biến dạng, các khớp bị cứng, nhu mô phổi giảm đàn hồi... kết hợp với sự xơ cứng ở cơ bắp và xương sườn buồng phổi có thể khiến cho nhiều người bị khó thở.

Hoạt động của phổi gặp khó khăn, đồng nghĩa với việc không khí sau khi hít thở sẽ lưu lại trong phổi nhiều hơn dẫn tới khó thở.




Da: Lăo hóa từ khoảng tuổi 25

Cùng với sự giảm tốc của quá tŕnh tạo collagen, da bắt đầu lăo hóa tự nhiên từ tuổi 25. Các tế bào da chết sẽ không biến mất một cách nhanh chóng, trong khi lượng tế bào da mới có thể giảm đi chút ít. Kết quả là da sẽ xuất hiện nếp nhăn và trở nên mỏng hơn, ngay cả khi dấu hiệu lăo hóa da ban đầu có thể đến tận tuổi 35 mới xuất hiện.




Ngực: Lăo hóa từ tuổi 35

Phụ nữ đến tuổi 35, các mô vú và chất béo trong ngực bắt đầu mất dần, kích cỡ và sự căng đầy cũng giảm xuống. Từ tuổi 40, ngực phụ nữ bắt đầu chảy sệ, quầng vú (khu vực xung quanh đầu vú) bị thu hẹp mạnh.




Cơ quan sinh sản: Lăo hóa từ tuổi 35

Cơ quan sinh sản của các chị em bắt đầu suy giảm sau tuổi 35. Nội mạc tử cung có thể trở nên mỏng hơn, khiến việc thụ tinh gặp khó khăn hoặc tạo thành môi trường kháng tinh trùng. Khả năng sinh sản của đàn ông cũng bắt đầu suy giảm ở độ tuổi này. Sau tuổi 40, chất lượng tinh trùng giảm xuống, nên khả năng có con của nam giới cũng có dấu hiệu suy giảm.




Cơ bắp: Lăo hóa từ tuổi 30

Sau tuổi 30, tốc độ lăo hóa của cơ bắp c̣n nhanh hơn cả tốc độ phát triển. Ở độ tuổi này, hầu hết chúng ta có xu hướng tích trữ chất béo nhiều hơn và đốt cháy lượng calo ít hơn nên cơ bắp dần bị mất đi. Qua tuổi 40, tốc độ lăo hóa cơ bắp của con người càng tăng nhanh hơn. Thường xuyên luyên tập có thể giúp ngăn chặn sự .




Xương: Lăo hóa từ tuổi 35

Sau tuổi 35, xương bắt đầu ṃn và rơi vào quá tŕnh lăo hóa tự nhiên do các tế bào xây dựng xương hoạt động kém hơn. Xương của phụ nữ măn kinh ṃn nhanh hơn và có thể gây ra bệnh loăng xương. Kích thước và sự suy giảm mật độ xương có thể làm giảm chiều cao của bạn.




Răng: Lăo hóa từ tuổi 40

Khi chúng ta già đi, lượng nước bọt tiết ra cũng ít đi. Nước bọt có thể rửa sạch vi khuẩn, nếu nước bọt ít đi, răng và nướu của chúng ta dễ bị hôi. Sau khi các mô nha chu mất dần, nướu răng sẽ bị thu hẹp, đây là triệu chứng thường gặp ở người lớn trên 40 tuổi.




Thính lực: Lăo hóa từ khoảng tuổi 55



Hơn một nửa số người trên 60 tuổi có thể bị giảm thính lực do lăo hóa . Triệu chứng này gọi là điếc lăo hóa, là do sự thiếu “các tế bào lông” gây ra. Tế bào lông cảm quan trong tai có thể tiếp nhận sự rung động của âm thanh và truyền âm thanh tới năo bộ.

Theo TTVN

florida80
04-08-2019, 18:38
Rượu Thoa Đau Nhức Đầu Gối







Bài thuốc này "lượm" được trên net. Nhận thấy người chuyển có ḷng chia sẻ, xin đăng vào trang nhà để quư vị tùy nghi xử dụng. Chỉ là rượu thoa ng̣ai da nếu không công hiệu th́ cũng không đến nỗi có hại hay bị phản ứng như thuốc uống. Biết đâu có thể giúp giảm cơn đau đầu gối mà thế hệ sáu bó trở lên thế nào cũng mắc phải. Xin tùy nghi.


Đau nhức đầu gối khi trời trở gió là một loại thống phong, nó vừa nhức vừa sưng lại âm ấm. Thông thường người ta dùng thuốc aspirin để trấn át cơn đau nhức này. Nhưng có những người đau bao tử không dám dùng aspirin th́ hăy dùng bài thuốc rất khả tín này.


Không có rượu vodka th́ xài rượu đế thượng hạng cũng ok .




Cách làm:

Hai (2) phần tiêu đen + 3 phần rượu Vodka bỏ vào một chai, lọ hay hủ thủy tinh ngâm cho đến khi nào nước rượu trở nên màu đen tuyền (càng để lâu càng tốt) ...

Loại rượu này dùng mỗi khi trở trời đau nhức đầu gối.
Hy vọng giúp ích được cho quư vị.

florida80
04-08-2019, 18:40
Monday, February 17, 2014




Hội Chứng Đường Hầm Bàn Tay - Carpal Tunnel Syndrome






Thần kinh giữa (median nerve) chạy giữa cẳng tay xuống đến cổ tay. Thần kinh giữa phụ trách việc dẫn truyền cảm giác từ các ngón cái, trỏ, giữa, và một nửa ngón đeo nhẫn của bàn tay. Bàn tay ta có cảm giác khi sờ vào vật cứng, mềm, nóng, lạnh, phần lớn là nhờ dây thần kinh giữa. Thần kinh giữa cũng điều khiển các cử động của ngón cái.


Khi thần kinh giữa bị chèn ép, bàn tay và cổ tay sẽ đâm đau, tê. Đây là chứng rất hay xảy ra, được gọi “hội chứng đường hầm bàn tay” (carpal tunnel syndrome), khiến nhiều người đau khổ và khó làm việc. 1-2% số người sống tại Mỹ có chứng này, tốn kém hàng năm lên đến cả tỷ mỹ-kim.


Trước kia, bệnh hay nhận thấy ở các vị cao niên, song các khảo cứu gần đây cho biết nhiều người trẻ nay cũng bị. Cổ tay phụ nữ thon nhỏ, đường hầm bàn tay hẹp, nên phụ nữ hay có hội chứng đường hầm bàn tay nhiều gấp ba đàn ông.
Đến cổ tay, trước khi chia thành nhiều nhánh chạy xuống các ngón cái, trỏ, giữa, và một nửa ngón đeo nhẫn của bàn tay, thần kinh giữa chạy trong một đường hầm (tunnel) nhỏ hẹp. Đường hầm ấy bao bọc bởi các xương của bàn tay ở phía sau, và một màng gân cứng chắc phía trước. Trong đường hầm, ngoài thần kinh giữa, c̣n có 9 sợi dây gân bắp thịt (tendons). Thần kinh giữa bị chèn ép khi đường hầm ở cổ tay đâm hẹp lại do màng gân bao bọc phía trước dày thêm, xương bàn tay phía sau có ǵ bất thường to hơn, hoặc các cơ cấu trong đường hầm sưng lên.


Nguyên nhân




Đa số các trường hợp đau, tê bàn tay do hội chứng đường hầm bàn tay không có nguyên nhân rơ rệt, bệnh xảy ra nó cứ xảy ra (idiophathic carpal tunnel syndrome). Nhưng một số bệnh cũng khiến con đường hầm bàn tay đâm nhỏ hẹp, đưa đến hội chứng đường hầm bàn tay, như trong nhiều trường hợp:




- Chấn thương vùng cổ tay, khiến cấu trúc của cổ tay thay đổi.

- Bệnh thấp khớp “rheumatoid arthritis” (một bệnh khớp có thể khiến bàn tay, ngón tay biến dạng, cong queo), bệnh lupus, bệnh tiểu đường.

- Thai nghén, bệnh suy tuyến giáp trạng, suy thận cần lọc thận.

- Các bất thường của những dây gân trong đường hầm (ở chung pḥng, một hai anh to béo bất thường, thế nào cũng có anh chịu chèn ép).




Ngoài ra, các cử động gập, ngửa cổ tay đều có thể làm áp suất trong đường hầm tăng lên. Đây là cơ chế gây bệnh ở một số các nghề nghiệp cần gập và ngửa cổ tay liên tục, như gói thịt (meat packer), tính tiền trong siêu thị, nhân viên assembly line, thợ may, nhạc sĩ,... Nhất là, nếu cổ tay và bàn tay lại thường xuyên rung (vibration) v́ cách làm việc hoặc dụng cụ làm việc.




Định bệnh





Các triệu chứng điển h́nh của hội chứng đường hầm bàn tay: đau nóng (burning), giảm cảm giác, hoặc thấy tê như kiến ḅ ở các ngón cái, trỏ, giữa, và một nửa ngón tay đeo nhẫn; một số vị có triệu chứng ở nguyên ḷng bàn tay. Đau có thể lan lên khuỷu tay, thỉnh thoảng lên đến vai. Xoa nắn bàn tay và các ngón tay, hoặc vẩy vẩy bàn tay giúp ta thấy đỡ hơn.

Triệu chứng hay xảy ra lúc đang ngủ ban đêm, v́ ban đêm, đường hầm bàn tay dễ sưng, chật hơn ban ngày, thêm vào đó khi ngủ, ta lại hay gập cổ tay, khiến đường hầm càng bóp nhỏ thu hẹp. Lâu dần, triệu chứng xảy ra cả vào ban ngày, sau khi dùng bàn tay để làm một công việc ǵ đặc biệt.

Bệnh tiến triển nặng hơn, bàn tay đâm yếu, vụng về, mất khéo léo lúc làm những công việc tỉ mỉ như cài cúc áo, xỏ kim,... Cuối cùng, ngón cái ngày càng kém sức, bắp thịt phía dưới ngón cái teo nhỏ. Triệu chứng nặng hơn khi ta sử dụng bàn tay lâu, như lúc lái xe, viết lách, đọc sách, khi thực hiện những hoạt động cần đến bàn tay trong tư thế nắm chặt, hay phải chuyển động các ngón tay và cổ tay liên tục. Cái đau có khi rất dữ, chịu không nổi.


Bệnh thường tấn công bàn tay dùng nhiều, song đến 35% số người bệnh có triệu chứng ở cả hai bàn tay.


Làm thế nào để định ra chứng tê, đau bàn tay do hội chứng đường hầm bàn tay? Sự định bệnh bao giờ cũng bắt đầu bằng bệnh sử (phần kể bệnh của bạn). Bạn biết kể bệnh khéo sẽ giúp bác sĩ nhanh chóng nghĩ đến hội chứng đường hầm bàn tay.

Rồi, để xác định chẩn đoán, bác sĩ thường t́m 3 dấu chứng quan trọng sau:




- Gơ búa cổ tay (Tinel’s sign): bác sĩ dùng một búa nhỏ gơ vào cổ tay của bạn, xem bạn có tê, đau lúc bác sĩ gơ búa hay không?

- Gập cổ tay (Phalen’s sign): bác sĩ bảo bạn để cả hai tay lên mặt bàn, khuỷu tay chống trên mặt bàn, và để gập hai cổ tay trong ṿng 1 phút: bên bệnh có cảm giác tê ở các vùng ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa, và một nửa ngón đeo nhẫn.

- Đè cổ tay (compression test): bác sĩ dùng ngón cái bấm đè vào cả hai cổ tay bạn (vùng có đường hầm bàn tay) trong ṿng 1 phút: cũng như dấu chứng gập cổ tay, bên bệnh có cảm giác tê ở các vùng ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa, và một nửa ngón đeo nhẫn.




Nếu cần, trong những trường hợp nghi ngờ hoặc chữa không bớt, để xác quyết “bạn đúng có hội chứng đường hầm bàn tay do thần kinh giữa bị chèn ép”, chúng ta đo sự dẫn truyền các luồng thần kinh (nerve conduction study, hơi đau, đắt tiền) ở cổ tay. Việc này ta nhờ đến bác sĩ chuyên khoa Thần Kinh (neurologist). Những trắc nghiệm này cũng cho ta biết t́nh trạng đă nặng đến đâu.




Ngoài ra, trên đường đi t́m nguyên nhân của chứng tê, đau bàn tay của bạn, bác sĩ có khi chụp phim cổ tay, xem xương cổ tay có ǵ bất thường khiến đường hầm bàn tay hẹp (như gẫy xương trong quá khứ), hoặc làm một số thử nghiệm để t́m những bệnh gây hội chứng đường hầm bàn tay: suy tuyến giáp trạng, tiểu đường, bệnh thấp khớp rheumatoid, bệnh lupus, ...




Để tiện cho việc chữa trị, ta chia hội chứng đường hầm bàn tay thành hai thể:




- Thể cấp tính:




Ít khi xảy ra. Thể cấp tính thường do chấn thương như gẫy, trật khớp xương cổ tay làm đường hầm bàn tay bất ngờ hẹp nhỏ. Trường hợp này, triệu chứng xảy ra nhanh chóng và rất nặng, v́ thần kinh giữa tổn thương cấp tính. Sự chẩn đoán và chữa trị cần gấp rút để mau chóng cứu văn t́nh thế.




- Thể kinh niên:




Xảy ra thường hơn, và chính là thể bệnh chúng ta đang thảo luận. Thể kinh niên lại được phân chia thành: sớm (early), giữa (intermediate), muộn (late).




Khi bạn mới bị hội chứng đường hầm bàn tay thể sớm, triệu chứng lúc có lúc không, hay xảy ra về đêm, hoặc sau một vài hoạt động đặc biệt. Trong giai đoạn sớm, thần kinh giữa chưa có những tổn thương quan trọng. Sau một thời gian, khi bệnh tiến triển sang giai đoạn giữa với những tổn thương quan trọng hơn của thần kinh giữa, bạn tê, đau bàn tay liên tục hơn. Sang đến giai đoạn muộn, thần kinh giữa tổn thương trầm trọng do sự chèn ép lâu ngày, sơ cứng và thoái hoá. Bạn mất cảm giác bàn tay và các ngón tay. Đồng thời, ngón cái yếu và bắp thịt bàn tay phía dưới ngón cái teo nhỏ.




Chữa trị




Việc chữa trị nhắm mục đích làm nhẹ triệu chứng, giảm thiểu hoặc loại trừ các yếu tố, điều kiện gây triệu chứng (việc làm, các bệnh thấp khớp rheumatoid, lupus, tiểu đường, suy tuyến giáp trạng t́m thấy, ...), đồng thời cân phân đă đến lúc cần đến giải phẫu hay chưa.

Có ba cách được xem là hữu hiệu để chữa hội chứng đường hầm bàn tay:




1. Bất động cổ tay:




Bạn được khuyên dùng một dụng cụ y khoa giúp bất động cổ tay (wrist splint) khi ngủ ban đêm, và cả ban ngày nếu cần, lúc phải làm những công việc thường hay khiến triệu chứng đến thăm bạn. Dụng cụ giữ cổ tay trong tư thế cân bằng, không gập hoặc ngửa nhiều trong lúc bạn ngủ hoặc làm việc.




Cách chữa này giản dị song rất quan trọng, bạn nên nghe theo lời khuyên của bác sĩ, đeo dụng cụ bất động cổ tay đều.




2. Dùng thuốc steroid:




Nếu triệu chứng làm khổ bạn nhiều, bác sĩ có thể chích thuốc steroid methylprednisolone vào đường hầm bàn tay bạn, hoặc cho bạn uống thuốc steroid prednisone 10-14 ngày.




Các thuốc chống đau Tylenol, Motrin, Aleve, … không hiệu nghiệm.




3. Giải phẫu nới rộng đường hầm (carpal tunnel release surgery):








Dành cho những trường hợp bệnh bắt đầu sang đến giai đoạn muộn, bàn tay, ngón tay bắt đầu yếu sức. Những trường hợp tuy chưa sang giai đoạn muộn, song làm khổ người bệnh lâu không bớt, có lẽ cũng nên giải phẫu.


Sau giải phẫu, 90% số người được mổ cho biết họ bớt đau (ban đêm hoặc ban ngày), nhưng chỉ 73% số người được mổ cho biết họ hoàn toàn hài ḷng với kết quả của giải phẫu. Như vậy, giải phẫu cũng không đem lại kết quả như ư cho tất cả mọi người bệnh.


Ngoài ba cách chữa hữu hiệu trên, hai cách chữa carpal bone mobilization (lay động xương bàn tay, làm bởi chuyên viên vật lư trị liệu chuyên về bàn tay) và yoga có thể cũng giúp.


Nói chung, đến một nửa số người bệnh (thường là người trẻ, triệu chứng chỉ một bên tay), triệu chứng thuyên giảm dần với thời gian (nếu gây do mang thai, triệu chứng thường sẽ biến mất khoảng 6 tuần sau khi sanh). V́ vậy, những trường hợp bệnh nhẹ, sớm, và một số trường hợp bệnh ở giai đoạn giữa, ta có thể thử dùng cách chữa dè dặt (conservative treatment) với dụng cụ bất động cổ tay, thuốc steroid, carpal bone mobilization, yoga. Có nhiều trường hợp nhẹ, sớm, bệnh lằng nhằng lúc nọ lúc kia qua nhiều tháng, năm.


Ngoài việc dùng dụng cụ bất động cổ tay và thuốc, nhiều người cần ngưng hẳn công việc, rút ngắn thời gian thực hiện công việc, hoặc thu xếp để lúc làm lúc nghỉ. Dụng cụ làm việc có khi cần được sửa đổi để giúp bàn tay và cổ tay, lúc cầm nắm dụng cụ, vẫn trong tư thế cân bằng, không ngửa hay gập nhiều.




Hội chứng đường hầm bàn tay xảy ra rất nhiều (nhưng lạ, người Việt chúng ta ít người biết đến tên nó!). Nhẹ, sớm, nó lằng nhằng lúc này lúc nọ qua tháng, năm, nhiều trường hợp nó biến mất luôn sau một thời gian. Tiến triển sang giai đoạn giữa và muộn, nó thường cần đến giải phẫu. Dụng cụ bất động cổ tay đóng vai tṛ quan trọng trong sự trị liệu ở giai đoạn sớm (song người Việt chúng ta lại ít người chịu dùng!).





Bác Sĩ Nguyễn Văn Đức

florida80
04-08-2019, 18:41
Sữa Chua Yogurt Rất Bổ Dưỡng








Yogurt hay sữa chua lên men là một loại thực phẩm rất phổ thông.


Đây là một loại thức ăn ngon miệng đồng thời cũng là một thực phẩm chức năng đầy tính bổ dưỡng.


Yogurt được làm từ sữa cho lên men bởi những loại vi khuẩn tốt, mà người ta gọi là Probiotics.


Vậy Probiotics (“trợ sinh”?) Prebiotics (tiền trợ sinh) và Synbiotics (hợp sinh?) là những chất ǵ?


Những vi khuẩn đồng minh của chúng ta





Biết rằng hệ tiêu hóa của con người chứa thường trực trên 400 loại vi khuẩn khác nhau với tổng số trên 100 000 tỉ vi khuẩn.




Đây là những vi khuẩn có ích cho cơ thể. Chúng tạo thành hệ vi sinh đường ruột (intestinal flora).




Các vi khuẩn nầy giúp ích trong việc làm lên men vài loại glucid như chất cellulose mà cơ thể không hấp thụ được. Cellulose là một chất trong các loài thực vật.




Ngoài ra, hệ vi sinh cũng dự phần trong việc tổng hợp các vitamins nhóm B và hầu hết vitamin K mà gan rất cần đến.




Khi thế quân b́nh của hệ vi sinh bị lệch đi, ruột có thể bị cảm nhiễm và bệnh sẽ xuất hiện ra.




Nói tóm lại, hệ vi sinh đường ruột rất cần thiết cho việc tiêu hoá, hấp thụ dưỡng chất (nutriments) cũng như sự thải bỏ những cặn bă độc hại.





Probiotics là ǵ?




Đây là những vi khuẩn tốt, có ích lợi cho sức khỏe chúng ta. Chúng thường được thấy hiện diện trong đường tiêu hóa và ngay cả trong âm hộ. Sự hiện diện của probiotics giúp ngăn chặn tác hại của các vi khuẩn xấu (pathogens) xâm nhập vào ruột.


Có nhiều loại vi sinh vật được sữ dụng như Probiotics, đó là vi khuẩn nhóm lactic (bactéries lactiques) như Bifidobacterium và Lactobacillus trích từ hệ vi sinh đường ruột hoặc là một vài loại men (levure).



Thí dụ điển h́nh về probiotics là vi khuẩn Bifidobacterium và vi khuẩn Lactobacillus trích từ hệ vi sinh đường ruột.Các loại vi khuẩn nầy có khả năng tạo ra lactic acid khi chúng phân hủy đường lactose.


Hai loại vi khuẩn nầy từ lâu đă được Nhật Bản và Âu Châu sử dụng trong kỹ nghệ sản xuất sữa chua lên men.


Tại Hoa Kỳ, trên 60% yogurt có chứa Bifidobacterium và Lactobacillus.



Trong kỹ nghệ yogurt, các probiotics sau đây thường được thấy sử dụng: Bifidobacterium bifidum, Bifidobacterium breve, Bifidobacterium infantis, Bifidobacterium longum, Lactobacillus acidophilus và Lactobacillus casei.

Muốn được hiệu nghiệm, probiotics cần phải là vi khuẩn sống.

Để đạt kết quả tốt, phải cần ít nhất một tỉ vi khuẩn sử dụng như Probiotics mỗi ngày v́ những vi khuẩn nầy chỉ ở tạm trong ruột mà thôi.


Trở ngại thường gặp là acid của dịch vị tiêu hóa có thể hủy diệt lối 90% probiotics ăn vào. Để bù đấp sự mất mát nầy mà chúng ta cần tiêu thụ một số lượng probiotics thật lớn.


Chúng ta cũng có thể uống những viên thuốc probiotics có áo bọc bên ngoài để chỉ tan ra lúc vào đến ruột mà thôi.

Nên uống Probiotics lúc bụng tróng,và trường hợp nếu có uống thuốc khác th́ phải cách nhau hai giờ.( Julie Véronneau,Pharm)


Tại Canada, luật lệ về bao b́ nhăn hiệu quy định sản phẩm probiotics cần phải được ghi chú rơ rệt về nồng độ vi khuẩn sống (active) hay U.F.C (unités formatrices de colonies) cho mỗi gram sản phẩm.

Prebiotics là ǵ?


Đây là những thức ăn của Probiotics. Nói rơ hơn là những chất bột đường glucide không tiêu hóa dược và vẫn c̣n nguyên vẹn khi vào đến ruột già (colon). Tại nơi đây chúng kích thích sự hoạt động của probiotics dặc biệt là nhóm Bifidobacterium.

Prebiotic giúp vào việc cải thiện hệ miễn dịch, giúp hấp thụ chất calcium, và có thể làm giảm nguy cơ xuất hiện của một vài loại cancer nữa.


Prebiotic có thể hiện diện một cách tự nhiên trong một số thực phẩm, chẳng hạn như củ hành, rau diếp xoắn chicory, củ cây cúc vu topinambour (helianthus tuberosis) và artichaut


Cây cúc vu (danh pháp khoa học: Helianthus tuberosus L.), là một loài thực vật có hoa, có nguồn gốc Bắc Mỹ và được trồng trong khu vực ôn đới để lấy phần thân củ mà người Việt quen gọi là củ dùng làm rau ăn củ.(wikipedia).


Topinambour là thực vật bà con với artichaut. Củ topinambour rất giàu Inuline, một chất bột đường glucide, có ích trong việc giúp vi khuẩn bifidobacterium phát triển mạnh trong ruột. Đồng thời cũng chứa nhiều chất sắt, potassium, vitamins B1, B5 và phosphore

Rất tốt để giúp cải thiện bệnh tiểu đường type II và t́nh trạng mỡ cao trong máu.


Thấy bán trong gian hàng rau quả của siêu thị và các chợ Á Đông. Ăn sống hơi ḍn nhưng không cai ṇng như củ cải trắng daikon. Làm món ǵ cũng được: ngâm chua,, làm gỏi, nấu canh, xào… Giá hơi đắt.

Le Figaro fr.- Que contient le topinambour? (c̣n có tên là Jerusalem artichoke)

http://sante.lefigaro.fr/mieux-etre/nutrition-aliments/topinambour


Một khảo cứu trên chuột của Unversité catholique de Louvain (2011) cho biết prebiotic tác động vào hệ vi sinh đường ruột và mệnh lệnh đuợc truyền lên năo để kiểm soát sự nhạy cảm của hormon leptin. Hormon nầy giúp ích trong việc thu nạp và sử dụng năng lượng trong tế bào và kiểm soát sự đói bụng appetite.


Kết quả thí nghiệm trên cho biết prebiotic trong thức ăn rất tốt để giúp kiểm soát hiện tượng béo ph́ và bệnh tiểu đường type II.


Synbiotic là ǵ?


Một vài loại sản phẩm có chứa đồng thời vừa probiotic và vừa prebiotic, người ta gọi chúng là những Synbiotics.






Đôi khi nhà sản xuất cho trộn thêm vào yogurt những chất fructo oligosaccharides trích từ Inuline (là một glucide) của Rau diếp Xoắn Chicorée (Chicory, wild succory). Chất thêm vào nầy được gọi là Prebiotic và có công dụng giúp cho probiotics tăng trưởng mạnh hơn.




The green variety is the most common. Radicchio is a red-leafed Italian variety of chicory




Thí dụ điển h́nh tại Canada, sản phẩm sữa Additio de Nutrimor có chứa bốn loại vi khuẩn gốc lactic (Bifidobacteriumlact is BB-12, Lactobacillus acidophilus LA-5, Lactobacillus bulgaricus, Streptococcus thermophilus) và Inuline là một prebiotic. Sữa hiệu Vitalité de Lactantia có chứa Inuline (4gr/250ml).




Lactantia Vitalité* contains the soluble prebiotic fibre, inulin, which is sourced from the Chicory plant. Its a natural fibre which is undetectable in the flavour and texture of milk.




Nước trái cây hiệu Tradition Vision Santé chứa 2g/250ml, và đồng thời cũng chứa 3 tỉ probiotics.




Các thí nghiệm cho thấy, mỗi ngày tiêu thụ 4g prebiotic là đũ nhu cầu rồi. C̣n nếu tiêu thụ trên20 gr sẽ bị bị đau bụng và trướng hơi bụng.




Probiotics có ích lợi ǵ cho sức khỏe?




Theo giới thuốc thiên nhiên, kỹ nghệ sữa cũng như ư kiến của một số nhà dinh dưỡng th́ yogurt là một thực phẩm chức năng (functional food) rất tốt cho sức khỏe.




Probiotics có thể đem đến cho cơ thể những lợi ích sau đây:




*-Cải thiện sự quân b́nh của hệ vi sinh đường ruột bằn cách làm gia tăng sự hiện diện của vi khuẩn tốt trên số lượng vi khuẩn xấu (như E coli, Salmonella)




*-Ngăn chặn sự xâm nhập của các vi khuẩn gây bệnh bằng cách cản chúng bám vào thành ruột.




*-Giúp cho việc tiêu hóa thức ăn được hữu hiệu hơn. Cải thiện sự hấp thụ dưỡng chất. Dễ đi cầu.




Đối với những người thường bị chứng bất dung nạp đường lactose (intolérance au lactose) th́ probiotics sẽ giúp chất đường nầy được tiêu hóa dễ dàng hơn.




*-Giảm nguy cơ bị tiêu chảy do uống quá nhiều thuốc kháng sinh (antibiotic associated diarrhea hay AAD).




*-Điều hoà hệ miễn dịch.




*-Ngừa cancer ruột.




*-Giảm cholesterol trong máu.




*-Giảm thiểu hiện tượng dị ứng.




*-Các thí nghiệm gần đây cho biết probiotics cũng có ít nhiều tác dụng tốt trong việc chữa trị các bệnh viêm ruột gây tiêu chảy do virus và do vi khuẩn Clostridium difficile.




Có quảng cáo c̣n đi xa hơn nữa, như cho rằng…probiotics giúp vào việc quân b́nh của các hormones, ngừa viêm đường tiết niệu và viêm âm hộ, ngăn ngừa chứng loăng xương, ngăn chặn tác dụng độc hại của tia phóng xạ và của các kim loại nặng, ngừa chứng hôi miệng và giảm stress, v.v…




Trên đây là những ǵ kỹ nghệ probiotics đă quảng cáo.




Tại Canada và Hoa Kỳ, probiotics chỉ được xếp vào loại thực phẩm bổ sung (dietary supplement) mà thôi..




Ở dạng bột và dạng viên, probiotics phải chịu sự chi phối của cơ quan FDA thông qua luật Dietary Supplement Health and Education Act Standards...




Trường hợp dùng để làm lên men yogurt, kefir (cũng là nột loại sữa lên men) th́ probiotics được xem như nằm trong thành phần b́nh thường của sản phẩm...




Trường hợp kỹ nghệ muốn sử dụng một loại vi khuẩn nào đó như một probiotic để thêm vào sản phẩm, vi khuẩn nầy cần phải được FDA xét duyệt và công nhận là nằm trong nhóm vi khuẩn an toàn gọi là GRAS (Generally Recognized as Safe).




Vấn đề probiotics c̣n rất phức tạp và chưa rơ rệt cho lắm nên các cơ quan y tế của Canada lẫn Hoa Kỳ chỉ cho phép ghi chú trên món hàng những câu quảng cáo (claims) chung chung như “giúp cho hệ vi sinh đường ruột được tốt” (supports a healthy intestinal flora) mà thôi.




Nên mua loại probiotics nào?




Tốt hơn hết là nên chọn những sản phẩm có chứa những probiotics nào đă từng được nghiên cứu nhiều, như Lactobacillus casei, Lactobacillus rhamnosus…




Nên chọn các vi khuẩn có tính cộng lực với nhau v́ mỗi loại vi khuẩn có khuynh hướng tác động tại những nơi chuyên biệt khác nhau chẳng hạn như Lactobacillus có tác động chủ yếu trên ruột non c̣n loại Bifidobacterium th́ tác động trên ruột già.




Tại Quebec, sản phẩm yogurt thường có chứa các loại probiotics như Lactobacillus bulgaricus, Streptococcus thermophilus, Lactobacillus acidophilus, Lactobacillus casei và Bifidus…




+chọn những viên có áo bọc để tránh bị acid của bao tử làm tổn hại vi khuẩn.




+nên biết là yogurt loại chúng ta thường mua ở siêu thị đều chứa rất ít vi khuẩn.




+nên mua những loại yogurt dùng để trị liệu (yogurt thérapeutique) v́ có chứa số lượng lớn vi khuẩn cần thiết. Có thể mua trong các tiệm bán thực phẩm thiên nhiên.




+tránh mua yogurt có pha trộn thêm nhiều loại trái cây.




+tốt nhất nên mua những loại yogurt ferme hoặc nature hay plain.




Số lượng vi khuẩn sống có hoạt tính cũng có thể rất thay đổi tùy theo nhăn hiệu yogurt.




Kết luận




Hiện nay trên thị trường, probiotics cũng như Omega-3 nhờ khéo quảng cáo đă trở thành những mặt hàng đang lên rất mạnh mẽ trên khắp thế giới...




Kỹ nghệ sữa và kỹ nghệ thuốc thiên nhiên đều hết lời ca tụng probiotics và xem nó như là một thực phẩm bổ sung mang những tính năng pḥng trị được rất nhiều bệnh tật.




Ngược lại, phía y khoa th́ dè dặt hơn. Họ cũng công nhận rằng probiotics là vi khuẩn tốt cho sức khỏe, nhất là trong việc củng cố hệ vi sinh đường ruột và ngăn chặn bệnh tiêu chảy do việc lạm dụng thuốc kháng sinh gây ra.




C̣n đối với các tính năng khác của probiotic th́ các bác sĩ khuyên chúng ta cần phải thận trọng dè dặt hơn v́ lẽ c̣n thiếu rất nhiều xét nghiệm lâm sàng cùng các khảo cứu khoa học đáng tin cậy.




Người ta tự hỏi phải chăng cơn sốt probiotics chẳng qua chỉ là một đ̣n khuyến măi của kỹ nghệ sữa?




Nhưng dù có nói sao đi nữa, chúng ta phải nh́n nhận rằng yogurt là một thức ăn ngon miệng và rất tốt cho tất cả mọi người bất luận tuổi tác già hay trẻ.




Tại sao chúng ta không dám thử?




Tham khảo:




Julie Veronneau, pharmacienne. Les Probiotiques; Québec Pharmacie Vol. 55 No 11, Dec 2008-Jan 2009




Isabelle Huot, Dre en Nutrition.Prébiotiqu es et Probiotiques. Bel Âge Magazine , Fev 2008

http://www.lebelage.ca/les_probiotiques_et_ les_prebiotiques-complet.php


American Diabetes Association Journal-Responses of gut microbia and glucose and lipid metabolism to prebiotics in genetic obese and diet induced leptin resistant mice


http://diabetes.diabetesjou rnals.org/content/early/2011/09/19/db11-0227.short?rss=1


Passeport Sante.net. Topinambour


http://www.passeportsante.n et/fr/Nutrition/EncyclopedieAliments/Fiche.aspx?doc=topin ambour_nu

florida80
04-08-2019, 18:43
Thế Nào Là Thuốc Generic?








Trong ngành Âu dược, thông thường một bằng sáng chế thuốc chỉ có hiệu lực 20 năm. Cho nên sau khi một loại thuốc gốc mà bằng sáng chế đă hết hiệu lực, chính quyền sở tại ở một nước có quyền cho phép các nhà bào chế thuốc trong nước sản xuất loại thuốc đó, nhưng phải dựa trên công thức, thành phần nguyên liệu có hoạt tính trị liệu căn nguyên bệnh và qui tŕnh chế tạo như đă qui định trong bằng sáng chế thuốc gốc, Trên nguyên tắc căn bản, thuốc phải có công hiệu trị liệu tương đương với thuốc gốc. Loại thuốc được chế tạo hợp pháp như thế này gọi chung là thuốc generic.




V́ không phải mất các phí tổn vô cùng to lớn đầu tư ban đầu cho đội ngũ nhân viên nghiên cứu và thiết bị trong công tŕnh nghiên cứu, thí nghiệm, kiểm nghiệm lập đi lập lại nhiều lần để đạt được thành công cuối cùng, cho đến các thủ tục hành chính để có được phép chính thức đưa ra lưu hành trên thị trường cho một loại thuốc gốc mới ( thông thường tất cả thời gian phải mất là khoảng 5 đến 10 năm ), thuốc generic, v́ vậy, có gíá thành chế tạo cũng như giá bán rẻ hơn thuốc gốc rất nhiều.


Về thuốc generic, tuy trên nguyên tắc nói là có công hiệu như thuốc gốc,nhưng trên thực tế th́ không phải thuốc generic nào cũng có công hiệu tương đương như thuốc gốc. Dù căn bản là thuốc generic được bào chế dựa trên qui định của bằng sáng chế thuốc gốc, nhưng ở mỗi nước có sự khác biệt về cơ sở, thiết bị để bào chế thuốc, cũng như phẩm chất của nguyên vật liệu sử dụng, tŕnh độ kỹ thuật của đội ngũ công nhân viên, tŕnh độ quản lư sản xuất, kỹ thuật bảo quản nguyên liệu, chế phẩm…, nên phẩm chất của cùng loại thuốc generic khó có thể giống nhau được.




Người ta thường nhận thấy tuy cùng một loại thuốc generic, nhưng khi được chế tạo tại một cơ sở dược phẩm có kinh nghiệm ở một nước Tây Âu, v́ căn bản phải chịu sự quản lư kỹ càng của cơ quan chính quyền sở tại và có kinh nghiệm cũng như tŕnh độ kỹ thuật sản xuất cao, nên phẩm chất của thành phẩm có phần bảo đảm hơn cùng loại thuốc generic được chế tạo tại một cơ sở dược phẩm địa phương của các nước có tŕnh độ kỹ thuật sản xuất Âu dược c̣n kém, nhất là khi không có sự hướng dẫn kỹ thuật chế tạo và sự quản trị sản xuất của một cơ sở dược phẩm có kinh nghiệm.trên thế giới...




Để hướng dẫn việc bào chế thuốc generic được bảo đảm, FDA, cơ quan quản trị dược phẩm và thực phẩm của Mỹ, đă có các yêu cầu căn bản mà cơ sở bào chế thuốc generic cần phải tuân thủ như sau:




1. Phải sử dung các nguyên liệu như thuốc gốc

2. Phải có cùng công hiệu, liều lượng sử dụng và cách thức sử dụng như thuốc gốc

3. Phải có cùng các qui định sử dụng như thuốc gốc

4. Phải được bào chế dưới qui tŕnh sản xuất nghiêm ngặt GMP ( Good Manufacturing Production )




Với các qui định sản xuất như vậy, FDA c̣n đ̣i hỏi thuốc generic cần phải đạt được các tiêu chuẩn căn bản sau đây:




1. Có sức công hiệu như thuốc gốc

2. Có cùng tính chất, độ tinh khiết và công hiệu như thuốc gốc

3. Có cùng thời gian sử dụng công hiệu như thuốc gốc

4. Giá bán phải rẻ hơn thuóc gốc

5. Phải được sản xuất theo qui định GMP

6. Phải có h́nh thức bên ngoài khác với thuốc gốc ( v́ h́nh thức bên ngoài của thuốc gốc thường đă được cầu chứng nên không được làm giống h́nh thức của thuốc gốc)

florida80
04-08-2019, 18:44
10 Thói Quen Xấu Có Nguy Cơ Đến Tính Mạng





Theo kết quả điều tra người trưởng thành của một cơ quan quản lư về sức khỏe, 10 thói quen nhỏ dưới đây gây nguy hại rất lớn cho sức khỏe chúng ta.




1. Thiếu vận động









Theo khảo sát, 2/3 số người không đạt tiêu chuẩn vận động mỗi tuần 3 lần, mỗi lần 30 phút. Các chuyên gia y tế cho rằng, tập thể thao không đủ sẽ gây ra hàng loạt bệnh tật như béo ph́, cao huyết áp, xơ vữa động mạch, bệnh mạch vành tim, đau lưng… Mọi người nên duy tŕ ít nhất mỗi tuần vận động 3 – 5 lần, mỗi lần 30 phút.

“Vận động nhẹ” hiện được giới trí thức chú trọng, v́ nó có hiệu quả giữ eo, giảm áp lực, làm đẹp và chữa bệnh. Đối với những trí thức có áp lực lớn, đặc biệt là phụ nữ, tập nhẹ sẽ thích hợp hơn. Làm thêm giờ, một ngày bận rộn, nếu lại tiếp tục đến pḥng thể h́nh hay sân bóng h́ hục chạy bộ 40 phút hoặc 1 tiếng, rất có thể gây tác dụng ngược, hại sức khỏe. Nhưng dùng thời gian đó cho vận động nhẹ như yoga, thái cực quyền, đi bộ th́ tinh thần có thể sẽ từ lo lắng trở nên yên ổn.


2. Vắt chéo chân









Động tác nhỏ này tưởng là thoải mái, nhưng nó cản trở lưu thông máu ở chân, dễ gây tắc tĩnh mạch, vẹo cột sống, thoát vị đĩa đệm. Các chuyên gia cho rằng, người mắc bệnh cao huyết áp, tiểu đường và bệnh tim, nếu vắt chéo chân lâu dài th́ bệnh sẽ thêm trầm trọng.

“Vận động nhẹ” hiện được giới trí thức chú trọng, v́ nó có hiệu quả giữ eo, giảm áp lực, làm đẹp và chữa bệnh.

Các nguy hại có thể gặp nếu vắt chéo chân là:

Giăn tĩnh mạch hoặc tắc động mạch ở chân : Khi vắt chéo chân, đầu gối sẽ bị oằn xuống, dễ ảnh hưởng đến tuần hoàn máu ở chi dưới. Hai chân duy tŕ một tư thế lâu không động đậy sẽ dễ tê liệt, nếu tuần hoàn máu bị cản trở, rất có thể dẫn đến giăn tĩnh mạch và tắc động mạch ở chân. Đặc biệt là những người già cao huyết áp, bị tiểu đường, bị bệnh tim, vắt chéo chân thời gian dài sẽ làm bệnh nặng hơn.

Ảnh hưởng sức khỏe sinh sản ở nam giới: Khi vắt chéo chân, hai chân thường bị kẹp quá, làm tăng nhiệt độ ở bên bắp đùi và bộ phận sinh dục. Nhiệt độ nóng lên sẽ gây hại cho tinh trùng, để lâu có thể ảnh hưởng đến sinh con. V́ vậy, vắt chéo tốt nhất là đừng quá 10 phút, nếu thấy có mồ hôi chảy ra, tốt nhất là đi lại nhẹ nhàng ở nơi thoáng gió để tản nhiệt nhanh.

Gây tổn thương xương cốt hay căng cơ: Khi vắt chéo chân, xương chậu và khớp háng dễ đau mỏi do áp lực kéo dài, sau một thời gian dài có thể bị tổn thương xương hay căng cơ. Khi ngồi trên xe buưt, nếu xe dừng gấp, hai chân đan chéo không kịp thả thăng bằng, dễ gây đau cho khớp xương và bắp thịt, dẫn đến trật khớp.



3. Ngồi trong nhà vệ sinh xem báo






Ngồi trên bồn cầu đọc sách xem báo, chắc chắn sẽ kéo dài thời gian đại tiện, làm cho hậu môn ứ máu và bệnh trĩ phát tác.

Y học hiện đại nghiên cứu cho biết, ngồi nhà vệ sinh quá 3 phút sẽ có thể trực tiếp dẫn đến tụ huyết giăn tĩnh mạch trực tràng, dễ gây bệnh trĩ, và bệnh nặng hay nhẹ có liên quan đến thời gian dài hay ngắn.

Thời gian ngồi bồn cầu càng dài, tỷ lệ mắc bệnh càng cao.

Bởi v́ ngồi lâu sẽ làm tăng áp lực lên bụng, làm cho máu trong tĩnh mạch chảy ngược không xuôi, dẫn đến giăn tĩnh mạch ở trực tràng, làm cho nhóm tĩnh mạch đóng mở lỏng lẻo, thành tĩnh mạch sẽ mỏng và phồng lên. Để lâu như vậy sẽ h́nh thành bệnh trĩ.

Ngoài ra, trong nhà vệ sinh thường không đủ ánh sáng, đọc sách báo cũng dễ hại mắt.

Lời khuyên của bác sĩ là, khi đại tiểu tiện trong nhà vệ sinh, cần sớm kết thúc trong ṿng 5 phút, đồng thời không ngừng tập nâng mông, như vậy mới có thể pḥng bệnh như bệnh trĩ có hiệu quả.


4. Vừa tỉnh dậy lập tức ra khỏi giường









Jim Horne, giáo sư Trung tâm nghiên cứu giấc ngủ, Đại học Loughborough cho biết, vừa tỉnh dậy đă lập tức ra khỏi giường rất có thể gây ra thay đổi đột ngột huyết áp, gây ra các bệnh như huyết áp cao, trúng gió. Cần nằm 5 phút để vận động tứ chi và năo bộ rồi mới đứng dậy ra khỏi giường.

Sau khi tỉnh dậy không được lập tức đứng dậy, mà trước hết cần nằm trên giường nửa phút.

Để làm giảm tổn thương cho huyết quản gây ra bởi sự thay đổi áp lực lên huyết quản trước và sau khi ngủ, các chuyên gia tư vấn như sau:

Một là, sau khi tỉnh dậy không được lập tức đứng dậy, mà trước hết cần nằm trên giường nửa phút.

Hai là, sau khi ngồi dậy th́ ngồi cạnh giường nửa phút.

Ba là, dựa vào cạnh giường đứng dậy nửa phút rồi mới ra khỏi giường hoạt động. Mọi hoạt động diễn ra từ từ như vậy sẽ làm cho các cơ quan của cơ thể thích ứng với sự thay đổi, giảm nguy cơ ngă vật xuống do áp lực lên mạch máu từ việc đứng dậy đột ngột gây ra.


5. Liên tục sử dụng máy tính 3 tiếng trở lên









Sử dụng máy tính kéo dài sẽ gây mỏi mắt, đau lưng mỏi vai, hơn nữa c̣n gây ra các vấn đề như đau đầu, mất ngủ, chán ăn.

Ti a X yếu và bức xạ điện từ tần suất thấp của máy tính có thể gây mất thăng bằng trung khu thần kinh của con người. Một nghiên cứu của Anh cho biết, từ trường và bức xạ tần số thấp phát ra từ màn h́nh máy tính sẽ gây ra 7 – 19 chứng bệnh, bao gồm chảy nước mũi, ngứa mắt, đau cổ, mất trí nhớ ngắn hạn, cáu kỉnh và trầm cảm.

Đối với phụ nữ, c̣n có các triệu chứng bị đau bụng kinh, kinh nguyệt kéo dài, một vài bà mẹ c̣n bị sinh non hoặc phải phá thai. Ngoài ra, làm việc với máy tính lâu dài, sẽ căng thẳng tinh thần, áp lực tâm lư lớn, dễ mệt mỏi toàn thân, cộng với bức xạ điện từ, tỷ lệ ung thư vú của những người này sẽ cao hơn b́nh thường khoa ̉ng 30%. Có nghiên cứu cho biết, bức xạ điện từ của máy tính c̣n có thể gây ung thư.

Gây hại đến tầm nh́n: Mắt dán vào một chỗ lâu, số lần chớp mắt chỉ bằng 1/3 so với b́nh thường, từ đó đă làm giảm tiết ra chất bôi trơn mắt. Làm như thế lâu dài, không những gây mỏi mắt, hoa mắt, mắt mờ, mà c̣n gây ra các phản ứng khác không thích hợp. Phương pháp hiệu quả nhất là nghỉ ngơi hợp lư, ăn nhiều thực phẩm có chứa vitamin A, bổ sung rhodopsin cho vơng mạc, chẳng hạn cà rốt, bắp cải, giá đỗ, đậu phụ, táo đỏ, cam, sữa, trứng gà, gan động vật, thịt nạc…

Gây hại các tổ chức cơ thể: Làm việc với máy vi tính lặp đi lặp lại, căng thẳng sẽ gây hại cho các tổ chức của cơ thể như các cơ, dây thần kinh, khớp, gân. Ngoài đau lưng, c̣n có thể bị đau, thậm chí tê liệt cổ tay, những chứng này mở rộng ra ḷng bàn tay và các ngón tay.

Gây hại cho hệ hô hấp: Hơi bay ra từ máy tính sẽ gây hại cho hệ hô hấp. Các nhà nghiên cứu của Quỹ Bệnh mẫn cảm Anh gần đây đưa ra một báo cáo cho biết, thiết bị văn pḥng sẽ phát ra khí ozone có hại cho sức khỏe con người, thủ phạm chính là máy tính, máy in laser. Các khí ozone này không chỉ độc hại, mà c̣n có thể gây khó thở cho một số người. Ngoài ra, đợi lâu ở nơi có nồng độ khí ozone cao sẽ gây ra bệnh phổi.



6. Khom lưng di chuyển vật nặng









Các chuyên gia cho rằng, khom lưng di chuyển vật nặng có thể gây hại cho các cơ lưng và đĩa đệm thắt lưng. Tốt nhất là ngồi xổm xuống, lấy cơ thể dựa vào trước, làm cho trọng lực được chia đều cho các cơ bắp của chân.

Tư thế đúng: Trước tiên cơ thể cố gắng áp sát vật nặng, sau đó khom gối, khom xương hông, dùng hai tay giữ vật, duỗi gối duỗi xương hông, vật nặng sẽ di chuyển. Như vậy, sẽ tránh phải sử dụng cơ ở lưng, giảm tổn thương thắt lưng. Ngoài ra, khi di chuyển vật nặng, cần chú ư để hai đầu gối bán gập, để cho đồ vật sát với cơ thể, như vậy sẽ giảm gánh nặng cho cơ thắt lưng, giảm nguy cơ chấn thương.



7. Dùng sức quá nhiều khi đại tiện









Đại tiện quá dùng sức dễ làm tim phải co bóp nhiều, huyết áp sẽ tăng lên đột ngột, gây chảy máu năo. Khi người già quá dùng sức để đại tiện có thể dẫn đến thay đổi lưu lượng máu ở động mạch vành và năo, do lưu lượng máu ở năo giảm xuống, khi đại tiện có thể xảy ra ngất xỉu (bất tỉnh), người suy mạch vành có thể bị đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, người bị cao huyết áp có thể bị xuất huyết năo ngoài ư muốn, hơn nữa có thể gây chứng ph́nh động mạch hoặc vỡ thành mạch, tắc động mạch, loạn nhịp tim và thậm chí đột tử.



8. Uống nước quá ít









Các chuyên gia Trung tâm Giáo dục Y tế, Bộ Y tế Trung Quốc cho biết, mỗi người tốt nhất là uổng đủ 2 lít nước/ngày, từ sáng sớm cho đến cả 3 bữa ăn hàng ngày đều cần bổ sung nước thích hợp.

Rất nhiều phụ nữ thức dậy là uống nước coi như một bài tập hàng ngày, mong nó làm nhuận tràng, giảm độ nhớt máu. Nhưng bổ sung nước vào sáng sớm như thế nào sẽ khỏe mạnh hơn? Thực ra, không có quy tắc nhất định, bổ sung nước vào sáng sớm mỗi người có sự khác nhau.

Người gầy ốm, da nhợt nhạt, sáng sớm không nên uống sữa, nước hoa quả, nước lạnh có nhiệt độ thấp hơn cơ thể, có thể đổi những thứ đó bằng canh, cháo nóng.

Nước trái cây tươi không thích hợp với cái dạ dày trống rỗng vào sáng sớm, dù là mùa hè cũng phải kết hợp với bữa sáng. Sáng sớm tránh uống nước mặn, ăn canh thịt hay canh vằn thắn mặn, nó sẽ chỉ làm ta có cảm giác đói thêm.

Trước khi ăn, bổ sung nước sẽ tốt cho dạ dày: Món khai vị của phương Tây chính là món canh để ăn ngon miệng hơn, bôi trơn thực quản, chuẩn bị tốt cho bữa ăn. Như vậy, trước khi ăn cơm, bổ sung nước cũng có ư nghĩa tương tự. Trước khi ăn thức ăn thể rắn, nên uống nửa cốc nước (100 ml), có thể là nước hoa quả, sữa chua ấm, cũng có thể là nước hoa cúc đường viên hay nước trà nhạt ấm, hoặc một bát canh khai vị đặc nhỏ, đều là cách rất tốt cho dạ dày.



9. Thích ăn đồ nóng









Ăn quá nóng sẽ có hại cho đường ruột và các chức năng của cơ thể, b́nh thường ăn nhiều thức ăn có nhiệt độ gần với cơ thể, có thể tŕ hoăn sự lăo hóa của dạ dày, giúp ta sống lâu hơn.

Thức ăn nóng tiếp xúc vào đường tiêu hóa, niêm mạc khoang miệng sẽ làm cho mô ở đây bị tổn thương, loét, chảy máu. Nếu liên tục bị kích thích có hại như thế có thể gây ung thư. V́ vậy, người có thói quen ăn uống đồ nóng sẽ có nguy cơ rất cao về ung thư khoa ng miệng và thực quản.

Các chuyên gia cho rằng, sau 40 tuổi nên ít ăn đồ cay, nóng, tê. Những đốm trắng ở khoa ng miệng do thích ăn đồ nóng, cay, tê gây ra không tách rời việc mắc bệnh ung thư khoa ng miệng. Nó sở dĩ chuyển hóa thành ung thư, chủ yếu và một phần bị kích thích bởi vật lư, hóa học. Đây cũng là điều mấu chốt để sau 40 tuổi tốt nhất ít ăn thức ăn cay, nóng, tê, nếu không những thức ăn khẩu vị nặng này sẽ liên tục kích thích khoa ng miệng, tiếp theo trực tiếp gây ra ung thư miệng.

Các chuyên gia cho rằng, sau 40 tuổi nên ít ăn đồ cay, nóng, tê.

V́ vậy, người qua 40 tuổi cần chú ư khi khoang miệng có những mảng đốm sần sùi không thể tiêu trừ, nếu niêm mạc sần sùi, có cảm giác dị vật hoặc vị giác thay đổi, cần hết sức chữa trị. Nếu có đốm trắng, cần thường chú ư sự thay đổi của nó, như xung quanh đốm trắng có xuất hiện đốm đỏ không, mảng đốm cứng lại, kèm theo các hiện tượng như chảy máu, loét th́ cần đặc biệt cảnh giác.



10. Uống quá nhiều cà phê hoặc trà









Uống cà phê và trà với số lượng thích hợp sẽ có lợi cho sức khỏe, uống quá nhiều sẽ kích thích dạ dày, ảnh hưởng đến giấc ngủ.

Đừng nghĩ là đem đổi cốc cà phê nhỏ thay bằng cốc to và bạn sẽ khỏe mạnh hơn. Phần lớn các nhà nghiên cứu đều cho rằng, hoàn toàn không có đủ bằng chứng cho thấy lợi ích của cà phê.

Phản ứng với cà phê có sự khác nhau ở mỗi người: một tách cà phê nhỏ có thể làm cho một người trở nên lo lắng căng thẳng, nhưng có một số người uống đến 10 tách cà phê vẫn có thể ngủ ngon cả đêm. Mối quan hệ giữa cà phê và sức khỏe hiện c̣n chưa có luận chứng chặt chẽ, các chuyên gia cho rằng uống cà phê tốt hay xấu là ở mỗi người.

Trên thực tế, trà phân làm nhiều loại, trong đó có trà xanh, trà đen (hồng trà), trà Ô long. Các loại trà này có tính nóng, lạnh khác nhau, có tốt cho sức khỏe hay không th́ phải xem thể chất của bạn thế nào. Trà xanh có tính lạnh, trà đen có tính nóng, trà Ô long có tính chất trung tính giữa trà xanh và trà đen, tức là tính b́nh.

Uống trà phải phù hợp, uống trà nhiều cũng như ăn nhiều hơn một loại thức ăn nào đó. Rất nhiều người có thể chất dương suy uống nhiều trà xanh lâu sẽ mắc hội chứng suy giảm. Nếu đă có thói quen uống trà, th́ bạn nên uống trà Ô long, v́ nó có tính b́nh.




Sưu tầm



at 4:12 PM

florida80
04-08-2019, 18:45
Trúng Gió Và Cảm Lạnh - Bác Sĩ Hồ Văn Hiền











“Kính thưa bác sĩ







Khi tôi c̣n ở Việt Nam trước đây, mỗi khi ớn lạnh, khó chịu trong người th́ người lớn nói là ‘trúng gió’ và mang ra ‘cạo gió’, ngủ qua đêm rồi hôm sau thức dậy, phần lớn là thấy khỏe khoắn trở lại.









Nay tôi ở Mỹ, mỗi khi nói bị ‘trúng gió’ th́ bị bọn trẻ cười, cho là nhà quê, có đứa c̣n nói ‘lần sau thấy gió th́ nhớ né đừng để trúng gió’. Nhưng cũng có lúc tôi thấy bọn trẻ bị cảm lạnh và nói bằng tiếng Anh là ‘catch a cold’, nếu dịch từ theo từ th́ tôi hiểu có nghĩa là ‘bắt phải cảm lạnh’, và đứa khác đùa là ‘told you – not to catch a cold’ và tôi cũng hiểu đại khái là ‘đă bảo rồi -- đừng có bắt cảm lạnh mà.’









Xin hỏi Bác sĩ:



Cảm lạnh (cold) đó có phải người ḿnh vẫn gọi là ‘trúng gió’ đó không?



Kính nhờ Bác sĩ giải thích cho."









oOo









Bác sĩ Hồ Văn Hiền, chuyên khoa nhi và y khoa tổng quát, có pḥng mạch và đang làm việc cho các bệnh viện ở Bắc Virginia, giải thích:












Trúng gió (Cold, catching a cold and syncope)



Chúng ta nói ” trúng gió”, giống như người Trung Hoa giải thích lắm chuyện bệnh tật bằng chữ "phong". Phong là gió, và trong chữ "phong" (với nghĩa là “ bệnh phong, bệnh điên cuồng” theo Đào Duy Anh) cũng có chữ 'phong" là gió trong đó. Một từ chúng ta thường nghe "thượng mă phong" (death during sex) cũng có thể nói nôm na là "trúng gió lúc trên lưng ngựa".









Có lẽ gần với khái niệm gió gây ra bệnh của chúng ta, người tây phương cũng nghi trong không khí có ǵ đem đến gây ra bệnh. Ví dụ chúng ta biết là bệnh sốt rét do muỗi cắn chích vào cơ thể kư sinh trùng Plasmodium nhiễm vào máu rồi sinh sôi nẩy nở, phá huỷ các tế bào hồng cầu trong máu chúng ta. Nhưng đó là nhờ các khám phá mới đây. Hippocrates (460-370 TTC), ông thầy của tây y, mô tả “miasma” như là những khí độc bay từ dưới đất lên, gây ra bệnh nóng sốt, lạnh run, bệnh mà chúng ta bây giờ gọi là bệnh sốt rét mà tiếng Anh gọi là malaria. Malaria do gốc tiếng Ư có nghĩa là "không khí xấu" (mal+aria), tương tự như khi chúng ta nói "sơn lam chướng khí".









Nó như vậy để thấy, đông với tây cũng có nhiều chỗ gặp nhau trong y khoa.



‘Catch a cold” or “catch cold”.



Từ tiếng Anh "to catch a cold" do tin tưởng rằng ra lạnh làm chúng ta bệnh cảm mạo, bị cúm ("flu"). Y khoa căn cứ trên thực chứng (evidence based medicine ) hiện nay cho rằng nghĩ như vậy là sai. Người ta từng cho một đám thanh niên khoẻ mạnh t́nh nguyện ra ngoài trời băng giá và thấy so sánh với nhóm control, chẳng bị cảm cúm ǵ nhiều hơn nhóm kia.









Theo y khoa chính thống (mainstream) th́ chỉ có các siêu vi bệnh cúm, bệnh cảm (rhinovirus, influenza virus) mới làm cho bạn cảm, cúm. Đi mưa bị ướt đầu, gội đầu không làm cho bạn cảm cúm. Cho nên, lúc phụ huynh đem em bé khám bệnh v́ sốt cao, bác sĩ bảo đem nó tắm nước ấm đi cho bớt nóng sốt, th́ ông nội ông ngoại tức th́ cản lại, sợ trúng gió, trúng nước.





Tuy nhiên, tôi nghĩ thực tế không đơn giản như vậy. Nếu chúng ta đang khoẻ mạnh, nhưng trong mũi chúng ta mang sẵn virus cảm cúm, nếu chúng ta ra lạnh, các mạch máu trong mũi, trong họng chúng ta co lại, nhiệt độ trong đường hô hấp giảm xuống làm virus (đang ở sẳn trong đó) sinh sôi nẩy nở lẹ hơn và gây bệnh thật sự.







Bởi vậy, trong một thí nghiệm ở Cardiff, Anh, người ta cho một số người nhúng chân vào nước đá 20 phút và những người này bị cảm nhiều gấp đôi so với người khong nhúng chân vào nước lạnh. Một ví dụ khác, người mắc bệnh suyễn có phế quản nhạy cảm với nhiệt độ không khí hít vào. Nếu ra lạnh, không quấn khăn quàng cổ, mặc áo ấm đầy đủ, có thể lên cơn suyễn (cold- induced asthma), khó thở, ho.. giống như bị cảm.









Nguyên nhân có thể gây "trúng gió"



Về vấn đề "trúng gió" th́ cũng phức tạp như vậy. Thường chúng ta gặp một người bề ngoài đang mạnh khoẻ đột nhiên chóng mặt, "xây xẩm", méo mặt, hay té xỉu, bất tỉnh nhân sự, th́ chúng ta nói "trúng gió".








Tất nhiên, có thể là:



- Tim đập loạn nhịp (arrhythmia) làm máu không lên kịp tới đầu, cơn đau tim đột ngột (heart attack), tai biến mạch máu năo



- Thường hơn cả là chỉ v́ bệnh nhân bị syncope, ngất xỉu tạm thời vài giây, do hệ thần kinh đối giao cảm hoạt động quá nhiều, tim đập chậm lại, mạch máu dăn nở ra, áp huyết hạ xuống. Nằm xuống, máu lên đầu lại đầy đủ, khoẻ lại như thường.







Tuy nhiên có nhiều trường hợp mà người ta chứng minh là "gió" là thủ phạm đích thực. Ví dụ có trường hợp bệnh nhân dị ứng với protein con ngựa, bệnh nhân chỉ đến gần con ngựa, hay trong gió có "mùi” của nó, và bị phản vệ (anaphylactic reaction), ngất xỉu, shock. Cũng như vậy, người dị ứng với đậu phộng có thể phản ứng chỉ v́ người bên cạnh mở gói đậu phộng ra ăn, gió bay "hơi" đậu phộng qua. Cho nên trên máy bay, người ta không dọn món ăn có đậu phộng nữa.








Mề đay do lạnh (cold urticaria)



Ngoài ra, một số người bị ứng mề đay với lạnh (cold urticaria). Những người này có thể bị mề đay ngứa lúc ra ngoài thời tiết lạnh, gió lạnh, lúc chảy mồ hôi, gió thổi bốc hơi nước mồ hôi làm da lạnh, lúc ăn nước đá, cà rem. Mở tủ lạnh, ngăn đóng đá cũng có thể gây triệu chứng. Nguy hiểm nhất là, nếu nhảy vào hồ tắm lạnh đột ngột, họ có thể bị shock phản vệ (tụt huyết áp, hypotension) và chết nếu không cứu kịp thời.





Định bệnh: đặt nước đá trên một vùng da nhỏ, để 4-5 phút. Lấy ra, đợi 10 phút xem mề đay có nổi lên hay không.



Chữa trị: chất kháng histamin cyproheptadin (*trước đây hay dùng để trẻ em ăn ngon miệng, lên cân).









Bác sĩ Hồ Văn Hiền



[1]Leung A. K. C. Photo Essay: Factitious dermatitis.



http://69.167.169.64/content/photo-essay-factitious-dermatitis



[2]” Although mimicking the lesions of trauma, it is not a harmful procedure, and no complications are known. A survey of 50 Vietnamese living in the United States since 1975 and 1976 has shown marked distrust of American Physicians, owing largely to actual or perceived criticism of cao gío. Acceptance of cao gío as a valid cultural practice will facilitate compliance and adequate medical follow-up.”



[3] Pich Lan. Cao gio (Coin rubbing or Coining)



http://healthpsych.psy.vand erbilt.edu/CAOGIO.htm

florida80
04-08-2019, 18:47
Câu Chuyện Thầy Lang: Dùng Muối Vừa Phải











Muối ăn (NaCl) là những hạt mầu trắng, vị mặn, tách ra từ nước biển hoặc khai thác từ mỏ di tích của biển. Đây là một chất cần thiết cho mọi sinh vật nhưng cũng có nguy cơ gây bệnh nếu dùng quá nhiều.








Muối ăn được dùng từ thuở rất sớm trong lịch sử loài người. Trước đây, v́ khan hiếm, nên muối là nguồn lợi mà nhiều lănh chúa tranh giành. Ngày nay, nhờ kỹ thuật tinh chế tân tiến, muối được sản xuất dễ dàng, nhiều hơn và rẻ hơn.








Về cấu tạo hóa chất, muối ăn gồm hai phần tử là natri (40%) và chlor (60% ). Natri có trong nhiều thực phẩm, nhất là trong thực phẩm chế biến và các loại nước uống.







Nhiều người cho là muối biển tốt hơn nhưng thực ra muối từ biển và muối từ mỏ có cùng lượng natri như nhau. Có thể là ở một vài mỏ, muối ít mặn v́ nước biển xưa kia cũng nhạt hơn nước biển ngày nay








Vai tṛ muối trong cơ thể



Trong cơ thể, muối nằm trong các dung môi lỏng (50%), dự trữ trong xương (40%) và 10% trong các tế bào.







Vai tṛ chính yếu của muối, nhất là natri, giúp giữ cân bằng dung dịch chất lỏng ra vào các tế bào. Ngoài ra, muối c̣n có các vai tṛ khác như:







-Kiểm soát khối lượng máu, điều ḥa huyết áp;



-Duy tŕ nồng độ acid/kiềm của cơ thể;



-Dẫn truyền tín hiệu thần kinh;



-Giúp cơ thể tăng trưởng;



-Giúp bắp thịt co duỗi;



-Giúp mạch máu co bóp khi được kích thích hoặc dưới tác dụng của kích thích tố;



-Hổ trợ việc hấp thụ đường glucose và các chất dinh dưỡng khác ở trong ruột.








Công dụng dinh dưỡng



-Muối tạo ra một vị mặn đặc biệt cho thực phẩm.



-Muối làm tăng mùi vị của món ăn. Chỉ với một chút muối có thể làm sự thơm ngon của miếng thịt lợn nướng chả dậy mùi. Một vài món thực phẩm ngọt mà chêm tư muốicũng đậm đà hơn.



-Muối được dùng để cất giữ thực phẩm, chống lại tác dụng của vi khuẩn, nấm mốc. Với thịt chế biến, muối làm các thành phần của thịt kết liên với nhau. Nhờ muối mà thực phẩm có thể để dành lâu ngày cũng như chuyên trở tới các địa phương xa.



-Muối ngăn sự lên men của thực phẩm. Lên men làm thay đổi hóa chất, hương vị, h́nh dạng, vẻ ngoài của món ăn.








Về dinh dưỡng, muối có trong thực phẩm tự nhiên và nước uống (20-40%), được cho thêm khi nấu nướng hoặc khi ăn. Nhưng nhiều hơn cả vẫn là trong thực phẩm chế biến (40-50%). V́ thế, khi mua các loại thực phẩm chế biến, ta cần đọc kỹ nhăn hiệu thực phẩm để biết hàm lượng muối trong đó. Nước tương tầu, nước mắm, các loại nước chấm x́ dầu, mù tạc, ketchup, salad dressing… cũng có nhiều muối.








Nhu cầu



Nhu cầu muối ở người b́nh thường tùy thuộc vào khí hậu thời tiết, mức độ hoạt động của cơ thể. Mỗi ngày cơ thể mất đi khoảng 120 mg muối qua phân, nước tiểu, mồ hôi…







Các chuyên viên y tế dinh dưỡng đều khuyên là mỗi ngày ta không nên dùng quá 2500mg natri, tương dương với một th́a cà phê muối. Thực ra, cơ thể chỉ cần khoảng 500 mg natri là đủ để duy tŕ sức khỏe. Số lượng này có sẵn trong các bữa ăn đa dạng và cân bằng các chất dinh dưỡng.








Nhiều người ăn tới 5000- 6000mg natri một ngày. Họ không thấy ngon miệng đối với món ăn ít muối v́ thế mỗi khi ăn lại phải thêm muối vào thực phẩm để tăng khẩu vị. Họ rất thích ăn thực phẩm làm sẵn như khoai mỏng chiên, đậu phọng, hột điều rang trong đó có khá nhiều muối.








Dùng muối nhiều hay ít, mặn hay nhạt là một thói quen, giống như khi ta ăn các món cay, chua, ngọt. Người quen ăn nhạt, độ 250 mg muối mỗi ngày, rất nhạy cảm đối với muối, và nếu trong thức ăn có thêm một chút muối, họ cũng phân biệt được ngay. Trái lại những người quen ăn mặn, từ 10 đến 20 gr mỗi ngày, th́ có cái lưỡi như chai ĺ với muối, và nếu thức ăn có thêm muối họ cũng không thấy mặn hơn.







Khi có thói quen ăn nhạt th́ thưởng thức được hương vị nguyên thủy của nhiều thực phẩm không thêm muối.








Tác dụng trên sức khỏe



Mối quan tâm thứ nhất của nhiều người là sự liên hệ giữa quá nhiều muối với cao huyết áp. Liên hệ này thực ra đă được để ư tới từ hàng ngàn năm nay.







Người Nhật ở Miền Bắc ăn 28 g muối (khoảng 6 th́a cà phê) mỗi ngày cho nên tỷ số người mắc bệnh cao huyết áp cao hơn dân miền Nam ít ăn muối tới 38%.







Thổ dân Alaska ăn ít muối nên ít bị bệnh cao huyết áp.







Người Mỹ ăn từ 10 đến 15 g muối mỗi ngày, tức là gấp đôi hay gấp ba số lượng vừa phải, cho nên tỷ lệ dân chúng bị bệnh cao huyết áp lên tới 25%. Cao huyết áp là một trong nhiều nguyên cơ đưa tới tai biến mạch máu năo, nhồi máu cơ tim và suy thận.








Khi ăn nhiều muối th́ sự thăng bằng giữa kali và natri trong cơ thể bị đảo lộn v́ natri cao sẽ làm giảm kali trong các mô. Khi cho thêm muối vào các loại rau, đậu th́ sự thăng bằng giữa natri và kali trong rau đậu cũng thay đổi.







Ví dụ trong 100 g đậu tươi có 300 mg kali và 2 mg natri. Khi thêm muối vào đậu để đóng hộp th́ natri lên đến 236 mg và kali giảm xuống c̣n 160 mg.








Khi mức thăng bằng giữa natri và kali trong cơ thể bị đảo lộn th́ cơ thể bị chứng phù nước. Đây là sự tích lũy bất thường của nước trong khoảng trống giữa các tế bào. Hậu quả là các mô thiếu dưỡng khí và là nguy cơ gây ra nhiều chứng bệnh trầm kha như bệnh suy tim. Đồng thời tim cũng phải làm việc mạnh hơn để đẩy máu vào mạch máu, và huyết áp lên cao.








Người nhậy cảm với muối th́ chỉ ăn một phân lượng nhỏ, huyết áp cũng lên quá mức trung b́nh.







Để biết có nhậy cảm hay không, có thể thử bằng cách sau đây: Khi huyết áp cao, không ăn muối trong một tháng rồi đo huyết áp đều đặn. Nếu huyết áp giảm th́ có nhiều phần là nhậy cảm với muối và nên giảm tiêu thụ hoặc dùng muối thay thế.








Kết quả các nghiên cứu gần đây cho thấy chỉ có chất natri trong muối ăn natri chlorid mới gây chứng cao huyết áp c̣n các loại natri khác như natri bicarbonat trong bột nướng bánh, natri citrat trong trái cây chua, natri artrat trong rượu vang đều không có liên hệ ǵ với bệnh cao huyết áp.







Một người Đức tên là Sebastian Kneipp, sống vào đầu thế kỷ 20, đă làm một cuộc thí nghiệm hi hữu về muối để thỏa óc ṭ ṃ.







Ông ta pha thêm muối vào thực phẩm của ḅ và quan sát phản ứng của con vật này. Kết quả là khi ăn nhiều muối, ḅ chết sớm. Khi ngưng muối th́ ḅ sống lâu hơn, và cũng không c̣n đẻ non.







Gần đây có người lại thí nghiệm cho chuột ăn thêm muối. Kết quả là chuột ăn nhiều muối chết trước chuột ăn ít muối vài tháng.








Giảm muối



Thực ra ta không nên và không được loại bỏ muối khỏi món ăn v́ cơ thể cần một số lượng tối thiểu. Hơn nữa, dù muốn bỏ cũng chẳng được v́ muối có tự nhiên trong nhiều thực phẩm. Nếu v́ lư do sức khỏe mà phải hạn chế th́ sau đây là vài gợi ư để giảm muối trong thức ăn:







-Nên dùng thực phẩm tươi, giới hạn thực phẩm biến chế, đóng hộp;



-Không cho thêm muối khi ăn;



-Không cho nhiều muối khi nấu thực phẩm. Khi ăn, thấy nhạt th́ dùng thêm. Cho muối khi món ăn nấu đă gần chín, như vậy nước xúp sẽ cho cảm giác mặn hơn.



-Các loại thực phẩm ướp muối cần được rửa nhiều lần với nuớc lă để loại bỏ bớt muối trước khi ăn;



-Không để lọ muối trên bàn ăn, tránh bị quyến rũ .



-Đừng cho muối vào rau luộc, v́ muối hút nước từ rau ra, rau sẽ cứng;








Phụ nữ có thai không nên quá tiết giảm sodium để tránh phù nước, v́ có thai cũng cần một số sodium có trong món ăn hàng ngày.







Các vận động viên hoặc người làm việc lao động ngoài nắng, đổ mồ hôi nhiều và mất bớt muối cũng không cần uống thêm natri, v́ thực phẩm dùng sau khi vận động đều cung cấp số muối đă mất.








Một số dược phẩm bán tự do cũng có natri: thuốc làm bớt chứng khó tiêu bao tử (loại alkalizer), thuốc ho, thuốc xổ táo bón, thuốc kháng sinh… Do đó, trước khi dùng các loại thuốc này, xin coi kỹ nhăn hiệu và hỏi ư kiến bác sĩ.







Ngoài ra, chúng ta cũng nên cẩn thận khi dùng những món như mù tạt, nước sốt cà chua, dầu giấm, nước chấm thịt nướng, nước tương, x́ dầu, bột ngọt và ngay cả món quốc hồn quốc túy nước mắm của ḿnh, v́ chúng có khá nhiều natri. Một muổng canh nước mắm có tới 2000 mg natri.








Kết luận



Ăn nhạt mặn là một thói quen có thể thay đổi được nếu ta muốn.







Nói như vậy không có nghĩa là ta phải ăn hoàn toàn nhạt, trừ khi có khuyến cáo của thầy thuốc. Nhưng giảm thói quen ăn mặn, chỉ dùng một lượng muối vừa phải có thể giúp ta thưởng thức thực phẩm tốt hơn, v́ thực phẩm thêm nhiều muối sẽ mất đi hương vị tự nhiên của nó.







Và sức khỏe cũng được bảo đảm an toàn, không dễ dàng bị Cao Huyết Áp rồi Heart attack, Stroke…xe lăn.








Bác sĩ Nguyễn Ư Đức

florida80
04-08-2019, 18:49
Lợi Ích Của Xoa Bóp Bàn Chân - Bác Sĩ Đ́nh Thuấn





Sơ đồ tất cả những bộ phận trong người dưới bàn chân (Rất hữu ích nên đọc)











- Reflexology - Wikipedia



- Reflexology - Wiki Article




- Introduction to Reflexology



- Balancing Touchs FOOT CHART










Bàn chân có mối liên quan mật thiết tới lục phủ ngũ tạng, ảnh hưởng tới sức khỏe của con người. Thí dụ : Mu ngón chân út có liên quan đến bàng quang, mu ngón chân thứ hai có liên quan đến dạ dày, ngón thứ tư có liên quan đến gan, ngón chân cái có liên quan đến gan, t́, ḷng bàn chân có liên quan đến thận...






Xoa bóp hai bàn chân không những thúc đẩy máu cục bộ lưu thông, cải thiện việc trao đổi chất dinh dưỡng, làm cho cơ, xương, khớp mềm mại, dẻo dai, mà c̣n làm thông kinh hoạt lạc, tăng cường sức đề kháng và chống các bệnh tật của toàn thân.






Khi day hoặc bấm các huyệt vi ở bàn chân c̣n có tác dụng chữa được bệnh, pḥng bệnh, kéo dài tuổi xuân và tăng thêm tuổi thọ...






Sau đây là kỹ thuật xoa bóp bàn chân giúp bạn đọc tham khảo, áp dụng:




Xoa bóp gan bàn chân






Tư thế ngồi, chân trái đặt lên trên đầu gối chân phải, tay trái giữ bàn chân, tay phải áp sát vào gan bàn chân xoa và xát theo chiều dọc bàn chân 20 lần, làm từ nhẹ đến mạnh, từ chậm đến nhanh. Bàn chân sẽ nóng dần lên là tốt.






Sau đó dùng hai ngón tay cái và trỏ bóp nhẹ các ngón chân, bóp dần xuống đến gót khoảng 5 phút. Dùng ngón tay trỏ day ấn vào huyệt dũng tuyền (giữa gan bàn chân). Sau đó để đầu ngón tay cái vuông góc với gan bàn chân, ấn vào thấy tức là được, day nhẹ nhàng huyệt theo chiều kim đồng hồ. Huyệt này có tác dụng hạ huyết áp, bổ thận, chữa đau lưng mỏi gối.







Đổi bàn chân, tŕnh tự làm như trên.




































Xoa bóp mu bàn chân






Tư thế ngồi, chân trái co lại, gấp đầu gối, bàn chân để áp bằng trên ghế. Dùng ḷng bàn tay phải áp lên mu bàn chân, tay trái xoa dọc lên khớp cổ chân 20-30 lần. Sau đó dùng ngón tay cái và trỏ (hai tay) bóp nhẹ các ngón day vào kẽ ngón chân 5 phút, ấn dọc lên mu chân theo từng ngón, sau đó vỗ nhẹ lên mu chân.






Tiếp đó dùng ngón cái ấn lên huyệt giải khê (giữa nếp lằn cổ chân), huyệt thái xung (giữa kẽ ngón 1, 2 dịch lên 2 đốt ngón tay), huyệt túc lâm khấp (giữa kẽ ngón 4, 5 dịch lên 2 đốt). Mỗi lần ấn khoảng 1 phút cho mỗi huyệt.






Thay đổi hai chân, xoa bóp khoảng 20 phút mỗi lần trong ngày. Ngày làm hai lần. Ngoài ra kết hợp đi bộ. Nên đi chân đất và giẫm vào những ḥn sỏi nhỏ, có tác dụng như ấn vào huyệt ở vùng gan bàn chân.
























BS. Đ́nh Thuấn



at 1:20 PM

florida80
04-08-2019, 18:52
Đi Bộ - Chà Xát Chân Có Lợi Cho Sức Khỏe









Tục ngữ có câu : Người già đôi chân già trước, giữ đôi chân tốt chính là mấu chốt pḥng bệnh để kéo dài tuổi thọ.




Các chuyên gia nghiên cứu phương pháp tự chữa bệnh cho rằng :



Trên đôi bàn chân có rất nhiều đầu mối thần kinh liên quan đến các tạng phủ. Cho nên dùng tay để chà xát, xoa bóp rất có lợi cho sức khoẻ. Thí dụ : Mu ngón chân út có liên quan đến bàng quang, xát ngón chân út có thể chữa được chứng bí đái, đái sót, đái buốt ... Mu ngón chân thứ hai có liên quan đến dạ dày, xát ngón 2 có thể chữa được chứng chướng bụng, đầy hơi, ợ chua. Ngón chân cái có liên quan đến gan, t́, ḷng bàn chân có liên quan đến thận. Xát gan bàn chân có thể chữa được lưng đau, mỏi, ù tai, nghễnh ngăng. Ngón thứ tư có liên quan đến gan, xát ngón này có thể chữa được táo bón, lưng vai đau mỏi ...



Thường xuyên xát gan bàn chân không những làm tăng lưu lượng máu, tăng tính đàn hồi thành mạch máu, mà c̣n kích thích năo bộ trị được chứng nhức đầu, hoa mắt, mất ngủ, mộng mị ... Người già thường xuyên xát chân c̣n pḥng được chứng tê b́, chân tay giá lạnh.



Phương pháp xát chân cụ thể : Trước tiên ngâm chân vào nước nóng 15 phút, lau sạch.. Ngồi trên giường hoặc ghế, chân nọ gác lên đầu gối chân kia, một tay xoa gan bàn chân, một tay xoa mu bàn chân, xát đi, xát lại khoảng 200 lần là vừa. Đổi chân cũng làm như trên. Xát cho đến khi nóng, người cảm thấy khoan khoái, dễ chịu là được. Mỗi ngày làm 2 lần vào buổi sáng và tối.




8 Lợi ích của đi bộ



Đi bộ mỗi ngày 30 phút sẽ đem lại cho bạn những tác dụng không ngờ đối với sức khoẻ thể chất và tinh thần.




1. Tốt cho tim



Một nghiên cứu gần đây đưa ra kết luận, nếu đi bộ nhanh 30 phút mỗi ngày sẽ làm giảm nguy cơ phát triển hội chứng chuyển hoá (metabolic syndrome)- một nhóm các triệu chứng ban đầu dẫn đến nguy cơ mắc các bệnh về tim mạch, tiểu đường, và đột qụy. Theo thống kê tại Mỹ, có khoảng 24 triệu phụ nữ nước này mắc hội chứng chuyển hoá. Không có thời gian để đi bộ nửa giờ mỗi ngày ư ? Một nghiên cứu ở Anh cho thấy rằng, hoạt động thường xuyên (Kết hợp đi bộ và đi xe đạp) đồng nghĩa với việc giảm 11 % nguy cơ mắc các bệnh về tim mạch, đặc biệt là đối với phụ nữ.




2. Loại bỏ nguy cơ mắc ung thư vú



Đi bộ chỉ cần vài giờ mỗi tuần có ư nghĩa đặc biệt trong việc giảm nguy cơ mắc ung thư vú, (theo công bố trên tờ tạp chí của hội y học Mỹ). Đồng thời đi bộ làm giảm béo, tăng khả năng sản sinhestrogen. Kết quả của nghiên cứu trên 74.000 phụ nữ ở tuổi măn kinh (50-79 tuổi) với những người có thể trạng b́nh thường, nguy cơ mắc ung thư vú giảm đi 30 %, c̣n những người thừa cân th́ chỉ giảm từ 10-20 %. Nghiên cứu trên phụ nữ trẻ hơn cũng đưa đến kết quả tương tự.




3. Giúp ngủ ngon hơn



Đi bộ nhanh vào buổi chiều giúp bạn có được một giấc ngủ ngon hơn (Theo lời khuyên của tổ chức Giấc ngủ Quốc tế). Hơn nữa, nhiều ư kiến c̣n cho rằng, đi bộ làm tăng lượng hormone serotonin giúp cho bạn được thư giăn … Tuy nhiên bạn đừng nên đi bộ 2 giờ trước khi ngủ v́ nó quá muộn để cơ thể nghỉ ngơi trở lại.




4. Làm giảm sự đau nhức cơ thể
Hăy đi bộ và bạn sẽ giảm sự đau nhức cơ thể (Đó là lời khuyên của các nhà khoa học, Đặc biệt là môn đi bộ nhanh (Chiwalking- một ư tưởng kết hợp Thái cực quyền, Yoga và Pilates- một môn thể dục mềm dẻo). Nó giống như việc đi bộ thường xuyên nhưng bởi v́ bạn thư giăn có ư thức, nó làm cơ thể bạn trở nên cân bằng bao gồm việc vận động cánh tay, làm cho chân không bị stress như khi đi bộ. Kết quả làm giảm đi sự đau nhức. Môn Chiwalking hiện ngày một phổ biến ở Mỹ.




5. Nó làm cho bạn hạnh phúc



Đi bộ có thể làm cho bạn giảm bớt sự buồn chán, lo âu và stress, đó là một hiệu quả mà ít ai ngờ tới. Chỉ cần 30 phút đi bộ sẽ khiến cho tâm trạng của bạn trở nên khá hơn. theo nhà nghiên cứu thuộc trường đại học Texas - Mỹ). Bỏ ra 90 phút đi bộ 5 lần mỗi tuần là bạn sẽ có được tâm trạng tốt nhất (nghiên cứu của đại học Temple). Một giải thích được đưa ra : Đi bộ giúp cơ thể sản sinh ra endorphin, một hoá chất làm cải thiện tâm trạng tạo cho bạn cảm giác lạc quan, yêu đời hơn.


6. Giảm Cân

Đi bộ 30 phút mỗi ngày có thể tránh sự tăng cân ở hầu hết những người ít hoạt động tự nhiên. Mặt khác, nếu phụ nữ đi bộ một giờ mỗi ngày và năm lần trong một tuần sẽ tiêu hao 1.500 calo mỗi ngày và giảm khoảng 11 kg cân nặng bị thừa mỗi năm. Việc đi bộ có thể kiểm soát trọng lượng cơ thể của bạn.




7. Duy tŕ trí nhớ cho người cao tuổi



Một vài nghiên cứu trên nhóm người cao tuổi chỉ ra rằng đi bộ thậm chí chỉ cần 45 phút mỗi tuần sẽ giúp tránh được bệnh Alzheimer. Đi dạo hoặc tản bộ thông thường cũng đồng nghĩa với việc trí năo được luyện tập và trở nên minh mẫn hơn ở tầng lớp người cao tuổi.




8. Bảo vệ xương của bạn



Chỉ cần 30 phút đi bộ 3 lần mỗi tuần là cách tuyệt vời để bảo vệ và rèn luyện cho xương của bạn. Giống như một bài tập, khi đi bộ sẽ đ̣i hỏi người phải sử dụng 95 % hệ cơ, thực tế quá tŕnh này giúp thúc đẩy và khiến cho xương của bạn trở nên khoẻ mạnh và rắn chắc hơn.




Sưu Tầm



at 11:01 PM

florida80
04-08-2019, 18:54
Thực Phẩm Tốt

florida80
04-08-2019, 18:56
Thừa Chất Sắt Dễ Gây Ung Thư








Thiếu sắt gây thiếu máu, v́ vậy, trẻ em và phụ nữ thường phải bổ sung chất sắt. Tuy nhiên, việc dư thừa chất sắt lại gây ra nhiều loại ung thư nguy hiểm.



Sắt là chất quan trọng trong cơ thể, có mặt trong mọi tế bào và rất cần thiết trong việc duy tŕ sự khoẻ mạnh của hệ miễn dịch, các cơ và điều chỉnh sự phát triển của các tế bào.


GS.TS Bùi Minh Đức, Viện Dinh dưỡng Quốc gia cho biết, sắt vô cùng quan trọng với cơ thể. Thiếu sắt gây thiếu máu, ốm đau và suy nhược, thậm chí tử vong. Tuy nhiên, sắt dư thừa lại vô cùng độc hại, là thủ phạm của nhiều bệnh tật, đặc biệt là ung thư.






Theo đó, trong khẩu phần ăn nếu lượng sắt quá nhiều có thể tạo khối u trong gan, phổi, mô, ruột kết tràng hoặc tự phát thành bệnh nhiễm sắc tố sắt nội mô với tăng nguy cơ ung thư tế bào gan, dạ dày, ruột kết tràng và có thể cả ung thư phổi, thực quản, bàng quang.






Lượng sắt quá nhiều trong khẩu phần ăn có thể là nguyên nhân phát triển xơ gan và ung thư gan. Cơ chế của nó là do, sắt có trong tế bào dưới dạng transferin có nhiệm vụ vận chuyển protein trong huyết tương, liên kết với chất tiếp nhận trên bề mặt tế bào và khi transferin đă băo ḥa sắt sẽ tác động tăng sinh tế bào.






Khi mức băo ḥa transferin đạt trên 60% sẽ dẫn đến nguy cơ gây ung thư.






BS Phạm Đ́nh Tuần, Pḥng khám Ung thư, Trung tâm Y tế Thái Hà cho hay, sắt có nhiều trong các loại ngũ cốc, đậu đỗ, rau cải xoong, rau bina, cải xoăn, hạt vừng, hướng dương, ḷng đỏ trứng, ṣ, trai, cá béo...






Đặc biệt là thịt màu đỏ chứa rất nhiều sắt, làm tăng cao nồng độ sắt tự do có hại, ngay cả khi các protein chưa đủ băo ḥa với sắt.






Một số nghiên cứu đă lấy chiết xuất dịch từ núm vú bằng một máy bơm vú ở phụ nữ tiền măn kinh, sau măn kinh để nghiên cứu và phát hiện rằng phụ nữ bị ung thư vú có mức ferritin (một protein vận chuyển sắt) trong dịch vú cao hơn 5 lần so với b́nh thường.






Các chuyên gia cảnh báo, sắt cũng giống như ch́, thủy ngân, nhôm và mangan, là chất luỹ tích, không thể bài tiết. Mỗi ngày, chúng ta chỉ có thể bài tiết khoảng 1,2mg bất kể hấp thụ nhiều hay ít.






V́ vậy, nếu sắt đă được hấp thụ hơn lượng cần thiết, rất khó để loại ra khỏi cơ thể. Phần lớn lượng dư thừa sẽ được tích trữ trong gan ở dạng phức hợp sắt protein là ferritin.






Khi ferritin băo hoà, một phức hợp sắt khác là hemosiderin được giải phóng và có thể dẫn đến hàng loạt ảnh hưởng bất lợi lên các tế bào gan. Thức ăn chứa quá nhiều sắt không được hấp thụ hết có thể giải phóng các gốc oxy trong ruột, gây ung thư ruột thừa. Đặc biệt, chế độ ăn nhiều sắt kết hợp với các thuốc, thực phẩm bổ sung sắt sẽ là nguy cơ khó lường.

florida80
04-09-2019, 19:28
Ăn Sao Cho Đúng?







Có thực mới vực được đạo. Ăn th́ ai cũng phải ăn. Nhưng lắm khi sinh bệnh không v́ miếng ăn mà v́ cách ăn. Nói có sách mách có chứng, ở CHLB Đức rơ ràng không thiếu bệnh viện chuyên khoa với công nghệ tiên tiến, cũng không thiếu thuốc đặc hiệu. Ấy vậy mà hàng năm vẫn có cả chục ngàn người t́m các tu viện cổ kính ở tiểu bang Badem-Wurtemberg để học cách… ăn!




Sở dĩ như thế không dưới 60% bệnh nhân bên đó quyết liệt đ̣i hỏi được điều trị bằng liệu pháp sinh học thay v́ với thuốc hóa chất tổng hợp. Thêm vào đó, hơn 70% thầy thuốc ở Đức trước sau vẫn trân trọng kinh nghiệm của y học dân gian. Đó là lư do tại sao hàng trăm ngàn bệnh nhân ở Đức thường xuyên tham gia chương tŕnh nghỉ dưỡng trong các tu viện để được chăm sóc sức khỏe với nước khoáng, dược thảo, món ăn… theo kinh nghiệm của các thầy thuốc đồng thời là thầy tu. Nhiều bệnh nhân, kể cả không ít thầy thuốc bên đó, đều nằm ḷng nhiều bài thuốc dược thảo gia truyền của nữ tu Hildegard von Bingen, thay v́ chuộng lối dùng thuốc theo kiểu đau đâu chữa đó để rồi trả giá bằng phản ứng phụ khó lường. Bên ḿnh th́ phản ứng phụ của thuốc dường như vẫn c̣n là chuyện trà dư tữu hậu!






Nếu tưởng thầy ḍng ở xứ làm xe BMW chữa bệnh mát tay nhờ biết cách “tiếp thị” đặc sản nào đó theo kiểu độc quyền “made by thầy tu” th́ sai. Cái hay của thầy thuốc mặc áo ḍng bên Đức chính là biện pháp hướng dẫn cho “khách hàng” về cách ăn uống sao cho đừng mang bệnh vào thân. Theo các thầy tu trên quê hương của Goethe, nhiều trường hợp mắc bệnh một cách oan uổng, dù tính cho cùng chẳng oan chút nào, là v́ gia chủ:




1. Ăn quá nhanh đến độ mỗi miếng ăn không được nhai tối thiểu 10 lần. Thức ăn v́ thế xuống đến bao tử ở dạng khó được hấp thu. Hậu quả là ăn có thể nhiều nhưng hưởng chẳng bao nhiêu!






2. Ăn trong trạng thái quá căng thằng v́ mang theo công việc lên bàn ăn nên tuyến yên không trung ḥa nổi lượng nội tiết tố thặng dư do stress. Hậu quả là lượng nước chua trong dạ dày được bài tiết quá sớm trước bữa rồi sau đó quá trễ sau bữa ăn, nghĩa là lúc bao tử c̣n trống. Dạ dày v́ thế dễ bị viêm loét. Đă vậy nếu gia chủ ăn khi đang bực bội hay buồn rầu th́ không cần học bói dịch cũng biết sớm muộn cũng gặp hạn “quan lang”!



3. Quên uống ly nước lớn trước bữa ăn ít phút, hay chọn món canh khai vị, để nhờ nước vừa pha loăng dịch vị, vừa giúp bao tử xay nhuyễn thức ăn, thay v́ lúc nào cũng phải rồ ga v́ gặp hàng cứng rồi mau cháy máy!




4. Ăn một lần quá no khiến trái tim sau đó phải gồng ḿnh bơm thêm máu đến trục tiêu hóa rồi đành bỏ quên nơi khác như năo bộ, thành tim, đáy mắt… Chính v́ thế phải ăn chầm chậm, ăn vừa đủ no nếu đă thiếu máu cơ tim, đă bị bệnh vơng mạc. Với người ăn quá nhanh, đến khi có được cảm giác no th́ lượng thức ăn đă quá tải trong dạ dày.




5. Dùng nhiều thực phẩm sống trong bữa cơm chiều để rồi suốt đêm khó ngủ v́ hiện tượng lên men trong khung ruột. Đó là chưa kể hậu quả lâu dài trên trục thần kinh – nội tiết – biến dưỡng v́ các cơ quan nội tiết như tuyến thượng thận, tuyến giáp trạng… ngày nào cũng phải tăng năng suất.




6. Không lưu ư về quân b́nh giữa thực phẩm gốc động vật và rau quả tươi theo tỷ lệ món đỏ đừng hơn phân nửa món xanh, thậm chí chỉ 1/3 càng tốt, để độ pH trong máu đừng quá chua rồi kéo theo rối loạn biến dưỡng.




7. Hay tráng miệng bằng món quá ngọt ngay sau bữa ăn khiến tụy tạng mau mệt nhoài v́ đă bù đầu với việc điều chỉnh lượng đường huyết ngày nào cũng bội tăng mấy chục lần.




8. Không cho cơ quan cơ quan trọng yếu giữ nhiệm vụ giải độc như lá gan, trái thận, khung ruột có dịp nghỉ xă hơi nhờ không phải đối đầu với độc chất ngoại lai hay phế phẩm nội sinh từ tiến tŕnh biến dưỡng. Đáng tiếc v́ biện pháp tương đối đơn giản. Đó là nhịn đói ít ngày trong tháng, hay một ngày trong tuần, hay vài ngày trong tuần chỉ ăn một bữa.




9. Ăn nhậu là tiếng kép. Đừng uống rượu mà không ăn. Nên nhớ là lượng thức ăn khi “vô” giữ vai tṛ chất độn để nhờ đó giảm độ hấp thu của rượu vào máu.




10. Nhậu nhẹt cũng là tiếng kép. Thầy tu bên Đức không cấm nhậu, miễn là đừng nhậu đến… nhẹt! Trong chương tŕnh dinh dưỡng của các nhà ḍng bao giờ cũng hoan nghênh ly rượu vang đỏ hay cốc bia đen sau mỗi bữa ăn. Kẹt một nổi là ở xứ ḿnh nhiều người vẫn chưa phân biệt được giữa một ly với một chai rượu mạnh hay một két bia!





Tổ chức Y Tế Thế Giới (WHO) ắt hẳn đă có cơ sở vững chắc khi quả quyết sai lầm trong chế độ dinh dưỡng là nguyên nhân của tối thiểu 70% bệnh chứng nghiêm trọng. Không cần dông dài, khỏi cần thống kê cũng hiểu tại sao nhiều bệnh chứng nghiêm trọng như ung thư, cao huyết áp, tiểu đường, thấp khớp, dị ứng… lại có tỷ lệ cao đến thế ở nước ta! Không cần dông dài cũng hiểu tại sao doanh nhân là miếng mồi ngon của nhiều bệnh chứng chỉ v́ mấy ai tránh khỏi ăn uống thất thường, ăn quá nhanh, uống nước không đủ…






Đáng tiếc v́ ăn th́ ai cũng phải ăn nhưng do cách ăn mà sinh bệnh th́ đúng là vụng về đến độ đáng trách.

florida80
04-09-2019, 19:29
Chứng Tiểu Đêm Ở Người Già











Người lớn tuổi thường bị mất ngủ, lư do thường gặp nhất là phải đi tiểu nhiều ban đêm. Ngoài việc gây rối loạn giấc ngủ, bệnh nhân sáng sớm mệt mỏi, không nghỉ ngơi đầy đủ, nguy cơ té và có thể gẫy xương có thể là những chuyện nguy hiểm đi kèm theo chứng tiểu đêm.




Bệnh nhân đàn ông có thể có những triệu chứng kèm theo ở đường tiểu phía dưới (lower urinary tract): như ban ngày đi tiểu liên miên (urinary frequency, (trên 8 lần/ngày)), ḍng ">nước tiểu yếu, cần đi tiểu ngay (urgency), hay són tiểu (urinary incontinence).












Nguyên nhân chúng ta thường nghe đến là tuyến tiền liệt ph́ đại lành tính (benign prostate hypertrophy) (không phải ung thư) làm đường thoát ra của nước tiểu bị nhỏ lại và tiểu không thông, chia làm nhiều lần.

Phụ nữ có thể đi tiểu nhiều lần hơn lúc lớn tuổi, hoặc do kết quả sinh đẻ, hoặc do thói quen phụ nữ hay đi tiểu.



A. Vài ư niệm về cơ thể học:










Chúng ta có hai trái thận (E: kidney, F: rein) hai bên, phía sau và phía trên bụng. Hai thận lọc máu và bài tiết nước tiểu, đi xuống hai ống niệu quản (ureter), vào bọng đái (bladder) nằm giữa, phía dưới bụng. Bọng đái người lớn có nước tiểu chừng 300ml th́ mắc tiểu, nếu năo cho phép “mở cửa” th́ nước tiểu thoát ra niệu đạo, nếu nín thêm bọng đái có thể chứa đến 600ml là tối đa.




Tuyến tiền liệt (prostate) trước đây c̣n gọi là “nhiếp hộ tuyến”, là một tuyến ngoại tiết của bộ phận sinh dục nam. Tuy nhiên gần đây người ta cũng đặt tên lại cho một số tuyến tương tự ở phái nữ là tuyến tiền liệt nữ (female prostate).








Ở phái nam, tuyến nằm dưới và nằm ngay trước ngơ nước tiểu đi ra của bàng quang (= bọng đái: bladder). Tuyến này tiết vào tinh dịch một số thành phần giúp nuôi dưỡng các tinh trùng.




Tuyến tiền liệt bao quanh, ôm lấy niệu đạo (urethra) là ống dẫn nước tiểu thoát ra từ bọng đái, nếu tuyến lớn quá (ph́ đại, hypertrophy), hoặc có ung bướu, tuyến có thể bóp nghẽn đường đi ra của nước tiểu và làm khó tiểu hoặc bí tiểu. Tuy nhiên, chứng đi tiểu đêm không phải luôn luôn do tuyến tiền liệt.











B. Những lư do khác nhau có thể gây chứng tiểu đêm:


1) Nước tiểu nhiều lúc ban đêm (nocturnal polyuria) do:
- Suy tim.

- Rối loạn chất nội tiết ADH (antidiuretic hormone, hay arginin vasopressin được hypothalamus của năo bộ tiết ra) là chất đáng lẽ làm thận giữ lại nước nhiều hơn, làm nước tiểu cô đọng hơn, và thể tích nước tiểu giảm đi lúc ban đêm. Ngược lại ở một số người già có rất ít chất vasopressin này tiết ra ban đêm, nên lượng nước tiểu ban đêm quá nhiều.

- Nước ứ phần dưới cơ thể (hạ chi), do các tĩnh mạch không hoạt động b́nh thường, do suy tim, do thiếu protein trong máu, do ăn mặn quá.



- Uống thuốc lợi tiểu (diuretic) trước khi đi ngủ (ví dụ thuốc loại thiazide trị bệnh cao máu)
- Ngưng thở (apnea) trong giấc ngủ v́ bị đường hô hấp tắc nghẹt (obstructive sleep apnea), thiếu oxy trong máu gây ra áp suất trong động mạch phổi tăng, làm áp suất trong tâm nhĩ phải tăng và gây tác dụng tạo ra nước tiểu nhiều hơn.


Nếu bệnh nhân ngáy to, thỉnh thoảng yên lặng không nghe tiếng thở, nhất là người mập, nên coi chừng có sleep apnea hay không, bằng cách đo polysomnogram (đo tim, nhịp thở, oxy trong hơi thở, năo điện đồ cùng một lúc trong khi bệnh nhân ngủ). Nếu cần, dùng CPAP cho apnea (máy tạo nên áp suất dương thường trực trong đường hô hấp trong lúc ngủ.)

2) Bệnh tạo ra quá nhiều nước tiểu:
- Do bệnh tiểu đường (đái tháo đường, diabetes)


- Đái tháo nhạt (diabetes insipidus, do tổn thương năo bộ, hoặc do thận bị hư /nephrogenic diabetes insipidus)
- Uống nước quá nhiều (polydipsia).

3) Do thể tích (dung tích, capacity) bọng đái quá nhỏ về đêm:


- Hệ thần kinh bọng đái bất thường (neurogenic bladder) không kiểm soát được.
-Viêm bọng đái (cystitis)
- Ung thư bọng đái, tiền liệt, niệu đạo (cancer of the bladder, prostate, urethra).
-Thói quen đi tiểu lúc bọng đái chưa đầy (~300-600ml).

- “Overactive bladder” (OAB) (bọng đái “quá hoạt động”).

- Lo âu (anxiety).

- Rượu, café
- Sạn trong bọng đái
- Thuốc men:



+ Caffeine, theophylline trị thông cuống phổi, thuốc lợi tiểu.
+ Thuốc beta blockers (dùng trị bệnh cao huyết áp, làm cơ detrusor bọng đái co lại tăng risk són tiểu), thuốc alpha blocker (giản nở các sợi cơ cỗ bọng đái), thuốc lợi tiểu (dùng trị bệnh cao huyết áp).

C. Lời khuyên:

Nói chung, nếu cần nên đến bác sĩ gia đ́nh để t́m xem chính xác nguyên nhân ở đâu, ngoài khả năng do tuyến tiền liệt gây ra.



Nếu bác sĩ cho phép, có thể thử những biện pháp thông thường như: – Tránh uống nước quá nhiều, nhất là tối, 6h trước khi đi ngủ, ăn trái cây khô trước khi đi ngủ để giảm bớt nước tiểu ban đêm.

– Tránh cà phê, trà, rượu, bia (la ve) và những thuốc lợi tiểu nếu có thể được.

– Kê chân lên cao (lúc ngồi, nằm) ban ngày để tránh nước tụ xuống hai chân, mang vớ bó chặt để giảm bởt phù hai chân.

– Cẩn thận thắp đèn sáng, nếu cần đi khám mắt xem thị lực có tốt không, có bị cườm mắt hay không, để tránh té, tai nạn lúc đi tiểu đêm.
Chúc bệnh nhân may mắn.


Bác sĩ Hồ Văn Hiền

florida80
04-09-2019, 19:31
cao got'

florida80
04-09-2019, 19:32
Đây Là Những Cây Trồng Trong Nhà Nguy Hiểm Cho Trẻ Con (HCĐ)

florida80
04-09-2019, 19:34
Kinh Nghiệm Thực Tế : Phát Hiện Kịp Thời "Heart Attack"








Tối thứ ba tuần trước, sau khi gửi ư kiến về Lá Diêu Bông vào D Đ, tôi đi ngủ rất ngon đến hơn 6 giờ sáng, dậy đi tắm và sửa soạn đi làm, cảm thấy thoải mái b́nh thường, không có triệu chứng ǵ khác lạ. Khoảng 7 giờ hơn, khi với tay tắt ngọn đèn trên đầu tủ (hơi cao), tôi bỗng thấy mặt nóng bừng, mồ hôi toát ra, hai cánh tay ră rời như vừa khiêng vác vật nặng quá sức. Khi đó, tôi hơi nghi là bị stroke (đứt hoặc nghẽn mạch máu dẫn vào óc), liền lấy máy đo huyết áp, thấy rất cao, khoảng 180/100. Tôi vội lấy 2 viên thuốc chống cao máu uống liền một lúc. (Tiếc rằng nhà không có sẵn aspirin). Ngay sau đó, tôi xuống cầu thang th́ bắt đầu thấy tức ngực, đau khoảng giữa lồng ngực, nửa như đau bao tử (xót bao tử khi đói), nửa như bị ai đấm vào chấn thủy. Nh́n vào gương, cười, nói, dơ tay lên xuống th́ không thấy có ǵ biến đổi hay khó khăn, không nhức đầu chóng mặt, hát thử vài câu vẫn thấy dở như thường, nghĩa là không có những triệu chứng của stroke. Tôi liền nghĩ ngay đến heart attack (cơn đau tim), chứ không phải stroke. Không chần chờ nữa, tôi gọi số cấp cứu 911 ngay. Lúc đó vào khoảng 7 giờ 20, chỉ chừng 10 phút sau khi tôi nhận thấy triệu chứng khó chịu đầu tiên.






Qua điện thoại, nhân viên cấp cứu bảo tôi ngồi hoặc nằm ở tư thế nào thấy thoải mái nhất, nhờ người nhà lấy tất cả những thứ thuốc tôi đang uống để sẵn, và để ngỏ cửa vào nhà. Khi đó tôi vẫn tỉnh táo, đọc tên từng loại thuốc và liều lượng đang uống cho họ, nhưng rất khó thở và hai cánh tay rất mỏi. Vẫn không thấy nhức đầu và không nói líu lưỡi (không phải stroke). Chừng 5 phút sau, xe cấp cứu tới. Người paramedic (chuyên viên cấp cứu) cho tôi nhai ngay chừng 5 hay 6 viên baby aspirin (loại 81 mg), nhai rồi nuốt trửng chứ không chiêu với nước để cho thuốc thấm theo nước miếng vào các mạch máu nhỏ dưới lưỡi, mục đích là làm cho máu loăng ra. Đồng thời họ xịt Nitroglycerin lỏng vào dưới lưỡi tôi ba lần, mỗi lần cách nhau chừng 5 phút, để cho các mạch máu giăn nở (không được dùng quá 3 lần, kẻo sự giăn nở mạch máu quá đáng, có thể gây stroke). Tôi thấy bớt tức ngực, thở dễ hơn, nhưng hai cánh tay vẫn ră rời. Trái lại, đầu óc tỉnh táo, không nhức đầu, và chân đi vẫn vững vàng (không stroke).






Chừng 5 phút sau, xe cứu thương tới. Tôi đă cảm thấy dễ thở hơn và có thể tự đi ra trèo lên băng-ca cấp cứu. Trên đường vào vào bệnh viện, tôi để ư thấy xe không hụ c̣i - có nghĩa là không có ǵ khẩn cấp lắm. Trên xe, người paramedic hỏi chuyện tôi liên tục, mục đích là coi tôi có tỉnh táo, có bị stroke khiến nói ngọng không. Có người vừa bị heart attack vừa bị stroke, rất nguy hiểm.






Khoảng 15 phút sau đến bệnh viện, họ đưa tôi vào khu cấp cứu, có bác sĩ chăm sóc ngay lập tức. Họ tiếp "nước biển" ḥa thuốc làm loăng máu và làm tan máu đông (blood clots), morphine làm bớt đau, chụp quang tuyến X lồng ngực để t́m dấu vết sưng phổi nếu có (pneumonia), đo tâm động đồ (EKG). Đồng thời họ cho thử máu để t́m chỉ số enzyme định bệnh tim. Khi tim bị thiếu máu, tim sẽ tiết ra loại enzyme này. Nếu chỉ số enzyme cao tức là bệnh nhân đă bị heart attack. Lần đầu, có lẽ v́ thử nghiệm quá sớm, nên chỉ số không cao. Họ chờ 2 tiếng sau thử lại, th́ mới rơ ràng là bị heart attack. V́ nhịp tim của tôi đập không quá nguy cấp, nên bác sĩ không mổ ngay. Trong thời gian đó, tuy vẫn nằm ở khu cấp cứu, nhưng tôi rất tỉnh táo, bớt đau ngực và tay, và c̣n có thể lấy smart phone ra trả lời ngắn gọn một hai emails.






Lạ một điều là tâm động đồ làm mấy lần đều không có dấu hiệu heart attack rơ ràng. Sau này bác sĩ giải thích rằng bắp thịt tim tôi chưa bị hư hại và c̣n hoạt động mạnh dù bị attacked, có lẽ nhờ vào việc tôi bơi lội thường xuyên (tôi thường bơi 40 đến 60 chiều dài hồ bơi trong một giờ, một hai lần mỗi tuần - nhưng từ sáu tháng nay bận nhiều việc quá nên chuồn, không bơi, không tập thể dục ǵ hết!).






Khoảng 3 giờ chiều th́ bác sĩ chuyên khoa tim quyết định làm phẫu thuật thông mạch máu tim (angioplasty). Theo kỹ thuật này, bác sĩ cắt một lỗ rất nhỏ ở mạch máu gần háng hay cổ tay - trường hợp của tôi bác sĩ cắt ở cổ tay - rồi luồn một camera cực nhỏ ở đầu một catheter (ống mềm rất mảnh) đưa vào đến động mạch tim. Camera sẽ chiếu lên màn ảnh computer lớn như TV cỡ 60" để cho thấy chỗ bị tắc nghẽn. Khi đó tôi vẫn tỉnh, chỉ hơi mơ mơ buồn ngủ do được chích thuốc an thần, không làm mê hoàn toàn, và không cảm thấy đau đớn ǵ hết. Khi t́m ra chổ mạch máu nghẽn, bác sĩ sẽ "bắn" cho cục máu đông (blood clot) tan ra, rồi đẩy một "bong bóng" (balloon) vào chỗ đó, xong bơm cho bong bóng căng lên, làm phồng khúc mạch máu nghẹt khiến cho máu thông dễ dàng, trước khi x́ hơi bong bóng, c̣n để lại một "giàn lưới" (stent) h́nh ống, nằm lót bên trong nhằm căng khúc mạch máu đó ra. Lưới sẽ nằm vĩnh viễn trong mạch máu tim, nên bệnh nhân sẽ phải uống thuốc làm loăng máu dài dài, nếu không, máu đông có thể kẹt vào đó làm heart attack nữa!






Cuộc giải phẫu, ban đầu dự tính chừng 45 phút, đúng hai giờ mới xong! Mà vẫn c̣n hai mạch máu nữa chưa được thông, nên vài tuần nữa tôi sẽ phải vào bệnh viện làm tiếp. Tuy nhiên, lần sau sẽ dễ dàng hơn nhiều, có thể làm xong trong ngày, trừ khi tôi để cho bị heart attack nữa. Sau khi mạch máu tim được thông, tôi cảm thấy dễ chịu ngay lập tức. Hai cánh tay hết mỏi ră rời, ngực hết tức, nhịp thở gần b́nh thường trở lại.






Bác sĩ đă mổ từ mạch máu ở cổ tay tôi, luồn vào tim, nên tôi mau hồi phục hơn là mổ từ dưới háng. Sau ba ngày, mở băng ra, cổ tay tôi chỉ c̣n vết đóng vảy cỡ như bị con kiến lửa cắn rồi ḿnh găi ra mà thôi! Tuy nhiên, dọc theo cánh tay có vết bầm phía bên trong, chắc là do đường ống luồn qua gây nên. Không đau đớn ǵ cả. Tim không có cảm giác ǵ mới lạ, vẫn yêu, thương, hờn, giận... như thường! Đặc biệt là sau khi được thông mạch máu tim, huyết áp của tôi xuống và nằm ở mức rất tốt, rất ổn định. Bác sĩ giải thích là do mạch máu được thông nên tim đỡ phải làm việc nhiều, không cần bơm máu mạnh như trước nữa, nên áp suất nén vào thành mạch máu cũng giảm đi. Thật là một công đôi việc!






Qua tai biến này, tôi rút ra được vài kinh nghiệm quư báu như sau, xin được chia sẻ cùng Diễn Đàn:






Thứ nhất, B̀NH TĨNH MÀ RUN! Đúng vậy, ai mà không run khi nghĩ đùng một cái ḿnh đang bị một trong hai chứng bệnh giết người nhiều nhất và nhanh chóng nhất: Heart attack đứng đầu, stroke thứ ba, chỉ sau ung thư. Nhưng phải thật b́nh tĩnh và tỉnh táo để không lăng phí từng giây phút và làm bệnh thêm trầm trọng.






Thứ hai, NGƯNG MỌI HOẠT ĐỘNG VÀ ĐỂ Ư NGAY KHI CÓ TRIỆU CHỨNG LẠ THỨ NHẤT (trường hợp tôi là toát mồ hôi dù buổi sáng khá lạnh). Nếu đang lái xe, cần phải t́m chỗ an toàn đậu lại ngay. Chú ư: Nếu có cell phone, luôn luôn mang bên ḿnh, không để trong cặp hay giỏ đàng sau cóp xe.






Thứ ba: GỌI CẤP CỨU NGAY KHI CÓ NHIỀU HƠN MỘT TRIỆU CHỨNG LẠ của stroke hay heart attack (thí dụ: cánh tay mỏi ră, tức ngực, ngay sau khi toát mồ hôi). Ở Mỹ: Không nên nhờ người nhà chở vô nhà thương, mà phải gọi 911. Lư do: bệnh viện có bổn phận phải cấp cứu ngay lập tức khi tiếp nhận một bệnh nhân do 911 đưa tới. Người paramedic đưa ḿnh tới phải chờ cho đến khi thấy ḿnh được chăm sóc bởi bác sĩ, rồi mới đi được. Nếu ḿnh tự tới xin cấp cứu, trừ khi bị thương máu me đầm đ́a như bị đụng xe, c̣n không sẽ phải làm nhiều thủ tục và chờ đợi trước khi được cấp cứu. Nếu bị


stroke hay heart attack mà mất chừng 15 phút là nguy lắm rồi.






Thứ tư: Cố gắng PHÂN BIỆT CÁC TRIỆU CHỨNG GIỮA STROKE VÀ HEART ATTACK. Khi chuyên viên cấp cứu đến nhà, cố gắng trả lời rơ ràng sao cho họ có thể hướng sự cấp cứu về một loại tai biến: Stroke hay Heart Attack. Lư do: những giây phút cấp cứu đầu tiên là cực kỳ quan trọng. Nếu không phải stroke v́ máu nghẽn, mà v́ đứt mạch máu, nhức đầu mạnh, mạch máu chính trên đầu bị bể, mà nhân viên cấp cứu cho thêm aspirin làm loăng máu, nitroglycerin làm giăn mạch... th́ tiêu luôn tại chỗ! Theo các bác sĩ, khi thiếu máu vào nuôi, tế bào óc sẽ chết mau hơn tế bào tim nhiều. Do đó, nếu nhân viên cấp cứu tin là bệnh nhân bị stroke do đứt, bể mạch máu th́ nhiều phần là họ sẽ lo chở bệnh nhân vào bệnh viện thật sớm (bây giờ ở Mỹ và các nước tiên tiến có thuốc chích có thể hồi phục stroke, nếu được chích trong ṿng một, hai giờ kể từ khi có triệu chứng đầu tiên, càng sớm càng tốt.) Nếu tin là heart attack th́ họ sẽ thử làm cho máu loăng và mạch nở tại chỗ, mất chừng 10 phút trước khi họ chở đi. Mười phút phù du đầu tiên đó quư giá bằng 10 năm hay có thể bằng cả quăng đời c̣n lại!






Thứ năm: Trong bệnh viện, cần TỈNH TÁO (khi c̣n có thể), NÓI CHUYỆN NH̀ỀU với y tá, bác sĩ (không hiểu th́ yêu cầu người thông dịch). Đặt câu hỏi mỗi khi nhân viên y tế làm bất cứ thủ thuật nào trên cơ thể ḿnh. Thí dụ: Chích thuốc này làm ǵ? Tại sao cần chụp X-ray ngực hai lần trong ṿng vài giờ khi t́nh trạng không có ǵ thay đổi? - Nhờ hỏi mà tôi tránh được 1 lần X-ray vô ích do lỗi của y tá, người ca trước đă làm, người ca sau lại định làm nữa!






Thứ sáu: Khi đă lên bàn phẫu thuật mà không bị đánh thuốc mê th́ hăy quên hết mọi sự, mà chỉ NGHĨ VỀ CHUYỆN VUI, như chuyện trên Diễn Đàn THTĐ, mặc kệ họ làm ǵ th́ làm! Chẳng có ǵ phải lo lắng nữa!






Vài hàng chia sẻ cùng thầy cô và anh chị em.






Kính chúc thầy cô và thân chúc ACE không ai đau ốm, mà có đau ốm (con người ai tránh được?) th́ cũng sẽ mau lành.






Kính mến,






Nguyễn Hưng (K7)





HCD: Cám ơn anh Cường xin gởi các bạn có th́ giờ th́ đọc lấy kinh nghiệm thực tế từ một người trải qua cơn đau tim.



at 7:39 PM

florida80
04-09-2019, 19:36
Điều Trị Bong Gân







Phương pháp "hạt gạo" trong điều trị bong gân

Đây là dịch từ chữ "Rice", chữ này là chữ viết tắt của bốn chữ Rest là nghỉ ngơi, Ice là chườm lạnh, Compression là băng ép và Elevation là nâng cao chi bị bong gân.

Sau khi bong gân dù nặng hay nhẹ cũng nên chườm lạnh ngay tức th́ dù lúc này chườm lạnh làm bệnh nhân hơi khó chịu. Nhưng nếu chúng ta chườm nóng sẽ làm khớp sưng to hơn và rất lâu mới xẹp. Chườm lạnh bằng cách dùng nước đá đập thành cục nhỏ, cho vào túi nylon, đặt túi nước đá này lên vùng bong gân sau khi đă phủ lên da một lớp khăn mỏng. Mục tiêu là tránh không cho nước đá tiếp xúc trực tiếp lên da có thể gây bỏng lạnh. Tuyệt đối không xoa bóp bất kỳ thứ ǵ dù là mật gấu chính danh.

Băng ép bằng cách dùng băng thun băng nhẹ nhàng, không ép quá cũng không lỏng quá. Chỉ nên hơi căng nhẹ cuộn băng thun, băng theo kiểu lợp ngói nghĩa là lớp băng sau chồng lên 2/3 lớp băng trước.

Kê cao chi bằng cách nằm gác chân lên gối ôm khoảng 10cm là vừa, nếu ngồi th́ chân kê cao ngang hông (khung chậu). Nếu tay th́ treo tay vào cổ hay nếu nằm th́ tay để trên bụng.

Hạn chế đi lại, chạy nhảy nếu bị bong gân vùng chân, nếu không sẽ làm máu dồn xuống chân làm sưng chân. Nên tư vấn bác sĩ chỉnh h́nh để dùng thuốc giảm đau, giảm sưng. Nếu bong gân độ 3 có thể phải phẫu thuật nối dây chằng tùy vào dây chằng nào bị và thời gian bị.

Phương pháp "Rice" nếu áp dụng sớm sẽ làm giảm biến chứng do bong gân, giúp khớp hồi phục nhanh.

florida80
04-09-2019, 19:37
Cancer! Kinh Nghiệm Quư Giá Của Một Người Đă Mắc Bệnh Ung Thư







Các bạn thân mến,








H xin viết ra những ǵ H biết để tất cả các bạn tham khảo, có ích cho chính ḿnh, thân nhân và bằng hữu v́ mầm Ung Thư hiện diện trong tất cả mọi người, chỉ đủ chance là nó bùng phát.

Hương đă kinh qua một thời gian bệnh Cancer: gồm 3 tháng ḍ t́m bệnh, 8 tháng trị chemotherapy, 1 tháng Radiotherapy, c̣n thử máu th́ lia chia...vậy mà ṛng rả 1.5 năm mới vượt qua khỏi.
Thời gian t́m bệnh cũng nhiêu khê v́ có nhiều kỹ thuật đang dùng vẫn không đáng tin cậy như Ultra Sounds, Mammogram, Needle Biopsy: hễ họ nói có th́ chắc có bệnh, nếu nói không th́ phải xét lại, v́ lấy sample sai chổ, v́ xớ thịt quá condense...


Cũng tại bệnh Tiểu Đường, khiến ăn cơm rất ít; trời lạnh mau đói, lại thêm bạn chỉ cách làm Nem Chua (sau này mới biết bột làm Nem Chua có nhiều Hàn The), tự làm ăn thấy ngon, nên ăn lai rai...cộng thêm làm việc tối đa, lo toan nhiều việc, phiền năo cũng bộn...Cuối cùng rước bệnh cũng là lẽ tất nhiên.
Cũng v́ bệnh, sau khi mổ, bệnh viện dạy cách meditation (tỉnh tâm), làm theo họ chỉ; bỗng chợt nghĩ ra cái vụ Thiền này c̣n ai hơn Đức Phật, ḿnh mang tiếng theo đạo Phật mà chả biết ǵ cũng thật uỗng, ngày xưa đi học, đeo đuổi riết con đường khoa cử, giờ đây xem ra cũng gần đất xa trời, cũng nên t́m hiễu đạo Phật xem sao...thế là con đường " Hướng về cơi Phật" bắt đầu từ đó.

Khi phát giác ra bệnh, phần chánh vẫn phải nhờ chiếu tia X (Radiotherapy), dùng thuốc tây rất mạnh một lúc cho vào vài loại, thuốc truyền vào gân máu (Chemtherapy), thuốc vào tới đâu là ớn người đến đấy.

Thường th́ thuốc rất mạnh, chính nó cũng làm người bệnh suy yếu v́ đặc tính của tế bào ung thư là cứ sinh sản lia chia, nên thuốc cứ t́m tế bào nào đang sinh sản là thanh toán. Tế bào b́nh thường của cơ thể cũng đang sanh sản, nhưng ít hơn tế bào Ung Thư, nên sau khi vào thuốc lần đầu sẽ bị lở màng bên trong miệng, sau cở 3 lần tóc rụng gần hết như bệnh ban, và chấm dứt kinh nguyệt (nếu người bệnh c̣n trẻ dưới 43 tuổi, sau khi chấm dứt trị liệu sẽ có kinh nguyệt trở lại).
Có người yếu hơn, có thể chết chỉ sau 3 lần vào thuốc (cứ 2 tuần vào thuốc 1 lần).
Bạch Huyết cầu và hồng cầu cũng bị tiêu diệt rất rất nhiều, do vậy người đang trị bệnh trở nên xanh xao, vàng vọt hơn v́ hồng cầu xuống quá thấp, và người bệnh dễ mắc các chứng bệnh truyền nhiểm khác v́ bạch cầu cũng xuống rất thấp, do vậy trước khi vào thuốc, phải đi thử máu để họ đo hồng cầu và Bạch Cầu có xuống quá tệ chăng, th́ chờ thêm 1 tuần nữa cho lại sức để ready cho cuộc "hành quân" kế )
Nói chung khi thuốc vào, tức th́ thấy bồn nôn, ói mửa liền tù t́...thuốc làm cho xiểng niểng, làm te tua c̣n hơn trước khi cho thuốc. Chỉ duy có 1 hy vọng là nó kill giùm các tế bào ác tính ấy.
C̣n Radiotherapy, tuỳ theo bệnh nặng nhẹ, cũng phải làm hàng ngày kéo dài cả tháng , mỗi ngày họ chiếu tia X vào chỉ 4 phút, và da sẽ bị burn dần dần. Bác sĩ này phải tính toán rất hay để tia Xchỉ đến phần thịt mà không đến phần xương; bởi v́ thân ḿnh không thể phẵng, họ phải tính tia X đến phải dừng theo h́nh cong của cơ thể. Nếu không chính xác, tia X sẽ burn xương và làm ḍn xương, có thể gẫy xương.

Tóm lại đối với người bệnh Cancer, có nhiều việc phải chú ư, phụ vào sự trị liệu của bác sĩ:

1/ Không cho thêm vào người những chất tạo Cancer nữa:

1/Hàn The (làm ḍn, dai thức ăn biến chế) nên xem lại các món có nó như thịt Nem Chua, Nem Nướng...check lại xem trong nhiều thức ăn biến chế như bánh tráng, bánh phở, ḿ...họ có cho thêm chăng?

2/ Sau này hàng Trung Quốc bị các nước phát giác có rất nhiều chất gây hại sức khỏe, nhất là Ung Thư, có những nước tương chứa chất gây Cancer 5000 lần hơn b́nh thường! Có cả list nhiều hiệu nước tương không thể dùng! nếu kỷ nên dùng nước tương của Singapore , Nhật, Đức
3/Thịt nướng bị cháy không nên ăn, chất bị cháy cũng là nguyên nhân gây bệnh.
Tránh xa tia Microwave, khi xài oven nên đứng xa dù họ bảo window của nó không leaking các tia.
4/ Không ăn thịt đỏ như thịt ḅ, thịt heo, nên ăn thịt trắng như thịt gà, nhớ tránh ăn cánh gà, v́ nơi đây người nuôi hay chích hormone cho gà mau lớn, mau bán...độc
Nói chung bớt thịt, thêm rau cải.
5/Tránh chất béo, tránh quá nhiều đường, 2 thứ này tế bào Ung Thư ưa thích.

6/Nắng gắt có nhiều tia tử ngoại UV cũng làm ung thư da, đừng tưởng xài cream chống nắng là OK, rồi ra phơi nắng (để thêm vitamin D) ( lớp ozone ( là phân tử có 3 nguyên tử Oxygen) trên bầu khí quyển bị trống 1 lổ to, do khí thải của các nước phát triển kinh tế, quá nhiều nhà máy phun ́ xèo khói, có nhiều carbonic bay lên làm phá dần lớp Ozone che chở ấy!)
Thức uống trong siêu thị cũng bỏ nhiều chất chống hư = chất bảo quản (preservatives), cũng không tốt, ăn và uống các thứ trái cây rau cải tự nhiên không qua biến chế, để dành lâu vẫn tốt hơn.
(chuyện đến đây là hết mức của ḿnh, nếu nói xa hơn, trái cây rau cải, người trồng cũng bỏ phân bón hoá học, thuốc trừ sâu bọ...để cho ra hoa quả tươi tốt, được mùa, giữ lâu không hư khi bán...). [Hồi đó thấy dân tây phương tự trồng rau trái, lấy làm lạ sao họ chịu khó đến thế! th́ ra là vậy: sợ Ung Thư quá chừng chừng!]

7/ Có những người làm trong pḥng thí nghiệm, cũng nên lưu ư có nhiều hoá chất gây ung thư gọi là Carcinogen.
8/ Thứ mà ḿnh ít lưu ư là tránh mua nhà gần các vùng điện cao thế, nơi đó nhà rẻ hơn, VN ta thích rẻ, không để ư việc nguy hiễm vô h́nh, âm thầm!

9/ Một thứ không ai biết là có những vùng, phía dưới có chất phóng xạ (tia phóng xạ vào người sẽ bắn tứ tung hết tế bào này qua tế bào khác), từ đất chất phóng xạ lúc nào cũng phát ra nào ai biết được! chuyện này đành xí cho trời đất thôi, nói cho đủ vậy mà.
(Thật ra sinh viên đi học, có bài vật lư cũng học về chất phóng xạ, có khi chưa học lư thuyết đă cho thực tập, họ đă dặn dùng kẹp gấp nó, mà rớt tới rớt lui, có khá nhiều sinh viên cũng tḥ tay bóc nó mà không biết trực tiếp tiếp xúc càng nguy cơ Ung thư!)

Có nhiều phương pháp t́m bệnh phải nhờ chất phóng xạ để biết chổ nào tim nghẹt, chổ nào đang bị Ung Thư...như là làm MRI, họ chích 1 lượng rất ít chất phóng xạ, sau đó cho nằm dài trong 1 máy to, giữ im ĺm như khúc gỗ trong suốt thời gian máy rà từ đầu đến chân để t́m xem có Ung Thư chổ nào! Khi bị Ung Thư mà nghe cho thêm phóng xạ vào là lo lắm, nhưng họ bảo đảm là lượng rất nhỏ không gây bệnh! đành vậy thôi!!)

2/ Dùng các dược liệu:

Chống Ung Thư là chống các gốc tự do, free radical, uống 3 vitamin cần kết hợp là (A+C+E) để chống các gốc tự do ấy.
a/ Tỏi có khả năng chống Ung Thư và kháng trùng, tạo thêm kháng thể ,v́ trị Ung Thư nên dùng liều khá hơn b́nh thường, có thể dùng rượu Tỏi (2 củ tỏi xay cho vào 200 ml rượu), mỗi ngày 3 lần, mỗi lần 1 muỗng canh.
b/ Cabbage = Cải bắp: dùng máy Extractor, sẽ rút nước, bỏ xác, mỗi bắp cải có thể rút ra 500ml, mua vài bắp rút ra được nhiều hơn, mổi ngày uống 250 ml hay 1 ly.
c/ Măng Tây, broccoli
d/ Chống Ung Thư là chống các gốc tự do, free radical, uống 3 vitamin cần kết hợp là (A+C+E) để chống các gốc tự do ấy, các vitamin này có thể mua ở dạng tablet hay ḿnh có thể xây sinh tố uống rất hiệu quả, có lần xem TV thấy 2 ông bà uống 3 tháng hết bệnh: họ xây cam, bôm, cà chua, cabbage, cà rốt...
e/ Có thể xây Lô Hội và bỏ thêm 1 muỗng Mật Ong để cơ thể khoẻ hơn, thêm kháng thể.

Giữ thân khoẻ mạnh, tâm an vui:

1/ Tập thể dục, massage cho máu chạy đều hoà, cho các chất ăn uống trên phân phối đầy đủ cơ thể.
Kèm theo thở theo kiểu thở bụng để thêm tối đa oxygen và thải toàn vẹn carbonic.
Thở bụng là bắt đầu thở ra trước, khi thở bụng hóp từ từ, cách mô sẽ kéo lên, khí sẽ lùa ra hết, sau đó hít vào từ từ, cách mô kéo xuống, buồng phổi sẽ to ra, chứa nhiều không khí hơn, đến khi hết hít vào thêm được, ngưng 1 chút để áp lục này sẽ làm sự trao đổi khí hiệu quả, oxy vào máu, carbonic thải ra phổi, và sau đó thở ra, cứ thế mà làm.
Thở bụng có thể thực hiện lúc nào cũng nên, ngay cả trước khi ngủ cũng sẽ cho giấc ngủ sảng khoái không mộng mỵ
2/ Tâm an vui: Người bệnh Ung thư, thường không là người èo ọt, rất active, nên đôi khi làm quá sức của ḿnh, và lắm khi cũng rơi vào stress...khi bệnh không làm ǵ được lại xuống tinh thần, buồn rầu, lo âu...: những thứ này sẽ làm bệnh tệ ra; cho nên phải giữ tinh thần vững chăi, chấp nhận việc ǵ đến cứ đến, nếu cần tập Thiền cũng là cái lợi không những cho sức khoẻ mà c̣n cho tinh thần, và xa hơn nữa là cho tâm linh.
Chính cái thở sẽ là trung gian giữa thân và tâm linh, khi biết điều hoà hơi thở đến nhẹ nhàng, cũng là làm cho tâm thanh thản, sẽ điều hoà hai hệ thần kinh Trực Giao Cảm và Đối giao Cảm sẽ làm mạch máu mở rộng để máu đến nuôi tế bào thần kinh đầy đủ, rồi làm tâm yên b́nh và sẽ có thêm đạo lực, khiến tâm không chao đảo trước nhiều t́nh huống, và khi gần với đạo, sự chết nếu đến sẽ không c̣n ǵ đáng sợ, nhưng cũng trong cái không c̣n sợ chết ấy cũng là chổ có thể c̣n sống.

Nói chung bệnh Ung Thư phát giác càng sớm càng có cơ hội sống sót, chờ nó phát tát (di căn) qua chổ mới là không thuốc trị cho nên từ lúc không bệnh, nên biết để sinh sống hầu ngăn ngừa.
H viết 1 lèo và gởi nên khó đầy đủ như ư, nhưng cũng tạm đủ cho người cần nó.
Viết dài, thường sau khi gởi đi mới phát giác trật vài lỗi chính tả, vậy xin các bạn miễn chấp nhé.

Các bạn có thể chuyển cho bất cứ ai cũng là điều nên làm, v́ may ra có thể giúp những người chưa bệnh sẽ không bệnh.

Thân ái
Thanh Hương

florida80
04-09-2019, 19:39
Chánh Niệm Trong Dùng Thuốc











Chánh niệm





Chánh niệm là nhớ nghĩ sáng suốt để có thái độ đúng đắn trong mọi hành vi của ḿnh. Là con người, có nghĩa phải sống trong quá tŕnh sinh, lăo, bệnh, tử. Muốn sinh tồn, con người phải có bốn điều kiện cơ bản, đó là cơm ăn, áo mặc, nhà ở, thuốc trị bệnh. Người tu học theo đạo Phật, cũng như bao người khác, cũng phải đáp ứng bốn nhu cầu thiết yếu ấy để duy tŕ đời sống tu hành của ḿnh. Đức Phật đă dạy các học tṛ của ḿnh phải thọ dụng các nhu yếu như y áo, thức ăn khất thực, chỗ cư trú, dược phẩm (người xuất gia gọi là «tứ sự cúng dường») trong chánh niệm tỉnh giác.






Riêng với dược phẩm, Ngài nêu rơ với các học tṛ: «Các dược phẩm và thuốc trị bệnh mà Ta cho phép các ngươi dùng, như vậy vừa đủ để ngăn chận các cảm thọ đau ốm khởi lên và giữ ǵn sức khỏe» (kinh Thanh Tịnh, Trường Bộ). Đức Phật đă chỉ rơ việc thọ dụng các nhu yếu không chính đáng sẽ phát sinh đau khổ hiện tại và tương lai. Về dược phẩm, Ngài nhấn mạnh : «… thọ dụng dược phẩm trị bệnh, chỉ để ngăn ngừa các cảm giác thống khổ đă sanh, để được ly khổ hoàn toàn. Này các Tỳ kheo, nếu các vị ấy không thọ dụng như vậy, các lậu (tức phiền năo) hoặc tàn hại và nhiệt năo có thể khởi lên. Nếu vị ấy thọ dụng như vậy, các lậu hay tàn hại và nhiệt năo ấy không c̣n nữa… » (kinh Tất Cả Lậu Hoặc, Trung Bộ).






Như vậy, từ xa xưa Đức Phật đă tỏ ngộ nguy hại của dùng thuốc không chánh niệm, tức nói theo ngày nay dùng thuốc không hợp lư và không an toàn. Xin nói rơ thêm về chánh niệm trong dùng thuốc như thế nào.








Thuốc là ǵ ?






Muốn dùng thuốc đúng, ta cần biết thuốc là ǵ. Xin nêu định nghĩa về thuốc được ghi trong Luật Dược 2005 của Việt Nam : « Thuốc là chất hoặc hỗn hợp các chất dùng cho người nhằm mục đích pḥng bệnh, chữa bệnh, chẩn đoán bệnh hoặc điều chỉnh chức năng sinh lư cơ thể bao gồm thuốc thành phẩm, nguyên liệu làm thuốc, vắc xin, sinh phẩm y tế, trừ thực phẩm chức năng ».






Thuốc cần được định nghĩa bao hàm tất cả những ǵ liên quan đến thuốc để sự tuân thủ dùng thuốc không có sự mù mờ đưa đến nguy hại. Thí dụ, thuốc tránh thai là thuốc không dùng để pḥng bệnh, chữa bệnh, chẩn đoán bệnh mà chỉ làm nhiệm vụ điều chỉnh chức năng sinh lư của người là thay đổi sự thụ thai (chức năng sinh lư b́nh thường của người nữ có chồng hoặc bạn t́nh khi giao hợp với người nam) thành không thụ thai. Nếu định nghĩa về thuốc không nêu: « điều chỉnh chức năng sinh lư cơ thể » th́ thuốc ngừa thai không được xem là thuốc, và như vậy thuốc ngừa thai muốn bán ở đâu cũng được (là thuốc phải được bán trong nhà thuốc) và dùng sao cũng được (là thuốc phải dùng theo sự chỉ định của bác sĩ, hướng dẫn của dược sĩ hoặc theo bản hướng dẫn sử dụng thuốc, nếu dùng sai là nguy hiểm).







V́ sao phải chánh niệm trong dùng thuốc ?






Cần chánh niệm trong dùng thuốc v́ thuốc như con dao hai lưỡi mà lưỡi nào cũng rất sắc. Thuốc có một lưỡi rất sắc giúp ta tiêu trừ bệnh hoạn nhưng cũng có lưỡi thứ hai sắc không kém là gây hại cho sức khỏe tậm chí là tính mạng ta.






Ta cần biết, bất cứ thuốc nào, kể cả vitamin được cho là thuốc bổ đều có khả năng gây tai biến cho người sử dụng nó nếu không được dùng đúng cách, đúng liều, và đặc biệt khi cả dùng đúng cách đúng liều. Những bất lợi do dùng thuốc gây ra được gọi chung là “Phản ứng có hại của thuốc” (người nước ngoài gọi ADR do chữ viết tắt của Adverse Drug Reactions). ADR c̣n được gọi bằng tên khác như tác dụng phụ, tác dụng ngoại ư, tác dụng không mong muốn… nhưng ngay cả người không thuộc giới chuyên môn cũng nên làm quen, dùng ADR v́ là chữ quốc tế thông dụng trên toàn thế giới hiện nay.






ADR được Tổ chức Y tế thế giới (WHO) định nghĩa như sau “ADR là tác dụng có hại xảy ra ngoài ư muốn khi dùng một thứ thuốc đúng liều, đúng đường dùng nhằm chữa bệnh, pḥng bệnh hoặc chẩn đoán”. Ta nên lưu ư, nếu bị tai biến do dùng quá liều thuốc th́ không gọi bị ADR mà là bị ngộ độc thuốc.






ADR lại được chia làm 2 loại: ADR loại A là loại thường xảy ra hơn, chiếm 80-90% (của toàn bộ ADR), có liên quan đến tác dụng dược lư đă biết của thuốc, như warfarin có tác dụng chống đông máu có thể gây ADR làm xuất huyết ở người bệnh. ADR loại A có thể dự đoán và pḥng ngừa, như thuốc kháng histamin thế hệ 1 là promethazin gây ADR buồn ngủ, người dùng thuốc nếu dùng promethazin do buồn ngủ không nên lái xe, vận hành máy móc. C̣n ADR loại B là loại xảy ra hiếm hơn, chiếm 10-20%, không liên quan đến tác dụng dược lư, như kháng sinh nhóm fluoroquinolon kháng khuẩn nhưng lại gây ADR là làm co giật hoặc xói ṃn sụn khớp ở súc vật c̣n non. ADR loại B gần như không thể dự đoán trước là xảy ra hay không xảy ra. Đặc biệt, dị ứng thuốc là ADR loại B có thể gây tử vong không tiên lượng được thường xảy ra cho nhiều loại thuốc, trong đó có các vaccine tức thuốc chủng ngừa.






Nên lưu ư, nhiều thuốc được lưu hành trên thị trường dược phẩm vẫn được các viện bào chế dược phẩm theo dơi ADR (được gọi là theo dơi thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 4) để nếu thuốc xuất hiện ADR quá nghiêm trọng sẽ tự ư ngưng lưu hành hoặc bị chính quyền cấm lưu hành thuốc đó. Trước đây, vào cuối thế kỷ trước, có thuốc giảm đau glafenin (biệt dược Glifanan) đă bị cấm lưu hành do gây di ứng quá nặng nề. Cách đây không lâu, thuốc chống viêm trị đau xương khớp rofecoxib (Vioxx) đă được nhà sản xuất chủ động rút ra khỏi thị trường dược phẩm v́ có nguy cơ gây biến cố tim mạch trầm trọng. Nhiều thuốc phải bán theo đơn bác sĩ, tức là chỉ khi bác sĩ khám bệnh ghi đơn thuốc nhà thuốc mới có quyền bán thuốc theo đơn đó, là v́ chỉ có bác sĩ biết cách chỉ định thuốc, ghi cách dùng thế nào để phát huy tác dụng điều trị của thuốc đồng thời hạn chế mức thấp nhất hoặc không để xảy ra ADR.






Ngoại trừ một số ADR thuộc loại nhẹ chỉ gây khó chịu (như ADR gây buồn ngủ của thuốc kháng histamin trị dị ứng) có thể xảy ra thường xuyên (hễ dùng thuốc là bị), đa số ADR, đặc biệt ADR gây rối loạn nghiêm trọng (như suy thận cấp, hoặc bị tai biến do vaccine) rất hiếm khi xảy ra và chỉ xảy ra khi dùng liều cao hoặc dùng lâu ngày. Có loại ADR thuộc loại thường gặp (trong sách chuyên môn dược thường ghi ADR >1/100, tức 100 người dùng thuốc sẽ có hơn 1 người có nguy cơ bị ADR), có loại ADR thuộc loại ít gặp (1/1000< ADR <1/100, tức 1000 người dùng thuốc sẽ có hơn 1 người có nguy cơ bị TDP), và có loại ADR thuộc loại hiếm gặp (ADR<1/1000, tức hơn 1000 người dùng thuốc sẽ có 1 người có nguy cơ bị ADR). ADR thường gặp là loại phải cảnh giác nhiều hơn. Như vậy khi biết một thuốc có ADR, ta sẽ cảnh giác, thận trọng dùng thuốc cho thật đúng liều, đúng cách, chứ không nên chối bỏ việc dùng thuốc. Đặc biệt khi được bác sĩ khám bệnh và ghi đơn chỉ định thuốc, ta nên yên tâm sử dụng thuốc. Bởi v́, chắc chắn bác sĩ đă rơ về ADR của thuốc và đă có sự cân nhắc trong chỉ định thuốc cho người bệnh dùng.






Có hiện tượng ngược đời là thay v́ dùng thuốc, chính sự ngưng dùng thuốc, đặc biệt là ngưng đột ngột lại gây ra ADR, thậm chí ADR nghiêm trọng làm khốn khổ người bệnh. ADR đặc biệt đó gọi là ADR do ngưng dùng thuốc (ADRNDT). ADRNDT được định nghĩa là biến cố xảy ra với các triệu chứng rối loạn do đang dùng một thứ thuốc nào đó mà lại đột ngột ngưng không dùng thuốc đó nữa.






Thuốc gây ra ADRNDT đầu tiên cần phải kể là các thuốc gây nghiện (kể cả ma túy). Các thuốc gây nghiện gây ADRNDT có thể kể: thuốc giảm đau có nguồn gốc thuốc phiện, gọi chung là opioid (như morphin, pethidin, fentanyl), thuốc an thần gây ngủ nhóm benzodiazepin (như diazepam), thuốc giảm cân kích thích là các dẫn chất amphetamine (thuốc lắc, ma túy đá thuộc ở đây)… Các thuốc này khi đă quen dùng trong thời gian dài sẽ làm thay đổi chuyển hóa cơ bản của các tế bào thuộc hệ thần kinh trung ương và hệ thần kinh thực vật (điều khiển cơ trơn và các cơ quan nội tạng). Những tế bào này lệ thuộc vào thuốc, nghĩa là chúng hoạt động một cách bất thường theo tác dụng của thuốc, nếu đột ngột ngưng dùng thuốc, chúng sẽ phản ứng bằng ADRNDT, được gọi là “Hội chứng cai thuốc“, bao gồm mất ngủ, vật vă, đau nhức, ói mửa, toát mồ hôi, nước mắt chảy ràn rụa, tiêu chảy liên tục v.v..






Các thuốc gây ADRNDT c̣n phải kể: thuốc trị bệnh tăng huyết áp (clonidin, propranolol) nếu đột ngột ngưng dùng sẽ làm huyết áp tăng vọt rất nguy hiểm; thuốc chống trầm cảm loại 3 ṿng (nortryptilin, clomipramin) nếu đột ngột ngưng dùng sẽ làm trạng thái tâm thần của người bệnh xấu đi, thậm chí có người c̣n t́m cách tự tử); thuốc trị bệnh động kinh (carbamazepin) nếu đột ngột ngưng dùng bệnh nhân ngay lập tức sẽ lên cơn động kinh, thuốc glucocorticoid (prednisolon, dexamethason) nếu ngưng đột ngột bệnh nhân sẽ khốn khổ v́ thiếu corticoid nội sinh do chính tuyến vỏ thượng thận tiết ra.






Đối với loại ADRNDT vừa kể này, có một biện pháp giúp khắc phục là dùng thuốc giảm liều từ từ trước khi dứt hẳn để giúp cơ thể người dùng thuốc thích ứng dần trước khi ngưng thuốc hoàn toàn, chứ không được đột ngột ngưng thuốc.







Chánh niệm trong dùng thuốc cần như thế nào?






- Chỉ thật cần thiết mới mới dùng thuốc. Hoàn toàn không nên lạm dụng dù chỉ là vitamin.


- Nếu được bác sĩ khám ghi đơn thuốc, phải dùng đúng, dùng đủ (không dư không thiếu) các thuốc ghi trong đơn và thực hiện tốt các lời chỉ dẫn.


- Đừng nghe lời mách bảo của người không thuộc giới chuyên môn mà dùng thuốc nào đó kéo dài từ tháng này sang tháng kia.


- Trước khi dùng một thuốc, cần đọc kỹ bản hướng dẫn hoặc hỏi dược sĩ tại nhà thuốc về những điều cần biết, trong đó có: tác dụng phụ tức ADR, những thận trọng khi dùng thuốc, chống chỉ định (tức những trường hợp không được dùng thuốc).


- Khi đang dùng thuốc nếu bị phản ứng bất thường (có thể bị ADR) nên ngưng ngay thuốc và đi tái khám báo cho bác sĩ biết để bác sĩ cho hướng xử trí.


- Khi đọc trên báo chí thông tin về ADR của một thuốc), th́ đó là thông tin để tham khảo và cảnh giác chứ người đang dùng thuốc đó hoàn toàn không nên quá lo lắng t́m cách ngưng dùng thuốc khi chưa có ư kiến của bác sĩ trực tiếp điều trị chỉ định dùng.


- Khi bác sĩ chỉ định giảm liều từ từ, phải theo đúng các thức giảm liều đó trước khi ngưng dùng thuốc.

- Sau khi ngưng dùng thuốc, nếu xuất hiện những rối loạn, những phản ứng bất thường trong cơ thể, cần đến bác sĩ tái khám ngay.





TS Nguyễn Hữu Đức

florida80
04-09-2019, 19:40
T́m Hiểu Vấn Đề Lọc Máu - Bác Sĩ Vũ Quí Đài - Bác Sĩ Nguyễn Văn Đức







Khi thận bị hư mà thuốc men kiêng cữ không c̣n kiến hiệu nữa, tức là hai quả thận hoàn toàn hết xài, th́ chỉ c̣n hai cách: một là xin một quả thận của người khác để ghép vào ḿnh, hai là cứ tuần vài lần đi đến trung tâm chuyên môn để lọc máu, mục đích là để thải những chất độc và nước dư thừa ra ngoài.


Có hai kiểu lọc máu. Nếu hút máu từ cơ thể cho chạy ra một cái máy để lọc hết chất độc, rồi lại truyền máu trở lại th́ gọi là lọc máu bằng thận nhân tạo (hemodialysis). Nếu dùng một dung dịch đường glucose và muối bơm vào trong bụng để hút các chất độc từ cơ thể qua màng bụng, rồi rút ra ngoài, th́ gọi là lọc máu qua màng bụng (peritoneal dialysis).


Khi nào cần lọc máu?


Bác sĩ quyết định cho lọc máu khi thận bị hư nặng đến độ ảnh hưởng tới óc, làm viêm tim, bại tim, làm độ acid hay nồng độ Kali trong máu lên cao. Cũng có khi cho lọc máu ngừa trước, từ lúc mới thử nghiệm thấy các chất độc bị ứ đọng mà chưa có triệu chứng ǵ nhiều.


Trường hợp bại thận kinh niên, có thể lọc máu suốt đời, hoặc là tiếp tục lọc máu cho tới khi nào kiếm được thận để mổ ghép thận. Như có nói trong bài "Ghép tim, ghép thận", có thể xin thận của anh chị em bà con, hoặc là ghi tên đợi xin thận từ những trung tâm lấy được thận của những người khỏe mạnh bị chết v́ tai nạn rồi phân phối đi khắp nước Mỹ. Dĩ nhiên là người ta phải thử, để coi thận của người cho có hợp với bệnh nhân hay không.


Trường hợp bại thận cấp tính, như là bị phỏng nặng chẳng hạn, th́ chỉ cần lọc máu trong ít ngày hay một vài tuần, để đợi cho thận trở lại được như thường.


Cũng có những trường hợp ngộ độc nặng vào pḥng cấp cứu, người ta phải lo cấp cứu về hô hấp và tuần hoàn, đồng thời lọc máu để thải chất độc ra ngoài.




Lọc máu bằng thận nhân tạo





Lọc máu bằng "thận nhân tạo", là lấy máu từ cơ thể cho chạy qua một cái máy lọc, gọi là dialyzer. V́ cứ mỗi tuần mấy lần, phải chích kim vào mạch máu (tĩnh mạch) để hút máu cho chạy vào máy lọc, cho nên phải kiếm cách làm cho gân máu lớn ra để chích lấy máu cho dễ.


Ở chỗ cánh tay thường chích lấy máu, người ta mổ nối động mạch với tĩnh mạch (gọi là artery-vein fistula, có khi chỉ nói gọn là fistula). Gịng máu ở động mạch từ tim vọt ra cho nên chảy rất mạnh, c̣n máu ở tĩnh mạch chạy về tim th́ chậm chạp nhẹ nhàng. Nay máu phùn phụt từ động mạch qua bên tĩnh mạch cho nên làm cho tĩnh mạch phồng to lên, thành ra chỗ lấy máu để chuyển qua thận nhân tạo rất dễ dàng. Nếu nối động mạch với tĩnh mạch bằng một cái ống nhỏ đặt bên trong da, th́ chỗ lấy máu phồng lên không gọi là fistula, mà gọi là graft. Từ lúc mổ để tạo fistula cho đến lúc dùng được, th́ mất vài ba tuần lễ, c̣n graft th́ phải đợi mấy tháng mới dùng được. Cái chỗ phồng lên để lấy máu, nếu để tay lên sờ, th́ cảm thấy máu chạy "rà rà". Mới đầu th́ thấy hơi kỳ kỳ, nhưng lâu dần rồi quen đi, cánh tay vẫn làm việc được như thường, kể cả chơi thể thao như bóng bàn, quần vợt.


Muốn lọc máu, người ta lấy máu ra bơm vào máy lọc, có pha một chút thuốc kháng đông cho máu khỏi đông. Về căn bản, máy lọc (thận nhân tạo) có một cái màng phân chia máu với một chất lỏng có thành phần hóa học tương tự như chất lỏng trong cơ thể người ta. Áp suất bên phía chất lỏng thấp hơn phía có máu. Cái màng có những lỗ nhỏ li ti, cho nên các chất cặn bă, chất độc cũng như nước thừa ở bên máu thấm qua màng sang bên kia và được lọc bỏ đi. C̣n những huyết cầu và chất đạm trong máu, v́ lớn hơn nên được giữ lại. Máu đă lọc sạch sẽ rồi được bơm trở lại cơ thể. Mỗi lần lọc như vậy cũng mất mấy tiếng đồng hồ. Những máy tân tiến gần đây th́ nhanh hơn nhưng cũng phải vài giờ một lần. Như đă nói trên, phần lớn người bị bại thận kinh niên mà chưa mổ ghép thận mới, th́ cần lọc máu mỗi tuần chừng ba lần. V́ có thuốc kháng đông, nên sau khi lọc máu trong ṿng mấy tiếng đồng hồ, nếu để bị chảy máu th́ sẽ bị chảy nhiều và lâu hơn thường. V́ vậy bệnh nhân phải hết sức tránh rủi ro chảy máu, như là không được cạo râu, dùng dao để cắt, gọt,... Nếu đi xe, th́ hết sức cẩn thận để khỏi bị tai nạn.


Lọc máu qua màng bụng










Ở trong bụng người ta, có một cái màng bao bọc các bộ phận trong bụng. Cái màng này có tính chất như một cái màng lọc, diện tích khá lớn lại có một mạng lưới mạch máu phong phú. V́ vậy có thể lọc máu bằng cách bơm chất lỏng (như đă nói ở phần thận nhân tạo) vào trong bụng, để yên một thời gian cho các chất độc và nước thừa ngấm từ máu qua, rồi rút chất lỏng có chứa cặn bă ra khỏi bụng. V́ cái màng bụng tên là peritomeum, nên cách lọc này gọi là peritoneal dialysis. Lọc máu cách này th́ có thể luyện cho bệnh nhân hoặc thân nhân làm lấy tại nhà sau khi bác sĩ đă mổ gắn cho một cái ống thông vào trong màng bụng ló đầu ống ra ngoài, có một cái "nắp", khi dùng th́ mở ra, xong rồi đóng lại.


Lọc máu qua màng bụng không phải mất thời gian chờ đợi làm cái fistula hay cái graft như trường hợp thận nhân tạo.
Có nhiều kiểu lọc qua màng bụng. Kiểu đơn giản nhất, không cần máy móc ǵ. Mới đầu hâm bịch nước lỏng trong microwave cho ấm lên. Treo cái bịch cao lên, rồi truyền từ từ vào bụng qua đầu ống ở bụng. Khi chất lỏng yên vị trong bụng rồi, th́ đậy nắp ống lại, và có thể đi lại hoạt động như thường (hay gần gần như thường). Đợi năm sáu tiếng đồng hồ cho máu lọc xong, th́ từ từ tháo nước ra.




Kiểu khác, th́ dùng một cái máy bơm tự động, có định giờ (timer), tự động bơm chất lỏng vào bụng, rồi tới giờ th́ tự động rút ra. Những máy mới rất gọn nhỏ, chỉ bằng một cái va li nhỏ, và có thể cho máy làm việc ban đêm trong khi bệnh nhân ngủ. Cũng có những máy dùng cả ban ngày và ban đêm, chu kỳ dài ngắn khác nhau có thể thay đổi cho hợp với sinh hoạt của bệnh nhân.




Bác sĩ Vũ Quí Đài


Bác sĩ Nguyễn Văn Đức



at 12:13 AM

florida80
04-09-2019, 19:42
Giấy Aluminium Foil Có Độc Hại Không? - GS Hùynh Chiếu Đẳng






Bài viết này được "take away" from Quán Ven Đường của GS Hùynh Chiếu Đẳng. Do đó xin để nguyên màu mực original. Cám ơn sư phụ HCĐ.







Kính gởi các bạn vài chuyện đời thường

1. Nhôm kim loại độc? Sao chúng ta xài giấy nhôm, nồi nhôm, muổng nhôm, đủa nhôm....Câu hỏi cổ điển lâu năm và lập lại nhiều lần.



From: Phuoc Son Nguyen <nguyen_phuxszson@yah oo.fr>


Date: May 31, 2014 at 12:20:01 AM PDT


To: HCD <huy017@gmail.com>


Subject: Tr : Fwd: Aluminium : Danger !


Thân chuyên Anh Đăng , mong đợi ư kiến của anh về việc này .


Thân kính



HCD: Thưa anh Nguyễn Phước Sơn nhận được email tiếng tay nói rằng nhôm là thứ rất nguy hiểm cho sức khỏe nên gởi email tới hỏi tôi đúng hay sai, tin hay không? bài viết dài trích dẫn từ nhiều nguồn tin được. Vậy th́ các bạn trả lời sao? Chuyện nầy với tôi rất dễ lư do là từ mấy mươi năm nay tôi được lịnh trên là theo dơi mọi thứ thực phẩm và đố dùng cho gia đ́nh, tuy tôi không đi chợ nấu ăn, nhưng món nào có chất ǵ trong đó ăn vào có thụt lưởi hay không tôi rành hơn tay ngang nhiều lắm. Chuyện nồi niêu son chảo gạo mắm dưa cà trong bếp tôi rành tới 5 câu rưởi.


Trước đây cũng có một bằng hữu hỏi thế nầy: (bắt đầu trích -- >)



Anh Hai xem cái này như thế nào?
forward: Giấy Nhôm và Bệnh hoại xương, Bệnh Mất Trí Nhớ - Stop Using Aluminum Foil.


Lưu ư ..!!!


Giấy nhôm thường dùng trong nhà bếp để gói thịt sau khi nướng ! bây giờ lại t́m thấy chất độc hại trong loại giấy nầy ! mấy chợ vn thường dùng gói chả lụa khi c̣n nóng ! theo bản nghiên cứu th́ không nên xài cho thức ăn nóng ! ....


Giấy nhôm khi dùng gói thức ăn để nướng hoặc để nấu (như chă lụa), hoặc gói hay đựng thức ăn nóng - với độ nóng chất nhôm sẽ tiết ra, thấm vào thức ăn và xâm nhập vào cơ thể và ảnh hưởng xương & năo bộ - nghiên cứu cho thấy liên quan đến chứng hoại xương osteoporosis (rỗng xương) và bệnh lăng trí Alzheimer (mất trí nhớ) !

HCD: Cô Bé Mytho ơi, cái vụ giấy nhôm nầy tôi nói mấy lần rồi mà sao cô c̣n hỏi.

Số là thế nầy đây, người viết bài về vụ nầy (tiếng Mỹ) chỉ biết có một mà không biết hai. Nhôm là chất gây rắc rối cho óc… nhưng tôi hỏi cô dân Việt Nam ta dùng phèn chua (muối nhôm) lóng nước có khùng hết không. Tôi biết vài món ăn ngâm phèn chua nữa, eo ơi Ông Địa !!! Vậy mà từ sáu bảy chục năm nay vẫn tháy bà con vẫn sáng suốt và đủ minh mẫn chế tạo được những thức ăn “kiến không bu ruồi không đậu”, ai nói ăn kim loại nhôm vào mất trí nhớ đưa tay coi.


Tôi nói đùa, bây giờ nói theo khoa học nghe: Kim loại bất cứ kim loại nào hầu như đều độc cho con người. Nhôm cũng vậy, sắt đồng kẽm chi chi cũng vậy. Nhưng kim loại thể rắn th́ vào cơ thể chẳng chết ai (thí dụ người được vặn bù lon kim loại khi giải phẩu xương, thí dụ người trám răng, bịt răng).




Kim loại chỉ vào cơ thể được dưới dạng muối kim loại. Thí dụ nói sắt bỗ máu, cứ uống ít gram sulfat sắt vào bụng th́ biết đá biết vàng, c̣n nuốt ḥn bi bằng sắt vào bụng chẳng chết con vịt nào hết. Kim loại chỉ vào máu vào cơ thể dưới dạng muối kim loại.

Trở lại giấy nhôm, nồi nhôm (ṛng, không kể nồi nhôm China) dùng nấu nướng thức ăn chẳng chết ai hết. Ngày xưa Việt Nam ta dùng nối nhôm chớ đâu có nồi Inox, cô thấy người dân bây giờ có kém chi ai về mặt mánh mung.
Và đây là h́nh tôi lấy về huyền thoại nhôm.









Nói thêm tí xíu rằng th́ là nhôm là kim loại không bền, nước cũng làm nó tan ra thành hợp chất khác, nhưng may mắn là nhôm được che bằng lớp oxit nhôm (tên alumin, c̣n nhôm là aluminum. Lớp alumin nầy tuy rất mơng nhưng bền lắm, không chất ǵ thông thường trong thực phẩm ăn được nó. Lấy cọng giây nhôm như chiếc đủa đưa vào lửa, nhôm chảy lỏng ra nằm trong cái túi alumin bên ngoài không chảy. Tui “có lần dạy hóa học trong đời” nghe quí bạn.

Thôi th́ cứ mạnh dạn xài giấy nhôm cho tiện lợi.


(< -- hết trích)




From: Huu Lam <huulamxys39@yahoo.co m>
Date: Wed, Apr 10, 2013 at 4:44 PM
Subject: Fw: [bp70] Fwd: .Stop Using Aluminum Foil. To:


Độc th́ có độc thật đấy. Đọc cả bài nghiên cứu dài dằng dặc, tŕnh độ lớp 3 trường làng, khả năng Anh ngữ ESL chỉ lơm bơm hiểu rằng tính độc hại tùy thuộc vào cả loạt những thông số(parameter) nên nhắm mắt kết luận : Chớ lo ḅ trắng răng do vậy cứ tới luôn đi bác tài.
Ai nghe chết ráng chịu !

Già Gân


From: Hieu/Nghi Pham <nphammd@hotmail.com>Date: April 9, 2013, 7:38:23 AM PDTSubject: FW: [bp70] Fwd: .Stop Using Aluminum Foil. [2 Attachments]
Giấy Nhôm và Bệnh rổng xương, Bệnh Mất Trí Nhớ - Stop Using Aluminum Foil.


Giấy nhôm thường dùng trong nhà bếp để gói thịt sau khi nướng !

Bây giờ lại t́m thấy chất độc hại trong loại giấy nầy ! mấy chợ vn

thường dùng gói chả lụa khi c̣n nóng ! theo bản nghiên cứu th́

không nên xài cho thức ăn nóng !


Giấy nhôm khi dùng gói thức ăn để nướng hoặc để nấu (như chă lụa), hoặc gói hay đựng thức ăn nóng - với độ nóng chất nhôm sẽ tiết ra, thấm vào thức ăn và xâm nhập vào cơ thể và ảnh hưởng xương & năo bộ - nghiên cứu cho thấy liên quan đến chứng hoại xương osteoporosis(rỗng xương) và bệnh lăng trí Alzheimer (mất trí nhớ) !




HCD: Kính thưa quí bạn tôi nhốt con vịt nầy hai lần rồi, nay tôi không thèm lư tới nó nữa. Ai tin vịt th́ cứ tin, nhưng nếu c̣n tỉnh táo th́ hăy hỏi tại sao Mỹ cho xài, thế giới cho xài. Không hỏi tại sao California là tiểu bang gắt nhất thế giới không cấm.

Tại sao nước Mỹ lọc nước uống cho xài phèn chua (chứa nhiều nhôm) Thế tại sao tin là bỏ phèn chua vào trái khóm nướng lên uống tan sỏi thận. Vịt cả bầy.

Tóm một câu: Kim loại nói chung, trong đó có nhôm không tốt khi vào cơ thể các bạn với số lương nào đó. Nói sắt tốt bổ máu, uống muối sắt vào th́ tiêu đời, nhôm được biết là gây bịnh trí óc…Nhưng nồi nhôm, b́nh nhôm lon nhôm, giấy nhôm … tất cả dụng cụ nhà bếp bằng nhôm đều an toàn, trong đó có cả giấy nhôm. Lư do là nhôm là kim loại không bền, nước cũng ăn ṃn nó nhanh như là axit ăn ṃn kim loại. Nhưng khi ra ngoài không khí, nhôm oxy hóa tức khắc, tạo lớp alumin (oxit nhôm) rất bền, không có chất ǵ b́nh thường gặp hàng ngày phá huỷ nó được (trừ thủy ngân). Do đó nhôm xài thường ngày rất an toàn, không tan vào thực phẩm.




Nhưng (lại nhưng nữa) nồi nhôm đang bán tại Mỹ trong các tiệm Việt Nam và nhiều tiệm Mỹ do Trung Quốc chế tạo th́ không an toàn. Lư do nó không phải nhôm ṛng, nó là hợp kim nhôm, (nhôm thu mua kiểu ve chai lông vịt) về dức thành hợp kim nhôm. Loại nồi nầy nấu ít ngày thấy đen ng̣m, rồi rổ mặt, rồi tan nay một ít mai một ít vào thực phẩm. Đủ thứ kim loại tan vào thức ăn. Ăn hoài sẽ thục lưởi là cái chắc.

Nhôm nguyên chất, như giấy nhôm tại Mỹ, th́ an toàn. Nồi nhôm Trung Quốc chế tạo th́ không an toàn v́ nó không phải là nhôm ṛng. Phèn chua lóng nước là muối nhôm đó, nó tan trong nước chua chua,uống vào th́ khùng khùng tin nhảm là cái chắc.

======

Kết luận: Bên trên là trích từ email trước đây, bây giờ thêm vài hàng

Vậy th́ các bạn trả lời sao? Thưa không cần lư luận lôi thôi chi hết, không cần biết hóa học... chỉ thấy thế nầy, Mỹ không cho hút thuốc nơi công cộng, không cho hút thuốc ngoài bải biển (vài tiểu bang) th́ tại sao nhôm độc như vậy mà không cấm xài cấm bán cấm dùng lon Cô Ca hay nước ngọt bằng nhôm.
Nhưng nhôm trong dạng được kể như là L’aluminium dans les vaccins như là L’aluminium dans les déodorants th́ có khi nguy hiểm. Đa số kim loại đều độc khi vào cơ thể. Nó vào cơ thể dưới dạng họp chất hay dạng muối kim loại.


Xin quí bạn hiểu cho rằng bằng hữu tin cậy mà hỏi, tôi biết chi nói nấy, cũng giống như ngày xưa ngồi trước bàn cà phê lề đường tán chuyện trên trời dưới đất cùng bằng hữu.

florida80
04-09-2019, 19:46
lly (Lynn Ly)


Rank: Advanced Member



Groups: Y Học Đời Sống, Registered
Joined: 4/5/2011(UTC)
Posts: 5,338



Thanks: 2457 times
Was thanked: 2381 time(s) in 1228 post(s)





HỘI CHỨNG RUỘT KÍCH THÍCH
(HCRKT=Irritable Bowel Syndrome=IBS)
BS Trần Minh Thiệu



HỘI CHỨNG RUỘT KÍCH THÍCH (HCRKT=Irritable Bowel Syndrome=IBS) là một rối loạn tiêu hoá chức năng đặc trưng bởi triệu chứng đau bụng và thay đổi thói quen đi tiêu mà không t́m thấy tổn thương thực thể nào. Osler đặt ra tên gọi “VIÊM ĐẠI TRÀNG NHẦY” vào năm 1892 khi ông viết về một rối loạn bao gồm đau bụng và tiêu phân nhày xảy ra với một tỷ lệ cao ở những bệnh nhân có bệnh tâm lư đi kèm. Kể từ đó, hội chứng này đă được gọi bằng nhiều thuật ngữ khác nhau như đại tràng co thắt, đại tràng kích thích, đại tràng thần kinh…

Một trong những bệnh lư đường ruột thường gặp nhất ở nước ta cũng như trên thế giới là HỘI CHỨNG RUỘT KÍCH THÍCH - IBS (Irritable bowel syndrome) (Viết tắc là HCRKT)
•Tỷ lệ mắc bệnh từ 5%- 20% dân số, tỷ lệ này thay đổi theo từng nghiên cứu, theo từng vùng dân cư. Tỷ lệ nữ mắc gấp hai lần nam giới, hoàn cảnh xă hội có ảnh hưởng tới sự phát sinh của HCKT.

•Ở Hoa Kỳ là khoảng 20% dân số mắc phải và chi phí điểu trị khoàng 8 tỷ đô la hàng năm .

•Ở Việt Nam chiếm tới 83,38% ở các người bệnh có vấn đề về tiêu hóa

•Các nước Âu Mỹ có tỷ lệ mắc IBS cao hơn ở châu Á và Trung Đông.

Bệnh không nguy hiểm đến tính mạng nhưng ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống, bệnh kéo dài làm người bệnh luôn lo lắng căng thẳng mất ngủ, luôn luôn lo sợ bị các bệnh hiểm nghèo khác của ruột.

1. HỘI CHỨNG RUỘT KÍCH THÍCH LÀ G̀?

Có nhiều nghiên cứu trên thế giới đă chứng minh HCRKT là rối loạn chức năng của ống tiêu hóa nhưng biểu hiện chủ yếu là các triệu chứng của đại tràng theo Thomson W.D.(1990) đă định nghĩa: Các rối loạn chức năng của ruột tái đi tái lại nhiều lần mà không t́m thấy các tổn thương về giải phẫu, tổ chức học, sinh hóa ở ruột gọi là HCRKT (irritable bowel sydrome - IBS).
Hiện nay, nhờ các thăm ḍ hiện đại về h́nh thái và chức năng của ruột trên thực nghiệm và lâm sàng đă dần làm sáng tỏ cơ chế điều chỉnh ống tiêu hóa chủ yếu là sự tác động qua lại giữa hệ thống thần kinh trung ương với hệ thống thần kinh ruột ( trục năo-ruột) - hệ thống mạng lưới thần kinh (plexuces) hoạt động cùng với nhau để thực hiện nhịp nhàng chức năng b́nh thường của ruột.

2. CƠ CHẾ SINH BỆNH CỦA HCRKT: GỒM 3 NỘI DUNG SAU.
•Sự cảm thụ bất thường chức năng ống tiêu hóa: Tăng tính nhậy cảm, nội tạng dễ kích thích.

•Thay đổi tính chịu đựng của ruột, giảm khả năng chịu áp lực của khối thức ăn ở một số đoạn ruột.

•Rối loạn vần động của ruột, tăng nhu động ruột gây ỉa chảy, giảm nhu động ruột gây táo bón.


3. CHẨN ĐOÁN HCRKT:

3.1. Triệu chứng lâm sàng:
•Rối loạn chức năng tiêu hóa có thể biểu hiện các triệu chứng lâm sàng trên toàn bộ ống tiêu hóa.

•Phần trên ống tiêu hóa: Hội chứng trào ngược dạ dày-thực quản, chứng khó tiêu, đầy tức bụng.

•Phần dưới ống tiêu hóa: Triệu chứng chủ yếu ở đại tràng (táo bón chức năng, ỉa chảy chức năng) được gọi là đại tràng co thắt, hoặc đại tràng bị kích thích, hoặc rối loạn chức năng đại tràng.

3.2. Tiêu chuẩn Rome III:

HCRKT được chẩn đoán dựa theo tiêu chuẩn Rome III. Năm 2006, hội nghị tiêu hóa quốc tế tại Rome đă đưa ra tiêu chuẩn chẩn đoán HCRKT như sau:

Đau bụng hoặc cảm giác khó chịu ở bụng kéo dài 12 tuần hoặc trong 12 tháng trước đó, không nhất thiết liên tục, kèm theo:
•Giảm đi sau đại tiện.

•Thay đổi h́nh dạng khuôn phân.

•Thay đổi số lần đi đại tiện.

Ngoài các triệu chứng trên có thể gặp thêm các triệu chứng không đặc hiệu nhưng gợi ư chẩn đoán HCRKT:
•Số lần đại tiện không b́nh thường (>3 lần/ngày hoặc <3lần/tuần).

•Phân không b́nh thường (lỏng, cứng, nhăo).

•Đại tiện có lúc phải chạy vội vào nhà xí, hoặc phải rặn nhiều,hoặc cảm giác đi chưa hết phân.

•Bụng chướng hơi, cảm giác nặng tức bụng.

•Phân có nhầy mũi nhưng không bao giờ có máu.

•Các triệu chứng không đặc hiệu trên luôn thay đổi theo thời gian, phụ thuộc vào chế độ và thức ăn đồ uống
•Nếu ăn uống các thức ăn không thích hợp ngay lập tức xuất hiện các triệu chứng rối loạn; nếu ăn kiêng các triệu chứng có thể hết.

HCRKT gồm nhiều triệu chứng cơ năng, các triệu chứng thay đổi, trong các triệu chứng có thể phân thành 2 thể loại:
•Các triệu chứng về tiêu hóa biểu hiện chính là đau bụng, bụng chướng hơi, rối loạn đai tiện, rối loạn phân.

•Các triệu chứng ngoài ống tiêu hóa phụ thuộc vào thời gian bệnh kéo dài: Đau đầu, mất ngủ, các triệu chứng về rối loạn tâm lư (lo lắng, sợ bệnh hiểm nghèo...).

3.3. Triệu chứng cận lâm sàng:
•Xét nghiệm máu b́nh thường.

•Xét nghiệm phân, cấy phân t́m vi khuẩn b́nh thường.

•Sinh thiết, xét nghiệm mô bệnh học đại tràng b́nh thường.

•Chụp X.Q khung đại tràng, b́nh thường hoặc có rối loạn co bóp nhu động
•Nội soi đại-trực tràng b́nh thường.

•Qua thăm khám và xét nghiệm có thể giúp chúng ta phát hiện một số triệu chứng báo động về bệnh lư thực tổn để chẩn đoán phân biệt với HCRKT.

Các triệu chứng báo động:
•Chán ăn, sụt cân.

•Thiếu máu.

•Sốt, tăng BC, tốc độ máu lắng tăng.

•Đại tiện phân có nhầy máu.

•Phân nhỏ dẹt thường xuyên.

•Các triệu chứng rối loạn phân mới xảy ra ở người > 40 tuổi.

•Tiền sử gia đ́nh có người bị ung thư đại tràng.

4. Chẩn đoán phân biệt: HCRKT với một số bệnh thường gặp.

4.1. HCRKT có ỉa chảy:
•Nhiễm trùng đường ruột.

•Suy giảm miễn dịch.

•Ung thư đại-trực tràng.

•U lympho ruột.

•Dị ứng thức ăn.

•Thiếu men lactase.

•Viêm loét đại trực tràng chảy máu.

•Viêm đại tràng vi thể.

•Hội chứng Crohn

4.2. HCRKT có táo bón - đau bụng nổi trội:
• U đại tràng.

•Bệnh to giăn đại tràng.

•U tụy.

•Ngộ độc ch́.

•Thoát vị.

•Bệnh sỏi mật và viêm túi mật.

•Rối loạn chuyển hóa porphyrine.

5. ĐIỀU TRỊ:

Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy bệnh nhân bị HCRKT dễ tăng nhu động ruột so với người b́nh thường, các triệu chứng thường tái đi tái lại, kéo dài nhiều năm, bệnh nhân phải đi khám bệnh nhiều nơi, tâm lư luôn ngờ vực, lo lắng sợ bệnh nặng, bệnh ác tính. Bác sĩ điều trị cần thiết lập mối quan hệ tin cậy, chắc chắn, kiên định với người bệnh, cần giải thích cho bệnh nhân hiểu thấu đáo về HCRKT làm nhẹ đi sự lo lắng từ các triệu chứng của chính họ, hướng dẫn họ điều trị chi tiết, cẩn thận, tạo ḷng tin cho người bệnh.

Một số lưu ư khi điều trị HCRKT:
•Điều trị theo triệu chứng nổi trội là hợp lư và hữu ích.

•Chưa có thuốc riêng biệt nào điều trị hết mọi triệu chứng của HCRKT.

•Điều trị có thể không làm dứt hẳn triệu chứng nhưng sẽ cải thiện tốt hơn chất lượng cuộc sống của người bệnh, các triệu chứng lâm sàng có thể giảm hoặc mất sau điều trị nhưng rất dễ tái phát.

•Không nên dùng thuốc kháng sinh, chỉ dùng kháng sinh khi có nhiễm khuẩn ruột.


ĐIỀU TRỊ CỤ THỂ:

5.1. Chế độ ăn rất quan trọng trong điều trị HCRKT:
•Khi đang có triệu chứng rối loạn tiêu hóa nên tránh ăn các thức ăn, nước uống không thích hợp.

•Thức ăn khó tiêu, dễ sinh hơi như: Khoai, sắn, bánh ngọt nhiều bơ, hoa quả có nhiều đường (cam, quưt, soài, mít...)
•Đồ uống nhiều đường và có gas, chất kích thích (rượu, cà fê, gia vị chua cay...)
•Những thức ăn để lâu, bảo quản không tốt
•Nếu có ỉa chảy tránh ăn qua nhiều thức ăn có nhiều chất xơ (rau muống, rau cải, dưa...).

5.2. Chế độ luyện tập rất cần thiết, phải kiên tŕ:
•Luyện tập chế độ đại tiện 1 lần trong ngày, xoa bụng buổi sáng khi ngủ dậy để gây cảm giác muốn đại tiện.

•Luyện tập thư giăn, khí công, tập thể dục, đi bộ thường xuyên.

5.3. Thuốc điều trị triệu chứng:
•Chống đau, giảm co thắt: Duspataline, No-spa, Spasfon...

•Chống táo bón: uống nhiều nước, ăn thức ăn nhiều chất xơ, thuốc nhuận tràng (Forlax, Tegaserod, Duphalac...)

•Chống ỉa chảy: Smecta, Actapulgite, Imodium....

•Chống sinh hơi: Meteospasmyl, pepsan, than hoạt...

•Thuốc an thần kinh: Rotunda, Seduxen, Dogmatyl...


XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ NẶNG CỦA HCRKT VÀ XỬ TRÍ (THEO GI-MIMS, 2005-2006):

A. Nhẹ:
•Triệu chứng không thường xuyên.

•Rối loạn tâm lư ít.

•Điều trị: Giáo dục về bệnh, ăn kiêng, chọn thức ăn thích hợp.

B. Trung b́nh:
•Triệu chứng thường xuyên, ảnh hưởng đến hoạt động b́nh thường.

•Suy giảm tâm lư.

•Triệu chứng nặng lên - t́m yếu tố thúc đẩy.

•Thay đổi nếp sinh hoạt, tâm lư liệu pháp, chế độ ăn kiêng.

•Dùng thuốc kiểm soát triệu chứng.

C. Nặng:
•Đau bụng thường xuyên.

•Suy giảm tâm thần tiềm ẩn.

•Điều trị như trên kết hợp với thuốc an thần hoặc thuốc tâm thần.


BS Trần Minh Thiệu

florida80
04-09-2019, 19:47
NỘI KHOA - NỘI TIẾT (ENDOCRINOLOGY)
12 Dấu Hiệu Chắc Chắn Của Bệnh Thận


(Theo Sina Health)


Làm thế nào để phát hiện sớm và điều trị kịp thời bệnh thận? Giáo sư Vương Bạo Khôi ở Trung Quốc đă đưa ra 12 dấu hiệu rơ ràng nhất. Vào thời kỳ đầu của bệnh thận, người bệnh ít cảm thấy đau đớn. Do đó, những dấu hiệu manh nha của những căn bệnh này thường dễ dàng bị bỏ qua. Mới đây, trang Sina Health đă phỏng vấn chuyên gia đầu ngành về thận – giáo sư Vương Bạo Khôi về vấn đề này.


Quote:
Sơ Lược Thông Tin về Giáo sư Vương Bạo Khôi:

Giáo Sư Vương Bạo Khôi được coi là nhân tài ưu tú của Y học Trung Quốc hiện tại, Ông hiện là Bác Sĩ và là Giám đốc bệnh viện thận Đông Phương trực thuộc Đại học Y Dược Bắc Kinh. Bên cạnh đó, ông c̣n đảm nhiệm chức Phó chủ nhiệm Ủy ban nghiên cứu thận tại Bắc Kinh, nguyên là ủy viên ban thường vụ của Hiệp hội Y khoa nghiên cứu về bệnh thận trong nước.


Chia sẻ về những dấu hiệu đầu của các bệnh về thận, giáo sư Vương Bạo Khôi cho biết: "Nhiều người bị mắc các căn bệnh này chỉ tiến hành thăm khám khi cảm thấy cơ thể không khỏe mạnh. Do đó, phần lớn bệnh t́nh của họ đều được phát hiện khi đă vào giai đoạn nghiêm trọng, thậm chí có trường hợp nguy hiểm đến t́nh mạng, phải tiến hành lọc máu".

Dưới đây là danh sách 12 dấu hiệu báo trước những thay đổi về t́nh trạng của thận được đưa ra bởi giáo sư - bác sĩ đầu ngành Vương Bạo Khôi.

CƠ THỂ VÀ TINH THẦN BẤT THƯỜNG

Khi công năng thận có biểu hiện không tốt, nhiều chất cặn bă sẽ không được bài tiết qua đường nước tiểu. Sự ứ đọng của các chất này sẽ khiến tinh thần mệt mỏi, cơ thể bải hoải, cả người cảm thấy như không c̣n chút sức lực.

Nếu thận có bệnh, protein và các chất dinh dưỡng khác sẽ bị ṛ rỉ qua đường nước tiểu, làm cho cơ thể mất sức.

Tuy nhiên, dấu hiệu này có thể bị nhiều người nhầm lẫn với t́nh trạng lao lực quá độ hay một vài nguyên nhân khác. Cũng v́ thế, sự bất thường về cơ thể và tinh thần này dễ bị các bệnh nhân bỏ qua.

CHÁN ĂN

Không có cảm giác thèm ăn, kén ăn, thậm chí nôn mửa cũng được coi là một số dấu hiệu sớm của bệnh thận.

Khi rơi vào t́nh trạng này, nhiều người thường chủ động xét nghiệm, khám về đường tiêu hóa hoặc chuyên khoa gan.

Nếu dạ dày và gan không phát hiện vấn đề khác lạ, không thể loại trừ khả năng các căn bệnh về thận là nguyên nhân gây nên những triệu chứng này.

NƯỚC TIỂU CÓ BỌT

Bọt xuất hiện trong nước tiểu có thể bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có bệnh thận.

Khi công nặng thận gặp rối loạn, protein trong cơ thể sẽ bị thoát ra từ đường nước tiểu, tạo thành các bọt có thể phát hiện bằng mắt thường.

ĐAU THẮT LƯNG

Vị trí của thận nằm ở hai bên của cột sống. Khi thận mắc bệnh, cơ thể sẽ được báo hiệu bằng những cơn đau ở vùng thắt lưng.

LƯỢNG NƯỚC TIỂU BẤT THƯỜNG

Người khỏe mạnh thường đi tiểu từ 4 - 6 lần/ngày và thải ra khoảng 800 – 2000ml nước tiểu.

T́nh trạng nước tiểu quá nhiều hoặc quá ít là một trong những dấu hiệu báo trước các chứng bệnh liên quan đến thận.

PHÙ NỀ

Uống quá nhiều nước hoặc ngủ nhiều là những nguyên nhân phổ biến gây ra t́nh trạng phù nề ở mặt, mí mắt, chân tay hoặc một số bộ phận khác.

Tuy nhiên, ít ai biết rằng, các bệnh về thận cũng là một trong số những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng phù nề.

NƯỚC TIỂU ĐỤC NHƯ L̉NG TRẮNG TRỨNG HOẶC ĐI TIỂU RA MÁU

Đây được xem là hai dấu hiệu nổi bật giúp người bệnh có thể sớm phát hiện các bệnh về thận. Khi bắt gặp t́nh trạng này, chúng ta nên nhanh chóng tiến hành thăm khám.

Lưu ư: một số thầy thuốc không thuộc chuyên khoa thận thường bỏ qua hai dấu hiệu nguy hiểm này. Do đó, người bệnh cần thăm khám đúng chuyên khoa tại các bệnh viện uy tín để có được kết quả chính xác nhất và tiến hành điều trị kịp thời.

THIẾU MÁU

Một trong số những nguyên nhân phổ biến gây ra thiếu máu chính là do các vấn đề về thận.

Bên cạnh công năng bài tiết, thận c̣n có vai tṛ điều ḥa nội tiết và các hormone trong máu. Do đó, khi cơ quan này rơi vào t́nh trạng rối loạn chức năng, người bệnh có thể bị chứng thiếu máu.

TIỂU ĐƯỜNG

Bệnh thận đái tháo đường là nguyên nhân chiếm vị trí thứ nhất của suy thận mạn ở các nước phương Tây. “Cầu thận đái tháo đường” là tên bệnh dùng để chỉ những tổn thương cầu thận thứ phát do tiểu đường gây nên.

Do đó, các bệnh nhân đái tháo đường nên điều trị kịp thời để tránh các biến chứng như urê huyết hay một số chứng bệnh về thận.

CAO HUYẾT ÁP

Nhiều nghiên cứu đă chỉ ra rằng chứng tăng huyết áp gây ra suy thận và ngược lại, suy thận có thể gây nên tăng huyết áp.

Do đó, vấn đề đặt ra là phải kiếm soát được huyết áp để tránh bị suy thận, và cần điều trị tốt suy thận mới có thể hạn chế được tăng huyết áp.

BỆNH GOUT VÀ TĂNG ACID URIC MÁU

Axit uric máu tăng cao sẽ gây ra tăng huyết áp và biến chứng suy thận.

Gout là một bệnh khớp do rối loạn chuyển hoá, gây ra bởi t́nh trạng lắng đọng các tinh thể urat ở các mô của cơ thể, do tăng acid uric trong máu.

Hàm lượng uric quá cao trong máu sẽ khiến acid uric gây ra chứng cao huyết áp hoặc lắng đọng ở thận, làm tổn thương chức năng của cơ quan này.

NHIỄM TRÙNG ĐƯỜNG TIẾT NIỆU

Người bệnh bị nhiễm trùng đường tiết niệu thường xuyên và kéo dài có thể dẫn đến chứng suy thận.

Giáo sư Vương Bạo Khôi cho biết, ông từng tiếp xúc với nhiều bệnh nhân bị nhiễm trùng đường tiết niệu. Đa số họ đều tiến hành điều trị muộn và không triệt để nên thường rơi vào t́nh trạng suy giảm chức năng thận.

florida80
04-09-2019, 19:48
CHỨNG SỢ TUỔI GIÀ (GERASCOPHOBIA)


Do những hoàn cảnh nhất định, một số người có biểu hiện sợ tuổi già một cách bất thường và dai dẳng, mà y văn gọi là CHỨNG SỢ TUỔI GIÀ (GERASCOPHOBIA). Những người này sợ một cách thái quá dù đang trong t́nh trạng khỏe mạnh và no đủ về vật chất. Họ lo lắng nhan sắc phai tàn đi kèm với bệnh tật triền miên. Họ sợ ḿnh sẽ không c̣n được tự do đi lại, phải sống cuộc sống thụ động và phụ thuộc chẳng khác nào bị “giam lỏng” trong nhà sau khi về hưu. Những quan điểm tiến bộ của xă hội về sắc đẹp và tuổi già cũng không có tác dụng làm vơi đi nỗi sợ của họ. Thuật ngữ “GERASCOPHOBIA” có xuất xứ từ tiếng Hy Lạp, gồm “GERAS” nghĩa là tuổi già và “PHOBOS” là nỗi sợ. GERASCOPHOBIA là một chứng sợ lâm sàng thường được xếp vào nhóm các chứng sợ cụ thể, tức nỗi sợ được kích hoạt bởi một nhân tố, vật thể hoặc hoàn cảnh cụ thể nhất định.

Chứng sợ tuổi già thường khởi đầu bằng những nỗi lo sợ bị bỏ mặc, mất khả năng lao động và tự chăm lo cho bản thân. Phần lớn các đối tượng mắc chứng sợ này là những người c̣n trẻ và khỏe mạnh.

TRIỆU CHỨNG CỦA CHỨNG SỢ TUỔI GIÀ

Các triệu chứng bao gồm việc đánh mất vẻ đẹp ngoại h́nh, lo sợ tương lai, sợ phải phụ thuộc vào người khác trong sinh hoạt hằng ngày, và sợ mất đi vị trí xă hội khi về già.

Những biểu hiện cụ thể:
•Sống tách biệt với hiện thực;

•Thường xuyên lo âu, sợ hăi mà không rơ nguyên nhân;

•Khó thở;

•Đổ mồ hôi nhiều;

•Buồn nôn;

•Miệng khô;

•Cơ thể run rẩy;

•Tim đập nhanh;

•Không thể giao tiếp hoặc suy nghĩ một cách b́nh tĩnh, lưu loát;

•Sợ chết.

Đặc điểm chung của chứng sợ tuổi già

Những người mắc phải chứng sợ này luôn thường trực nỗi lo nhan sắc và sức khỏe giảm sút khi tuổi cao, từ đó dẫn đến e sợ tương lai. Nhờ khả năng tự lập mà con người có được sự tự tin, v́ vậy càng lớn tuổi, họ càng cảm thấy mất dần sự tự tin đó khi phải thường xuyên nhờ sự hỗ trợ của người khác để thực hiện những sinh hoạt hằng ngày. Khi nỗi sợ này lớn dần, người bệnh có xu hướng tách biệt với cuộc sống hằng ngày và tự cô lập ḿnh. Đây thực sự là một chứng sợ đáng quan tâm trong thời đại ngày nay, khi mà giá trị của sắc đẹp và sự trẻ trung luôn được truyền thông đề cao. Xă hội ca ngợi tuổi trẻ đến mức khiến cho người ta dễ đánh đồng tuổi già với sự vô dụng. V́ vậy, ở một góc độ nhất định, có thể thấy việc con người ngày nay trở nên nhạy cảm với tuổi già là một điều dễ hiểu, khi chính xă hội cũng góp phần tạo ra áp lực đó.

CHỨNG SỢ TUỔI GIÀ Ở PHỤ NỮ

Nhan sắc luôn là một trong những mối quan tâm hàng đầu của phụ nữ, nhất là trong thời đại ngày nay, với sự ra đời của những công nghệ làm đẹp như mỹ phẩm và phẫu thuật thẩm mỹ. Đồng thời, nỗi lo về tuổi tác và sự tàn phá của thời gian cũng tăng theo. Hầu hết phụ nữ thường bị ám ảnh bởi quan niệm già nua là xấu xí, mà một phần trong đó có sự tác động không nhỏ của xă hội.

Bên cạnh những đặc điểm chung đă đề cập ở phần trên, chứng sợ tuổi già ở phụ nữ c̣n có những nguyên nhân do đặc thù giới tính. Ngoài việc mất dần sức hấp dẫn bên ngoài do tuổi tác, phụ nữ càng lớn tuổi th́ khả năng sinh con càng giảm sút và tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Đối với phụ nữ c̣n độc thân, tuổi cao là một trở ngại lớn trong việc t́m kiếm bạn đời, chưa kể đến ảnh hưởng từ định kiến xă hội. Thực tế cũng chứng minh, ngay ở kinh đô điện ảnh Hollywood, trong khi tài tử George Clooney vẫn liên tục được xướng tên trong danh sách những người đàn ông hấp dẫn nhất hành tinh hằng năm dù nam diễn viên này đă 50 tuổi; th́ nữ diễn viên Glenn Close – một biểu tượng t́nh dục trên màn bạc được các đấng mày râu ngưỡng mộ vào thập niên 80-90 – nay đă không c̣n được xem là hấp dẫn ở độ tuổi ngoài lục tuần.

Ngoài ra, các thống kê cho thấy phụ nữ càng lớn tuổi càng đối mặt với nhiều nguy cơ về bệnh tật, đặc biệt là ung thư, như ung thư vú, ung thư buồng trứng hay ung thư ruột kết. Về mặt xă hội, việc phải sống phụ thuộc cũng sẽ khiến cho phụ nữ khi về già có nhiều nguy cơ đối mặt với những khó khăn hoặc tranh chấp về mặt tài chính, gia đ́nh hay nhà ở.

ĐIỀU TRỊ CHỨNG SỢ TUỔI GIÀ

Cũng như đối với những chứng rối loạn lo lắng khác, người mắc chứng sợ tuổi già cần phải đến bác sĩ và làm theo các chỉ dẫn để t́m ra phương pháp điều trị phù hợp nhất với ḿnh. Bằng các phương pháp trị liệu và tham vấn, bệnh nhân được tạo điều kiện bày tỏ căn nguyên của nỗi sợ và những ǵ dẫn đến nỗi sợ đó. Các phương pháp điều trị thường gặp đối với chứng sợ tuổi già là dùng thuốc chống trầm cảm, áp dụng liệu pháp hành vi, tái hiện kư ức, các kĩ thuật thư giăn và các liệu pháp hồi phục tinh thần. Bệnh nhân thường sợ rằng họ sẽ mất dần vai tṛ chủ động và vị trí xă hội khi về già, c̣n các chuyên gia điều trị sẽ giúp họ nhận ra rằng về hưu không phải là dấu chấm hết, rằng có một cuộc sống thú vị khác sau khi nghỉ hưu.

Đối với những phụ nữ sợ tuổi già, chị em cần học cách chấp nhận tuổi già như một quy luật tất yếu và không thể tránh khỏi của cuộc sống. Thay v́ để cho tâm trí bị ám ảnh bởi những nếp chân chim, hăy nghĩ về những việc có ích, những điều hay lẽ phải ḿnh đă làm được trong cuộc sống và hăy tự hào v́ điều đó. Thay v́ để cho cảm giác nuối tiếc lấn át, chị em cần h́nh thành quan niệm rằng con người được sinh ra để làm những việc có ích phù hợp với mỗi giai đoạn của cuộc đời và tuổi già không đồng nghĩa với sự vô dụng. Hăy sống một cuộc sống năng động, làm những công việc ưa thích như đọc sách, xem phim, hoặc đi chơi, tham gia các hoạt động xă hội với bạn bè thuộc đủ mọi lứa tuổi.

Luôn ǵn giữ một lối sống lành mạnh và chủ động, th́ dù tuổi đă cao, chúng ta vẫn có thể sống ích cho gia đ́nh và xă hội, bằng cách này hay cách khác.

Theo PHAN NGUYỄN KHÁNH ĐAN (tổng hợp từ Internet)

florida80
04-09-2019, 19:49
CÁC LÁT CẮT CUỘC ĐỜI.


BS Hồ Hoàng Phương


Cuộc sống muôn màu muôn mặt nhưng rồi chung quy lại cũng chỉ gom về ba mối quan hệ chính: gia đ́nh, đồng nghiệp và xă hội! Chẩn đoán h́nh ảnh cũng vậy, có rất nhiều mặt phẳng (plan) khác nhau, nhưng chung quy lại cũng chỉ có ba mặt cắt (slice) chính: axial, sagital và coronal!

Axial là mặt cắt ngang, mặt cắt quan trong nhất, ḿnh ví nó như là mặt quan hệ về gia đ́nh. Với cùng 1 bề dày như nhau th́ axial sẽ cho ra nhiều lát cắt nhất, bác sĩ chẩn đoán h́nh ảnh luôn xem axial như là các lát cắt nền tảng, nền móng cho chẩn đoán ban đầu trước khi tiến hành tái tạo hoặc xem các mặt cắt khác. Thậm chí trong vài trường hợp sau khi dựng h́nh "hoành tráng" để nêu bật tổn thương, nhà h́nh ảnh học vẫn phải luôn luôn xem lại tổn thương đó có xuất hiện trên axial không, trước khi cho chẩn đoán cuối cùng! Axial là mặt cắt phân định "trên - dưới" và gia đ́nh cũng tương tự vậy, là nơi mà sự tôn ti luôn là điều kiện tiên quyết, chuẩn mực, nên nếu ai biết xem đây là nền tảng, nền móng cho các cách ứng xử, nếu biết lấy sức mạnh từ gia đ́nh làm gốc, có trên có dưới, cuộc sống của bạn sẽ tốt đẹp và vững chắc hơn rất nhiều!

Sagital là mặt phẳng đứng dọc, mặt cắt chia cơ thể ra thành hai bên: phải và trái, trong đó các lát cắt lệch bên trái sẽ bổ dọc trái tim từ trên xuống, không thương tiếc! Ḿnh ví sagital là các mối quan hệ đồng nghiệp, nơi đó có những khi ḿnh "phải" th́ câu chuyện luôn thuận lợi và tương tác tốt, tuy nhiên có những môi trường làm việc, nhà nước lẫn tư nhân, luôn ẩn chứa những mối nguy hiểm khi ḿnh làm "trái", trái ở đây có thể là sai trái, có thể là trái ư, có thể là trái chiều và thậm chí là trái khoáy! Trong trường hợp đó bạn rất có thể sẽ phải chịu những t́nh huống như chặt chém vào tim, dù rằng th́ là mà vẫn trong bối cảnh đồng nghiệp gặp nhau anh em bạn bè mỗi ngày!

Coronal là mặt phẳng vành, hoặc có thể gọi là mặt phẳng trán v́ nó song song với trán, chia cơ thể ra thành hai nửa "trước - sau". Ḿnh ví coronal như là các mối quan hệ thuộc về xă hội, ngoài gia đ́nh và ngoài công việc! Đây là những mối quan hệ để giao du, để hưởng thụ cuộc sống, để t́m kiếm những niềm vui chung, lập nhóm, lập hội, lập câu lạc bộ..., đại khái như vậy! Tương tự coronal, quan hệ xă hội cũng có những ưu tiên "trước - sau", có những lát cắt song song tim (vành), nhưng cũng có những lát cắt "chạm" được tim để đồng điệu được với nhau, và tất nhiên, nhờ vậy mà làm cuộc sống này trở nên phong phú, thú vị hơn....

Vậy đó, 3 mặt phẳng cơ bản với các lát cắt đa chiều khi kết hợp lại sẽ tạo nên bức tranh tổng thể đẹp và đầy màu sắc, cuộc sống cũng vậy, nếu dung hoà được các mối quan hệ sẽ tạo nên bức tranh đẹp và ư nghĩa! C̣n vài phút nữa là đến sinh nhật thứ 38, bệnh ghiền cái nghiệp Chẩn đoán h́nh ảnh này nên suy nghĩ rồi kết nối lan man, cầu chúc cho ḿnh và những người thân yêu luôn có được bức tranh đẹp trong cuộc sống, dù đôi khi để đạt được sự lung linh đó không phải là điều dễ dàng....



UserPostedImage

florida80
04-09-2019, 19:51
5 Biểu Hiện Báo Hiệu Ung Thư DạUng thư dạ dày thời kỳ đầu đa phần không có biểu hiện ǵ hoặc chỉ có những biểu hiện nhỏ.
Khi các triệu chứng lâm sàng biểu hiện ra th́ bệnh đă đến thời kỳ cuối. 5 triệu chứng sau đây giúp chúng ta không bỏ lỡ cơ hội chữa trị.


Đau nhức phần bụng trên
Đây là triệu chứng phổ biến nhất của ung thư dạ dày. Bắt đầu đau âm ỉ liên tục, thường được chẩn đoán là viêm dạ dày hoặc loét dạ dày.


Khó chịu phần bụng trên
Chủ yếu là cảm giác no chướng bụng hoặc nóng bụng. Triệu chứng đó có thể hết tạm thời nhưng sẽ bộc phát lặp đi lặp lại.


Chán ăn, ợ hơi và triệu chứng khó tiêu khác
Có cảm giác là sau khi ăn bụng đầy, chướng, khó chịu và chủ động hạn chế đồ ăn uống, thường kèm theo triệu chứng ợ hơi.


Phân đen hoặc đại tiện kèm máu
Nếu trong trường hợp bạn không ăn đậu phụ huyết, hoặc uống các loại thuốc như bismuthum (Bi) mà xuất hiện phân đen khi đại tiện, cần sớm đến bệnh viện kiểm tra.


Mệt mỏi, giảm cân và thiếu máu

Đây là các triệu chứng ung thư dạ dày thông thường không có ǵ khác biệt. Bệnh nhân thường do chán ăn, mất máu đường tiêu hóa nên xuất hiện các triệu chứng suy nhược và mệt mỏi.




Khi dạ dày đau, khu vực dạ dày hay đường tiêu hóa khó chịu, chúng ta nên kịp thời đi đến bệnh viện để kiểm tra nội soi để t́m rơ nguyên nhân. Những người mà sinh hoạt không có quy luật, công việc căng thẳng, bận rộn, thời gian dài ăn thực phẩm muối, hun khói hoặc thực phẩm ẩm mốc th́ càng nên kịp thời kiểm tra sức khỏe định kỳ.




Mặc dù có nhiều người khi đau dạ dày chỉ là viêm dạ dày thông thường, nhưng cuối cùng đă phát triển thành ung thư dạ dày, con số này cũng không phải ít. Loét dạ dày, viêm dạ dày thu co, thịt thừa dạ dày hoặc một số bệnh dạ dày măn tính khác hiện tại đă được công nhận tiền ung thư.




Điều này khuyến cáo các gia đ́nh có tiền sử về bệnh dạ dày, nếu xuất hiện các triệu chứng đau dạ dày nhiều lần, nên thận trọng v́ có thể sẽ dẫn đến ung thư dạ dày.



Theo Dân Trí Dày

florida80
04-09-2019, 19:52
Cách Giữ Ǵn Sự Trẻ Trung - Thanh Hương














Rất nhiều người hay hỏi Hương đă 63 tuổi rồi mà trông giống chỉ trên 40 tuổi, có bí quyết nào hay không? Chỉ vẻ cho chị em biết với.




Nghe hỏi vậy, đôi khi H cũng phải tự hỏi xem cái yếu tố nào thật sự giữ cho người ta chậm già đây?




Vậy th́ hôm nay H xin chia sẻ kinh nghiệm của ḿnh cho quư bà con chị em phụ nữ áp dụng, không lợi bề ngang cũng lợi bề dọc.( Thật ra cánh đàn ông vẫn có thể áp dụng được)






Già làm người ta cằn cổi đi, yếu đi, bệnh hoạn...là luật tạo hóa, chuyện của ḿnh là có thể làm ǵ cho nó chậm 1 chút là quư rồi.


Những minh tinh tài tử, ngoài tài nghệ chuyên nghiệp họ cũng cần duy tŕ sắc đẹp, nếu cần tốn kém nhiều, đau đớn để giải phẫu họ vẫn làm để họ có thể duy tŕ cuộc sống nổi bật về danh vọng, tiền tài , bao gồm ḷng ngưỡng mộ của quần chúng, cột chặt được trái tim của người họ yêu quư...




Nói chung, mạnh giỏi và trẻ đẹp là đỉnh cao trong đời mỗi người; chỉ v́ chạy theo cuộc sống, khi nh́n lại ḿnh tuổi đời chồng chất, nhan sắc cũng phai theo, cái ǵ mất đi mới thấy tiếc nuối!




Nói cho đúng ra, sắc đẹp phải quan niệm là “tốt gỗ hơn tốt nước sơn” tức là cái xuân sắc toát ra từ một người khỏe mạnh, có đầy đủ sức sống, sinh lực vẫn hay hơn người xuống thần sắc rồi trông cậy vào son phấn.

Do vậy bài viết này chú trọng về cách giữ sức khỏe cho da, da trẻ, không khô, không mụn, không tàn nhang, không nhăn… là yếu tốt then chốt của nhan sắc.




Ở xứ lạnh, nóng, khô, gió… cũng phải xài cream dưỡng da (Moisturizing cream). Tùy người chọn cream nào hợp th́ xài loại đó. H xài nhiều loại cream khác nhau, không kén, miễn không bị dị ứng gây ngứa, đỏ da, không làm tệ ra như là bị khô da, hay hở lổ chân lông hoặc có đường nhăn.




C̣n trường hợp cá nhân H th́ phải nói thêm:




Gia đ́nh H ai cũng có da trắng và hồng hồng và ai cũng rất trẻ.

Như thế có thể suy diễn ra là yếu tố di truyền đă khiến cho hệ trực giao cảm mạnh hơn đối giao cảm nên mạch máu mở rộng thường xuyên và v́ vậy sẽ đem chất bổ đến nuôi tế bào da và lấy chất bă đi một cách nhịp nhàng, hanh thông (là nguyên tắc của Phong Thủy)




Xét cho cùng, nơi nào máu huyết lưu thông đều ḥa th́ nơi đó sẽ tốt lành, healthy.




Muốn giữ da trẻ đẹp phải lưu ư:




1/ Máu huyết luân lưu điều ḥa:

Do vậy H áp dụng phương pháp massage các muscle trên mặt nói riêng (và massage cả người nói chung) và ngoài ra c̣n có thể làm 1 thế của Khí Công để giúp máu huyết dồn lên mặt và đầu để da đẹp và trí năo vẫn c̣n sáng suốt minh mẫn.




Thế tập đó cũng dễ thôi, H đặt cho nó cái tên là thế "Khiêng Đá". (Những ai bị Huyết Áp cao, không nên tập thế này, người bệnh Tiểu Đường có thể tập khi biết đường huyết lúc tập ở mức b́nh thường, tức là sau khi đo đường huyết thấy OK)




Tập như sau : đứng thẳng, 2 tay đưa thẳng lên cao và

hít vào. Rồi cuối xuống từ từ đồng thời thở ra từ từ, cho đến khi gập người, cuối đầu thấp nhất, ráng giữ nén 1 chút (lúc đó máu sẽ dồn lên mặt và đầu), cong 2 bàn tay như thể đang khiêng cục đá to, nặng, đứng lên và đồng thời hít vào từ từ , khi đứng thẳng lưng xong th́ quăng mạnh 2 tay ta sau lưng và thở kh́ ra hết khí 1 lần bằng miệng.

Mỗi lần tập 5 cái là quá đủ, 1 ngày tập 1 cử sáng (hay luôn cả 1 cử chiều là quá tốt rồi).

Cũng theo nguyên tắc ấy, có thể mỗi ngày khi rảnh, massage muscle mặt, nhớ là apply lực của mấy ngón tay vào muscle dưới da (chứ không phải chà kéo, thô tháo khiến da bị chằng dản ra nhé) để máu đến nuôi những muscle trên mặt.

Chưa kể nên lấy đầu ngón tay ấn ấn quanh mắt để kích thích các huyệt của mắt cho mắt khỏe, không bị mơi mệt. Hai huyệt quan trọng ở mắt là 2 huyệt ở đầu mắt và đuôi mắt, c̣n vài huyệt c̣n lại là cứ ấn ấn quanh xương chân mày và khung xương quanh mắt.




Đó là làm để máu đến nuôi da, nhưng cũng nên thêm những chất bổ dưỡng để nó nuôi.




2/ Chất bổ nuôi da:




a/ Uống sữa pha với nước củ Dền (Beetroot):

Củ Dền gọt vỏ, xắt mỏng, luộc để ra nước màu đỏ, củ Dền có màu đỏ là do có nhiều chất Sắt nó giúp tạo bồi bổ thêm hồng huyết cầu nên làm da hồng hào, chưa kể là khiến sức khỏe gia tăng thêm, làm việc thấy dai sức hơn.

(Nên dùng loại sữa đă lấy bớt chất béo, ai đă dư chất sắt, nên cắt bớt củ Dền)




b/ Uống nước trái cây :

Khi H uống 5 loại nước trái cây pha nhau như Táo, Cam, Cà Rốt, Cà chua, 1 khúc Celery = Cây Cần ( giảm huyết áp).

Uống nước trái cây mang nhiều sinh tố cần thiết và cũng làm nhuận trường ( không bị táo bón).




H uống cở 1 tháng sau là da rất tốt, căng mọng, da dẻ mịn màng, tươi mát.

(Ai bị Cancer nhất là loại Cancer sensitive với Estrogen, không nên uống v́ trong nước trái cây có ít nhiều Phytoestrogen)




3/Cách thở đúng:




Ai cũng tưởng ḿnh biết thở nên mới c̣n sống, nhưng nếu thở không đúng cách th́ đă làm giảm quality và quantity của đời sống mà không hay biết.




Khi suy nghĩ, năo cần rất nhiều chất bổ và oxy, thế mà khi suy nghĩ, khi chú ư v́ xem, nghe...khi lo rầu, nghĩ ngợi thay v́ phải cung ứng nhiều Oxy hơn ḿnh lại thở rất cạn, rất ít, lắm khi quên thở...chỉ có 1 phần khí lưu thông như ao tù nước đọng th́ làm sao đủ số lượng oxy ḿnh cần?




Cách thở thiếu ư thức này không cung cấp đủ oxy cho ḿnh, không đủ cho năo th́ làm sao đủ cho da đầu và da mặt (chưa kể tất cả lục phủ ngũ tạng cũng thiếu hụt do vậy rất dễ sinh bệnh nhất là Ung Thư) . Cho nên người hay lo, hay buồn là mau tóc bạc, có thể rụng nhiều tóc, tóc khô không c̣n mướt như xưa. C̣n da th́ khô cằn và mau nhăn nheo, kẻ nào yếu gan th́ bị mụn nhọt, xanh xao, vàng vọt...




Cách thở đúng theo Dưỡng Sinh như Yoga, Khí công là phải thở 3 Th́:




Th́ 1 : Hít vào bằng mũi ( không bao giờ hít vào bằng miệng)

Cứ tưởng tượng khí sẽ dồn vào tận Đan Điền (là 1 điểm tưởng tượng dưới rúng 2 phân, nơi đây là trung tâm thần lực của con người). Khi hít khí vào phải ph́nh bụng (khi ph́nh bụng là kéo Cách Mô xuống làm cho lồng ngực có thêm khoảng trống chứa thêm không khí.




Th́ 2: Nén khí ở đan Điền là giữ thời gian để có sự trao đổi khí giữa phổi và mạch máu: Carbonic từ máu ra khí của phổi và Oxy từ khí vào máu. Thời gian này giữ càng lâu càng tốt để khí có đủ th́ giờ trao đổi qua lại. Giai đoạn nén khí quan trọng này, người thở b́nh thường luôn bỏ qua.




Th́ 3: Thở ra bằng mũi hay miệng (khi cần nhanh), tuy nhiên nếu tập thở thời gian lâu nên hít vào thở ra bằng mũi để duy tŕ nhiệt độ b́nh thường ở mũi khi khí ra vào.




Khi thở ra nhớ xẹp bụng xuống để đưa Cách-Mô lên làm buồng khí nhỏ lại giúp tống khí có nhiều Carnonic ra cho hết.

Oxy chỉ có 21% trong không khí mà ḿnh thở kiểu b́nh thường một cách vô thức nên số lượng Oxy vào cơ thể rất ít, dấu hiệu mệt mơi v́ thiếu Oxy là ḿnh sẽ ngáp dài ngáp ngắn.

Tỷ lệ thời gian tối hăo cho 3 Th́ là 1-4-2, có nghĩa là thời gian thở ra dài gấp 2 thời gian hít vào, thời gian nén khí gấp 2 thời gian thở ra.




Kết quả rất khả quan trong việc chị tập thở theo khí công/ Yoga 1 cách thường xuyên trong ngày; cở 3 tháng sau, thần sắc sẽ sáng lên. H có thấy 1 gia đ́nh thở như vậy, sau 3 tháng gặp lại, nh́n cả nhà thấy gương mặt ai ai cũng đều tươi sáng, hồng nhuận và họ đều bảo thấy trong người khỏe khoắn, yêu đời lắm, dai sức hơn.




Đó là về mặt thể chất c̣n về tinh thần cũng đóng góp không kém bởi v́ nếu worry đủ thứ về công ăn việc làm, gia đ́nh rắc rối... những thứ này sẽ làm hệ đối giao cảm làm việc mạnh hơn, có nghĩa là chả tốt ǵ cả cho sinh hoạt của cơ thể, cho nên phải tập xem thường những chuyện nhỏ nhặt lẳng cẳng, nghĩ đến đều tốt lành cho mọi người...tất nhiên đâu có ǵ khiến ḿnh phải lấn cấn trong ḷng, cho nên tâm hồn thư thái, rạng rỡ, tươi vui tự nhiên hiển lộ trên nét mặt.




Thiền (luôn kết hợp với hơi thở) cũng cho 1 giá trị rất cao về sức khỏe thể chất và nhất là đời sống tâm linh.




Có 1 lần H thiền tinh tấn 3 tháng, bổng chuyển sang 1 trạng thái vô cùng kỳ diệu là hạnh phúc vô ngần, dường như ḿnh đang được bảo bọc trong một môi trường tràn ngập phúc lạc, thật khó diển tả được cho ai khác hiểu và nó kéo dài cở 2 tháng ( đó chỉ là vào Sơ Thiền thôi, là cấp thấp nhất những cũng đủ biết những ǵ Phật nói là sự thật).




Đó là 1 thứ hạnh phúc mà tất cả những ǵ hạnh phúc của cuộc đời cộng lại hết cũng không sánh bằng. Đó là hạnh phúc toát ra từ Chân Tâm, Phật Tánh, hay nói cách khác là hạnh phúc toát ra từ nguồn cội này là suối nguồn miên viển không bao giờ cạn, ở đó là một kho tàng về trí huệ, hạnh phúc, t́nh yêu thương muôn loài, mà vô cùng thanh tịnh. Có nghĩa là hướng ra bên ngoài tâm để t́m hạnh phúc, đó chỉ là hạnh phúc ảo mà ai ai cũng đi t́m cả đời một cách nghịch hướng như thế, để đến cuối đời nh́n lại như cuộc điểm phim mới thấy ḿnh đă sai lầm đáng kể, vậy th́ hẹn làm lại 1 cuộc đời khác, và cứ thế là làm lại từ đầu, lẩn quẩn măi trong 6 nẽo luân hồi.




-Có người sẽ thắc mắc tại sao tu hành hướng về tâm linh, sao c̣n chú trong bề ngoài, vật chất?




đ Đó cũng là câu hỏi hay.




Tuy nhiên khó ai nhảy 1 cái rột lên nấc cuối của cây thang (đạt Phật Quả) mà hầu hết phải tu theo tŕnh tự, từ thấp lên cao, ngoại trừ đă có vốn từ kiếp trước th́ kiếp này xem như một lúc “học nhảy” vài nấc th́ cũng không là chuyện lạ.

Tu theo Nhơn Thừa (thấp nhất) là tu để c̣n trở lại kiếp người th́ không đ̣i hỏi quá sức, miễn không sát sanh, tham lam sanh ra ăn cắp, ăn trộm, ăn cướp, cờ bạc, lường gạt , rượu chè, gian dâm, hút sách…

Rượu chè, hút sách th́ giới nữ qua được cái vèo, c̣n tham lam ít nhiều ǵ khó người tránh nổi, tùy mức độ mà tham ít hay nhiều mà thôi.

Cho nên cái chuyện giữ 1 cái bề ngoài dễ coi cũng không có tội, do làm ăn ngay thẳng mà có khả năng giàu có cũng không có tội…mà trái lại c̣n có phước nếu biết dùng những thứ ḿnh có, mang lợi lạc cho người khác, mang vui, giúp chống khổ mới là đạo làm người.

C̣n ai muốn nghiên cứu tu cao hơn càng tốt, miễn là đừng v́ vật chất mà quên vun bồi cái cội nguồn tâm linh của ḿnh.




Xin chúc tất cả quư chị em phụ nữ luôn vui khỏe trẻ đẹp, bửu bối mang hạnh phúc đến cho gia đ́nh.




Thanh Hương





Thanh Hương = Diệu Châu



( Mời xem thêm 48 h́nh của Diệu Châu,



Dieu Chau album (Thanh Huong album) ở Youtube:


https://www.youtube.com/watch?v=IgEFtlphRjA&feature=youtu.be




Cùng site này cũng có Thanh Album 44 h́nh, t́m hàng chữ Kathy Iron -2 videos, click vào 2-videos, sau đó click vào Thanh Album, bản nhạc “Nhỏ Ơi” do Chí Tài hát. Thanh Album làm trước, sau đó chỉnh lại thành Dieu Chau Album nên có 1 số h́nh giống nhau)







Bài và h́nh ảnh do tác giả cung cấp



at 3:29 PM

florida80
04-09-2019, 19:53
Friday, July 11, 2014




Bệnh Gan Ở Mỹ Tăng Nhiều Do Thuốc Lá Cây




Thưa đây là email nhận được, xin gởi các bạn xem đề pḥng. Bệnh Gan ở Mỹ tăng nhiều do thuốc lá cây.

HUỲNH CHIẾU ĐẲNG.







Bệnh Gan ở Mỹ Theo báo cáo của cơ quan US Food and Drug Adminitration
(Tuyết Duơng sưu tầm)


( US Food and Drug Adminitration) tuần vừa qua th́ 20% Bệnh Gan ở Mỹ là do thuốc giăm cân tác hại , c̣n lại 80% là thuốc bổ nhập từ China ( loại thuốc bổ này gồm : trừ mỡ xấu , bổ gan , trị ung thư , tăng cường sinh lực , trị lăo hóa , trị đau khớp , làm đẹp DA , trừ ung bứu …)
USA -- Hiểm họa vô hình cho lá gan của bạn: thuốc giảm cân và thuốc trị bệnh Tim mạch và trị ung bứu. tất cả thuốc ngoài luồng đều nhập từ phân xưởng tại China. Khảo sát cho biết thuốc giảm cân là nguyên nhân cho 20% hồ sơ bệnh gan tại các bệnh viện Hoa Kỳ. C̣n lại 80% là thuốc bổ Made in China.
Báo The New York Times có bài viết nghiên cứu về hiện tượng này, và cho thấy con số này là tăng từ 7% so với một thập niên trước, và con số này chỉ bao gồm những hồ sơ bệnh gan nặng nề nhất.






Hiện thời dân Mỹ tiêu xài tới 32 tỷ đôla cho thuốc giảm cân mỗi năm, và trong khi các bác sĩ nói rằng đại đa số thuốc phụ trợ bổ túc (supplements) –đa số là làm từ China , rồi đem sang Hoaky đóng gói vào bao b́. Được các tay lang băm tung lên hệ thống truyền thông . Nào Tivi , Radio , nhật báo …Họ mời các tay quảng cáo lừng danh như các tay MC của các Trung tâm Entertainmnet , thế là người xem hay đọc đều tin tưởng là thần dược . Mua về uống thấy rất hưng phấn , nhưng thật Ra là do thành phần “ cortisone “ , kích thích trung tâm thần kinh . Nhưng về sau th́ di hại đến gan , thận không thể trị được .









Tạo sự nhiễm độc gan lâu dài mà người tiêu thụ vô t́nh không biết. Khi biết th́ quá trể để cứu gan . Với thuốc dược thảo được quảng cáo là tiêu mỡ, tăng lực, giảm cân và săn chắc bắp thịt, trị ung thư , làm đẹp DA… đang tới mức báo động.




Một bác sĩ nói, "Khi một sản phẩm được giám sát, bạn biết lợi ích và sự rủi ro, và bạn có thể có một quyết định với đủ thông tin về việc nên dùng thuốc đó hay không. Nhưng với thuốc phụ trợ bổ túc (supplements)... đó chỉ là một hộp đen đầy chất độc không được cơ quan FDA kiểm soát, khi bác sỉ khám chẩn th́ quá trể mà thôi."

Thuốc nhập theo đang viên ( từng thùng box , mỗi box hàng vạn viên nan thuốc ) , rồi được vào chai plastic , dán nhăn tiêu dùng đọc rất hứng khời . Tạo người đọc một cảm giác như thần dược vừa được các pḥng y dược sáng chế Ra tại Hoaky .
Nhưng tất cả đều không có sự kiểm nhiệm của cơ quan U.S.FDA ( tạm gọi là Bộ Y tế Hoaky ).Hầu hết đều bán tại các tiệm của người Hoa tại địa phương , chớ không được bán tại các Pharmacy Hoaky ( US Durg Stores ) . V́ luật của Hoaky , khi thuốc được bày bán tại các Pharmacy Hoaky ( US Drug Stores ) th́ sẽ bị kiểm soát bởi cơ quan US FDA đến khám xét thường xuyên , định kỳ . Những nhân viên bán thuốc tại các US Drug Stores đều phải thi đậu kỳ thi sát hạch về dược liệu , đó là chưa kể các Dược sỉ phải có bằng hành nghề chuyên môn .

C̣n tại các tiệm thuốc Bắc , th́ chỉ cần các bác sỉ học lực 6 tháng , nghành nghề châm cứu rồi kê toa thuốc bổ ngoài luồng cho thân chủ. Thật sự những bác sỉ 6 tháng ấy, tŕnh độ học vấn không đủ viết nổi một công thức hóa học về dược liệu.Người Việt chúng ta hiện nay tại các địa phương có đông dân cư Việt , rất nhiều người bị viêm gan mà không biết . Khi khám bệnh th́ được báo là ngày xưa có lẽ hút thuốc , hay uống nhiều rượu độc từ Việt nam …nay bị ảnh hưởng từ đó .
Thật sự họ đă bị thuốc bổ ngoài luồng bày bán nhan nhản tại các tiệm thuốc Bắc , hay từ các nơi châm cứu của các bác sỉ 6 tháng ấy.

Nếu những thần dược ấy trị bệnh như chai thuốc in ấn bên ngoài..nào trị dứt ung thư , tăng cường sinh lực , làm đẹp DA , hồi sinh sức khỏe…th́ chúng ta sẽ thấy hàng ngh́n bệnh nhân người Mỹ sẽ xếp hàng rồng rắn bên ngoài tiệm thuốc Bắc ấy mà mua uống từ lâu , khỏi đến phiên bạn từ Việt Nam định cư sang Hoa kỳ mà mua thuốc ấy …
Như vậy chẵng lẽ các bác sỉ học lực trên 7 năm tại đại học Y Khoa Hoaky đều là những kẻ đáng vụt thùng rác , c̣n các bác sỉ 6 tháng trường rể cây , rể cỏ , châm cứu…th́ tất cả đều là thần y hay chăng ? (< -- hết trích)

Và đây là nguồn tin khác từ báo The NewYork Times

http://www.nytimes.com/2013/12/22/us/spike-in-harm-to-liver-is-tied-to-dietary-aids.html?pagewanted =all&_r=0










When Christopher Herrera, 17, walked into the emergency room at Texas Children’s Hospital one morning last year, his chest, face and eyes were bright yellow — “almost highlighter yellow,” recalled Dr. Shreena S. Patel, the pediatric resident who treated him.


Christopher, a high school student from Katy, Tex., suffered severe liver damage after using a concentrated green tea extract he bought at a nutrition store as a “fat burning” supplement. The damage was so extensive that he was put on the waiting list for aliver transplant.


“It was terrifying,” he said in an interview. “They kept telling me they had the best surgeons, and they were trying to comfort me. But they were saying that I needed a new liver and that my body could reject it.”


New data suggests that his is not an isolated case.Dietary supplements account for nearly 20 percent of drug-related liver injuries that turn up in hospitals, up from 7 percent a decade ago, according to an analysis by a national network of liver specialists. The research included only the most severe cases of liver damage referred to a representative group of hospitals around the country, and the investigators said they were undercounting the actual number of cases.

While many patients recover once they stop taking the supplements and receive treatment, a few require liver transplants or die because of liver failure. Naïve teenagers are not the only consumers at risk, the researchers said. Many are middle-aged women who turn to dietary supplements that promise to burn fat or speed up weight loss.


“It’s really the Wild West,” said Dr. Herbert L. Bonkovsky, the director of the liver, digestive and metabolic disorders laboratory at Carolinas HealthCare System in Charlotte, N.C. “When people buy these dietary supplements, it’s anybody’s guess as to what they’re getting.”

Though doctors were able to save his liver, Christopher can no longer play sports, spend much time outdoors or exert himself, lest he strain the organ. He must make monthly visits to a doctor to assess his liver function.


Americans spend an estimated $32 billion on dietary supplements every year, attracted by unproven claims that various pills and powders will help them lose weight, build muscle and fight off everything fromcolds to chronic illnesses. About half of Americans use dietary supplements, and most of them take more than one product at a time.


Dr. Victor Navarro, the chairman of the hepatology division at Einstein Healthcare Network in Philadelphia, said that while liver injuries linked to supplements were alarming, he believed that a majority of supplements were generally safe. Most of the liver injuries tracked by a network of medical officials are caused by prescription drugs used to treat things like cancer,diabetes and heart disease, he said.


But the supplement business is largely unregulated. In recent years, critics of the industry have called for measures that would force companies to prove that their products are safe, genuine and made in accordance with strict manufacturing standards before they reach the market.


But a federal law enacted in 1994, the Dietary Supplement Health and Education Act, prevents theFood and Drug Administration from approving or evaluating most supplements before they are sold. Usually the agency must wait until consumers are harmed before officials can remove products from stores. Because the supplement industry operates on the honor system, studies show, the market has been flooded with products that are adulterated, mislabeled or packaged in dosages that have not been studied for safety.


The new research found that many of the products implicated in liver injuries were bodybuilding supplements spiked with unlisted steroids, and herbal pills and powders promising to increase energy and help consumers lose weight.
“There unfortunately are criminals that feel it’s a business opportunity to spike some products and sell them as dietary supplements,” said Duffy MacKay, a spokesman for the Council for Responsible Nutrition, a supplement industry trade group. “It’s the fringe of the industry, but as you can see, it is affecting some consumers.” More popular supplements like vitamins, minerals, probiotics and fish oil had not been linked to “patterns of adverse effects,” he said.


The F.D.A. estimates that 70 percent of dietary supplement companies are not following basic quality control standards that would help prevent adulteration of their products. Of about 55,000 supplements that are sold in the United States, only 170 — about 0.3 percent — have been studied closely enough to determine their common side effects, said Dr. Paul A. Offit, the chief of infectious diseases at the Children’s Hospital of Philadelphia and an expert on dietary supplements.


“When a product is regulated, you know the benefits and the risks and you can make an informed decision about whether or not to take it,” he said. “With supplements, you don’t have efficacy data and you don’t have safety data, so it’s just a black box.”


Since 2008, the F.D.A. has been taking action against companies whose supplements are found to contain prescription drugs and controlled substances, said Daniel Fabricant, the director of the division of dietary supplement programs in the agency’s Center for Food Safety and Applied Nutrition. For example, the agency recently took steps to remove one “fat burning” product from shelves, OxyElite Pro, that was linked to one death and dozens of cases of hepatitis and liver injury in Hawaii and other states.


The new research, presented last month at a conference in Washington, was produced by the Drug-Induced Liver Injury Network, which was established by the National Institutes of Health to track patients who suffer liver damage from certain drugs and alternative medicines. It includes doctors at eight major hospitals throughout the country.


The investigators looked at 845 patients with severe, drug-induced liver damage who were treated at hospitals in the network from 2004 to 2012. It focused only on cases where the investigators ruled out other causes and blamed a drug or a supplement with a high degree of certainty.


When the network began tracking liver injuries in 2004, supplements accounted for 7 percent of the 115 severe cases. But the percentage has steadily risen, reaching 20 percent of the 313 cases recorded from 2010 to 2012.


Those patients included dozens of young men who were sickened by bodybuilding supplements. The patients all fit a similar profile, said Dr. Navarro, an investigator with the network.


“They become very jaundiced for long periods of time,” he said. “They itch really badly, to the point where they can’t sleep. They lose weight. They lose work. I had one patient who was jaundiced for six months.”

Tests showed that a third of the implicated products contained steroids not listed on their labels.


A second trend emerged when Dr. Navarro and his colleagues studied 85 patients with liver injuries linked to herbal pills and powders. Two-thirds were middle-aged women, on average 48 years old, who often used the supplements to lose weight or increase energy. Nearly a dozen of those patients required liver transplants, and three died.


It was not always clear what the underlying causes of injury were in those cases, in part because patients frequently combined multiple supplements and used products with up to 30 ingredients, said Dr. Bonkovsky, an investigator with the network.

But one product that patients used frequently was green tea extract, which contains catechins, a group of potent antioxidants that reputedly increase metabolism. The extracts are often marketed as fat burners, and catechins are often added to weight-loss products and energy boosters. Most green tea pills are highly concentrated, containing many times the amount of catechins found in a single cup of green tea, Dr. Bonkovsky said. In high doses, catechins can be toxic to the liver, he said, and a small percentage of people appear to be particularly susceptible.


But liver injuries attributed to herbal supplements are more likely to be severe and to result in liver transplants, Dr. Navarro said. And unlike prescription drugs, which are tightly regulated, dietary supplements typically carry no information about side effects. Consumers assume they have been studied and tested, Dr. Bonkovsky said. But that is rarely the case. “There is this belief that if something is natural, then it must be safe and it must be good,” he said. (< -- hết trích)





Tuyết Dương sưu tầm



at 7:20 PM







No comments:





Post a Comment







Newer Post Older Post Home



Subscribe to: Post Comments (Atom)










Người Phương Nam

Người Phương Nam





Blog Archive



► 2019 (472)




► 2018 (1685)












► 2017 (1773)












► 2016 (1943)












► 2015 (1914)












▼ 2014 (1228) ► December (130)
► November (132)
► October (142)
► September (93)
► August (90)
▼ July (98) Chuyện dễ nhưng khó!!!
Vùng Lên - NS. Đông Hải
Ngày Rằm Thưởng Thức Món Kiểm Chay
Tư Thế Cho Giấc Ngủ An Lành
Ai Có Biết Thứ Hoa Này Của Miền Bắc Không?
Đời Này Ta C̣n Được Gặp Bố Mẹ Mấy Lần?
Michel Pépé - Le Lotus Sacré
Đơn Xin Ngu.
Bài Viết Khiến Thiên Hạ Kéo Nhau Bỏ Facebook
Lối Xưa Xe Ngựa - Trầm vân
Đời Là Vô Thường!
Monsanto : Một Hiện Tượng Kỳ Quái Của Hoa Kỳ ? Mon...
Marché - Chợ
Lặng Người Trước Bài Phát Biểu Của Ngoại Trưởng Hà...
Đàn Bà Quyến Rũ...V́ Đâu ???
Thượng Lộ B́nh An!
Nghệ Thuật Trên Ruộng Lúa
Xôi Sàig̣n
T́m Hiểu Về Nhân Duyên Vợ Chồng: T́nh Yêu Là Tạm B...
Tiếu Lâm
Những Món Nợ Phải Trả - Đinh Lâm Thanh
PPS Pretty Women
Gai Cột Sống: Nguyên Nhân, Triệu Chứng Và Biến Chứ...
15 Sự Thật Thú Vị Về Đồng Đô La Mỹ !!!
Tôi Vẫn Nhớ - Sương Lam
Bài Tóan Nhân Quả
Sentiments - Trạng Thái Biểu Lộ Cảm Xúc Của Ba Vị ...
T́m B́nh An Cho Hiện Tại
Kevin Rogers - Lối Về Xóm Nhỏ - Trịnh Hưng
Lễ Hội "KIMONO MÙA HÈ" Ở Himeji, Nhật
Cô Nhi Viện và Viện Dưỡng Lăo
Good Weekend - Trầm Vân
Bún Ốc Hà Nội Việt Nam
Einstein Khuyên Chúng Ta Điều Ǵ ?
Khỏanh Khắc Các Nguyên Thủ Quốc Gia Mừng, Lo V́ Wo...
Tờ Khai Sanh Oan Nghiệt - Phan
Thay Nội Tạng Thứ Tốt
Hiểu Sai Về Hạn Dùng Thực Phẩm Và Thuốc.
Dragonfly
Building Bolero -- The Queensland Symphony Orchest...
Images Retouchées En 3D - H́nh Ảnh 3D của Hà Nội ...
Tư Điển Việt Mỹ
Cha Mẹ & Con Cái
The Dalai Lama Teaching
Richard Clayderman - Time To Say Goodbye
Gọi Em: Tṛ Nhỏ - Trầm Vân
Trăng Là Ǵ?
Nhạn Qua Ải Bắc - Tâm Tiễn
Xin Cho
10 Món Đặc Sàn Níu Chân Du Khách Cần Thơ
Những Chuyện "Trời Ơi!" - K2 Nguyễn Thừa B́nh
Lầm Chết Luôn
7 Dấu Hiệu Cảnh Báo Ung Thư
Bao Nhiêu Triệu Người Chết?
Những Màu Sắc Tô Điểm Cuộc Đời
Rao Bán Nỗi Buồn - Trầm Vân
Những Điều Nhỏ Nhặt Đáng Ghi Nhớ !!!
Cá Kèo - Thủy Lan Vy
Trên Sân Cỏ Đời Sống - Lm Đa Minh Nguyễn Ngọc Long...
Đường Cong T́nh Ái - Trầm Vân
Họ Là "Ngụy", Ta Là Ǵ? - Người Lính Cũ
Money Has Different Name - Tên Của Các Lọai Tiền T...
Ảnh Chế "Độc" Về Trận Thua Không Tưởng Của Brazil
Bệnh Gan Ở Mỹ Tăng Nhiều Do Thuốc Lá Cây
Xà Lách Trứng Luộc, Món Ăn Đơn Giản, Lành Mạnh Cho...
Tao Mua Hết Tụi Bây!
T́nh Trầm Luân Thương - Trầm Vân
Hạnh Phúc Thật Gần
Bầu Trời Từ Tâm - Trầm Vân
Có Không, Một Tuổi Ǵa Hạnh Phúc
Các Món Bún Ở Saigon ..............
Nương Tựa Chính Ḿnh - Chúc Thiệu
Tuổi Chiều - Trầm Vân
Tiến Sĩ Ở Việt Nam - Theo ********** và Tác Giả Th...
Jetman over Rio - the movie
Không Hiểu Nổi!
Nếu Em Là Sóng - Trầm Vân
Từ 1975 Đến Giờ Mới Dám Nói !!!
Sơ Ri Đặc Sản Đất G̣ Công
Hỏi Người T́nh Xa - Trầm Vân
Cách Làm Giá Trong Hộp Sữa, Comment Faire Des Germ...
Những H́nh Ảnh Lịch Sử Về Con Tàu TITANIC
Xin Về Cát Bụi
Happy July - Trầm Vân
"Điều Kỳ Diệu"
Bài T́nh Thơ Tháng Bảy - Sương Lam
Đức Phật Giúp Được Ǵ Cho Nỗi Đau Khổ Này - Thích ...
Tính Ưa Khoe Khoang Và Khoác Lác Của Người Việt - ...
Casteller -Tháp Người
Thử Đóan Những Câu Đố Mẹo (Phần 1)
Lời Hay Ư Đẹp - Doanh Doanh thực hiện
Một Chiều - Trầm Vân
Sóng Wi-Fi Nếu Thấy Được Sẽ Như Thế Nào?
Chuyện " Đá Banh ".
Trái Bầu Nghĩa
Buy America Made - Trầm Vân
Cứ Ngỡ - Thích Tánh Tuệ
Sự Nghiệp

► June (90)
► May (99)
► April (89)
► March (107)
► February (77)
► January (81)

► 2013 (466)












Total Pageviews


Sparkline 3799406

















Simple theme. Powered

florida80
04-09-2019, 19:55
7 Dấu Hiệu Cảnh Báo Ung Thư














7 tín hiệu cảnh báo ung thư



Bất kỳ cơn đau nào kéo dài, hay không rơ nguyên nhân đều là dấu hiệu của một t́nh trạng sức khỏe cần quan tâm.


WHO cảnh báo bùng phát 'dịch' ung thư


Những quan niệm sai lầm về ung thư







Trên trang WebMD, Hiệp hội Ung thư Mỹ đă đưa ra khuyến cáo về một số biểu hiện cảnh báo khả năng ung thư. Để cho dễ nhớ, các nhà khoa học sử dụng các chữ cái ở đầu mỗi dấu hiệu bằng tiếng Anh viết tắt thành từ C-A-U-T-I-O-N

(cảnh báo), bao gồm:

- C (Change in bowel or bladder habits): Thay đổi thói quen đi tiêu, tiểu tiện. Có thể hiểu rộng rằng, bạn thay đổi về số lần đi tiêu tiểu như đi cầu bón, tiêu chảy, tiêu chảy kèm táo bón xen kẽ, tiểu nhiều lần…




- A (A sore that does not heal): Đau nhức kéo dài không khỏi. Bất kỳ cơn đau nào mang tính mạn tính, tức kéo dài, hay không rơ nguyên nhân đều là dấu hiệu của một t́nh trạng sức khỏe cần quan tâm.




- U (Unusual bleeding or discharge): Chảy máu bất thường, từ bất cứ đường nào như mũi, miệng (ho hay khạc ra máu), đường tiêu tiểu, âm đạo…




- T (Thickening or lump in the breasts, testicles, or elsewhere): Khối u ở bất cứ vị trí nào: vú, tinh hoàn, bụng, các nhóm hạch…




- I (Indigestion or difficulty swallowing): Ăn khó tiêu hay khó nuốt.




-O (Obvious change in the size, color, shape, or thickness of a wart, mole, or mouth sore): Thay đổi rơ ràng trong kích thước, màu sắc, h́nh dạng, hay độ dày của một mụn cóc, nốt ruồi, vết thương hay lở loét trong khoang miệng.




- N (Nagging cough or hoarseness): Ho dai dẳng hay khan tiếng kéo dài.


Ngoài ra, các triệu chứng sau đây cũng có thể báo hiệu sự hiện diện của một số loại bệnh ung thư:








- Đau đầu dai dẳng.


- Giảm cân không rơ nguyên nhân.


- Mất cảm giác ngon miệng.


- Đau mạn tính trong xương hoặc bất kỳ vị trí nào trên cơ thể.


- Mệt mỏi dai dẳng, buồn nôn, hoặc nôn mửa.


- Liên tục sốt nhẹ.


- Nhiễm trùng lặp đi lặp lại.





Khi bạn có một trong những triệu chứng kể trên mà không có một nguyên nhân rơ ràng, kéo dài trên 2 tuần, th́ rất có thể là dấu hiệu của một chứng ung thư nào đó. Việc t́m đến với bác sĩ để được chẩn đoán và tầm soát ung thư sẽ giúp bạn phát hiện sớm. Cần nhớ rằng, chẩn đoán sớm ung thư là ch́a khóa quan trọng quyết định hiệu quả của điều trị.

florida80
04-09-2019, 19:56
Hiểu Sai Về Hạn Dùng Thực Phẩm Và Thuốc.




V́ hiểu sai về hạn dùng, 90% người Mỹ đă phạm sai lầm là vứt bỏ thực phẩm và thuốc quá sớm.





1/. Thực phẩm







Họ nghĩ rằng thực phẩm sẽ không c̣n dùng được sau ngày qui định đó, trong khi thật ra ư nghĩa đúng nhất mà các nhà sản xuất muốn nói đến là thực phẩm sẽ đạt t́nh trạng tươi tốt nhất vào ngày qui định trên nhăn hiệu, chứ không phải là sẽ bị hư hỏng ngay sau ngày đó.







Một cuộc nghiên cứu mới đây do ban bảo vệ nguyên liệu thiên nhiên phối hợp với ban quy định điều lệ thực phẩm của đại học Harvard cho thấy phần đông người tiêu dụng thường lẫn lộn về ư niệm “bán đến ngày” (sell by), “tiêu thụ đến ngày” (use by), “dùng tốt nhất trước ngày” (best before).




Theo bà Dara Gunders, một trong những người tham gia cuộc nghiên cứu trên th́ ư niệm lệch về ngày tháng hết hạn khiến cho biết bao thực phẩm và nguyên liệu để chế biến chúng đă bị lăng phí v́ ai cũng sợ ăn vào sẽ mang bệnh. 25% người dân thậm chí c̣n vứt bỏ thực phẩm sớm hơn ngày quy định.

Nhóm nghiên cứu trên nghĩ rằng nguyên nhân gây ra sự lẫn lộn chính là vấn đề thiếu sót của liên bang trong việc xác định tiêu chuẩn từng nguồn thực phẩm, đưa đến sự tự tiện ra luật lệ ở cấp tiểu bang về cách đánh giá thực phẩm và phương cách ghi ngày tháng hạn định trên bao b́.






















Nói cách khác như bà Dara Gunders nhận định th́ thật là một việc rối nùi, mà hậu quả gây ra khiến cho hằng năm có 40% thực phẩm c̣n tốt không được sử dụng tới, trị giá lên đến 165 tỉ đô la, tính b́nh quân ra là 455 đô la lăng phí đối với một gia đ́nh 4 người.






Cũng theo các nhà nghiên cứu th́ trong khi họ đang đề nghị các bộ ngành thực phẩm phải có một công thức chuẩn mực rơ ràng về thời hạn, cách tốt nhất đối với người tiêu dùng là tự t́m hiểu cấu trúc thực phẩm và cách bảo quản, tồn trữ của từng loại thức ăn, trong đó một kiến thức quan trọng là cách sử dụng hữu hiệu chức năng của tủ lạnh để vừa bớt tốn điện vừa kéo dài sự tươi tốt của thực phẩm.









2/. Thuốc



Hàng năm người Hoa Kỳ đă liệng đi cả tỷ bạc Mỹ Kim thuốc Tây mà nhăn hiệu của các nhà bào chế nói là "quá hạn" theo lời dặn là phải của các dược sĩ là phải vứt đi.




Sự thật như thế nào?

Có phải liệng đi những thuốc "bị quá hạn" không?

Có đúng là thuốc "bị quá hạn" sẽ hết hiệu nghiệm hay là sẽ "hư hại" sau ngày "quá hạn" dán ngoài hộp thuốc?






Gerald Murphy, là một dược sĩ nay đă về hưu hiện cư ngự tại Ormond Beach, TB Florida không nghĩ như thế. Ông ta nói rằng đa số các thuốc "quá hạn" vẫn c̣n tốt và hiệu nghiệm nhiều năm sau ngày "hết hạn", mà do các hăng dược phẩm "cố ư" dán vào bao thuốc, để bắt người tiêu thụ phải mua thuốc mới để kiếm tiền mà thôi.









Ông đă trải qua cả chục năm tranh đấu cho việc "đặt để ngày hết hạn thuốc" phải dựa trên tiêu chuẩn khoa học chứ không phải dựa theo "chu kỳ" do các hăng dược phẩm tự ư "chọn lựa" được. Tại nhiều Tiểu Bang các dược sĩ tự động "cho" một ngày quá hạn khác - nhiều khi chóng hơn là ngày quy định của các hăng bào chế nữa. Ông nói: "Họ làm tiền bằng cách khuyến khích người tiếu thụ liệng đi những thuốc hăy con` tốt, để mua thuốc mới."




Ông Murphy được một "thắng lợi nho nhỏ" năm 2005, là Quốc Hội Florida đă nói với Hiệp Hội các dược sĩ Florida là "Không cần phải ghi ngày quá hạn trên các hộp thuốc nữa" như họ đă làm từ năm 1993.




Ông Murphy không phải hành động đơn độc. Cơ quan Quản Trị Thực Phẩm, Thuốc Men Hoa Kỳ ( US Food and Drug Administration=FDA ), trong những thử nghiệm cho Bộ Quốc Pḥng Hoa Kỳ, đă xác nhận rằng đa số các thuốc tây bán theo toa bác sĩ, hay bầy bán tại các tiệm thuốc vẫn c̣n hiệu nghiệm và an toàn rất lâu sau ngày "quá hạn" của các nhà bào chế.
( The U.S. Food and Drug Administration, in tests for the Defense Department has determined that most prescription and over-the-counter drugs remain safe and effective long after the manufacturer's expiration date - in some cases, may years longer.)











Nhưng khảo cứu của cơ quan FDA không kể đến những thuốc để trong những pḥng tắm có hơi ẩm hay trong xe nóng bỏng mùa hè. Bà Mary L. Euler, phụ tá khoa trưởng tại trường Đại Học Dược Khoa Missouri tại Kansas City, và là phát ngôn viên của Hiệp Hội Dược Phẩm Hoa Kỳ nói:




"Tôi có nghĩ rằng một cuộc khảo cứu rất cần thiết để t́m hiểu rơ về vần đề này không? - Tôi tin chắc chắn như vậy"




Năm 2001 Hiệp Hội Dược Sĩ Toàn Quốc Hoa Kỳ yêu cầu kỹ nghệ bào chế thuốc Tây đầu tư vào việc nghiên cứu kia, nhưng không được trả lời. (*)




Dân Biểu CH-Tb Pennsylvania là Tim Murphy đă yêu cầu cơ quan FDA cho một ban chuyên viên nghiên cứu riêng về vấn đề "quá hạn này".






Ông nói: "Có cái ǵ rơ ràng là không ổn. Ngay bây giờ, các ngày quá hạn đều do các nhà bào chế thuốc tự động quy định, làm sao mà biết được thực hư?"









Ông Armon Neel Jr, một dược sĩ tại Griffin TB Georgia mà công tác đặc biệt là xem xét lại các loại thuốc dùng trong các nhà dưỡng lăo và phải kư giấy huỷ bỏ các loại thuốc "hết hạn" quả làm ḷng ông không yên ổn.




Ông nói: " Thấy thuốc bị đưa vào ḷ đốt đi - cả triệu triệu Mỹ Kim - thật không đúng chút nào hết. "




Các bệnh nhân nào nếu c̣n thuốc dư, mà nghĩ rằng hăy c̣n tốt th́ nên hỏi bác sĩ riêng của ḿnh.






(*) .- Các nhà bào chế làm thinh là đúng quá rồi, v́ chạm đến túi tiền của họ. Bệnh nhân và người tiêu thụ phải vứt thuốc cũ đi để mua thuốc mới th́ họ được lợi bao nhiêu? Nên nhớ rằng mỗi năm có hàng ngàn dự luật "làm lợi" cho người dân Hoa Kỳ bị "nằm chết" trong các hộc bàn của các vị Dân Biểu, Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ, nhất là các vị được làm Trưởng Ban hay Trưởng Tiểu Ban.









Ví dụ điển h́nh là "Dự Luật cho người dân Hoa Kỳ mua thuốc từ bên Canada giá rẻ bằng 1/10 giá thuốc ở Mỹ" đă chết thảm v́ sự "chống đối mănh liệt" (chạy chọt vận động - lobby) của các hăng bào chế Hoa Kỳ và Hiệp Hội Dược Sĩ Mỹ Quốc.




Việc đề nghị hỏi các ông bác sĩ gia đ́nh cũng không xong, v́ mấy vị bác sĩ này không có rành về thuốc lắm vả lại họ c̣n sợ bị đưa ra toà nữa, nếu "cho phép" bệnh nhân dùng thuốc cũ rồi sau naỳ sinh chuyện không lành.




Brad Mackee /AARP Bulletin



at 11:45 PM







1 comment:







Emmanuel NguyễnJuly 20, 2014 at 2:10 AM

Bài này hữu ích quá cô Kim à, cảm ơn cô nhiều!
Reply
























Newer Post Older Post Home



Subscribe to: Post Comments (Atom)










Người Phương Nam

Người Phương Nam





Blog Archive



► 2019 (472)




► 2018 (1685)












► 2017 (1773)












► 2016 (1943)












► 2015 (1914)












▼ 2014 (1228) ► December (130)
► November (132)
► October (142)
► September (93)
► August (90)
▼ July (98) Chuyện dễ nhưng khó!!!
Vùng Lên - NS. Đông Hải
Ngày Rằm Thưởng Thức Món Kiểm Chay
Tư Thế Cho Giấc Ngủ An Lành
Ai Có Biết Thứ Hoa Này Của Miền Bắc Không?
Đời Này Ta C̣n Được Gặp Bố Mẹ Mấy Lần?
Michel Pépé - Le Lotus Sacré
Đơn Xin Ngu.
Bài Viết Khiến Thiên Hạ Kéo Nhau Bỏ Facebook
Lối Xưa Xe Ngựa - Trầm vân
Đời Là Vô Thường!
Monsanto : Một Hiện Tượng Kỳ Quái Của Hoa Kỳ ? Mon...
Marché - Chợ
Lặng Người Trước Bài Phát Biểu Của Ngoại Trưởng Hà...
Đàn Bà Quyến Rũ...V́ Đâu ???
Thượng Lộ B́nh An!
Nghệ Thuật Trên Ruộng Lúa
Xôi Sàig̣n
T́m Hiểu Về Nhân Duyên Vợ Chồng: T́nh Yêu Là Tạm B...
Tiếu Lâm
Những Món Nợ Phải Trả - Đinh Lâm Thanh
PPS Pretty Women
Gai Cột Sống: Nguyên Nhân, Triệu Chứng Và Biến Chứ...
15 Sự Thật Thú Vị Về Đồng Đô La Mỹ !!!
Tôi Vẫn Nhớ - Sương Lam
Bài Tóan Nhân Quả
Sentiments - Trạng Thái Biểu Lộ Cảm Xúc Của Ba Vị ...
T́m B́nh An Cho Hiện Tại
Kevin Rogers - Lối Về Xóm Nhỏ - Trịnh Hưng
Lễ Hội "KIMONO MÙA HÈ" Ở Himeji, Nhật
Cô Nhi Viện và Viện Dưỡng Lăo
Good Weekend - Trầm Vân
Bún Ốc Hà Nội Việt Nam
Einstein Khuyên Chúng Ta Điều Ǵ ?
Khỏanh Khắc Các Nguyên Thủ Quốc Gia Mừng, Lo V́ Wo...
Tờ Khai Sanh Oan Nghiệt - Phan
Thay Nội Tạng Thứ Tốt
Hiểu Sai Về Hạn Dùng Thực Phẩm Và Thuốc.
Dragonfly
Building Bolero -- The Queensland Symphony Orchest...
Images Retouchées En 3D - H́nh Ảnh 3D của Hà Nội ...
Tư Điển Việt Mỹ
Cha Mẹ & Con Cái
The Dalai Lama Teaching
Richard Clayderman - Time To Say Goodbye
Gọi Em: Tṛ Nhỏ - Trầm Vân
Trăng Là Ǵ?
Nhạn Qua Ải Bắc - Tâm Tiễn
Xin Cho
10 Món Đặc Sàn Níu Chân Du Khách Cần Thơ
Những Chuyện "Trời Ơi!" - K2 Nguyễn Thừa B́nh
Lầm Chết Luôn
7 Dấu Hiệu Cảnh Báo Ung Thư
Bao Nhiêu Triệu Người Chết?
Những Màu Sắc Tô Điểm Cuộc Đời
Rao Bán Nỗi Buồn - Trầm Vân
Những Điều Nhỏ Nhặt Đáng Ghi Nhớ !!!
Cá Kèo - Thủy Lan Vy
Trên Sân Cỏ Đời Sống - Lm Đa Minh Nguyễn Ngọc Long...
Đường Cong T́nh Ái - Trầm Vân
Họ Là "Ngụy", Ta Là Ǵ? - Người Lính Cũ
Money Has Different Name - Tên Của Các Lọai Tiền T...
Ảnh Chế "Độc" Về Trận Thua Không Tưởng Của Brazil
Bệnh Gan Ở Mỹ Tăng Nhiều Do Thuốc Lá Cây
Xà Lách Trứng Luộc, Món Ăn Đơn Giản, Lành Mạnh Cho...
Tao Mua Hết Tụi Bây!
T́nh Trầm Luân Thương - Trầm Vân
Hạnh Phúc Thật Gần
Bầu Trời Từ Tâm - Trầm Vân
Có Không, Một Tuổi Ǵa Hạnh Phúc
Các Món Bún Ở Saigon ..............
Nương Tựa Chính Ḿnh - Chúc Thiệu
Tuổi Chiều - Trầm Vân
Tiến Sĩ Ở Việt Nam - Theo ********** và Tác Giả Th...
Jetman over Rio - the movie
Không Hiểu Nổi!
Nếu Em Là Sóng - Trầm Vân
Từ 1975 Đến Giờ Mới Dám Nói !!!
Sơ Ri Đặc Sản Đất G̣ Công
Hỏi Người T́nh Xa - Trầm Vân
Cách Làm Giá Trong Hộp Sữa, Comment Faire Des Germ...
Những H́nh Ảnh Lịch Sử Về Con Tàu TITANIC
Xin Về Cát Bụi
Happy July - Trầm Vân
"Điều Kỳ Diệu"
Bài T́nh Thơ Tháng Bảy - Sương Lam
Đức Phật Giúp Được Ǵ Cho Nỗi Đau Khổ Này - Thích ...
Tính Ưa Khoe Khoang Và Khoác Lác Của Người Việt - ...
Casteller -Tháp Người
Thử Đóan Những Câu Đố Mẹo (Phần 1)
Lời Hay Ư Đẹp - Doanh Doanh thực hiện
Một Chiều - Trầm Vân
Sóng Wi-Fi Nếu Thấy Được Sẽ Như Thế Nào?
Chuyện " Đá Banh ".
Trái Bầu Nghĩa
Buy America Made - Trầm Vân
Cứ Ngỡ - Thích Tánh Tuệ
Sự Nghiệp

► June (90)
► May (99)
► April (89)
► March (107)
► February (77)
► January (81)

► 2013 (466)












Total Pageviews


Sparkline 3799409

















Simple theme

florida80
04-09-2019, 19:57
Gai Cột Sống: Nguyên Nhân, Triệu Chứng Và Biến Chứng




Cột sống, hay xương sống, bao gồm 33 đốt sống, xương cùng, các đĩa đệm cột sống, và xương cụt nằm ở phía lưng, tách biệt bởi các đĩa cột sống.







Gai cột sống là một bệnh gây đau nhức làm ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, chất lượng cuộc sống, giảm khả năng lao động của người bệnh và thậm chí gây ra một số biến chứng khó lường.









1. Nguyên nhân gây gai cột sống



Cột sống, hay xương sống, bao gồm 33 đốt sống, xương cùng, các đĩa đệm cột sống, và xương cụt nằm ở phía lưng, tách biệt bởi các đĩa cột sống. Cột sống chứa và bảo vệ tủy sống bên trong ống tủy sống. Gai cột sống là một bộ phận h́nh thành do sự phát triển thêm ra của xương trên thân đốt sống, đĩa sụn hay dây chằng quanh khớp.



Gai đôi cột sống có thể gặp ở bất kỳ vị trí nào của cột sống (cột sống cổ, cột sống lưng, thắt lưng và cùng cụt), nhưng thường thấy ở đốt sống cổ và thắt lưng, v́ hai vị trí này chịu lực tác động nhiều nhất dẫn đến t́nh trạng khớp thoái hóa nhanh nhất.



Có một số nguyên nhân chính dẫn đến gai cột sống, đó là do viêm khớp cột sống măn tính làm ảnh hưởng đến phần sụn đốt sống gây hao ṃn dần bề mặt của khớp, trở nên thô ráp, xù x́ và cuối cùng hai bề mặt xương tiếp xúc, cọ xát lên nhau gây đau. Do đó, gai cột sống là một đáp ứng tự nhiên của cơ thể đối với phản ứng viêm măn tính của khớp xương cột sống.



Bên cạnh đó sự lắng đọng canxi ở dây chằng, gân tiếp xúc với đốt sống do quá tŕnh lăo hóa cũng là một trong các nguyên nhân gây gai cột sống (loại canxi này ở dưới dạng calcipyrophosphat). Gai cột sống có thể do nguyên nhân thoái hóa đốt sống bởi quá tŕnh lăo hóa (thông thường sau tuổi 40, nhất là nữ giới ở tuổi măn kinh) cũng là một trong các nguyên nhân chính gây ra gai cột sống.



Gai cột sống có thể do sự phản ứng của cơ thể sau khi bị chấn thương cột sống bởi sự chấn thương này sẽ làm tổn hại đến xương hoặc khớp cột sống (hoặc cả hai). Gai cột sống có chiều dài chỉ vài milimét thường xuất hiện ở mặt trước và bên, hiếm khi mọc ở phía sau, do đó ít chèn ép vào tủy và rễ thần kinh.


Bên cạnh đó, gai cột sống c̣n phụ thuộc khá nhiều vào yếu tố môi trường sống và có thể có yếu tố gia đ́nh (di truyền). Yếu tố môi trường: người bốc vác, đội các vật nặng, vận động viên cử tạ hoặc do ngồi nhiều, đứng nhiều bởi công việc. Bởi trọng lượng cơ thể, trọng lượng đồ vật nặng (có thể có cả hai) sẽ đè lên cột sống làm cột sống nhanh ṃn và yếu đi, nếu gặp ở những người có sức đề kháng kém, có bệnh măn tính, ăn uống không đảm bảo (lượng và chất), loăng xương th́ gai cột sống càng dễ xuất hiện.



Yếu tố gia đ́nh: bố, mẹ bị gai cột sống th́ con cái lớn lên cũng có thể mắc phải căn bệnh này





Gai cột sống nếu để lâu ngày không được chữa trị có thể gây nên biến chứng: nếu nhẹ th́ gây đau nhức khó chịu và ảnh hưởng đến cuộc sống sinh hoạt của người bệnh; nếu nặng có thể gây nên hiện tượng chèn ép thần kinh làm đau dây thần kinh liên sườn (gai cột sống lưng), đau thần kinh tọa (gai cột sống thắt lưng).



Đau dây thần kinh liên sườn rất dễ làm cho người bệnh hiểu nhầm là bệnh về hô hấp hoặc tim mạch. Đau dây thần kinh tọa có thể làm cho người bệnh đi lại khó khăn, teo cơ (bắp chân), rối loạn tiểu tiện thậm chí bị tàn phế. Nếu ống tủy bị quá thu hẹp cho sự h́nh thành gai cột sống, bệnh nhân (BN) sẽ có rối loạn đại tiểu tiện (đại, tiểu tiện không tự chủ), mất cảm giác.






2. Triệu chứng của gai cột sống



Gai cột sống là một trong các hậu quả của thoái hóa cột sống. Triệu chứng thường gặp của thoái hóa cột sống khiến BN phải đi khám là đau thắt lưng, đau vai hoặc cổ, lan xuống cánh tay, tê tay, đôi khi làm giới hạn vận động ở cổ, vai, thắt lưng (tùy vào vị trí của gai cột sống).



Với gai cột sống cổ th́ có thể gây nên chứng rối loạn tuần hoàn năo (đau đầu, buồn nôn, hoa mắt, chóng mặt, mất thăng bằng). Phần lớn gai cột sống gây đau do tiếp xúc với dây thần kinh hoặc các xương đốt sống khi cử động. Bởi v́ do gai cọ xát với xương khác hoặc các phần mềm ở xung quanh như: dây chằng, rễ dây thần kinh gây nên các cơn đau.



Nếu gai chèn ép các dây thần kinh, người bệnh sẽ bị những cảm giác đau vai, gáy, lan xuống cánh tay, bàn tay (gai cột sống cổ), đau tức ngực (gai cột sống lưng) và đau cơ đùi, cẳng chân, bàn chân và ngón chân, có khi gây rát bỏng (gai cột sống thắt lưng). Cơn đau xuất hiện khi BN đi, đứng. Cơn đau tăng khi cử động nhiều nhưng sẽ giảm khi được nghỉ ngơi.




3. Nguyên tắc chữa trị và pḥng bệnh






Gai cột sống gây đau nhức và có thể gây nên một số biến chứng cho người bệnh. V́ vậy, khi bị đau vai gáy, cánh tay, thần kinh liên sườn, thắt lưng, mông, cẳng chân, bàn chân… th́ nên đi khám bệnh càng sớm càng tốt. Nơi khám tốt nhất là chuyên khoa xương khớp để được điều trị tránh biến chứng xảy ra. Ngoài thuốc c̣n có thể áp dụng lư liệu pháp để hỗ trợ cho điều trị.






Tuy nhiên, dùng thuốc ǵ, lư liệu pháp như thế nào sẽ có bác sĩ chuyên khoa cho chỉ định điều trị và tư vấn. BN không nên tự mua thuốc điều trị và không nên tự tập luyện không có hướng dẫn của bác sĩ chuyên khoa.






Trong cuộc sống hàng ngày không nên đứng, ngồi quá lâu, không mang vác, bưng bê các vật quá nặng. Khi bị viêm khớp, thoái hóa khớp cần tích cực điều trị theo đơn của bác sĩ khám bệnh. Dinh dưỡng đủ chất là điều hết sức cần thiết, nhất là các loại thức ăn giàu canxi, các loại vi chất có trong các loại rau xanh, trái cây.

florida80
04-10-2019, 18:27
Bài Tường Thuật Trải Nghiệm về
MỘT CƠN ĐAU TIM (Heart Attack)


Tối thứ ba tuần trước, sau khi gửi ư kiến về Lá Diêu Bông vào D Đ, tôi đi ngủ rất ngon đến hơn 6 giờ sang, dậy đi tắm và sửa soạn đi làm, cảm thấy thoải mái b́nh thường, không có triệu chứng ǵ khác lạ. Khoảng 7 giờ hơn, khi với tay tắt ngọn đèn trên đầu tủ (hơi cao), tôi bỗng thấy mặt nóng bừng, mồ hôi toát ra, hai cánh tay ră rời như vừa khiêng vác vật nặng quá sức. Khi đó, tôi hơi nghi là bị stroke (đứt hoặc nghẽn mạch máu dẫn vào óc), liền lấy máy đo huyết áp, thấy rất cao, khoảng 180/100. Tôi vội lấy 2 viên thuốc chống cao máu uống liền một lúc. (Tiếc rằng nhà không có sẵn aspirin). Ngay sau đó, tôi xuống cầu thang th́ bắt đầu thấy tức ngực, đau khoảng giữa lồng ngực, nửa như đau bao tử (xót bao tử khi đói), nửa như bị ai đấm vào chấn thủy. Nh́n vào gương, cười, nói, dơ tay lên xuống th́ không thấy có ǵ biến đổi hay khó khăn, không nhức đầu chóng mặt, hát thử vài câu vẫn thấy dở như thường, nghĩa là không có những triệu chứng của stroke. Tôi liền nghĩ ngay đến heart attack (cơn đau tim), chứ không phải stroke. Không chần chờ nữa, tôi gọi số cấp cứu 911 ngay. Lúc đó vào khoảng 7 giờ 20, chỉ chừng 10 phút sau khi tôi nhận thấy triệu chứng khó chịu đầu tiên.

Qua điện thoại, nhân viên cấp cứu bảo tôi ngồi hoặc nằm ở tư thế nào thấy thoải mái nhất, nhờ người nhà lấy tất cả những thứ thuốc tôi đang uống để sẵn, và để ngỏ cửa vào nhà. Khi đó tôi vẫn tỉnh táo, đọc tên từng loại thuốc và liều lượng đang uống cho họ, nhưng rất khó thở và hai cánh tay rất mỏi. Vẫn không thấy nhức đầu và không nói líu lưỡi (không phải stroke). Chừng 5 phút sau, xe cấp cứu tới. Người paramedic (chuyên viên cấp cứu) cho tôi nhai ngay chừng 5 hay 6 viên baby aspirin (loại 81 mg), nhai rồi nuốt trửng chứ không chiêu với nước để cho thuốc thấm theo nước miếng vào các mạch máu nhỏ dưới lưỡi, mục đích là làm cho máu loăng ra. Đồng thời họ xịt Nitroglycerin lỏng vào dưới lưỡi tôi ba lần, mỗi lần cách nhau chừng 5 phút, để cho các mạch máu giăn nở (không được dùng quá 3 lần, kẻo sự giăn nở mạch máu quá đáng, có thể gây stroke). Tôi thấy bớt tức ngực, thở dễ hơn, nhưng hai cánh tay vẫn ră rời. Trái lại, đầu óc tỉnh táo, không nhức đầu, và chân đi vẫn vững vàng (không stroke).

Chừng 5 phút sau, xe cứu thương tới. Tôi đă cảm thấy dễ thở hơn và có thể tự đi ra trèo lên băng-ca cấp cứu. Trên đường vào vào bệnh viện, tôi để ư thấy xe không hụ c̣i - có nghĩa là không có ǵ khẩn cấp lắm. Trên xe, người paramedic hỏi chuyện tôi liên tục, mục đích là coi tôi có tỉnh táo, có bị stroke khiến nói ngọng không. Có người vừa bị heart attack vừa bị stroke, rất nguy hiểm.

Khoảng 15 phút sau đến bệnh viện, họ đưa tôi vào khu cấp cứu, có bác sĩ chăm sóc ngay lập tức. Họ tiếp "nước biển" ḥa thuốc làm loăng máu và làm tan máu đông (blood clots), morphine làm bớt đau, chụp quang tuyến X lồng ngực để t́m dấu vết sưng phổi nếu có (pneumonia), đo tâm động đồ (EKG). Đồng thời họ cho thử máu để t́m chỉ số enzyme định bệnh tim. Khi tim bị thiếu máu, tim sẽ tiết ra loại enzyme này. Nếu chỉ số enzyme cao tức là bệnh nhân đă bị heart attack. Lần đầu, có lẽ v́ thử nghiệm quá sớm, nên chỉ số không cao. Họ chờ 2 tiếng sau thử lại, th́ mới rơ ràng là bị heart attack. V́ nhịp tim của tôi đập không quá nguy cấp, nên bác sĩ không mổ ngay. Trong thời gian đó, tuy vẫn nằm ở khu cấp cứu, nhưng tôi rất tỉnh táo, bớt đau ngực và tay, và c̣n có thể lấy smart phone ra trả lời ngắn gọn một hai emails.

Lạ một điều là tâm động đồ làm mấy lần đều không có dấu hiệu heart attack rơ ràng. Sau này bác sĩ giải thích rằng bắp thịt tim tôi chưa bị hư hại và c̣n hoạt động mạnh dù bị attacked, có lẽ nhờ vào việc tôi bơi lội thường xuyên (tôi thường bơi 40 đến 60 chiều dài hồ bơi trong một giờ, một hai lần mỗi tuần - nhưng từ sáu tháng nay bận nhiều việc quá nên chuồn, không bơi, không tập thể dục ǵ hết!).

Khoảng 3 giờ chiều th́ bác sĩ chuyên khoa tim quyết định làm phẫu thuật thông mạch máu tim (angioplasty). Theo kỹ thuật này, bác sĩ cắt một lỗ rất nhỏ ở mạch máu gần háng hay cổ tay - trường hợp của tôi bác sĩ cắt ở cổ tay - rồi luồn một camera cực nhỏ ở đầu một catheter (ống mềm rất mảnh) đưa vào đến động mạch tim. Camera sẽ chiếu lên màn ảnh computer lớn như TV cỡ 60" để cho thấy chỗ bị tắc nghẽn. Khi đó tôi vẫn tỉnh, chỉ hơi mơ mơ buồn ngủ do được chích thuốc an thần, không làm mê hoàn toàn, và không cảm thấy đau đớn ǵ hết. Khi t́m ra chổ mạch máu nghẽn, bác sĩ sẽ "bắn" cho cục máu đông (blood clot) tan ra, rồi đẩy một "bong bóng" (balloon) vào chỗ đó, xong bơm cho bong bóng căng lên, làm phồng khúc mạch máu nghẹt khiến cho máu thông dễ dàng, trước khi x́ hơi bong bóng, c̣n để lại một "giàn lưới" (stent) h́nh ống, nằm lót bên trong nhằm căng khúc mạch máu đó ra. Lưới sẽ nằm vĩnh viễn trong mạch máu tim, nên bệnh nhân sẽ phải uống thuốc làm loăng máu dài dài, nếu không, máu đông có thể kẹt vào đó làm heart attack nữa!

Cuộc giải phẫu, ban đầu dự tính chừng 45 phút, đúng hai giờ mới xong! Mà vẫn c̣n hai mạch máu nữa chưa được thông, nên vài tuần nữa tôi sẽ phải vào bệnh viện làm tiếp. Tuy nhiên, lần sau sẽ dễ dàng hơn nhiều, có thể làm xong trong ngày, trừ khi tôi để cho bị heart attack nữa. Sau khi mạch máu tim được thông, tôi cảm thấy dễ chịu ngay lập tức. Hai cánh tay hết mỏi ră rời, ngực hết tức, nhịp thở gần b́nh thường trở lại.

Bác sĩ đă mổ từ mạch máu ở cổ tay tôi, luồn vào tim, nên tôi mau hồi phục hơn là mổ từ dưới háng. Sau ba ngày, mở băng ra, cổ tay tôi chỉ c̣n vết đóng vảy cỡ như bị con kiến lửa cắn rồi ḿnh găi ra mà thôi! Tuy nhiên, dọc theo cánh tay có vết bầm phía bên trong, chắc là do đường ống luồn qua gây nên. Không đau đớn ǵ cả. Tim không có cảm giác ǵ mới lạ, vẫn yêu, thương, hờn, giận... như thường! Đặc biệt là sau khi được thông mạch máu tim, huyết áp của tôi xuống và nằm ở mức rất tốt, rất ổn định. Bác sĩ giải thích là do mạch máu được thông nên tim đỡ phải làm việc nhiều, không cần bơm máu mạnh như trước nữa, nên áp suất nén vào thành mạch máu cũng giảm đi. Thật là một công đôi việc!

Qua tai biến này, tôi rút ra được vài kinh nghiệm quư báu như sau, xin được chia sẻ cùng Diễn Đàn:

Thứ nhất: B̀NH TĨNH MÀ RUN! Đúng vậy, ai mà không run khi nghĩ đùng một cái ḿnh đang bị một trong hai chứng bệnh giết người nhiều nhất và nhanh chóng nhất: Heart attack đứng đầu, stroke thứ ba, chỉ sau ung thư. Nhưng phải thật b́nh tĩnh và tỉnh táo để không lăng phí từng giây phút và làm bệnh thêm trầm trọng.

Thứ hai: NGƯNG MỌI HOẠT ĐỘNG VÀ ĐỂ Ư NGAY KHI CÓ TRIỆU CHỨNG LẠ THỨ NHẤT (trường hợp tôi là toát mồ hôi dù buổi sáng khá lạnh). Nếu đang lái xe, cần phải t́m chỗ an toàn đậu lại ngay. Chú ư: Nếu có cell phone, luôn luôn mang bên ḿnh, không để trong cặp hay giỏ đàng sau cóp xe.

Thứ ba: GỌI CẤP CỨU NGAY KHI CÓ NHIỀU HƠN MỘT TRIỆU CHỨNG LẠ CỦA STROKE HAY HEART ATTACK (thí dụ: cánh tay mỏi ră, tức ngực, ngay sau khi toát mồ hôi). Ở Mỹ: Không nên nhờ người nhà chở vô nhà thương, mà phải gọi 911. Lư do: bệnh viện có bổn phận phải cấp cứu ngay lập tức khi tiếp nhận một bệnh nhân do 911 đưa tới. Người paramedic đưa ḿnh tới phải chờ cho đến khi thấy ḿnh được chăm sóc bởi bác sĩ, rồi mới đi được. Nếu ḿnh tự tới xin cấp cứu, trừ khi bị thương máu me đầm đ́a như bị đụng xe, c̣n không sẽ phải làm nhiều thủ tục và chờ đợi trước khi được cấp cứu. Nếu bị
stroke hay heart attack mà mất chừng 15 phút là nguy lắm rồi.

Thứ tư: CỐ GẮNG PHÂN BIỆT CÁC TRIỆU CHỨNG GIỮA STROKE VÀ HEART ATTACK. Khi chuyên viên cấp cứu đến nhà, cố gắng trả lời rơ ràng sao cho họ có thể hướng sự cấp cứu về một loại tai biến: Stroke hay Heart Attack. Lư do: những giây phút cấp cứu đầu tiên là cực kỳ quan trọng. Nếu không phải stroke v́ máu nghẽn, mà v́ đứt mạch máu, nhức đầu mạnh, mạch máu chính trên đầu bị bể, mà nhân viên cấp cứu cho thêm aspirin làm loăng máu, nitroglycerin làm giăn mạch... th́ tiêu luôn tại chỗ! Theo các bác sĩ, khi thiếu máu vào nuôi, tế bào óc sẽ chết mau hơn tế bào tim nhiều. Do đó, nếu nhân viên cấp cứu tin là bệnh nhân bị stroke do đứt, bể mạch máu th́ nhiều phần là họ sẽ lo chở bệnh nhân vào bệnh viện thật sớm (bây giờ ở Mỹ và các nước tiên tiến có thuốc chích có thể hồi phục stroke, nếu được chích trong ṿng một, hai giờ kể từ khi có triệu chứng đầu tiên, càng sớm càng tốt.) Nếu tin là heart attack th́ họ sẽ thử làm cho máu loăng và mạch nở tại chỗ, mất chừng 10 phút trước khi họ chở đi. Mười phút phù du đầu tiên đó quư giá bằng 10 năm hay có thể bằng cả quăng đời c̣n lại!

Thứ năm: Trong bệnh viện, cần TỈNH TÁO (khi c̣n có thể), NÓI CHUYỆN NH̀ỀU với y tá, bác sĩ (không hiểu th́ yêu cầu người thông dịch). Đặt câu hỏi mỗi khi nhân viên y tế làm bất cứ thủ thuật nào trên cơ thể ḿnh. Thí dụ: Chích thuốc này làm ǵ? Tại sao cần chụp X-ray ngực hai lần trong ṿng vài giờ khi t́nh trạng không có ǵ thay đổi? - Nhờ hỏi mà tôi tránh được 1 lần X-ray vô ích do lỗi của y tá, người ca trước đă làm, người ca sau lại định làm nữa!

Thứ sáu: Khi đă lên bàn phẫu thuật mà không bị đánh thuốc mê th́ hăy quên hết mọi sự, mà chỉ NGHĨ VỀ CHUYỆN VUI, như chuyện trên Diễn Đàn THTĐ, mặc kệ họ làm ǵ th́ làm! Chẳng có ǵ phải lo lắng nữa!

Vài hàng chia sẻ cùng thầy cô và anh chị em.

Kính chúc thầy cô và thân chúc ACE không ai đau ốm, mà có đau ốm (con người ai tránh được?) th́ cũng sẽ mau lành.

florida80
04-10-2019, 18:29
Bài Tường Thuật Trải Nghiệm về
MỘT CƠN ĐAU TIM (Heart Attack)


Tối thứ ba tuần trước, sau khi gửi ư kiến về Lá Diêu Bông vào D Đ, tôi đi ngủ rất ngon đến hơn 6 giờ sang, dậy đi tắm và sửa soạn đi làm, cảm thấy thoải mái b́nh thường, không có triệu chứng ǵ khác lạ. Khoảng 7 giờ hơn, khi với tay tắt ngọn đèn trên đầu tủ (hơi cao), tôi bỗng thấy mặt nóng bừng, mồ hôi toát ra, hai cánh tay ră rời như vừa khiêng vác vật nặng quá sức. Khi đó, tôi hơi nghi là bị stroke (đứt hoặc nghẽn mạch máu dẫn vào óc), liền lấy máy đo huyết áp, thấy rất cao, khoảng 180/100. Tôi vội lấy 2 viên thuốc chống cao máu uống liền một lúc. (Tiếc rằng nhà không có sẵn aspirin). Ngay sau đó, tôi xuống cầu thang th́ bắt đầu thấy tức ngực, đau khoảng giữa lồng ngực, nửa như đau bao tử (xót bao tử khi đói), nửa như bị ai đấm vào chấn thủy. Nh́n vào gương, cười, nói, dơ tay lên xuống th́ không thấy có ǵ biến đổi hay khó khăn, không nhức đầu chóng mặt, hát thử vài câu vẫn thấy dở như thường, nghĩa là không có những triệu chứng của stroke. Tôi liền nghĩ ngay đến heart attack (cơn đau tim), chứ không phải stroke. Không chần chờ nữa, tôi gọi số cấp cứu 911 ngay. Lúc đó vào khoảng 7 giờ 20, chỉ chừng 10 phút sau khi tôi nhận thấy triệu chứng khó chịu đầu tiên.

Qua điện thoại, nhân viên cấp cứu bảo tôi ngồi hoặc nằm ở tư thế nào thấy thoải mái nhất, nhờ người nhà lấy tất cả những thứ thuốc tôi đang uống để sẵn, và để ngỏ cửa vào nhà. Khi đó tôi vẫn tỉnh táo, đọc tên từng loại thuốc và liều lượng đang uống cho họ, nhưng rất khó thở và hai cánh tay rất mỏi. Vẫn không thấy nhức đầu và không nói líu lưỡi (không phải stroke). Chừng 5 phút sau, xe cấp cứu tới. Người paramedic (chuyên viên cấp cứu) cho tôi nhai ngay chừng 5 hay 6 viên baby aspirin (loại 81 mg), nhai rồi nuốt trửng chứ không chiêu với nước để cho thuốc thấm theo nước miếng vào các mạch máu nhỏ dưới lưỡi, mục đích là làm cho máu loăng ra. Đồng thời họ xịt Nitroglycerin lỏng vào dưới lưỡi tôi ba lần, mỗi lần cách nhau chừng 5 phút, để cho các mạch máu giăn nở (không được dùng quá 3 lần, kẻo sự giăn nở mạch máu quá đáng, có thể gây stroke). Tôi thấy bớt tức ngực, thở dễ hơn, nhưng hai cánh tay vẫn ră rời. Trái lại, đầu óc tỉnh táo, không nhức đầu, và chân đi vẫn vững vàng (không stroke).

Chừng 5 phút sau, xe cứu thương tới. Tôi đă cảm thấy dễ thở hơn và có thể tự đi ra trèo lên băng-ca cấp cứu. Trên đường vào vào bệnh viện, tôi để ư thấy xe không hụ c̣i - có nghĩa là không có ǵ khẩn cấp lắm. Trên xe, người paramedic hỏi chuyện tôi liên tục, mục đích là coi tôi có tỉnh táo, có bị stroke khiến nói ngọng không. Có người vừa bị heart attack vừa bị stroke, rất nguy hiểm.

Khoảng 15 phút sau đến bệnh viện, họ đưa tôi vào khu cấp cứu, có bác sĩ chăm sóc ngay lập tức. Họ tiếp "nước biển" ḥa thuốc làm loăng máu và làm tan máu đông (blood clots), morphine làm bớt đau, chụp quang tuyến X lồng ngực để t́m dấu vết sưng phổi nếu có (pneumonia), đo tâm động đồ (EKG). Đồng thời họ cho thử máu để t́m chỉ số enzyme định bệnh tim. Khi tim bị thiếu máu, tim sẽ tiết ra loại enzyme này. Nếu chỉ số enzyme cao tức là bệnh nhân đă bị heart attack. Lần đầu, có lẽ v́ thử nghiệm quá sớm, nên chỉ số không cao. Họ chờ 2 tiếng sau thử lại, th́ mới rơ ràng là bị heart attack. V́ nhịp tim của tôi đập không quá nguy cấp, nên bác sĩ không mổ ngay. Trong thời gian đó, tuy vẫn nằm ở khu cấp cứu, nhưng tôi rất tỉnh táo, bớt đau ngực và tay, và c̣n có thể lấy smart phone ra trả lời ngắn gọn một hai emails.

Lạ một điều là tâm động đồ làm mấy lần đều không có dấu hiệu heart attack rơ ràng. Sau này bác sĩ giải thích rằng bắp thịt tim tôi chưa bị hư hại và c̣n hoạt động mạnh dù bị attacked, có lẽ nhờ vào việc tôi bơi lội thường xuyên (tôi thường bơi 40 đến 60 chiều dài hồ bơi trong một giờ, một hai lần mỗi tuần - nhưng từ sáu tháng nay bận nhiều việc quá nên chuồn, không bơi, không tập thể dục ǵ hết!).

Khoảng 3 giờ chiều th́ bác sĩ chuyên khoa tim quyết định làm phẫu thuật thông mạch máu tim (angioplasty). Theo kỹ thuật này, bác sĩ cắt một lỗ rất nhỏ ở mạch máu gần háng hay cổ tay - trường hợp của tôi bác sĩ cắt ở cổ tay - rồi luồn một camera cực nhỏ ở đầu một catheter (ống mềm rất mảnh) đưa vào đến động mạch tim. Camera sẽ chiếu lên màn ảnh computer lớn như TV cỡ 60" để cho thấy chỗ bị tắc nghẽn. Khi đó tôi vẫn tỉnh, chỉ hơi mơ mơ buồn ngủ do được chích thuốc an thần, không làm mê hoàn toàn, và không cảm thấy đau đớn ǵ hết. Khi t́m ra chổ mạch máu nghẽn, bác sĩ sẽ "bắn" cho cục máu đông (blood clot) tan ra, rồi đẩy một "bong bóng" (balloon) vào chỗ đó, xong bơm cho bong bóng căng lên, làm phồng khúc mạch máu nghẹt khiến cho máu thông dễ dàng, trước khi x́ hơi bong bóng, c̣n để lại một "giàn lưới" (stent) h́nh ống, nằm lót bên trong nhằm căng khúc mạch máu đó ra. Lưới sẽ nằm vĩnh viễn trong mạch máu tim, nên bệnh nhân sẽ phải uống thuốc làm loăng máu dài dài, nếu không, máu đông có thể kẹt vào đó làm heart attack nữa!

Cuộc giải phẫu, ban đầu dự tính chừng 45 phút, đúng hai giờ mới xong! Mà vẫn c̣n hai mạch máu nữa chưa được thông, nên vài tuần nữa tôi sẽ phải vào bệnh viện làm tiếp. Tuy nhiên, lần sau sẽ dễ dàng hơn nhiều, có thể làm xong trong ngày, trừ khi tôi để cho bị heart attack nữa. Sau khi mạch máu tim được thông, tôi cảm thấy dễ chịu ngay lập tức. Hai cánh tay hết mỏi ră rời, ngực hết tức, nhịp thở gần b́nh thường trở lại.

Bác sĩ đă mổ từ mạch máu ở cổ tay tôi, luồn vào tim, nên tôi mau hồi phục hơn là mổ từ dưới háng. Sau ba ngày, mở băng ra, cổ tay tôi chỉ c̣n vết đóng vảy cỡ như bị con kiến lửa cắn rồi ḿnh găi ra mà thôi! Tuy nhiên, dọc theo cánh tay có vết bầm phía bên trong, chắc là do đường ống luồn qua gây nên. Không đau đớn ǵ cả. Tim không có cảm giác ǵ mới lạ, vẫn yêu, thương, hờn, giận... như thường! Đặc biệt là sau khi được thông mạch máu tim, huyết áp của tôi xuống và nằm ở mức rất tốt, rất ổn định. Bác sĩ giải thích là do mạch máu được thông nên tim đỡ phải làm việc nhiều, không cần bơm máu mạnh như trước nữa, nên áp suất nén vào thành mạch máu cũng giảm đi. Thật là một công đôi việc!

Qua tai biến này, tôi rút ra được vài kinh nghiệm quư báu như sau, xin được chia sẻ cùng Diễn Đàn:

Thứ nhất: B̀NH TĨNH MÀ RUN! Đúng vậy, ai mà không run khi nghĩ đùng một cái ḿnh đang bị một trong hai chứng bệnh giết người nhiều nhất và nhanh chóng nhất: Heart attack đứng đầu, stroke thứ ba, chỉ sau ung thư. Nhưng phải thật b́nh tĩnh và tỉnh táo để không lăng phí từng giây phút và làm bệnh thêm trầm trọng.

Thứ hai: NGƯNG MỌI HOẠT ĐỘNG VÀ ĐỂ Ư NGAY KHI CÓ TRIỆU CHỨNG LẠ THỨ NHẤT (trường hợp tôi là toát mồ hôi dù buổi sáng khá lạnh). Nếu đang lái xe, cần phải t́m chỗ an toàn đậu lại ngay. Chú ư: Nếu có cell phone, luôn luôn mang bên ḿnh, không để trong cặp hay giỏ đàng sau cóp xe.

Thứ ba: GỌI CẤP CỨU NGAY KHI CÓ NHIỀU HƠN MỘT TRIỆU CHỨNG LẠ CỦA STROKE HAY HEART ATTACK (thí dụ: cánh tay mỏi ră, tức ngực, ngay sau khi toát mồ hôi). Ở Mỹ: Không nên nhờ người nhà chở vô nhà thương, mà phải gọi 911. Lư do: bệnh viện có bổn phận phải cấp cứu ngay lập tức khi tiếp nhận một bệnh nhân do 911 đưa tới. Người paramedic đưa ḿnh tới phải chờ cho đến khi thấy ḿnh được chăm sóc bởi bác sĩ, rồi mới đi được. Nếu ḿnh tự tới xin cấp cứu, trừ khi bị thương máu me đầm đ́a như bị đụng xe, c̣n không sẽ phải làm nhiều thủ tục và chờ đợi trước khi được cấp cứu. Nếu bị
stroke hay heart attack mà mất chừng 15 phút là nguy lắm rồi.

Thứ tư: CỐ GẮNG PHÂN BIỆT CÁC TRIỆU CHỨNG GIỮA STROKE VÀ HEART ATTACK. Khi chuyên viên cấp cứu đến nhà, cố gắng trả lời rơ ràng sao cho họ có thể hướng sự cấp cứu về một loại tai biến: Stroke hay Heart Attack. Lư do: những giây phút cấp cứu đầu tiên là cực kỳ quan trọng. Nếu không phải stroke v́ máu nghẽn, mà v́ đứt mạch máu, nhức đầu mạnh, mạch máu chính trên đầu bị bể, mà nhân viên cấp cứu cho thêm aspirin làm loăng máu, nitroglycerin làm giăn mạch... th́ tiêu luôn tại chỗ! Theo các bác sĩ, khi thiếu máu vào nuôi, tế bào óc sẽ chết mau hơn tế bào tim nhiều. Do đó, nếu nhân viên cấp cứu tin là bệnh nhân bị stroke do đứt, bể mạch máu th́ nhiều phần là họ sẽ lo chở bệnh nhân vào bệnh viện thật sớm (bây giờ ở Mỹ và các nước tiên tiến có thuốc chích có thể hồi phục stroke, nếu được chích trong ṿng một, hai giờ kể từ khi có triệu chứng đầu tiên, càng sớm càng tốt.) Nếu tin là heart attack th́ họ sẽ thử làm cho máu loăng và mạch nở tại chỗ, mất chừng 10 phút trước khi họ chở đi. Mười phút phù du đầu tiên đó quư giá bằng 10 năm hay có thể bằng cả quăng đời c̣n lại!

Thứ năm: Trong bệnh viện, cần TỈNH TÁO (khi c̣n có thể), NÓI CHUYỆN NH̀ỀU với y tá, bác sĩ (không hiểu th́ yêu cầu người thông dịch). Đặt câu hỏi mỗi khi nhân viên y tế làm bất cứ thủ thuật nào trên cơ thể ḿnh. Thí dụ: Chích thuốc này làm ǵ? Tại sao cần chụp X-ray ngực hai lần trong ṿng vài giờ khi t́nh trạng không có ǵ thay đổi? - Nhờ hỏi mà tôi tránh được 1 lần X-ray vô ích do lỗi của y tá, người ca trước đă làm, người ca sau lại định làm nữa!

Thứ sáu: Khi đă lên bàn phẫu thuật mà không bị đánh thuốc mê th́ hăy quên hết mọi sự, mà chỉ NGHĨ VỀ CHUYỆN VUI, như chuyện trên Diễn Đàn THTĐ, mặc kệ họ làm ǵ th́ làm! Chẳng có ǵ phải lo lắng nữa!

Vài hàng chia sẻ cùng thầy cô và anh chị em.

florida80
04-10-2019, 18:30
TOA THUỐC VÀ CHUYÊN MÔN, Y ĐỨC
Bác sĩ Nguyễn Hữu Tùng


Kê toa thuốc là công đoạn cuối cùng trong quy tŕnh khám bệnh. Việc cho toa thuốc có phù hợp với bệnh lư, đem lại an toàn cho người bệnh hay không phụ thuộc vào nhiều nguyên nhân: khả năng chuyên môn của bác sĩ; kinh nghiệm chuyên môn, nghệ thuật phối hợp thuốc của bác sĩ; sự hiểu biết về dược lư, về tác dụng chính, tác dụng phụ của thuốc, cũng như hiểu cả cách xử trí khi có tác dụng phụ xảy ra...

Nhưng đáng nói là, việc cho toa thuốc đôi lúc c̣n tùy thuộc vào mục đích của bác sĩ (BS). Có những BS luôn trau chuốt danh dự nghề nghiệp của ḿnh qua từng toa thuốc, cân nhắc kỹ lưỡng, hỏi bệnh nhân kỹ càng, kể cả về điều kiện kinh tế của từng bệnh nhân trước khi đặt bút kê toa. Nhưng cũng có những BS lấy toa thuốc làm phương tiện để kiếm tiền. Thực tế cho thấy có những BS liên kết với các nhà cung cấp thuốc, các hăng dược phẩm trong việc kê toa thuốc. Lúc này, người BS kê toa “chạy theo” theo nhà cung cấp thuốc, mà quên mất lợi ích, an toàn cho người bệnh.

Hậu quả của việc cho toa thuốc không phù hợp là bệnh tật không khỏi, hoặc bệnh t́nh kéo dài (ở trường hợp này bệnh chưa được chẩn đoán xác định mà toa thuốc vẫn được kê, đa phần là do BS yếu chuyên môn, tay nghề, việc chẩn đoán bệnh bị sai lệch). Có những toa thuốc rất đắt tiền, do BS cho toàn thuốc thế hệ mới, biệt dược mới, nhất là thuốc kháng sinh, bệnh có thể hết nhanh nhưng cũng chóng lờn thuốc. Trường hợp này rơi vào BS mới ra nghề, hoặc BS muốn khai thác kinh tế, hay muốn nổi tiếng với người bệnh… Dù nguyên nhân thế nào, người bệnh cũng “lănh đủ”, thiệt hại về kinh tế, sức khỏe, có trường hợp thậm chí nguy hiểm đến tính mạng.

Một yếu tố khác liên quan đến toa thuốc cũng cần đề cập v́ nó khá phổ biến, đó là thực trạng chữ viết cẩu thả của BS. T́nh trạng BS viết toa thuốc mà người bệnh đọc không ra là sai quy định của ngành, đồng thời thể hiện vô trách nhiệm với người bệnh, bởi bệnh nhân có thể mua nhầm, hoặc uống nhầm thuốc, rất nguy hiểm. Nhiều BS viết toa thuốc cẩu thả cũng khiến dư luận cho rằng mục đích là muốn giữ chân bệnh nhân phải mua thuốc ở cơ sở của ḿnh.

Nói những điều trên để thấy rằng, từng toa thuốc đă thể hiện cả chuyên môn và y đức của người BS. Cho nên cần nâng cao tay nghề, xây dựng giá trị bản thân, luôn nghĩ về nghề của ḿnh cứu người bệnh là chính, chứ không phải chú tâm làm thương mại. Tài sản không là chuẩn mực để đánh giá người BS.

florida80
04-10-2019, 18:31
"ĐĨA CƠM TRÊN TƯỜNG"


Bạn có biết: "ly cafe trên tường"
Bacsi Khoa Tamthankinh:

Trong một quán cà phê nổi tiếng tại một thị trấn lân cận của Venice, Ư . Khách lạ vào quán rất ngạc nhiên khi thấy 1 người bước vào kêu 2 ly cf, một cho anh ta và "1 ly cafe trên tường". Uống xong anh trả tiền 2 ly, người phục vụ sau đó dán trên tường 1 mẫu giấy "1 ly cafe". Một lát sau 1 cặp đôi vào quán và kêu 2 ly cf và 1 ly trên tường, dĩ nhiên là họ trả tiền 3 ly nhưng chỉ uống 2 ly, khi họ đi khỏi th́ người phục vụ lại dán trên thường mẫu giấy "1 ly cf". Hồi sau, 1 người ăn mặc có vẻ tồi tàn bước vào và chỉ vào mảnh giấy trên tường và gọi 1 ly cf, người phục vụ bưng cho ông ta 1 ly cf với tất cả sự tôn trọng và sau đó gỡ bỏ mảnh giấy "1 ly cf" được dán trên tường

Bây giờ th́ chắc các bạn đă hiểu, đó là cách làm bố thí mà cả người cho lẫn người nhận đều không biết nhau. Quán cf trên nỗi tiếng kg phải v́ cf ngon hay sang trọng, nó nỗi tiếng v́ "ly cf trên tường"

Viết tiếp câu chuyện "dĩa cơm trên tường"
Bacsi Khoa Tamthankinh

Trong 1 phiên trực lănh đạo cách nay mấy năm, có BN tử vong, liên hệ thân nhân xong, thấy thân nhân quá nghèo, cậu y tá nói: em biết 1 trại ḥm có ḥm từ thiện, bác viết ít chữ, rồi điều xe hồng cho em đi lấy.

Xong việc, hỏi cậu nhân viên: sao em biết chổ đó mà xin?

Nó nói: có nhiều trại ḥm, hoặc là chủ tiêm tận dụng gỗ thừa làm vài cái để dành cho người nghèo hoặc là có người khá giả nào đó tài trợ mua rồi gởi nhờ ở chủ trại ḥm. Ông chủ trại ḥm cho biết có 1 bà khá giả, đặt làm 1 lúc 10 cái rồi gởi ở tiệm ông, ai nghèo đến xin th́ cho. Khi nào hết th́ bả đưa tiền làm tiếp 10 cái, lúc em đến lấy thấy c̣n 4-5 cái. Việc này họ làm lâu nay rồi, không phải mới đây đâu bác

Như vậy cái này gọi là ǵ ta? "cái ḥm trên tường" chăng? Không quan trọng ở tên gọi, quan trọng là ở tấm ḷng . Người SG là vậy đó

P/S: đang suy nghĩ về "dĩa cơm trên tường" bạn nào có ư kiến góp ư để thực hiện xin PM

Cách làm là phi tập trung và cần trăi rộng, mỗi quán chỉ cần 5-10 dĩa mỗi ngày nhưng tôi thích có 1000 quán cơm như vậy, và mỗi người chúng ta tùy theo khả năng có thể tặng từ 1-7 dĩa/tuần là tốt lắm rồi.Tui rất vui ḷng ăn trưa tại 1 quán chỉ 15k, trả tiền 30k bằng giá tại 1 quán cơm trưa văn pḥng, nhưng sẽ có 1 người nghèo khổ nào đó được no bụng cùng với tôi. OK? chúng ta ăn để sống chứ đâu có sóng để ăn. Ai ủng hộ ư tưởng này th́ cho biết ư kiến, và PM nếu có ư kiến ǵ khác để chúng ta cùng thực hiện

Thông báo: gởi đến các bằng hữu trên fb
Bacsi Khoa Tamthankinh

Tôi có 1 ư tưởng sao chép từ câu chuyện "ly cf trên tường" tại 1 thị trấn gần Venice-Ư. Tôi dự định làm "dĩa cơm trên tường" tại 1000 quán cơm b́nh dân ỏ SG.

Ư tưởng của tôi là: chúng ta không mở 1 quán cơm từ thiện giống như quán cơm 2000 v́ phải t́m mặt bằng và tốn nhân công. Việc duy tŕ khá tốn kém và khó huy động sự đóng góp v́ không lẽ góp vài chục ngàn. Nhưng nếu chúng ta thương lượng với chủ quán cơm b́nh dân gần nhà hay gần nơi làm việc. Khi chúng ta ăn 1 dĩa cơm 15-20k, th́ chúng ta trả tiền 2 dĩa và yêu cầu họ phục vụ cho bất cứ người nghèo nào mà họ thấy là người đó thật sự cần 1 bữa ăn. Chúng ta thay v́ ăn 1 bữa ăn trưa văn pḥng hết 30-40k th́ chúng ta ăn tại 1 quán b́nh dân 15-20k. Chúng ta trả tiền 2 dĩa cơm b́nh dân cũng chỉ tương đương 1 dĩa cơm tại quán có máy lạnh nhưng sẽ có 1 người nghèo hay người cơ nhỡ có 1 bữa no bụng giống như chúng ta. Rất ít người có thể góp 500k hay 1tr cho quán cơm 2000, nhưng nếu góp 1-2 dĩa cơm/15k/tuần th́ tôi nghĩ là sẽ có rất nhiều người sẳn ḷng. Điều kiện duy nhất dành cho chủ quán là sự chân thật và tôn trọng người được chúng ta mời 1 bữa cơm

Ư tưởng của tôi là vậy, các bạn có cao kiến ǵ để thực hiện tốt việc này xin góp ư cho tôi. Tôi dự định thực hiện ở SG trước, nếu thành công chúng ta sẽ tiến đến tất cả các tỉnh để tất cả mọi người đều có thể làm từ thiện theo khả năng của ḿnh v́ từ đó giờ việc làm từ thiện gần như là độc quyền của người giàu có và quan trọng hơn, người nghèo có 1 bữa cơm mà họ không có mặc cảm của 1 người ăn xin (nên nhớ người nghèo rất mặc cảm và ḷng tự trọng rất cao). Tôi dự định tổ chức 1 buổi góp ư kiến tại SG, vào ngày thứ 7 hay CN tuần tới 14-15/02/2015 tại 1 quán cf nào đó có giá tương đối rẻ nhưng rộng răi (tiết kiệm để dành mua 1 dĩa cơm trên tường). Chi phí buổi họp mặt sẽ do tôi đài thọ
Trân trọng

BS Huỳnh Thanh Hiển, 0903717221, các bạn tham dự xin gởi tin nhắn cho tôi
P/S: bạn nào biết có quán cf nào đáp ứng yêu cầu: rộng răi và rẻ xin giới thiệu giúp
Đa tạ

florida80
04-10-2019, 18:33
CHĂM CON KHỎE ĐỂ GỬI VÀO… TRẠI MỒ CÔI


TP - Là những câu chuyện buồn nối tiếp trong bệnh viện Phụ sản – Nhi Đà Nẵng. Không một bác sĩ, y tá nào muốn dốc ḷng nâng “con” như trứng, để khi con cứng cáp rồi lại phải bất lực gửi vào những trại trẻ mồ côi. Đó là những em bé vừa chào đời khi bị chính mẹ cha ruồng bỏ…


UserPostedImage

Ngày cuối bé B́nh được nâng niu trong ṿng tay của các mẹ trước khi phải vào trại trẻ mồ côi. Ảnh: Thanh Trần


TẠM BIỆT BÉ B̀NH

Chiều 25/11, không khí trong khoa Nhi sơ sinh như chùng xuống. Chuyện được các nữ hộ sinh, điều dưỡng nhắc tới nhiều nhất là cuộc chia tay bé B́nh vào ngày mai. Đang bận, nhưng chốc chốc các chị lại ngoái đầu ra phía hành lang hỏi: B́nh về chưa? Rồi th́ thầm với nhau tối nay tranh thủ ngủ với con, mai con đi rồi, nhớ lắm.

16g30, bé B́nh được một nữ hộ sinh bồng về. Vừa tới pḥng trực, bé giơ tay đ̣i ùa vào ḷng các “mẹ”, miệng cười thích thú để lộ mấy chiếc răng bé xíu. Chị Hoàng Thị Thanh Tâm - Điều dưỡng trưởng khoa Nhi sơ sinh, rầu rĩ nói với con: “Buổi cuối được các mẹ đón về, B́nh ơi!”.

Khuya 20/12 năm trước, bệnh viện tư Tâm Trí Đà Nẵng chuyển đến bệnh viện Phụ sản - Nhi bé gái một ngày tuổi nặng chỉ 2.5kg, bị nhiễm trùng sơ sinh, da vàng, suy hô hấp. Các bác sĩ pḥng Nhi sơ sinh lập tức tiếp nhận và điều trị cho bé. Lạ một nỗi, từ khi bé vào viện cho đến khi b́nh phục, không có bất cứ một người thân nào tới thăm nom, nuôi dưỡng.

Rà soát thủ tục nhập viện, thấy có đầy đủ tên của ba mẹ bé là Vương C. và Nguyễn Thị B., hiện trú tại huyện B́nh Sơn, Quảng Ngăi. Bệnh viện nhờ công an địa phương xác minh, tới nay bé đă gần một tuổi vẫn không có bất kỳ động thái nào từ gia đ́nh.

Hôm bé tṛn tháng, các nữ hộ sinh, điều dưỡng đặt cho bé tên B́nh, với mong ước sau này bé sẽ b́nh yên. Các chị cũng tự cho ḿnh lên thiên chức làm “mẹ”. B́nh ở chung pḥng với các mẹ, sáng sớm có mẹ thay đồ, chở đi ăn, đến trường. Buổi chiều, khi mẹ khác trên đường tới bệnh viện sẽ tạt ngang trường đón B́nh về. Mẹ nào vừa nghỉ ca sẽ tắm rửa, cho B́nh uống sữa. Các mẹ tự góp tiền mua quần áo, đồ ăn, sữa, lo học phí cho B́nh.

Khi bé chập chững bước, các mẹ mua thêm một chiếc xe tập đi cho bé. Nhưng từ ngày biết ngồi vào xe cḥi đạp tới nay, chiếc xe ấy vẫn chưa lăn ra khỏi Khoa Nhi sơ sinh của bệnh viện. Ngày nghỉ, B́nh quẩn quanh trong pḥng trực hết ngồi trên chân mẹ này lại nằm trong ṿng tay mẹ khác. Lúc các mẹ quá bận, B́nh tự chọi xe chạy dọc dăy hành lang, hoặc nép bên ghế mẹ ngồi làm việc.

Hơn 11 tháng trời, B́nh cứng cáp, bệnh viện liên hệ với Trung tâm nuôi dưỡng trẻ em mồ côi (quận Hải Châu, Đà Nẵng) tới đón B́nh. Nghe tin, các mẹ buồn xo. “B́nh ăn dễ, ngủ dễ nhưng mỗi tội thèm … được bồng. Miễn thấy ai đi qua là đưa tay đ̣i, ngồi một ḿnh là khóc ré lên liền. Bây giờ về bên ấy, trẻ th́ nhiều, mẹ th́ ít, thể nào B́nh cũng khóc suốt cho coi”, chị Tâm ứa nước mắt nói.

B́nh không phải là em bé đầu tiên bị bỏ rơi, nhưng là em bé đầu tiên ăn ngủ cùng các mẹ, được các mẹ cho đi học. Mỗi ngày B́nh lớn lên là một kỷ niệm trong ḷng những nữ hộ sinh, điều dưỡng. “Chị em coi B́nh có khác ǵ con ruột đâu. Gửi bé vào trung tâm th́ tội, nhưng biết làm sao được nữa, môi trường bệnh viện đâu có tốt cho bé, nhất là khi sống trong khoa điều trị bệnh”, một nữ điều dưỡng nói.


UserPostedImage

Các bác sĩ, y tá tận t́nh chăm sóc những em bé bất hạnh như con ḿnh.


PHÓ MẶC CHO BỆNH VIỆN

Trong khoa Nhi sơ sinh, ngoài trường hợp của B́nh c̣n có nhiều em bé cũng bị cha mẹ bỏ rơi. Bé Ánh được chị Nguyễn Lê Hồng Ánh (cán bộ phường Ḥa Cường Bắc, quận Hải Châu) phát hiện bị bỏ rơi gần Trung tâm văn hóa thành phố. Ánh được quấn trong một chiếc khăn, cả người tím tái, hơi thở yếu ớt. Chị Ánh lập tức đưa tới bệnh viện, các bác sĩ phát hiện bé bị năo úng thủy. Đă hơn một năm trời, bé vẫn nằm trong pḥng điều dưỡng, đầu to dị thường, áp lực trong năo tăng cao nên bé khóc suốt ngày, hôm nào cũng phải uống ba lần thuốc giảm đau. Bé cũng không đứng, ngồi được, thành thử việc chăm bé rất khó khăn, mỗi lần tắm rửa phải có người đỡ đầu, người giữ chân.

Bên cạnh nôi bé Ánh là hai bé trai, là bé Sơn và bé Lê. Cả hai cũng cùng mang bệnh năo úng thủy. Từ khi nhập viện và phát hiện bệnh, gia đ́nh hai bé vẫn không hề liên lạc nhận con. Các điều dưỡng phải thay nhau trực và chăm sóc cả ngày lẫn đêm.

Cái chết của bé Nguyệt mới đây vẫn c̣n nhức nhối cả bệnh viện. Cũng như bé Ánh, Nguyệt vừa chào đời đă mang chứng năo úng thủy. Mẹ Nguyệt nh́n đứa con đỏ hỏn dị thường liền dứt ruột bỏ đi. Sức khỏe của bé ngày một xấu, bệnh viện liên hệ mẹ bé đến chăm sóc và cho bú sữa, mẹ bé cắn răng bảo nhà nghèo quá, con bệnh nặng thế kia đưa về không có tiền chữa trước sau ǵ cũng chết. Giờ nhắm mắt bỏ con lại, các bác sĩ chăm sóc hay cho ai th́ tùy…

Nhiều trường hợp, con hoàn toàn khỏe mạnh nhưng những bà mẹ vẫn không hề muốn nuôi. Cách đây không lâu, camera căng tin bệnh viện ghi lại h́nh ảnh một phụ nữ bồng con chưa rụng rốn ngồi ăn cơm trưa. Cùng lúc, một cặp vợ chồng dẫn con đi khám bệnh vào ngồi chung bàn, người phụ nữ trên sang nhờ bế con để đi vệ sinh, nhưng cả tiếng sau vẫn không quay lại. Đôi vợ chồng phải mời công an tới lập biên bản, đưa bé lên pḥng dưỡng nhi và được bệnh viện nuôi dưỡng cho tới bây giờ.

Bé Thảo, hiện đang ở tại khoa Sản có lẽ là em bé chịu số phận bi kịch nhất. Em có đủ cha mẹ, hoàn toàn khỏe mạnh nhưng vẫn bị bỏ rơi chỉ v́ em là đứa thứ ba mà vẫn là con gái. Các bác sĩ kể khi sinh ra, hay tin lần này tiếp tục là con gái, cha em lạnh lùng bỏ hai mẹ con ở lại, hôm sau mẹ em cũng nhẫn tâm bỏ đi luôn. Bây giờ, Thảo đă hơn sáu tháng tuổi, da trắng ngần, đôi mắt to tṛn rất đáng yêu. Thảo sống trong ṿng tay của các mẹ ở khoa sản, từ miếng cháo, b́nh sữa hay bộ đồ, đều do các mẹ quyên tiền lại mua.


UserPostedImage
Bị cha mẹ ruồng bỏ bởi không phải là con trai, nhưng bé Thảo may mắn được sống trong ṿng tay của những người mẹ khoác áo blouse trắng
Ảnh: Thanh Trần.


MONG CÁC TRUNG TÂM BẢO TRỢ SỚM NHẬN TRẺ

Trong các hồ sơ về việc trẻ bị bỏ rơi, họ tên của các em đều rất mập mờ. Trai Sơn, Trai Lê, Gái Huệ, Gái B́nh…là gọi theo giới tính và tên của ba, mẹ, thậm chí là của người phát hiện và bế các em vào viện. Những em không biết được nguồn gốc gia đ́nh th́ gọi tạm Trai Rơi, Gái Rơi. Chị Nguyễn Ánh Cẩm Nguyên - Pḥng tổ chức hành chính của bệnh viện, cho biết: “Bất kỳ trẻ bị bỏ rơi nào được bệnh viện tiếp nhận, chúng tôi cũng làm tờ tŕnh gửi công an xác minh, tuy nhiên phần lớn không tới nhận lại con ḿnh. Một số trường hợp c̣n khai man địa chỉ”.

Sống trong bệnh viện, các bé chỉ biết những người mẹ khoác áo blouse, chơi đùa trên giường bệnh. Bé nào may mắn, th́ được các tổ chức hảo tâm tặng cho con thú bông để ôm ngủ. Có lẽ, một lần được hóng khí trời đối với các bé cũng là xa xỉ.

Bác sĩ Nguyễn Sơn - Phó GĐ Bệnh viện Phụ sản - Nhi Đà Nẵng, tâm sự: “Môi trường bệnh viện hoàn toàn không tốt, các em càng ở lâu th́ nguy cơ lây nhiễm bệnh càng cao. Với những bé khỏe mạnh, mong các Trung tâm bảo trợ tạo điều kiện đến đón các em về chăm sóc, nuôi dưỡng càng sớm càng tốt”. Bác sĩ Sơn cũng cho biết thêm sau khi về Trung tâm, các bé gặp vấn đề về sức khỏe, bệnh viện sẽ hỗ trợ điều trị cho các bé.


Quote:
Tất cả các em nhỏ bị bỏ rơi đều được bệnh viện chăm sóc, nuôi dưỡng, theo dơi sức khỏe. Khi các em b́nh phục sẽ gửi vào các Trung tâm nuôi dưỡng trẻ em mồ côi. Từ năm 2012 tới nay, bệnh viện đă gửi sang các trung tâm 14 trẻ. Các em đều khỏe mạnh, phát triển b́nh thường. Những trường hợp bị bệnh nặng không thể can thiệp được nữa, bệnh viện sẽ để các em nằm lại và tiếp tục chăm sóc theo phương châm “c̣n nước c̣n tát”.

florida80
04-10-2019, 18:34
CÀNG CAO TUỔI CÀNG CẦN ĂN NGON - BS Lương Lễ Hoàng


blank

CÀNG CAO TUỔI CÀNG CẦN ĂN NGON


Chúng ta sống đến tuổi nầy là may mắn lắm rồi! Nên ăn những ǵ chúng ta thích, đừng hà tiện nữa! Để dành tiền cho con cháu biết bao nhiêu cho đủ? Hơn nữa, chúng nó có bằng cấp, có công việc tốt, chúng nó hẵn nhiên là giàu có hơn ḿnh th́ tại sao ḿnh lại hà tiện, chắt chiu để dành cho chúng biết bao nhiêu cho đủ? (C̣n ăn được th́ cứ ăn cho thỏa thích, một mai răng rụng hết chỉ c̣n nh́n mà hít hà thôi!)
Tuy không hẳn v́ bất hiếu nhưng do định kiến là người cao tuổi không cần ăn nhiều nên không thiếu người già bị rơi vào t́nh trạng suy dinh dưỡng một cách oan uổng! Thêm vào đó là nhiều người lớn tuổi phải kiêng cữ, thường khi thái quá do con cháu ép buộc v́ bệnh tiểu đường, cao huyết áp, tăng mỡ trong máu…
Vấn đề chưa dừng lại ở điểm cơ thể người cao niên v́ thế mà thiếu dưỡng chất. Nguy hơn nhiều là do đó mà sức đề kháng bị xói ṃn khiến bệnh bội nhiễm cũng như bệnh do thoái hóa cơ khớp trở thành mối đe dọa thường xuyên cho cơ thể vốn vừa nhạy cảm, vừa dễ thiếu nước khi tuổi đời chồng chất. Nếu xét về mặt dược lư, bữa ăn của người cao tuổi thậm chí quan trọng không kém viên thuốc đặc hiệu.
Quan điểm theo đó, người cao tuổi phải e dè với từng miếng ăn là một sai lầm nghiêm trọng. Nhiều công tŕnh nghiên cứu trong thời gian gần đây cho thấy h́nh thức ăn uống dồi dào rau cải tươi, nhiều cá biển và nhất là ngon miệng là chế độ dinh dưỡng lư tưởng cho người già.
Bằng chứng là người cao tuổi ở Địa Trung Hải ít bị nhồi máu cơ tim nhờ khẩu phần đa dạng với thực phẩm “xanh” chiếm tối thiểu 60% tổng lượng. Bằng chứng là người Nhật có tuổi thọ cao nhất thế giới nhờ thực đơn hầu như không bao giờ thiếu cá biển và đậu nành. Ngược lại, người cao tuổi trong các nhà dưỡng lăo ở Hoa Kỳ, nơi chế độ ăn uống kiêng cữ được đặt lên hàng đầu lại có tỷ lệ tai biến mạch máu năo và tử vong v́ nhồi máu cơ tim vượt xa các nước khác!
Từ nhận thức đó, thay v́ tiếp tục đề cao h́nh thức kiêng khem, đa số chuyên gia dinh dưỡng ở khắp nơi đă đồng ḷng tán dương chế độ dinh dưỡng mang nhiều nét “đổi mới” cho người già dựa trên các nguyên tắc như sau:
• Người cao tuổi nên ăn tất cả những món ưa thích và ngon miệng, miễn là với lượng không gây trở ngại cho chức năng tiêu hóa.
• Khẩu phần hàng ngày càng đa dạng càng tốt, càng ít thực phẩm công nghệ càng hay.
• Chắc chắn uống đủ nước trong ngày bằng cách chú trọng các món cung cấp nước như rau trái, món canh… thay v́ uống nước v́ nhiều người già thường chỉ uống khi khát.
• Đừng nấu cho người cao tuổi các món ăn tuy bổ dưỡng về thành phần nhưng với khẩu vị nuốt không vô! Đừng quên cảm giác ngon miệng là đ̣n bẩy cho sức kháng bệnh.
• Không nhất thiết phải cữ muối tuyệt đối nếu không có y lệnh của thầy thuốc trong giai đoạn bệnh tim mạch cấp tính.
• Không nên thiếu món ngọt nếu thực khách chưa bị bệnh tiểu đường.
• Luôn luôn có rau quả tươi trong khẩu phần.
• Nên có nhiều bữa ăn nhỏ thay v́ ngày ba bữa đúng giờ.
• Một ly rượu vang cho mỗi bữa ăn là điều nên làm.
• Chỉ tránh các món ăn gây dị ứng, món chiên xào nếu đă có bệnh trên đường tiêu hóa như viêm đại trường măn, viêm ruột dị ứng, trĩ…
• Có bữa cơm gia đ́nh cùng con cháu thay v́ ăn riêng trong buồn tẻ như người bệnh nặng.
• Vận động nhẹ trước và sau bữa ăn.
Con cháu nếu biết thương ông bà đừng quên là các nhà nghiên cứu ở Hoa Kỳ vừa chứng minh hẳn ḥi là: người cao tuổi nếu có da có thịt một chút nghĩa là dư cân, ít bị bệnh và sống thọ hơn bạn đồng niên ḿnh hạc xương mai.
Lượng mỡ dưới da, tất nhiên không nhiều, chính là kho dự trữ dưỡng chất để đáp ứng cho nhu cầu phục hồi của cơ thể người cao tuổi mỗi lần ngă bệnh.
Không cho người già ăn no bụng và ngon miệng là một điều đáng trách cả về lư lẫn về t́nh.

BS Lương Lễ Hoàng






Trước

Sau


In Trang

florida80
04-10-2019, 18:36
Bệnh Ung Thư Nhủ Hoa hay Ung Thư Vú- Bác Sĩ Nguyễn Hải Châu và Vơ Quách thị Tường Vi

15 Tháng Giêng 20151:49 CH(Xem: 4936)









Bệnh Ung Thư Nhủ Hoa hay Ung Thư Vú

Bác Sĩ Nguyễn Hải Châu và Vơ Quách Tường Vi

Mấy thập niên gần đây chúng tôi nhận thấy sát xuất của bệnh ung thư nhủ hoa hay ung thư vú của chị em phụ nữ người Mỹ gốc Việt đă gia tăng nhiều khi so với những năm đầu tiên khi chúng ta mới bắt đầu qua Mỹ.

Hiện nay trên thế giới có 5 loại ung thư mà dễ gây thiệt hại đến tính mạng cho phụ nữ là (theo thứ tự nhiều nhất): ung thư vú, ung thư phổi, ung thư dạ dày , ung thư ruột, và ung thư tử cung .
Ung thư nhủ hoa hay vú là loại ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ và đứng hàng thứ hai, chỉ sau ung thư phổi, gây tử vong hàng đầu trong số các bệnh ung thư phụ nữ ở Hoa Kỳ. Một trong tám phụ nữ sẽ bị ung thư vú.
Ở Mỹ, Trung tâm kiểm soát dịch bệnh (Center of Control Disease hay CDC) ước tính hơn 192.370 phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú mỗi năm, và số lượng các trường hợp mới đă giảm trong thập niên qua. Hơn 40.000 phụ nữ bị tử vong với căn bệnh này hàng năm.
Đàn ông có thể phát triển bệnh ung thư vú, nhưng nó xảy ra ít hơn nhiều so với phụ nữ. Gần 2.000 người được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú mỗi năm. Ung thư vú là loại ung thư đứng hàng đầu của phụ nữ ở trong các nước phát triển và đang phát triển. Tỷ lệ mắc bệnh ung thư vú đang gia tăng tại các nước đang phát triển do tăng tuổi thọ, tăng đô thị hóa và áp dụng lối sống phương Tây. Mặc dù một số giảm nguy cơ có thể đạt được bởi pḥng chống bệnh trước, nhưng các chiến lược này không thể làm giảm đi phần lớn các bệnh ung thư vú phát triển ở các nước thu nhập thấp và thu nhập trung b́nh, nơi ung thư vú được chẩn đoán ở giai đoạn rất muộn. V́ vậy, phát hiện sớm để nâng cao kết quả chống lại ung thư vú và sống sót vẫn là nền tảng kiểm soát ung thư vú. Riêng về người phụ nữ Việt ḿnh đang sống trên nước Mỹ th́ nguy cơ để bị ung thư vú cũng trên đà phát triển. Nghiên cứu của tiến sĩ Hồ (2006) cho thấy là phần lớn ung thư vú của phụ nữ gốc Việt, khi t́m ra, th́ đă ở vào thời kỳ sau cùng, ung thư đă lan tràn nhiều nơi nên kết quả chữa trị cũng không được tốt đẹp cho lắm. Và cũng có một điều hơi bất ngờ với việc nghiên cứu này là các phụ nữ gốc Việt bị ung thư ở tuổi rất trẻ, dưới 50 tuổi. V́ vậy việc sàng lọc và chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ người Việt lại thêm phần quan trọng và nên khuyết khích trong cộng đồng.

Sơ lược về vú
nhủhoa1

Bầu vú gồm có các tuyến tạo sữa (gọi là tiểu thùy), các ống cực nhỏ dẫn sữa tới núm vú (gọi là tiểu quản), và mô mỡ. Đa số trường hợp ung thư vú đều bắt đầu trong các tế bào niêm lót tiểu quản. Đó gọi là ung thư tiểu quản. Những trường hợp khác bắt đầu tại tế bào niêm lót tiểu thùyvà gọi là ung thư tiểu

thùy. Phần c̣n lại bắt đầu từ những mô khác ở vú.

Ung thư vú là Bệnh ǵ?

Trước khi nói về Ung thư vú, điều cần thiết và quan trọng là chúng ta nên hiểu Ung Thư cụ thể là bệnh ǵ và tại sao nó lại nguy hiểm như vậy? Ung thư không phải chỉ là một loại bệnh. Có nhiều dạng ung thư, và ung thư xảy ra khi các tế bào phân chia không kiểm soát được. Những tế bào bất thường này có thể xâm nhập vào các mô lân cận hoặc di chuyển đến các vị trí ở xa bằng cách nhập vào mạch máu hoặc hệ bạch huyết. Tế bào bất thường này cứ tiếp tục tăng lên thêm và lấn át tế bào b́nh thường. Điều này khiến cơ thể khó hoạt động hiệu quả như thường lệ và dẫn đến nhiều hiệu quả nghiêm trọng, một vài điểm trong số đó là: Rối loạn chức năng tế bào, khối u, di căn.

Rối loạn chức năng của tế bào: Để cơ thể con người hoạt động b́nh thường, mỗi cơ quan phải có một số lượng tế bào nhất định. Các tế bào trong hầu hết các cơ quan sống không lâu dài lắm. Và để tiếp tục hoạt động cơ thể cần thay thế các tế bào bị mất này bằng quá tŕnh phân chia các tế bào.

Phân chia tế bào được điều khiển bởi các gen nằm trong nhân tế bào. Chúng có chức năng như một sự hướng dẫn nói với các tế bào loại protein nào cần làm, nó sẽ phân chia như thế nào và nó sẽ sống bao lâu. Mă di truyền này có thể bị hư hại bởi một số yếu tố dẫn đến sự sai sót xảy ra trong sự hướng dẫn đó. Những lỗi này có thể làm thay đổi đáng kể cách tế bào hoạt động. Thay v́ nghỉ ngơi các tế bào có thể tiếp tục phân chia, thay v́ chết các tế bào có thể vẫn sống nhưng lại gây hại hay nguy hiễm cho cơ thể.

Khối u: Nhưng đôi khi quá tŕnh có trật tự này bị trục trặc. Vật liệu di truyền (DNA) của một tế bào có thể bị hư hỏng hoặc thay đổi, gây ra các đột biến có ảnh hưởng đến tăng trưởng và phân chia của tế bào b́nh thường. Khi điều này xảy ra, các tế bào không chết khi chúng cần và các tế bào mới h́nh thành khi cơ thể không cần đến chúng. Các tế bào thêm này có thể tạo thành một khối lớn các mô gọi là khối u.

Di căn: Không phải tất cả các khối u đều là ung thư, các khối u có thể lành tính hoặc ác tính. Khối u lành tính không phải là ung thư. Chúng thường có thể được cắt bỏ, và, trong hầu hết các trường hợp, chúng không quay trở lại. Các tế bào trong khối u lành tính không lan ra các phần khác của cơ thể. Các khối u ác tính là ung thư. Các tế bào trong những khối u này có thể xâm nhập vào các mô lân cận và lan ra các phần khác của cơ thể. Sự lây lan của ung thư từ một phần của cơ thể đến phần khác được gọi là di căn.

Ung thư có thể bắt đầu tại bất cứ chỗ nào trong cơ thể. Nơi bắt đầu có thể là vú, phổi, kết tràng, và kể cả máu. Thí dụ, ung thư bắt đầu ở vú được gọi là ung thư vú, ung thu bắt đầu từ ở dạ dày th́ gọi là ung thu dạ dày. Và khi tế bào ung thư lan rộng tới những bộ phận khác của cơ thể th́ gọi là di căn. Thí dụ: tế bào ung thư trong vú có thể đi vào xương và tăng trưởng tại đó. Ung thư luôn luôn được đặt tên theo chỗ bắt đầu. V́ vậy, khi ung thư vú lan tới xương (hoặc bất cứ nơi nào khác) th́ vẫn gọi là ung thư vú. Sẽ không gọi là ung thư xương, trừ khi bệnh bắt đầu tại xương.

Các dấu hiệu và triệu chứng nên chú ư của ung thư vú:

Dấu hiệu phổ biến nhất của ung thư vú là cục u. Có thể cục u sẽ không gây đau. Cục này có thể ở dạng cứng, di chuyển nhưng đôi khi lại dễ đau và mềm. Nếu có bất cứ cục u vú nào mới hay đáng khả nghi th́ quư vị phải đến gặp bác sĩ để kiểm tra.

Những điều khác cũng có thể là dấu hiệu của ung thư vú:
nhủhoa2

• Sưng, căng phù toàn bộ hoặc một phần vú (ngoại trừ lúc ra huyết hay mang thai)
• Thay đổi ở da vùng vú, chẳng hạn như đau rát, hoặc có chỗ lơm
• Đau bầu vú hoặc núm vú
• Núm vú thụt vào trong
•Núm vú hoặc da vùng vú bị ửng đỏ, đóng vảy, ngứa, hoặc dày hơn.
•Có dịch tiết không phải là sữa (dịch vàng hay đỏ)

Ngoài sự thay đổi ở vú c̣n có những dấu hiệu khác như:
•Sụt cân (5kg/tháng) không rơ lư do.
•Đầy hơi. Đau bụng, đau vùng chậu, cảm giác mau no.
•Biến đổi tuyến vú. Nếu nh́n thấy sự thay đổi của núm vú hoặc nếu nhận thấy đầu vú có tiết dịch (nhưng không đang cho con bú)
•Rong kinh hoặc rối loạn kinh nguyệt.
•Thay đổi của da.
•Nuốt khó.
•Chảy máu ở những vị trí bất thường (trong nước tiểu/phân).
•Đau bụng lâm râm và trầm cảm.
•Khó tiêu.
•Thay đổi ở miệng.
•Đau đớn mơ hồ cũng có thể là triệu chứng sớm của một số bệnh ung thư
•Thay đổi ở các hạch bạch huyết (sưng/có khối u ở cách hạch bạch huyết dước nách/cổ).
•Sốt, thay đổi màu da hoặc màu của phân.
•Mệt mỏi kéo dài.
•Ho kéo dài.

Làm sao có thể ngăn chặn và tranh đấu lại ung thư vú?
•Thay đổi những yếu tố mà ḿnh có thể làm được
•Ăn uống và tập thể dục để có thân h́nh cân đối.
•Tập thể dục ít nhất 30-40 phút mỗi ngày và ít nhất 5 ngày/tuần
•Không uống rượu hơn 1 ly/ngày
•Nếu trên 40 tuổi, cần phải có khám ngực mỗi năm
•Đến gặp bác sĩ và nói chuyện với bác sĩ về nguy hiểm của ung thư vú
•Chia sẽ với bác sĩ về lịch tŕnh ung thứ vú nếu có trong gia đ́nh


Những phương thức ngăn ngừa
•Tự kiểm tra vú hàng tháng.
•Có bác sĩ kiểm tra hàng năm nếu ngoài 40 tuổi, hoặc 35 tuổi nếu có tiền sử gia đ́nh.
•Chụp quang tuyến vú mỗi năm từ 40 tuổi trở lên:

– Sẽ phát hiện khối u nhỏ hoặc bác sĩ phát hiện trong lúc kiểm tra vú cho quí vị.

– Vài khối u nhỏ đến nổi chỉ có khám quang tuyến vú mới phát hiện ra chúng.



Phải chăng có các loại ung thư vú khác nhau?
Có nhiều dạng ung thư vú nhưng có hai dạng chính của ung thư vú: lan tràn và trú định. Các khối u vú có thể là một dạng duy nhất của ung thư vú, hay là kết hợp của của các loại, hoặc một hỗn hợp của bệnh ung thư trú định hay là lan tràn.
•DCIS [Ductal Carcinoma In Situ] (Caxinom Tiểu Quản Trú Định)

DCIS là dạng phổ biến nhất của ung thư vú lúc mới bắt đầu. Các khối u h́nh thành trong các tế bào của tuyến sữa, nơi mang sữa đến núm vú, hay c̣n gọi là tiểu quản. Đối với trường hợp DCIS, các tế bào ung thư chỉ phát hiện bên trong cái tiểu quản. Các tế bào này không lan rộng qua thành tiểu quản và xâm nhập mô vú gần đó. Các cơ hội điều trị thành công cao và gần như mọi phụ nữ bị DCIS đều có thể trị lành.
•LCIS [Lobular Carcinoma In Situ] (Caxinom Tiểu Thùy Trú Định)

Thông thường, LCIS không phải là ung thư, xảy ra trong tiểu thùy, đó là những tuyến sản xuất sữa. Trường hợp này bắt đầu tại các tuyến tạo sữa nhưng không tăng trưởng xuyên qua thành vách của tuyến.

Đa số chuyên gia ung thư vú đều cho rằng LCIS không tiếp tục tiến triển thành ung thư vú.
Nhưng quả thật phụ nữ bị LCIS sẽ có nguy cơ ung thư vú cao hơn. Khoảng một trong 10 trường hợp ung thư vú là ung thư tiểu thùy xâm lấn. Nếu quư vị bị LCIS th́ phải rọi khám vú mỗi năm.
•IDC [Invasive Ductal Carcinoma] (Caxinom Tiểu Quản Lan Tràn)

IDC đôi khi c̣n được gọi là ung thư tiểu quản tuyến vú xâm nhập, là loại phổ biến nhất của ung thu vú. Trường hợp này bắt đầu tại nhũ quản của vú và tăng trưởng xuyên qua thành tiểu quản. Kế đó bệnh có thể xâm nhập vào mô mỡ của vú. Khoản 80% của tất cả các bệnh ung thư vú là dạng ung thư xâm lấn (lan tràn) và dạng ung thư này cũng có thể lan rộng tới những bộ phận khác của cơ thể.
Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (American Cancer Society), hơn 180.000 phụ nữ ở Hoa Kỳ phát hiện ḿnh bị ung thư vú lan tràn mỗi năm. Hầu hết trong số họ được chẩn đoán bị ung thư tiểu quản lan tràn.
Mặc dù ung thư tuyến vú lan tràn có thể ảnh hưởng đến phụ nữ ở mọi lứa tuổi, nhưng phổ biến hơn khi phụ nữ lớn tuổi. Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, khoảng hai phần ba số phụ nữ là 55 tuổi hoặc lớn hơn khi họ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú lan tràn. Ung thư tiểu quản lan tràn cũng ảnh hưởng đến nam giới.
•ILC [Invasive Lobular Carcinoma] (Caxinom Tiểu Thùy Lan Tràn)

Trường hợp ung thư vú này bắt đầu ở tuyến sữa (tiểu thùy), là loại phổ biết thứ hai của ung thư vú sau ung thư tiểu quản lan tràn. Theo Hiệp hội Ung thu Hoa Kỳ, hơn 180.000 phụ nữ phát hiện ḿnh bị ung thư vú lan tràn mỗi năm. Khoản 10% của tất cả các bệnh ung thư vú lan tràn là Ung thư tiểu thùy lan tràn. Bệnh có thể lan rộng tới những bộ phận khác của cơ thể.
Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ , khoảng hai phần ba số phụ nữ là 55 hoặc lớn hơn khi họ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú lan tràn. Ung thư tiểu thùy lan tràn có xu hướng cho phụ nữ ở độ 60 tuổi hơn bệnh ung thư tiểu quản lan tràn xảy ra ở giữa 50s.
Một số nghiên cứu đă cho thấy rằng việc sử dụng liệu pháp thay thế hormone trong và sau thời kỳ măn kinh có thể làm tăng nguy cơ của ung thư tiểu thùy lan tràn.

Cái loại Ung thư Vú ít phổ biến:
•IBC [Inflammatory Breast Cancer ] (Ung Thư Vú Dạng Viêm)
•Ung thư vú dạng viêm là dạng ung thư vú hiếm thấy. Theo Viện Ung thư Quốc gia , khoảng 1-5% của tất cả các trường hợp ung thư vú ở Hoa Kỳ là ung thư vú viêm. Thường gặp nhất là trường hợp không có cục u hoặc ung bướu. IBC làm cho da ở vùng vú có màu đỏ và cảm thấy nóng ấm. Có thể da sẽ dày lên và lỗ chỗ - nh́n giông giống như vỏ cam. Bầu vú có thể to hơn, cứng hơn, nhạy đau, hoặc bị ngứa.

V́ không có cục u nên có thể sẽ không thấy IBC trên h́nh rọi khám vú. Sẽ khó có thể phát hiện IBC từ sớm. Bệnh này dễ có nguy cơ lan rộng và gây hậu quả tệ hại hơn so với ung thư tiểu quản hay tiểu thùy lan tràn.
IBC có xu hướng phát triển và lây lan nhanh chóng, với các triệu chứng xấu đi trong vài ngày hoặc thậm chí vài giờ. Điều quan trọng là nhận ra các triệu chứng và t́m kiếm sự điều trị kịp thời. Mặc dù ung thư vú viêm là một bệnh ung thư chuẩn đoán nghiêm trọng, hăy nhớ rằng phương pháp điều trị hiện nay là tốt hơn lúc trước rất nhiều.
Độ tuổi trung b́nh lúc chẩn đoán ung thư vú viêm ở Hoa Kỳ là 57 tuổi đối với phụ nữ da trắng và 52 cho phụ nữ Mỹ gốc Phi. Theo Hiệp hội Ung thư Mỹ, ung thư vú viêm là phổ biến hơn ở phụ nữ Mỹ gốc Phi. Một nghiên cứu năm 2008, cho thấy rằng t́nh trạng lên cân làm cho một người có nhiều khả năng để phát triển IBC. Cũng giống như các h́nh thức khác của bệnh ung thư vú, IBC cũng có thể ảnh hưởng đến nam giới.
· Triple-Negative Breast Cancer (Ung thư vú 3 âm):
Báo cáo bệnh lư của bạn có thể nói rằng các tế bào ung thư vú xét nghiệm âm tính với thụ thể estrogen ( ER- ) , thụ thể progesterone ( PR ) , và HER2 ( HER2- ). Những loại ung thư vú có xu hướng lây lan nhanh hơn và không đáp ứng với điều trị nội tiết tố hoặc các loại thuốc nhắm mục tiêu thụ HER2.
· Ung thư vú tái phát:
Ung thư vú tái phát là ung thư đă trở lại sau khi bị ung thư và không bị phát hiện trong một thời gian. Nó có thể xảy ra trong các mô vú c̣n lại hoặc tại các địa điểm khác như phổi, gan, xương và năo. Mặc dù những khối u ở những vị trí mới, chúng vẫn được gọi là ung thư vú.

Làm sao bác sĩ biết tôi có bị ung thư vú hay không?

Những thử nghiệm có thể sẽ thực hiện

Rọi khám vú là cách tốt nhất để sớm phát hiện ung thư vú. Sẽ khám vú để t́m những thay đổi ở núm vú hoặc da vùng vú. Kiểm tra hạch bạch huyết dưới nách và trên xương đ̣n của quư vị. Hạch bạch huyết sưng phù hay cứng có thể cho biết ung thư vú đă lan rộng.

Nếu các dấu hiệu đều trỏ vào ung thư vú, th́ sẽ thử nghiệm thêm. Sau đây là một vài thử nghiệm quư vị có thể phải trải qua:
•Rọi khám vú: Thường dùng thể thức rọi khám để sớm phát hiện ung thư vú, nhưng cũng có thể sử dụng cách này để hiểu rơ thêm về bệnh trạng vú có thể có.
•Rọi MRI: MRI sử dụng sóng vô tuyến và nam châm cực để hiểu rơ thêm về kích thước ung thư và t́m bất cứ dạng ung thư nào khác tại vú.
•Siêu âm vú: Siêu âm không thay thế thể thức MRI, nhưng có thể giúp bác sĩ biết cục cộm là u nang hoặc u bướu, và có thể gây ung thư hay không.
•Rọi h́nh tiểu quản: Đôi khi thử nghiệm này cũng giúp phát hiện nguyên nhân tạo thành dịch tiết ở núm vú. Muốn thực hiện thử nghiệm, bác sĩ sẽ đặt một ống nhựa rất mỏng vào tiểu quản ở núm vú. Một lượng nhỏ "chất màu" được cho vào tiểu quản. Chất này tạo đường nét h́nh dạng tiểu quản dưới quang tuyến X và cho thấy có ung bướu bên trong tiểu quản hay không.
•Khám dịch tiết từ núm vú: Nếu có chất lỏng rỉ ra từ núm vú của quư vị th́ sẽ gởi chút ít chất này tới pḥng thí nghiệm (lab). Sẽ quan sát chất dịch dưới kính hiển vi để xem có bất cứ tế bào ung thư nào không.
•Sinh thiết vú Khi sinh thiết, bác sĩ trích lấy một mẩu mô nhỏ để quan sát dưới kính hiển vi. Sẽ thực hiện sinh thiết khi thử nghiệm cho thấy có lẽ quư vị đă bị ung thư. Sinh thiết là cách duy nhất để biết chắc chắn quư vị có bị ung thư hay không.

Có nhiều dạng sinh thiết. Nên hỏi bác sĩ xem quư vị cần làm loại nào. Mỗi dạng đều có những ưu điểm và nhược điểm. Lựa chọn dạng sử dụng c̣n tùy vào trường hợp riêng của quư vị.

Đôi khi cần phải giải phẫu để cắt bỏ toàn bộ hoặc một phần cục u. Điều này thường được thực hiện tại bệnh viện, và có gây tê tại chỗ. Nghĩa là quư vị vẫn c̣n tỉnh nhưng vú sẽ bị tê. Có thể cũng sẽ cho dược phẩm để làm quư vị thấy buồn ngủ.
Tại sao là phân cấp giai đoạn ung thư vú lại quan trọng?
Xác định các giai đoạn sẽ giúp xác định cách tốt nhất để ngăn chặn và loại bỏ các bệnh ung thư vú.
Làm thế nào là giai đoạn xác định?
Phân cấp ung thư vú được dựa trên các yếu tố sau:
· Kích thước của khối u trong vú
· Số lượng hạch bạch huyết bị ảnh hưởng
· Các hạch bạch huyết gần được t́m thấy dưới cánh tay , được gọi là vùng nách
· Dấu hiệu chỉ hay không ung thư ung thư vú đă xâm lấn các cơ quan khác trong cơ thể
Nếu ung thư vú đă di căn, hoặc di căn, bằng chứng được thể t́m thấy trong xương, gan, phổi, hoặc năo .

Giai đoạn 0 & 1
Giai đoạn thấp nhất đại diện cho việc phát hiện sớm nhất của sự phát triển ung thư vú . Ở giai đoạn 0 và 1, các tế bào ung thư được giới hạn trong một khu vực rất hạn chế, ung thư c̣n nhỏ và chưa lan rộng.

Giai đoạn 2 ( II ) và Giai đoạn 2A ( IIA )
Giai đoạn 2 ung thư vú vẫn c̣n trong giai đoạn đầu, nhưng có bằng chứng cho rằng ung thư đă bắt đầu phát triển, lây lan. Nó vẫn c̣n được chứa vào vùng ngực và thường điều trị rất hiệu quả.
Giai đoạn 3 ( III ) A, B , và C
Giai đoạn 3 bệnh ung thư vú được coi là ung thư đă lâu hơn và với bằng chứng của ung thư xâm lấn các mô gần xung quanh của vú.
Giai đoạn 4 ( IV )
Giai đoạn 4: ung thư vú cho thấy ung thư đă lan rộng ra khỏi vú đến các khu vực khác của cơ thể.

Tôi cần phải theo loại trị liệu nào?

Có nhiều cách điều trị ung thư vú, nhưng nói chung có 2 dạng chữa trị chánh. Đó là trị liệu tại chỗ và trị liệu cho toàn bộ cơ thể.

Phẫu thuật và chiếu xạ chỉ dùng để trị ung bướu. Những phương pháp này không ảnh hưởng đến phần c̣n lại của cơ thể. Điều này gọi là trị liệu tại chỗ.

Những cách điều trị như hóa học trị liệu và liệu pháp nội tiết tố sẽ phát huy khắp toàn bộ cơ thể. Phương pháp này có thể truy lùng tế bào ung thư ở bất kỳ nơi đâu trong cơ thể. Đó gọi là chữa trị toàn thân.

Cách điều trị ung thư vú phù hợp nhất cho quư vị c̣n tùy vào những điều sau đây:
•Tuổi của quư vị
•Bất cứ bệnh trạng nào khác quư vị đang có
•Giai đoạn và cấp độ ung thư của quư vị
•Cơ may dạng chữa trị này đủ sức trị lành bệnh ung thư của quư vị, hoặc có hữu ích ǵ khác
•Mức độ quư vị chịu đựng những phản ứng phụ xuất hiện khi chữa trị



Phẫu thuật trị ung thư vú

Đa số phụ nữ bị ung thư vú đều trải qua một số dạng phẫu thuật. Có một vài dạng giải phẫu là cắt bỏ u vú, cắt bỏ vú, và cắt bỏ hạch bạch huyết ở nách.



Lựa chọn giữa cắt bỏ u vú và cắt bỏ vú

Cắt bỏ u vú c̣n gọi là phẫu thuật bảo toàn vú. Ưu điểm của cắt bỏ u vú là có thể giữ lại hầu hết bầu vú. Nhược điểm của điều này: ắt hẳn bệnh nhân sẽ phải trải qua xạ trị sau phẫu thuật. Nhưng một vài phụ nữ đă qua thủ thuật cắt bỏ vú cũng cần được chiếu xạ vào vùng vú.

Xạ trị

Chiếu xạ nghĩa là dùng chùm tia có năng lượng cao để tiêu diệt tế bào ung thư. Có thể sử dụng trị liệu này để tiêu diệt bất cứ tế bào ung thư nào c̣n sót trong vú, tại thành ngực, hoặc ở vùng nách sau khi giải phẫu.

Có 2 cách để thực hiện liệu pháp chiếu xạ. Có thể chiếu xạ vào vú từ máy móc đặt bên ngoài cơ thể. Quư vị có lẽ đă nghe nói về điều này dưới tên gọi chiếu xạ bằng chùm tia ngoài. Và cũng có thể đặt thẳng các hạt phóng xạ vào mô vú ở kế cạnh vùng ung thư thay v́ nhắm chùm tia chiếu xạ từ bên ngoài cơ thể vào mục tiêu. Điều này gọi là liệu pháp cận phóng xạ.

Hóa học trị liệu (hay hóa liệu pháp)

Hóa học trị liệu nghĩa là sử dụng thuốc để chống lại ung thư. Có thể cho dược phẩm qua gân máu hoặc uống dưới dạng viên. Các loại thuốc này đi vào máu và lan truyền khắp cơ thể. Hóa học trị liệu được thực hiện theo chu kỳ hay chu tŕnh. Tiếp theo sau mỗi chu tŕnh điều trị là một quăng tạm nghỉ vài tuần lễ. Sẽ dùng ít nhất 2 dược phẩm chữa trị trong hầu hết thời gian. Quá tŕnh điều trị thường kéo dài nhiều tháng.

Bệnh nhân vẫn thường lo lắng về các phản ứng phụ của hóa học trị liệu. Phương pháp này có thể làm cho quư vị cảm thấy mệt mỏi, thấy khó chịu ở bao tử, và bị rụng tóc. Nhưng những vấn đề rắc rối này sẽ trở lại b́nh thường sau khi kết thúc chữa trị. V́ vậy, nếu tóc của quư vị đă rụng th́ cũng sẽ mọc lại.

Liệu pháp nội tiết tố

Estrogen là nội tiết tố nữ được cơ thể tạo ra cho tới khi quư vị đạt đến giai đoạn thay đổi trong cuộc đời, và sau thời điểm đó th́ chỉ tạo ra một lượng ít hơn rất nhiều. Estrogen làm cho một vài dạng ung thư vú tăng trưởng mạnh hơn. V́ lư do đó, ngăn chận ảnh hưởng của estrogen hoặc hạ thấp mức estrogen cũng là cách điều trị một số dạng ung thư vú.

Tamoxifen là loại thuốc ngăn chận estrogen thường dùng nhất. Dược phẩm này được uống hàng ngày dưới dạng viên. Trong đa số trường hợp, bệnh nhân sẽ dùng tamoxifen trong 5 năm sau khi trải qua phẫu thuật. Thuốc này hạ thấp xác suất tái phát ung thư ở một vài phụ nữ. Cũng có thể sử dụng tamoxifen để điều trị t́nh trạng ung thư vú đang lan rộng, và để giảm thiểu tỷ lệ ung thư vú ở phụ nữ rất dễ có nguy cơ bị bệnh này. C̣n có nhiều dược phẩm và cách thức khác với mục đích hạ thấp estrogen để chống lại ung thư vú. Nên yêu cầu bác sĩ tŕnh bày rơ về bất cứ loại thuốc nào đă trao cho quư vị.

Làm cách nào để t́m hiểu thêm?

Bài viết này đă lấy tài liệu trong những trang web sau đây. Xin mời quí vị vào những trang web này để nghiên cứu thêm.

www.cancer.org

http://www.breastcancer.org/symptoms/types/idc

http://www.nationalbreastca ncer.org/breast-cancer-stages?gclid=CJj_kvn U0sICFQuQaQod6IQAeg

http://www.mdanderson.org/patient-and-cancer-information/cancer-information/cancer-types/breast-cancer/index.html

http://www.sciencedirect.co m/science/article/pii/S1319562X12001064

http://www.who.int/cancer/detection/breastcancer/en/index3.html

http://www.parkwaycancercen tre.com/vn/tim-hieu-ve-ung-thu/ve-ung-thu/cac-dau-hieu-cua-ung-thu/



Pḥng bệnh hơn chửa bệnh. T́m kiếm ra bệnh sớm th́ sự chửa trị sẽ có kết quả tốt đẹp hơn nhiều. Chúng tôi xin mạo muội chia sẽ với quí vị những điều t́m thấy ở trên đây. Hầu mong quí vị phụ nữ chúng ta để ư đến sức khỏe của ḿnh một chút.

Chúc quí vị sức khỏe!!



Hải Châu và Tường Vi

12-2014

florida80
04-10-2019, 18:38
KIÊNG MỠ ĐÚNG SAI??? Pham H. Liem, MD

26 Tháng Mười Hai 20143:12 CH(Xem: 2907)







Kính chuyển - Để quư vị tùy nghi, có theo nghiên cứu mới này không ?
Ḥa














Kiêng Mỡ, đúng hay sai?
Mời đọc bài đính kèm






Ăn thiếu chất béo (dầu và mỡ) hại sức khoẻ và nguy hiểm đến tính mạng.

Đầu tháng Chín năm nay (2014), trên mục Sức Khoẻ của một nhật báo lớn ở Mỹ, The New York Times, kư giả Anahad O’Connor đă viết một bài với nhan đề Lời Kêu Gọi Cho Cách Ẩm Thực Ít Chất Đường Thêm Chất Béo (A Call for a Low-Carb Diet That Embraces Fat).

http://www.nytimes.com/2014/09/02/health/low-carb-vs-low-fat-diet.html?_r=0

Bài báo này đánh dấu một sự chuyển hướng quan trọng trong dư luận và truyền thông Mỹ về vấn đề dinh dưỡng từ kỵ-chất-béo qua thêm-chất-béo trong thực phẩm. O’Connor muốn thông tin cho độc giả về các bằng chứng khoa học vững chắc cho thấy khi con người ăn bớt đường bột và ăn thêm chất béo (ngoại trừ trans fat), nguy cơ cuả bệnh tim mạch được giảm đi nhiều. Không những thế nó c̣n giảm lượng mỡ trong cơ thể và xuống kư rơ rệt nhờ ăn thêm chất béo thay v́ chất đường. Kết quả khảo cứu mới nhất từ Đại Học Tulane, tài trợ bởi Viện Nghiên Cứu Y Học Quốc Gia Hoa Kỳ (NIH- National Institute of Health), đăng trên Nguyệt san Y học Annals of Internal Medicine trước đó, cho thấy sự khác biệt rơ ràng, như đă nói ở trên, giữa nhóm tiêu-thụ-bớt-đường-thêm-chất-béo và nhóm ăn-thực-phẩm-có-lượng-chất-béo-thấp như Chính phủ Liên bang và Hội Chuyên gia Bệnh Tim Hoa Kỳ vẫn đang khuyến khích hiện nay. Điểm đáng chú ư là cả hai nhóm đều không phải giới hạn lượng calorie tiêu thụ mỗi ngày như các chương tŕnh dinh dưỡng khác. Kết quả của cuộc thí nghiệm này chứng tỏ rằng phong trào bài trừ chất béo trong thực phẩm trên hơn ba mươi năm qua ở Hoa Kỳ là sai lầm.

V́ đâu nên nỗi: Từ thập niên 1950, Y học Hoa Kỳ đă biết rằng lượng mỡ cholesterol cao trong máu có liên hệ đến bệnh tim mạch nhưng nguồn gốc của cholesterol gia tăng trong máu th́ vẫn rất mơ hồ. Cholesterol đóng vai tṛ quan trọng cho sinh hoạt của mỗi tế bào, đồng thời cũng là nguồn cội trong việc sản xuất các kích tố steroids và vitamin D rất quan trọng cho cơ thể. Trong suốt thập niên 1960, các nhà nghiên cứu y khoa xác định một vài chứng bệnh di truyền hiếm (đề nghị bỏ chữ hoi) có thể gây lượng mỡ cao trong máu, nhưng trong đa số bệnh nhân tim mạch, lượng cholesterol đến từ thói quen ăn uống. Một cuộc tranh luận gay gắt xảy ra giữa hai nhóm khoa học gia: Một nhóm tin rằng lượng cholesterol cao trong bệnh nhân là đến từ chất đường trong khi nhóm kia quả quyết rằng cao cholesterol là đến từ chất béo trong thực phẩm. Qua thập niên 1970, Giáo Sư Ancel Keys, thuộc ngành Dinh Dưỡng cuả Đại Học Minnesota, đưa ra kết quả của một cuộc nghiên cứu quan trọng trên bảy quốc gia Âu Mỹ cho thấy rằng tiêu thụ nhiều chất béo băo hoà từ mỡ động vật là nguyên do của cholesterol cao và bệnh tim mạch. Các khoa học gia khác đă nhanh chóng ủng hộ GS Keys và các hội chuyên khoa về tim cùng chính phủ Hoa Kỳ khuyến cáo người Mỹ nên ăn ít chất béo, nhất là mỡ động vật, và các công ty sản xuất thực phẩm nên giảm thiểu chất béo trước khi bày bán trên thị trường.

Hậu quả bi đát với vài “nghịch lư”: Dân Mỹ vào siêu thị mua thực phẩm với các quảng cáo Ít Mỡ (Low Fat) hoặc Không Mỡ (No Fat) to tướng trên nhăn hiệu. Để thay thế bơ mà người Mỹ ưa quẹt vào bánh ḿ, khoa học gia lại t́m cách làm rắn mỡ thực vật lỏng bằng cách thay thế dạng Cis của axít béo với hydro qua gạch nối dạng Trans gọi là Trans Fat, một chất béo thực vật mới hoàn toàn nhân tạo không có trong thiên nhiên để thay thế bơ (margarine with trans fat). Trong các thập niên kế tiếp, từ 1980 cho đến bây giờ, Hoa Kỳ rồi các nước giàu có trên thế giới bị hoành hành với chứng mập ph́ và nạn dịch Tiểu Đường loại 2 ngày càng thêm nặng, v́ đại đa số người dân nhiễm Hội Chứng Biến Dưỡng do sự kháng insulin trong cơ thể làm mập ph́, tăng cholesterol và chất triglyceride trong máu, tăng huyết áp và chứng Tiểu Đường. Cho đến 7-8 năm trở lại đây, nguyên do của nạn dịch này mới được xác định là người Mỹ đă dùng đường và bột ngày thêm nhiều để bù đắp cho số calorie bị mất đi khi họ ăn ít chất béo; chất đường ngọt, nhất là đường fructose, là nguyên nhân của sự tích tụ mỡ trong gan, bụng và cả bắp thịt gây ra chứng kháng insulin (sau khi kháng insulin đă xảy ra th́ cả đường glucose cũng trở thành nguy hại). Khách hàng đă phải trả một giá quá đắt về sức khoẻ và sinh mạng v́ tiêu thụ các thực phẩm Ít Mỡ và Không Mỡ nhan nhản trên thị trường, trong lúc các bác sĩ của họ tiếp tục khuyến khích dinh duỡng kỵ chất béo, nhất là mỡ động vật, một cách sai lầm trong suốt 40 năm.

Một vài chuyện nghịch lư (paradox) phát hiện trong thời gian này, nhưng khoa học và chính phủ Hoa Kỳ vẫn không quan tâm và suy diễn đúng, v́ vẫn c̣n bị mê hoặc với chính sách giảm chất béo:

1.Nghịch lư người Pháp. Dân Pháp thích ăn uống ngon miệng nên họ nhất định không ăn giảm chất béo nhất là mỡ động vật, v́ làm như thế thức ăn sẽ mất mùi vị. Họ tiếp tục ăn bơ, phó mát, thịt ḅ, gà vịt ngỗng, heo, trứng….như thường lệ, nhưng tỷ số mập ph́, tiểu đường loại 2 và bệnh tim mạch tại Pháp lại thấp hơn Hoa Kỳ và các nước Tây Âu lân cận. Nghịch lư này được giải thích v́ người Pháp uống nhiều rượu vang đỏ có chất kháng ốc-xy và nhất là resveratrol.


2.Nghịch lư về thuốc chống cholesterol. Có hơn 6 nhóm thuốc làm hạ cholesterol trong máu được chính phủ Hoa Kỳ chấp thuận cho bán ở dược pḥng, nhưng chỉ có nhóm thuốc statin đă chứng tỏ giúp bệnh nhân ngừa khỏi biến chứng tim mạch và sống lâu. Các nhóm thuốc kia, mặc dù hạ thấp cholesterol nhưng không ngăn ngừa được bệnh tim mạch. Hoá ra thuốc statin c̣n có tác dụng chống viêm, làm thành mạch máu trơn láng hơn, và có thể tăng thêm tuổi thọ với tác dụng trên tế bào.


3.Nghịch lư về biến chứng của Tiểu Đường loại 2. Mặc dù Hoa Kỳ đă và đang trải qua cơn dịch Tiểu Đường loại 2 với tiềm năng gây biến chứng tim mạch, trên thực tế số luợng tim đột quỵ (heart attack) và tai biến mạch máu năo cùng tỷ số tử vong đă giảm đi từ 15 năm nay. Lư do là thuốc statin và các thuốc chống áp huyết cao đă được dùng rất phổ thông cho người Mỹ.


Nhờ cuộc khảo cứu của Đại Học Tulane và bài báo cảnh tỉnh của kư giả O’Connor mà hôm nay chúng ta biết rằng các “nghịch lư” kể trên không phải là nghịch lư ǵ cả. Y học và Chính phủ Hoa Kỳ đă sai lầm khi cổ vơ và áp dụng cách dinh dưỡng thiếu chất béo. Cuộc khảo cứu 7 quốc gia cuả GS Keys đă bị các khoa học gia đương thời duyệt lại và cho thấy ông đă phạm nhiều sơ xuất dẫn đến kết quả không đúng với sự thật.

Ăn ít chất béo c̣n có hại cho sức khoẻ tổng quát v́ cơ thể sẽ bị thiếu các sinh tố quan trọng hoà tan trong chất béo như sinh tố A, sinh tố D và sinh tố K.

Ăn thiếu chất béo, nhất là chất béo động vật, gây ra chứng xuất huyết năo sau 45 tuổi với số tử vong cao như đă tường tŕnh từ các nghiên cứu trên nữ điều dưỡng Mỹ (2001), người Nhật (2003) và người Ấn Độ (2012). Thiền sư Thích Nhất Hạnh bị xuất huyết năo gần đây có lẽ v́ tuổi cao và thiếu chất béo động vật như đă chứng tỏ qua các khảo cứu kể trên?

Ngoài ra, nhiều chứng ung thư thường xảy ra trên người có lượng cholesterol trong máu rất thấp, nhưng cho đến nay Y học vẫn chưa chứng minh được là ung thư làm hạ cholesterol hay thiếu cholesterol gây ra ung thư?


Kết Luận: Hiện nay người Mỹ vẫn c̣n theo tiêu chuẩn ăn bớt chất béo cổ động bởi chính phủ Hoa Kỳ với lượng dầu mỡ dưới 30% của tổng số calorie tiêu thụ, và v́ thế đă ăn quá nhiều đường bột để bù đắp với hậu quả tai hại. Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama buộc các em học sinh trường công lập Mỹ ăn trưa với thực phẩm ít béo ít đường từ quầy ăn nhà trường làm thức ăn tồi tàn và dở ẹc như nhai giấy b́a; tội nghiệp các em đang sức lớn mà đói meo. Các chuyên gia về bệnh tim c̣n sai lầm khi họ muốn giảm chất béo xuống đến 10% mổi ngày, mặc dù làm như vậy sẽ tăng hiểm nguy của xuất huyết năo. Theo nghiên cứu mới nhất đă nói ở đầu bài, nhóm tiêu thụ hơn 40% chất béo cho tổng số calorie từ thực phẩm đă xuống kư v́ ăn mau no, ăn bớt đường bột, nên giảm nguy cơ của bệnh tim mạch. Chúng ta nên ăn uống thoải mái, thêm thịt cá gà vịt trứng tôm cua… với nhiều chất đạm và chất béo; không phải kiêng khem ǵ ngoài việc ăn bớt đường bột cơm gạo, và ăn thêm rau quả. Vào siêu thị chúng ta không mua thực phẩm Low Fat và No Fat và nhất quyết không tiêu thụ thực phẩm có chứa trans fat.

Trans fat thực vật là chất béo xấu duy nhất cho con người hiện nay.

Chất béo tốt là mono-unsaturated fat và omega-3-fatty acid có tác dụng chống viêm và ngừa bệnh tim mạch. Thực phẩm với chất béo tốt gồm có dầu olive, dầu canola, dầu gan cá, trái bơ (avocado), mỡ vịt, dầu dừa, dầu đậu phụng, ḷng đỏ trứng, và c̣n nhiều nữa. Chất béo băo hoà từ mỡ ḅ, heo, hay chất béo poly-unsaturated từ dầu đậu nành, dầu bắp, v.v., cũng không độc hại ǵ nếu ăn vừa phải. Người ăn nhiều cá hay gà vịt rất ít khi bị tai biến mạch máu năo, trong khi người ăn thiếu mỡ bị xuất huyết năo nhiều hơn như chúng ta đă biết.


Pham H. Liem, MD
Former Jackson T. Stephens Professor and Vice-Chairman of the Donald W. Reynolds Department of Geriatrics, UAMS





Trước

Sau


In Trang





Gửi ư kiến của bạn














Tên của bạn






Email của bạn

florida80
04-10-2019, 18:40
VI TRÙNG HELICOBACTERIA PYLORI VÀ CÁC CHỨNG BỆN LOÉT, VIÊM VÀ UNG THƯ BAO TỬ - TƯỜNG VI & HỒNG ĐỨC

23 Tháng Ba 201412:00 SA(Xem: 2499)








Vi Trùng Helicobacteria Pylori và Các Chứng Bệnh Loét , Viêm và Ung Thư Bao Tử

vitrung1-large-content

Cách đây 3 năm số người bệnh nhân gốc Á Châu đến khám bệnh "đau bụng" ở clinic của tôi rất đông. Phần lớn là những người di dân gốc Burma hay Miến Điện, Napal và Việt Nam. Ai cũng than là đau bụng, mơi mệt, ăn khó tiêu, sụt cân, nhợn bụng muốn ói ... Khám tổng quát và định bệnh th́ t́m được những bệnh như loét dạ dày, viêm bao tử và viêm đầu ruột non. Có một số người t́m ra được bệnh ung thư bao tử nhưng lại vào thời kỳ thứ 4 nên việc chữa trị cũng không được khả quan cho lắm. Khi thử vi trùng Helicobacteria Pylori (H. Pylori) th́ phần đông ai cũng có dương tính của vi trùng này hết. Phần lớn dân số bị nhiễm vi trùng H. Pylori ít hơn ở Mỹ nhưng lại gia tăng nhiều hơn ở những nước khác, nhất là ở những nước đang phát triển như Việt Nam, Miến Điện, Thái Lan, hay Phi Châu.

Vi trùng H. Pylori được t́m ra bởi hai khoa học gia Bary Marshall và Robin Warren vào năm 1982. Họ thấy những bệnh nhân có bệnh ung thư bao tử, loét bao tử hay viêm đầu ruột non (duedonum) hay viêm bao tử đều có sự hiện diện của vi trùng H. Pylori này. Để tồn tại trong môi trường có tính axit của dạ dày, H. pylori tiết ra một loại enzyme được gọi là urease, mà chuyển hóa chất urê thành amonia. Chất amonia ở xung quanh H. pylori làm trung ḥa tính axit của dạ dày, làm cho H. Pylori ở được lâu hơn trong dạ dày. Ngoài ra, h́nh dạng xoắn ốc của H. pylori làm cho các vi khuấn này dể đính kèm vào các bề mặt bên trong của dạ dày. Những tế bào miễn dịch khó nhận ra và tấn công các vi trùng H. Pylori này.

vitrung2-large-content


Loét Dạ Dày

vitrung3-large-content


Ung Thư Dạ Dày

H. pylori lan truyền từ người này qua người kia qua nước bọt. Vi khuấn này cũng có thể truyền theo qua nước hay thức ăn bị nhiễm chung với phân hay những chất cặn bă. Ở những nước đang phát triển, th́ sự hổn hợp của nước uống hay thức ăn không tinh khiết, với nơi ở bị chật chội đông người và thiếu vệ sinh làm cho H. Pylori dễ lan truyền cho nhiều người. Nhiều người bị bệnh này khi c̣n trẻ nhỏ.

H. Pylori có thể được t́m ra một cách dễ dàng bằng cách thử máu, thử phân, thử hơi thở carbon dioxide hay thử nghiệm một ít tế bào trong bao tử để t́m ra vi trùng này.

Nếu các bạn có những triệu chứng như:

-Ăn khó tiêu

-Đau ở bao tử (phía trái, dưới tim, dưới xương sườn) hay đầu bao tử (khoảng giữa hai phần xương sườn ở phía trước ) sau khi ăn

-Đau bao tử khi bụng đói

-Ói mữa hay ói mữa ra máu

-Sụt cân

-Bị dồn nén hay bị stress nhiều

-Có hút thuốc hay uống rượu

th́ nên đi gặp BS gia đ́nh để định bệnh và chữa trị .

Nếu những con vi khuẩn này được tiêu diệt sớm th́ chúng ta có thể ngăn ngừa những chứng bệnh hiễm nghèo khác như viêm loét hay ung thư bao tử và đầu ruột non.

Cũng có một tin vui là những con vi trùng này lại rất "sợ" thuốc trụ sinh nên việc bài trừ cũng không khó lắm. Chỉ cần bệnh nhân cố gắng uống thuốc theo toa bác sĩ và làm theo lời khuyên th́ sẽ chữa hết bệnh liền.

Thuốc chữa thông thường có hai hay ba loại trụ sinh và một loại thuốc nữa làm cho bao tử dịu lại để bớt chất acid. Thuốc trụ sinh th́ ngày uống hai lần trong ṿng 10-14 ngày, c̣n thuốc làm dịu bao tử lại th́ có thể uống thêm mỗi ngày vào một thời gian nữa.

Ăn uống th́ cũng nên bớt đi những chất nóng, cay, chua. Bớt ăn ớt lại. Nên ăn hay uống nhiều chất vitamin C, những loại dâu hay berry, và sữa.

Và nếu có hút thuốc uống rượu th́ cũng nên bớt dần và bỏ luôn sau một thời gian .

Những người nấu thức ăn th́ nên rữa tay sạch thường xuyên để bớt đi cơ hội lan truyền của những con vi khuẫn này. Nếu trong gia đ́nh có người thân bị ung thư bao tử th́ cũng nên đi khám coi ḿnh có bị H. Pylo ri nhiễm trùng hay không v́ tỷ lệ bị nhiễm vi trùng này rất cao cho những người có thân nhân bị ung thư bao tử.

Đây chỉ là một phần tóm lược đơn giản về H. Pylo ri và những nguy hiểm cho sức khoẻ mà vi trùng này có thể gây ra. Chúng tôi xin chia sẻ cùng các bạn. Các bạn có những câu hỏi ǵ thêm th́ xin liên lạc với chúng tôi nhé .

Chúc các bạn sức khoẻ,

Tường Vi & Hồng Đức







Trước

Sau


In Trang





Gửi ư kiến của bạn














Tên của bạn






Email của bạn










Trang đầuTrang trước12345Trang sauTrang cuối










whey4


WHEY PROTEIN CHO NGƯỜI CAO TUỔI - BS PHẠM HIẾU LIÊM
03 Tháng Mười 2014(Xem: 4285)
Ngày nay nhờ vệ sinh thường thức và y khoa tân tiến, tuổi thọ trung b́nh ở các nước tiên tiến đă đạt đến gần 80 cho nam giới và hơn 80 cho các cụ bà

Đọc thêm









holme2


BƯỚC ĐỘT PHÁ TRONG NGÀNH Y HỌC THÊ GIỚI
03 Tháng Mười 2014(Xem: 6170)
Lần tới khi bạn làm xét nghiệm máu, bạn sẽ không cần phải đi tới bác sĩ rút một lượng máu lớn từ cánh tay của bạn nữa

florida80
04-10-2019, 18:41
HĂY SỬA ĐỔI CÁCH NẤU ĐỒ ĂN VIỆT NAM ĐỂ GIẢM TỶ LỆ NHỮNG BỆNH NHÂN MĂN TÍNH NƠI NGƯỜI VIỆT CAO TUỔI

Trước đây, trên Diễn đàn này, chúng tôi đă từng phân tích về tỉ lệ cao của Hội chứng Kháng Insulin (C̣n gọi là bệnh Tiểu đường Loại 2) nơi người Việt cao tuổi ở California và đă xác định là một lượng lớn những “Sản phẩm đă được hóa đường ở cấp cao có từ đồ ăn” (dietary Advanced Glycation End products - dAGEs) trong cách nấu nướng của người Việt có thể là một nguyên nhân chính để giải thích sự khác biệt được ghi nhận giữa những nhóm cư dân Mỹ gốc Á khác nhau ở California. Chúng tôi sẽ khai triển thêm đề tài quan trọng này và đặt nhiều hy vọng là sẽ làm sáng tỏ, với những lời khuyên có ích để giải quyết vấn đề.

dAGEs là ǵ và tại sao chúng lại có hại cho sức khoẻ của chúng ta?

Những “Sản phẩm đă được hóa đường ở cấp cao” (Advanced Glycation End products, AGEs) được tạo ra qua một phản ứng “không có sự tham dự của phân hóa tố (enzym)” giữa đường hoàn nguyên (như fructose, glucose 6-phosphate) với những nhóm amin tự do có trong chất đạm (protein) hay với chất béo (lipid) mà người ta thường biết đến qua những tên như phản ứng Maillard hay phản ứng đổi màu (thành) nâu.

phl1

Phản ứng này b́nh thường có thể xảy ra trong cơ thể nhưng một khi đạt đến mức cao, chúng trở nên độc hại do bởi sự thúc ép mănh liệt trên phản ứng oxi-hóa và sự thúc đẩy phản ứng sưng viêm ở những mô như đă thấy nơi những bệnh nhân mắc bệnh Tiểu đường Loại 2 mà không được chữa trị. Trong những năm gần đây, những hợp chất AGE như N-carboxymethyl-lysine (CML) hay methyl-glyoxal (MGO) đă được khảo cứu sâu rộng về vai tṛ của chúng trên mặt bệnh lư trong Hội chứng Kháng Insulin, trong chứng xơ vữa động mạch, trong bệnh về thận hay trong chứng mất trí nhớ (lú lẫn).

Nguồn chính của những chất AGE luân lưu trong cơ thể con người là do từ đồ ăn thức uống. Nấu cạn khô ở nhiệt độ cao trong thời gian dài mà lại cho thêm đường đơn hay mỡ sẽ làm sản sinh ra một lượng lớn dAGE. Khoảng 30% dAGE được hấp thụ trong quá tŕnh tiêu hóa và có thể tích tụ trong cơ thể để rồi gây nên tàn phá, do bởi hệ số thanh thải của thận (renal clearance) thấp nơi những chất này. Nướng (bất kể là nướng lửa trần hay nướng trong ḷ) và Kho là hai lối nấu thông dụng của Việt Nam có thể tạo ra một lượng rất lớn những chất AGE có hại; nhất là Kho, là một phương thức trong đó chất protein tươi sống tiếp xúc với đường đơn trong phản ứng hóa nâu ở nhiệt độ cao (thắng nước màu). Nếu bàn về những chất AGE và về mặt y tế, đây là một cách nấu mang đến thảm họa.
Giảm lượng dAGE tiêu thụ ở chuột tránh được tổn hại về tim mạch và thận, tăng độ nhạy cảm đối với Insulin và rút ngắn thời gian lành vết thương. Hạn chế dAGE làm tăng tuổi thọ ở chuột giống như những ǵ người ta thấy được trong trường hợp hạn chế hàm lượng calorie ăn vào. Như thế có khả năng là giảm lượng dAGE tiêu thụ ở người sẽ có thể đưa đến những lợi ích tương tự.

Những phương cách làm giảm mức tiêu thụ dAGE nơi người Việt:

Những cách thức sau đây đă từng được đưa ra nhằm giảm sự h́nh thành AGE khi nấu ăn:

1.Nên nấu trong môi trường ẩm (có nước): như hấp, luộc, nấu vừa đủ sôi, đun lửa riu riu hay trụng (trần) trong nước sôi.
2.Giảm thời gian nấu.
3.Nấu ở nhiệt độ thấp hơn.
4.Dùng ḷ vi sóng (microwave) để nấu.
5.Ướp thịt (bao gồm cả cá và đậu hũ) trong môi trường chua, như (cho thêm) dấm hay nước chanh trước khi nấu.
phl2

Chú thích h́nh 2: Ảnh hưởng của môi trường chua trên lượng Sản phẩm Hóa đường Cấp cao (AGE) trong thịt ḅ. Thịt ḅ (25 gram), có và không ướp trước với 10 ml dấm (A) hay nước chanh (B) trong ṿng 1 giờ, được nướng vỉ trong 15 phút ở 150 ºC . Mẫu thử được tán nhuyễn và lượng AGE (qua chất N-carboxymethyl-lysine) được đánh giá qua thử nghiệm ELISA như đă được mô tả trong phần Phương Pháp. Dữ liệu được tŕnh bày bằng mức % thay đổi so với t́nh trạng tươi sống. Cột màu trắng biểu hiệu t́nh trạng tươi sống, cột có sọc cho thấy t́nh trạng sau khi nướng mà không ướp, và cột màu đen là những mẫu có ướp. Có một sự thay đổi được minh chứng rơ ràng (với chỉ số P<0,05) giữa thịt nướng và thịt sống. Có một sự thay đổi được minh chứng giữa những mẫu thịt ướp. 1 = thịt ḅ sống. 2 = thịt ḅ nướng sau khi ướp mà không dùng dấm hay chanh. 3 = thịt ḅ nướng mà trước đó được ướp với dấm hay chanh trong 1 giờ.

Quư vị nên luôn luôn dùng chất chua để ướp đồ ăn trước khi làm món Nướng, đồng thời nên giới hạn việc cho dầu ăn hay đường càng nhiều càng tốt trong những công thức nấu món ăn. Quư vị có lẽ nên thay đổi cách nấu bằng cách bỏ chất phẩm màu nâu vào đồ ăn ở giai đoạn cuối trong khi nấu thay v́ thắng nước màu bằng đường để làm màu.
Một chọn lựa khả thi khác là dùng những chất như aminoguanidine (vẫn c̣n đang được nghiên cứu) và quế (một hương liệu) là những chất có khả năng ức chế sự h́nh thành AGE cũng như làm trung ḥa độc tính của chất này.

Tóm tắt

Bệnh măn tính là những nguyên nhân chính của sự suy nhược và t́nh trạng yếu kém nơi tuổi già. Những bằng chứng gần đây gợi cho ta thấy người Việt cao niên có khuynh hướng dễ bị mắc nhiều bệnh măn tính, đặc biệt là Hội chứng Kháng Insulin (Bệnh Tiểu đường Loại 2). Chúng tôi tin rằng những chất dAGE sinh ra quá mức từ nhà bếp Việt Nam giữ một vai tṛ chính trong sự khác biệt giữa những sắc dân Mỹ gốc Á. Giảm thiểu dAGE bằng cách sửa đổi phương thức nấu ăn có thể mang lại lợi ích cho tất cả người Việt trong thời gian dài.

Nguyên tác: Modify Vietnamese cuisine to lower incidence of chronic diseases in older Viet Kieu - Pham H Liem.
Người dịch: Nguyễn Hiền

Nguồn: Diễn đàn cựu SVQY

florida80
04-10-2019, 18:43
GHIỀN ĐƯỜNG - BS HỒ NGỌC MINH

21 Tháng Hai 201412:00 SA(Xem: 2016)








sugar-large


Ghiền đường.



Nhiều bác sĩ đă từ lâu cảnh báo về t́nh trạng “ghiền đường” mà vị ngọt của đường là một loại ma túy nguy hiểm có thể giết người trong thầm lặng.

Trong một bài viết trước đây về hội chứng “Mỡ, Đường, Máu”, BS. Minh có cho độc giả một câu hỏi để suy gẫm: “Giữa một lon Coke và một quả trứng gà, cái nào nguy hiểm cho tim mạch hơn?” Hôm nay chúng ta đă có một câu trả lời xác đáng dựa trên nghiên cứu mới nhất đăng trên báo Y Khoa của Hội Y Sĩ Hoa Kỳ (JAMA) tháng 2/2014, sau quá tŕnh theo dơi 40,000 bệnh nhân: “Trứng gà không gây ra đột quỵ tim mà thủ phạm chính là đường”!

Sự “ghiền đường” dường như đă được in đậm vào trong DNA của loài người chúng ta từ hằng chục ngàn năm qua, cộng thêm với những ảnh hưởng của xă hội làm cho ta khó thấy sự tác hại của bệnh ghiền này, v́ lẽ, mọi người, không ít th́ nhiều đều bị… nghiện đường.


Có bao nhiêu loại đường?


Đường là danh từ chung để chỉ một loại nhu yếu phẩm cần cho con người. Trên thực tế, tất cả loại cây cỏ, thảo mộc đều có chứa đường dưới nhiều thể loại khác nhau. Thí dụ như cây lúa chẳng hạn, từ hột lúa, rễ cây lúa, lá lúa đến thân cây lúa, đều có đường trong đó. Tuy nhiên những loại đường có trong thân cây, lá cây v.v… so với các loài như trâu, ḅ ngựa…có thể hấp thụ được, cơ thể chúng ta lại chịu thua. Để đơn giản hóa vấn đề, đối với con người, có 3 loại đơn đường, Glucose, Fructose (có nhiều trong trái cây), và Galactose (có nhiều trong sữa). Đường cát đa phần được kết tinh từ nước mía chứa một loại đường đôi gọi là sucrose, được kết hợp từ đường glucose và fructose.

Đường phèn, đường cát, đường đen, đường nâu, đường bông g̣n,… tất cả đều được biến chế từ đường mía mà ra.


Cần bao nhiêu đường th́ đủ?


Trên thực tế chúng ta chỉ cần khoảng 5% đến 7% tổng số lượng calories trung b́nh đến từ đường mỗi ngày, tức là khoảng 2 hay 3 muỗng cà phê đường. Trên thực tế chúng ta tiêu thụ đến mức 25% calories do đường cung cấp mỗi ngày. Nghiên cứu trên đây cho biết, khả năng bị đột quỵ tim tăng gấp đôi nếu chúng ta tiêu thụ 20% tổng số calories đến từ đường, nhưng tăng gấp 4 lần nếu dùng trên 25% năng lượng đến từ bất kể loại đường nào!

Từ khoảng năm 1970, để cạnh tranh kinh tế và duy tŕ lợi nhuận cho nghành nông nghiệp Mỹ, chính phủ Mỹ đă tăng thuế nhập cảng đường mía từ các nước khác, và tăng cường sản xuất một loại đường đặc chế từ hạt bắp gọi là “đường sy-rô nồng độ cao từ bắp” (High Fructose Corn Syrup, HCFS). Loại đường HCFS này về thành phần hóa học th́ hơi giống như đường mía, nhưng ngọt hơn và dễ thấm vào máu hơn. Có người cho là v́ hai tính chất này mà HCFS độc hơn đường mía, v́ dễ ghiền và mau “phê” hơn là đường mía. Trên thực tế cả hai thứ đều là “bad guys” (kẻ xấu) hết.

Chỉ v́ chính phủ Mỹ cố t́nh làm cho đường HCFS rẻ hơn nên kỹ nghệ biến chế thức ăn tha hồ tưới, nhét, trộn đường HCFS vào đồ ăn. Bạn có để ư là nước ngọt Coca Cola ở Mỹ mùi vị hơi khác hơn ở các nước khác không? Sự khác biệt là do mùi vị khác nhau của đường HCFS và đường mía. Nói đến Coca Cola, chỉ ½ lon soda có thể làm tăng tỉ số bị đột quỵ tim lên đến 30%. Bạn có biết là một muỗng tương cà chua Heinz có nhiều đường hơn là một cái bánh quy Oreo không? Hoặc, một hủ da-ua (fruit yogurt) có nhiều đường hơn là một lon Coke? Hay trong một tô cereal buổi sáng, 75% calories đến từ đường? Ngay cả nước trái cây “bổ dưỡng” fruit juice, nước uống “tăng cường năng lực”, cà phê Starbucks v.v… hăy thử đoán có bao nhiêu đường trong đó?


Tại sao đường gây ra tai hại?


Khi bạn mới uống hay ăn thức ăn có đường vào cơ thể đa phần bạn sẽ có cảm giác thoải mái, dễ chịu. Thứ nhất v́ trên thực tế cơ thể chúng ta cần một số ít đường để sống. Lượng đường nầy thấm vào các tế bào, cung cấp năng lượng cấp thời làm cho ta…khỏe. Thứ nh́ có thể v́ yếu tố tâm lư của đa số bệnh ghiền, v́ từ thuở nhỏ chúng ta đă quen với vị ngọt của đường, nhất là những khi bé khóc là bố mẹ dúi cho một cục keo hay một cây cà rem. V́ thế bây giờ khi bị “stress” chúng ta dễ đi t́m niềm an ủi với vị ngọt của đường.

Sau khi cảm giác dễ chịu qua đi, chúng ta sẽ thấy cơ thể nặng nề v́ những lượng đường dư thừa sẽ tạo gánh nặng cho cơ thể. Lá gan và pancreas cần phải “giải độc” khối lượng đường phụ trội này bằng cách chế biến và chứa vào mỡ đặc (triglycerides) làm cho ta béo ph́ ra, hay làm tăng mỡ lỏng (cholesterol, LDL) làm cho tim, mạch máu bị nghẽn. Ngoài ra, các tế bào bị ngâm trong đường sẽ biến thành… mứt quất (mứt tắt), để cân bằng nồng độ hai bên, nước từ bên trong tế bào sẽ rút ra máu, làm khô nước bên trong và dễ chết (Bạn dă đọc bài “Yêu Nước” chưa?). Càng ngâm trong đường càng lâu các tế bào sẽ có hiệu ứng giống như bị “thắng đường” khi các bà làm nước màu kho cá!. Cuối cùng lá gan cũng đầu hàng, sanh ra bệnh tiểu đường. Ṿng tṛn tử vong tiếp tục xoáy tṛn kéo ḿnh vào vực sâu của đáy huyệt một cách nhanh chóng.


Làm thế nào để bớt ghiền đường?

sugar1-large


1. Không nên ăn đường giả (sugar substitute, diet gugar)! Đường thật mà c̣n có hại huống chi đường giả! Đường giả đa phần có cấu trúc giống như đường có trong... lá cây, rễ cây v.v… để lừa cơ thể chúng ta mà thôi. Tuy không làm tăng calorie nhưng vẫn có những tác hại tương tự.




2. Nên để ư hàm lượng đường trong tất cả các loại thức ăn. Tốt hơn hết là không ăn đồ ăn đă chế biến mà chỉ ăn đồ ăn tươi do chính ḿnh nấu nướng lấy.




3. Ăn ít , ăn cân bằng và biết lựa chọn. Thí dụ không ai cấm bạn ăn một quả chuối mỗi ngày, miễn đừng ăn luôn cả nải chuối. Giữa một quả cam và một ly nước cam th́ nên chọn…?




4. Ăn chậm, nhai chậm lại để tận hưởng vị ngọt của thức ăn. Tôi bảo đảm với bạn sau khi bạn nhai một miếng dưa chuột thật kỹ, thật lâu bạn sẽ thấy vị ngọt của nó không thua ǵ một múi cam. Mà có nhai một múi cam, th́ cũng nên bỏ th́ giờ mà tận hưởng hương vị của nó. Nên nhớ ngoài vị ngọt c̣n có những vị khác nữa.




5. Tập thể dục, thể thao mỗi ngày. Đi bộ tối thiểu 15 phút trước hay ngay sau khi ăn, hoặc cả hai càng tốt. Đi bộ sẽ làm cho các tế bào mở rộng cửa để cho đường thấm nhanh vào bên trong, giảm bớt nồng độ đường ngoài mạch máu.

Hôm nay nên là bắt đầu mới cho mọi người. Chúc bạn đọc khỏe, vui vẻ v́ bớt… “nghiện đường”.



BS Hồ Ngọc Minh_

florida80
04-10-2019, 18:45
TUỔI THỌ









Bác sĩ Claudio Gil Araujo, người Brazil, đă t́m ra một phương pháp được thực hiện qua cách ngồi, đứng đơn giản để nhanh chóng giúp cho mỗi người có thể đoán một cách khá chính xác số năm tháng c̣n lại của đời ḿnh.




Phương pháp của ông Araujo dựa vào sự dẻo dai của cơ bắp, sự cân bằng, và sự mạnh mẽ cơ thể khi đứng lên ngồi xuống của những người lớn tuổi.
sitting-down-content





Từ nhận xét này ông Araujo cùng một số đồng nghiệp có sáng kiến thiết lập ra một thử nghiệm đơn giản không cần máy móc mà mọi người trên 50 tuổi đều có thể tự ḿnh hay cùng với bạn bè thực hành ở bất cứ nơi nào. Phương pháp này gọi là SRT (sitting-rise test).
sit-and-stand-test




Bước đầu tiên là đứng thẳng giữa pḥng, từ từ ngồi trong tư thế tréo chân. Sau đó tự đứng thẳng lên mà không dùng tay vịn hoặc chống như trong h́nh. Thang điểm để cho bài tập này là 10 điểm: 5 điểm cho động tác ngồi xuống và 5 điểm cho động tác đứng lên. Mỗi khi phải dùng đến đôi tay th́ bị trừ một điểm và mỗi khi xiêu vẹo mất thăng bằng th́ bị trừ nửa điểm. Bác sĩ Araujo áp dụng bài tập trên đối với 2,000 người trong độ tuổi từ 51 đến 80 và kết quả cho thấy đa số những người có điểm dưới 8 chỉ sống thêm khoảng 6 năm, người có điểm dưới 3 th́ qua đời không lâu sau đó.
scoring-for-sit-test





Nói chung cứ mỗi điểm đạt được qua thử nghiệm ngồi và đứng lên tượng trưng cho 21% cơ hội giảm thiểu tính tử vong.





Tuy phương pháp chính xác nhất đối với người ngoài 50, nhưng những người trẻ hơn cũng có thể thực hành.





Cũng theo ông Araujo rất nhiều người sau khi thử phương pháp SRT đă cố gắng thay đổi cách sinh hoạt qua việc ăn uống, vận động và tập luyện trong chừng mực của ḿnh để gia tăng sự dẻo dai và sức mạnh nhằm kéo dài tuổi thọ.





Ông Araujo nói rằng phương pháp này thuyết phục các bệnh nhân của ông hơn là chỉ nghe ông khuyên bảo suông về việc tập thể dục và ăn uống lành mạnh

florida80
04-10-2019, 18:47
Cô Mộng Hoàng tâm sự rằng người yêu của cô không vui lắm, v́ khi gần nhau th́ dường như có mùi không thơm từ miệng cô toát ra. Cô đă được nhiều bác sĩ, nha sĩ điều trị mà miệng vẫn c̣n phảng phất mùi hôi hôi. Bạn cô nói tại v́ cô ăn uống không giữ ǵn, lại hay ăn quà vặt luôn miệng nên bị như vậy.

Cô muốn biết tại sao miệng lại hôi, v́ chẵng những người yêu không vui mà bản thân cô cũng buồn buồn. Và làm sao để miệng thơm trở lại.

Chúng tôi thông cảm với hoàn cảnh của cô và nỗi buồn của một thanh nữ đang nhiều sức sống mănh liệt mà rơi vào t́nh trạng trầm buồn. Theo như cô tả lại th́ cô bị chứng hôi miệng từ lâu và đă điều trị mà không hết. Thực tâm mà nói, chứng bệnh này không phải chỉ ḿnh cô mắc phải đâu, mà c̣n nhiều người khác cũng vướng phải và cũng đang ngượng ngập, buồn buồn.

Trước hết, xin cùng với cô ôn lại về miệng và bệnh này một chút nhé.

Ở loài người, miệng là cửa ngơ của sự tiêu hóa và hô hấp, nơi mà không khí cũng như thực phẩm ra vào. Cấu trúc của miệng cũng khá phức tạp với phía trước là cặp môi và hàm răng; hai bên cạnh là xương hàm và má, phía sau thông với cuống họng. Phía trên là hàm ếch, mặt dưới là lưỡi.

Miệng có nhiệm vụ quan trọng trong việc tiêu hóa thực phẩm.

Răng để nhai nhuyễn món ăn với sự trợ giúp của lưỡi. Tuyến nước miếng tiết ra nước miếng để làm món ăn nhuyễn nhỏ đồng thời cũng để giữ ǵn vệ sinh răng miệng, giúp phát âm hoạt bát. Nước miếng c̣n chứa men tiêu hóa amylase để chuyển hóa tinh bột ra đường.

Miệng c̣n chứa thanh quản, một cơ quan phát âm. Không khí cũng ra vào theo miệng mặc dù mũi là cơ quan chính sự hô hấp.

Xét vậy th́ miệng có vai tṛ quan trọng trong vấn đề sức khỏe, như các cụ ta thường nói "Bệnh từ miệng mà vào, vạ từ miệng mà ra". Ư giả các cụ bảo là nhiều bệnh gây ra ro sự ăn uống cẩu thả mà nhiều tai ương cũng từ cửa miệng khi phát ngôn bừa băi mà nên chuyện. Chẳng khác chi câu nói cổ nhân "miệng nhà sang có gang có thép".

Miệng quan trọng như vậy mà không khéo giữ ǵn th́ cũng bệnh, cũng đau. Mà hôi miệng là một trong những bệnh đó.

Sanh ra em bé miệng thơm tho sạch sẽ, ai cũng muốn "thơm" một tư. V́ em chỉ bú sữa mẹ dễ tiêu, và cũng v́ chưa có răng cho nên vi sinh vật có hại chưa có nơi ẩn núp. Lớn lên, răng bắt đầu nhú mà kém vệ sinh răng miệng là lúc bắt đầu có vấn đề.

Hôi miệng, hơi thở hôi hoặc thối miệng là dấu hiệu một bệnh nào đó của cơ thể. Đây là một chứng bệnh rất phổ biến với nhiều nguyên nhân phức tạp. Thậm chí danh từ chuyên môn y học gọi là Halitosis cũng bắt nguồn từ hai ngôn ngữ khác nhau: "halitus" từ tiếng La tinh có nghĩa là hơi thở, và suffix Hy Lạp "osis" là t́nh trạng.

Thường thường, khi nói tới hôi miệng th́ nhiều người cứ cho là do bao tử mà nên nỗi. Nhưng thực ra những 85% trường hợp hôi miệng lại chính từ miệng, c̣n lại 15% đến từ nhiều lư do khác nhau, trong đó có vấn đề dinh dưỡng, ăn uống như bạn cô nói.

Nguyên nhân

Có nhiều nguyên nhân đưa tới hôi miệng

a- Từ miệng

Miệng được một số khoa học gia ví như một sở thú, trong đó chen chúc sinh sống cả dăm ba trăm loại vi sinh vật lành dữ khác nhau, đặc biệt là ở phần sau của lưỡi. Đa số các vi khuẩn này thuộc nhóm kỵ khí nghĩa là chúng chỉ tăng sinh trong môi trường không có oxy như trong bựa răng, khe răng, túi nha chu nhất là ở mặt sau của lưỡi.

Khi há miệng soi vào gương, ta thấy lợn cợn những vệt trắng với nhiều vi khuẩn phủ trên lưỡi. Thức ăn sót lại trong miệng hoặc ở các kẽ răng là món ăn hấp dẫn đối với chúng và sẽ bị phân hóa tạo ra mùi hôi.

- Nhiễm trùng ở nướu răng cũng lại mấy cô cậu vi khuẩn bám vào các cục bựa chất béo, calci ở chân răng mà ra. Bựa vôi đóng vào chân răng là môi trường tốt cho vi khuẩn tác dụng vào và đưa đến hôi miệng.

- Khi miệng khô, như ngủ ban đêm thở bằng miệng hoặc dưới tác dụng của vài dược phẩm, hút thuốc lá khiến cho miệng khô, đóng bựa, vi khuẩn tác dụng vào và tạo ra mùi hôi.

- Các bệnh nấm trong miệng tạo mùi ngọt trái cây

- Răng giả không được chùi rửa sạch sẽ.

b- Một số thực phẩm có chất dầu gây hôi cho hơi thở như tỏi, hành. Các thực phẩm này sau khi được tiêu hóa, chất bay hơi của chúng đều được hấp thụ vào máu, lên phổi và theo không khí hít thở mà bay ra cửa miệng.

Mùi rượu sau khi uống vào cũng thoát ra như vậy trong hơi thở.

c- Một số bệnh về bộ máy hô hấp như nhiễm trùng phổi kinh niên, viêm xoang măn tính, chất lỏng ở sau miệng nhỏ giọt xuống cuống họng, ung thư phổi, viêm cuống họng, tiểu đường với mùi trái cây hư ủng, bệnh gan mùi trứng thối, thận mùi tanh cá ươn, rối loạn tiêu hóa cũng tạo ra hơi thở hôi. Đặc biệt là bệnh nhân tiểu đường là hay bị bệnh nớu răng, máu lưu thông giảm. dinh dưỡng kém, nớu mau hư.

Những bệnh về bao tử ít gây ra hôi miệng v́ van thực quản-dạ dày luôn luôn khép kín, hơi không bốc lên được ngoại trừ khi ói mửa hoặc ợ chua, trào ngược nước chua từ bao tử vào thực quản, thoát vị khe thực quản (hiatal hernia) hoặc hẹp môn vị (pyloric stenosis).

Nhiễm trùng tổng quát, bị nóng sốt làm cho miệng khô

d- Rối loạn về sự co bóp của bao tử, thực phẩm chậm tiêu hóa ở lâu trong dạ dầy, bị lên men cũng tạo ra mùi hôi, nhất là khi ta ợ.

e- Một nguyên nhân Tâm Lư là nhiều người quá chú tâm tới dung nhan ḿnh, có ảo tưởng là cơ thể ḿnh hư hao, phát tiết ra mùi khó chịu. Nhiều người mỗi khi nói chuyện là che miệng, như thể là miệng ḿnh hôi.

g- Trong thời kỳ kinh nguyệt cũng hay có mùi hôi lưu huỳnh từ miệng gây ra do thay đổi kích thích tố trong cơ thể.

h- Dược phẩm gây ra khô miệng cũng gián tiếp tạo mùi hôi như thuốc chống dị ứng benadryl, trị tâm thần, trầm cảm, thuốc lợi tiểu tiện, trị bệnh Parkinson, cao huyết áp

Phân tích mùi hôi

Đa số mùi hôi là do chất hơi có lưu huỳnh (Sulfur), như hydrogen sulfide có mùi hôi trứng thối, methyl mercaptan, và dimethyl disulfides. Đôi khi, mùi hôi do những chất hơi acids béo (fatty acids) như propionic, butyric, hay valeric acids hay những chất amin (indole, skatole, cadaverine và putrescine).

B́nh thường các chất này được ḥa tan trong nước miếng và hấp thụ vào tế bào ở miệng. Nhưng khi có quá nhiều hoặc miệng quá khô, chúng sẽ tỏa ra hơi thở từ miệng, khiến cho hơi thở kém thơm tho.

Chẩn đoán hôi miệng

Nhiều người cứ tự hỏi không biết miệng ḿnh thơm hôi ra sao nhất là khi cần rù ŕ tâm sự sát với tai người khác. Sau đây là mấy phương thức:

- Tự ḿnh t́m hiểu bằng cách thở hoặc bôi nước miếng vào ḷng bàn tay đợi vài giây cho nước miếng khô rổi hửi xem thơm hôi ra sao.

- Khi ta bịt mũi thở ra bằng miệng mà thấy hôi th́ đa phần là mùi xuất phát từ miệng. Ngược lại ngậm miệng thở ra bằng mũi mà hôi là do bệnh cơ quan nội tăng. Mùi hôi ngấm vào máu, thoát lên phổi rồi thở ra ngoài.

- Nhờ người khác khám phá khi họ kề sát mũi vào miệng ḿnh hửi hơi thở. Nhớ giữ khoảng cách an toàn, tránh nước miếng văng vào mũi miệng ḿnh.

- Dùng máy khám phá mùi hôi (Halimeter). Máy rất chính xác có thể đo nồng độ cao thấp khác nhau của mùi lưu huỳnh trong hơi thở.

Xin cô thử duyệt lại các nguyên do kể trên, xem ḿnh ở vào trường hợp nào rồi ta từ từ loại bỏ, chữa trị.

Điều trị

Về điều trị th́ xin đề nghị với cô các phương thức sau đây:

a- Nguyên nhân thông thường nhất của hôi miệng là từ miệng.

Đề nghị với cô để ư nhiều đến vấn đề vệ sinh răng miệng. Đánh răng sau khi ăn, nhất là nếu cô có thói quen hay ăn vặt, ưa món ăn ngọt. Cô không cần dùng kem đánh răng, mà chỉ cần trà nhẹ mặt trong mặt ngoài của răng cho sạch hết thức ăn sót trong miệng, đặc biệt là ở kẽ răng.

-Mua thêm dây chỉ nylon (Dental Floss) để cà khe răng cho sạch thức ăn kẹt ở đó.

- Cô nên khám Nha sĩ coi có bị sâu răng, nhiễm độc nớu th́ xin chữa.

- Giữ miệng ẩm ướt bằng cách lâu lâu uống một chút nước.

- Nếu lưỡi đóng bựa, bám nhiều vi khuẩn th́ cạo cho hết, nhất là mặt sau của lưỡi.

b- Xin bác sĩ khám nghiệm coi có các bệnh kinh niên như tôi kể trên và điều trị.

Nhắc nhở với cô là trước khi gặp người yêu, không nên ăn các thực phẩm có thể gây mùi hôi ở miệng như hành tỏi, cá mú. Đồng thời có thể tạm thời làm giảm mùi hôi với:

- Nhai kẹo cao su không đường để tăng tiết nước miếng mà công dụng là vừa loại các miếng bựa vừa diệt vi khuẩn trong miệng,

- Xúc miệng với các mỹ phẩm làm thơm miệng. Các chất này chỉ có tác dụng che đậy, làm bớt hôi miệng trong thời gian ngắn sau khi dùng, chứ không trị dứt được hôi miệng đâu.

- Trái cây có nhiều chất xơ như táo, cà rốt, lê khi nhai có thể làm sạch miệng.

- Ăn một ly sữa chua, một miếng pho mát cũng có tác dụng sạch miệng, trừ hôi.

- Các loại cây lá có mùi thơm như quế, gừng, rau mùi tây, bạc hà, hồi, chè xanh …cũng tạm thời át mùi hôi ở miệng.

- Pha một chút bột nở baking soda với nước cũng diệt vi khuẩn, giảm mùi hôi ở miệng.

- Mạnh hơn nếu cô pha 50% nước oxy già hydrogen peroxide với 50% nước rồi xúc miệng. Đây là dung dịch diệt trùng rất tốt.

Nhớ đừng quá chén, nhiều rượu hoặc cà phê nhé, v́ các chất này lợi tiểu, làm miệng mau khô, lời nói không dẻo mà vi khuẩn lại tăng sinh, hôi miệng.

Chúc cô có nhiều niềm vui trong hơi thở vẫn thơm, cho tăng t́nh yêu lứa đôi.

Bác sĩ Nguyễn Ư Đức M.D.

Texas-Hoa Kỳ.
(nguồn VB. h́nh minh hoạ BBT)

florida80
04-10-2019, 18:49
Làm Sao Để Du Lịch Được An Toàn?

chdi7-large-content


Mùa Xuân và Tết đă đến. Đồng bào ta sẽ đi du lịch rất nhiều. Như là về quê nhà ăn Tết hay là đi du lịch khắp nơi. Mấy tháng gần đây có nhiều người hỏi chúng tôi nếu đi về Việt Nam th́ phải chích ngừa hay làm ǵ cho an toàn. Xin mạn phép được chia sẽ với các bạn ông bà anh chị em những điều sau đây (theo tài liệu của Trung Tâm Kiểm Soát Dịch Bệnh -Center of Disease Control, USA) để sức khỏe quí vị được an toàn khi đi về Việt Nam du lịch hay thăm viếng bà con gia đ́nh.
1.Chích ngừa:


Tất cả du khách: Bạn nên được cập nhật về chích ngừa thường xuyên trong khi đi du lịch đến bất kỳ điểm đến. Một số loại vắc-xin cũng có thể được chích cho các bạn khi đi du lịch.


Vắc-xin định kỳ

Hăy chắc chắn rằng bạn đă được cập nhật -up- to-date- về vắc-xin định kỳ trước mỗi chuyến đi . Các loại vắc-xin có thể bao gồm -quai bị- rubella (MMR) vắc xin, vắc-xin bạch hầu - uốn ván - ho gà (diphtheria-tetanus-pertussis vaccine) , thủy đậu ( trái rạ- varicella ) vắc xin, vắc xin bại liệt (polio), và chích ngừa cúm hàng năm của bạn (yearly flu shot).

Vắc-xin cho phong đ̣n gánh th́ cứ 10 năm nên chích lại một lần.

Vắc –xin cho dời ăn hay shingles ( herpes zoster ) th́ 60 tuổi nên chích ngừa. Chỉ có một mũi mà thôi.

Vắc –xin cho bệnh sưng phổi -Pneumovax- cho những ai 65 tuổi trở lên. Có thể chích lại sau 5 năm .



Hầu hết du khách: Hăy nên chích ngừa và uống thuốc hay xin thuốc trước khi đi cho những bệnh dưới đây bởi v́ có nguy cơ cho các bệnh này ở Việt Nam.




Viêm gan A

Hepatitis A

Trung Tâm Kiểm Soát Dịch Bệnh -Center of Disease Control (CDC) khuyến cáo về bệnh Viêm Gan A và vắc-xin này bởi v́ bạn có thể bị viêm gan A v́ ăn trúng những thực phẩm bị ô nhiễm không rữa sạch hay nước uống bị ô nhiễm tại Việt Nam , không phân biệt nơi bạn đang ăn hoặc ở .

Vaccine cho Viêm Gan A có 2 mũi chích cách nhau 6 tháng.



Thương hàn

Typhoid

Bạn có thể bị bệnh thương hàn v́ ăn trúng những thực phẩm bị ô nhiễm hoặc uống nước nhiễm đôc tại Việt Nam. CDC khuyến cáo vắc-xin này cho hầu hết du khách , đặc biệt là nếu bạn đang ở với bạn bè hoặc người thân, quư khách đến thăm thành phố nhỏ hơn hoặc các khu vực nông thôn , hay bạn là một người thích mao hiễm và không sợ bi mắc những bệnh này.





Viêm năo Nhật Bản

Japanese encephalitis

Bạn có thể cần vắc-xin này nếu chuyến đi của bạn sẽ kéo dài hơn một tháng , tùy thuộc vào nơi bạn đang ở Việt Nam và thời gian nào trong năm bạn đang đi du lịch . Bạn cũng nên xem xét vắc-xin này nếu bạn có kế hoạch đến thăm các vùng nông thôn tại Việt Nam, hoặc sẽ ở ngoài trời nhiều ngay cả đối với các chuyến đi ngắn hơn một tháng. Bác sĩ có thể giúp bạn quyết định nếu vắc-xin này là đúng cho bạn dựa trên kế hoạch du lịch của bạn..



Viêm gan B

Hepatitis B

Bạn có thể mắc bệnh viêm gan B qua đường t́nh dục , chích kim bị ô nhiễm, và tiếp huyết hay các sản phẩm máu. V́ vậy CDC khuyên bạn nên chích vắc-xin này nếu bạn có thể có quan hệ t́nh dục với một đối tác mới , xăm h́nh hoặc xỏ lỗ tai hay những nơi khác trên người ḿnh, hoặc có bất kỳ những thủ tục y tế (medical procedures) để định bệnh .
Vaccine cho Viêm Gan B có 3 mũi chích trong ṿng 6 tháng



Sốt rét

Malaria

Khi đi du lịch tại Việt Nam , bạn nên tránh bị muỗi đốt để ngăn chặn bệnh sốt rét. Bạn có thể cần phải uống thuốc trước, trong khi và sau khi chuyến đi của bạn để ngăn chặn bệnh sốt rét, tùy thuộc vào kế hoạch du lịch của bạn , chẳng hạn như nơi bạn đang đi , khi bạn đang đi du lịch , và nếu bạn đang dành rất nhiều thời gian ở ngoài trời hoặc ngủ bên ngoài . Nói chuyện với bác sĩ của bạn về cách bạn có thể ngăn chặn bệnh sốt rét trong khi đi du lịch.



Bệnh chó dại

Rabies

Bệnh dại này có thể được t́m thấy trong những con chó , con dơi, và động vật có vú khác ở Việt Nam , v́ vậy CDC khuyến cáo vắc-xin này cho các nhóm sau:
-Du khách tham gia vào các hoạt động ngoài trời và như cắm trại, đi bộ đường dài , đi xe đạp , du lịch mạo hiểm , khám phá hang động, khiến họ có nguy cơ bị động vật cắn .

-Những người đang đi du lịch lâu dài hoặc di chuyển đến Việt Nam
-Trẻ em , bởi v́ họ có xu hướng chơi với động vật, không có báo cáo bị cắn, và có nhiều cơ hội để bị những con vật này cắn trên đầu và cổ của các em.



Sốt Rét Vàng

Yellow Fever

Hiện thời không có nguy cơ bệnh sốt rét vàng ở Việt Nam. Chính phủ Việt Nam chỉ yêu cầu bằng chứng về chủng ngừa bệnh sốt vàng nếu bạn đang đến từ một đất nước có nguy cơ bệnh sốt vàng da . Này không bao gồm Mỹ. Nếu bạn đang đi du lịch từ một quốc gia khác ngoài Mỹ, kiểm tra danh sách này để xem nếu bạn có thể cần phải được chủng ngừa bệnh sốt vàng da.



Bệnh Cúm Gia Cầm

Avian Flu

Hiện thời có bệnh cúm gia cầm ở Việt Nam. Xin liên lạc với bác sĩ của quí vị để có thêm tin cập nhật và chích ngừa hay thuốc uống. Nên cẩn thận khi dùng thịt gà hay thăm viếng những nơi có nhiều trại gà.





2. Vấn đề thực phẫm và nước uống

Nên ăn
• Thực phẩm được nấu chín và ăn nóng
• Trái cây và rau bạn đă rửa sạch bằng nước sạch hoặc lột vỏ

Không nên ăn
• Thực phẩm để ở ngoài lâu, không đươc để trong tủ lạnh.
• Thực phẩm bán bên lề đường
• Thịt hoặc cá chưa nấu chín
• Thức ăn chưa rửa hoặc trái cây tươi và rau quả chưa gọt vỏ

Nên Uống
• Nước đóng chai được niêm phong
• Nước đă được khử trùng
• Đồ uống có ga
• Cà phê nóng hoặc trà

Không nên uống
• Không nên uống nước đá mà chỉ dùng nước đá để ướp nước uống cho lạnh mà thôi

• Nước đá được làm bằng nước máy hoặc nước giếng
• Nước uống từ faucet hoặc nước giếng

• Sữa không tiệt trùng hay Pasteurized

3. Chứng Bệnh Tiêu Chảy

Tiêu chảy khi đi du lịch (Travel Diarhea)
Bị tiêu chảy khi di du lịch là căn bệnh liên quan đến du lịch rất phổ biến và thông thường nhất. Nó có thể xảy ra bất cứ nơi nào , nhưng những nơi có nguy cơ cao nhất là hầu hết ở các khu vực châu Á (trừ Nhật Bản ) cũng như Trung Đông , châu Phi, Mexico , Trung và Nam Mỹ .

Pḥng chống
Ở người lớn khỏe mạnh, tiêu chảy hiếm khi nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng , nhưng nó chắc chắn có thể làm cho chuyến du lịch của quí bạn sẽ bị khó chịu không vui. Sau đây là các bước mà các bạn có thể làm để tránh tiêu chảy khi bạn đi du lịch:
-Chọn thực phẩm và đồ uống cẩn thận để giảm nguy cơ tiêu chảy

-Chỉ ăn thực phẩm được nấu chín và ăn nóng.

-Ăn trái cây tươi và rau quả chỉ khi nào bạn đă rửa sạch bằng nước sạch hoặc lột vỏ chúng. Chỉ uống đồ uống chứa từ trong chai c̣n dán kín hay niêm phong, và tránh nước đá (v́ nó có thể đă được làm từ nước không sạch ) .

-Giữ tay của bạn sạch
-Rửa tay thường xuyên bằng xà pḥng và nước, đặc biệt là sau khi sử dụng pḥng tắm và trước khi ăn. Nếu xà pḥng và nước không có sẵn, sử dụng một chất rửa tay chứa cồn .

-Thay thế chất lỏng
Người bị tiêu chảy nên uống nhiều chất lỏng để không thiếu nước. Điều này đặc biệt quan trọng đối với trẻ em hoặc người lớn bị bệnh măn tính. Trong trường hợp nghiêm trọng của tiêu chảy du lịch, uống bù nước có sẵn trực tuyến có bán tại các nhà thuốc trong nước hay ăn cháo loăng
-Thuốc kháng sinh
Nhiều du khách mang theo thuốc kháng sinh với họ để họ có thể điều trị tiêu chảy sớm nếu họ bắt đầu bị bệnh. Lựa chọn kháng sinh thay đổi tùy theo nơi sẽ ở . Hăy hỏi bác sĩ của bạn nếu bạn nên dùng thuốc kháng sinh trong chuyến đi của bạn. Thông thường là thuốc Cipro hay Bactrim tùy theo hồ sơ bệnh lư và bác sĩ của bạn.

-Thuốc không cần toa mua ở nhà thuốc tây hay ở chợ
Nhiều loại thuốc , chẳng hạn như Kaopactate hoặc Imodium , có thể được mua over-the -counter để điều trị các triệu chứng của bệnh tiêu chảy . Những loại thuốc này làm giảm bớt tiêu chảy và tiện hơn cho những ai đang đi trên xe buưt hoặc máy bay trong khi chờ đợi một loại kháng sinh có hiệu lực.



Trên đây chỉ là một vài lời đơn giản mà chúng tôi muốn xin chia sẽ với quí vị ở trong giới hạn khuôn khổ của trang net này. Xin quí vị cứ liên lạc với chúng tôi nếu có câu hỏi ǵ thêm.

Chúc quí vị đi du lịch vui vẻ và an toàn.

florida80
04-10-2019, 18:52
ĐI NGHE BUỔI THUYẾT TR̀NH VỀ ĂN CHAY

bacsi

Bác sĩ Jérôme Bernard-Pellet




Jérôme Bernard-Pellet là một bác sĩ người Pháp được một hội tâm linh Ấn Độ mời thuyết tŕnh về chủ đề ăn chay tại Hội trường số 104 đường Vaugirard - Paris, ngày 2 tháng 10 năm 2009. Là một bác sĩ và đồng thời cũng là một khoa học gia nghiên cứu về ăn chay, ông được nhiều người biết đến v́ sự nhiệt tâm của ông trong các buổi thuyết tŕnh được tổ chức khắp nơi. Ông sẵn sàng đi thuyết giảng bất cứ nơi đâu nếu có một tổ chức nào mời.

Bài viết này không có chủ đích lập lại toàn thể nội dung của buổi nói chuyện v́ thật ra những lợi điểm của việc ăn chay đă từng được nhiều sách báo nói đến. Mục đích của người viết khi đi nghe là cố gắng ức đoán xem động cơ nào đă thúc đẩy Bác sĩ J. Bernard-Pellet khuyến khích việc ăn chay, đồng thời để t́m hiểu xem cử tọa đến nghe thuộc tầng lớp nào trong xă hội và họ mong đợi những ǵ ở buổi thuyết tŕnh?

Trước hết người viết xin tóm lược một vài nét chính trong nội dung của bài thuyết tŕnh và sau đó sẽ tường thuật sơ lược diễn tiến của buổi nói chuyện để làm đề tài suy tư.



1- Sơ lược nội dung buổi thuyết tŕnh

* Định nghĩa về ăn chay

Bác sĩ J. Bernard-Pellet bắt đầu buổi nói chuyện bằng cách định nghĩa thế nào là ăn chay. Theo ông th́ ẩm thực của con người gồm có ba loại :

- Ăn tạp (omnivore, omnivorous) : ăn thức ăn có nguồn gốc thực vật và động vật

- Ăn chay (végétarien, végétarisme, vegetarian, vegetarianism) không ăn « thịt » của bất cứ một động vật nào (bất kể là heo, ḅ, gà, cá, ṣ ốc, rắn rết, côn trùng...)

- Ăn toàn chay (végétalien, végétalisme, vegan, veganism) : ăn toàn thực vật, chẳng những không ăn « thịt » của bất cứ động vật nào mà c̣n tránh hết các thực phẩm có nguồn gốc động vật như sữa, trứng, chất keo gelatin (trong bánh, kẹo...).



* Động cơ thúc đẩy việc ăn chay

Bác sĩ J. Bernard-Pellet liệt kê các động cơ thúc đẩy việc ăn chay như sau :

- Ăn chay v́ sự sống của sinh vật : Mỗi năm có khoảng 55 tỉ sinh vật sống trên trái đất bị giết hại để ăn thịt. Cá trong ao hồ, sông ng̣i và đại dương bị giết khoảng 1000 tỉ con vừa lớn vừa nhỏ mỗi năm. [Có lẽ cũng cần nhắc thêm là dân số địa cầu gồm khoảng 6 tỉ người].

- Ăn chay v́ môi sinh : Chăn nuôi là một trong những nguyên nhân hàng đầu làm ô nhiễm địa cầu. Một phần tư tổng số khí CO² thải ra trong bầu khí quyển là do gia súc chăn nuôi. Các chất phóng uế của súc vật trên đất và trong nước làm cho địa cầu trở nên ô nhiễm. Chẳng hạn như chất nitrat từ phân của súc vật và cá thải ra từ các nơi chăn nuôi kỹ nghệ đang làm cho các quốc gia Tây phương điên đầu v́ không t́m được giải pháp nào hữu hiệu và quy mô để trừ khử.

- Ăn chay để chống lại nạn đói : Ăn thịt là một sự phí phạm lớn lao v́ phải cần đến 10 gam chất đạm thực vật mới tạo được 1 gam chất đạm trong thịt cá.

- Ăn chay v́ kinh tế và Ăn chay trong mục đích tu tập tinh thần :Bác sĩ J. Bernard-Pellet nêu lên hai lư do này nhưng không giải thích. Ông cho biết là vấn đề kinh tế không thuộc lănh vực hiểu biết của ông, c̣n vấn đề tâm linh th́ mang tính cách cá nhân.



* Lợi ích của việc ăn chay

Có lẽ cũng không cần phải dài ḍng về mục này v́ phần đông ai cũng biết và hơn nữa đă có nhiều sách vở quảng bá những lợi ích thiết thực của việc ăn chay. Sau đây là một vài lợi ích của ăn chay liên quan đến sức khoẻ do Bác sĩ J. Bernard-Pellet nêu lên :

- Ăn chay làm giảm tỷ lệ tử vong (mortalité) và tỷ lệ mắc bệnh (morbilité) một cách rơ rệt. Tỷ lệ tử vong và mắc bệnh giám xuống từ 10% đến 15% đối với người ăn chay.

- Cải thiện sự thoải mái và mang lại cảm giác khoan khoái cho người ăn chay.

- Làm chậm lại hiện tượng lăo hóa của các tế bào cơ thể.

- Làm giảm xuống từ 20% đến 50% các chứng bệnh sau đây : ph́ nộm, các bệnh tim-mạch (chứng nhói tim, nhồi máu cơ tim), huyết áp cao, tiểu đường, ung thư, các bệnh về thận, sa sút trí nhớ và giảm trí thông minh (démence), sạn thận, viêm khớp v́ phong thấp, bệnh trĩ, ruột thừa...(maladies diverticulaires), bệnh thoát vị của một số cơ quan (hernie)...



* Nên ăn chay như thế nào ?

Bác sĩ J. Bernard-Pellet khẳng định là cách ăn chay tốt nhất và lư tưởng nhất là cách ăn toàn chay. Ông nêu lên nhiều kết quả không chối căi được do các khảo cứu khoa học mang lại liên quan đến sức khoẻ và sự ngăn ngừa và chữa trị đối với nhiều loại bệnh tật. Một số các kết quả ấy có thể liệt kê ra như sau :

- Tăng cường sự miễn dịch (immunité) của cơ thể và nhất là làm gia tăng sự hoạt động hữu hiệu của tuyến tụy hay tụy trạng (c̣n gọi là lá lách). Các khoa học gia theo dơi một số mẫungười bị bệnh tiểu đường loại 2, tức loại tiểu đường thông thường nhất nơi những người lớn tuôi, số người này chỉ cần ăn toàn chay trong một thời gian ngắn th́ t́nh trạng bệnh lư sẽ được cải thiện một cách nhanh chóng, mặc dù phần lớn bệnh tiểu đường mang tính cách di truyền.

- Các khoa học gia c̣n quan sát, phân loại và so sánh ảnh hưởng của việc ăn chay tùy theo các nhóm người được đem ra thử nghiệm : nhóm không ăn chay, nhóm ăn chay, nhóm ăn toàn chay..., các nhóm người này c̣n được phân chia theo tuổi tác, nghề nghiệp, địa lư, chủng tộc, môi trường (sống ở thành thị hay thôn quê)... Thí dụ như ở Mỹ, trẻ con mới tám tuổi đă bị bệnh tiểu đường loại 2 v́ ăn quá nhiều bánh ḿ và thịt ḅ xay (hamburger), bánh ngọt (trứng, đường, bơ) và uống quá nhiều coca-cola (đường). Các kết quả nghiên cứu đều cho thấy các mẫu người thuộc nhóm ăn toàn chay có sức khoẻ tốt hơn hết, trong số những người này nếu có ai mang sẵn các chứng bệnh như tiểu đường, áp huyết cao... th́ bệnh t́nh của họ cũng thuyên giảm một cách rơ rệt.



* Các thức ăn chay có thiếu chất đạm (protein) và chất sắt hay không?

Theo bác sĩ J. Bernard-Pellet th́ người ăn chay ăn nhiều chất đạm (protein) hơn sự cần thiết của cơ thể rất nhiều. Ngay cả súc vật chăn nuôi nói chung cũng hấp thụ chất đạm ba lần nhiều hơn nhu cầu cần thiết. Chất đạm là các phân tử amino axit kết hợp lại và tạo ra cấu trúc của các tế bào. Thông thường có khoảng 20 loại protein khác nhau trong thực phẩm, nhưng thật sự cơ thể chỉ cần đến 8 loại protein chính. Một phụ nữ cân nặng 50 kg chỉ cần hấp thu mỗi ngày 40 gam protein là đủ. Các loại protein có thể t́m thấy trong rau đậu và ngũ cốc.

Bác sĩ J. Bernard-Pellet không tiếc lời tán dương phẩm tính của đậu nành. Theo ông th́ đậu nành là một thứ thực phẩm rất giàu các loại protein và có khả năng chống lại các độc tố histamin. Đậu nành hàm chứa tất cả tám thứ protéin cần thiết và được xếp vào loại thực phẩm lư tưởng nhất cho người ăn chay, nhất là ăn toàn chay v́ đậu nành có thể thay thế sữa và các thực phẩm biến chế từ sữa. Đậu nành ngăn ngừa rất hiệu quả nhiều chứng bệnh măn tính chẳng hạn như các bệnh ung bướu, nhất là ung thư vú, ung thư tuyến tiền liệt... Đậu nành c̣n làm chắc xương và tránh được bệnh xốp xương của phụ nữ khi măn kinh...

Ngoài các đặc tính ngừa bệnh trên đây nhờ vào các chất protein (36%), gluxit (30%) và lipit (18%) trong hạt đậu khô, th́ đậu nành c̣n chứa nhiều loại hormon có cấu trúc rất gần với hormon oestrogen, tức là loại hormon gây động dục nơi con người. Các nguyên tố này gọi là isoflavon, chúng tác động giống như hormon oestrogen trong việc ngăn ngừa và chữa trị ung thư vú, tử cung, tiền liệt tuyến và đại tràng.

Đối với chất sắt th́ Bác sĩ J. Bernard-Pellet cho biết là các loại đậu khô và đậu nành, hạnh nhân... đều chứa chất sắt, các loại rau như cải bắp, rau dền, cải hoa (brocoli)... cũng rất giàu chất sắt.



* Một vài điều cần lưu ư cho người ăn chay :

Theo Bác sĩ J. Bernard-Pellet trên thực tế ăn chay không có trở ngại hay khó khăn ǵ cả v́ ăn chay đơn giản hơn lối ăn tạp rất nhiều. Không cần phải là chuyên gia về ăn chay mới biết cách ăn chay. Tuy nhiên trong phần này Bác sĩ J. Bernard-Pellet cũng nêu lên tất cả các loại thuốc cần thiết bổ khuyết thêm cho người ăn chay cũng như người ăn tạp, chẳng hạn như các loại vitamin B12, vitamin D, Omega-3... Ông cũng nêu lên các tên thuốc liên quan đến các loại vitamin ấy và cho biết cả phân lượng cần thiết, cách dùng v.v. Ông c̣n cho biết thêm có hai loại thuốc Omega-3 khác nhau, một thứ được bào chế hoàn toàn từ dầu thực vật, một thứ khác lấy từ dầu cá.



* Các vấn đề khó khăn liên hệ đến việc ăn chay :

Các khó khăn chính trong việc ăn chay :

- Thay đổi thói quen của chính ḿnh khi phải chuyển từ lối ăn tạp sang lối ăn chay

- Giải thích với những người chung quanh tại sao ḿnh lại quyết định ăn chay

- T́m thức ăn chay khi ra khỏi nhà hoặc khi đi xa

Bác sĩ J. Bernard-Pellet c̣n cho biết qua kinh nghiệm của ông th́ số bác sĩ hiểu biết tường tận về ăn chay và ăn toàn chay rất hiếm. Một số lớn các bác sĩ v́ không nắm vững về vấn đề ăn chay nên thường hay khuyên mọi người không nên chọn lối ẩm thực này. Bất cứ vấn đề ǵ không hiểu biết tường tận th́ thường làm cho người ta sợ hăi. Y khoa là một ngành học mênh mông v́ thế không phải bất cứ vị bác sĩ nào cũng đủ sức hiểu biết tất cả. Các công cuộc khảo cứu y khoa quốc tế đều công nhận những lợi điểm về ăn chay, và sau đây là câu tuyên bố chung của các hiệp hội Hoa kỳ, Gia nă đại và Pháp (APSARES) về dinh dưỡng :

“ Các lối ăn chay (kể cả ăn toàn chay) nếu được thực hiện đúng đắn sẽ rất tốt cho sức khoẻ, thích hợp trên phương diện dinh dưỡng và hiệu quả trên phương diện pḥng ngừa và trị liệu một số bệnh tật ” (Les régimes végétariens (y compris le végétalisme) menés de façon appropriée sont bons pour la santé, adéquats sur le plan nutritionnel et bénéfiques pour la prévention et le traitement de certaines maladies)

Bác sĩ J. Bernard-Pellet c̣n cho biết thêm một số các trang trên mạng Internet chỉ dẫn về việc ăn chay, cách nấu ăn các món chay và cách chọn lựa các thực phẩm chay.



* Tóm lược phần kết luận của Bác sĩ J. Bernard-Pellet :

Các dữ kiện và những điều khẳng định do ông nêu lên trong buổi thuyết tŕnh đều được căn cứ vào các tài liệu y khoa quốc tế. Riêng ông th́ ngoài các công cuộc khảo cứu, ông c̣n mổ xẻ hơn 2000 tài liệu khoa học liên quan đến vấn đề ăn chay và một số lớn các tài liệu này được lưu trữ trong Thư viện quốc gia Hoa kỳ về Y khoa, bất cứ ai cũng có thể t́m thấy các tài liệu ấy trên mạng Internet www.pubmed.org. của thư viện khổng lồ này. V́ thế nếu có ai muốn kiểm chứng những điều ông nói hoặc muốn t́m hiểu thêm về ăn chay th́ có thể truy lùng các nguồn tư liệu trên đây.

Tóm lại theo ông th́ quan điểm của hiệp hội dinh dưỡng Hoa kỳ về ăn chay là quan điểm có giá trị toàn cầu mà chúng ta có thể tin tưởng được. Công việc nghiên cứu của hiệp hội này rất khoa học và các kết quả mang lại có thể sử dụng như những tài liệu dẫn chứng đứng đắn và hùng hồn nhất.



2- Một vài cảm nghĩ sau khi tham dự buổi thuyết tŕnh

* Diễn tiến của buổi thuyết tŕnh :

Buổi thuyết tŕnh khởi sự lúc 14 giờ 15 phút, cử tọa khoảng 40 người. Con số cử tọa như thế cũng tương đối khá đông so với chủ đề thuyết tŕnh và nhất là buổi nói chuyện do một hội tâm linh ít người biết đến đứng ra tổ chức. Phần lớn người đến nghe thuộc vào lứa tuổi khoảng từ 40 đến 60 và hầu hết là phụ nữ, chiếm khoảng ¾ cử tọa. Những người đến nghe tỏ ra là những người thuộc tầng lớp trung lưu và có tŕnh độ kiến thức khá cao.

Buổi thuyết tŕnh được diễn ra gần như dưới h́nh thức bàn tṛn v́ người tham dự đặt nhiều câu hỏi và nêu lên những thắc mắc của ḿnh trong khi Bác sĩ Bernard-Pellet đang thuyết tŕnh. Bầu không khí rất cởi mở, Bác sĩ J. Bernard-Pellet tỏ ra rất kiên nhẫn, từ tốn và trả lời tất cả các câu hỏi mặc dù có nhiều câu khá lạc đề.

Bác sĩ J. Bernard-Pellet chấm dứt phần thuyết vào lúc 15 giờ 45 phút và sau đó th́ cử tọa tranh nhau nêu lên đủ mọi thứ câu hỏi. Buổi thuyết tŕnh chấm dứt vào lúc 18 giờ. Bác sĩ J. Bernard-Pellet lúc nào cũng tỏ ra điềm đạm và không nóng nảy, mặc dù buổi thuyết tŕnh kéo dài gần 4 giờ liên tiếp.



* Các chủ đề không được khai triển :

Trong số các lư do thúc đẩy việc ăn chay th́ Bác sĩ J. Bernard-Pellet có nêu lên hai lư do khá quan trọng nhưng ông lại không khai triển, lư do thứ nhất là ăn chay v́ kinh tế và lư do thứ hai là ăn chay v́ tu tập tâm linh. Quả thật đây là hai lư do rất tế nhị.

Tại sao kinh tế lại là một lư do liên hệ đến việc ăn chay ? Chúng ta đều hiểu rằng một phần kinh tế của các nước tân tiến ngày nay dựa vào việc chăn nuôi kỹ nghệ và sản xuất thực phẩm biến chế từ gia súc. H́nh ảnh người nông dân chăn nuôi với tính cách gia đ́nh trong nông trại của ḿnh là một h́nh ảnh lỗi thời đối với các nước tân tiến ngày nay. Người nông dân phải sản xuất thật quy mô theo lối kỹ nghệ mới đủ sống. Sự lệ thuộc vào kỹ thuật bắt buộc họ phải vay mượn ngân hàng để trang bị và cải tiến. Nợ nần là một áp lực bắt họ phải liên tục gia tăng sản xuất đưa đến t́nh trạng dư thừa thực phẩm. Dư thừa làm giá cả hạ thấp, giá cả càng xuống thấp th́ người nông dân và các tổ hợp chăn nuôi lại càng phải gia tăng sản xuất nhiều hơn nữa để trả nợ ngân hàng và giữ mức lời tạm gọi là tương xứng với sự đầu tư của họ.



Cái ṿng luẩn quẩn đó đă nô lệ hóa người nông dân và đồng thời cũng tạo ra một vấn đề nan giải cho các quốc gia tân tiến, v́ chính phủ phải trợ cấp thường xuyên cho họ. Trợ cấp chỉ là một giải pháp vá víu, kết quả là người nông dân vẫn tiếp tục biểu t́nh đ̣i hỏi chính phủ phải giải quyết sự thua lỗ của họ. Họ kéo nhau lái máy kéo, máy cày nghênh ngang giữa đường phố làm tắc nghẽn lưu thông, hoặc ủi sập các ṭa nhà hành chính địa phương, và gần đây họ đă đổ hàng triệu lít sữa ra đường cái, trong ruộng đồng để bày tỏ sự phẫn nộ của họ.

Trong khi đó th́ hàng triệu gia súc bị cắt cổ, thọc huyết, hoặc bị bắn vào đầu bằng những súng sáng chế riêng để giết chúng... Chúng giẫy chết trong yên lặng trước khi được đưa vào các dây chuyền xẻ thịt và biến chế thực phẩm. Những con thú bị giết không có một hy vọng nào có thể trốn thoát và cũng không đủ trí thông minh để bày tỏ sự phẫn nộ của ḿnh như những người chăn nuôi chúng. Đấy là chưa kể những khổ đau mà chúng phải gánh chịu do các kỹ thuật chăn nuôi kỹ nghệ ngày nay.

Có thể trên đây là lư do ăn chay v́ kinh tế mà Bác sĩ J. Bernard-Pellet đă nêu lên mà ông không giải thích (?). Sự yên lặng của ông có lẽ cũng dễ hiểu v́ ăn chay để chống lại một xă hội tiêu thụ và biến cải một nền kinh tế điên rồ chỉ biết dựa vào sự gia tăng sản xuất như một phương tiện sống c̣n th́ quả thật việc ăn chay sẽ là một lư do quá yếu ớt không hội đủ sức mạnh tương xứng.

Mặt khác, ăn chay v́ lư do tu tập tâm linh lại mang tính cách nội tâm và cá nhân nhiều hơn, và cái lư do đó chỉ có thể phát sinh từ một hạt giống trong ḷng mỗi người. V́ thế cũng có thể giải thích phần nào sự yên lặng của Bác sĩ J. Bernard-Pellet, nếu ông mang cái lư do đó để thuyết phục mọi người th́ có thể chỉ làm tṛ cười cho thiên hạ và chưa chắc đă có ai đến dự những buổi thuyết tŕnh của ông. Trong các xă hội Tây phương con người thường bị chi phối bởi sự ích kỷ và những giá trị bên ngoài, mà có rất ít người biết khơi động những xúc cảm từ bi trong ḷng ḿnh. Đấy là chưa kể đến ảnh hưởng giáo dục và truyền thống tín ngưỡng lâu đời của họ. Đối với họ, con người là trung tâm của vũ trụ, và sự hiện hữu của tất cả các sinh vật khác chỉ có mục đích phục vụ cho họ mà thôi.



* Nội dung các câu hỏi :

Trong suốt phần tŕnh bày và trong hơn hai giờ thảo luận, không thấy có một câu hỏi nào liên quan đến những động cơ thúc đẩy việc ăn chay khác hơn động cơ t́m kiếm sức khoẻ riêng cho cá nhân mỗi người. Chẳng hạn như các câu hỏi : tôi bị dị ứng bởi loại rau đậu này hay loại rau đậu khác, phải nấu ăn như thế nào để giữ được chất bổ dưỡng trong rau đậu, loại thuốc nào tốt nhất để có thêm chất vôi, phân lượng phải như thế nào, có thể dùng liên tục hay không, uống dư thừa vitamin có hại hay không...v.v. Chưa kể rất nhiều câu hỏi lạc đề hay bên cạnh vấn đề, chẳng hạn như : có nên chích ngừa cúm heo A H1N1 hay không, đậu nành được xếp vào loại rau đậu (légumineux) hay ngũ cốc (céréale)...

Tóm lại tất cả các câu hỏi của cử tọa đều hướng vào sự duy tŕ và cải thiện sức khoẻ của cá nhân ḿnh. Tuy thế bác sĩ J. Bernard-Pellet vẫn trả lời tất cả các câu hỏi ấy một cách rất vui vẻ, tôi hết sức khâm phục sự kiên nhẫn của ông.

Trong khi đó có những thắc mắc trong ḷng tôi và biết đâu có thể đấy cũng là những những thắc mắc trong ḷng ông nữa, nhưng kể cả ông và tôi không có ai có thể tŕnh bày ra được, v́ lư do là những thắc mắc đó rất sâu xa, vượt lên trên cả cái sức khoẻ và sự an lành của cá nhân mỗi người. Tôi mạn phép được ước đoán những thắc mắc trên đây trong ḷng của bác sĩ J. Bernard-Pellet dựa vào vào những hoạt động hăng say của ông trong công tác quảng bá việc ăn chay.



* Một câu hỏi thích đáng :

Gần sáu giờ chiều bổng có một bà khá lớn tuổi nêu lên câu hỏi như sau : « Ông là một bác sĩ, vậy v́ lư do ǵ mà ông ăn chay ? ». Câu hỏi không được rơ ràng lắm, theo tôi hiểu có lẽ bà ấy muốn nói : « Ngoài lư do sức khoẻ như ông vừa tŕnh bày th́ c̣n có lư do nào khác thúc đẩy ông ăn chay ? ». Dù sao th́ sau khi nghe câu hỏi ấy, những nét vui vẻ hiện lên trên nét mặt của ông. Hai mắt ông sáng hẳn lên và ông đă trả lời một cách thật trịnh trọng như sau :

«- Bà có biết không, gia đ́nh cha mẹ tôi làm nghề chăn nuôi súc vật để giết thịt. Tôi đă thấy quá nhiều máu chảy và sự đau đớn. Tôi không c̣n ăn thịt được nữa ».



Lúc đó tôi mới đưa tay và xin phát biểu như sau :

- Thưa bác sĩ và tất cả quư vị, có ai trong số quư vị biết Lamartine là người ăn chay hay không ? ».

Tất cả mọi người đều ngạc nhiên trước câu hỏi khá bất ngờ của tôi, họ giữ yên lặng và có vẻ chờ đợi. Bổng bác sĩ J. Bernard-Pellet cất lời hỏi tôi :

- Có phải ông muốn nói đến thi sĩ Lamartine hay không ?

- Đúng như thế, đó là văn sĩ và thi hào Lamartine thuộc cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX. Có một lần khi ông c̣n bé, mẹ ông đă dắt ông ra phố và khi hai mẹ con đi ngang một ḷ sát sinh, ông thấy những người đồ tể hai tay đầy máu đang giết những con vật trong nhà, máu me chảy ra lênh láng tận ngoài sân. H́nh ảnh đó đă làm cho ông khiếp sợ vô cùng ».

Bác sĩ J. Bernard-Pellet tỏ vẻ chú tâm đặc biệt vào câu chuyện tôi vừa kể, và ông đă nói với tôi như sau :

- Cám ơn ông thật nhiều, tôi không hề được biết về câu chuyện này.

Hóa ra động cơ thúc đẩy việc ăn chay của bác sĩ J. Bernard-Pellet cũng khá giống với trường hợp của thi hào Lamartine.



* Lời kết :

Thật sự th́ cũng ít có ai biết câu chuyện trên đây. Sở dĩ tôi biết được chuyện ăn chay của thi hào Lamartine là v́ t́nh cờ mua được một quyển sách khá xưa trong một dịp hội chợ bán đồ cũ tổ chức trong vùng tôi cư trú. Tựa quyển sách là « Những bà mẹ của các danh nhân » (Les mères des Grands hommes), tác giả là Maurice Bloch, do nhà xuất bản Ch. Delagrave Paris phát hành năm 1885.

Trong quyển sách ấy có kể chuyện về cậu bé Lamartine và mẹ của cậu. Tôi xin dịch và tóm lược ra đây vài đoạn thuộc các trang 158 và 159 như sau :

[... ] Bà [ tức là mẹ của Lamartine] nuôi con bằng lối ăn chay cho đến khi ông lên 12 tuổi, bà chỉ cho ông ăn bánh ḿ, sữa, rau và hoa quả. Tuyệt đối không một miếng thịt nào.

................

Và tiếp theo đây là lời kể chuyện của cậu bé Lamartine :

Một hôm mẹ tôi t́nh cờ dẫn tôi đi ngang một ḷ sát sinh. Tôi trông thấy những người đồ tể hai cánh tay để trần nhuộm đầy máu đang đập chết một con ḅ, các người khác th́ đang giết bê và cừu. Những suối máu bốc khói chảy lênh láng khắp nơi. Tôi kéo tay mẹ tôi đi cho nhanh để tránh xa nơi này.

Tác giả quyển sách c̣n cho biết là sau đó th́ cậu hết sức sợ hăi và ghê tởm mỗi khi trông thấy thịt nấu chín.
............
Ít lâu sau th́ gia đ́nh cậu gởi cậu vào trường nội trú, cậu hết sức khổ sở v́ phải ăn những thức ăn giống như các đứa trẻ khác dưới sự canh chừng của các thấy giáo mà cậu gọi họ là những tên cai ngục. Cũng cần nói thêm là vào thời bấy giờ trường học và việc giáo dục rất nghiêm khắc v́ được đặt dưới sự quản lư của những người tu hành.

Một hôm cậu bỏ trốn. Sau khi phát giác ra sự vắng mặt của cậu th́ nhà trường sai người đổ đi t́m. Người ta t́m được cậu đang đói lả và đang ngồi trong một quán ăn trước một đĩa trứng chiên mà cậu chưa kịp ăn. Người ta lại lôi cậu về trường và giam cậu vào một nơi riêng.

Nhưng hai tháng sau th́ nhà trường chịu không nổi trước thái độ của cậu và đành dẫn giao trả cậu cho cha mẹ.

Trước cảnh tượng khổ đau, có những người xúc động không chịu nổi, tuy nhiên cũng có những người thản nhiên, chẳng hạn như những người đồ tể. Thật ra th́ tất cả chúng ta đều hàm chứa những xúc cảm từ bi, nhưng những xúc cảm đó lại bị che lấp quá sâu kín trong ḷng một số người. Tu tập có nghĩa là khơi động những xúc cảm đó trong ḷng ḿnh để không khiến ḿnh giống như những người đồ tể đáng thương. Những xúc cảm ấy có thể sẽ giúp cho mỗi người trong chúng ta cảm nhận được những rung cảm của thi hào Lamartine đă từ hai trăm năm trước nhưng đến nay vẫn c̣n bàng bạc qua những trang sách và những vần thơ của ông. Những xúc cảm ấy trong ḷng chúng ta biết đâu cũng có thể đă khiến chúng ta đi nghe một buổi thuyết tŕnh của bác sĩ J. Bernard-Pellet được tổ chức ở một nơi nào đó. Thương lắm thay cho những người đồ tể, v́ họ vẫn là những người đồ tể suốt đời.



Bures-Sur-Yvette ( France ), 14.11.09

Hoang Phong







Trước

Sau


In Trang





Gửi ư kiến của bạn














Tên của bạn






Email của bạn










Trang đầuTrang trước12345Trang sauTrang cuối










fastfood1-large-content-thumbnail

florida80
04-11-2019, 17:33
Thưa đây là email nhận được, xin gởi các bạn xem đề pḥng. Bệnh Gan ở Mỹ tăng nhiều do thuốc lá cây.

HUỲNH CHIẾU ĐẲNG.







Bệnh Gan ở Mỹ Theo báo cáo của cơ quan US Food and Drug Adminitration
(Tuyết Duơng sưu tầm)


( US Food and Drug Adminitration) tuần vừa qua th́ 20% Bệnh Gan ở Mỹ là do thuốc giăm cân tác hại , c̣n lại 80% là thuốc bổ nhập từ China ( loại thuốc bổ này gồm : trừ mỡ xấu , bổ gan , trị ung thư , tăng cường sinh lực , trị lăo hóa , trị đau khớp , làm đẹp DA , trừ ung bứu …)
USA -- Hiểm họa vô hình cho lá gan của bạn: thuốc giảm cân và thuốc trị bệnh Tim mạch và trị ung bứu. tất cả thuốc ngoài luồng đều nhập từ phân xưởng tại China. Khảo sát cho biết thuốc giảm cân là nguyên nhân cho 20% hồ sơ bệnh gan tại các bệnh viện Hoa Kỳ. C̣n lại 80% là thuốc bổ Made in China.
Báo The New York Times có bài viết nghiên cứu về hiện tượng này, và cho thấy con số này là tăng từ 7% so với một thập niên trước, và con số này chỉ bao gồm những hồ sơ bệnh gan nặng nề nhất.






Hiện thời dân Mỹ tiêu xài tới 32 tỷ đôla cho thuốc giảm cân mỗi năm, và trong khi các bác sĩ nói rằng đại đa số thuốc phụ trợ bổ túc (supplements) –đa số là làm từ China , rồi đem sang Hoaky đóng gói vào bao b́. Được các tay lang băm tung lên hệ thống truyền thông . Nào Tivi , Radio , nhật báo …Họ mời các tay quảng cáo lừng danh như các tay MC của các Trung tâm Entertainmnet , thế là người xem hay đọc đều tin tưởng là thần dược . Mua về uống thấy rất hưng phấn , nhưng thật Ra là do thành phần “ cortisone “ , kích thích trung tâm thần kinh . Nhưng về sau th́ di hại đến gan , thận không thể trị được .









Tạo sự nhiễm độc gan lâu dài mà người tiêu thụ vô t́nh không biết. Khi biết th́ quá trể để cứu gan . Với thuốc dược thảo được quảng cáo là tiêu mỡ, tăng lực, giảm cân và săn chắc bắp thịt, trị ung thư , làm đẹp DA… đang tới mức báo động.




Một bác sĩ nói, "Khi một sản phẩm được giám sát, bạn biết lợi ích và sự rủi ro, và bạn có thể có một quyết định với đủ thông tin về việc nên dùng thuốc đó hay không. Nhưng với thuốc phụ trợ bổ túc (supplements)... đó chỉ là một hộp đen đầy chất độc không được cơ quan FDA kiểm soát, khi bác sỉ khám chẩn th́ quá trể mà thôi."

Thuốc nhập theo đang viên ( từng thùng box , mỗi box hàng vạn viên nan thuốc ) , rồi được vào chai plastic , dán nhăn tiêu dùng đọc rất hứng khời . Tạo người đọc một cảm giác như thần dược vừa được các pḥng y dược sáng chế Ra tại Hoaky .
Nhưng tất cả đều không có sự kiểm nhiệm của cơ quan U.S.FDA ( tạm gọi là Bộ Y tế Hoaky ).Hầu hết đều bán tại các tiệm của người Hoa tại địa phương , chớ không được bán tại các Pharmacy Hoaky ( US Durg Stores ) . V́ luật của Hoaky , khi thuốc được bày bán tại các Pharmacy Hoaky ( US Drug Stores ) th́ sẽ bị kiểm soát bởi cơ quan US FDA đến khám xét thường xuyên , định kỳ . Những nhân viên bán thuốc tại các US Drug Stores đều phải thi đậu kỳ thi sát hạch về dược liệu , đó là chưa kể các Dược sỉ phải có bằng hành nghề chuyên môn .

C̣n tại các tiệm thuốc Bắc , th́ chỉ cần các bác sỉ học lực 6 tháng , nghành nghề châm cứu rồi kê toa thuốc bổ ngoài luồng cho thân chủ. Thật sự những bác sỉ 6 tháng ấy, tŕnh độ học vấn không đủ viết nổi một công thức hóa học về dược liệu.Người Việt chúng ta hiện nay tại các địa phương có đông dân cư Việt , rất nhiều người bị viêm gan mà không biết . Khi khám bệnh th́ được báo là ngày xưa có lẽ hút thuốc , hay uống nhiều rượu độc từ Việt nam …nay bị ảnh hưởng từ đó .
Thật sự họ đă bị thuốc bổ ngoài luồng bày bán nhan nhản tại các tiệm thuốc Bắc , hay từ các nơi châm cứu của các bác sỉ 6 tháng ấy.

Nếu những thần dược ấy trị bệnh như chai thuốc in ấn bên ngoài..nào trị dứt ung thư , tăng cường sinh lực , làm đẹp DA , hồi sinh sức khỏe…th́ chúng ta sẽ thấy hàng ngh́n bệnh nhân người Mỹ sẽ xếp hàng rồng rắn bên ngoài tiệm thuốc Bắc ấy mà mua uống từ lâu , khỏi đến phiên bạn từ Việt Nam định cư sang Hoa kỳ mà mua thuốc ấy …
Như vậy chẵng lẽ các bác sỉ học lực trên 7 năm tại đại học Y Khoa Hoaky đều là những kẻ đáng vụt thùng rác , c̣n các bác sỉ 6 tháng trường rể cây , rể cỏ , châm cứu…th́ tất cả đều là thần y hay chăng ? (< -- hết trích)

Và đây là nguồn tin khác từ báo The NewYork Times

http://www.nytimes.com/2013/12/22/us/spike-in-harm-to-liver-is-tied-to-dietary-aids.html?pagewanted =all&_r=0










When Christopher Herrera, 17, walked into the emergency room at Texas Children’s Hospital one morning last year, his chest, face and eyes were bright yellow — “almost highlighter yellow,” recalled Dr. Shreena S. Patel, the pediatric resident who treated him.


Christopher, a high school student from Katy, Tex., suffered severe liver damage after using a concentrated green tea extract he bought at a nutrition store as a “fat burning” supplement. The damage was so extensive that he was put on the waiting list for aliver transplant.


“It was terrifying,” he said in an interview. “They kept telling me they had the best surgeons, and they were trying to comfort me. But they were saying that I needed a new liver and that my body could reject it.”


New data suggests that his is not an isolated case.Dietary supplements account for nearly 20 percent of drug-related liver injuries that turn up in hospitals, up from 7 percent a decade ago, according to an analysis by a national network of liver specialists. The research included only the most severe cases of liver damage referred to a representative group of hospitals around the country, and the investigators said they were undercounting the actual number of cases.

While many patients recover once they stop taking the supplements and receive treatment, a few require liver transplants or die because of liver failure. Naïve teenagers are not the only consumers at risk, the researchers said. Many are middle-aged women who turn to dietary supplements that promise to burn fat or speed up weight loss.


“It’s really the Wild West,” said Dr. Herbert L. Bonkovsky, the director of the liver, digestive and metabolic disorders laboratory at Carolinas HealthCare System in Charlotte, N.C. “When people buy these dietary supplements, it’s anybody’s guess as to what they’re getting.”

Though doctors were able to save his liver, Christopher can no longer play sports, spend much time outdoors or exert himself, lest he strain the organ. He must make monthly visits to a doctor to assess his liver function.


Americans spend an estimated $32 billion on dietary supplements every year, attracted by unproven claims that various pills and powders will help them lose weight, build muscle and fight off everything fromcolds to chronic illnesses. About half of Americans use dietary supplements, and most of them take more than one product at a time.


Dr. Victor Navarro, the chairman of the hepatology division at Einstein Healthcare Network in Philadelphia, said that while liver injuries linked to supplements were alarming, he believed that a majority of supplements were generally safe. Most of the liver injuries tracked by a network of medical officials are caused by prescription drugs used to treat things like cancer,diabetes and heart disease, he said.


But the supplement business is largely unregulated. In recent years, critics of the industry have called for measures that would force companies to prove that their products are safe, genuine and made in accordance with strict manufacturing standards before they reach the market.


But a federal law enacted in 1994, the Dietary Supplement Health and Education Act, prevents theFood and Drug Administration from approving or evaluating most supplements before they are sold. Usually the agency must wait until consumers are harmed before officials can remove products from stores. Because the supplement industry operates on the honor system, studies show, the market has been flooded with products that are adulterated, mislabeled or packaged in dosages that have not been studied for safety.


The new research found that many of the products implicated in liver injuries were bodybuilding supplements spiked with unlisted steroids, and herbal pills and powders promising to increase energy and help consumers lose weight.
“There unfortunately are criminals that feel it’s a business opportunity to spike some products and sell them as dietary supplements,” said Duffy MacKay, a spokesman for the Council for Responsible Nutrition, a supplement industry trade group. “It’s the fringe of the industry, but as you can see, it is affecting some consumers.” More popular supplements like vitamins, minerals, probiotics and fish oil had not been linked to “patterns of adverse effects,” he said.


The F.D.A. estimates that 70 percent of dietary supplement companies are not following basic quality control standards that would help prevent adulteration of their products. Of about 55,000 supplements that are sold in the United States, only 170 — about 0.3 percent — have been studied closely enough to determine their common side effects, said Dr. Paul A. Offit, the chief of infectious diseases at the Children’s Hospital of Philadelphia and an expert on dietary supplements.


“When a product is regulated, you know the benefits and the risks and you can make an informed decision about whether or not to take it,” he said. “With supplements, you don’t have efficacy data and you don’t have safety data, so it’s just a black box.”


Since 2008, the F.D.A. has been taking action against companies whose supplements are found to contain prescription drugs and controlled substances, said Daniel Fabricant, the director of the division of dietary supplement programs in the agency’s Center for Food Safety and Applied Nutrition. For example, the agency recently took steps to remove one “fat burning” product from shelves, OxyElite Pro, that was linked to one death and dozens of cases of hepatitis and liver injury in Hawaii and other states.


The new research, presented last month at a conference in Washington, was produced by the Drug-Induced Liver Injury Network, which was established by the National Institutes of Health to track patients who suffer liver damage from certain drugs and alternative medicines. It includes doctors at eight major hospitals throughout the country.


The investigators looked at 845 patients with severe, drug-induced liver damage who were treated at hospitals in the network from 2004 to 2012. It focused only on cases where the investigators ruled out other causes and blamed a drug or a supplement with a high degree of certainty.


When the network began tracking liver injuries in 2004, supplements accounted for 7 percent of the 115 severe cases. But the percentage has steadily risen, reaching 20 percent of the 313 cases recorded from 2010 to 2012.


Those patients included dozens of young men who were sickened by bodybuilding supplements. The patients all fit a similar profile, said Dr. Navarro, an investigator with the network.


“They become very jaundiced for long periods of time,” he said. “They itch really badly, to the point where they can’t sleep. They lose weight. They lose work. I had one patient who was jaundiced for six months.”

Tests showed that a third of the implicated products contained steroids not listed on their labels.


A second trend emerged when Dr. Navarro and his colleagues studied 85 patients with liver injuries linked to herbal pills and powders. Two-thirds were middle-aged women, on average 48 years old, who often used the supplements to lose weight or increase energy. Nearly a dozen of those patients required liver transplants, and three died.


It was not always clear what the underlying causes of injury were in those cases, in part because patients frequently combined multiple supplements and used products with up to 30 ingredients, said Dr. Bonkovsky, an investigator with the network.

But one product that patients used frequently was green tea extract, which contains catechins, a group of potent antioxidants that reputedly increase metabolism. The extracts are often marketed as fat burners, and catechins are often added to weight-loss products and energy boosters. Most green tea pills are highly concentrated, containing many times the amount of catechins found in a single cup of green tea, Dr. Bonkovsky said. In high doses, catechins can be toxic to the liver, he said, and a small percentage of people appear to be particularly susceptible.


But liver injuries attributed to herbal supplements are more likely to be severe and to result in liver transplants, Dr. Navarro said. And unlike prescription drugs, which are tightly regulated, dietary supplements typically carry no information about side effects. Consumers assume they have been studied and tested, Dr. Bonkovsky said. But that is rarely the case. “There is this belief that if something is natural, then it must be safe and it must be good,” he said. (< -- hết trích)





Tuyết Dương sưu tầm



at 7:20 PM







No comments:





Post a Comment







Newer Post Older Post Home



Subscribe to: Post Comments (Atom)










Người Phương Nam

Người Phương Nam





Blog Archive



► 2019 (483)




► 2018 (1685)












► 2017 (1773)












► 2016 (1943)












► 2015 (1914)












▼ 2014 (1228) ► December (130)
► November (132)
► October (142)
► September (93)
► August (90)
▼ July (98) Chuyện dễ nhưng khó!!!
Vùng Lên - NS. Đông Hải
Ngày Rằm Thưởng Thức Món Kiểm Chay
Tư Thế Cho Giấc Ngủ An Lành
Ai Có Biết Thứ Hoa Này Của Miền Bắc Không?
Đời Này Ta C̣n Được Gặp Bố Mẹ Mấy Lần?
Michel Pépé - Le Lotus Sacré
Đơn Xin Ngu.
Bài Viết Khiến Thiên Hạ Kéo Nhau Bỏ Facebook
Lối Xưa Xe Ngựa - Trầm vân
Đời Là Vô Thường!
Monsanto : Một Hiện Tượng Kỳ Quái Của Hoa Kỳ ? Mon...
Marché - Chợ
Lặng Người Trước Bài Phát Biểu Của Ngoại Trưởng Hà...
Đàn Bà Quyến Rũ...V́ Đâu ???
Thượng Lộ B́nh An!
Nghệ Thuật Trên Ruộng Lúa
Xôi Sàig̣n
T́m Hiểu Về Nhân Duyên Vợ Chồng: T́nh Yêu Là Tạm B...
Tiếu Lâm
Những Món Nợ Phải Trả - Đinh Lâm Thanh
PPS Pretty Women
Gai Cột Sống: Nguyên Nhân, Triệu Chứng Và Biến Chứ...
15 Sự Thật Thú Vị Về Đồng Đô La Mỹ !!!
Tôi Vẫn Nhớ - Sương Lam
Bài Tóan Nhân Quả
Sentiments - Trạng Thái Biểu Lộ Cảm Xúc Của Ba Vị ...
T́m B́nh An Cho Hiện Tại
Kevin Rogers - Lối Về Xóm Nhỏ - Trịnh Hưng
Lễ Hội "KIMONO MÙA HÈ" Ở Himeji, Nhật
Cô Nhi Viện và Viện Dưỡng Lăo
Good Weekend - Trầm Vân
Bún Ốc Hà Nội Việt Nam
Einstein Khuyên Chúng Ta Điều Ǵ ?
Khỏanh Khắc Các Nguyên Thủ Quốc Gia Mừng, Lo V́ Wo...
Tờ Khai Sanh Oan Nghiệt - Phan
Thay Nội Tạng Thứ Tốt
Hiểu Sai Về Hạn Dùng Thực Phẩm Và Thuốc.
Dragonfly
Building Bolero -- The Queensland Symphony Orchest...
Images Retouchées En 3D - H́nh Ảnh 3D của Hà Nội ...
Tư Điển Việt Mỹ
Cha Mẹ & Con Cái
The Dalai Lama Teaching
Richard Clayderman - Time To Say Goodbye
Gọi Em: Tṛ Nhỏ - Trầm Vân
Trăng Là Ǵ?
Nhạn Qua Ải Bắc - Tâm Tiễn
Xin Cho
10 Món Đặc Sàn Níu Chân Du Khách Cần Thơ
Những Chuyện "Trời Ơi!" - K2 Nguyễn Thừa B́nh
Lầm Chết Luôn
7 Dấu Hiệu Cảnh Báo Ung Thư
Bao Nhiêu Triệu Người Chết?
Những Màu Sắc Tô Điểm Cuộc Đời
Rao Bán Nỗi Buồn - Trầm Vân
Những Điều Nhỏ Nhặt Đáng Ghi Nhớ !!!
Cá Kèo - Thủy Lan Vy
Trên Sân Cỏ Đời Sống - Lm Đa Minh Nguyễn Ngọc Long...
Đường Cong T́nh Ái - Trầm Vân
Họ Là "Ngụy", Ta Là Ǵ? - Người Lính Cũ
Money Has Different Name - Tên Của Các Lọai Tiền T...
Ảnh Chế "Độc" Về Trận Thua Không Tưởng Của Brazil
Bệnh Gan Ở Mỹ Tăng Nhiều Do Thuốc Lá Cây
Xà Lách Trứng Luộc, Món Ăn Đơn Giản, Lành Mạnh Cho...
Tao Mua Hết Tụi Bây!
T́nh Trầm Luân Thương - Trầm Vân
Hạnh Phúc Thật Gần
Bầu Trời Từ Tâm - Trầm Vân
Có Không, Một Tuổi Ǵa Hạnh Phúc
Các Món Bún Ở Saigon ..............
Nương Tựa Chính Ḿnh - Chúc Thiệu
T

florida80
04-11-2019, 17:35
Tuesday, July 15, 2014




7 Dấu Hiệu Cảnh Báo Ung Thư














7 tín hiệu cảnh báo ung thư



Bất kỳ cơn đau nào kéo dài, hay không rơ nguyên nhân đều là dấu hiệu của một t́nh trạng sức khỏe cần quan tâm.


WHO cảnh báo bùng phát 'dịch' ung thư


Những quan niệm sai lầm về ung thư







Trên trang WebMD, Hiệp hội Ung thư Mỹ đă đưa ra khuyến cáo về một số biểu hiện cảnh báo khả năng ung thư. Để cho dễ nhớ, các nhà khoa học sử dụng các chữ cái ở đầu mỗi dấu hiệu bằng tiếng Anh viết tắt thành từ C-A-U-T-I-O-N

(cảnh báo), bao gồm:

- C (Change in bowel or bladder habits): Thay đổi thói quen đi tiêu, tiểu tiện. Có thể hiểu rộng rằng, bạn thay đổi về số lần đi tiêu tiểu như đi cầu bón, tiêu chảy, tiêu chảy kèm táo bón xen kẽ, tiểu nhiều lần…




- A (A sore that does not heal): Đau nhức kéo dài không khỏi. Bất kỳ cơn đau nào mang tính mạn tính, tức kéo dài, hay không rơ nguyên nhân đều là dấu hiệu của một t́nh trạng sức khỏe cần quan tâm.




- U (Unusual bleeding or discharge): Chảy máu bất thường, từ bất cứ đường nào như mũi, miệng (ho hay khạc ra máu), đường tiêu tiểu, âm đạo…




- T (Thickening or lump in the breasts, testicles, or elsewhere): Khối u ở bất cứ vị trí nào: vú, tinh hoàn, bụng, các nhóm hạch…




- I (Indigestion or difficulty swallowing): Ăn khó tiêu hay khó nuốt.




-O (Obvious change in the size, color, shape, or thickness of a wart, mole, or mouth sore): Thay đổi rơ ràng trong kích thước, màu sắc, h́nh dạng, hay độ dày của một mụn cóc, nốt ruồi, vết thương hay lở loét trong khoang miệng.




- N (Nagging cough or hoarseness): Ho dai dẳng hay khan tiếng kéo dài.


Ngoài ra, các triệu chứng sau đây cũng có thể báo hiệu sự hiện diện của một số loại bệnh ung thư:








- Đau đầu dai dẳng.


- Giảm cân không rơ nguyên nhân.


- Mất cảm giác ngon miệng.


- Đau mạn tính trong xương hoặc bất kỳ vị trí nào trên cơ thể.


- Mệt mỏi dai dẳng, buồn nôn, hoặc nôn mửa.


- Liên tục sốt nhẹ.


- Nhiễm trùng lặp đi lặp lại.





Khi bạn có một trong những triệu chứng kể trên mà không có một nguyên nhân rơ ràng, kéo dài trên 2 tuần, th́ rất có thể là dấu hiệu của một chứng ung thư nào đó. Việc t́m đến với bác sĩ để được chẩn đoán và tầm soát ung thư sẽ giúp bạn phát hiện sớm. Cần nhớ rằng, chẩn đoán sớm ung thư là ch́a khóa quan trọng quyết định hiệu quả của điều trị.





Thúy Ngọc (WebMD)

florida80
04-11-2019, 17:44
Hiểu Sai Về Hạn Dùng Thực Phẩm Và Thuốc.




V́ hiểu sai về hạn dùng, 90% người Mỹ đă phạm sai lầm là vứt bỏ thực phẩm và thuốc quá sớm.





1/. Thực phẩm







Họ nghĩ rằng thực phẩm sẽ không c̣n dùng được sau ngày qui định đó, trong khi thật ra ư nghĩa đúng nhất mà các nhà sản xuất muốn nói đến là thực phẩm sẽ đạt t́nh trạng tươi tốt nhất vào ngày qui định trên nhăn hiệu, chứ không phải là sẽ bị hư hỏng ngay sau ngày đó.







Một cuộc nghiên cứu mới đây do ban bảo vệ nguyên liệu thiên nhiên phối hợp với ban quy định điều lệ thực phẩm của đại học Harvard cho thấy phần đông người tiêu dụng thường lẫn lộn về ư niệm “bán đến ngày” (sell by), “tiêu thụ đến ngày” (use by), “dùng tốt nhất trước ngày” (best before).




Theo bà Dara Gunders, một trong những người tham gia cuộc nghiên cứu trên th́ ư niệm lệch về ngày tháng hết hạn khiến cho biết bao thực phẩm và nguyên liệu để chế biến chúng đă bị lăng phí v́ ai cũng sợ ăn vào sẽ mang bệnh. 25% người dân thậm chí c̣n vứt bỏ thực phẩm sớm hơn ngày quy định.

Nhóm nghiên cứu trên nghĩ rằng nguyên nhân gây ra sự lẫn lộn chính là vấn đề thiếu sót của liên bang trong việc xác định tiêu chuẩn từng nguồn thực phẩm, đưa đến sự tự tiện ra luật lệ ở cấp tiểu bang về cách đánh giá thực phẩm và phương cách ghi ngày tháng hạn định trên bao b́.






















Nói cách khác như bà Dara Gunders nhận định th́ thật là một việc rối nùi, mà hậu quả gây ra khiến cho hằng năm có 40% thực phẩm c̣n tốt không được sử dụng tới, trị giá lên đến 165 tỉ đô la, tính b́nh quân ra là 455 đô la lăng phí đối với một gia đ́nh 4 người.






Cũng theo các nhà nghiên cứu th́ trong khi họ đang đề nghị các bộ ngành thực phẩm phải có một công thức chuẩn mực rơ ràng về thời hạn, cách tốt nhất đối với người tiêu dùng là tự t́m hiểu cấu trúc thực phẩm và cách bảo quản, tồn trữ của từng loại thức ăn, trong đó một kiến thức quan trọng là cách sử dụng hữu hiệu chức năng của tủ lạnh để vừa bớt tốn điện vừa kéo dài sự tươi tốt của thực phẩm.









2/. Thuốc



Hàng năm người Hoa Kỳ đă liệng đi cả tỷ bạc Mỹ Kim thuốc Tây mà nhăn hiệu của các nhà bào chế nói là "quá hạn" theo lời dặn là phải của các dược sĩ là phải vứt đi.




Sự thật như thế nào?

Có phải liệng đi những thuốc "bị quá hạn" không?

Có đúng là thuốc "bị quá hạn" sẽ hết hiệu nghiệm hay là sẽ "hư hại" sau ngày "quá hạn" dán ngoài hộp thuốc?






Gerald Murphy, là một dược sĩ nay đă về hưu hiện cư ngự tại Ormond Beach, TB Florida không nghĩ như thế. Ông ta nói rằng đa số các thuốc "quá hạn" vẫn c̣n tốt và hiệu nghiệm nhiều năm sau ngày "hết hạn", mà do các hăng dược phẩm "cố ư" dán vào bao thuốc, để bắt người tiêu thụ phải mua thuốc mới để kiếm tiền mà thôi.









Ông đă trải qua cả chục năm tranh đấu cho việc "đặt để ngày hết hạn thuốc" phải dựa trên tiêu chuẩn khoa học chứ không phải dựa theo "chu kỳ" do các hăng dược phẩm tự ư "chọn lựa" được. Tại nhiều Tiểu Bang các dược sĩ tự động "cho" một ngày quá hạn khác - nhiều khi chóng hơn là ngày quy định của các hăng bào chế nữa. Ông nói: "Họ làm tiền bằng cách khuyến khích người tiếu thụ liệng đi những thuốc hăy con` tốt, để mua thuốc mới."




Ông Murphy được một "thắng lợi nho nhỏ" năm 2005, là Quốc Hội Florida đă nói với Hiệp Hội các dược sĩ Florida là "Không cần phải ghi ngày quá hạn trên các hộp thuốc nữa" như họ đă làm từ năm 1993.




Ông Murphy không phải hành động đơn độc. Cơ quan Quản Trị Thực Phẩm, Thuốc Men Hoa Kỳ ( US Food and Drug Administration=FDA ), trong những thử nghiệm cho Bộ Quốc Pḥng Hoa Kỳ, đă xác nhận rằng đa số các thuốc tây bán theo toa bác sĩ, hay bầy bán tại các tiệm thuốc vẫn c̣n hiệu nghiệm và an toàn rất lâu sau ngày "quá hạn" của các nhà bào chế.
( The U.S. Food and Drug Administration, in tests for the Defense Department has determined that most prescription and over-the-counter drugs remain safe and effective long after the manufacturer's expiration date - in some cases, may years longer.)











Nhưng khảo cứu của cơ quan FDA không kể đến những thuốc để trong những pḥng tắm có hơi ẩm hay trong xe nóng bỏng mùa hè. Bà Mary L. Euler, phụ tá khoa trưởng tại trường Đại Học Dược Khoa Missouri tại Kansas City, và là phát ngôn viên của Hiệp Hội Dược Phẩm Hoa Kỳ nói:




"Tôi có nghĩ rằng một cuộc khảo cứu rất cần thiết để t́m hiểu rơ về vần đề này không? - Tôi tin chắc chắn như vậy"




Năm 2001 Hiệp Hội Dược Sĩ Toàn Quốc Hoa Kỳ yêu cầu kỹ nghệ bào chế thuốc Tây đầu tư vào việc nghiên cứu kia, nhưng không được trả lời. (*)




Dân Biểu CH-Tb Pennsylvania là Tim Murphy đă yêu cầu cơ quan FDA cho một ban chuyên viên nghiên cứu riêng về vấn đề "quá hạn này".






Ông nói: "Có cái ǵ rơ ràng là không ổn. Ngay bây giờ, các ngày quá hạn đều do các nhà bào chế thuốc tự động quy định, làm sao mà biết được thực hư?"









Ông Armon Neel Jr, một dược sĩ tại Griffin TB Georgia mà công tác đặc biệt là xem xét lại các loại thuốc dùng trong các nhà dưỡng lăo và phải kư giấy huỷ bỏ các loại thuốc "hết hạn" quả làm ḷng ông không yên ổn.




Ông nói: " Thấy thuốc bị đưa vào ḷ đốt đi - cả triệu triệu Mỹ Kim - thật không đúng chút nào hết. "




Các bệnh nhân nào nếu c̣n thuốc dư, mà nghĩ rằng hăy c̣n tốt th́ nên hỏi bác sĩ riêng của ḿnh.






(*) .- Các nhà bào chế làm thinh là đúng quá rồi, v́ chạm đến túi tiền của họ. Bệnh nhân và người tiêu thụ phải vứt thuốc cũ đi để mua thuốc mới th́ họ được lợi bao nhiêu? Nên nhớ rằng mỗi năm có hàng ngàn dự luật "làm lợi" cho người dân Hoa Kỳ bị "nằm chết" trong các hộc bàn của các vị Dân Biểu, Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ, nhất là các vị được làm Trưởng Ban hay Trưởng Tiểu Ban.









Ví dụ điển h́nh là "Dự Luật cho người dân Hoa Kỳ mua thuốc từ bên Canada giá rẻ bằng 1/10 giá thuốc ở Mỹ" đă chết thảm v́ sự "chống đối mănh liệt" (chạy chọt vận động - lobby) của các hăng bào chế Hoa Kỳ và Hiệp Hội Dược Sĩ Mỹ Quốc.




Việc đề nghị hỏi các ông bác sĩ gia đ́nh cũng không xong, v́ mấy vị bác sĩ này không có rành về thuốc lắm vả lại họ c̣n sợ bị đưa ra toà nữa, nếu "cho phép" bệnh nhân dùng thuốc cũ rồi sau naỳ sinh chuyện không lành.




Brad Mackee /AARP Bulletin



at 11:45 PM







1 comment:







Emmanuel NguyễnJuly 20, 2014 at 2:10 AM

Bài này hữu ích quá cô Kim à, cảm ơn cô nhiều!
Reply
























Newer Post Older Post Home



Subscribe to: Post Comments (Atom)










Người Phương Nam

Người Phương Nam





Blog Archive



► 2019 (483)




► 2018 (1685)












► 2017 (1773)












► 2016 (1943)












► 2015 (1914)












▼ 2014 (1228) ► December (130)
► November (132)
► October (142)
► September (93)
► August (90)
▼ July (98) Chuyện dễ nhưng khó!!!
Vùng Lên - NS. Đông Hải
Ngày Rằm Thưởng Thức Món Kiểm Chay
Tư Thế Cho Giấc Ngủ An Lành
Ai Có Biết Thứ Hoa Này Của Miền Bắc Không?
Đời Này Ta C̣n Được Gặp Bố Mẹ Mấy Lần?
Michel Pépé - Le Lotus Sacré
Đơn Xin Ngu.
Bài Viết Khiến Thiên Hạ Kéo Nhau Bỏ Facebook
Lối Xưa Xe Ngựa - Trầm vân
Đời Là Vô Thường!
Monsanto : Một Hiện Tượng Kỳ Quái Của Hoa Kỳ ? Mon...
Marché - Chợ
Lặng Người Trước Bài Phát Biểu Của Ngoại Trưởng Hà...
Đàn Bà Quyến Rũ...V́ Đâu ???
Thượng Lộ B́nh An!
Nghệ Thuật Trên Ruộng Lúa
Xôi Sàig̣n
T́m Hiểu Về Nhân Duyên Vợ Chồng: T́nh Yêu Là Tạm B...
Tiếu Lâm
Những Món Nợ Phải Trả - Đinh Lâm Thanh
PPS Pretty Women
Gai Cột Sống: Nguyên Nhân, Triệu Chứng Và Biến Chứ...
15 Sự Thật Thú Vị Về Đồng Đô La Mỹ !!!
Tôi Vẫn Nhớ - Sương Lam
Bài Tóan Nhân Quả
Sentiments - Trạng Thái Biểu Lộ Cảm Xúc Của Ba Vị ...
T́m B́nh An Cho Hiện Tại
Kevin Rogers - Lối Về Xóm Nhỏ - Trịnh Hưng
Lễ Hội "KIMONO MÙA HÈ" Ở Himeji, Nhật
Cô Nhi Viện và Viện Dưỡng Lăo
Good Weekend - Trầm Vân
Bún Ốc Hà Nội Việt Nam
Einstein Khuyên Chúng Ta Điều Ǵ ?
Khỏanh Khắc Các Nguyên Thủ Quốc Gia Mừng, Lo V́ Wo...
Tờ Khai Sanh Oan Nghiệt - Phan
Thay Nội Tạng Thứ Tốt
Hiểu Sai Về Hạn Dùng Thực Phẩm Và Thuốc.
Dragonfly
Building Bolero -- The Queensland Symphony Orchest...
Images Retouchées En 3D - H́nh Ảnh 3D của Hà Nội ...
Tư Điển Việt Mỹ
Cha Mẹ & Con Cái
The Dalai Lama Teaching
Richard Clayderman - Time To Say Goodbye
Gọi Em: Tṛ Nhỏ - Trầm Vân
Trăng Là Ǵ?
Nhạn Qua Ải Bắc - Tâm Tiễn
Xin Cho
10 Món Đặc Sàn Níu Chân Du Khách Cần Thơ
Những Chuyện "Trời Ơi!" - K2 Nguyễn Thừa B́nh
Lầm Chết Luôn
7 Dấu Hiệu Cảnh Báo Ung Thư
Bao Nhiêu Triệu Người Chết?
Những Màu Sắc Tô Điểm Cuộc Đời
Rao Bán Nỗi Buồn - Trầm Vân
Những Điều Nhỏ Nhặt Đáng Ghi Nhớ !!!
Cá Kèo - Thủy Lan Vy
Trên Sân Cỏ Đời Sống - Lm Đa Minh Nguyễn Ngọc Long...
Đường Cong T́nh Ái - Trầm Vân
Họ Là "Ngụy", Ta Là Ǵ? - Người Lính Cũ
Money Has Different Name - Tên Của Các Lọai Tiền T...
Ảnh Chế "Độc" Về Trận Thua Không Tưởng Của Brazil
Bệnh Gan Ở Mỹ Tăng Nhiều Do Thuốc Lá Cây
Xà Lách Trứng Luộc, Món Ăn Đơn Giản, Lành Mạnh Cho...
Tao Mua Hết Tụi Bây!
T́nh Trầm Luân Thương - Trầm Vân
Hạnh Phúc Thật Gần
Bầu Trời Từ Tâm - Trầm Vân
Có Không, Một Tuổi Ǵa Hạnh Phúc
Các Món Bún Ở Saigon ..............
Nương Tựa Chính Ḿnh - Chúc Thiệu
Tuổi Chiều - Trầm Vân
Tiến Sĩ Ở Việt Nam - Theo ********** và Tác Giả Th...
Jetman over Rio - the movie
Không Hiểu Nổi!
Nếu Em Là Sóng - Trầm Vân
Từ 1975 Đến Giờ Mới Dám Nói !!!
Sơ Ri Đặc Sản Đất G̣ Công
Hỏi Người T́nh Xa - Trầm Vân
Cách Làm Giá Trong Hộp Sữa, Comment Faire Des Germ...
Những H́nh Ảnh Lịch Sử Về Con Tàu TITANIC
Xin Về Cát Bụi
Happy July - Trầm Vân
"Điều Kỳ Diệu"
Bài T́nh Thơ Tháng Bảy - Sương Lam
Đức Phật Giúp Được Ǵ Cho Nỗi Đau Khổ Này - Thích ...
Tính Ưa Khoe Khoang Và Khoác Lác Của Người Việt - ...
Casteller -Tháp Người
Thử Đóan Những Câu Đố Mẹo (Phần 1)
Lời Hay Ư Đẹp - Doanh Doanh thực hiện
Một Chiều - Trầm Vân
Sóng Wi-Fi Nếu Thấy Được Sẽ Như Thế Nào?
Chuyện " Đá Banh ".
Trái Bầu Nghĩa
Buy America Made - Trầm Vân
Cứ Ngỡ - Thích Tánh Tuệ
Sự Nghiệp

► June (90)
► May (99)
► April (89)
► March (107)
► February (77)
► January (81)

► 2013 (466)












Total Pageviews


Sparkline 3804158












Hiểu Sai Về Hạn Dùng Thực Phẩm Và Thuốc.




V́ hiểu sai về hạn dùng, 90% người Mỹ đă phạm sai lầm là vứt bỏ thực phẩm và thuốc quá sớm.





1/. Thực phẩm







Họ nghĩ rằng thực phẩm sẽ không c̣n dùng được sau ngày qui định đó, trong khi thật ra ư nghĩa đúng nhất mà các nhà sản xuất muốn nói đến là thực phẩm sẽ đạt t́nh trạng tươi tốt nhất vào ngày qui định trên nhăn hiệu, chứ không phải là sẽ bị hư hỏng ngay sau ngày đó.







Một cuộc nghiên cứu mới đây do ban bảo vệ nguyên liệu thiên nhiên phối hợp với ban quy định điều lệ thực phẩm của đại học Harvard cho thấy phần đông người tiêu dụng thường lẫn lộn về ư niệm “bán đến ngày” (sell by), “tiêu thụ đến ngày” (use by), “dùng tốt nhất trước ngày” (best before).




Theo bà Dara Gunders, một trong những người tham gia cuộc nghiên cứu trên th́ ư niệm lệch về ngày tháng hết hạn khiến cho biết bao thực phẩm và nguyên liệu để chế biến chúng đă bị lăng phí v́ ai cũng sợ ăn vào sẽ mang bệnh. 25% người dân thậm chí c̣n vứt bỏ thực phẩm sớm hơn ngày quy định.

Nhóm nghiên cứu trên nghĩ rằng nguyên nhân gây ra sự lẫn lộn chính là vấn đề thiếu sót của liên bang trong việc xác định tiêu chuẩn từng nguồn thực phẩm, đưa đến sự tự tiện ra luật lệ ở cấp tiểu bang về cách đánh giá thực phẩm và phương cách ghi ngày tháng hạn định trên bao b́.






















Nói cách khác như bà Dara Gunders nhận định th́ thật là một việc rối nùi, mà hậu quả gây ra khiến cho hằng năm có 40% thực phẩm c̣n tốt không được sử dụng tới, trị giá lên đến 165 tỉ đô la, tính b́nh quân ra là 455 đô la lăng phí đối với một gia đ́nh 4 người.






Cũng theo các nhà nghiên cứu th́ trong khi họ đang đề nghị các bộ ngành thực phẩm phải có một công thức chuẩn mực rơ ràng về thời hạn, cách tốt nhất đối với người tiêu dùng là tự t́m hiểu cấu trúc thực phẩm và cách bảo quản, tồn trữ của từng loại thức ăn, trong đó một kiến thức quan trọng là cách sử dụng hữu hiệu chức năng của tủ lạnh để vừa bớt tốn điện vừa kéo dài sự tươi tốt của thực phẩm.









2/. Thuốc



Hàng năm người Hoa Kỳ đă liệng đi cả tỷ bạc Mỹ Kim thuốc Tây mà nhăn hiệu của các nhà bào chế nói là "quá hạn" theo lời dặn là phải của các dược sĩ là phải vứt đi.




Sự thật như thế nào?

Có phải liệng đi những thuốc "bị quá hạn" không?

Có đúng là thuốc "bị quá hạn" sẽ hết hiệu nghiệm hay là sẽ "hư hại" sau ngày "quá hạn" dán ngoài hộp thuốc?






Gerald Murphy, là một dược sĩ nay đă về hưu hiện cư ngự tại Ormond Beach, TB Florida không nghĩ như thế. Ông ta nói rằng đa số các thuốc "quá hạn" vẫn c̣n tốt và hiệu nghiệm nhiều năm sau ngày "hết hạn", mà do các hăng dược phẩm "cố ư" dán vào bao thuốc, để bắt người tiêu thụ phải mua thuốc mới để kiếm tiền mà thôi.









Ông đă trải qua cả chục năm tranh đấu cho việc "đặt để ngày hết hạn thuốc" phải dựa trên tiêu chuẩn khoa học chứ không phải dựa theo "chu kỳ" do các hăng dược phẩm tự ư "chọn lựa" được. Tại nhiều Tiểu Bang các dược sĩ tự động "cho" một ngày quá hạn khác - nhiều khi chóng hơn là ngày quy định của các hăng bào chế nữa. Ông nói: "Họ làm tiền bằng cách khuyến khích người tiếu thụ liệng đi những thuốc hăy con` tốt, để mua thuốc mới."




Ông Murphy được một "thắng lợi nho nhỏ" năm 2005, là Quốc Hội Florida đă nói với Hiệp Hội các dược sĩ Florida là "Không cần phải ghi ngày quá hạn trên các hộp thuốc nữa" như họ đă làm từ năm 1993.




Ông Murphy không phải hành động đơn độc. Cơ quan Quản Trị Thực Phẩm, Thuốc Men Hoa Kỳ ( US Food and Drug Administration=FDA ), trong những thử nghiệm cho Bộ Quốc Pḥng Hoa Kỳ, đă xác nhận rằng đa số các thuốc tây bán theo toa bác sĩ, hay bầy bán tại các tiệm thuốc vẫn c̣n hiệu nghiệm và an toàn rất lâu sau ngày "quá hạn" của các nhà bào chế.
( The U.S. Food and Drug Administration, in tests for the Defense Department has determined that most prescription and over-the-counter drugs remain safe and effective long after the manufacturer's expiration date - in some cases, may years longer.)











Nhưng khảo cứu của cơ quan FDA không kể đến những thuốc để trong những pḥng tắm có hơi ẩm hay trong xe nóng bỏng mùa hè. Bà Mary L. Euler, phụ tá khoa trưởng tại trường Đại Học Dược Khoa Missouri tại Kansas City, và là phát ngôn viên của Hiệp Hội Dược Phẩm Hoa Kỳ nói:




"Tôi có nghĩ rằng một cuộc khảo cứu rất cần thiết để t́m hiểu rơ về vần đề này không? - Tôi tin chắc chắn như vậy"




Năm 2001 Hiệp Hội Dược Sĩ Toàn Quốc Hoa Kỳ yêu cầu kỹ nghệ bào chế thuốc Tây đầu tư vào việc nghiên cứu kia, nhưng không được trả lời. (*)




Dân Biểu CH-Tb Pennsylvania là Tim Murphy đă yêu cầu cơ quan FDA cho một ban chuyên viên nghiên cứu riêng về vấn đề "quá hạn này".






Ông nói: "Có cái ǵ rơ ràng là không ổn. Ngay bây giờ, các ngày quá hạn đều do các nhà bào chế thuốc tự động quy định, làm sao mà biết được thực hư?"









Ông Armon Neel Jr, một dược sĩ tại Griffin TB Georgia mà công tác đặc biệt là xem xét lại các loại thuốc dùng trong các nhà dưỡng lăo và phải kư giấy huỷ bỏ các loại thuốc "hết hạn" quả làm ḷng ông không yên ổn.




Ông nói: " Thấy thuốc bị đưa vào ḷ đốt đi - cả triệu triệu Mỹ Kim - thật không đúng chút nào hết. "




Các bệnh nhân nào nếu c̣n thuốc dư, mà nghĩ rằng hăy c̣n tốt th́ nên hỏi bác sĩ riêng của ḿnh.






(*) .- Các nhà bào chế làm thinh là đúng quá rồi, v́ chạm đến túi tiền của họ. Bệnh nhân và người tiêu thụ phải vứt thuốc cũ đi để mua thuốc mới th́ họ được lợi bao nhiêu? Nên nhớ rằng mỗi năm có hàng ngàn dự luật "làm lợi" cho người dân Hoa Kỳ bị "nằm chết" trong các hộc bàn của các vị Dân Biểu, Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ, nhất là các vị được làm Trưởng Ban hay Trưởng Tiểu Ban.









Ví dụ điển h́nh là "Dự Luật cho người dân Hoa Kỳ mua thuốc từ bên Canada giá rẻ bằng 1/10 giá thuốc ở Mỹ" đă chết thảm v́ sự "chống đối mănh liệt" (chạy chọt vận động - lobby) của các hăng bào chế Hoa Kỳ và Hiệp Hội Dược Sĩ Mỹ Quốc.




Việc đề nghị hỏi các ông bác sĩ gia đ́nh cũng không xong, v́ mấy vị bác sĩ này không có rành về thuốc lắm vả lại họ c̣n sợ bị đưa ra toà nữa, nếu "cho phép" bệnh nhân dùng thuốc cũ rồi sau naỳ sinh chuyện không lành.




Brad Mackee /AARP Bulletin



at 11:45 PM







1 comment:







Emmanuel NguyễnJuly 20, 2014 at 2:10 AM

Bài này hữu ích quá cô Kim à, cảm ơn cô nhiều!
Reply
























Newer Post Older Post Home



Subscribe to: Post Comments (Atom)










Người Phương Nam

Người Phương Nam





Blog Archive



► 2019 (483)




► 2018 (1685)












► 2017 (1773)












► 2016 (1943)












► 2015 (1914)












▼ 2014 (1228) ► December (130)
► November (132)
► October (142)
► September (93)
► August (90)
▼ July (98) Chuyện dễ nhưng khó!!!
Vùng Lên - NS. Đông Hải
Ngày Rằm Thưởng Thức Món Kiểm Chay
Tư Thế Cho Giấc Ngủ An Lành
Ai Có Biết Thứ Hoa Này Của Miền Bắc Không?
Đời Này Ta C̣n Được Gặp Bố Mẹ Mấy Lần?
Michel Pépé - Le Lotus Sacré
Đơn Xin Ngu.
Bài Viết Khiến Thiên Hạ Kéo Nhau Bỏ Facebook
Lối Xưa Xe Ngựa - Trầm vân
Đời Là Vô Thường!
Monsanto : Một Hiện Tượng Kỳ Quái Của Hoa Kỳ ? Mon...
Marché - Chợ
Lặng Người Trước Bài Phát Biểu Của Ngoại Trưởng Hà...
Đàn Bà Quyến Rũ...V́ Đâu ???
Thượng Lộ B́nh An!
Nghệ Thuật Trên Ruộng Lúa
Xôi Sàig̣n
T́m Hiểu Về Nhân Duyên Vợ Chồng: T́nh Yêu Là Tạm B...
Tiếu Lâm
Những Món Nợ Phải Trả - Đinh Lâm Thanh
PPS Pretty Women
Gai Cột Sống: Nguyên Nhân, Triệu Chứng Và Biến Chứ...
15 Sự Thật Thú Vị Về Đồng Đô La Mỹ !!!
Tôi Vẫn Nhớ - Sương Lam
Bài Tóan Nhân Quả
Sentiments - Trạng Thái Biểu Lộ Cảm Xúc Của Ba Vị ...
T́m B́nh An Cho Hiện Tại
Kevin Rogers - Lối Về Xóm Nhỏ - Trịnh Hưng
Lễ Hội "KIMONO MÙA HÈ" Ở Himeji, Nhật
Cô Nhi Viện và Viện Dưỡng Lăo
Good Weekend - Trầm Vân
Bún Ốc Hà Nội Việt Nam
Einstein Khuyên Chúng Ta Điều Ǵ ?
Khỏanh Khắc Các Nguyên Thủ Quốc Gia Mừng, Lo V́ Wo...
Tờ Khai Sanh Oan Nghiệt - Phan
Thay Nội Tạng Thứ Tốt
Hiểu Sai Về Hạn Dùng Thực Phẩm Và Thuốc.
Dragonfly
Building Bolero -- The Queensland Symphony Orchest...
Images Retouchées En 3D - H́nh Ảnh 3D của Hà Nội ...
Tư Điển Việt Mỹ
Cha Mẹ & Con Cái
The Dalai Lama Teaching
Richard Clayderman - Time To Say Goodbye
Gọi Em: Tṛ Nhỏ - Trầm Vân
Trăng Là Ǵ?
Nhạn Qua Ải Bắc - Tâm Tiễn
Xin Cho
10 Món Đặc Sàn Níu Chân Du Khách Cần Thơ
Những Chuyện "Trời Ơi!" - K2 Nguyễn Thừa B́nh
Lầm Chết Luôn
7 Dấu Hiệu Cảnh Báo Ung Thư
Bao Nhiêu Triệu Người Chết?
Những Màu Sắc Tô Điểm Cuộc Đời
Rao Bán Nỗi Buồn - Trầm Vân
Những Điều Nhỏ Nhặt Đáng Ghi Nhớ !!!
Cá Kèo - Thủy Lan Vy
Trên Sân Cỏ Đời Sống - Lm Đa Minh Nguyễn Ngọc Long...
Đường Cong T́nh Ái - Trầm Vân
Họ Là "Ngụy", Ta Là Ǵ? - Người Lính Cũ
Money Has Different Name - Tên Của Các Lọai Tiền T...
Ảnh Chế "Độc" Về Trận Thua Không Tưởng Của Brazil
Bệnh Gan Ở Mỹ Tăng Nhiều Do Thuốc Lá Cây
Xà Lách Trứng Luộc, Món Ăn Đơn Giản, Lành Mạnh Cho...
Tao Mua Hết Tụi Bây!
T́nh Trầm Luân Thương - Trầm Vân
Hạnh Phúc Thật Gần
Bầu Trời Từ Tâm - Trầm Vân
Có Không, Một Tuổi Ǵa Hạnh Phúc
Các Món Bún Ở Saigon ..............
Nương Tựa Chính Ḿnh - Chúc Thiệu
Tuổi Chiều - Trầm Vân
Tiến Sĩ Ở Việt Nam - Theo ********** và Tác Giả Th...
Jetman over Rio - the movie
Không Hiểu Nổi!
Nếu Em Là Sóng - Trầm Vân
Từ 1975 Đến Giờ Mới Dám Nói !!!
Sơ Ri Đặc Sản Đất G̣ Công
Hỏi Người T́nh Xa - Trầm Vân
Cách Làm Giá Trong Hộp Sữa, Comment Faire Des Germ...
Những H́nh Ảnh Lịch Sử Về Con Tàu TITANIC
Xin Về Cát Bụi
Happy July - Trầm Vân
"Điều Kỳ Diệu"
Bài T́nh Thơ Tháng Bảy - Sương Lam
Đức Phật Giúp Được Ǵ Cho Nỗi Đau Khổ Này - Thích ...
Tính Ưa Khoe Khoang Và Khoác Lác Của Người Việt - ...
Casteller -Tháp Người
Thử Đóan Những Câu Đố Mẹo (Phần 1)
Lời Hay Ư Đẹp - Doanh Doanh thực hiện
Một Chiều - Trầm Vân
Sóng Wi-Fi Nếu Thấy Được Sẽ Như Thế Nào?
Chuyện " Đá Banh ".
Trái Bầu Nghĩa
Buy America Made - Trầm Vân
Cứ Ngỡ - Thích Tánh Tuệ
Sự Nghiệp

► June (90)
► May (99)
► April (89)
► March (107)
► February (77)
► January (81)

► 2013 (466)












Total Pageviews


Sparkline 3804158







Gai Cột Sống: Nguyên Nhân, Triệu Chứng Và Biến Chứng




Cột sống, hay xương sống, bao gồm 33 đốt sống, xương cùng, các đĩa đệm cột sống, và xương cụt nằm ở phía lưng, tách biệt bởi các đĩa cột sống.







Gai cột sống là một bệnh gây đau nhức làm ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, chất lượng cuộc sống, giảm khả năng lao động của người bệnh và thậm chí gây ra một số biến chứng khó lường.









1. Nguyên nhân gây gai cột sống



Cột sống, hay xương sống, bao gồm 33 đốt sống, xương cùng, các đĩa đệm cột sống, và xương cụt nằm ở phía lưng, tách biệt bởi các đĩa cột sống. Cột sống chứa và bảo vệ tủy sống bên trong ống tủy sống. Gai cột sống là một bộ phận h́nh thành do sự phát triển thêm ra của xương trên thân đốt sống, đĩa sụn hay dây chằng quanh khớp.



Gai đôi cột sống có thể gặp ở bất kỳ vị trí nào của cột sống (cột sống cổ, cột sống lưng, thắt lưng và cùng cụt), nhưng thường thấy ở đốt sống cổ và thắt lưng, v́ hai vị trí này chịu lực tác động nhiều nhất dẫn đến t́nh trạng khớp thoái hóa nhanh nhất.



Có một số nguyên nhân chính dẫn đến gai cột sống, đó là do viêm khớp cột sống măn tính làm ảnh hưởng đến phần sụn đốt sống gây hao ṃn dần bề mặt của khớp, trở nên thô ráp, xù x́ và cuối cùng hai bề mặt xương tiếp xúc, cọ xát lên nhau gây đau. Do đó, gai cột sống là một đáp ứng tự nhiên của cơ thể đối với phản ứng viêm măn tính của khớp xương cột sống.



Bên cạnh đó sự lắng đọng canxi ở dây chằng, gân tiếp xúc với đốt sống do quá tŕnh lăo hóa cũng là một trong các nguyên nhân gây gai cột sống (loại canxi này ở dưới dạng calcipyrophosphat). Gai cột sống có thể do nguyên nhân thoái hóa đốt sống bởi quá tŕnh lăo hóa (thông thường sau tuổi 40, nhất là nữ giới ở tuổi măn kinh) cũng là một trong các nguyên nhân chính gây ra gai cột sống.



Gai cột sống có thể do sự phản ứng của cơ thể sau khi bị chấn thương cột sống bởi sự chấn thương này sẽ làm tổn hại đến xương hoặc khớp cột sống (hoặc cả hai). Gai cột sống có chiều dài chỉ vài milimét thường xuất hiện ở mặt trước và bên, hiếm khi mọc ở phía sau, do đó ít chèn ép vào tủy và rễ thần kinh.


Bên cạnh đó, gai cột sống c̣n phụ thuộc khá nhiều vào yếu tố môi trường sống và có thể có yếu tố gia đ́nh (di truyền). Yếu tố môi trường: người bốc vác, đội các vật nặng, vận động viên cử tạ hoặc do ngồi nhiều, đứng nhiều bởi công việc. Bởi trọng lượng cơ thể, trọng lượng đồ vật nặng (có thể có cả hai) sẽ đè lên cột sống làm cột sống nhanh ṃn và yếu đi, nếu gặp ở những người có sức đề kháng kém, có bệnh măn tính, ăn uống không đảm bảo (lượng và chất), loăng xương th́ gai cột sống càng dễ xuất hiện.



Yếu tố gia đ́nh: bố, mẹ bị gai cột sống th́ con cái lớn lên cũng có thể mắc phải căn bệnh này





Gai cột sống nếu để lâu ngày không được chữa trị có thể gây nên biến chứng: nếu nhẹ th́ gây đau nhức khó chịu và ảnh hưởng đến cuộc sống sinh hoạt của người bệnh; nếu nặng có thể gây nên hiện tượng chèn ép thần kinh làm đau dây thần kinh liên sườn (gai cột sống lưng), đau thần kinh tọa (gai cột sống thắt lưng).



Đau dây thần kinh liên sườn rất dễ làm cho người bệnh hiểu nhầm là bệnh về hô hấp hoặc tim mạch. Đau dây thần kinh tọa có thể làm cho người bệnh đi lại khó khăn, teo cơ (bắp chân), rối loạn tiểu tiện thậm chí bị tàn phế. Nếu ống tủy bị quá thu hẹp cho sự h́nh thành gai cột sống, bệnh nhân (BN) sẽ có rối loạn đại tiểu tiện (đại, tiểu tiện không tự chủ), mất cảm giác.






2. Triệu chứng của gai cột sống



Gai cột sống là một trong các hậu quả của thoái hóa cột sống. Triệu chứng thường gặp của thoái hóa cột sống khiến BN phải đi khám là đau thắt lưng, đau vai hoặc cổ, lan xuống cánh tay, tê tay, đôi khi làm giới hạn vận động ở cổ, vai, thắt lưng (tùy vào vị trí của gai cột sống).



Với gai cột sống cổ th́ có thể gây nên chứng rối loạn tuần hoàn năo (đau đầu, buồn nôn, hoa mắt, chóng mặt, mất thăng bằng). Phần lớn gai cột sống gây đau do tiếp xúc với dây thần kinh hoặc các xương đốt sống khi cử động. Bởi v́ do gai cọ xát với xương khác hoặc các phần mềm ở xung quanh như: dây chằng, rễ dây thần kinh gây nên các cơn đau.



Nếu gai chèn ép các dây thần kinh, người bệnh sẽ bị những cảm giác đau vai, gáy, lan xuống cánh tay, bàn tay (gai cột sống cổ), đau tức ngực (gai cột sống lưng) và đau cơ đùi, cẳng chân, bàn chân và ngón chân, có khi gây rát bỏng (gai cột sống thắt lưng). Cơn đau xuất hiện khi BN đi, đứng. Cơn đau tăng khi cử động nhiều nhưng sẽ giảm khi được nghỉ ngơi.




3. Nguyên tắc chữa trị và pḥng bệnh






Gai cột sống gây đau nhức và có thể gây nên một số biến chứng cho người bệnh. V́ vậy, khi bị đau vai gáy, cánh tay, thần kinh liên sườn, thắt lưng, mông, cẳng chân, bàn chân… th́ nên đi khám bệnh càng sớm càng tốt. Nơi khám tốt nhất là chuyên khoa xương khớp để được điều trị tránh biến chứng xảy ra. Ngoài thuốc c̣n có thể áp dụng lư liệu pháp để hỗ trợ cho điều trị.






Tuy nhiên, dùng thuốc ǵ, lư liệu pháp như thế nào sẽ có bác sĩ chuyên khoa cho chỉ định điều trị và tư vấn. BN không nên tự mua thuốc điều trị và không nên tự tập luyện không có hướng dẫn của bác sĩ chuyên khoa.






Trong cuộc sống hàng ngày không nên đứng, ngồi quá lâu, không mang vác, bưng bê các vật quá nặng. Khi bị viêm khớp, thoái hóa khớp cần tích cực điều trị theo đơn của bác sĩ khám bệnh. Dinh dưỡng đủ chất là điều hết sức cần thiết, nhất là các loại thức ăn giàu canxi, các loại vi chất có trong các loại rau xanh, trái cây.

florida80
04-11-2019, 17:45
Tư Thế Cho Giấc Ngủ An Lành









Ngủ là một nhu cầu tất yếu và vô cùng quan trọng đối với sức khỏe thể chất cũng như tinh thần của con người. Trong một ngày 24 giờ th́ giấc ngủ chiếm trung b́nh trên dưới 8 tiếng đồng hồ, tức là 1/3 thời gian cuộc sống là dành cho giấc ngủ.





Theo các bác sỹ, trẻ em ở độ tuổi phát triển, trong khi ngủ cơ thể tiết ra các hormone tăng trưởng nên trẻ em chỉ phát triển tốt về thể trạng và trí tuệ nếu có được giấc ngủ đủ, sâu và thoải mái. Đối với người làm việc lớn tuổi, giấc ngủ chính là thời gian để thần kinh nghỉ ngơi, cơ thể tái tạo lại sức khỏe, chuẩn bị cho một ngày làm việc mới. Thành ra, nếu thiếu ngủ, cơ thể sẽ cảm thấy mệt mỏi, uể oải, kém minh mẫn, trí nhớ suy giảm, mất khả năng tập trung và năng lực làm việc kém hiệu quả.

Muốn có được một giấc ngủ ngon, sâu th́ việc chọn tư thế ngủ là rất quan trọng. Trong Luật tạng Phật giáo, đức Phật dạy các đệ tử nên chọn thế ngủ bên phải mà không được ngủ với các tư thế khác. “Ngọa tu hữu hiếp, danh cát tường thụy, bất đắc ngưỡng ngọa, phúc ngọa, cập tả hiếp ngọa.” (Nằm phải nằm nghiêng hông bên phải gọi là ngủ “kiết tường”. Chẳng đặng nằm ngữa, nằm sấp, cùng nằm hông bên trái.)



Theo bộ Sa di luật giải, nằm ngữa là cách nằm của loại Tu la. Nằm sấp là lối nằm theo điệu Ngạ quỷ. Nằm hông bên trái là lối nằm theo những người tham dục. Là đệ tử Phật phải nằm như “Sư tử vương” xuôi thân nghiêng bên phải sát chiếu chồng hai chân, ngậm miệng tay bên phải gối đầu, duỗi tay bên trái để xuôi ḿnh, tâm tưởng nghỉ nhớ, chớ quên niệm huệ. Trong tất cả các loài thú, chỉ có sư tử là uy mănh mạnh bực nhất; là đệ tử Phật cũng lấy cái sức cần mẫn tinh tiến, dũng mănh bền bực nhứt ấy.
Sở dĩ mà gọi thế ngủ như Sư tử vương là thế ngủ Cát tường. Bởi v́, khi nằm nghiêng hông bên phải, thân không day trở, niệm không quên mất, ngủ chẳng ngủ nhiều, không mê, và không chiêm bao điềm dữ.

Một nghiên cứu mới đây của các chuyên gia tư vấn sức khỏe cho thấy rằng một vài tư thế ngủ không đúng cách sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe nội tạng của con người. Ví dụ:


Nằm sấp: Với tư thế này, ngực sẽ bị ép vào, tim, phổi, các nội tạng cũng bị ảnh hưởng. Người ngủ sẽ dễ gặp ác mộng hơn. Khi nằm sấp, đầu sẽ phải nghiêng sang trái hoặc phải. Điều này ảnh hưởng tới sự lưu thông máu ở da mặt khiến da bị lăo hóa nhanh, da cổ cũng bị nhăn do nghiêng đầu sang một bên. Bạn cũng dễ bị vẹo cổ, đau gáy, chảy nước miếng…


Nằm ngữa: Nằm ngữa với hai chân duỗi thẳng dễ gây ra áp lực lên các cơ, khớp xương, dây chẳng ở lưng và cổ, dễ gây ra chứng đau lưng. Người lớn tuổi, béo ph́ nếu nằm ngữa dễ gây ngáy. Tuy nhiên, người bị cao huyết áp, tai biến mạch máu năo nên chọn tư thế này v́ rất có lợi cho tuần hoàn máu năo và cơ thể. Tư thế này cũng tốt cho trẻ nhỏ.


Nghiêng bên trái: Đây là tư thế gây hại cho tim và nội tạng, v́ tim nằm bên trái của lồng ngực, đầu ra của ruột non thông với ruột già đều nằm ở phía bên trái. Bạn dễ mắc các bệnh lư liên quan tới dạ dày hoặc làm bệnh về tim và dạ dày nặng hơn. Nếu bạn bị sỏi mật th́ không nên chọn tư thế này v́ sỏi sẽ bịt cuống mật gây đau đớn.


Nghiêng bên phải: Với tư thế này lục phủ, ngũ tạng sẽ nằm đúng vị trí giúp cho máu lưu thông tốt hơn. Đây là cách nhanh chóng xóa tan mệt mỏi và giúp bạn phục hồi được sức khỏe sau giấc ngủ ngon. Ngoài ra, tư thế này c̣n giúp cột sống được kéo giăn, giảm áp lực do sức nặng từ phần trên cơ thể đè lên.



Chúng ta nên biết: Các nhà dưỡng sinh thời xưa cho rằng việc nằm nghiêng về bên phải và để cho hai chân, tay hơi co lại sẽ rất tốt cho cơ thể. Khoa học hiện đại cũng chứng minh rằng với tư thế này, các bó cơ bắp trên toàn thân sẽ được thư giăn nhiều nhất, giúp bạn có giấc ngủ ngon, sâu hơn.


Như vậy nằm nghiêng hông bên phải để ngủ theo Phật giáo gọi là thế ngủ Cát tường (Cát tường thụy). Thế ngủ này rất khoa học, giúp bạn ngủ sâu, ngủ ngon không chiêm bao điềm xấu, máu huyết lưu thông, luôn giữ chánh niệm không mê sảng trong khi ngủ.

florida80
04-11-2019, 17:46
9 Cách Xử Dụng Điện Thoại Di Động Có Thể Tránh Bị Ung Thư Năo







Tổ chức WHO đă công bố rằng, điện thoại di động có thể gây ung thư năo. Vậy làm thế nào để đảm bảo sức khỏe tốt nhất khi sử dụng điện thoại di động?



Điện thoại di động giao tiếp bằng sử dụng các tín hiệu trong phổ tần sóng vô tuyến. Các chùm tín hiệu RF (tần số vô tuyến) vô h́nh thâm nhập vào cơ thể con người khi thiết bị sử dụng và tiềm ẩn lâu dài có thể gây bệnh ung thư, cũng có khả năng ảnh hưởng đến chức năng nhận thức bộ nhớ như gây ra mất phương phướng và chóng mặt.

Dưới đây là cách pḥng tránh để không ảnh hưởng sức khỏe khi sử dụng ĐTDĐ:

Cân bằng giữa sự an tàn và tiện lợi

Trong khi có nhiều nghiên cứu chỉ ra những tác dụng phụ của việc sử dụng ĐTDĐ, th́ cũng có nhiều nghiên cứu bác bỏ ảnh hưởng tới sức khỏe. Điều này tạo ra một sự không chắc chắn và v́ vậy, họ vẫn tiếp tục sở thích đó, tăng cường sử dụng ĐTDĐ. Điều này cũng là dễ hiểu v́ ĐTDĐ rất thuận tiện, chúng cho phép mọi người kết nối với nhau nhanh chóng và giữ cho mọi người liên lạc với thế giới.

Tuy nhiên, một cuộc thí nghiệm lớn với hơn 2-4 tỷ người trên thế giới cho thấy, 70-80% năng lượng của ĐTDĐ đă thâm nhập vào bộ năo nhưng hậu quả lâu dài chưa được biết chính xác. V́ vậy, khi cân nhắc giữa sự thuận tiện và sự ảnh hưởng tới sức khỏe, người dùng nên cân bằng lại, nên giảm tiếp xúc với các sóng vô tuyến phát ra từ ĐTDĐ.

Quay lại dùng điện thoại có dây

Nên xử dụng điện thoại có dây để liên lạc thay cho điện thoại di động khi ở nơi làm việc, ở nhà,…Nên sử dụng điện thoại có dây cho các cuộc đàm thoại dài.

Hạn chế các cuộc gọi quá lâu bằng ĐTDĐ

Đàm thoại quá lâu qua ĐTDĐ sẽ làm tăng tiếp xúc tín hiệu vô tuyến phát ra từ thiết bị với năo người, thậm chí một cuộc gọi 2 phút cũng làm biến đổi hoạt động điện năo. V́ vậy, bằng việc giảm thời gian sử dụng ĐTDĐ và dành cho việc sử dụng khi cần thiết, người dùng có thể giảm tác động tới năo.

Xử dụng tai nghe để tăng khoảng cách giữa điện thoại và đầu của bạn

Cách tiếp cận tốt nhất để xử dụng ĐTDĐ là tăng khoảng cách giữa người dùng và sóng vô tuyến phát ra từ điện thoại. Khi đàm thoại, nên để điện thoại ở chế độ loa ngoài.

Sử dụng nhắn tin nhiều hơn là gọi điện cũng là cách để tránh điện thoại tiếp xúc gần đầu người. Tuy nhiên cũng không nên lạm dụng quá nhiều việc nhắn tin. Khi nhắn tin, gửi mail,… nên giữ điện thoại cách xa cơ thể người.

Nên để điện thoại trong cặp (túi xách), tránh xa khỏi cơ thể. Giữ điện thoại cách xa khi bấm số kết nối. V́ lúc đó điện thoại sử dụng bức xạ nhiều hơn so với thời gian đàm thoại. V́ vậy, hăy nh́n vào màn h́nh đến khi cuộc gọi được kết nối mới đưa lên nghe.

Một nghiên cứu đă chỉ ra rằng, nếu đàn ông để điện thoại trong túi quần có thể giảm tới 30% số lượng tinh trùng. V́ vậy, cần giữ điện thoại tránh xa khỏi tất cả các bộ phận quan trọng của người (tim, gan,…).

Đứng một chỗ khi gọi ĐTDĐ

Nếu bạn vừa gọi vừa di chuyển, bức xạ nhiều hơn sẽ được phát ra v́ điện thoại cần giữ cho liên lạc luôn được kết nối khi người dùng di chuyển. Điều này bao gồm cả đi bộ và đi trên xe. Khi người dùng di chuyển, điện thoại tiếp tục quét để giữ được kết nối khi vị trí thay đổi.

Tắt điện thoại khi không sử dụng

ĐTDĐ khi ở chế độ chờ vẫn phát ra bức xạ, chỉ có tắt chúng đi th́ bức xạ mới chấm dứt. V́ vậy, khi không cần dùng nên tắt điện thoại đi.

Hăy cân nhắc có nên cho trẻ sử dụng ĐTDĐ hoặc hạn chế chỉ nên xử dụng trong trường hợp khẩn cấp

Hăy nhớ rằng, trẻ con nhạy cảm hơn với các bức xạ phát ra từ ĐTDĐ. Hộp sọ của trẻ thường mỏng hơn và bộ năo đang phát triển. V́ chúng đang phát triển, các tế bào phân chia với tỉ lệ nhanh hơn, điều này có nghĩa rằng, ảnh hưởng của bức xạ có thể dẫn tới hậu quả nghiêm trọng hơn nhiều.

T́m kiếm các sản phẩm thiết kế để bảo vệ khi sử dụng ĐTDĐ

Có một số thiết bị trên thị trường được tạo ra v́ mục đích đó, chẳng hạn, thiết bị bảo vệ EMF của điện thoại. Chúng có chip nhỏ hoặc các nút để giảm thiểu tác động của tín hiệu phát ra từ ĐTDĐ.

Mua ĐTDĐ có tỷ lệ phát xạ thấp

Người dùng có thể tham khảo các thương hiệu điện thoại có tỷ lệ phát xạ thấp tại đây. Kích vào từng thương hiệu điện thoại, người dùng sẽ nh́n thấy các loại điện thoại được bán trên thị trường và mức bức xạ của chúng

(theo VnMedia)

florida80
04-11-2019, 17:49
Bệnh Dội Ngược Bao Tử -Thực Quản - Bác Sĩ Nguyễn Văn Đức











Tuy bệnh dội ngược bao tử-thực quản (gastro-esophageal reflux disease, hay viết tắt là GERD) rất hay xảy ra, song nhiều người chúng ta c̣n mơ hồ về căn bệnh.





Thường khi có triệu chứng ở vùng bụng trên, chúng ta chỉ kể một cách giản dị: tôi bị bệnh bao tử, hoặc “yếu” bao tử. Thực ra, có nhiều loại bệnh bao tử khác nhau: bệnh dội ngược bao tử-thực quản, bệnh loét bao tử, loét tá tràng, bệnh đau song không có vết loét (nonulcer dyspepsia), bệnh ung thư bao tử, ... Việc chữa trị, tất nhiên, tùy vào sự định bệnh, v́ có thể khác biệt rất xa.




Thức ăn sau khi ta nhai nát trong miệng, được đẩy vào họng, và xuống thực quản (esophagus) lúc ta nuốt. Thực quản là một ống cấu tạo bởi những bắp thịt đặc biệt, giữ nhiệm vụ dẫn thức ăn xuống bao tử (stomach). Ở chỗ tiếp nối giữa thực quản và bao tử, có một bắp thịt nhỏ, hoạt động như một van đóng lại mở ra. Khi thức ăn đang từ thực quản xuống bao tử, bắp thịt này mở lỏng ra để thức ăn đi xuống. Khi thức ăn đă trong bao tử, bắp thịt này khép kín để thức ăn không đi ngược lên lại thực quản. Nếu v́ một hay nhiều lư do sẽ được thảo luận ở một đoạn sau, có sự dội ngược các chất ở trong bao tử lên lại thực quản, hay cao hơn nữa, lên đến cổ họng, ta sẽ có triệu chứng của bệnh dội ngược bao tử-thực quản.




Triệu chứng




Triệu chứng của bệnh rất đa dạng. Triệu chứng hay xảy ra nhất là nóng ngực (tiếng Mỹ nôm na là heartburn (nóng tim), nhưng trong Việt ngữ, chúng ta dùng chữ “nóng ngực” chính xác hơn). Nóng ngực thường xảy ra sau khi ăn. Người bệnh có cảm giác nóng ở vùng bụng trên hay ở vùng giữa ngực đằng sau xương ức. Cảm giác nóng có thể lan lên đến vùng cổ họng. Các triệu chứng điển h́nh khác của bệnh: ợ hơi, ợ chua, hoặc ợ cả thức ăn lên miệng, khó nuốt thức ăn.




Bệnh dội ngược bao tử-thực quản kinh niên cũng gây những triệu chứng khác như khan tiếng (nhất là vào buổi sáng). Ngoài ra, bệnh c̣n làm đau hoặc khó chịu cổ họng hoài, kḥ khè ban đêm. Có khảo cứu cho thấy, hơn 80% người lớn bị suyễn có những dội ngược bất thường từ bao tử lên thực quản. Nhiều vị ho tháng này qua năm khác, chỉ v́ bị bệnh dội ngược bao tử-thực quản.




Quan trọng hơn nữa, bệnh có thể gây triệu chứng đau ngực rất khó phân biệt với cơn đau ngực do bệnh hẹp tắc động mạch vành tim (coronary artery disease). Định bệnh trong trường hợp này cần sự hỏi bệnh tỉ mỉ, đôi khi cần phải làm thêm các phim chụp hoặc thử nghiệm, đo tim đặc biệt.




Do sự đa dạng của các triệu chứng, và, trong nhiều trường hợp, v́ có triệu chứng nhẹ, nhiều người bệnh không đi khám bác sĩ, nên rất khó xác định bệnh xảy ra nhiều đến mức độ nào.




Tại sao lại thế?




B́nh thường, trong lúc ta ăn uống, thế nào cũng có chút nước bao tử dội ngược lên phần thực quản tiếp giáp với bao tử. Điều này b́nh thường, v́ khi ta ăn, bắp thịt nhỏ giữa thực quản và bao tử đóng mở liên tục, một ít nước bao tử dội ngược lên thực quản là điều khó tránh. Thỉnh thoảng, trong lúc ăn, ta có thể thấy hơi nong nóng vùng ức. Triệu chứng này thường chỉ thoáng qua, do khi thực quản tiếp tục co bóp để đưa thức ăn xuống bao tử, đưa luôn cả những nước bao tử đi ngược đường xuống trở lại bao tử, mặt khác, nước miếng của ta đi theo thức ăn xuống thực quản, cũng sẽ trung ḥa được một phần chất acid có trong chất nước bao tử dội lên thực quản.




Tuy nhiên, khi sự dội ngược xảy ra nhiều hoặc thường xuyên, cái b́nh thường trở thành bất thường, nhẹ hay nặng tùy mức độ dội ngược ít hay nhiều.

Nghiên cứu cơ chế của sự dội ngược bao tử-thực quản, người ta nhận thấy muốn có sự dội ngược, có hai điều kiện cần hội đủ: các chất trong bao tử dội ngược lên, và cơ chế chống dội ngược bị xáo trộn.




- Các chất trong bao tử dễ dội ngược lên thực quản:




Các chất chứa trong bao tử dễ dội ngược lên thực quản khi khối lượng trong ḷng bao tử tăng lên (như sau khi ta ăn no).




Các chất trong bao tử cũng dễ dội ngược, khi ở quá gần chỗ tiếp giáp bao tử và thực quản. Như khi ta vào giường ngay sau khi ăn, bao tử ở vị trí nằm ngang, khiến các chất chứa trong bao tử dễ lên lại chỗ nối bao tử-thực quản (gastroesophageal junction), và dội lên thực quản.




Khi áp suất trong ḷng bao tử tăng cao (như khi ta béo mập, có thai, hoặc đeo giây lưng thắt hơi chặt), các chất chứa trong bao tử cũng dễ bị đẩy ngược lên phía thực quản.




- Cơ chế chống dội ngược bị xáo trộn:




Như chúng ta đă biết, ở chỗ tiếp giáp giữa thực quản và bao tử, có một bắp thịt đặc biệt (sphincter), hoạt động như một van đóng lại mở ra. Khi thức ăn đang xuống bao tử, bắp thịt này lỏng ra để thức ăn đi xuống. Khi thức ăn đă vào hẳn bao tử, bắp thịt này khép kín để thức ăn và các chất trong bao tử không dội ngược được lên thực quản. Có sự dội ngược khi bắp thịt van đóng mở ấy bị yếu, không thường xuyên khép chặt.




Bắp thịt van yếu trong trường hợp ta bị những bệnh tấn công các bắp thịt, mang thai, hút thuốc lá, giải phẫu trong quá khứ làm hư hoại bắp thịt van, ... Một số thuốc như thuốc chữa cao áp huyết (Procardia, Adalat, Verapamil, ...), thuốc suyễn (Theo-dur, Slo-bid, ...) cũng làm bắp thịt van yếu đi. Hoặc ngược lại, dù bắp thịt này làm việc b́nh thường, nhưng khi áp suất trong bao tử tăng cao (béo mập, ăn quá no, ...), quá sức chịu đựng của bắp thịt van, bắp thịt van khép không được kín, lúc đó cũng có sự dội ngược.




Biến chứng




Ngoài những triệu chứng khó chịu chúng ta đă có dịp t́m hiểu ở một đoạn trên, bệnh dội ngược bao tử-thực quản c̣n có thể gây ra các biến chứng nguy hiểm. Trong các chất dội ngược từ bao tử lên thực quản, có các chất hóa học, trong đó chất acid (tiết bởi các tế bào lót thành bao tử) là chất quan trọng nhất gây biến chứng.




Chất acid, khi dội ngược lên thực quản lâu ngày, có thể làm hư hoại niêm mạc của phần thực quản tiếp giáp với bao tử, gây bệnh viêm thực quản (esophagitis). Chỗ thực quản bị viêm kinh niên sau này có khi sẽ hẹp lại (stricture) gây khó nuốt, v́ trên đường từ thực quản xuống dạ dày, thức ăn đi qua một chỗ hẹp, sẽ len lách xuống khó khăn hơn. Hẹp thực quản được chữa bằng cách nông chỗ hẹp với những dụng cụ y khoa đặc biệt, hoặc bằng giải phẫu.




Tuy nhiên, biến chứng nguy hiểm nhất của bệnh dội ngược bao tử-thực quản là ung thư thực quản, một trong những ung thư nguy hiểm và khó chữa. Những tế bào b́nh thường của thực quản, phải thường xuyên tiếp xúc với chất acid, bị chất acid biến đổi, lâu ngày có thể biến thành tế bào ung thư.




Định bệnh




Như tất cả mọi tật bệnh khác trong y học, định ra bệnh dội ngược bao tử-thực quản dựa vào bệnh sử, thăm khám và các phương pháp khác như phim chụp, soi thực quản và bao tử, ...




Bao giờ phần bệnh sử (phần bạn kể bệnh) cũng là phần quan trọng nhất. V́ lời kể của bạn là đầu mối bác sĩ dựa vào để suy luận và định bệnh. Giúp bác sĩ mau chóng định bệnh, bạn cần kể bệnh mạch lạc, có đầu có đuôi, và đầy đủ các chi tiết cần thiết. “Bao tử tôi hay bị yếu khi ăn đồ nóng, hoặc “Tôi hay bị đầy hơi khi ăn đồ nóng”, rồi... cười, không đủ để bác sĩ định xem bạn bị: bệnh dội ngược bao tử-thực quản, bệnh loét bao tử, bệnh loét tá tràng, bệnh đau nhưng không có loét (nonulcer dyspepsia), hay bệnh ung thư bao tử,... Hoặc bạn thực ra bị bệnh hẹp tắc động mạch vành tim (coronary artery disease), và đầy hơi ở đây là một triệu chứng đau ngực trá h́nh (atypical chest pain) của loại bệnh nguy hiểm này.




Vậy, khi kể bệnh cho bác sĩ nghe, bạn nên kể theo thứ tự thời gian, dùng con số để diễn tả và lần lượt đi qua 8 điểm sau đây:




1. Bạn bị đau hay có triệu chứng bất thường từ bao lâu nay (how long): mới vài ngày qua, một tuần qua, vài tháng qua, hay đă nhiều năm, ...? (không nên dùng những chữ mơ hồ như “lâu rồi”, “mới đây”).

2. Bao lâu triệu chứng bất thường xảy ra một lần (how often): mấy lần mỗi ngày, hay mấy lần mỗi tuần? hay chỉ thỉnh thoảng vài lần một năm, ...?

3. Mỗi khi bạn có triệu chứng bất thường, triệu chứng kéo dài bao lâu (how long does it last): vài giây, vài phút, vài tiếng, cả ngày, liên tiếp vài ngày, ...?

4. Triệu chứng bất thường xảy ra trong trường hợp nào (in what circumstance does it occur): ngày hay đêm? lúc đang hoạt động hay nghỉ ngơi? sau khi ăn? mấy tiếng sau khi ăn? Triệu chứng xảy ra sau khi ăn một thức ăn đặc biệt nào? (Chúng ta hay dùng chữ “đồ nóng” một cách mơ hồ để chỉ một số những thức ăn. Y học Mỹ chỉ dùng khái niệm nóng lạnh để nói về nhiệt độ. Nên diễn tả một cách chính xác: “Tôi bị đầy hơi ở vùng bụng trên mỗi khi ăn thức ăn có mỡ, có ớt, hay khi uống nước cam chua, ...” thay v́: “Tôi bị đầy hơi mỗi khi ăn đồ nóng”, kẻo bị bác sĩ Mỹ, qua thông dịch, hiểu lầm là bạn có triệu chứng mỗi khi ăn thức ăn nóng nấu trên bếp.)

5. Triệu chứng bất thường hay đau đích xác ở đâu và có lan truyền đi chỗ khác hay không (where is it): nếu có thể được, bạn chỉ chỗ có triệu chứng bất thường hay bị đau bằng một ngón tay.

6. Đau ra sao (how is the pain): đau như dao đâm? đau như lửa đốt? đau như có vật nặng đè?

7. Các triệu chứng bất thường khác đi kèm khi bị đau (what are the associated symptoms): khi bị đau, bạn có bị khó thở, choáng váng, toát mồ hôi, buồn nôn hay ói mửa? hoặc bất cứ triệu chứng ǵ khác đi kèm khi đang bị đau?

8. Khi có triệu chứng bất thường hay bị đau như bạn vừa kể trên, bạn làm ǵ cho dễ chịu hơn (what do you do to get relief?): bạn phải ngồi hoặc nằm nghỉ, hay vẫn có thể tiếp tục làm việc, hoặc phải đi đi lại lại cho bớt đau. Khi bị đau, bạn hay dùng thuốc ǵ ở nhà để chữa đau (Aspirin, Tylenol, Maalox, Mylanta, ...) và kết quả ra sao?




Bạn cũng đừng quên mang theo tất cả những thuốc men đang dùng ở nhà đến cho bác sĩ xem, kể cả những thuốc mua không cần toa. Điều này vô cùng quan trọng, giúp vào sự định bệnh rất nhiều. V́ nhiều thuốc có thể gây đầy hơi, khó chịu, hoặc đau vùng bụng trên. Thí dụ những thuốc chống đau như Motrin, Advil, Naproxen, ..., những thuốc có chứa chất Aspirin như Anacin, Alka-Selzer. Biết bạn đang dùng thuốc ǵ, bác sĩ có thể đoán biết các bệnh bạn đang bị, hoặc triệu chứng bạn đang có có phải do thuốc gây ra hay không. Nếu nghi triệu chứng do thuốc gây ra, cùng với sự chữa trị bằng các thuốc bao tử, bác sĩ c̣n khuyên bạn nên ngưng thuốc nghi gây triệu chứng.




Sự thăm khám trong trường hợp bệnh dội ngược bao tử-thực quản thường không cho thấy ǵ đặc biệt. Một đôi khi, bạn thấy vùng bụng trên khó chịu, hay hơi đau khi vùng này được bác sĩ sờ nắn.




Sau phần bệnh sử và thăm khám, nếu định bệnh đă khá rơ (người bệnh khéo kể bệnh, có các triệu chứng điển h́nh của bệnh, thăm khám không cho thấy có bệnh ǵ khác), bác sĩ thường bắt đầu chữa cho bạn ngay. Nếu chưa có định bệnh rơ rệt, hoặc khi sự chữa trị không cho những kết quả mong muốn, bác sĩ có thể sẽ cho bạn chụp phim hoặc soi thực quản và bao tử, để xác định xem có đúng bạn bị bệnh dội ngược bao tử-thực quản hay không.




Các cách chẩn đoán khác như: theo dơi sự chuyển động của thực quản, đồng thời đo nồng độ acid (pH monitoring) trong ḷng thực quản, cũng có khi được sử dụng để định bệnh.




Chữa không dùng thuốc




Sự chữa trị bệnh dội ngược bao tử-thực quản nhắm bốn mục tiêu: làm giảm sự dội ngược, trung ḥa các chất dội lên từ bao tử, giúp các chất dội lên mau xuống lại bao tử, và bảo vệ niêm mạc thực quản trước tác dụng độc hại của các chất dội lên.




Để đạt được các mục tiêu trên, có nhiều cách chữa trị riêng rẽ hay phối hợp. Đầu tiên, chúng ta bàn đến những phương cách chữa trị không dùng thuốc.

Nếu nặng cân, chúng ta nên xuống cân.




- Khi ngủ, nên nằm với tư thế đầu và ngực cao hơn bụng, bằng cách kê đầu giường cao lên 4-6 inches (chèn gỗ hoặc vật cứng dưới đầu giường).

- Nên mặc quần áo rộng răi không thắt chặt làm tăng áp suất trong bụng.

- Tránh một vài loại thực phẩm như thức ăn mỡ màng, chocolate, peppermint, v́ chúng làm lỏng bắp thịt van giữa thực quản và bao tử. Uống nhiều rượu cũng vậy. Ngoài ra, chúng ta cũng nên tránh các thức ăn thức uống biết chắc cứ mỗi khi dùng lại khiến chúng ta có triệu chứng, chẳng hạn những thức uống chứa nhiều chất acid như colas, nước cam, rượu vang đỏ (red wine).

- Tránh ăn quá no, tránh uống nhiều nước trong lúc ăn.

- Trong ṿng 2-3 tiếng sau khi ăn, không nên đi nằm ngay, và nên tránh ăn trước khi đi ngủ.

- Bỏ hút thuốc lá và bớt uống rượu. Nước miếng trong miệng ta có tác dụng tốt, làm trung ḥa chất acid dội lên thực quản từ bao tử, thuốc lá khiến nước miếng bớt tiết ra.

- Nhai kẹo chewing gum cũng tốt, v́ khi nhai chewing gum, nước miếng trong miệng chúng ta sẽ tiết ra nhiều.




Chữa với thuốc




Triệu chứng nhẹ, thỉnh thoảng nóng ngực chút sau khi ăn dù đă thực thi những cách chữa không dùng thuốc kể trên, ta chỉ cần dùng các thuốc có tác dụng trung ḥa acid (antacids) như Maalox, Mylanta, Gaviscon, … vào lúc có triệu chứng.

Khi triệu chứng xảy ra thường hơn, ta dùng những thuốc làm bao tử bớt tiết chất acid như Tagamet, Zantac, Pepcid, ...




Triệu chứng nặng hơn nữa và dùng những thuốc trên không kết quả, chúng ta dùng những thuốc như Omeprazole, Prilosec, Prevacid, … có tác dụng chống tiết chất acid trong bao tử rất mạnh. Những thuốc này mắc hơn nhiều, và có thể gây một số tác dụng phụ quan trọng nếu dùng dài lâu, như găy xương, cơ thể thiếu sinh tố B12, thiếu muối Magnesium, … Sau một thời gian dùng thuốc, khi triệu chứng đă thuyên giảm nhiều, chúng ta nên ngưng thuốc, hoặc chuyển qua những thuốc nhẹ hơn Tagamet, Zantac, Pepcid.




Với những trường hợp nặng, thường sự chữa trị kéo dài vài tháng, có khi cả năm.




Giải phẫu




Một số trường hợp bệnh dội ngược bao tử-thực quản cần đến giải phẫu, v́ dùng thuốc tối đa không kết quả, triệu chứng vẫn làm cuộc sống người bệnh mất vui, hoặc v́ những lư do khác như dùng thuốc lâu quá năm này sang năm khác có thể đưa đến những vấn đề không tốt do tác dụng phụ của thuốc, v.v..




Có nhiều kỹ thuật giải phẫu khác nhau, giúp bắp thịt van giữa thực quản và bao tử chắc hơn, làm việc hữu hiệu hơn, khiến các thức ăn trong bao tử bớt dội lên thực quản.




Tóm lại, bệnh dội ngược bao tử thực quản xảy ra nhiều, có trường hợp nhẹ, có trường hợp nặng. Nhẹ, chúng ta chữa bằng những cách giản dị, xuống cân, nằm ngủ đầu và ngực cao hơn bụng, tránh một số thực phẩm, bỏ thuốc lá, bớt uống rượu, …, và thỉnh thoảng triệu chứng xảy ra, dùng những thuốc như Maalox, Mylanta, Gaviscon, Tagamet, Zantac, Pepcid. Nặng, chúng ta cần thuốc mạnh hơn như các thuốc Omeprazole, Prilosec, Prevacid, …, những thuốc này mắc hơn và có thể gây một số vấn đề cho cơ thể nếu dùng dài lâu. Khi bệnh nặng quá, dùng thuốc không kết quả, hoặc phải dùng thuốc dài lâu vừa tốn kém vừa sợ tác dụng phụ của thuốc, chúng ta cần đến giải phẫu.




BS Nguyễn Văn Đức



at 4:36 PM

florida80
04-11-2019, 17:50
Những Điều Kỳ Lạ Về Cơ Thể Mà Bạn Chưa Hề Biết









Có rất nhiều điều về cơ thể mà chắc hẳn không phải ai trong số chúng ta đều biết. Hăy cùng t́m hiểu những sự thật hiết sức thú vị đó qua h́nh ảnh sau đây nhé.




Bạn có biết chính chất béo đă tạo nên các mạch máu mới cho cơ thể? Hoặc chỉ một mảnh da bao quy đầu có thể phát triển với tỷ lệ khổng lồ? Bạn c̣n biết ǵ về cơ thể của chính ḿnh nữa?


Có rất nhiều điều về cơ thể mà chắc hẳn không phải ai trong số chúng ta đều biết. Hăy cùng t́m hiểu những sự thật hết sức thú vị đó qua h́nh ảnh sau đây nhé:












K. Huy - A. Đàm - TTVN

florida80
04-11-2019, 17:53
9 Câu Trả Lời Về An Ṭan Thực Phẩm - GS Hùynh Chiếu Đẳng










Tôi ghi lời bàn bằng chữ tím ngay sau mỗi câu cho đở loảng. Xin quí bạn hiểu cho rằng bằng hữu tin cậy mà hỏi, tôi biết chi nói nấy. Các bạn hăy tin vào nhận xét và suy đoán của chính ḿnh.


From: Phuong Do <pkxsanhdo@yahoo.com>

Date: June 10, 2014 at 9:42:45 PM PDT

To: HCD <huy017@gmail.com>

Subject: Không biết thực hư, kính nhờ anh check giúp ... xin cảm ơn anh

Kính chuyển,

9 thực phẩm dân dă tưởng lành nhưng dễ gây ung thư cho bạn.

Forwrad:

Hầu hết các loại thịt nguội đă chế biến như bacon, xúc xích, hot dog đều có chứa hai loại muối để bảo quản là sodium nitrite và sodium nitrate. Hai chất này là nguyên nhân làm tăng nguy cơ ung thư đại tràng và ung thư khác.




Muối diêm – chất có tác dụng bảo quản và giữ màu cho thịt trong quá tŕnh thủy phân sẽ tạo ra chất nitrosamine - tác nhân gây ung thư và dẫn đến nhiều triệu chứng ngộ độc cấp tính khác có thể dẫn đến tử vong.

HCD: Thưa điều nầy đúng. đúng nhất là cho lạp xưỡng của Trung Cộng và Việt Nam. Muối diêm làm cho thịt hồng (lạp xưởng) bắt mắt, chất nầy được biết có hại, gây ung thư. Cũng như phèn chua (muối nhôm) cũng là chất gây lú lẫn.




Bắp rang bơ

Chất flour có trong nhựa tổng hợp chống dính được dùng làm bao b́ đựng bắp rang nếu ở nhiệt độ cao khi đổ bắp rang vào, lớp nhựa này bị phá vỡ ra ngoài, giải phóng một lượng axít perfluorooctanoic là nguyên nhân chính dẫn đến ung thư phổi. Các túi lót bằng hóa chất c̣n gây ung thư gan, ung thư tinh hoàn và ung thư tụy. Chất diacetyl sử dụng trong bản thân hạt bắp cũng là chất gây ung thư.

HCD: Đúng phần nào. Đúng nhiều cho bắp rang vô bao sẳn để người dùng bỏ vào ḷ microwave vài phút cho nó nổ lên.

Xin quí bạn hiểu cho rằng bằng hữu tin cậy mà hỏi, tôi biết chi nói nấy, cũng giống như ngày xưa ngồi trước bàn cà phê lề đường tán chuyện trên trời dưới đất cùng bằng hữu.



Nước uống có gas

Soda- thành phần chính trong các loại nước uống có ga làm acid hóa cơ thể và nuôi dưỡng tế bào ung thư. Chất màu giống caramel trong thức uống có gas và dẫn chất của nó 4-methyllimidazole cũng là chất gây ung thư.

HCD: Không đúng. Nước màu thắng đen mới nguy hiểm. Caramel trong kẹo bánh không đen lắm. Chất 4-methyllimidazole sinh ra trong thịt nướng, trong cà phê, và một số nước ngọt như nhói trên. Hăng Pepsi đă lên tiếng về vụ nầy. Tuy nhiên đừng uống nước ngọt, không tốt v́ đường. Lâu lâu uốc chút chút chẳng đáng lo.




Đậu phụ mắm tôm

Ít ai biết đến món ăn khoái khẩu của nhiều dân văn pḥng này lại là món ăn có thể gây bệnh ung thư. Để có được món đậu phụ gịn tan, người ta phải rán ở nhiệt độ 245 độ C. Thực phẩm khi được chiên ở nhiệt độ trên 170 độ th́ các chất trong đó đều chuyển hóa thành acrylamid gây ung thư.

HCD: Tôi không biết món nầy. Nhưng mắm và khô được chánh phủ Mỹ khuyên là người Mỹ du lịch qua vùng á đông đừng có ăn, chứa chất gây ung thừ v́ là protein ngâm muối lâu ngày. C̣n nếu tàu hủ chiên cho gịn ngoài da th́ có thể sinh chất 4-methyllimidazole.




Khoai tây chiên

Khoai tây là thực phẩm giàu axit amin asparagin và một số loại đường như glucose. Hai loại này khi bị đun nóng ở nhiệt độ cao sẽ sản sinh ra Acrylamide- chất gây ung thư cao. Acrylamide là một khối u chứa chất độc thần kinh mạnh, có tác dụng phụ không chỉ trên năo, mà cả đối với hệ thống sinh sản.

HCD: Món nầy đúng là không tốt, các quán fastfood Mỹ âm thầm ko6ng bán nó nữa, thí dụ như McDonald, chiên khoai sinh ra 4-methyllimidazole.




Bắp cải để qua đêm

Bắp cải nấu để qua đêm và dưa bắp cải tạo ra nitrit sẽ được chuyển đổi amin nitrit gây ung thư khi ăn vào cơ thể.

HCD: Tôi chưa biết, tuy nhiên 15 nắm trước chánh phủ Trung Cộng khuyên người người Trung Hoa (Lục Địa) bới ăn dưa muối thực vật. Rau cải trái củ muối chua lâu ngày như cải dưa muối.




Nước đun đi đun lại nhiều lần

Nước đun đi đun lại nhiều lần khiến cho nước tăng hàm lượng nitrite khi dung nạp vào cơ thể con người có thể tạo ra amin nitrit gây ung thư. Ngoài ra nước uống nước sôi để nguội lâu ngày rất bất lợi cho sức khoẻ, v́ chất muối axít nitrat (chất dễ gây ung thư) được sản sinh trong nước đun sôi để nguội.

HCD: Nước lọc hay nước uống trong chai không có chứa nitrit chi hết, đun để nguội nhiều lần th́ nitrit cũng chẳng có, từ hư không rơi vào th́ là chuyện không tưởng.

Tuy nhiên nước chứa trong chai lọ ly thủy tinh do Trung Cộng chế tạo th́ có thể chứa ch́, từ thủy tinh tan vào. Muốn chắc ăn th́ dùng máy RO meter để đo mước uống trước và sau khi bỏ trong chau hay ly thủy tinh Trung Cộng qua một đêm th́ có khi thấy sự khác biệt nhiều.










Đây là loại máy thông dụng.




Thực phẩm chiên rán, các loại bánh rán

Các loại bánh rán bằng dầu dùng nhiều lần được chiên đi chiên lại nhiều lần như bánh tiêu, quẩy, bánh phồng tôm, bánh rán, bánh khoai lần sẽ sản sinh chất glycerol gây ung thư.

HCD: Thưa theo tôi nhớ th́ nhiều lần người ta nói về chuyện không nên ăn đồ chiên, nhất là tiệm Táu chiên. Họ dùng chảo lới dầu nóng sôi sùng sụt. Protein hay bột hay đường ở nhiệt độ nầy sinh ra chất gây ung thư trên chuột, chưa ai dám thử trên người, chỉ làm thống kê thôi.




Dưa muối

Nếu trước khi muối dưa, rau không “xử lư” bằng cách phơi nắng hoặc rửa bằng nước nóng khi muối sẽ có một hàm lượng chất Nitroso gây ung thư nhất định không tốt cho cơ thể.

HCD: "Xử lư" hay không không thành vấn đề, ngâm chua lâu là có hại, Trung Cộng khuyên dân chúng không ăn nhiều rau cải củ trái làm dưa. Tốn tiền thuốc của nhà nước lắm, muốn chết th́ chết ngay cho nhà nước nhờ.

florida80
04-11-2019, 17:55
Khác Biệt Giữa Stroke Và Heart Attack - BS Nguyễn Ư Đức









Stroke tiếng Việt gọi là Đột Quỵ hoặc Tai Biến Mạch Máu Năo, c̣n Heart Attack là Cơn Đau Tim. Hai bệnh có một số điểm giống và khác nhau đôi khi cũng khó mà phân biệt.


-Cả hai đều gây ra do sự gián đoạn cung cấp máu cho mỗi bộ phận là năo và tim.

-Cả hai đều cần được cấp cứu tức th́ v́ hậu quả của bệnh tùy thuộc vào điều trị sớm hay muộn.

-Triệu chứng của hai bệnh đều khác nhau.




Nhận diện và nhớ được sự khác biệt về dấu hiệu báo động sự xuất hiện giữa hai bệnh đôi khi cũng gây bối rối cho nhiều người. Xin cùng t́m hiểu về hai bệnh này.




Trước hết, xin nhấn mạnh là các tế bào trong cơ thể hoạt động được đều nhờ chất dinh dưỡng và dưỡng khí do ḍng máu cung cấp. Gián đoạn sự cung cấp này sẽ đưa tới rối loạn chức năng cho bộ phận đó rồi cho toàn cơ thể.




Năo bộ và tim là hai bộ phận chủ chốt của cơ thể và rất nhạy cảm với sự thiếu cung cấp nguồn nhiên liệu để hoạt động, dù sự gián đoạn chỉ trong vài phút đồng hồ.




Stroke là ǵ?










Stroke là một cơn yếu ớt bất chợt ở một phía của cơ thể gây ra do sự gián đoạn lưu hành máu tới một phần nào đó của năo.

Ngưng cung cấp máu có thể là do ở trên năo có một cục máu làm tắc nghẽn (85%) hoặc do một mạch máu bị đứt rách.

Không có máu, tế bào năo chết liền nếu không được cấp cứu.

Mỗi phút không điều trị đưa tới hủy hoại cho 1.9 triệu tế bào năo, 7.5 miles sợi thần kinh và 14 tỷ điểm giao liên kết hợp thần kinh.

Báo cáo y học của American Heart diễn tả sự tổn thương tế bào năo khi không được điều trị với sự hóa già của cơ quan này như sau:




Cứ một giây không điều trị năo già đi gần 8 giờ, mỗi phút không điều trị, năo già gần 3 tuần lễ, chậm điều trị 1 giờ, năo già đi 3.6 năm và nếu không chữa, năo già đi 36 năm. Mà năo đă hóa già hết hoạt động th́ hậu quả tai hại sẽ vô lường, vĩnh viễn.

Coi vậy th́ cấp cứu điều trị Stroke quan hệ như thế nào.




Cho tới nay, đột quỵ được coi là đệ tam sát thủ đối với con người, sau bệnh tim và ung thư và là đệ nhất nguyên nhân gây ra tàn phế cơ thể, đệ nhị hung thủ gây tàn phế thần kinh, sau bệnh Alzheimer.




Bên Hoa Kỳ, hàng năm có tới trên dưới 700,000 người bị stroke với gần 200,000 tử vong.

Sống sót th́ cứ một trong sáu người cần chăm sóc tại các cơ sở lâu dài; ba trong bốn người giảm khả năng làm việc.

Kinh hoàng như vậy mà dường như nhiều người vẫn chưa biết rơ về bệnh cũng như chưa chịu áp dụng các phương thức pḥng ngừa để bệnh không đến với ḿnh.




Những dấu hiệu báo trước


Dấu hiệu tùy thuộc nguyên nhân gây tai biến, vùng năo và số lượng tế bào bị tổn thương. Điểm đặc biệt của dấu hiệu báo động là một số những “Đột Nhiên.”

-Đột nhiên thấy yếu một bên cơ thể như mặt, tay hoặc chân là dấu hiệu sớm nhất và thông thường nhất; rồi:

-Đột nhiên thấy tê dại trên mặt, cánh tay hoặc chân ở một nửa thân người.

-Đột nhiên thấy bối rối, nói lơ lớ khó khăn hoặc không hiểu người khác nói ǵ.

-Đột nhiên có khó khăn nh́n bằng một hoặc cả hai con mắt.

-Đột nhiên chóng mặt, đi đứng không vững, mất thăng bằng.

-Đột nhiên thấy nhức đầu như búa bổ mà không rơ nguyên nhân.




Không phải tất cả các dấu hiệu này đều xảy ra trong mỗi tai biến. Nhưng nếu thấy một vài trong những dấu hiệu đó là phải kêu cấp cứu, tới nhà thương ngay. Đây là trường hợp khẩn cấp, trễ phút nào nguy hiểm gia tăng với phút đó.




Y giới đưa ra trắc nghiệm gọi tắt là FAST để sớm phát hiện stroke:

F = Face: yêu cầu họ cười, coi xem một bên mặt có méo, môi xệ.

A = Arm: yêu cầu giơ 2 tay lên cao, coi xem một tay có yếu xụi thơng xuống.

S = Speech: yêu cầu nhắc lại một câu nói, coi xem giọng nói có ngọng lớ, nhắc lại có đúng

T = Time có nghĩa thời gian điều trị là quan trọng, cần hành động kêu 911 cấp cứu ngay.




Nếu áp dụng trắc nghiệm này th́ đôi khi người thường cũng dễ dàng thấy stroke đang xuất hiện.

Ngoài ra, tùy theo năo trái hoặc phải bị tổn thương mà triệu chứng khác nhau đôi chút.

a) Đột quỵ ở năo trái hay phải đều đưa tới suy yếu hoặc tê liệt của phần cơ thể phía đối diện cộng thêm mắt mở rộng hoặc môi xệ xuống.

b) Đột quỵ năo trái gây ra rối loạn về ngôn ngữ ảnh hưởng tới việc phát ra và hiểu lời nói kể cả đọc và viết. Lư do là trung tâm kiểm soát ngôn ngữ thường nằm bên năo trái. Nạn nhân cũng có rối loạn về trí nhớ, một chút rối loạn hành vi, chậm chạp và dè dặt hơn.

c) Tổn thương năo phải: Ngoài tê liệt nửa thân phía trái, bệnh nhân c̣n bị mất trí nhớ, hành vi hấp tấp, không suy nghĩ, kém nhận xét về không gian, hay bị xúc động, buồn rầu và chỉ để ư tới sự việc xảy ra mé phải cơ thể. Chẳng hạn bệnh nhân không thấy có người tới ở phía trái hoặc bỏ quên thực phẩm trên phần đĩa bên trái.




Điều trị


Điều trị stroke tùy theo bị máu cục hoặc đứt động mạch.

Máu cục th́ thuốc loăng máu như aspirin là ưu tiên rồi tới heparin... Aspirin cần được dùng trong ṿng 3 giờ sau tai biến.

C̣n stroke do đứt mạch máu th́ cần giải phẫu để sửa chỗ đứt và giảm áp lực của máu tràn đè lên tế bào năo. Aspirin không được dùng v́ sẽ làm máu loăng, chảy nhiều hơn

Sau giai đoạn cấp cứu, bệnh nhân được tiếp tục điều trị tại trung tâm phục hồi chức năng, để lấy lại các chức năng đă mất hoặc suy yếu gây ra do sự thiếu nuôi dưỡng tế bào năo.

Tóm lại, tai biến động mạch năo là một tai nạn trầm trọng, cần được cấp cứu tức th́ để cứu văn sự sinh tồn của tế bào thần kinh. Nhiều nhà chuyên môn coi tai biến này nguy hiểm như Cơn Suy Tim heart attack, và gọi là Brain Attack.




Tai biến có thể viếng thăm bất cứ ai, không kể tuổi tác, nam nữ, giầu nghèo.




Heart Attack là ǵ?










Tim là bộ phận thiết yếu trong việc nuôi dưỡng toàn bộ tế bào trong cơ thể. Hằng ngày, tim liên tục làm việc suốt 24 giờ để bơm một khối lượng hơn 7,000 lít máu. Để hoàn thành công việc này, tim cần oxy và chất dinh dưỡng do động mạch vành (Coronary Artery) cung cấp.




V́ nhiều lư do khác nhau, mặt trong của động mạch vành bị các mảng chất béo bám vào, làm cho động mạch trở nên cứng và hẹp, máu lưu thông giảm đi. Một máu cục có thể thành h́nh và gây tắc nghẽn hoàn toàn sự lưu hành của máu. Tế bào tim không nhận được chất dinh dưỡng và oxy, sẽ bị hủy hoại, đó là sự nhồi máu cơ tim (myocardial infarction). Thời gian thiếu máu càng lâu th́ sự hủy hoại của tế bào tim càng lan rộng và cơn đau tim càng trầm trọng hơn.




Đôi khi, cơn đau tim cũng xảy ra khi động mạch vành co thắt tạm thời làm cho lưu lượng máu tới tim giảm đi. Các cơn co thắt tạm thời này có thể gây ra do căng thẳng tâm thần, tiếp xúc với thời tiết lạnh, khói thuốc lá hoặc khi sử dụng vài loại thuốc như bạch phiến...




Tại Hoa Kỳ, mỗi năm có khoảng 1.5 triệu người bị Cơn Đau Tim với hậu quả là gần 500,000 trường hợp tử vong. Hơn một nửa số tử vong này xảy ra 1 giờ sau cơn đau và trước khi bệnh nhân tới bệnh viện. Ngoài ra đă bị Heart Attack cũng thường đưa tới Stroke.




Cơn đau tim là một trường hợp khẩn cấp, cần được điều trị tức th́. Mỗi giây phút tŕ hoăn là giây phút dẫn tới “thập tử nhất sinh” cho người bệnh.




May mắn là cơn đau tim có thể điều trị được và các nguy cơ gây ra cơn đau tim có thể đối phó, thay đổi để pḥng ngừa căn bệnh hiểm nghèo này.




Những dấu hiệu báo trước cơn đau tim


Có một số dấu hiệu báo trước sự xuất hiện của cơn đau tim:

a) Cảm giác khó chịu, đau đè như có vật nặng ép trên ngực, kéo dài tới mấy phút rồi mất đi, nhưng có thể tái xuất hiện. Cơn đau có thể nhè nhẹ vừa phải tới đau không chịu được.

b) Cảm giác đau từ ngực chạy lên vai, cổ hoặc lan ra cánh tay; đầu ngón tay cảm thấy tê tê..

c) Choáng váng, muốn xỉu, đổ mồ hôi, buồn nôn, khó thở.
d) Lo sợ, nóng nẩy, bồn chồn.

đ) Da xanh nhợt.

e) Nhịp tim nhanh, không đều.




Nếu cảm thấy một trong những dấu hiệu này th́ phải kêu cấp cứu ngay.

Nên lưu ư là phụ nữ có thể có các dấu hiệu khác hoặc không rơ ràng như nam giới. Họ có thể cảm thấy đau ở bụng, cho là bị ợ chua với da ẩm ướt hoặc mệt mỏi bất thường. Mà không ngờ là có thể đang bị heart attack.




Điều trị


Ngay khi cảm thấy có dấu hiệu bị cơn đau tim, bệnh nhân cần phải kêu số điện thoại cấp cứu để được đưa đi khám bệnh và điều trị càng sớm càng tốt. Điều trị sớm có thề ngăn ngừa hoặc giới hạn sự hư hao của tế bào tim và giảm được tử vong cho người bệnh.

Trên đường chuyên trở bệnh nhân tới bệnh viện, nhân viên cấp cứu đă có thể bắt đầu sự chữa trị với phương tiện sẵn có trong xe cấp cứu. Họ thường xuyên liên lạc trực tiếp với bác sĩ tại bệnh viện để thông báo t́nh trạng người bệnh và tham khảo ư kiến về cách thức đối phó với cơn đau tim. Họ có thể cho bệnh nhân thở oxy, dùng thuốc giảm đau tim nitroglycerin, morphine. Họ cũng sử dụng máy cấp cứu tim khi nhịp tim rối loạn, tạm ngưng...




Tới nhà thương, bệnh nhân được đưa vào pḥng cấp cứu tim trang bị đầy đủ dụng cụ, và dược phẩm. Các bác sĩ sẽ hành động ngay để phục hồi sự lưu hành máu tới tim, giảm thiểu tổn thương cho các tế bào và liên tục theo dơi t́nh trạng bệnh.




Thuốc gây tan cục huyết được dùng trong ṿng 1 giờ kể từ khi bắt đầu có dấu hiệu của cơn đau tim.

Thuốc loại nitrate để giúp động mạch bớt co thắt và giảm cơn đau trước ngực.

Thuốc chống đông máu đề làm máu loăng, tránh đóng cục trong ḷng động mạch.

Thuốc viên aspirin để ngăn ngừa tiều cầu kết tụ với nhau.




Ngoài ra c̣n các dược phẩm giúp hạ huyết áp, giảm sức căng của động mạch, nhờ đó tim làm việc nhẹ nhàng hơn; thuốc điều ḥa nhịp tim; thuốc an thần giảm đau. Bệnh nhân liên tục được hít thở oxy.




Thời gian điều trị tại bệnh việc tùy thuộc t́nh trạng nặng hay nhẹ của bệnh, sự đáp ứng với các phương thức chữa trị, thường thường là năm, sáu ngày nếu không có biến chứng.




Trước khi xuất viện, bệnh nhân được hướng dẫn về cách thức chăm sóc và dùng thuốc, về chế độ dinh dưỡng, về nếp sống, về sự vận động cơ thể với chương tŕnh vật lư trị liệu, phục hồi chức năng của tim. Bệnh nhân sẽ hiểu rơ nên vận động như thế nào để tăng cường sức mạnh của cơ thể mà không gây ra rủi ro cho trái tim, hiểu rơ về bệnh tim của ḿnh và biết cách đối phó với các khó khăn trong đời sống hằng ngày để tránh cơn đau tim tái phát.




Kết luận




Dù là Cơn Đau Tim hoặc Đột Quỵ, cả hai bệnh đều là “thậm cấp chí nguy,” cần được điều trị tại bệnh viện tức th́.


Nhận biết và nhập tâm các dấu hiệu báo động sự xuất hiện của Đột Quỵ và Cơn Đau Tim là việc cần thiết để cứu vớt sự sống.

Kính chúc mọi sự b́nh an.

florida80
04-11-2019, 17:57
Những Tác Dụng Mới Của Vitamin D









Những nghiên cứu mới về vitamin D cho thấy nó thúc đẩy mức độ testosterone, cải thiện trí nhớ và chức năng nhận thức, đồng thời giảm nguy cơ bệnh Parkinson.


Vitamin D là tốt cho đời sống t́nh dục của bạn. Nó đă gây được sự chú ư. Tác động của vitamin D trong hệ miễn dịch và những lợi ích khác nhau mà việc sử dụng loại vitamin này đă được tiết lộ, miễn phí, chỉ cần đơn giản bằng cách tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Nghiên cứu mới cho thấy mức độ testosterone, hormone giới tính nam, cao hơn ở những người có mức độ vitamin D cao hơn.


Những nghiên cứu mới về vitamin D cho thấy nó thúc đẩy mức độ testosterone, cải thiện trí nhớ và chức năng nhận thức, đồng thời giảm nguy cơ bệnh Parkinson.




Testosterone và vitamin D

Theo một nghiên cứu được các nhà nghiên cứu tại Đại học Y khoa Graz, Áo thực hiện th́ việc tăng mức vitamin D trong cơ thể có thể giúp tăng mức testosterone của đàn ông và ham muốn t́nh dục của họ.


Những người đàn ông đảm bảo rằng cơ thể của họ được cung cấp đầy đủ vitamin D là những người cũng đang làm cải thiện mức testosterone và ham muốn t́nh dục của riêng ḿnh bên cạnh những lợi ích khác.


Các nhà nghiên cứu đă kiểm tra mức độ vitamin D và testosterone trong 2.299 nam giới trong vài tháng. Họ thấy rằng khi mức độ vitamin D tăng, nồng độ testosterone đạt đỉnh điểm vào mùa hè và giảm trong mùa đông. Họ cũng phát hiện thấy những người đàn ông có ít nhất 30 nanogram vitamin D trong mỗi ml máu có mức độ tuần hoàn testosterone cao hơn.




Vitamin D cải thiện trí nhớ và chức năng nhận thức ở người già

Để xác định khả năng suy nghĩ và chức năng nhận thức của một người bao gồm bộ nhớ và khả năng lĩnh hội thông tin mới, cũng như khả năng nói và đọc hiểu. Lăo hóa được biết là có ảnh hưởng đến chức năng nhận thức ở nhiều người, dẫn đến mất trí nhớ và khả năng duy lư khó khăn đối với việc chọn lựa từ ngữ chính xác trong khi nói hoặc viết.


Thế nhưng, nếu thiếu vitamin D có thể là thủ phạm gây ra hoặc góp phần vào sự tổn thương của quá tŕnh nhận thức ở người già - và không chỉ đơn giản là sự lăo hóa th́ sao? Nếu đây là nguyên do, chúng ta có thể hy vọng rằng sự cung cấp đủ vitamin D có thể giữ cho tâm trí nhanh nhẹn và trí nhớ minh mẫn.


Đường trao đổi chất của vitamin D đă được t́m thấy trong vùng hippocampus (sừng thái dương của năo thất bên) và tiểu năo - vùng năo liên quan đến việc xử lư, lập kế hoạch và h́nh thành kư ức mới. Như vậy, có vẻ như sự thiếu vitamin D có thể làm gián đoạn quá tŕnh nhận thức.


Trong một thông cáo báo chí, các nhà nghiên cứu ghi nhận rằng những người lớn tuổi mà cần phải có sự chăm sóc tại nhà có nguy cơ cao không nhận được đủ vitamin D v́ tiếp xúc giới hạn với ánh sáng mặt trời. Và, trên thực tế, chỉ 35% người cao niên là đối tượng của cuộc nghiên cứu có đủ lượng vitamin D trong máu của họ.


Những người lớn tuổi đủ vitamin D có kết quả các bài kiểm tra nhận thức tốt hơn nhiều so với những người kém và thiếu vitamin D, đặc biệt trong các cách xử trí thực hành, trong đó bao gồm nhận thức linh hoạt và phức tạp của nhận thức và lư luận. Các sự liên đới vẫn tiếp tục tồn tại sau khi có tính đến các biến số khác mà cũng có thể đă ảnh hưởng đến hiệu suất của các bài kiểm tra khả năng nhận thức.


Vitamin D có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh Parkinson
Một nghiên cứu mới phát hiện ra rằng những người có hàm lượng cao vitamin D có thể giảm nguy cơ phát triển bệnh Parkinson.

Vai tṛ của vitamin D trong sức khỏe của xương vẫn chưa được biết tới, nhưng các nghiên cứu trước cũng chỉ ra mối quan hệ với các vấn đề như bệnh tiểu đường, tim mạch và ung thư.

Paul Knekt - cán bộ Viện Sức khỏe và Phúc lợi quốc gia tại Phần Lan, và các đồng nghiệp đă theo dơi 3.173 nam giới và phụ nữ độ tuổi từ 50 đến 79 - những người được chẩn đoán không bị bệnh Parkinson ở mức cơ bản giữa năm 1978 và 1980.

Những người tham gia đă hoàn thành bảng câu hỏi và trải qua các cuộc phỏng vấn về các yếu tố sức khỏe và kinh tế xă hội. Họ cũng được khám bệnh và lấy các mẫu máu để phân tích.

Trong một khoảng thời gian 29 năm, cho đến năm 2007, các nhà nghiên cứu đă báo cáo rằng 50 người tham gia có phát triển bệnh Parkinson. Sau khi điều chỉnh các yếu tố có khả năng liên quan (như hoạt động thể chất và chỉ số khối cơ thể), những cá nhân trong nhóm với mức độ vitamin D cao hơn có nguy cơ phát triển bệnh ít hơn 67% so với nhóm có mức độ thấp hơn. Những người tham gia được chia thành bốn nhóm tương đương với các cấp độ của loại vitamin này.




Theo Knekt, bất chấp các mức độ thấp của vitamin D trong dân số nói chung, một mối quan hệ liều lượng-phản ứng đă được t́m thấy. Nghiên cứu được tiến hành ở Phần Lan, nơi có hạn chế trong việc tiếp xúc với ánh sáng mặt trời và, do đó, người dân ở đây có mức độ vitamin D thấp.


Trong thực tế, mức vitamin D trung b́nh của người dân Phần Lan chỉ bằng khoảng một nửa mức được coi là lư tưởng, 75-80 nanomoles/lít. Các kết quả phù hợp với giả thuyết rằng sự thiếu hụt vitamin D là một yếu tố nguy cơ của bệnh Parkinson, ông cho biết.


Theo các nhà nghiên cứu, các cơ chế mà theo đó mức độ vitamin có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của bệnh chưa được biết, nhưng chất dinh dưỡng có tác dụng bảo vệ trong năo bằng các hoạt động chống oxy hóa, sự điều chỉnh của các mức độ canxi, quá tŕnh giải độc, điều chế của hệ thống miễn dịch và sự cải thiện độ dẫn truyền trong các tế bào thần kinh.


Nghiên cứu này tập hợp dữ liệu ban đầu đầy hứa hẹn ở người trong t́nh trạng không đủ vitamin D có liên quan với nguy cơ phát triển bệnh Parkinson, nhưng cần được khám phá thêm, cả trong khám và điều trị, để làm rơ vai tṛ, cơ chế, và nồng độ chính xác.

florida80
04-11-2019, 18:00
"Giật ḿnh" Với Những Sự Thật Về Chính Cơ Thể Bạn.




Cùng bất ngờ với những con số khổng lồ chứa đựng trong cơ thể bạn:






Nếu những mạch máu này được nối với nhau thành một đường thẳng, ta sẽ thu được một “sợi dây” dài khoảng 2.400km.







Tận 32 triệu vi khuẩn cơ đấy bạn ạ! Thật may mắn khi đa số các vi khuẩn này đều vô hại.






Trung b́nh những bộ lọc này lọc khoảng 1,3 lít máu/phút và thải 1,4 lít nước tiểu/ngày.









Nếu cơ chân cũng muốn có “thành tích” hoành tráng như thế th́ bạn phải đi bộ khoảng 80km mỗi ngày cơ đấy! Vậy mới biết được cơ mắt “khỏe” đến nhường nào.




Và sững sờ trước những "sự thật giật ḿnh":






Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, một mẩu xương có kích thước bằng một bao diêm có thể chịu được sức nặng 9 tấn.






Sự thật này nghe chẳng “fun” tí nào! Và may mắn cho chúng ta là lớp tế bào bên trong dạ dày có tốc độ tái sinh nhanh đến mức Acid này không đủ thời gian để "phá tan" dạ dày.







Ở cơ thể người trưởng thành, tổng diện tích da bao phủ lên đến 1,9m 2. Trong cả quá tŕnh từ bé đến lớn của con người, khối lượng da chết lên đến… 18kg.





Việc ăn hoa quả và rau xanh sẽ giúp con người tự sản xuất ra Aspirin. Các nghiên cứu cho thấy những người hấp thu được chất Acid Benzoic trong hoa quả và rau xanh có thể sản xuất ra Acid Salicylic, “nguyên liệu” chính tạo ra tính năng kháng viêm và giảm đau cho Aspirin.






Ở độ tuổi 60 trở lên, 60% đàn ông và 40% phụ nữ sẽ “mắc bệnh” ngáy ngủ. Nhưng bạn biết không, âm thanh của tiếng ngáy có thể làm người khác cảm thấy điếc tai. V́ trong khi độ ồn trung b́nh của giọng nói b́nh thường rơi vào khoảng 60 đề-xi-ben, th́ với tiếng ngáy, nó có thể lên tới 80 đề-xi-ben (độ ồn trên 80 đề-xi-ben được xem là có hại đối với tai con người)






Trong tương lai, liệu con người có thể t́m ra cách sử dụng nguồn năng lượng này không nhỉ?






Ngoc Giao sưu tầm



at 11:02 PM







No comments:





Post a Comment







Newer Post Older Post Home



Subscribe to: Post Comments (Atom)










Người Phương Nam

Người Phương Nam





Blog Archive



► 2019 (483)




► 2018 (1685)












► 2017 (1773)












► 2016 (1943)












► 2015 (1914)












▼ 2014 (1228) ► December (130)
► November (132)
► October (142)
▼ September (93) Hà Nội Thanh Lịch Ơi! Em Ở Đâu?
ÁO THẮM - Thơ Hồng Thúy
Trái Thơm Trăm Mắt - Tạp ghi - Huy Phương
TIẾNG SÁO BUỒN - Độc tấu Sáo - Tranh màu nước Nita...
Nỗi Sợ Của Người Già!
Nh́n - Trầm Vân
Nghiệp Nặng và Sự Cứu Độ Của Đức Phật - Nguyễn ...
Đánh Ngay Bộ Chỉ Huy
Châm Ngôn Cuộc Sống - ĐỪNG - Ḥa tấu Piano - PPS B...
Mùa Thu Có Lá Vàng Rơi - Đỗ Công Luận
Dùng Dầu Cá Đúng Liều
Cám Ơn Anh Người Thương Binh Việt Nam Cộng Ḥa
Đi Thuê Nhà Là Chiện Nhỏ - MathildeTuyet Tran
Ngă rẽ Cuộc Đời - Quang Minh - Hồng Đào -Trang Tha...
Dùng Cung Nỏ... Bắn Hạ Máy Bay "Mỹ Ngụy"!
T́NH CHA NHẮN NHỦ - Thơ Quỳnh Vi - Nhạc André Rieu...
Muốn Thành Công Không Thể Lười Biếng
Năng Lượng Thực Vật Cho Tương Lai: Cây Jatropha Cu...
Gỏi Đu Đủ - Cây Vườn -Trái Nhà - Home Grown - Home...
Cười Lăn!
Nh́n Đúng Hơn Về Bệnh Trầm Cảm
Chỉ V́ Có Quỷ Sống Lẫn Với Người - Lương Hoài Nam
Chiều Thu Lá Rụng Ven Sông - Đỗ Công Luận
Sự Khác Biệt Dí Dỏm Giữa Đàn Ông Và Phụ Nữ
Tuổi Vào Thu - Trầm Vân phỏng dịch
THƯƠNG TIẾC BÙI PHƯƠNG ...- Xuân Vinh
6 Bể Bơi Lộng Lẫy Nhứt Châu Á
Mang Tiếng - Bùi Bảo Trúc
Photographer Collection - Horst Faas In VietNam - ...
TÓM TẮT ĐẠO PHẬT Trong Vấn Đáp Khoảng 5 Phút "Rất ...
Thương Tiếc Em Bùi Phương - Trầm Vân
Bạn Bè Vẫn Nhớ Tên Anh - Đỗ Công Luận
Chợt Buồn Nghe Tin Băo Xa - Đỗ Công Luận
Những Chiêu Vét Túi Dân Chơi Của Casino
T́m Hiểu Về "Bác Thằng BẦN"
Tên Họ Việt-Nam (Vui nhộn)
Tiếng C̣i Tàu - J'entends Siffler Le Train - Trầm ...
J'entends Siffler Le Train - PPS Les Trains
Hoa hậu Phu Nhân - Hài Hải Ngoại
Những Thủ Đoạn Rất Tinh Vi Của Giới Buôn Lậu !!!
Babel và Internet
Biên Hòa Memories #476 / Chuyến Tàu Về Quê Ngoa...
Les Feuilles Mortes - Yves Montand HD 1080 video 1...
Lá Úa - Phỏng Dịch Từ Bài Les Feuilles Mortes - Tr...
Nỗi Buồn Cuối Thu - Đỗ Công Luận
Bí Quyết Hạnh Phúc
Gà Tiềm Chanh Muối
Người Việt Nam Xấu Xí - Phan Thanh Tâm
Bài Tôn Vinh Cha Mẹ
Awesome Rock Formations Around The World
À Ơi! Khúc Hát Ca Dao - Trầm Vân
Cholesterol Có Xấu Không Nhỉ ? - BS Nguyễn Ư Đức
Chiều Thu C̣n Đó Nỗi Buồn - Đỗ Công Luận
Biết Sống Tùy Duyên - Bodhgaya Monk
Bia Saigon
Triết Lư Barbecue - Vũ Thế Thành
Mùa Thu Em Bỏ Ta Đi - Đỗ Công Luận
CỨ NHƯ NGƯỜI XA LẠ - Thơ Hồng Thúy - Nguyễn Hữu Tâ...
Tưởng Niệm Mười Một Tháng Chín - Trầm Vân
10 Điều Ít Biết Về Vụ 11/9
Từ Tháp Đôi Cao Nhất Thế Giới Tới Ground Zero
MỘT M̀NH - Nhạc Lam Phương - Ca sĩ Quang Dũng - PP...
Người Đàn Ông Ngồi Tù 103 Năm Vẫn Sống Sót Trở Về
Mr Bean - Swimming Pool (HD)
Cười chút chơi!
Tranh Nghệ Thuật Ḥang Gia Việt Nam
Bờ Chuối Sau Hè
Xin Lỗi Cô! - Tự Trị Bệnh - Sao Nam Trần Ngọc B́nh...
Mười Sáu Tháng Tám Trăng Tṛn - Đỗ Công Luận
Trung Thu Nhớ Mẹ - Trầm Vân
Đi Ăn Nhà Hàng - Phần 2
Luật Sống - PPS Bùi Phương
Huyền Sử Chuyện T́nh
Một Nền Y Học Bị Chính Trị Hóa - BSN
Bệnh Vô Cảm - Phan Hoàng Yến , học sinh lớp 9A2 tr...
Biên Hòa Memories #467 / Kỷ niệm mùa hè / Trư...
Tử Biệt - Bác Sĩ Nguyễn Ư Đức
Đôi Ngă T́nh Yêu - Trầm Vân
Những Nụ Hôn " Lăng Mạn" Nhất !!
Trăng Thu - Đỗ Công Luận
Chè Nếp Than Ăn Vui Miệng
Hôn Thú - Hôn Không Thú - Quư Thể
Rau Dại Miền Tây
Những Người Làm Nên Nước Mỹ - Bác Sĩ Hồ Hải
Biên Hòa Memories #463 / Moon / Trăng mờ bên suô...
Ngồi Buồn Đếm Lá Trên Cây - Trầm Vân
"Giật ḿnh" Với Những Sự Thật Về Chính Cơ Thể Bạn....
Chiêm Ngưỡng Biển Hoa Gần Một Triệu Bông Rực Lửa Ở...
Tiếu... Tí Ti
Con Dâu (Tiếp Theo Chuyện Cô Dâu)
Trung Thu Dạ Khúc - Đỗ Công Luận
Bộ Sưu Tập Những Toà Lâu Đài Đẹp Ngỡ Ngàng Đến Từ ...
Năm Ngàn & Năm Cắc - Tưởng Năng Tiến

► August (90)
► July (98)
► June (90)
► May (99)
► April (89)
► March (107)
► February (77)
► January (81)

► 2013 (466)












Total Pageviews


Sparkline 3804177

















Simple theme. Powered by Blogger

florida80
04-11-2019, 18:01
Tử Biệt - Bác Sĩ Nguyễn Ư Đức








Cổ nhân ta vẫn thường nói tới chu kỳ kín của đời người “Sinh, Lăo, Bệnh, Tử.”


Vâng: có sinh th́ có tử, nhưng “sinh th́ hữu kỳ, tử th́ vô hạn.” Nặng bụng cưu mang chín tháng mười ngày là biết rằng con sẽ “nhập thế cuộc,” chào đời. C̣n mặc áo mới vĩnh viễn ra đi th́ chẳng biết khi nào, ra sao.


Sinh ly, tử biệt. Vào đời là tạm thời chia ly với cơ thể người mẹ. Rời khỏi cuộc đời là tạm biệt với nhân gian.


Hẹn lại cùng nhau gặp ở “cơi thật xa”; Niết Bàn, Thiên Đàng, Aara, Elysium, Soma, Jahannan...Hoặc Địa Ngục để mặt đối mặt với Diêm Vương, luận tội kể công.


Với thân xác, bệnh tật th́ học giả Ngô Tất Tố đă thoát dịch bốn câu thơ của vua Trần Thái Tôn như sau:




“Cũng bởi có thân mà có bệnh
Ví bằng không xác quyết không đau.
Phép tiên chớ vội khoe không chết,
Thuốc thánh c̣n chưa chắc sống lâu.”
Chưa chắc sống lâu th́ có ngày phải biệt tử.

Mà Voltaire đă nói, “Lúc ta chào đời là đă một bước đi về cơi chết.” Đúng chăng là con người bắt đầu chết ngay từ lúc sinh ra và trong chu kỳ kín, cái kết cuộc nối liền với khởi điểm.

Guillaume Amerye (Abbé de Chaulieu) th́ rơ ràng hơn, “Cái chết chỉ là sự kết thúc cuộc đời; Nỗi thống khổ, niềm sung sướng không cùng mang theo.” Với Napoleon Đại Đế, “Chết là giấc ngủ không mơ” và Shakespeare, “Kẻ nào chết rồi là sạch nợ.”


Nói vậy th́ chết cũng đơn giản như sinh, đôi khi ồn ào, lộn xộn hơn.


Có người đă ví sự chết của cơ thể như sự tắt của một nhà máy với những động cơ, giây điện. Nhà máy không im lặng ngưng hoạt động khi ta ngắt nút kiểm soát tắt mở mà mọi bộ phận c̣n cót két rên rỉ kêu trong khi chậm lại rồi ngưng.


Ngoại trừ bất thần chết v́ tai nạn, thương tích hoặc cơn dột quỵ suy tim, cơ thể cũng cót két, rên xiết trước khi sự sống hoàn toàn ngưng.V́ thế Dylan Thomas có nhận xét rằng, “Chúng ta không nhẹ nhàng đi vào tử biệt mà thịnh nộ, nổi khùng trước sự tắt lịm của ánh sáng.”


Nhưng có người tin rằng ở nội tâm th́ lại b́nh an. Tuy ồn ào nhưng sự chết luôn luôn xác thực. Nhiều người đă t́m được b́nh an và chân giá trị trong sự xác thực này.


Tư Mă Thiên có ghi, “Nhân cố hữu nhất tử: Tử hoặc trọng ư Thái Sơn, hoặc khinh ư hồng mao.(nguoi` ta chac chan’ phai chet, hoac chet nang nhu nui’ Thai son, hoac nhe nhu lo^ng con chim Ho^ng`)” Do đó mới có nguời khi đối diện với tử thần th́ sợ hăi, phủ nhận, cô lập, giận dữ rồi năn nỷ điều đ́nh để rồi cuối cùng cũng phải chấp nhận. V́ số trời đă định.





Y giới thường được huấn luyện để cứu chữa bệnh nhân và kéo dài sự sống trong đó họ đạt được phần thưởng về tinh thần cũng như tài chánh. Nhưng khi không ngăn chặn được sự chết th́ họ hết hứng thú và thường chuyển sang đối tượng khác. Và nguời bệnh đôi khi bị quên lăng, đơn độc ra đi trong t́nh cảm gia đ́nh, tôn giáo.




Mà ra đi th́ xác c̣n đó, hồn đi đâu, chẳng ai hay. Cho nên Shakespeare đă ví, “Chết chỉ là một cuộc du lịch nhưng chẳng ai quay trở lại. (chi co ong jesus quay tro lai, nhung lai bay len troi` song’ tren quy~ ddao trai’ da^t’)” Để nói cho nhau biết chết ra sao, như thế nào, và bên kia vui hay buồn, thái b́nh hay binh đao, độc tài hoặc dân chủ...Chẳng ai “báo cáo” nên người tiễn đưa phải suy luận, t́m hiểu về người ra đi. Đi như thế nào, lúc nào, ra sao.




Từ nhiều thế kỷ, chết được hiểu như là khi con người mất hết các chức năng sống: tim ngừng đập vĩnh viễn, hơi thở không c̣n. Nhưng khi nào th́ mạng sống đó được coi như là không c̣n sống. Đó là điều mà giới y, luật gia, triết nhân, các vị học giả, thường dân, người làm chính trị đă và đang ồn ào, hăng say thảo luận, góp ư.




V́ tạm thời tim ngưng đập, hơi thở gián đoạn khoảng 6 phút mà các bộ phận sinh tử chưa bị tổn thương, con người tưởng như đă măn phần th́ y học hiện đại đă phục hồi được các chức năng và cứu sống nhiều người.




“V́ vậy tiêu chuẩn năo-tử (brain death) được thêm vào.

Năo là trung tâm của hệ thần kinh.

Cuống năo kiểm soát các chức năng duy tŕ sinh lực của các cơ quan, bộ phận.

Năo trên điều ḥa ư nghĩ, trí nhớ, t́nh cảm con người.”




Năm 1968, Đại Học Y Khoa Harvard đề nghị bốn tiêu chuẩn cho năo tử:

a. Không đáp ứng với cảm giác sờ mó, âm thanh và các kích thích ngoại vi;

b. Không c̣n cử động và không c̣n hơi thở tự phát (spontaneous breathing);

c. Không cón tác động phản xạ.

Phản xạ (reflex) là một sinh hoạt tự động hay không chủ ư do một ṿng thần kinh tương đối đơn giản gây ra mà không nhất thiết liên quan tới ư thức. Chẳng hạn khi dùng kim chích nhẹ vào tay một người, th́ kim đau sẽ gây ra cử động phản xạ tự vệ tức th́ để rút ngón tay lại trước khi năo có thời gian gửi cảm giác đau tới các cơ quan liên hệ

d. Không c̣n kư hiệu năo điện đồ hoặc bất cứ hoạt động điện năng nào từ tế bào năo.




Từ năm 1929, bác sĩ thần kinh tâm trí người Đức Hans Berger đă khám phá ra là năo bộ có những luồng điện phát ra trong khi năo hoạt động. Nhưng khi đó không ai tin. Phải đợi tới khi nhà bác học người Anh Edgar Adrian cụ thể chứng minh được sinh hoạt điện năng này của năo th́ mọi người mới chấp nhận và Edgar được Nobel Prize vào năm 1932 cùng với Sir Charles Sherrington nhờ kết quả việc nghiên cứu này.




Ngày nay nhiều máy móc tối tân đă ghi nhận được các sinh hoạt điện năng của năo bộ với các sóng alpha, beta, delta, theta. Rồi lại c̣n MRI, PET scan ghi lại các tín hiệu cũng như thay đổi hóa chất của năo khi nghỉ cũng như khi làm việc.




Trong tương lai gần đây, chắc là các ư nghĩ thầm kín của ta cũng sẽ được máy móc t́m ra, đọc được.




Tiêu chuẩn năo tử của Đại Học Harvard cũng không được mọi giới công nhận là một thử nghiệm để kết luận sự chết. Mỗi quốc gia có những tiêu chuẩn khác nhau.




Từ năm 1981, Hoa Kỳ định nghĩa chết như sự ngưng không đổi ngược của toàn bộ năo kể cả phần cuống là nơi điều ḥa hô hấp, tuần hoàn và các chức năng khác.Và về pháp lư, các điều kiện trên phải kéo dài sau 12 giờ.




Khi c̣n ở trong t́nh trạng thực vật (vegetative state) th́ cuống năo c̣n hoạt động và tiếp tục giúp hoàn thành sự hô hấp, tuần hoàn và vài nhiệm vụ khác; nhưng phần năo trên điều ḥa sự suy tư, thu nhận cảm xúc không c̣n nữa.




Khi rơi vào t́nh trạng permanent vegetative state là t́nh trạng không có ư thức vĩnh viễn, không đổi ngược trong đó không có cử động tự ư hoặc bất cứ khả năng nhận biết nào; không c̣n khả năng chủ ư truyền đạt hoặc tương tác với ngoại cảnh. Người bệnh đôi khi rơi vào t́nh trạng nh́n theo mà không c̣n biết ǵ (coma vision).




Cho nên rơi vào năo tử th́ ít khi thoát lưỡi hái tử thần dù có cấp cứu tiến bộ tinh vi; t́nh trạng thực vật vegetative lại vẫn c̣n nhờ sự toàn vẹn của cuống năo để điều khiển một số chức năng của cơ thể cho nên có thể kéo dài sự sống vật vờ cả nhiều năm...





Tử biệt


Maria được Chúa cho tuổi thọ 94, kéo dài sự sống được 10 năm sau khi người chồng thân yêu của bà b́nh an vĩnh viễn ra đi trong một cơn stroke vào ban đêm. Từ đó bà ở với con này con kia mỗi nơi một vài tháng, nửa năm để bớt đơn côi.
Bà tương đối vẫn mạnh khỏe ngoài vài bệnh thông thường của tuổi già, rất siêng năng lần hạt mân côi và luôn luôn liên lạc, khích lệ con cháu trong sự nghiệp, bổn phận đối với gia đ́nh và xă hội.


Mấy tháng gần đây, bà cảm thấy trong người như không được khỏe cho lắm và bà được đưa vào điều trị tại bệnh viện hơn một tuần rồi xuất viện, về nghỉ ngơi theo dơi bệnh t́nh ở Skill Nursing Facility do các nữ tu ḍng Franciscan tổ chức có nhân viên tận t́nh chăm sóc. Bà enjoy nếp sống ở đây, tham gia tất cả các sinh hoạt, vui vẻ với mọi người. Bà luôn luôn điện thoại cho con cháu xa gần, khoe là bà cảm thấy hạnh phúc sung sướng lắm.


Rồi một đêm, người nhà được thông báo là bà cảm thấy trong người mệt mỏi, ngực hơi đau, khó thở, đầu hơi choáng váng và được đưa vào pḥng cấp cứu. Bà yếu dần, nằm mấy ngày, rồi nhẹ nhàng ra đi trước sự chứng kiến của các con. Bà đă được gọi về nước Chúa, sau khi đă được chịu các phép bí tích của giáo hội.


Trong khi đó, sự ra đi của Lăo Tam, một người thân quen trong gia đ́nh, lại có tính cách kinh điển hơn.


Lăo được Trời ban cho tuổi thọ gần bát tuần. Ông tương đối vẫn mạnh khỏe, không bệnh kinh niên, không phải dùng thuốc ǵ, ngay cả Tam Tinh Hải Cẩu hoặc nhân sâm, cao hổ cốt...


Nhưng từ nửa năm nay, Lăo thấy sức khỏe mỗi ngày mỗi giảm. Lăo không c̣n sinh lực như mấy năm trước, ít quan tâm tới mọi sự chung quanh, đôi khi muốn xa lánh mọi người. Khẩu vị giảm, nhai nuốt khó khăn và ông thấy thực phẩm là không cần thiết. Ông rất sợ khi người thân ép uống súp, ăn thịt, chỉ sợ bị nghẹn, ói. Có những ngày ông ngủ li b́, như để tiết kiệm sinh lực cho những chức năng quan trọng.




Ông bồn chồn trong ḷng, nằm ngồi không yên như nhớ như quên điều ǵ muốn làm muốn thôi, muốn nhắc nhở vợ con. Rồi thở dài, ngán ngẫm. Vào đêm khuya vắng, ông dường như thấy cha mẹ ông xuất hiện đâu đây, ân cần nói chuyện với ông.




Có lúc ông lên kinh, chân tay co giật, hàm cứng lại. Giá có ai bóp tay bóp chân cho ḿnh lúc này nhỉ!




Ông thấy nhịp tim chậm dần, nhẹ hơn. Hơi thở đôi khi như hụt và nông. Tuần hoàn kém, thân ông giá lạnh v́ thiếu máu. Da ông xanh nhợt. Năo thiếu oxy nên ông hay choáng váng mày mặt, kèm theo những cơn nhức đầu kéo dài khó chịu. Ngượng ngùng hơn là nhiều lần ông không kiềm hăm được đại tiểu tiện, bài tiết trên giường. Người toát ra mùi hôi; nước miếng hoen khóe mép, đóng cặn.




Xương thịt, nội tạng ông đôi khi đau nhức, nhưng không kéo dài lâu. Ông nhớ có người nói, cận tử th́ cơ thể tiết ra vài hóa chất giúp giảm sự đau, sự quằn quại khi mô bào, bộ phận bước vào giai đoạn đau đớn của sự chết (agony phase of death). Các bộ phận trong h́nh hài ông ngưng dần, bộ phận nọ tiếp nối bộ phận kia như những quân bài domino đè lên nhau mà ngả xuống.




Ông mỉm cười chờ đợi. Một ngày đẹp trời nào đó, mắt ông sẽ mờ dần, đồng tử mở rộng nhưng bất động, để đón nhận thêm nhiều ánh sáng. Không gian tối dần, như Victor Hugo than phiền, “Tôi chỉ thấy bóng tối” hoặc Emily Dickinson, ”..sương mù đang bao phủ quanh tôi.” Bắt chước Goeth, ông kêu lên, “Light! More light,” (cho tôi thêm ánh sáng) Để lần cuối nh́n thấy cuộc đời. Rồi ông lịm dần, lịm dần.




Chỉ trong vài giờ, cơ thịt ông co cứng, giá lạnh, xanh lợt. Rồi vài chục giờ sau, cơ thể ông mềm, mô bào tự hủy hoại v́ hóa chất tiết ra, rồi thoái rữa v́ đám vi khuẩn trong ruột già ruột non đua nhau lan tràn phá phách đó đây.




Rồi thân xác này sẽ được chôn cất dưới ḷng đất xâu. Cát bụi lại về cát bụi.

Ông nhớ là cách đây vài tháng, khi linh cảm rằng sẽ đi xa, ông đă làm di chúc. Xin đừng móc dây móc máy vào người tôi khi tôi hấp hối. Cho phép tôi ra đi lành lặn như khi tôi tới. Trên giấy tờ hộ tịch sẽ được ghi tôi chết v́ natural cause, rất tự nhiên, điều mà nhiều người mong ước. Và xin cảm ơn mọi người đă chăm sóc tôi, đă lưu tâm tới “những nhu cầu cận tử” nhu cầu của người trên ngưỡng cửa tử vong.”




Lăo Tam sẵn sàng ra đi.




Như Thomas Edison reo lên bên kia thế giới sao mà đẹp, “It is beautifull over there!”

Và b́nh thản đợi chờ như nhà văn lăo thành MặcThu viết nhân chuyến “tiễn đưa” nhà văn Mai Thảo.




“Sân ga một đám đứng chờ tàu,
Toàn bạn già xưa biết mặt nhau.
Tàu chật, có người lên được trước;
Chậm chân, kẻ đợi chuyến tàu sau.
Một đi là chẳng quay đầu lại,
Áo trắng trên người đủ kín thân.
Ra đi giống thuở ai vừa đến,
Tàu suốt trăm năm chỉ một lần.
Sân ga thấp thoáng bóng người già,
Họ sẵn sàng về cơi thật xa.
H́nh như trong đám trông chờ ấy,
Có bạn thân t́nh, có cả ta.”







Vâng. Có cả ta.


Bác Sĩ Nguyễn Ư Đức

florida80
04-11-2019, 18:03
Triết Lư Barbecue - Vũ Thế Thành








Thịt heo nai bò cừu gà ngỗng vịt,… hễ nướng lên là từ hương tới vị bắt mồi không chịu được. Lại phải nướng cháy cháy ăn mới đã. Thịt nạc mà nướng thì nhai xơ xác như bã trầu, phải ướp hoặc rưới thêm chút dầu sốt, khi nướng khói bay mịt mù, cay mắt sướng mũi. Tây gọi chung món thịt nướng là barbecue. Bài này nói về thịt nướng dưới cái nh́n uể oải : an toàn thực phẩm.





Nướng kiểu ǵ cũng ngon, chỉ có ngon hơn nữa mà thôi


Thật ra chữ “barbecue” dùng để chỉ loại thịt nướng không tiếp xúc trực tiếp với ngọn lửa, và thường dùng củi để nướng. Khói từ củi sẽ tạo ra hương vị và làm chín thịt từ từ. Có thể nói, barbecue gần giống như kiểu thịt xông khói, nhưng nhiệt độ nướng cao hơn nhiều và nướng rồi là ăn nóng ngay, chứ không ăn nguội như thịt xông khói.





Cách nướng thông dụng là để thịt tiếp xúc trực tiếp với ngọn lửa (grill) như thường thấy ở các quán cơm sườn trong nước, nướng bằng than, củi, hoặc gas với thịt để trên vỉ, mỡ nhỏ xèo xèo, khói bay mù mịt. Nướng kiểu này dĩ nhiên đáp ứng… mồi lẹ hơn, đánh nhanh rút gọn, c̣n theo kiểu barbecue th́ đành phải nhậu lai rai cả ngày.





Từ “barbecue” hiện nay trở nên quá thông dụng, hễ thịt nướng, bất kể nướng kiểu ǵ cũng gọi là chung là barbecue cho tiện. Ngay cả đất nước đẻ ra tiếng Ăng Lê cũng hiểu barbecue theo nghĩa này.


C̣n một kiểu nướng nữa đầy tính sáng tạo chỉ có ở đồng bằng sông Cửu Long, đó là cá lóc quấn rơm nướng chổng ngược. Món này, trời ơi, hương vị tự nhiên thứ thiệt, mà hương đồng cỏ nội cũng thứ thiệt luôn, đưa cay lịm cả người.





Đôi lời uể oải…


Khi nướng ở nhiệt độ cao, acid amin và chất creatine có trong thịt phản ứng tạo ra nhóm amin ṿng phức (HCAs). Giới khoa học đă nhận diện được 17 chất HCA có khả năng gây ung thư. Viện Ung thư Quốc gia Mỹ đă phát hiện ra mối liên quan giữa việc ăn nhiều thịt nướng và ung thư bao tử, ruột già và tụy tạng. Những người ăn thịt nướng (hay chiên) kỹ hoặc hơi kỹ (well-done or medium-well) có nguy cơ bị ung thư bao tử gấp ba lần so với người ăn tái hoặc hơi tái (rare or medium-rare).





Một nhóm độc tố khác phát sinh trong khói lửa khi nướng thịt là nhóm hydrocarbon phương hương đa ṿng (PAHs). Cơ quan Bảo vệ môi trường Hoa Kỳ (EPA) đă điểm mặt 7 chất PAH có thể gây ung thư, đột biến gen, sinh quái thai,…mà chất đầu tiên bị tóm cổ là benzopyrene được t́m thấy trong khói thuốc lá.





Các nghiên cứu về độc tố của PAHs và HCAs liên quan tới thịt nướng c̣n nhiều lắm, càng đọc càng oải. Chỉ có một chút tin vui, tóm lược như sau: Các nhà nghiên cứu thấy rằng, dầu olive, nước cốt chanh, và nước ướp thịt có tỏi có thể làm giảm mức HCA tới 90% ở thịt gà. Ướp thịt ḅ với bia hoặc rượu vang trong 6 tiếng cũng làm giảm tới 90% hai loại HCA. Có tới cả chục loại HCA, đó là chưa kể nhóm PAHs th́ tin vui này thuộc loại “có c̣n hơn không”, chẳng bơ bèm ǵ!





Triết lư miễn cưỡng


Chẳng dại ǵ v́ sợ khối u mà bỏ thịt nướng, nhưng phải biết cách né. Xin tóm gọn lời khuyên của các chuyên gia an toàn về barbecue. Chỉ là tóm gọn thôi, v́ mấy ngài chuyên gia này thường tưởng tượng ra lắm t́nh tiết tỉ mỉ, khó tính như vú già canh me tiểu thư, ai mà chịu nổi. Dưới đây là toát yếu:


1. Dùng thịt nạc ít mỡ. Thịt thái nhỏ, để to quá phải nướng lâu rất kẹt với tác hại của khói lửa.


2. Khi nướng nên trở thịt thường xuyên, đừng để thịt cháy quá.


3. Nên nấu chín sơ thịt (có thể dùng ḷ vi ba) rồi đem nướng. Thịt đông lạnh nên ră đông “quá tay” một chút trong ḷ vi ba, thái nhỏ và đem nướng ngay. (xem bài “Ră đông”)


4. Ướp thịt với chanh, tỏi, đường. Đường làm thịt vàng nâu nhanh khi nướng, “tưởng” thịt đă chín lấy ra xơi luôn, đỡ phải nướng lâu. Thịt ướp phải bọc plastic và trữ trong ngăn mát tủ lạnh cho đến khi đem nướng.


5. Khi nướng, phải để riêng thịt đă nướng và chưa nướng, v́ nhiễm chéo có thể xảy ra.





Các nghiên cứu về tác hại của thịt nướng đều có điểm chung là số người ăn thịt barbecue thường xuyên, lại nướng quá kỹ th́ dễ bị “tai họa” hơn những người ăn ít.


Bởi vậy, đành triết lư lẩm cẩm rằng: “Chỉ những người biết chờ đợi mới tận hưởng được niềm vui”. Hai tuần ăn thịt nướng một lần đâu phải là thời gian qua dài so với đời người!





Vũ Thế Thành

florida80
04-11-2019, 18:04
Cholesterol Có Xấu Không Nhỉ ? - BS Nguyễn Ư Đức









Sau tiệc tùng trong dịp lễ Tết th́ cũng không ít bà con ḿnh sẽ để ư tới vấn đề sức khỏe liên quan tới việc ăn uống. Một trong các ưu tư đó là liệu có cần đi bác sĩ để coi xem mỡ cholesterol trong máu của ḿnh có lên cao sau những linh đ́nh liên hoan với thịt mỡ, dưa hành, heo vịt quay béo ngậy. V́ cholesterol vốn đă được gán cho là gây ra nhiều bệnh cho trái tim thân yêu của con người. Cholesterol có thật sự “xấu” như vậy không?

Xin cùng t́m hiểu.



1.Cholesterol là ǵ?

Cholesterol là một chất béo được bao bọc bởi một lớp đạm hiện diện trong cơ thể của các loại động vật kể cả con người. Mặc dù bị mang tiếng là không tốt, nhưng cholesterol là một phần cần thiết của màng các tế bào, được dùng để sản xuất một số kích thích tố, tạo ra sinh tố D trên da bằng tia nắng cũng như tạo ra acit mật để tiêu hóa chất béo. Cholesterol chiếm 70% các chất cấu tạo tế bào của năo bộ.







2.Có mấy loại cholesterol?



Có 2 loại cholesterol:



a.Cholesterol trong máu:



Thử máu cho ta biết số lượng cholesterol lưu hành trong máu.



85% cholesterol trong máu là do gan sản xuất, 15% c̣n lại là do thức ăn có cholesterol mà ta tiêu thụ như trứng, chất béo từ gà, vịt, heo, ḅ. V́ gan sản xuất nhiều cholesterol cho nên một số người dù ăn thực phẩm có nhiều cholesterol mà cholesterol trong máu vẫn thấp. Ngược lại một số người khác ăn ít cholesterol mà cholesterol vẫn cao.



V́ là chất ḥa tan trong dầu mỡ, cho nên cholesterol không tự lưu hành trong máu. Để luân lưu, cholesterol được một loại chất đạm là lipoprotein mang đi. Có 2 loại lipoprotein: LDL (Low density lipoprotein) mang 2/3 tổng số cholesterol và HDL (high density lipoprotein) chuyên chở 1/3 cholesterol c̣n lại. Về kích thước LDL lớn hơn HDL.



Có giải thích nói HDL được coi như phần tử hiền lành tốt bụng v́ y ta vừa không cho cholesterol bám vào thành động mạch mà c̣n đưa cholesterol ở máu vào gan để rồi được loại ra khỏi cơ thể qua ruột. Nhờ đó bớt mỡ lưu thông trong máu, làm giảm nguy cơ đóng mỡ ở thành động mạch, giảm nguy cơ bệnh vữa xơ động mạch.







Ngược lại cô em song sinh LDL th́ láo lếu hơn v́ đương sự để cholesterol bám vào thành động mạch, gây ra vữa xơ tắc nghẽn và tăng rủi ro bệnh tim.







Ngoài ra c̣n một loại thứ ba gọi là VLDL, very low density lipoprotein, chuyên trở một lượng rất ít cholesterol và một chất béo khác gọi là triglyceride.



b.Cholesterol do thực phẩm có nguồn gốc động vật cung cấp.



Xin nhớ là thực phẩm Thực vật không có cholesterol nhưng vẫn có chất béo.







3.Cholesterol trong cơ thể từ đâu mà ra?



Như đă nói ở trên, trong cơ thể, 85% cholesterol là do gan sản suất, khoảng 1000 mg/ ngày, vừa đủ để thỏa măn nhu cầu của cơ thể, v́ thế đúng ra ta cũng không cần tiêu thụ thêm cholesterol từ thực phẩm. Ngoài ra, khi ta tiêu thụ nhiều cholesterol th́ gan tự động giảm sản xuất.







4.Làm sao biết có cholesterol trong máu?



Đo cholesterol trong máu cho biết số lượng cholesterol toàn phần, HDL, LDL và VDRL.



Cholesterol các loại được đo bằng đơn vị phần ngàn của gram ( milligram) mg trên phần mười lít (decilitre) dl máu. Viện Sức khỏe Quốc Gia Hoa Kỳ đă đưa các chỉ số sau đây để dùng làm tiêu chuẩn:



Lư tưởng Tạm được Không tốt







Tổng số Cholesterol Dưới 200 mg/dl 200 - 240 mg/dl Trên 240mg/dl



HDL cholesterol Trên 45mg/dl 35 - 45 mg/dl Dưới 35mg/dl



LDL cholesterol Dưới 130 mg/dl 130 - 160 mg/dl Trên 160mg/dl







Sau 20 tuổi, nên đo cholesterol mỗi 5 năm một lần; đo thường hơn khi cholesterol lên cao.







c-Ngoài ra chất Triglyceride và VLDL cũng cần được theo dơi. Mặc dù vai tṛ của chúng trong nguy cơ gây bệnh tim chưa được xác định, nhưng nhiều chứng minh cho là khi chất này lên cao th́ đều không tốt cho tim.



Lượng Triglyceride dưới 200mg/ dl được coi như b́nh thường. Nó thường lên cao trong bệnh tiểu đường, bệnh thận.







5.Cholesterol có gây nguy hại cho sức khỏe không?



Chất béo cũng như cholesterol không phải là chất có hại đối với cơ thể mà là chất sinh tử cho mọi tế bào động vật. Cho nên thực là không công bằng khi gán cho mỡ béo danh vị thực phẩm “xấu”. Nhưng một chế độ dinh dưỡng không cân bằng, kém đa dạng, quá nhiều chất béo có thể đưa tới hậu quả bệnh tật cho con người.







Xin nhắc lại là để hoạt động hữu hiệu, các mạch máu, cũng như các bắp thịt, cần được tốt mạnh, uyển chuyển và giữ đàn tính. Ḷng mạch máu cần trơn tru để máu dễ dàng lưu thông.



Trong bệnh vữa xơ động mạch, thành động mạch có những bựa gồm có cholesterol và tế bào máu đóng vào, khiến nó trở nên thu hẹp gây trở ngại cho sự vận chuyển của máu.



Máu huyết tới tim giảm, tim kém được nuôi dưỡng, giảm hoạt động rồi một lúc nào đó đưa đến cơn kích tim.







Những miếng bựa có thể bứt rời thành mạch máu, ngao du khắp cơ thể theo hệ tuần hoàn rồi gây ra nghẽn mạch. Lên đến năo nó tạo ra tai biến mạch máu năo, tới tim nó gây ra nhồi máu cơ tim.







Ngoài ra cholesterol trong máu lên cao theo số tuổi; khi cân quá nặng nhất là béo mập ở vùng bụng; khi có các bệnh tiểu đường, cao huyết áp; di truyền cao cholesterol từ bố mẹ; khi có nếp sống không lành mạnh như lạm dụng rượu, thuốc lá, có đời sống quá tĩnh tại hoặc có nhiều mối lo âu, bất măn.







6.Làm sao giảm cholesterol?



-Điểm cần để ư trước hết là giảm tiêu thụ cholesterol không ảnh hưởng nhiều tới lượng cholesterol trong máu bằng khi ta bớt tiêu thụ thực phẩm có chất béo băo ḥa.



-Thứ hai là trong thực phẩm, tất cả cholesterol đều giống nhau, không có loại xấu loại tốt. Nhưng trong máu th́ cholesterol trở nên tốt hay xấu là tùy theo loại lipoprotein chuyên chở nó.



-Thứ ba là chất béo bất băo ḥa đơn hoặc đa dạng từ thực vật không gây ra sự vữa như cháo của chất mỡ trong ḷng động mạch.







Sau đây là một số gợi ư để chúng ta cùng nhau hạ thấp cholesterol trong máu:



1-Giảm tiêu thụ thực phẩm có nhiều mỡ béo như kem, bơ, sữa nguyên chất, cheese, da gà, mỡ trên thịt nạc, mỡ heo.



2-Giảm thiểu thực phẩm có nhiều cholesterol như ḷng đỏ trứng, gan. Ḷng trắng trứng không có cholesterol. Một ḷng đỏ trứng có tới 250mg cholesterol.



3-Giảm dầu dừa, dầu hạt cọ (palm), v́ có nhiều béo băo ḥa. Dầu này thường có trong kẹo súc cù là, bánh bích quy.



4- Dùng nhiều hơn dầu bắp, safflower. dầu olive, dầu canola, trái bơ avocado, vừng, dầu đậu phọng, vài loại cá v́ chúng có tác dụng làm hạ cholesterol.



5- Giảm trans fatty acid như margarine thỏi v́ tác dụng làm gia tăng cholesterol trong máu. Margarine mềm ít hại hơn.



6- Tăng tiêu thụ omega 3 fatty acid, có nhiều trong cá thu (mackerel), cá ch́nh americain eel, cá ngừ (tuna), cá trích (atlantic herring), cá sardines, cá hồi (trout).



7-Tăng lượng chất xơ có trong ngũ cốc, rau trái, ḿ ống ḿ sợi v́ các chất này có rất ít béo băo ḥa, cholesterol và cho ít năng lượng.



8- Giữ sức nặng cơ thể ở mức trung b́nh, tránh bị mập ph́ nhất là mập ở vùng bụng.



9- Tập luyện cơ thể đều đặn để làm tăng cholesterol hiền lành HDL, làm giảm cholesterol lếu láo LDL, giảm kí, hạ huyết áp cao.



10- Đôi khi với tất cả các đề pḥng kể trên, cholesterol trong máu vẫn c̣n cao v́ ảnh hưởng của gene, v́ vui miệng ăn nhiều mỡ béo th́ phải cầu cứu tới dược phẩm.



Việc dùng các dược phẩm này cần được bác sĩ cân nhắc kỹ càng tùy theo từng trường hợp, v́ khi đă uống th́ phải uống trong nhiều năm, có khi suốt cuộc đời. Thuốc lại rất đắt tiền và vài loại thuốc có những tác dung phụ mạnh, chẳng hạn là làm hại tới lá gan.







Kết luận.



Các tài liệu về chất béo-cholesterol có quá nhiều, đôi khi làm ta bối rối. Sau hơn 50 năm, khoa học đă làm sáng tỏ một phần nào vai tṛ của cholesterol cao trong máu đối với bệnh vữa xơ động mạch, một nguyên nhân đưa tới tử vong và bệnh hoạn v́ nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu năo. Nhưng nguyên lư sinh bệnh của vữa xơ này c̣n nhiều điều cần được khai sáng tiếp. Khi đó, việc điều trị và ngừa bệnh này hy vọng sẽ dễ dàng và công hiệu hơn







Hơn nữa, ta không thể gạt bỏ chất béo khỏi khẩu phần dinh dưỡng v́ cơ thể cần năng lượng từ chất béo, cần sinh tố tan trong mỡ, cần chất béo để cấu tạo màng tế bào, mô thần kinh, tim...







Cho nên giản dị hơn cả là khi muốn tránh bệnh tim mạch do các chất béo này gây ra, ta chỉ việc bớt tiêu thụ thực phẩm do động vật gia súc như thịt, sữa và phó sản; tăng thực phẩm từ thực vật và vận động cơ thể.



Để bảo toàn trái tim thân thương cũng như sức khỏe tổng quát.







Bác sĩ Nguyễn Ư- Đức
www.bsnguyenyduc.com



at 3:34 PM

florida80
04-11-2019, 18:06
Nh́n Đúng Hơn Về Bệnh Trầm Cảm









Thỉnh thoảng bạn bỗng dưng buồn bă u uất mà không biết lư do v́ sao? Thậm chí bạn nghĩ rằng ḿnh không thể vượt qua được một cú sốc nào đó, và chỉ muốn buông tay? Rất có thể bạn đang mang dấu hiệu của trầm cảm.

Cuộc sống ngày càng hiện đại, trước quá nhiều vấn đề vượt ra khỏi tầm kiểm soát và không thể tự ḿnh giải quyết, con người thường có xu hướng cô lập ḿnh, tự gậm nhấm những cảm xúc đau buồn, và không muốn chia sẻ với một ai khác. Hiện tượng này kéo dài sẽ dẫn đến việc mọi ức chế bị dồn nén, lâu ngày thành một phản xạ tiêu cực: không thiết tha với cuộc sống này nữa. Họ thường nghĩ đến cái chết, v́ một lư do đơn giản: không có ǵ vui vẻ để sống.


Mỗi ngày, tôi tiếp xúc với khoảng 30 người muốn tự sát!

Bác sĩ John Montgomery cho biết: "Càng ngày càng có nhiều người mắc bệnh trầm cảm, con số thống kê gần nhất là 40% người mắc bệnh này hàng năm, nhưng không phải ai cũng biết chính xác t́nh trạng của ḿnh để mà điều trị".
Bác sĩ Montgomery cũng cho biết thêm, mỗi ngày ông phải tiếp xúc với khoảng 30 bệnh nhân muốn tự sát. "Họ đến gặp tôi trong t́nh trạng hết sức tiêu cực: khóc lóc, gào thét, chửi rủa cuộc đời, đập phá bệnh viện... Hầu hết đều không c̣n muốn sống nữa. Nói mọi thứ bế tắc và không lối thoát chỉ là một ám ảnh của người bệnh. Thật sự trầm cảm có thể chữa khỏi nếu bạn hiểu biết về nó. Trầm cảm là một căn bệnh, chứ không phải là một trạng thái tâm lư. Xác định được điều đó, bạn mới có một cái nh́n đúng đắn về bệnh này, và có hướng điều trị nghiêm túc".

Trầm cảm là ǵ và nguyên nhân dẫn đến trầm cảm?

Có thể hiểu, người mắc chứng trầm cảm là những người cảm thấy tuyệt vọng, vô dụng và tự đổ lỗi cho ḿnh về những cảm giác buồn bực trong ḷng đang diễn ra. Họ có thể suy sụp và không tham gia vào những hoạt động thường ngày được nữa, dần dần tự cô lập xa lánh người thân và bạn bè. Và thậm chí, có người c̣n tự t́m đến cái chết để giải thoát.

Nguyên nhân chính xác của trầm cảm chưa được biết rơ. Sự mất cân bằng về những yếu tố môi trường, di truyền, hóa học có thể là những nguy cơ liên quan với trầm cảm. Khi những cảm xúc tinh thần của một người bị mất cân bằng cũng có thể dẫn đến trầm cảm. Ngoài ra, tuổi tác cũng là một yếu tố. Trầm cảm có thể bắt đầu ở mọi lứa tuổi, tuy nhiên tuổi trung b́nh dễ xuất hiện nhất là vào nhóm tuổi 20.




Các triệu chứng để nhận biết bệnh trầm cảm?




Trước hết cần phải hiểu rơ, trầm cảm không phải là sự yếu đuối về nhân cách. Như bất kỳ người bệnh nào, người mắc chứng trầm cảm cũng có thể có những triệu chứng khác nhau. Rất nhiều người mắc chứng trầm cảm thường cảm thấy bối rối, hoặc họ không có những hiểu biết thấu đáo về vấn đề này. Họ có thể cảm thấy tuyệt vọng, không tin là sẽ có cải thiện. Do đó người trầm cảm thường có 2 biểu hiện phổ biến là:




-Mất hứng thú và niềm vui trong sinh hoạt thường ngày.

-Biểu lộ những cảm giác buồn bă hay vô vọng hoặc những cơn khóc nức nở.

Các triệu chứng của trầm cảm phải kéo dài ít nhất 2 tuần và có thể gồm thêm nhiều triệu chứng sau:

-Ngủ nhiều hoặc ít hơn b́nh thường

-Tư duy không rơ ràng, hay mất tập trung

-Giảm hoặc tăng cân đáng kể

-Dễ cáu gắt, nổi nóng

-Lúc nào cũng cảm thấy mệt mỏi

-Phản xạ chậm chạp

-Ít chăm sóc bản thân

-Giảm hứng thú t́nh dục

-Nghĩ đến cái chết

-Xa lánh bạn bè và người thân




Nếu bạn thấy ḿnh có những biểu hiện như trên, đừng ngần ngại hay che giấu bệnh, hăy đến ngay các bác sĩ có chuyên môn khám và điều trị kịp thời.




Trầm cảm là một bệnh có thể điều trị được!




Như trên đă nói, bạn cần nh́n nhận rằng trầm cảm là một căn bệnh và có thuốc điều trị nghiêm túc. Đó không phải là 1 dạng bệnh tâm lư và chữa trị chỉ đơn thuần bằng các biện pháp tâm lư. Điều trị trầm cảm có thể cần phải sử dụng cả thuốc điều trị và đối thoại.




Hiện nay, người ta coi trầm cảm là một chứng bệnh do những thay đổi về hóa học của năo bộ, hay những chất dẫn truyền thần kinh. Và thuốc chống trầm cảm có tác dụng làm đảo ngược những thay đổi này trong năo bộ. Điều quan trọng là phải tuân thủ chương tŕnh điều trị mà bác sĩ đă vạch ra cho bạn một cách nghiêm túc.

Ngoài ra, để chữa dứt hẳn chứng trầm cảm, bạn cũng nên tự ḿnh thay đổi lại những thói quen vận động hàng ngày theo hướng tích cực như lên kế hoạch cho các hoạt động giải trí. Hăy tự sống điều độ hơn và tuyệt đối không che giấu những vấn đề đang gặp phải của ḿnh để có thể có sự hỗ trợ từ xung quanh như người thân và bạn bè.




Bác sĩ John Montgomery cũng nói thêm: "Khi bị trầm cảm, bạn thường có xu hướng t́m đến rượu bia hay các loại thuốc hướng thần để giải quyết. Có thể trong lúc đó, tạm thời bạn sẽ thấy khá hơn, nhưng chính những điều này sẽ làm cản trở mục tiêu điều trị bệnh của bạn. T́nh trạng suy sụp sau khi sử dụng rượu và các loại thuốc hướng thần có thể làm tăng cảm giác tội lỗi hay mệt mỏi, và bạn vẫn thấy ḿnh là gánh nặng cho những người xung quanh".




Nhưng hăy yên tâm - bác sĩ John vừa chỉ những bức tranh với ḍng chữ "Thank you, Dr Montgomery" treo rất trang trọng trong pḥng khám của ông vừa cười nói - Đó là những bức tranh của bệnh nhân trầm cảm vẽ tặng tôi. Họ vẽ chúng sau khi đă được điều trị dứt căn bệnh này. Khi đó, họ yêu đời, lạc quan, vui vẻ, và thiết tha với cuộc sống này hơn bao giờ hết! Họ dễ thương và đáng yêu hơn bao giờ hết!

Theo Libero

florida80
04-11-2019, 18:07
Dùng Dầu Cá Đúng Liều







Hồi tháng 6, tôi thấy trên đùi chân trái tôi có một vết bầm lớn bằng ngón tay cái. Tôi đi gặp bác sĩ. Bác sĩ hỏi tôi có té hay va chạm vào đâu không, có cảm thấy đau không. Tôi cho bác sĩ hay là tôi không té, không đụng vào đâu và không cảm thấy đau ǵ hết.







Bác sĩ cho tôi đi thử máu ngay, c̣n gọi điện thoại cho pathology hỏi khi nào có kết quả. Bác sĩ nói với tôi là đi đến pathology ngay để thử máu và ngày kia đến gặp bà. Thường th́ bác sĩ bảo tôi đi thử máu hay X ray, chẳng bao giờ họ gọi điện thoại hỏi bao giờ có kết quả, lần này tôi hăy c̣n ngồi ở pḥng mạch chờ bác sĩ viết order cho pathology, chưa đi tới pathology mà bác sĩ đă bảo họ gởi kết quả ngay.




Hai ngày sau, tôi trở lại gặp bác sĩ để biết kết quả thử máu, bác sĩ cười tươi nói không có bệnh ǵ hết, không bị ung thư máu. Và bác sĩ bảo tôi : ngưng uống dầu cá ngay lập tức.





Thông tin về dầu cả trong bản tin này có thể tin được.








Dầu cá chứa nhiều chất dinh dưỡng quư giá bởi được chiết xuất từ cá thu, cá hồi, cá trích, cá ngừ, cá tuyết…

Do đó, các chế phẩm của dầu cá thường chứa một lượng lớn axít béo omega-3. Ngoài ra, chúng c̣n có vitamin E, canxi, sắt, các vitamin A, B1, B2, B3, C hoặc D. Nhờ vậy mà dầu cá được sử dụng trong việc hỗ trợ điều trị rất nhiều bệnh, phổ biến nhất là những bệnh liên quan tới tim mạch.

Một số người sử dụng dầu cá để giảm huyết áp hoặc triglyceride (mỡ máu). Dầu cá cũng được dùng để pḥng ngừa bệnh tim và đột quỵ.




Bằng chứng khoa học cho thấy dầu cá thực sự làm giảm nồng độ triglyceride và có vẻ giúp pḥng ngừa bệnh tim cũng như đột quỵ khi sử dụng theo đúng liều khuyến nghị. Dầu cá khá an toàn đối với hầu hết mọi người, bao gồm phụ nữ có thai và cho con bú, khi dùng với liều thấp (3 g trở xuống mỗi ngày).

Tuy nhiên, dùng quá nhiều dầu cá (trên 3 g/ngày) có thể dẫn đến nguy cơ làm tăng đột quỵ hay những tác dụng phụ khác. Cụ thể:

- Dùng hơn 3 g dầu cá mỗi ngày có thể khiến máu khó đông và làm tăng nguy cơ bị chảy máu. Mặt khác, khi dùng dầu cá liều cao c̣n làm giảm hoạt động của hệ miễn dịch, dẫn đến giảm khả năng chống nhiễm trùng.

- Các tác dụng phụ có thể xảy ra như ợ hơi, hơi thở hôi, ợ nóng, buồn nôn, tiêu chảy, phát ban và chảy máu cam. Uống dầu cá trong bữa ăn hoặc để lạnh có thể giảm những tác dụng phụ này.

- Lạm dụng dầu cá c̣n có thể khiến những người mắc bệnh gan tăng nguy cơ chảy máu. Những người bị dị ứng với hải sản cũng có thể dị ứng với dầu cá. Uống dầu cá có thể làm tăng triệu chứng của bệnh trầm cảm. Sử dụng dầu cá liều cao c̣n có thể khiến cho việc kiểm soát đường huyết trở nên khó khăn hơn.

- Dầu cá có thể làm giảm huyết áp và khiến huyết áp tụt xuống quá thấp ở những người đang dùng thuốc hạ huyết áp. Đối với người có HIV/AIDS và các bệnh suy giảm miễn dịch khác, dầu cá liều cao có thể làm giảm đáp ứng miễn dịch của cơ thể.

- Một số nghiên cứu cho thấy dầu cá có thể làm tăng nguy cơ nhịp tim không đều ở những bệnh nhân cấy máy khử rung. Để an toàn, tốt nhất nên tránh các chế phẩm dầu cá. Với trường hợp polyp tuyến có tính gia đ́nh th́ dầu cá có thể làm tăng nguy cơ ung thư ở những người bị căn bệnh này.

- Với thuốc chống đông máu, dầu cá có thể làm máu khó đông. Sử dụng dầu cá cùng với các thuốc chống đông máu có thể làm tăng khả năng xuất huyết. Các thuốc làm máu chậm đông bao gồm: aspirin, clopidogrel (Plavix), diclofenac (Voltaren, Cataflam), ibuprofen (Advil, Motrin, others), naproxen (Anaprox, Naprosyn), dalteparin (Fragmin), enoxaparin (Lovenox), heparin, warfarin (Coumadin)...




Tóm lại, khi sử dụng dầu cá cần có sự chỉ dẫn của thầy thuốc, không tự ư mua dùng để tránh những điều đáng tiếc có thể xảy ra.




Việt Báo (Theo_Alobacsi)

florida80
04-11-2019, 18:09
Lợi Ích Của Nho Khô - BS Lương Lễ Ḥang







Nho khô là món ăn vặt như thuốc cho người bị cao huyết áp, nhờ tác dụng vừa lợi tiểu vừa bổ sung khoáng tố kalium





Chuyên gia tâm lư ở CHLB Đức đă làm một thử nghiệm lư thú về sự lựa chọn nho tươi hay nho khô. Lạ là 7 trong 10 đứa trẻ 2 tuổi chọn ngay nho khô… Nho khô không chỉ hấp dẫn trẻ con mà thậm chí đă có chỗ đứng trân trọng trong lịch sử loài người.



Người tiền sử v́ xem nho khô như quà tặng của thượng đế nên dùng món này làm vật trang sức, thậm chí khắc h́nh nho khô trên vách đá hang động. Theo truyền thuyết ở Trung Đông, cả ngàn năm trước công nguyên, người Do Thái đă dùng nho khô nộp thuế.



Nếu xét về giá trị dinh dưỡng th́ nho khô là món ăn hữu ích cho sức khỏe v́ rất ít chất béo nhưng lại sinh nhiều năng lượng, dễ bảo quản, nhờ đó là món ăn bỏ túi cho người phải lao tâm lao lực. Hơn thế nữa, nho khô là món ăn vặt như thuốc cho người bị cao huyết áp, nhờ tác dụng vừa lợi tiểu vừa bổ sung khoáng tố kalium.



Kết quả một công tŕnh nghiên cứu ở Mỹ cho thấy huyết áp của người hâm mộ nho khô ổn định hơn nhóm không khoái món này. Một số nhà điều trị thậm chí khuyến khích người từ độ tuổi 40 trở lên nên thường ăn nho khô để cầm chân huyết áp.



Nho khô chứa nhiều chất xơ nên là món ăn bầu bạn của người khổ v́ táo bón và bệnh trĩ. Cũng nhờ tác dụng kéo chất béo qua đường ruột nên nho khô gián tiếp hạ cholesterol.



Nhiều thầy thuốc v́ thế đă không ngần ngại xếp nho khô vào nhóm thực phẩm thích hợp cho người bị bệnh mạch vành. Theo kết quả một công tŕnh nghiên cứu ở Mỹ, sau một tháng áp dụng, lượng LDL trong máu giảm đáng kể trên số bệnh nhân có 80 – 100g nho khô mỗi ngày trong khẩu phần.



Nho khô c̣n là nguồn giàu chất sắt. Người thiếu máu, đối tượng vừa qua cơn chấn thương xuất huyết, phụ nữ mang thai, thiếu nữ hay bị rong kinh… nên chọn nho khô để bổ sung chất sắt cần thiết cho cấu trúc lành mạnh của huyết cầu thay v́ trông cậy vào thịt, gan rồi khó tránh trục trặc với mỡ máu.



Nho khô thường được dùng để ăn chơi, tráng miệng hay làm các món mứt, bánh. Ăn nhiều nho khô rất có lợi cho sức khỏe.



1. Nho khô giàu chất chống oxy hóa, giúp máu lưu thông tốt. Chất chống oxy hóa có trong nho khô có thể bảo vệ bạn chống lại sự lăo hóa và ung thư.



2. Nho khô có chứa lượng calorie cao, v́ vậy nho khô giúp các vận động viên có thêm năng lượng dồi dào trước khi thi đấu.



3. Nho khô chứa nhiều chất xơ nên là món ăn bầu bạn của người khổ v́ táo bón và bệnh trĩ. Cũng nhờ tác dụng kéo chất béo qua đường ruột nên nho khô gián tiếp hạ cholesterol



4. Nho khô có chứa chất axit oleanolic nên rất tốt cho răng và nướu, giúp ngăn ngừa và chống lại các vi khuẩn gây ra sâu răng.



5. Nho khô ngăn ngừa sự thoái hóa của da. Giống như cà rốt, nho khô rất có lợi cho thị lực.



6. Nho khô có chứa canxi làm xương cứng và chắc hơn. Nếu cơ thể bạn được cung cấp đủ lượng canxi, th́ bạn sẽ không phải lo ngại về t́nh trạng loăng xương.



Nho khô c̣n là nguồn giàu chất sắt. Người thiếu máu, đối tượng vừa qua cơn chấn thương xuất huyết, phụ nữ mang thai, thiếu nữ hay bị rong kinh... nên chọn nho khô để bổ sung chất sắt cần thiết cho cấu trúc lành mạnh của huyết cầu thay v́ trông cậy vào thịt, gan rồi khó tránh trục trặc với mỡ máu.

florida80
04-11-2019, 18:14
6 Chất Gây Ung Thư Sát Bên Bạn








Để tránh xa bệnh ung thư, chúng ta phải trở thành những “thợ săn” chất gây ung thư, chứ không phải trở thành “con mồi” của chúng. Mới đây, một tạp chí sức khỏe của Mỹ đă tiến hành xếp hạng mức độ nguy hiểm theo cấp độ 1 – 5, từ nhẹ đến nặng với một số đồ có chứa chất gây ung thư xung quanh chúng ta. Bạn hăy chú ư đến chúng để có thể giảm nguy cơ ung thư nhé.





1. Styrene có trong hộp xốp







Mức nguy hiểm: 1


Theo báo cáo nghiên cứu của Chương tŕnh độc chất học quốc gia của Mỹ, styrene là một chất gây ung thư, có thể phá hủy DNA trong cơ thể người. Styrene được dùng nhiều để sản xuất các loại hộp xốp, nhất là các loại hộp đựng thức ăn, bát, đũa, cốc dùng 1 lần…


Cách pḥng ngừa: Hăy tránh xa hoặc hạn chế sử dụng các các sản phẩm này bằng cách tránh làm nóng thức ăn trong những vật liệu nhựa chứa chất polystyrene, đặc biệt là thực phẩm chiên nóng. Nếu đựng các loại thực phẩm này, ở nhiệt độ cao chất styrene trong hộp, cốc... có thể được giải phóng và gây độc.



2. Formaldehyde trong áo sơ mi không nhăn







Mức nguy hiểm: 2


Formaldehyde có thể làm cho áo sơ mi nhăn trông sắc nét và phẳng hơn, nhưng nó có thể đe dọa sức khỏe của bạn. Có bằng chứng cho thấy, formaldehyde có thể dẫn tới ung thư mũi và các khối u trong hệ thống hô hấp.


Cách pḥng ngừa: Hăy chọn những chiếc sơ mi b́nh thường, nếu bạn mặc áo sơ mi không nhăn, trước khi mặc lần đầu hăy giặt sạch chúng. Cục bảo vệ môi trường Mỹ khuyến cáo rằng, giặt sạch trước khi mặc đối với những chiếc áo sơ mi không nhăn có thể giảm tới 60% hàm lượng formaldehyde.



3. Dioxane (dioxan) có trong chất tẩy rửa







Mức nguy hiểm: 3


Năm 2011, Tổng chức Môi trường Thế giới phát hiện, trong chất tẩy rửa có chứa chất gây ung thư là dioxane. Theo cơ quan này, trong khi chất tẩy rửa loại bỏ chất bẩn th́ chúng cũng lưu lại các chất có độc dẫn tới ung thư là dioxane.


Biện pháp pḥng ngừa: Lựa chọn các chất tẩy rửa thân thiện với môi trường, học cách đọc nhăn ghi thành phần của chất tẩy rửa. Nếu sản phẩm có các thành phần như polyethylene, polyethylene glycol, polyetylen oxit th́ đều có khả năng chứa dioxane và bạn nên tránh chúng.



4. Acrylamide có trong khoai tây chiên, bánh rán









Mức nguy hiểm: 3


Khi những thực phẩm giàu carbonhydrate như khoai tây chiên, bánh rán được chiên rán dưới nhiệt độ cao, thường sẽ giải phóng ra acrylamide, nó sẽ gây đột biến DNA của con người, từ đó làm tăng nguy cơ ung thư.


Biện pháp pḥng ngừa: Khi chế biến khoai tây, bạn cần chú ư về nhiệt độ và thời gian chế biến. Nếu thực sự muốn ăn đồ chiên rán, đừng chiên chúng thành quá chín và chuyển sang màu nâu.


Trước khi chiên khoai tây, hăy ngâm chúng trong nước khoảng 2 giờ, cách này có thể giảm một nửa lượng acrylamide.



5. Nitrosamine có trong thuốc lá, thịt xông khói








Mức nguy hiểm: 4


Hợp chất nitrosamine có thể gây ung thư. Ngay cả thuốc lá điện tử cũng bị ảnh hưởng. Ngoài ra, muối nitrit trong xúc xích, thịt xông khói, lạp sườn có thể phản ứng với axit dạ dày, sinh ra chất nitrosamine.


Cách pḥng ngừa: Cho dù bạn hút thuốc lá loại ǵ đều phải cai thuốc. Ngoài ra nên hạn chế ăn các món ướp muối, xông khói, thay đổi cách chế biến thịt, luộc hoặc nấu sẽ an toàn hơn chiên rán.



6. Asen có trong gạo lứt











Mức nguy hiểm: 5


Một cuộc khảo sát về an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng được Hiệp hội nhà tiêu dùng Mỹ tiến hành phát hiện, hàm lượng asen trong gạo lứt đều cao hơn so với gạo trắng. Asen sẽ làm suy giảm chức năng hệ thống hồi phục của cơ thể, nên khi các tế bào bị tổn thương, DNA không thể phục hồi như ban đầu, dễ biến thành ung thư.


Cách pḥng ngừa: Trước khi nấu, vo sạch gạo, khi vo, tỷ lệ nước và gạo tối thiểu là 6:1. Ngoài ra, chỉ nên ăn gạo lứt 2 lần/tuần.





Theo Afamily



at 8:22 PM

florida80
04-11-2019, 18:16
EBOLA

florida80
04-11-2019, 18:18
Tác Hại Khôn Lường Khi Để Điện Thoại Trên Giường Ngủ







Theo một cuộc khảo sát mới đây, 44% số người cho biết họ luôn để điện thoại trên giường khi ngủ để không bỏ lỡ bất kỳ cuộc gọi quan trọng nào. Cái tiện lợi chỉ có thế, nhưng điều nguy hại cho sức khỏe của bạn th́ không lường trước được.




Bạn đang đặt gối của ḿnh trên cục than

Một thiếu nữ ở Texas (Mỹ) mới đây đă bị đánh thức với mùi khét lẹt xuất hiện trong pḥng ngủ. Nguyên nhân là chiếc điện thoại đặt dưới gối đă tan chảy một phần và cháy xém lan ra cả tấm đệm. Hăng điện thoại cho rằng nguyên nhân gây ra vụ cháy là pin thay thế không tương thích. Tài liệu hướng dẫn sử dụng điện thoại đă cảnh báo không nên sử dụng pin và bộ sạc thay thế không tương thích với điện thoại của hăng. Theo đó, các nhà sản xuất cũng cảnh báo nguy cơ hỏa hoạn nếu người dùng để điện thoại dưới gối hoặc các vật dụng dày khác. V́ vậy, bạn nên sử dụng phụ kiện chính hăng đính kèm ban đầu và không đặt điện thoại di động trên giường.





Điện thoại, máy tính bảng, ti vi và những thiết bị khác có màn h́nh LED… phát ra thứ gọi là ánh sáng xanh. Một số nghiên cứu cho thấy thứ ánh sáng này có thể ức chế việc sản xuất hormone melatonin gây ngủ và phá vỡ nhịp sinh học của chúng ta. Các nhà khoa học lư giải có thể ánh sáng màu xanh có bước sóng giống ánh sáng ban ngày nên cơ thể bị đánh lừa, nghĩ bất cứ thời điểm nào cũng là ban ngày. Để tránh mất ngủ, bạn cần tắt tất cả các thiết bị điện tử 2 giờ trước khi lên giường. Tốt nhất, bạn nên để điện thoại và laptop ở căn pḥng khác pḥng ngủ.




Chưa lường trước rủi ro về sức khỏe

Hiện chưa có nghiên cứu nào chứng minh về việc sử dụng điện thoại có thể gây ung thư và mối liên quan này vẫn đang c̣n là nghi vấn. Thực tế, điện thoại di động phát ra lượng nhỏ bức xạ điện ở mức độ có thể kiểm soát được. Tuy nhiên, năm 2011, Tổ chức Y tế thế giới cảnh báo việc sử dụng điện thoại thường xuyên sẽ sản sinh chất gây ung thư ở người, đặc biệt trẻ em có da đầu và hộp sọ mỏng hơn người lớn, dễ bị ảnh hưởng bức xạ hơn. V́ vậy, nếu bạn lo lắng về nguy cơ ung thư do điện thoại gây ra, hăy nhắn tin thay v́ gọi điện nếu có thể. Nếu gọi điện, bạn nên để điện thoại cách xa tai, sử dụng tai nghe hoặc mở loa ngoài và tuyệt đối không để di động trên đầu khi ngủ.





Theo Người lao động



at 4:02 PM







No comments:





Post a Comment

florida80
04-12-2019, 17:41
HÀNH TR̀NH ĐỔI ĐỜI CỦA NHỮNG CẬU BÉ KHIẾM KHUYẾT BỘ PHẬN SINH DỤC


Bị chó cắn mất "cậu nhỏ" và tinh hoàn lúc 4 tháng tuổi, càng lớn Quang càng đau khổ v́ khiếm khuyết. 24 tuổi, sau 3 lần mổ, anh thấy ḿnh "gần như người b́nh thường".

Quang sinh ra trong một gia đ́nh nghèo, bố là thương binh nặng. Lúc 4 tháng tuổi nằm ngủ trên vơng để bố mẹ đi làm, cậu nhóc vừa biết lật thức dậy và rơi xuống đất rồi đại tiện ngay tại đó. Con chó của gia đ́nh đă nuốt trọn bộ phận sinh dục của Quang. Sau đó, em được gia đ́nh đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Việt Nam - Cuba.

"Cuộc sống của cháu từng như địa ngục. Cháu luôn bị bạn bè trọc ghẹo v́ khiếm khuyết của ḿnh. Gia đ́nh cháu phải chuyển đến Lâm Đồng, hy vọng không ai biết 'bí mật' kia nhưng không may ở đó lại có một số người quen và họ đă kể mọi chuyện cho những người xung quanh. Cháu lại tiếp tục bị chế giễu", Quang kể về tuổi thơ đầy nước mắt trong lá thư gửi bác sĩ Roberto DeCastro - người đă trực tiếp phẫu thuật giúp cậu t́m lại niềm tin sống.

15 tuổi, Quang bỏ học vào TP HCM làm. Cậu sống cô độc, buồn chán cho tới khi nghe về chương tŕnh phẫu thuật tái tạo bộ phận sinh dục cho trẻ không may trên tivi và đăng kư ngay. Tháng 8/2011, Quang ra Hà Nội và được các chuyên gia nước ngoài trong chương tŕnh "Thiện Nhân và những người bạn" khám, sau đó mổ lần đầu vào tháng 11 cùng năm. Đến nay, Quang đă thực hiện phẫu thuật 3 lần và đang quá tŕnh hoàn thiện tái tạo bộ phận sinh dục.

"Bác sĩ là một thiên thần có bàn tay ma thuật và trái tim vàng. Bác đă cho cháu hy vọng và tin tưởng vào một tương lai tốt hơn. Cháu rất vui và đă sẵn sàng cho những lần phẫu thuật tiếp theo để thực sự trở thành một người đàn ông b́nh thường", Quang viết cho bác sĩ Roberto DeCastro.


UserPostedImage
Bác sĩ Roberto DeCastro đang khám bộ phận sinh dục cho một bệnh nhi tại Bệnh viện Nhi trung ương đầu tháng 7. Ảnh: TN.


Chương tŕnh "Thiện Nhân và những người bạn" chuyên phẫu thuật tái tạo bộ phận sinh dục cho trẻ xuất phát từ một sự kiện đặc biệt năm 2006. Ngày đó, bị bỏ rơi trong rừng lúc mới lọt ḷng mẹ, bé Thiện Nhân bị động vật tấn công làm mất một chân và gây tổn thương nghiêm trọng bộ phận sinh dục. Chị Trần Mai Anh (Hà Nội) đă nhận nuôi và cùng với ông Greig Craft, Chủ tịch Quỹ Pḥng chống Thương vong Châu Á đưa bé đi khắp nơi để t́m phương pháp tái tạo bộ phận sinh dục cho Thiện Nhân.

Trên hành tŕnh đó, họ đă gặp giáo sư Roberto Decastro tại Italy, người sáng tạo ra phương pháp tái tạo bộ phận sinh dục cho trẻ. Giáo sư Decastro cùng các đồng nghiệp đă phẫu thuật cho Thiện Nhân. Sau thành công này, từ năm 2010 đến nay, đội ngũ chuyên gia từ Mỹ và Italy đă t́nh nguyện tới Việt Nam, thăm khám cho 388 em nhỏ, tiến hành phẫu thuật cho 74 em (cả trai và gái) có hoàn cảnh khó khăn đến từ khắp các tỉnh thành.

Tháng 6 vừa qua, nhóm chuyên gia tới Việt Nam thực hiện kỳ phẫu thuật thứ sáu, dự kiến dịp này sẽ mổ cho 32 em tại Bệnh viện nhi - phụ sản Đà Nẵng, Bệnh viện nhi đồng 2 TP HCM và Bệnh viện Nhi trung ương. Chương tŕnh tài trợ tất cả chi phí đi lại và ăn ở cho các gia đ́nh bệnh nhân tham gia.


UserPostedImage
Nhóm bác sĩ trong chương tŕnh "Thiện Nhân và những người bạn" đang phẫu thuật cho một bệnh nhi. Ảnh: TN.


Bà Trần Mai Anh, người sáng lập chương tŕnh cho biết, nhờ có những tấm ḷng hảo tâm của rất nhiều người, chương tŕnh đă giúp nhiều trẻ có lại cuộc sống b́nh thường. Ngoài việc trực tiếp phẫu thuật cho trẻ kém may mắn, chương tŕnh c̣n tổ chức những buổi hội thảo chuyên ngành để các bác sĩ Việt Nam và quốc tế trao đổi về phương pháp phẫu thuật tiên tiến này.

“Nhiều người chỉ quan tâm tới các phẫu thuật sứt môi, hở hàm ếch để sửa dị tật bẩm sinh trên khuôn mặt mà chưa thấy được hậu quả nặng nề của các tổn thương và dị tật ở bộ phận sinh dục. Các ca phẫu thuật này không chỉ giúp các em nhỏ có thể tiểu tiện b́nh thường, không c̣n mặc cảm, xấu hổ mà c̣n giúp các em có một cuộc sống ḥa đồng và hữu ích”, chủ tịch Quỹ Pḥng chống thương vong Châu Á, ông Greig Craft cho biết thêm.

Thực tế, nhiều trẻ được phẫu thuật trong chương tŕnh mắc những dị tật liên quan đến vùng sinh dục rất phức tạp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và cuộc sống. Trường hợp bé Tú (quận B́nh Tân, TP HCM) là một điển h́nh.

Thanh chào đời đă bị dị tật nghiêm trọng ở bộ phận sinh dục với các biểu hiện thành bụng hở, nh́n thấy rơ một phần của bàng quang, không có hậu môn, không có cơ quan sinh dục ngoài. Trong y khoa, bệnh này được gọi là “ổ nhớp lộ ngoài”. Từ khi mới sinh, bé tiểu tiện và đại tiện ở chung một đường, thoát ra ở cùng một lỗ nhỏ trên thành bụng.

Từ năm 2007, khi được 2 tuổi, Tú đă trải qua vài lần phẫu thuật để tạo hậu môn, bàng quang giả nhưng không thành công, lúc th́ bàng quang lộ ra ngoài, lúc th́ đại tiểu tiện không tự chủ. Em cũng không có khung xương bẹn để giữ bàng quang trong cơ thể và bị dị tật bẩm sinh ở khung xương nên không thể đi lại. Bố và mẹ Tú người làm thợ hồ, người làm công nhân nên gia đ́nh vô cùng khó khăn, tuy vậy, họ vẫn quyết tâm chữa bệnh cho con.

Sau lần đầu tiên Tú được bác sĩ Roberto DeCastro khám và phẫu thuật vào tháng 6/2012, hiện tại, em vừa trải qua ca phẫu thuật lần 2 tại BV Nhi đồng 2, TP HCM và đang được chăm sóc tại viện.

"Tôi vẫn nhớ rất rơ ngày biết tin về chương tŕnh "Thiện Nhân và những người bạn". Con tôi đăng kư thứ 26. Từ ngày đó, gia đ́nh tôi bắt đầu nuôi dưỡng hy vọng có ngày con sẽ hoàn toàn lành lặn", anh Du tâm sự.

Chị Trần Mai Anh cho biết, khuyết tật bộ phận sinh dục không đơn thuần chỉ là khiếm khuyết về mặt cơ thể mà liên quan đến tất cả bộ phận khác. Trong đó, tâm lư là một trong những vấn đề mà các em phải đối mặt và cần được gia đ́nh, cộng đồng giúp đỡ.

Trung là một cậu bé quê ở Đồng Nai. Trung sinh ra với bộ phận ngoài là nữ. Vài tháng sau, mẹ Trung phát hiện khi con khóc th́ có hạt ǵ đó gần bộ phận sinh dục nổi lên. Kết quả siêu âm cho thấy đó là tinh hoàn. Bố mẹ Trung đưa con đi xét nghiệm nhiễm sắc thể th́ được xác định bé là nam. Bé được phẫu thuật lần đầu để đưa 2 tinh hoàn ẩn xuống b́u, nhưng t́nh trạng bệnh vẫn phức tạp.

Tháng 8/2011, Trung được bác sĩ DeCastro lần đầu thăm khám tại Hà Nội. Tháng 11, em được phẫu thuật lần đầu. Tuy vậy để có được bộ phận sinh dục như một bé trai b́nh thường, Trung cần phải trải qua nhiều ca phẫu thuật nữa. Hiện tại, em vừa mổ lần thứ năm và đă xuất hiện, với t́nh trạng sức khỏe ổn định.

Mẹ Trung kể, cậu con trai 17 tuổi của chị bắt đầu bước vào giai đoạn dậy th́ nên chị rất lo lắng. Mỗi lần đi học, Trung mặc cảm v́ ḿnh là con trai nhưng phải đi tiểu ngồi. "Tôi chỉ luôn nhắc con rằng, có rất nhiều bạn c̣n bị bệnh hiểm nghèo ảnh hưởng tới tính mạng, để cháu lạc quan hơn và tiếp tục cố gắng học tập, đợi khi được phẫu thuật hoàn thiện", chị nói.


Quote:
Tính đến tháng 6/2014, kỳ phẫu thuật lần thứ sáu này đă nhận được 80.000 USD từ nhiều tấm ḷng hảo tâm trong và ngoài nước, nhiều doanh nhân ở Việt Nam, Singapore, Mỹ và Đại sứ quán Italy tại Hà Nội. Tuy nhiên, để có thể phẫu thuật và khám được cho tất cả các em nhỏ, chương tŕnh vẫn cần thêm 80.000 USD. Chương tŕnh hy vọng sẽ tiếp tục duy tŕ để giúp được nhiều trẻ không may.

Những gia đ́nh có con nhỏ gặp bất thường ở bộ phận sinh dục hay các vùng liên quan (cả bé trai và gái) có thể liên hệ để được tư vấn và đăng kư lịch khám, phẫu thuật qua email: chuongtrinhthiennhan @gmail.com hoặc Hotline: 0942.95.95.98

florida80
04-12-2019, 17:43
CHỨNG MẤT NGỦ (INSOMNIA)

NHỮNG NGUYÊN NHÂN GÂY MẤT NGỦ ,
NHỮNG PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ VÀ
NHỮNG CÁCH TRỊ LIỆU
( INSOMNIA CAUSES, CURES, AND TREATMENTS )

Lynn Ly Phỏng Dịch theo trang web của
Hiệp Hội Hướng Dẫn Trợ Giúp Giải Quyết Những Thử Thách
về Sức Khỏe tại Hoa Kỳ
(htXp://helpguide.org/life/insomnia_treatment.h tm )


Có phải bạn đang vật vă, cố gắng hết sức cả hàng giờ để ngủ cho dù bạn đang mệt mỏi như thế nào? Hoặc là bạn thức giấc lúc nửa đêm và tỉnh táo nằm như vậy trong cả giờ đồng hồ , bồn chồn nh́n đồng hồ , cảm giác thời gian trôi đi ? Nếu đúng như vậy, bạn đă t́m đúng nơi này để được trợ giúp . Chứng bệnh mất ngủ là một vấn đề rất phổ biến về giấc ngủ . Thật bực bội khi trăn trở suốt đêm, rồi cũng chỉ là thức giấc với đôi mắt mở thao láo nghe âm thanh gơ nhịp của chuông đồng hồ báo thức và t́nh trạng bực bội kéo dài suốt ngày trong cực kỳ mệt mỏi

Chứng mất ngủ lấy mất đi 1 số lượng năng lực làm việc, tâm t́nh tính khí , và khả năng hoạt động trong ngày của bạn . Chứng mất ngủ măn tính có thể góp phần vào những vấn đề sức khỏe như bệnh tim, cao huyết áp, và bệnh đái đường / bệnh tiểu đường . Nhưng bạn không cần phải kiên nhẫn chịu đựng chứng mất ngủ. Những thay đổi đơn giản trong lối sống của bạn và trong thói quen hàng ngày có thể làm ngừng chứng bệnh mất ngủ ban đêm .

KHỔNG NGỦ ĐƯỢC ? AM HIỂU VỀ CHỨNG MẤT NGỦ VÀ NHỮNG TRIỆU CHỨNG CỦA CHỨNG BỆNH MẤT NGỦ (CAN’T SLEEP? UNDERSTANDING INSOMNIA AND ITS SYMPTOMS )

Chứng mất ngủ là sự mất khả năng để có được số lượng giấc ngủ mà bạn cần có để khi thức dậy có được cảm giác được nghỉ ngơi và được khoan khoái mới mẻ lại . Bởi v́ những người khác nhau cần số lượng khác nhau về giấc ngủ, mất ngủ được định nghĩa / được xác định bởi chất lượng giấc ngủ của bạn và bạn cảm thấy thế nào sau khi ngủ - không phải là số giờ mà bạn ngủ hoặc bạn ngủ chập chờn nhanh chóng ra sao . Ngay cả khi nếu bạn dùng 8 tiếng đồng hồ ban đêm trên giường, nếu bạn cảm giác buồn ngủ và mệt mỏi ban ngày , có thể là bạn đang bị chứng mất ngủ

Mặc dù chứng mất ngủ là một loại bệnh về giấc ngủ phổ biến nhất, căn bệnh này không phải là một rối loại giấc ngủ đơn thuần . Chính xác hơn th́ hăy liên tưởng chứng mất ngủ như là 1 triệu chứng của một vấn đề khác . Vấn đề gây ra chứng mất ngủ có khác biệt giữa người này so với người kia . Vấn đề có thể là điều ǵ đó đơn giản như uống quá nhiều chất kích thích caffein vào ban ngày hoặc một vấn đề phức tạp hơn như là đang trong t́nh trạng trị liệu căn bệnh nào đó hoặc đang cảm thấy quá tải / quá nặng nề tránh nhiệm

Tin tốt lành là hầu hết các trường hợp mất ngủ có thể được chữa khỏi bằng những thay đổi mà bạn có thể tự thực hiện mà không phải dựa vào các chuyên gia / bác sĩ chuyên khoa về giấc ngủ hoặc chuyển sang dùng thuốc theo toa bác sĩ hoặc thuốc hoặc uống thuốc ngủ không cần toa bác sĩ được bày bán trên kệ trong các tiệm thuốc.


NHỮNG TRIỆU CHỨNG CỦA CHỨNG BỆNH MẤT NGỦ (SYMPTOMS OF INSOMNIA) :


•Khó khăn ch́m vào giấc ngủ / khó khăn ngủ thiếp đi dù đă mệt mỏi

•Thường xuyên thức giấc trong đêm

•Khó khăn trong việc quay trở lại giấc ngủ khi tỉnh giấc

•Giấc ngủ không khoan khoái , sảng khoái, thoải mái

•Lệ thuộc vào thuốc ngủ hoặc rượu để ngủ thiếp đi

•Tỉnh giấc rất sớm vào buổi sáng

•Buồn ngủ vào ban ngày , mệt mỏi, hoặc cáu gắt / gắt gỏng

•Khó khăn trong việc tập trung tư tưởng ở ban ngày




NHỮNG NGUYÊN NHÂN GÂY NÊN CHỨNG BỆNH MẤT NGỦ: PHỎNG ĐOÁN RA TẠI SAO BẠN KHÔNG THỂ NGỦ ĐƯỢC (CAUSES OF INSOMNIA: FIGURING OUT WHY YOU CAN’T SLEEP)

Để điều trị một cách chuẩn xác và trị liệu căn bệnh mất ngủ của bạn, bạn cần trở thành một người trinh thám, một nhân viên điều tra về giấc ngủ . Những vấn đề về cảm xúc như sự căng thẳng, buồn phiền lo âu, trầm cảm là nguyên nhân gây ra phân nửa trên tổng số các trường hợp mất ngủ. Nhưng những thói quen ở ban ngày của bạn, giờ giấc ngủ nghỉ thường ngày, và thể chất khỏe mạnh cũng có thể đóng 1 vài tṛ góp phần gây ra mất ngủ .


Những Nguyên Nhân Gây Nên Chứng Mất Ngủ (Causes Of Insomnia):

•Bạn có đang trong t́nh trạng bị đồn nén công việc và căng thẳng không ?

•Bạn có đang bị trầm cảm không ( có đang trong t́nh trạng bị thất t́nh , thất trí , buồn phiền, tinh thần sa sút tuột dốc không) ? Bạn có cảm giác trống rỗng hay đang thất vọng không ?

•Bạn có cố gắng vật vă trong những cảm giác lo âu sợ hăi bồn chồn không nguôi ngoai không ?

•Bạn có vừa trải qua một biến động lớn , một dau thương mất mát hay trải qua 1 chấn thương cả thể xác lẫn tâm hồn không ?

•Bạn có đang sử dụng thuốc men mà có ảnh hưởng đến giấc ngủ không ?

•Bạn có bị những vấn đề về sức khỏe nào đó mà ảnh hưởng đến giấc ngủ không ?

•Hoàn cảnh nơi pḥng ngủ của bạn có được yên tĩnh và thoải mái không ?

•Bạn có cố gắng đi ngủ dúng giờ và thức dậy đúng giờ mỗi ngày không ?




NHỮNG NGUYÊN NHÂN VỀ TINH THẦN VÀ THỂ CHẤT PHỔ BIẾN VỀ CHỨNG MẤT NGỦ (COMMON MENTAL AND PHYSICAL CAUSES OF INSOMNIA):

Đôi khi, chứng bệnh mất ngủ chỉ kéo dài một vài ngày và tự nó biến mất, đặc biệt là khi chứng bệnh mất ngủ gắn liền với một nguyên nhân tạm thời thật rơ ràng, như là sự căng thẳng về một bài thuyết tŕnh sắp diễn ra, một cuộc chia tay / một đổ vỡ t́nh cảm thật đau khổ, hoặc sự thay đổi nhịp sinh học của cơ thể ( jet lag = desynchronosis = là một t́nh trạng sinh lư mà kết quả từ sự thay đổi nhịp sinh học của cơ thể). Những lần khác, chứng mất ngủ th́ dai dẳng kéo dài. Chứng mất ngủ măn tính thường được gắn liền với một vấn đề tiềm ẩn về tâm thần hoặc về cơ thể


•Những vấn dế thuộc về tâm lư mà gây ra chứng mất ngủ : trầm cảm, buồn hiên lo lắng, căng thẳng trường kỳ / căng thẳng măn tính, rối loạn lưỡng cực, rối loạn căng thẳng sau chấn thương .

•Những loại thuốc có thể gây mất ngủ: thuốc chống trầm cảm, thuốc trị cảm cúm mà có chứa chất rượu cốn; thuốc giảm đau nhức mà có chứa chất caffein (Midol, Excedrin); thuốc lợi tiểu, thuốc corticosteroids, thyroid hormone, thuốc trị cao huyết áp .

•Những vấn đề về bệnh tật mà có thể gây chứng bệnh mất ngủ : Bệnh Hen Suyễn, các loại bệnh dị ứng, bện Parkinson , cường giáp, Trào ngược dạ dày thực quản (acid reflux =Gastroesophageal reflux disease = GERD), bệnh thận, ung thư , hoặc đau nhức kinh niên,

•Những rối loạn giấc ngủ mà có thể gây ra chứng mất ngủ : ngừng thở khi ngủ , chứng ngủ gục ban ngày , hội chứng tê chân / hội chứng chân bồn chồn




BỒN CHỒN LO LẮNG VÀ TRẦM CẢM: HAI TRONG SỐ NHỮNG NGUYÊN NHÂN PHỔ BIẾN NHẤT VỀ CHỨNG BỆNH MẤT NGỦ MĂN TÍNH (ANXIETY AND DEPRESSION: TWO OF THE MOST COMMON CAUSES OF CHRONIC INSOMNIA)


Đa số những người đang hứng chịu một sư rối loạn buồn phiền lo âu hoặc trầm cảm thường gập rắc rối khi ngủ. Hơn thế nữa, việc thiếu ngủ có thể làm cho các triệu chứng lo âu hay trầm cảm trở nên nặng hơn / tồi tệ hơn . Nếu chứng mất ngủ của bạn gây ra bởi buồn phiền lo âu hoặc trầm cảm, việc sử lư những vấn đề tiềm ẩn về tâm lư là mấu chốt trị liệu .

Để trợ giúp xác định các triệu chứng buồn phiên lo âu và trầm cảm, hăy xem (tài liệu sau đây) :


•Những rối loạn và xâm lấn của sự buồn phiền lo âu : những dấu hiệu , những triệu chứng và những chọn lựa điều trị

•Am hiểu Trầm Cảm: Những dấu hiệu, những triệu chứng , những nguyên nhân, và sự trợ giúp




NHỮNG PHƯƠNG PHÁP TRỊ LIỆU CHỨNG MẤT NGỦ VÀ NHỮNG ĐIỀU TRỊ VIỆC THAY ĐỔI NHỮNG THÓI QUEN MÀ LÀM GIÁN ĐOẠN / PHÁ VỠ GIẤC NGỦ (INSOMNIA CURES AND TREATMENTS: CHANGING HABITS THAT DISRUPT SLEEP)

Cho dù đang khi tiến hành điều trị các vấn đề tiềm ẩn về thể chất và tâm thần có bước đầu tốt đẹp, phương cách này có thể không đủ để điều trị căn bệnh mất ngủ của bạn . Bạn cũng cần xem xét lại những thói quen hằng ngày của bạn . Một số trong những điều bạn đang thực hiện để đối phó với chứng mất ngủ thực sự có thể làm cho vấn đề trở nên tồi tệ hơn.

Thí dụ, có thể bạn đang sử dụng thuốc ngủ hoặc uống rượu để ngủ thiếp đi, những thứ nay thường làm gián đoạn giấc ngủ / phá vỡ giấc ngủ nhiều hơn về lâu dài. Hoặc có thể bạn uống quá nhiều cafe vào ban ngày , làm cho việc ngủ thiếp đi trở nên khó hơn sau đó . Thông thường , việc thay đổi những thói quen mà củng cố lại sự thiếu ngủ cũng đủ để khắc phục chứng mất ngủ theo luôn . Phải mất vài ngày để cho cơ thể bạn quen với sự thay đổi, nhưng một khi bạn thực hiện được, bạn sẽ ngủ ngon / ngủ tốt hơn

SỬ DỤNG CUỐN SỔ TAY GHI CHÉP VỀ GIẤC NGỦ ĐỂ XÁC ĐỊNH NHỮNG THÓI QUEN GÂY RA CHỨNG MÚC NGỦ (USING A SLEEP DIARY TO IDENTIFY INSOMNIA-INDUCING HABITS

Một số thói quen như là đă ăn sâu vào người mà bạn có thể bỏ qua thói quen này vậy là một đóng góp đáng kể cho việc trị liệu chứng mất ngủ của bạn. Có thể những thói quen lâu ngày / thói quen có tính cách như sợi dây xích ảnh hưởng đến giấc ngủ của bạn nhiều hơn bạn (tự) nhận biết ra . Hoặc giả có thể bạn không bao giờ liên hệ đến việc xem truyền h́nh ban đêm của bạn hay sử dụng Internet với sự khó khăn về giấc ngủ của bạn . Hăy ǵn giữ 1 quyển sổ nhật kư ghi chép giờ giấc ngủ nghỉ là một phương cách hỗ trợ tốt để điểm ra những thói quen và những hành vi / những hoạt động góp phần vào sự mất ngủ của bạn

Tóm lại là bạn phải ghi chép lại những chi tiết từng ngày về những thói quen trong ngày , giờ giấc ngủ nghỉ , và những triệu chứng mất ngủ . Thí dụ, bạn có thể theo dơi khi nào bạn lên giường đi ngủ và khi nào bạn thức dậy , nơi bạn nằm ngủ, bạn ăn uống ǵ , và bất kỳ những sự việc căng thẳng nào mà xẩy ra trong ngày

NHỮNG THÓI QUEN MÀ KHIẾN CHO CHỨNG MẤT NGỦ TỆ HẠI HƠN:( HABITS THAT MAKE INSOMNIA WORSE)

•Uống quá nhiều chất caffein

•Uống rượu hay hút thuốc trước khi lên giường

•Ngủ nhiều giấc suốt ngày

•Một thời khóa biểu không b́nh thường về giấc ngủ / Ư nói là ngủ không đúng giờ




BẢNG MẪU NHẬT KƯ GHI CHÉP VỀ GIẤC NGỦ CHO 1 TUẦN (WEEKLY SLEEP DIARY SAMPLE)



Chi Tiết

Chủ Nhật

Thứ Hai

Thứ Ba

Thứ Tư

Thứ Năm

Thứ Sáu

Thứ Bảy


Thể Dục
Bạn đă thể dục gi ? Khi nào ? Kéo dài tổng cộng trong bao lâu ?
Ngủ trưa / ngủ chợp mắt 1 lát
Nơi nào ? Lúc nào ? Kéo dài bao lâu ?
Chất Rượu và Caffein
Dùng loại nào ? Số lượng ? Khi nào ?
Cảm giác
Vui , buồn , căng thẳng , lo âu sợ hăi bồn chồn , những nguyên nhân chính khác
Thức Ăn và Nước Uống trong bũa ăn tối, ăn chơi
Ăn ǵ uống ǵ ? Khi nào ?
Thuốc men và thuốc ngủ
Loại thuốc ǵ ? Liều lượng ? Uống khi nào ?
Thời khóa biểu giờ giấc đi ngủ hằng ngày Tự tham thiền / tự điều chỉnh suy nghĩ ra sao ? Trong bao lâu th́ ngủ
Thời gian ngủ trong bao lâu th́ thức


H̉A NHẬP NHỮNG THÓI QUEN MỚI ĐỂ TRỢ GIÚP CHO GIẤC NGỦ CỦA BẠN (ADOPTING NEW HABITS TO HELP YOU SLEEP)

• Phải bảo đảm pḥng ngủ của bạn được yên tĩnh, tối, và mát mẻ. Tiếng ồn , ánh sáng và hơi nóng có thể quấy rối giấc ngủ . Hăy cố gắng sử dụng 1 máy cản âm thanh / máy cản tiếng ồn hay dụng cụ bịt tai dể loại bỏ tiếng ồn bên ngoài , mở cửa sổ hay quạt máy để giữ căn pḥng được mát mẻ , và đóng màn cửa để làm tối căn pḥng hay một khăn bịt mắt để che chắn ánh sáng .

•Hăy bám chặt vào 1 thời khóa biểu ngủ nghỉ b́nh thường . Hăy hỗ trợ đồng hồ sinh học của bạn bằng cách đi ngủ và thức dậy đúng giờ mỗi ngày, bao gồm cả ngày nghỉ cuối tuần. Hăy thức dậy đúng giờ vào buổi sáng cho dù nếu bạn có bị mệt mỏi . Việc này sẽ trợ giúp bạn quay trở lại nhịp điệu giấc ngủ b́nh thường

•Tránh những giấc ngủ ngắn trong ngày . Nghỉ trưa hay chợp mắt ngủ trong ngày có thể làm khó ngủ hơn vào ban đêm . Nếu bạn cảm thấy thích chợp mắt ngủ / ngủ trưa, hăy giới hạn là chỉ ngủ trưa / chợp mắt ngủ trong 30 phút trước 3 giờ chiều

• Hăy tránh hoạt động có tính cách kích thích và t́nh huống căng thẳng trước khi đi ngủ . Việc này bao gồm thể dục mạnh mẽ; những tranh luận lớn hay bàn căi / căi vả / căi lộn ; và TV, computer; hoặc sử dụng các tṛ chơi điện tử . Hăy tắt tất cả các máy điện tử tối thiểu 1 giờ đồng hồ trước khi ngủ

•Giảm thiểu tối đa chất caffein, rượu, và chất nicotine (nicotinechất trong thuốc lá) . Hăy ngừng uống các loại giải khát có chất caffein tối thiểu 8 tiếng đồng hồ trước khi lên giường . Tránh uống bia rượu vào buổi tối . Khi mà chất cồn rượu có thể làm cho bạn buồn ngủ , (nhưng) nó can thiệp vào chất lượng giấc ngủ của bạn . Hăy bỏ hút thuốc lá hoặc tránh hút thuốc lá vào ban đêm, khi mà chất nicotine là một chất kick thích .




NHỮNG LỜI KHUYÊN / NHỮNG MẸO NHỎ KHÁC DỂ CÓ ĐƯỢC GIẤT NGỦ NGON HƠN (MORE TIPS FOR GETTING BETTER SLEEP)

T́m hiểu làm thế nào để tạo ra một môi trường ngủ tốt hơn, phát triển một thói quen thư giăn trước khi đi ngủ, tối ưu hóa thời khóa biểu / lịch tŕnh giờ giấc giấc ngủ của bạn, và ăn uống và tập thể dục để hỗ trợ giấc ngủ, trong số các chiến lược khác .

Đọc thêm : Những lời khuyên / những mẹo nhỏ để có được giấc ngủ ngon hơn : Làm thế nào để ngủ ngon vào mỗi đêm (Lynn sẽ phỏng dịch thông tin này sau )


NHỮNG PHƯƠNG PHÁP TRỊ LIỆU CHỨNG MẤT NGỦ VÀ NHỮNG ĐIỀU TRỊ TRUNG H̉A / GIẢM THIỂU LO ÂU BỒN CHỒN KHI BẠN KHÔNG THỂ NGỦ
(INSOMNIA CURES AND TREATMENTS: NEUTRALIZING ANXIETY WHEN YOU CAN’T SLEEP)

Bạn có càng nhiều sự rắc rối về giấc ngủ, th́ những rắc rối đó càng bắt đầu xâm nhập vào suy nghĩ của bạn . Bạn có thể sẽ sợ hăi khi đi ngủ v́ bạn biết ngay rằng bạn sẽ phải lăn lộn và trăn trở hàng giờ hoặc tỉnh giấc vào 2 giờ sáng , rồi lập lại (sự trăn trở và tỉnh giấc). Hoặc có lẽ bạn đang lo lắng bởi v́ bạn có điều ǵ đó thực hiện quan trọng vào ngày mai , và nếu bạn không có đủ một lần 8 giờ liên tục, bạn chắc chắn là bạn sẽ không làm được tốt cho ngày mai. Nhưng việc khổ sở và mong mỏi giấc ngủ khó khăn (như vậy) chỉ làm cho chứng mất ngủ trầm trọng hơn. Việc lo lắng để có giấc ngủ hoặc bạn có mệt mỏi như thế nào có thể làm cho bạn ch́m đắm với adrenaline ( Lynn Ly chú thích : andrenaline là chất nội tiết, 1 loại hooc moon dẫn truyền thần kinh . Khi sản xuất trong cơ thể, chất adrenaline này làm tăng nhịp tim, lượng máu chạy trong mạch máu và làm giăn nở đường khí quản và tham dự vào các phản ứng phản hồi trong tranh đấu của hệ thần kinh giao cảm ), và trước khi bạn nhận biết ra , bạn thật tỉnh táo với đôi mắt mở thao láo

LEARNING TO ASSOCIATE YOUR BED WITH SLEEPING, NOT SLEEPLESSNESS

Nếu những lo âu về giấc ngủ xâm nhập vào đường hướng năng lực của bạn, để thoát ra sự xâm nhập này vào ban đêm, các chiến lược sau đây có thể giúp đỡ. Mục tiêu là rèn luyện cơ thể của bạn để kết hợp giường nằm với giấc ngủ và không có ǵ khác - đặc biệt là không nổi giận /thất vọng và lo âu bồn chồn.


•Chỉ sử dụng giường ngủ cho việc ngủ nghỉ và quan hệ t́nh dục . Không dùng làm việc, đọc sách, xem TV, hoặg sử dụng computer trên giường hoặc trong pḥng ngủ . Mục tiêu duy nhất là kết hợp pḥng ngủ với giấc ngủ , do đó năo bộ của bạn và cơ thể sẽ đón nhận tín hiệu mạnh mẽ là đến giờ giỗ giấc ngủ khi bạn lên giường.

•Hăy ra khỏi giường khi bạn không thể ngủ . Đừng cố tự ép ḿnh vào giấc ngủ . Trăn trở và lăn lộn chỉ làm gia tăng sự lo âu bồn chồn . Hăy đứng lên, rời khỏi pḥng ngủ, và làm ǵ đó thư giăn , như đọc sách, uống 1 ly nước trà ấm ấm loại không có chất kích thích caffein , tắm , hoặc lắng nghe âm nhạc nhẹ nhàng . Khi bạn buồn ngủ, quay trở lại giường ngủ .

•Di dời đồng hồ trong pḥng ngủ ra xa xa khỏi tầm nh́n . Việc bồn chồn lo lắng nh́n nhịp đồng hồ khi bạn không thể ngủ - việc nhận biết rằng bạn sẽ bị cực kỳ mệt mỏi khi thời gian (dành cho giấc ngủ) mất dần - chắc chắn là nguyên nhân tạo ra chứng mất ngủ .



Cũng thật hữu ích khi thách thức các thái độ tiêu cực về vấn đề giấc ngủ và mất ngủ của bạn mà bạn bị chứng mất ngủ này phát triển theo thời gian. Mấu chốt là việc nhận thức ra tự đánh bại những suy nghĩ và thay thế chúng với những suy nghĩ thiết thực hơn.



THÁCH THỨC NHỮNG SUY TƯỞNG TỰ ĐÁNH BẠI LÀ NGUỒN NGUYÊN LIỆU CHO CHỨNG MẤT NGỦ
( CHALLENGING SELF-DEFEATING THOUGHTS THAT FUEL INSOMNIA )




SUY NGHĨ TỰ ĐÁNH BẠI (SELF-DEFEATING THOUGHT)


KHUYẾN KHÍCH GIẤC NGỦ QUAY TRỞ LẠI (SLEEP-PROMOTING COMEBACK)

Những mong đợi không thiết thực : Tôi sẽ có thể ngủ ngon hằng đêm giống như một người b́nh thường . Tôi sẽ không có 1 vấn đề ǵ: Rất nhiều người vật vă chiến đấu với giấc ngủ theo thời gian / trong từng ngày . Tôi sẽ có thê/ ngủ với sự rèn luyện .
Sự phóng đại: Đêm nay là đêm duy nhất như mọi đêm, một đêm khác của sự đau khổ v́ mất ngủ . Không có đêm nào giống đêm nào . Một đêm tôi ngủ ngon hơn so với những đêm khác
Hệ Quả Xấu / Tin tưởng là nhiều thứ tồi tệ hơn từ sự tồi tệ hiện giờ : Nếu tôi không thể ngủ nghỉ chút chút , tôi sẽ làm hỏng cuộc thuyết tŕnh và nguy cơ mất việc Tôi có thể làm tốt cuộc thuyết tŕnh cho dù nếu tôi mệt mỏi . Tôi vẫn có thể nghỉ ngơ và thư thái thư giăn đêm nay, ngay cả nếu tôi không thể ngủ
Vô Vọng / Mất Hy Vọng: Tôi không bao giờ sẽ có thể ngủ ngon . Giấc ngủ ngon ra ngoài tầm kiểm soát của tôi. Chứng mất ngủ có thể được điều trị . Nếu tôi ngừng lo lắng quá nhiều và tập trung vào các giải pháp tích cực, tôi có thể đánh bại nó .
Dự Đoán: Sẽ phải tốn tối thiểu 1 giờ đồng hồ để ch́m vào giấc ngủ tối nay . Tôi biết vậy mà Tôi không biết điều ǵ sẽ xảy ra tối nay . Có lẽ tôi sẽ ngủ nhanh chóng nếu tôi sủ dụng các chiến lược


Hăy nhớ rằng, việc thay thế những ư nghĩ tự phản kháng / tự đánh bại cần thời gian và rèn luyện . Bạn có thể t́m thấy nó hữu dụng để ghi xuống bảng liệt kê của riêng ḿnh , việc ghi lại những suy nghĩ tiêu cực mà bật bung và làm sao bạn có thể kháng cự chúng . Bạn có thể ngạc nhiên về những suy nghĩ tiêu cực thường chạy trong đầu của bạn. Hăy kiên nhẫn và yêu cầu hỗ trợ nếu bạn cần.

NHỮNG KỸ THUẬP THƯ GIĂN / THẢ LỎNG CÓ THỂ GIÚP BẠN NGỦ NGON ( RELAXATION TECHNIQUES THAT CAN HELP YOU SLEEP )


•Một thói quen đi ngủ thư giăn. Như một sự khởi đầu để rèn luyện sự buông xả thư giăn của bạn, hăy phát triển một thói quen đi ngủ êm ả yên tĩnh. Hăy tập trung vào sự yên tĩnh, các hoạt động nhẹ nhàng / hoạt động làm êm dịu , chẳng hạn như đọc sách, đan len, hoặc lắng nghe nhạc nhẹ . Hăy để đèn sáng ở mức độ thấp . Sự thư giăn sau đó và những kỹ thuật điều chỉnh sự căng thẳng có thể trợ giúp bạn đi vào một trạng thái thoải mái hơn.

•Thở bằng bụng / Kỹ thuật hít thở sâu đưa hơi thở xuống bụng Hầu hết chúng ta không hít thở sâu thật sâu như chúng ta nên hít thở sâu như vậy . Khi chúng ta hít thở sâu và đầy đủ, không chỉ liên quan đến lồng ngực, mà c̣n bụng, vùng lưng bên dưới, và vùng xương sườn ở lồng ngực, hít thở sâu thực sự có thể giúp hệ thống thần kinh trung ương (parasympathetic nervous system ) của chúng ta kiểm soát sự buông xả thư giăn. Hăy nhắm mắt lại, và cố gắng hít sâu, hit thở chậm chậm từ tốn, làm cho từng hơi thở sâu hơn làn hơi thơ trước đó . Hít bào bằng lỗ mũi và thở ra bằng miệng . Bạn có thể cố gắng thở ra một hơi dài hơn hít vào.

•Sự buông xả cơ bắp tiếp diễn không ngừng Việc buông xả cơ bắp tiếp diễn không ngừng th́ dễ dàng hơn là nói. Hăy nằm xuống hoặc tự làm cho bạn cảm thấy thoải mái . Bắt đầu từ bàn chân của bạn , duỗi thăng / căng thẳng cơ bắp thật căng như bạn có thể làm . Giữ như vậy trong ṿng 10 tiếng đếm (đếm từ 1 - 10) , rồi th́ buông lỏng . Tiếp tục làm vậy cho từng nhóm bắp thịt trong cơ thể bạn , vận động như vậy từ bàn chân lên đến đỉnh đầu



HƯỚNG DẪN TỪNG BƯỚC TỪNG BƯỚC ĐỂ PHÁT TRIỂN VIỆC THỰC HÀNH BUÔNG RẢ THƯ GIĂN HẰNG NGÀY (A STEP-BY-STEP GUIDE TO DEVELOPING A DAILY RELAXATION PRACTICE)

T́m hiểu thêm về kỹ thuật buông xả làm thư giăn mà có thể giúp giấc ngủ của bạn, bao gồm làm thế nào để bắt đầu một thực hành thiền định, điều khiển sự buông xả thư giăn cơ bắp tiếp diễn không ngừng , tận dụng lợi thế của yoga và tai chi / Thái Cực quyền , và sử dụng hít thở sâu để làm thư giăn.

Đọc Thêm : Những Kỹ Thuật Buông Xả Thư Giăn Dể Giải Tỏa Căng Thẳng (Lynn sẽ phỏng dịnh tài liệu này sau !!! )


NHỮNG PHƯƠNG PHÁP TRỊ LIỆU CHỨNG MẤT NGỦ VÀ NHỮNG ĐIỀU TRỊ: SỬ DỤNG NHỮNG CHẤT BỔ XUNG VÀ THUỐC MEM MỘT CÁCH KHÔN NGOAN (INSOMNIA CURES AND TREATMENTS: USING SUPPLEMENTS AND MEDICATION WISELY)

Khi bạn đang trằn trọc trăn trở và lăn lộn trong đêm, thật hấp dẫn để chuyển sang sử dụng thuốc men , chất bổ xung để hỗ trợ giấc ngủ . Nhưng trước khi bạn làm thế, đây là những ǵ bạn cần biết.

DINH DƯỠNG BỔ SUNG CHO CHỨNG MẤT NGỦ (DIETARY SUPPLEMENTS FOR INSOMNIA)

Có nhiều chế độ dinh dưỡng và thảo dược bổ xung trên thị trường cho các hiệu ứng về việc thúc đẩy giấc ngủ . Mặc dù chúng có thể được mô tả như là "chất thiên nhiên", hăy cẩn thân / thân trọng đối với những biện pháp khắc phục giấc ngủ vẫn có thể có tác dụng phụ và ảnh hưởng với các thuốc khác hoặc vitamin bạn đang sử dụng. Để biết thêm thông tin, hăy trao đổi / nói chuyện với bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn.

Trong khi các bằng chứng khoa học vẫn đang được thu thập về các biện pháp thay thế để khắc phục giấc ngủ (ư nói biện pháp sử dụng thuốc hay chất bổ xung để thay thế cho biện pháp tự khác phục từ bản thân), bạn có thể thấy rằng một số trong số những biện pháp thay thế có thể có hiệu quả tuyệt vời cho bạn. Hai chất sung có những bằng chứng hỗ trợ hiệu quả nhất cho chứng mất ngủ là Melatonin và valerian .


•Melatonin Melatonin là một hooc môn xuất hiện rất tự nhiên mà cơ thể bạn sản xuất vào ban đêm . Melatonin trợ giúp điều chỉnh chu tŕnh ngủ thiếp đi và tỉnh giấc của bạn. Melatonin cũng là một chất bổ xung được bày bán trên các quầy kệ ở tiệm thuốc không cần toa bác sĩ khi mua . Cho dù melatonin không hiệu quả cho mọi người, nó có thể là một cách trị liệu chứng mất ngủ hiệu quả đối với bạn - đặc biệt nếu bạn ở t́nh huống mất ngủ nghiêm trọng ( mắt mở thao láo suốt đêm như con chịm cú vọ ban đêm ) với xu hướng tự nhiên để đi ngủ trễ và dậy rất muộn hơn những người khác

•Valerian. Valerian là một dược thảo với tác dụng an thần nhẹ có thể giúp bạn ngủ tốt hơn. Tuy nhiên, chất lượng của các loại sung valerian rất khác nhau / khác biệt với nhau .


NHỮNG LOẠI THUỐC NGỦ THEO TOA BÁC SĨ DÀNH CHO CHỨNG MẤT NGỦ (PRESCRIPTION SLEEPING PILLS FOR INSOMNIA)

Trong khi những toa thuốc ngủ có thể cung cấp sự giải quyết tạm thời, điều quan trọng là phải am hiểu rằng thuốc ngủ không phải là một cách chữa trị chứng mất ngủ. Và nếu sử dụng không cẩn thận, chúng thực sự làm cho chứng bệnh mất ngủ trở nên tồi tệ hơn theo thời gian . Tốt nhất là sử dụng thuốc men chỉ như là một phương sách cuối cùng, và rồi sau đó, thật hạn chế chỉ dùng khi cần thiết, ngay khi thực sự cần thiết. Trước tiên , hăy thử thay đổi thói quen ngủ nghỉ của bạn, thói quen hàng ngày của bạn, và thái độ / quan niệm của bạn về giấc ngủ. Những bằng chứng cho thấy rằng sự thay đổi lối sống và sự thay đổi về ứng sử / hành vi tạo ra khác biệt lớn nhất và kéo dài nhất khi nói đến chứng bệnh mất ngủ.

Để hiểu biết hơn , hăy đọc Những loại thuốc ngủ , những loại hỗ trợ ngủ , và thiền học : Những ǵ bạn cần biết (Lynn sẽ phỏng dịch tài liệu này sau )

KHI NÀO CẦN SUY XÉT T̀M ĐẾN PHƯƠNG THỨC TRỊ LIỆU CHỨNG MẤT NGỦ TỪ NGƯỜI CHUYÊN NGHIỆP (WHEN TO CONSIDER SEEKING PROFESSIONAL INSOMNIA TREATMENT)

Nếu bạn đă từng cố gắng những điều trị chứng mất ngủ và phương thức trị liệu đă tŕnh bày ở trên, và vẫn c̣n có những rắc rối để có được giấc ngủ như bạn cần có , bác sĩ hay chuyên gia về rối loạn giấc ngủ có thể trợ giúp bạn

Khi cần tim dến sự trợ giúp của chuyên gia về chứng mất ngủ :


•Nếu chứng mất ngủ của bạn không có phản hồi đối với những chiến lược / phương pháp tự cứu chữa của bản thân

•Nếu chứng mất ngủ của bạn đang gây ra nhiều vất đề nghiêm trọng / chính yếu trong gia đ́nh /tại nhà , tại nơi làm việc , hoặc tại học đường

•Nếu bạn có trải nghiệm về những triệu chứng đáng sợ như đau tức ngực hoặc khó thở

•Nếu chứng mất ngủ của bạn hầu như xẩy ra hằng đêm và càng lúc càng trở nên tồi tệ / tệ hại



Lynn Ly (2009)

florida80
04-12-2019, 17:44
NHỮNG LỜI KHUYÊN VỀ GIẤC NGỦ : PHẢI LÀM G̀ KHI BAN KHÔNG THỂ NGỦ
( SLEEP TIPS: WHAT TO DO WHEN YOU CAN’T SLEEP )

Lynn Ly phỏng dịch theo tài liệu
của TYLENOL NIGHTIME - SLEEP CENTER cung cấp


Để ch́m vào giấc ngủ (buồn ngủ) có thể khó khăn nhưng sau đây là một số lời khuyên có thể hỗ trợ trong việc "nhắm mắt ngủ" .

Bạn đang trằn trọc trăn trở và thay đổi tư thế mà vẫn không thể ngủ, ngay cả khi bạn đă đóng rèm cửa, tắt đèn, và đă thực hiện tất cả mọi thứ mà bạn có thể nghĩ ra để vỗ về tâm trí của ḿnh. Vấn đề của bạn có thể là không thực hiện từng bước thích hợp để chuẩn bị giấc ngủ cho bản thân ḿnh một cách khoa học, theo như tiến sĩ Colleen Carney, Phó Giáo sư thuộc Khoa Tâm lư Đại học Ryerson thành phố Toronto-Canada và là tác giả cuốn sách “Goodnight Mind: Turn off Your Noisy Thoughts and Get a Good Night’s Sleep.” ("Chúc Tâm Trí ngủ ngon: Hăy dẹp bỏ mọi suy nghĩ phiền toái và đón lấy một giấc ngủ đêm ngon lành") đă nói .

Dưới đây là một số lời khuyên về giấc ngủ từ bác sĩ Carney và các chuyên gia khác về cách điều chỉnh, thư giăn để ch́m sâu vào giấc ngủ:
• Hăy ra khỏi giường và vận động một khoảng thời gian vừa đủ lúc ban ngày . "Việc này tạo ra 1 thúc đẩy hay áp lực cho giấc ngủ sâu vào ban đêm " Bác Sĩ Carney nói vậy .

•Thực nghiệm luyện tập yoga, Thái Cực Quyền (Tai Chi), thiền định và những phương cách dẫn dắt tâm trí tĩnh lặng, nhưng hăy thực hiện phững biện pháp này trước giờ đi ngủ .

•Làm ǵ đó có tính cách vui vẻ nhẹ nhàng hợp lư vào buổi tối. Điều này sẽ thay đổi từ cá nhân này sang cá nhân khác , tiến sĩ Diane Boivin, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và điều trị nhịp tim sinh học của Viện Douglas, và là Giáo sư ngành Y tại Đại học McGill, Montreal Canada đă nói : "Nếu đọc một vài ḍng hoặc một số trang trong một cuốn sách sẽ giúp bạn thư giăn, và điều này không gây khó khăn cho bạn buồn ngủ và không phá hỏng giờ giấc đi ngủ nghỉ của bạn. Không có vấn đề ǵ miền sao việc đọc sách không phải là đọc trên một máy tính bảng hoặc các thiết bị điện tử khác. "

•Hay thức dậy ngay khi tắt chuông đồng báo động thay v́ nhấn nút chuông để báo động lại, thậm chí ngay sau một đêm mất ngủ. Nên biết là bạn không thể bù đắp sự mất ngủ ban đêm bằng giờ ngủ ban sáng, mặc dù rất nhiều người cố gắng làm vậy, Bác Si Carney khuyên vậy. "Trong bất kỳ giấc ngủ ở buổi sáng là chúng ta đón nhận ánh sáng, dó đó bạn đă tự cướp thời gian mà bạn có thể đầu tư cho giấc ngủ sâu ban đêm tiếp theo sau, hoặc tự cướp mất sự thúc đẩy giấc ngủ của ḿnh. Bạn chỉ nên tự cho phép ḿnh lảo đảo và cố gắng thúc đẩy năng lực hoạt động ban ngày của ḿnh bằng cafein và cố gắng đi ngủ sớm vào đêm kế tiếp do bị khó ngủ ở đêm trước và đă không thức dậy trể vào buổi sáng"

•Hăy thức giấc đúng giờ hằng ngày. "Nếu bạn không sẵn sàng đi ngủ theo đúng thời gian qui định, vậy th́ không nên đi ngủ. Bạn nên chờ đợi , bởi v́ bạn sẽ nằm thao thức, nhưng bạn nên luôn luôn thức dậy đúng giờ cho dù bất kể điều ǵ ", Carney khuyên vậy.

• Nghiêm chỉnh thực hiện thói quen ngủ và thức dậy đúng giờ, ngay cả vào cuối tuần. "Cơ thể bạn không biết hôm nào là ngày cuối tuần" Bác sĩ Carney nói vậy. Việc bạn cố gắng ngủ thêm thêm 1 hay 2 giờ vào sáng thứ Bảy và Chủ Nhật gây ảnh hưởng đến những mức độ thuộc tầm kiểm soát giấc ngủ kiểm soát của hormone melatonin và mức độ mệt mỏi của bạn - nó giống như là máy bay phản lực bị giựt lùi vào mỗi sáng thứ Hai. "Nếu tôi nói tôi cần bạn đi du lịch (từ Toronto) đến Los Angeles và quay lại ngay, bạn có mong đợi giấc ngủ b́nh thường không (Chú thích: Toronto và Los Angeless có giờ giấc khác biệt là 6 giờ đồng hồ ) ... đó là một lư do mà mọi người không nên cho rằng điều đó xảy ra vào cuối tuần," Bác Sĩ Carney nói vậy.

• Hăy buông xả mọi lo lắng của bạn ngoài cánh cửa pḥng ngủ. Con người thường hoảng hốt lo sợ về thời hạn phải làm xong điều ǵ đó; họ nghĩ rằng tất cả mọi việc đều thuộc trường hợp khẩn cấp và họ thấy khó khăn để "gỡ rối" (quên đi sự lo lắng) và do đó không thể ngủ vào ban đêm, Bác Sĩ Carney nói vậy. Nếu bạn dễ bị lo lắng về việc kinh doanh chưa hoàn tất, các vấn đề chưa được giải quyết , và thiết lập danh sách, th́ nên làm điều đó sớm sớm hơn , ngay cả khi có cách giải quyết tốt nhất những vấn đề ... th́ cũng nên buông xả mọi suy tư ở ngoài cửa pḥng ngủ , Bác sĩ Carney đă nói vậy .

• Hăy nhận ra nếu bạn có đủ vận động và sự thúc đẩy giấc ngủ ban đêm ở ban ngày, bạn sẽ không cần phải "âm thanh ru ngủ", đeo mặt nạ để ngủ và các dụng cụ phụ trợ khác để ru bạn vào giấc ngủ vào ban đêm. Nếu bạn cần những dụng cụ hỗ trợ, điều nay có thể là một dấu hiệu cho thấy bạn đang bận tâm với giấc ngủ và lệ thuộc vào những ǵ Carney gọi là "nỗ lực ngủ" được liên kết với chứng mất ngủ. "Việc buồn ngủ / ch́m vào giấc ngủ th́ phải như rơi vào t́nh yêu; nó không cần 1 nỗ lực thúc ép "

•Nếu bạn không thể ngủ, có vấn đề khó khăn để ngủ hoặc khó quay lại giấc ngủ trong ṿng 20 phút sau khi thức dậy trong đêm, hăy rời khỏi giường nằm và làm ǵ đó có tính cách xoa dịu tâm thần . "Nếu tâm ư cứ lu bu bận rộn th́ sẽ không thể ngừng dứt suy tư , thường nên đưa vào bộ năo một công việc lặp đi lặp lại phải làm - thí dụ như việc đếm số mấy con cừu - có thể trợ giúp ngủ lại" Tiến sĩ Maureen Ceresney, một chuyên gia giấc ngủ tại Đại học nói British Columbia, Vancouver đề nghị vậy .

•Hăy thử thay đổi nhiệt độc cơ thể của bạn. "Uống một ly sữa ấm hoặc ly trà thảo dược, tắm nước nóng một hoặc hai giờ trước khi đi ngủ, hoặc luyện tập vài động tác thể dục về tim mạch trong buổi chiều hay buổi tối, việc này có thể tạo thuận lợi cho việc thúc đẩy giấc ngủ ngon," Ceresney nói.

•Nếu việc làm tối pḥng ngủ trợ giúp ngủ ngon th́ nên thực hiện v́ ánh sáng quấy rối sản phẩm do chât Melatonin tạo ra và là nguyên nhân gây ra rối loại hay những vấn đề thuộc về "đồng hồ sinh học" trong cơ thể bạn

•Hăy suy xét t́m kiếm sự trợ giúp y tế nếu các phương pháp trên không hiệu quả và bạn vẫn không thể ngủ, tiến sĩ Atul Khullar , bác sĩ tâm thần, Giám đốc Y khoa Northern Alberta Sleep Clinic (MedSleep Edmonton) đề nghị. "Nếu thiếu ngủ gây ảnh hưởng xấu đến các chức năng sinh hoạt ban ngày, nếu vấn đề không biến mất ; nếu nó đă không thay đổi, và nếu nó thực sự tiếp diễn trong đời sống của bạn, vậy là lúc cần được quan sát xem xét"




Lynn Ly (25/06/2014)

florida80
04-12-2019, 17:46
SUY THẬN : LỰA CHỌN 1 PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ PHÙ HỢP CHO BẠN
(KIDNEY FAILURE: CHOOSING A TREATMENT THAT’S RIGHT FOR YOU )


Lynn Ly phỏng dịch tài liệu từ
htXtp://kidney.niddk.nih.gov/KUDiseases/pubs/choosingtreatment/index.aspx


GIỚI THIỆU (INTRODUCTION)

Thận của bạn lọc chất thải từ máu và điều hoà các chức năng khác của cơ thể. Khi thận của bạn bị suy yếu (không hoạt động nữa) , bạn cần điều trị để thay thế những những hoạt động mà thận của bạnh thực hiện lúc b́nh thường.

Khi thận bị hư hại đến mức bạn phải thực hiện một số quyết định về phương cách trị liệu. Bạn có thể chọn lựa từ bỏ trị liệu (không tiếp nhân trị liệu) . Nếu bạn chọn tiếp nhận trị liệu, sự lựa chọn của bạn bao gồm:
•Chạy Thận Nhân Tạo / Lọc Máu Theo Chu Kỳ (Hemodialysis), phương pháp này cần một bộ máy được sử dụng để lọc máu bên ngoài cơ thể của bạn;

•Chạy Thận Phúc Mạc (Peritoneal Dialysis) , phương pháp này sử dụng màng bụng của bạn để lọc máu bên trong cơ thể.

•Cấy Ghép Thận (Kidney Transplantation), ở phương pháp này một quả thận mới được đặt trong cơ thể của bạn.


Mỗi phương pháp điều trị đều có những ưu điểm và nhược điểm (tiện ích và bất lợi). Sự lựa chọn phương pháp điều trị cho bạn sẽ có một tác động lớn đến lối sống hằng ngày của bạn, chẳng hạn như có thể ǵn giữ công ăn việc làm nếu bạn đang làm việc (kiếm sống) . Bạn là người duy nhất có thể quyết định những ǵ có ư nghĩa nhất cho bạn. Đọc thông tin này là một phương cách để có hiểu biết về những lựa chọn (được đề nghị) từ đó bạn có thể quyết định chọn phương cách nào. Và nếu bạn thấy rằng sự lựa chọn của bạn không phù hợp tốt cho lối sống của bạn, bạn có thể thay đổi phương pháp điều trị. Với sự trợ giúp của nhân viên y tế, gia đ́nh và bạn bè, bạn có thể sống một cuộc sống đầy năng động.

BẠN BỊ SUY THẬN KHI NÀO (WHEN YOUR KIDNEYS FAIL)

Quả thận khoẻ mạnh làm sạch máu của bạn bằng cách loại bỏ dung dịch dư thừa, những khoáng chất và những chất thải. Chúng cũng tạo ra kích thích tố mà ǵn giữ cho xương của bạn cứng cáp và máu của bạn khỏe mạnh. Khi quả thận của bạn bị suy yếu hay hư hỏng, những chất thải độc hại tích tụ trong cơ thể, huyết áp của bạn có thể gia tăng, và cơ thể của bạn có thể tồn lại dung dịch dư thừa và không tạo ra đủ lượng hồng huyết cầu . Khi sự thể này xảy ra, bạn cần trị liệu để thay thế hoạt động của quả thận bị hư hỏng của bạn.


SỰ CHỌN LỰA ĐIỀU TRỊ : LỌC MÁU ĐỊNH KỲ / CHẠY THẬN NHÂN TẠO
(TREATMENT CHOICE: HEMODIALYSIS )


MỤC ĐÍCH (PURPOSE)

Chạy thận nhân tạo/Lọc máu định kỳ (Hemodialysis)làm sạch và gạn lọc máu bằng cách sử dụng một bộ máy mà tạm thời loại ra khỏi cơ thể các chất thải độc hại, muối dư thừ , và lượng nước dư thừa. Chạy thận nhân tạo trợ giúp kiểm soát và điều khiển huyết áp, và trợ giúp cơ thể bạn ở trạng thái quân b́nh về các hóa chất quan trọng như potassium (kali), sodium (natri), calcium (canxi), và bicarbonate.

Chạy Thận / Lọc máu / Thẩm tách (Dialysis) có thể thay thế một phần chức năng của thận. Chế độ dinh dưỡng, thuốc men, và việc hạn chế chất lỏng thường cũng rất cần thiết nữa. Chế độ dinh dưỡng, (dung nạp) chất lỏng của bạn, và số lượng thuốc bạn cần sẽ phụ thuộc vào phương pháp điều trị mà bạn lựa chọn.

CÁCH CHẠY THẬN NHÂN TẠO / LỌC MÁU THEO ĐỊNH KỲ HOẠT ĐỘNG RA SAO (HOW HEMODIALYSIS WORKS)

Chạy thận nhân tạo /lọc máu theo định kỳ (Hemodialysis) là sử dụng một bộ lọc đặc biệt gọi là bộ phận thẩm tách (dialyzer) , bộ phận này có chức năng như một quả thận nhân tạo để làm sạch máu của bạn. Bộ phận thẩm tách (dialyzer) là một hộp nhỏ kết nối với máy chạy thận nhân tạo (hemodialysis machine).


UserPostedImage
H́nh ảnh của trang web kidney.niddk.nih.gov về Hemodialysis (Chạy Thận Nhân Tạo / Lọc Máu Theo Định Kỳ)


Trong khi điều trị, máu của bạn di chuyển qua các ống dẫn vào bộ phận thẩm tách (dialyzer), bộ phận này lược ra những chất thải, lượng muối dư thừa, và lượng nước dư thừa. Sau đó, ḍng máu được làm sạch chảy thông qua một bộ ống trở lại vào cơ thể của bạn. Máy chạy thận nhân tạo (hemodialysis machine) theo dơi lưu lượng máu và loại bỏ các chất thải từ bộ phận thẩm tách (dialyzer) này.


UserPostedImage
H́nh ảnh của trang web kidney.niddk.nih.gov về máy Thẩm Tách (dialyzer))


Chạy thận nhân tạo / Lọc máu định kỳ (Hemodialysis) thường được thực hiện 3 lần 1 tuần . Mỗi lần điều trị kéo dài từ 3 đến 5 tiếng hay lâu hơn. Trong khi điều tri, bạn có thể đọc sách, viết lách, ngủ , tṛ chuyện hay xem TV

CHUẨN BỊ SẴN SÀNG (GETTING READY)

Vài tháng trước khi bạn được điều trị chạy thận nhân tạo (hemodialysis) lần đầu tiên, bộ phận truy cập vào ḍng máu của bạn cần được cài đặt vào cơ thể bạn. Bạn có thể phải ở lại qua đêm trong bệnh viện, tuy nhiên nhiều bệnh nhân được thiết lập bộ phận truy cập vào ḍng máu theo chế độ căn bản dành cho bệnh nhân ngoại trú. Việc thiết lập bộ phận truy cập vào ḍng máu có công dụng đem máu từ cơ thể của bạn đưa vào bộ phận thẩm tách (dialyzer) và rồi th́ đưa máu trở lại vào cơ thể mà không gây khó chịu cho bạn. Hai kiểu tạo đường truy cập vào máu là dùng một ống ṛ (fistula) và sự ghép mô (graft)

•Bác sĩ phẫu thuật tạo cho một đường ống ṛ fistula ngay trong mạch máu của bạn, nơi động mạch được kết nối trực tiếp vào tĩnh mạch, thường là ở phần trước của cánh tay bạn. Lưu lượng máu gia tăng lên làm cho các mạch máu nở lớn hơn và mạnh hơn do đó đường ống ṛ có thể được sử dụng để lập đi lập lại việc chèn mũi kim vào nó. Kiểu truy cập là kiểu được ưa thích. Có thể phải mất vài tuần để chuẩnn bị cho việc sử dụng ống ṛ.


UserPostedImage
H́nh ảnh của trang web kidney.niddk.nih.gov về Cánh Tay với đường ống ṛ (Arm with a fistula).



•Cấy ghép mô (graft) nối liền động mạch với tĩnh mạch bằng một ống tổng hợp (a synthetic tube). Cách này không cần nới rộng mạch máu như là khi thực hiện đường ống ṛ (fistula), cho nên ống tổng hợp (a synthetic tube) có thể được sử dụng ngay sau khi cài đặt. Nhưng cấy ghép mô (graft) th́ có nhiều khả năng về vấn đề nhiễm trùng và đông máu.


UserPostedImage
H́nh ảnh của trang web kidney.niddk.nih.gov về sự ghép mô (graft)



Trước khi lọc máu, những mũi kim được đặt vào phần truy cập để máu chảy ra

Nếu bệnh thận của bạn đă tiến triển nhanh chóng, bạn có thể không có thời gian để được thiết lập một truy cập cố định vào mạch máu trước khi bắt đầu lọc máu. Bạn có thể cần phải sử dụng một ống thông, mềm mại cài đặt vào trong một tĩnh mạch ở ngực, cổ, hoặc chân gần háng như là một truy cập tạm thời. Một số người cũng sử dụng một ống thông này để truy cập dài hạn luôn nữa. Những ống thông mà cần thiết sử dụng trong ṿng hơn khoảng 3 tuần phải được được thiết kế để cài đặt dưới da làm gia tăng sự thoải mái và giảm bớt các biến chứng.


UserPostedImage

H́nh ảnh của trang web kidney.niddk.nih.gov về ống thông dùng cho truy cập tạm thời (Catheter for temporary access)


Để biết thêm thông tin về truy cập vào mạch máu, hăy xem tài liệu truy cập mạch máu dành cho Chạy thận nhân tạo / Lọc máu định kỳ của Viện Quốc gia về bệnh tiểu đường và tiêu hóa và bệnh Thận (NIDDK)

AI THỰC HIỆN CHẠY THẬN NHÂN TẠO / LỌC MÁU ĐỊNH KỲ (WHO PERFORMS HEMODIALYSIS)

Chạy thận nhân tạo / lọc máu định kỳ (Hemodialysis) thường được thực hiện tại một trung tâm chạy thận bởi kỹ thuật viên chuyên chăm sóc bệnh nhân, người kỹ thuật viên này được giám sát bởi những y tá / cán sự điều dưỡng . Bảo hiểm sức khỏe trả tiền 3 lần điều trị theo phương cách Chạy thận nhân tạo / lọc máu định kỳ hàng tuần . Nếu bạn chọn trị liệu tại trung tâm (nào đó) , bạn sẽ có một khoảng thời gian cố định, ba lần mỗi tuần vào thứ Hai - thứ Tư - thứ Sáu hoặc thứ Ba -Thứ Năm - thứ Bảy. Nếu bạn không được xắp xếp ở các khoảng thời gian bạn mong muốn nhất , bạn có thể yêu cầu được ghi danh vào một danh sách chờ đợi cho các khoảng thời gian mà bạn ưa thích. Đối với một trường hợp đặc biệt, bạn có thể trao đổi khoảng thời gian / kỳ hẹn của ḿnh với người bệnh nhân khác. Bạn muốn được xuy xét / suy nghĩ đến lịch tŕnh Chạy thận nhân tạo / lọc máu định kỳ nếu bạn làm việc hay phải chăm sóc trẻ nhỏ . Một số trung tâm có cung cấp việc chạy thận ban đêm tại trung tâm. Phương cách điều trị này được thực hiện trong một thời gian dài hơn vào ban đêm, trong khi bạn ngủ tại trung tâm. Phải chạy thận nhân tạo nhiều hơn nghia là phải giảm chế độ ăn uống và hạn chế chất lỏng / dung dịch, và cách điều trị này để dành ban ngày của bạn dùng cho công việc làm ăn, trông giữ trẻ, hoạt động theo sở thích, hoặc các công việc khác.

Bạn có thể chọn cách học hiểu làm thế nào để tự điều trị theo phương pháp chạy thận nhân tạo tại nhà. Khi bạn là người bệnh duy nhất, th́ có thể chạy thận nhân tạo / lọc máu thường xuyên hơn hay kéo dài lâu hơn, để sự thay thế tiến đến gần hơn những hoạt động ổn định của quá thận khỏe mạnh thực hiện. Chạy thận nhân tạo (DHHD) hằng ngày tại nhà được thực hiện 5 đến 7 ngày mỗi tuần trong khoảng 2 đến 3 giờ mỗi một lần, và bạn thiết lập lịch tŕnh cho riêng ḿnh . Nếu công ty bảo hiểm sức khỏe của bạn sẽ phải trả hơn ba lần điều trị, bạn có thể thực hiện điều trị ngắn vào buổi sáng hoặc vào buổi tối. Chạy thận nhân tạo tại nhà ban đêm (Nocturnal home hemodialysis = NHHD) được thược hiện 3 để 6 đêm mỗi tuần khi lúc bạn ngủ . DHHD hoặc NHHD sẽ cho phép chế độ ăn uống b́nh thường hơn cùng chất lỏng / dung dịch với ít huyết áp hơn cùng với các thuốc khác. Hầu hết những người theo chương tŕnh muốn chạy thận nhân tạo tại nhà phải có thân nhân được huấn luyện biết thực hiện phương pháp này ở nhà trong khi người bệnh thực hiện điều trị. Học cách chạy thận nhân tạo tại nhà cũng giống như học lái xe phải mất một vài tuần và sẽ đáng sợ lúc đầu, nhưng sau đó nó sẽ trở thành thói quen. Các trung tâm chạy thân cung cấp máy và huấn luyện , thêm vào nữa là 24 giờ hỗ trợ nếu bạn có thắc mắc hay có vấn đề ǵ. Các máy mới dùng cho việc chạy thận tại nhà nhỏ hơn và dễ dang sử dụng hơn các máy tại các trung tâm.

Bạn có một sự lựa chọn về các trung tâm chạy thận, và hầu hết các thị trấn có nhiều trung tâm để bạn chọn lựa. Bạn có thể ghé thăm một trung tâm để xem xét nơi đó có phương pháp điều trị bạn muốn hoặc khoảng thời gian mà bạn cần. Một số trung tâm sẽ cho phép bạn sử dụng điện thoại di động hoặc laptop(computer xách tay) hoặc cho người viếng thăm bạn (trong khi điều trị), trong khi những trung tâm khác th́ không. Hiệp hội Y Khoa (Medicare) có một danh sách tất cả các trung tâm Hoa Kỳ về các Cơ sở chạy thận và có so sánh trên trang web (www.medicare.gov/dialysis) cùng xếp hạng chất lượng cho từng trung tâm. Công ty bảo hiểm sức khỏe của bạn có thể có bảng danh sách các trung tâm mà bạn có thể sử dụng . Nếu bạn lựa chọn điều trị tại trung tâm, bạn cân chọn trung tâm gần nhà đề giảm thiểu thời gian di chuyển . Nếu bạn chọn cách điều trị tại nhà, một khi bạn được huấn luyện bạn chỉ cần đến trung tâm một lần hằng tháng. Do đó, trung tâm có thể ở xa xa mà bạn không ngại di chuyển 1 lần một tháng.

NHỮNG BIẾN CHỨNG KHẢ DĨ / NHỮNG BIẾN CHỨNG CÓ THỂ XẢY RA (POSSIBLE COMPLICATIONS)

Những vấn đề về sự truy nhập vào mạch máu là nguyên nhân phổ biến nhất khiến phải nhập viện ở đại đa số bệnh nhân sử dụng Chạy Thận Nhân Tạo. Những vấn đề phổ biến bao gồm nhiễm trùng, sự tắc nghẽn ḍng máu do đông máu, và lưu lượng máu suy giảm đến mức nghèo nàn. Những vấn đề này có thể làm cho việc điều trị của bạn không thực hiện được. Bạn có thể phải trải qua ca phẫu thuật lần nữa để có được một truy nhập vào mạch máu mà hoạt động đúng chức năng.

Các vấn đề khác có thể gây ra bởi những thay đổi nhanh chóng trong cơ thể về lượng nước và sư cân bằng hóa học trong quá tŕnh điều trị. Chứng chuột rút (băp thịt bị co thắt cứng lại) và Hạ huyết áp - huyết áp bị tụt giảm đột ngột - là 2 phản ứng phụ phổ biến . Hạ huyết áp có thể làm cho bạn cảm thấy suy nhược, chóng mặt, hoặc bị đau dạ dày.

Bạn có lẽ sẽ cần một vài tháng để thích nghi với Chạy Thận Nhân Tạo. Những phản ứng phụ có thể được điều trị thường xuyên nhanh chóng và dễ dàng, do đó bạn nên luôn luôn thông cáo cho bác sĩ và nhân viên chạy thận biết. Bạn có thể tránh được nhiều tác dụng phụ nếu bạn tuân theo một chế độ ăn uống thích hợp, hạn chế ăn chất lỏng, và dùng thuốc theo chỉ dẫn.

DINH DƯỠNG CHO NGƯỜI ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ CHẠY THẬN NHÂN TẠO (DIET FOR HEMODIALYSIS)

Chạy thận nhân tạo (Hemodialysis) và chế độ ăn uống thích hợp giúp giảm bớt các chất thải tích tụ trong máu của bạn. Một chuyên gia dinh dưỡng thường luôn sẵn sàng trong tất cả các trung tâm chạy thận để giúp bạn thiết lập kế hoạch bữa ăn theo yêu cầu của bác sĩ. Khi lựa chọn thực phẩm, hăy nhớ :

•ăn một liều lượng cân đối về các loại thực phẩm giàu protein như thịt, thịt gà và cá.

•Kiểm soát số lượng potassium (Kali) mà bạn ăn . Potassium (Kali) là một khoáng chất được t́m thấy trong các sản phẩm thay thế muối, một số loại trái cây, chẳng hạn như chuối, cam, rau cải, sô cô la và các loại hạt dẻ. Quá nhiều potassium (kali) có thể nguy hiểm cho tim của bạn.

•Giới hạn lượng nước (chất lỏng) bạn uống . Khi thận của bạn không làm việc, nước tích tụ trong cơ thể của bạn một cách nhanh chóng. Quá nhiều chất lỏng làm cho các mô của bạn sưng tấy lên và có thể dẫn tới huyết áp cao, có vấn đề về tim, bị chuột rút (vọp bẻ) và hạ huyết áp trong quá tŕnh lọc máu .

•Tránh dùng muối . Những thức năm có vị mặn làm cho bạn khát nước và làm cho cơ thể bạn tồn đọng nước

•Giới hạn các loại thực phẩm như sữa, cheese (phô ma), các loại hạt dẻ, các loại hạt đậu được sấy khô, và colas đâm đặc . Những thực phẩm này chứa đựng số lượng lớn về khoáng chất phosphorus (phốt pho). Quá nhiều phosphorus (phốt pho) trong máu khiến cho calcium (can xi) tích tụ trong xương của bạn , điều này làm cho xương bị suy yếu và ḍn và có thể gây ra viêm khớp . Để ngăn chận những vấn đề về xương, bác sĩ có thể cho bạn những thuốc đặc biệt mà bạm phải dùng thuốc này trong các bữa ăn hàng ngày hay uống trực tiếp


Để biết thêm thông tin về việc chọn lựa thực phẩm cho đúng, hăy đọ cuốn sách NIDDK chỉ dẫn ăn cho đúng để có cảm giác đúng cho người sử dụng cách trị liệu Chạy thân nhân tạo (http://kidney.niddk.nih.gov/KUDiseases/pubs/eatright/index.aspx )

ƯU VÀ KHUYẾT ĐIỂM (PROS AND CONS)

Mỗi người có phản hồi khác nhau đối với những t́nh huống tương tự. Những ǵ có thể là một yếu tố tiêu cực đối với người này lại có thể là một yếu tố tích cực cho người khác. Xem danh sách những ưu điểm và nhược điểm chung về việc Chạy Thận Nhân tại trung tâm và tại nhà sau đây.

CHẠY THẬN NHÂN TẠO TẠI TRUNG TÂM (IN-CENTER HEMODIALYSIS)

Ưu Điểm (Pros)
•Cơ sở vật chất + phương tiện rộng răi tiện nghi

•Những chuyên gia có được huấn luyện ở bên bạn suốt thời gian trị liệu

•Bạn có thế quen biết thêm những bệnh nhân khác

•Bạn không cần có 1 người thân hoặc phải ǵn giữ dụng cụ ở nhà



Nhược Điểm (Cons)
•Trị liệu phải theo thời khóa biểu của trung tâm và luôn cố định / không thay đổi

•Bạn phải di chuyến từ nhà đến trung tâm để trị liệu

•Việc trị liệu có chế độ dinh dưỡng nghiêm ngạt và hầu hết là giới hạn chất lỏng

•Bạn sẽ phải uống và chi trả tiền thuốc nhiều hơn nữa

•Bạn có thể có cảm nhận thăng trầm , vui buồn thường xuyên trong từng ngày.

•Phải tốn vài tiếng đồng hồ để có cảm giác tốt hơn sau 1 lần điều trị



CHẠY THẬN NHÂN TẠO TẠI NHÀ (HOME HEMODIALYSIS)

Ưu Điểm (Pros)
•Bạn có thể làm việc Chạy Thân Nhân tạo vào thời điểm bạn lựa chọn, nhưng bạn vẫn phải làm việc này thường xuyên theo chỉ thị của bác sĩ của bạn

•Bạn không phải di chuyển đi đến trung tâm

•Bạn có được một cảm giác độc lập và điều khiển việc điều trị cho bạn

•Máy móc mới hơn và ít chiếm chồ hơn

•Bạn sẽ ít có cảm giác thăng trầm, vui buồn hơn trong từng ngày

•Chạy thận nhân tạo tại nhà th́ công việc điều trị thấy quen thuộc hơn tại trung tâm

•Chế độ dinh dưỡng và chất lỏng sẽ rất giống như b́nh thường

•Bạn có thể mang máy lọc máu di động đó theo bên ḿnh trong những chuyến đu lịch , chuyến cắm trại / dă ngoại hay đi máy bay .

•Bạn có thể dành nhiều thời gian hơn cho người thân yêu của bạn


Nhược Điểm (Cons)
•Bạn phải có 1 người thân cận kề bên ḿnh

•Việc trợ giúp điều trị cho bạn có thể tạo căng thẳng đối với thân nhân của bạn

•Bạn và người thân của bạn phải được huấn luyện

•Bạn cần 1 chỗ trống trải để đặt máy lọc máu và những công cụ tại nhà

•Bạn có thể phải nghỉ việc để hoàn thành khóa huấn luyện.

•Bạn sẽ cần phải học biết cách gài đặt mũi kim chạy thận

•Hằng ngày và ban đêm chạy thận nhân tạo tại nhà chưa được cung cấp tại tất cả các địa điểm.


LÀM VIỆC VỚI NHÓM NGƯỜI CHĂM SÓC SỨC KHỎE CHO BẠN {WORKING WITH YOUR HEALTH CARE TEAM)

Những câu hỏi mà bạn có thể muốn hỏi:
•Có phải chạy thận nhânt ạo là trị liệu lựa chọn tốt nhất cho tôi ? Tại sao ?

• Nếu tôi được điều trị tại 1 trung tâm nào đó, tôi có thể đi đến trung tâm mà tôi chọn không ?

•Tôi nền t́m thấy điều ǵ ở trung tâm chạy thận ?

•Bác sĩ thận của tôi có đến gập tôi ở trung tâm chạy thận không ?

•Chạy thận nhân tạo có cảm giác ra sao ?

•Làm ǵ để tự chăm sóc chạy thận ?

•Có phải chạy thận nhân tạo tại nhà th́ có sẵn trong khu vực tôi cư ngụ? Phải học cách làm trong bao lâu ? Ai sẽ là người đào tạo tôi và thân nhân ?

•Loại truy cập nào vào mạch máu mà tốt nhất cho tôi?

•Khi là một bệnh nhân chạy thận nhân tạo, tôi sẽ có thể tiếp tục làm việc không? Tôi có thể có phương pháp điều trị vào ban đêm không?

•Tôi nên tập thể dục nhiều cỡ bao nhiêu?

•Ai sẽ là người trong nhóm chăm sóc sức khỏe cho tôi ? Làm thế nào những người này có thể giúp tôi?

•Đối với những ai tôi có thể kể lể về những lo ngại về người phối ngẫu (vị hôn phu / hôn thê), lo ngại về t́nh dục , hoặc những lo ngại về gia đ́nh ?

•Làm sao / Nơi nào tôi có thê nói chuyện vớ người khác đă phải đối mặt với quyết định này?


Để biết thêm thông tin về chạy thận nhân tạo, hăy xem cuốn sách NIDDK "Các phương pháp điều trị dành cho Suy Thận: Phương pháp chạy thận nhân tạo. Hoặc xem bảng tổng kết so sánh ba lựa chọn điều trị . (Lynn sẽ gom thời gian phỏng dịch những tài liệu này sau)


SỰ CHỌN LỰA ĐIỀU TRỊ : CHẠY THẬN KHÚC MẠC
(TREATMENT CHOICE: Peritoneal Dialysis)


MỤC ĐÍCH (PURPOSE)

Chạy Thận Phúc Mạc là 1 tiến tŕnh khác mà loại bỏ những chất thải, hóa chất, và lượng nước dư thừa ra khỏi cơ thể bạn . Kiểu thẩm tách / lọc máu này sử dụng màng bụng các bạn, hay khu vục vùng rún /rốn, để lọc máu. Lớp màng này được gọi là màng bụng và đóng vai tṛ như quả thận nhân tạo.

CÁCH CHẠY THẬN PHÚC MẠC HOẠT ĐỘNG RA SAO (HOW PERITONEAL DIALYSIS WORKS)

Một hỗn hợp các khoáng chất và đường được ḥa tan vào trong nước, được gọi là giải pháp thẩm tách /giải pháp lọc máu, đi chuyển qua một ống thông vào trong bụng của bạn. Chất đường được gọi là dextrose lôi kéo / thu thút chất thải, hóa chất, và lượng nước dư thừa từ các mạch máu nhỏ trong màng phúc mạc của bạn đi vào giải pháp thẩm tách / giải pháp lọc máu. Sau vài tiếng đồng hồ, hỗn hợp này được chảy ra khỏi bụng của bạn thông qua đường ống, lấy chất thải từ máu của bạn theo với nó . Sau đó, bụng của bạn được dung nạp lại hỗn hợp mới, và chu tŕnh được lặp đi lặp lại. Quá tŕnh thoát chất lỏng / đung dịch và bơm lại được gọi là một sự trao đổi chất.


UserPostedImage

H́nh ảnh của trang web kidney.niddk.nih.gov về Chạy Thận Phúc Mạc (Peritoneal dialysis).


CHUẨN BỊ SẴN SÀNG (GETTING READY)

Trước lần điều trị đầu tiên của bạn, bác sĩ phẫu thuật sẽ cài đặt một ống thông vào bụng hoặc ngực bạn. Ống thông này có xu hướng làm việc tốt hơn nếu có đủ thời gian, thường từ 10 ngày đến 2 hoặc 3 tuần để vị trí đặt chèn vào cơ thể bạn lành lại . Hoạch định truy cập thẩm tách cho bạn có thể gia tăng sự thành công trong trị liệu. Ống thông này sẽ ở lại vĩnh viễn trong bụng bạn để giúp vận chuyển các hỗn hợp thẩm tách máu đến và đi từ bụng bạn.

CÁC KIỂU CHẠY THẬN PHÚC MẠC / LỌC MÁU (Ở)MÀNG BỤNG( TYPES OF PERITONEAL DIALYSIS )

Ba kiểu chạy thận phúc mạc có sẵn hiện giờ
•Chạy Thận Phúc Mạc Di Chuyển Liên Tục - CAPD ( Continuous Ambulatory Peritoneal Dialysis (CAPD) )
CAPD không cần máy móc và có thể được thực hiện ở bất kỳ nơi sạch sẽ sáng sủa . Với phương pháp CAPD, máu của bạn luôn luông được lọc sạch . Chất hỗn hợp phẩm thách đi qua 1 túi nhựa thông qua ống thông và đi vào bụng bạn, nơi mà nó ở lại đó cho vài giờ với các ống thông được bịt kín. Khoảng thời gian mà hỗn hợp chất thẩm tách ở trong bụng bạn được gọi là thời gian lưu trú ngưng tụ (dwell tim). Tiếp theo, bạn cho hỗn hợp chất thẩm tách chảy vào 1 túi rỗng để vứt bỏ đi. Sau đó, bạn đổ đầy hỗn hợp thẩm tách mới lại vào bụng bạn để quá tŕnh làm sạch có thể bắt đầu lại. Với phương pháp CAPD, hỖn hợp thẩm tách ở lại trong bụng bạn trong khoảng thời gian lưu trú ngưng tụ từ 4 đến 6 tiếng đồng hồ , hoặc hơn . Tiến tŕnh làm chảy ra những hỗn hợp thẩm tách đă được sử dụng qua và thay thế vào hỗn hợp thẩm tách mới tốn khỏng 30 đến 40 phút . Hầu hết mọi người thay đổi hồn hợp thẩm tách ít nhất bốn lần trong một ngày và nằm ngủ với hỗn hợp thẩm tách trong bụng họ vào ban đêm. Với phương pháp CAPD, không cần thiết phải thức giấc và thực hiện những hành động thẩm tách / lọc máu suốt đêm


•Chạy Thận Phúc Mạc Theo Chu Kỳ Liên Tục ( Continuous Cycler-assisted Peritoneal Dialysis (CCPD) )
CCPD sử dụng một máy được gọi là máy điều khiển theo chu kỳ (cycler) để làm đầy và làm rỗng bụng bạn 3-5 lần vào ban đêm khi bạn ngủ. Vào buổi sáng, bạn bắt đầu 1 lần thay đổi (chất hỗn hợp) với 1 khoảng thời gian lưu trú ngưng tụ (Dwell time) mà kéo dài cho nguyên ngày . Bạn có thể thực hiện thêm 1 lần thay đổi (chất hỗn hợp) vào giữa buổi trưa không có máy điều khiển theo chu kỳ để gia tăng số lượng loại bỏ chất thải và giảm bớt số lượng (của) chất lỏng tồn đọng trong cơ thể bạn.


•Sự kết hợp phương pháp CAPD và CCPD (Combination of CAPD and CCPD)
Nếu bạn cân nặng hơn 175 pounds (khoảng hơn 80 kg) hoặc màng lọc ở bụng của bạn đào thải chất thải một cách chậm chạm, có lẽ bạn cần sự kết hợp phương pháp CAPD và CCPD để có được đúng liều lượng chạy thận /lọc máu. Thí dụ, một số người sử dụng máy chu kỳ vào ban đêm mà c̣n thực hiện một lần thay đổi (chất hỗn hợp ) vào ban ngày. Những người khác th́ làm 4 thay dổi (chất hỗn hợp) trong suốt ban ngày và sử dụng 1 máy diều khiển chu kỳ nhỏ để thực hiện 1 hay hơn những thay đổi (chất hỗn hợp ) vào ban đêm . Bạn sẽ phối hợp làm việc với nhân viên y tế chăm sóc bạn để định ra thời khóa biểu tốt nhất cho bạn



AI THỰC HIỆN CHẠY THẬN PHÚC MẠC (WHO PERFORMS PERITONEAL DIALYSIS)

Cả hai kiểu chạy Thận Phúc Mạc thường được thực hiện bởi bệnh nhân không có sự trợ giúp từ người thân . CAPD là 1 h́nh thước tự ḿnh điều trị mà không cần máy móc . Tuy nhiên, với CCPD, bạn cần một bộ máy để ráo chất lỏng / dung dịch và đầy đổ dung dịch lại vào bụng bạn.

NHỮNG BIẾN CHỨNG KHẢ DĨ / NHỮNG BIẾN CHỨNG CÓ THỂ XẢY RA (POSSIBLE COMPLICATIONS)

Vấn đề phổ biến nhất về chạy thận phúc mạc là viêm phúc mạc, một nhiễm trùng nghiêm trọng ở bụng. Nhiẽm trùng này có thể xảy ra nếu chỗ hở / chỗ mở, nơi ống thông đưa vào cơ thể của bạn bị nhiễm trùng hoặc nếu sự nhiễm bẩn xảy ra khi ống thông được kết nối hoặc ngừng kết nối đến từ các túi đựng hỗn hợp dung dịch . Nhiễm trùng ít phổ biến trong ống thông ở trước ức (ngực), được đặt trong ngực. Viêm phúc mạc cần điều trị kháng sinh bởi bác sĩ của bạn .

Để tránh viêm phúc mạc, bạn phải cẩn thận làm theo tiến tŕnh từng bước thật chính xác và học biết cách nhận ra sớm những dấu hiệu viêm phúc mạc, trong đó bao gồm nóng sốt, màu sắc khác thường hoặc sự vẩn đục của chất lỏng đă được sử dụng, và sự tấy đỏ hoặc đau nhức chung quanh ống thông. Hăy tường thuật các dấu hiệu này cho bác sĩ hoặc y tá của bạn ngay lập tức để t́nh trạng viêm phúc mạc có thể được điều trị nhanh chóng để tránh bị thêm vấn đề khác.

DINH DƯỠNG CHO NGƯỜI ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ CHẠY THẬN PHÚC MẠC (DIET FOR PERITONEAL DIALYSIS)

Một chế độ đinhh dưỡng cho người chạy thận phúc mạc th́ hơi khác so với chạy thận nhân tại tại trung tâm chạy thận.
• Bạn sẽ vẫn phải cần giới 1 lượng muối và chất lỏng, nhưng bạn có thể dung nạp nhiều hơn so với người chạy thận nhân tạo tại trung tâm chạy thận nhân tạo.

•Bạn phải ăn nhiều protein (chất đạm) hơn

•Bạn có thể có những hạn chế khác về chất potassium / kali. Thậm chí bạn có thể cần ăn các loại thực phẩm cao potassium /kali

•Bạn có thể cần phải cát giảm số lượng calories khi ăn bởi v́ có calories trong dung dịch thẩm tách có thể khiến bạn tăng trọng lượng cơ thể / khiến bạn mập lên


Bác sĩ và chuyên gia dinh dưỡng sẽ trợ giúp bệnh nhân bệnh suy thật theo khả năng để giúp bạn hoạch định những bữa ăn của bạn

ƯU VÀ KHUYẾT ĐIỂM (PROS AND CONS)

Mỗi kiểu Chạy Thận Phúc Mạc đều có những ưu điểm và nhược điểm (tiện ích và bất lợi).

Chạy Thận Phúc Mạc - CAPD ( Peritoneal Dialysis - CAPD )

Ưu Điểm (Pros)
•Bạn có thể thực hiện phương pháp này 1 ḿnh

•Bạn có thể thực hiện phương pháp này vào những lúc bạn muốn miễn là bạn thực hiện đủ số lượng yêu cầu trao đổi chất mỗi ngày

•Bạn có thể thực hiện phương pháp này ở nhiều nới

•Bạn không cần 1 bộ máy

•Bạn sẽ không có cảm nhận thăng trầm , vui buồn mà nhiều bệnh nhân sử dụng Chạy Thận Nhận tạo cảm nhận

•Bạn không cần phải tốn thời gian đi đến trung tâm 3 lần 1 tuần


Khuyết Điểm (Cons)
•Chạy Thận Phúc Mạc CAPD có thể phá hủy thời khóa biểu hằng ngày của bạn

•Chạy Thận Phúc Mạc CAPD là một điều trị liên tục, và tất cả các thay đổi (hỗn hợp dung dịch) phải được thực hiện 7 ngày một tuần.


Chạy Thận Phúc Mạc - CCPD ( Peritoneal Dialysis - CCPD )

Ưu Điểm (Pros)
•YBạn có thể thực hiện phương pháp này vào buổi tối, chủ yếu là trong khi bạn nằm ngủ

•Bạn được tự do không phải thực hiện việc thay đổi (hỗn hợp dung dịch) trong suốt ban ngày


Khuyết Điểm (Cons)
•Bạn cần 1 bộ máy

•Sự di chuyển của bạn vào ban đêm bị giới hạn do sự kết nối với máy điều khiển chu kỳ


LÀM VIỆC VỚI NHÓM NGƯỜI CHĂM SÓC SỨC KHỎE CHO BẠN {WORKING WITH YOUR HEALTH CARE TEAM)

Những câu hỏi mà bạn có thể muốn hỏi:
•Có phải Chạy Thận Khúc Mạc là lựa chọn điều trị tốt nhất cho tôi ? Tại sao ? Nếy phải, Kiểu nào là tốt nhất ?

•tôi sẽ tốn bao lâu để học hiểu cách làm thế nào để thực hiện Chạy Thận Phúc Mạc ?

•Chạy Thận Khúc Mạc cảm giác ra sao?

•Chạy thận phúc mạc sẽ có ảnh hưởng đến huyết áp của tôi không?

•Làm sao tôi biết nếu tôi có viêm phúc mạc hay không? Làm thế nào điều trị?

•Như là một bệnh nhân chạy thận khúc mạc, liệu tôi có thể tiếp tục làm việc kiếm ăn ?

•Tôi nên tập thể dục nhiều như thế nào ?

•Tôi nên cất giữ những dụng cụ ở đâu ?

•Tôi phải đi gặp bác sĩ của tôi thường xuyên thế nào? Thường bao lâu th́ tôi gặp bác sĩ ?

•Ai sẽ là người trong nhóm chăm sóc sức khỏe cho tôi ? Những người này có thể trợ giúp tôi thế nào ?

•Tôi có thể liên lạc ai khi tôi có vấn đề ?

•Đối với những ai tôi có thể kể lể về những lo ngại về người phối ngẫu (vị hôn phu / hôn thê), lo ngại về t́nh dục , hoặc những lo ngại về gia đ́nh ?

•Làm sao / Nơi nào tôi có thê nói chuyện vớ người khác đă phải đối mặt với quyết định này?


Để biết thêm thông tin về chạy thậnphúc mạc, xem tập sách NIDDK "Các phương pháp điều trị cho Suy Thận: Chạy Thận phúc mạc / Lọc máu màng bụng. Hoặc xem bảng tổng kết về ba cách lựa chọn điều trị.

CHẠY THẬN / LỌC MÁU / THÂM TÁCH KHÔNG PHẢI LÀ 1 ĐIỀU TRỊ KHỎI BỆNH (DIALYSIS IS NOT A CURE)

Chạy thận nhân tạo (Hemodialysis) và chạy thận khúc mạc (peritoneal dialysis) là trị liệu mà trợ giúp thay thế hoạt động quả thận của bạn . Những phương pháp điều trị này giúp bạn cảm thấy tốt hơn và sống lâu hơn, nhưng chững không chữa khỏi suy thận. Mặc dù bệnh nhân suy thận đang sống lâu hơn so với trước đây, trong suốt năm (chạy thận) bệnh thận có thể gây ra các vấn đề như bệnh tim, bệnh xương, viêm khớp, tổn thương thần kinh, vô sinh, và suy dinh dưỡng. Những vấn đề này sẽ không biến mất với việc chạy thận / lọc máu, nhưng hiện giờ các bác sĩ có những phương pháp mới và tốt hơn để pḥng ngừa những vấn đề này . Bạn nên thảo luận về những biến chứng và trị liệu những biến chứng với bác sĩ của bạn

Lynn sẽ phỏng dịch tiếp phần "Sự chọn lựa điều trị : Cấy ghép thận"; "Sự chọn lựa điều trị : Từ chối hay xin ngừng trị liệu " ... v....v... và đặc biệt là sẽ cung cấp bảng so sánh về từng phương pháp điều trị .

florida80
04-12-2019, 17:47
ASPIRIN
Lynn Lynn Phỏng Dịch Từ Thông Tin Từ Website Drugs.com
( ww.drugs.com/aspirin.html )


ASPIRIN LÀ G̀ ?

Aspirin trong một nhóm các loại thuốc gọi là salicylates. Thuốc hoạt động bằng cách giảm bớt chất trong cơ thể mà gây ra đau, sốt, và viêm.

Aspirin được sử dụng để điều trị cơn đau từ nhẹ đến vừa vừa, và cũng để giảm sốt hoặc viêm nhiễm . Thỉnh thoảng nó được dùng đê điều trị hay pḥng ngừa bệnh nhồi máu cơ tim, đột quỵ, và đau thắt ngực muốn nghẹn thở . Aspirin (chỉ) nên được sử dụng cho bệnh trạng tim mạch dưới sự giám sát của bác sĩ.

NHỮNG THÔNG TIN QUAN TRỌNG VỀ ASPIRIN

Aspirin không nên cho trẻ em hay thanh thiếu niên (teanager = 13 - 19 tuổi) khi bị nóng sốt, đặc biệt là nếu trẻ em cũng có triệu chứng bệnh cảm cúm hay bệnh thủy đậu. Aspirin có thể khiến cho bệnh trầm trọng thêm và đôi khi (dẫn đến) t́nh trạng tử vong (fatal condition) gọi là Hội chúng Reye (Reye's syndrome) ở trẻ em.

Phải ngưng sử dụng aspririn và cũng phải gọi bác sĩ của bạn ngay nếu bạn có bất kỳ triệu chứng chảy máu trong dạ dày hoặc đường ruột. Triệu chứng bao gồm là phân có mầu đen, phân có máu, hoặc phân đen như hắc ín, và ho ra máu hay ói mửa mà trông giống như bă cà phê.

Phải tránh uống rượu / beer trong khi bạn đang xử dụng thuốc này . Alcohol (rượu / beer) có thể làm tăng nguy cơ chảy máu dạ dày.

Đôi khi Aspirin được sử dụng để chữa trị hoặc ngăn chận bệnh nhồi máu cơ tim, đột quỵ, và đau thắt ngực (angina = đau thắt ngực muốn nghẹn thở). Aspirin chỉ nên được sử dụng cho bệnh trạng tim mạch dưới sự giám sát của bác sĩ.

TRƯỚC KHI UỐNG ASPIRIN

Aspirin không nên cho trẻ em hay thanh thiếu niên (teanager =13 - 19 tuổi) khi bị nóng sốt, đặc biệt là nếu trẻ em cũng có triệu chứng bệnh cảm cúm hay bệnh thủy đậu. Aspirin có thể khiên cho căn bệnh trầm trọng thêm và đôi khi (dẫn đến) t́nh trạng tử vong (fatal condition) gọi là Hội chúng Reye (Reye's syndrome) ở trẻ em. Không sử dụng thuốc này nếu bạn có dị ứng với aspirin, hoặc nếu bạn có:

•Một bệnh sử mới gần đây về chảy máu dạ dày hay đường ruột

•Một rối loạn xuất huyết như hemophilia (hemophilia = haemophilia = Bệnh rối loạn di truyền khiến máu khó đông do thiếu 1 trong các yếu tố làm đông máu )

•Một dị ứng với NSAID (thuốc chống viêm không có steroidal) như Advil, Motrin, Aleve, Orudis, Indocin, Lodine, Voltaren, Toradol, Mobic, Relafen, Feldene, và những loại thuốc khác.


Trước khi uống aspirin, cần phải thông báo cho bác sĩ nếu bạn có dị ứng với bất kỳ loại thuốc, hoặc nếu bạn có một trong những căn bệnh sau:
•Hen suyễn hoặc dị ứng theo mùa (asthma or seasonal allergies)

•Loét bao tử (stomach ulcers)

•bệnh gan (liver disease)

•bệnh thận (kidney disease)

•Sự chảy máu hoặc sự rối loạn đông máu (a bleeding or blood clotting disorder)

•bệnh tim (heart disease), cao áp huyết (high blood pressure) , hay tim xung huyết thiếu hụt (Congestive heart failure (CHF) = tim không có khả năng làm đủ máu để bơm)

•bệnh thống phong (gout)

•Những bướu (nhỏ) lành tính ở mũi (nasal polyps).


Nếu bạn có bất kỳ trạng thái nào trong các t́nh trạng / căn bệnh kể trên, bạn nên cần sự điều chỉnh liều lượng hoặc những xết nghiệm đặc biệt để xủ dụng aspirin an toàn

Nếu bạn đang dùng aspirin để ngăn ngừa nhồi máu cơ tim hay đột quỵ, cũng cần tránh dùng ibuprofen (Advil, Motrin). Ibuprofen có thể làm cho aspirin giảm hiệu quả trong việc bảo vệ tim và mạch máu. Nếu bạn phải sử dụng cả hai loại thuốc, dùng ibuprofen ít nhất 8 đồng hồ trước hoặc 30 phút sau khi bạn dùng aspirin (Loại aspirin không có lớp vỏ bao enteric). Aspirin có thể làm thương tổn cho trái tim của em bé chưa ra đời, và cũng có thể làm giảm trọng lượng của trẻ sơ sinh hoặc có những ảnh hưởng nguy hiểm khác. Hăy báo cho bác sĩ nếu bạn đang mang thai hay dự định mang thai, trong khi bạn đang dùng thuốc aspririn. Aspirin có thể đi vào sữa mẹ và có thể gây tổn hại cho trẻ bú sữa mẹ . Không được sử dụng thuốc này mà không nói cho bác sĩ của bạn nếu bạn đang cho con bú.

Lynn Ly Chú Thích:

Đột Quỵ (Stroke) đồng nghĩa với Tai Biến Mạch Máu Năo (Accident vasculaire cerebral) và có phân loại theo nguyên nhân gây bệnh.

Xem Thêm :•Cấp cứu nội thần kinh : Đột Quỵ/Tai Biến Mạch Máu Năo để hiểu chi tiết các loại Đột Quỵ được phân ra theo nguyên nhân gây bệnh
•Sử Dụng Aspirin hằng ngày : Những hung hiểm và những lợi ích

florida80
04-12-2019, 17:48
Aspirin đối với Bệnh Nhân bị Đột Quỵ Do Thiếu Máu Cục Bộ Cấp Tính
(Aspirin in Patients with Acute Ischemic Stroke)
Bác Sĩ Danny Nguyễn tóm tắt thông tin từ website American Family Physician
( ww.aafp.org/afp/2009/0201/p226.html )


Câu hỏi lâm sàng: Aspirin có giảm sự tử vong (mortality) hoặc morbidity trong bệnh nhân bị Đột Quỵ Do Thiếu Máu Cục Bộ cấp tính không ?

Câu trả lời dựa trên chứng cứ y khoa:
- Aspirin khoảng 160-300 mg trong ṿng 48 tiếng đồng hồ đầu tiên giảm sự tử vong và morbidity trong Đột Quỵ Do Thiếu Máu Cục Bộ cấp tính.
- Aspirin có hiệu quả tương tự với các thuốc giảm đông máu (anticoagulant) và có ít phản ứng phụ hơn. Tuy nhiên không nên dùng Aspirin trong khi bệnh nhân đang dùng thuốc tan máu (thrombolytic therapy)
- Ibuprofen (Motrin) có thể giảm tác dụng của Aspirin trong Đột Quỵ Do Thiếu Máu Cục Bộ cấp tính

Tổng kết của chứng cứ : dựa trên tổng kết của 9 cuộc điều tra khoa học của 41,399 bệnh nhân

Đề nghị:
- Hiệp Hội Tim Hoa Kỳ và Hiệp Hội Đột Quỵ Hoa Kỳ đề nghị dùng Aspirin 325 mg trong khoảng 24-48 tiếng đồng hồ sau khi bị tai biến mạch máo năọ Tuy nhiên không được dùng trong ṿng 24 tiếng của thuốc tan máu (thrombolytic therapy).
- Hội Bác Sĩ Lồng Ngực Hoa Kỳ đề nghị Aspirin 160-325 mg trong ṿng 48 tiếng đồng hồ trong những bệnh nhân không được điều trị bằng thuốc tan máụ
- Cơ quan Quản Lư Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ cảnh cáo rằng không nên dùng Ibuprofen với Aspirin lượng thấp tại v́ có ảnh hưởng tới antiplatelet effect. Tuy nhiên, nếu dùng ibuprofen ít nhất 8 tiếng trước khi hoặc 30 phút sau khi dùng aspirin 81 mg loại tan nhanh (immediate release) th́ khả năng ảnh hưởng sẽ ít đị Các loại thuốc NSAIDs khác cũng có thể có tác dụng tương tự

Lời b́nh của tác giả: Aspirin giảm sự tử vong và các chứng đột quỵ xảy ra liên tiếp. Tại v́ Aspirin rẻ và ít có phản ứng phụ, v́ vậy nên dùng trong các trường hợp trên (có thể dùng 1-2 ngày sau khi dùng thuốc tan máu). Tuy nhiên các Bác Sĩ nên để ư các chi tiết khác như huyết áp ổn định, thuốc statin, ngưng thuốc lá có ảnh hưởng tốt gấp 3 lần nếu so sánh với Aspirin.

Lynn Ly hiệu chính phỏng dịch cụm từ Acute Ischemic Stroke từ "Tai Biến Mạch Máu Năo Cấp Tính" của bác sĩ Danny Nguyễn thành "Đột Quỵt do Thiếu Máu Cục Bộ Cấp Tính" cho sát ư tưởng của từ ngữ của nguồn thông tin . Bởi v́ thông dịch chính xác th́ phải là :
•Acute Ischemic Stroke = "Đột Quỵ do Thiếu Máu Cục Bộ Cấp Tính"

•Acute Ischemic Accident vasculaire cerebral = "Tai Biến Mạch Máu Năo do Thiếu Máu Cục Bộ Cấp Tính"
Điều đáng lưu ư , Đột Quỵ đồng nghĩa với Tai Biến Mạch Máu Năo và có phân loại theo nguyên nhân gây bệnh. Nhưng trên Y Văn th́ có viết khác biệt.

florida80
04-12-2019, 17:49
Sử Dụng Aspirin hằng ngày : Những hung hiểm và những lợi ích
(Daily aspirin: Risks and benefits, By Michelle Roberts )
Lynn Ly phỏng dịch bài viết ww.bbc.co.uk/news/health-17445676


Theo BBC News, ngày 20, tháng 3, 2012

Uống một lượng nhỏ aspirin hàng ngày có liên quan đến việc giảm nguy cơ ung thư. Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng vẫn c̣n quá sớm để bắt đầu giới thiệu thuốc này cho bệnh nhân. V́ vậy, những rủi ro và lợi ích của thuốc này là ǵ?

Aspirin là thuốc ǵ ?

Aspirin (acetylsalicylic acid) đă được sử dụng trong nhiều năm như một chất giảm đau. Thuốc này có hoạt tính chống viêm, và được sử dụng để làm giảm đau đầu, đau bụng do kinh nguyệt và đau nhức cơ bắp. Gần đây thuốc này đă đang được chỉ định cho những bệnh nhân có những yếu tố nguy cơ về tim mạch để làm giảm nguy cơ đột quỵ (stroke) và nhồi máu cơ tim (heart attack)

Thuốc có tác dụng ra sao ?

Thuốc trợ giúp ngăn ngừa "huyết khối"(blood clots = huyết khối, cục máu đông ) h́nh thành trong mạch máu, thuốc ngăn chận các tế bào trong máu được gọi là tiểu cầu (platelets) dính lại với nhau và làm tắc động mạch

Tại sao sử dụng Aspirin ở liều lương nhỏ ?

Các chuyên gia nước Anh đề nghị liều lượng 75mg để pḥng chống bệnh tim mạch. Liều lượng này ít hơn nhiều so với liều lượng sử dụng như 1 chất giảm đau, bởi v́ uống aspirin hàng ngày th́ gia tăng hung hiểm về những phản ứng phụ thí dụ như xuất huyết nội bộ / xuất huyết bên trong cơ thể (internal bleeding) .

Những hung hiểm ǵ ?

Việc điều trị dùng thuốc aspirin liều thấp được liên hệ đến sự gia tăng rất nhỏ trong những nguy cơ chính yếu về xuất huyết bao tử và xuất huyết năo . Một số công tŕnh nghiên cứu cho thấy rằng 1 người trong số 769 người được điều trị bằng aspirin liều thấp th́ bị thương tổn do xuất huyết nặng .

Chúng ta biết ǵ về việc dùng thuốc aspirin để ngăn ngừa ung thư?

Một số nghiên cứu đă cho thấy aspirin có thể pḥng ngừa ung thư. Công tŕnh mới nhất của tạp chí The Lancet khi xem xét 51 cuộc nghiên cứu có hơn 77.000 người tham gia đă đề nghị thuốc aspirin không chỉ làm giảm nguy cơ phát triển ung thư của một người, mà cũng có thể giúp các bệnh ung thư ngừng lan rộng trên khắp cơ thể.

Những ai nên dùng Aspirin hàng ngày?

Các chuyên gia cho rằng vẫn không có đủ bằng chứng để khuyên những người khỏe mạnh dùng thuốc aspirin để pḥng ngừa căn bệnh ung thư. Tương tự, không được đề nghị những người khỏe mạnh uống Aspirin để ngăn ngừa bệnh tim mạch bởi v́ những hung hiểm về tác dụng phụ nguy hiểm của thuốc, cho dù t́nh huống bị ảnh hưởng tác dụng phụ thấp , nhưng khi tổn hại xuất hiện th́ thường lớn hơn là lợi ích từ thuốc

Thuốc Aspirin sử dụng hằng ngày với liều lượng thấp chỉ được đề nghị cho những người được xem là có nguy cơ bị nhồi máu cơ tim (heart attack) hoặc đột quỵ (stroke).

Tuy nhiên, các chuyên gia nói rằng thật giá trị khi khám phá những lợi ích của việc sử dụng aspirin hằng ngày đối với bệnh nhân ung thư, như bệnh nhân bị ung thư ruột

Bất cứ ai dự tính sử dụng aspirin (liều lượng thấp hằng ngày), trước tiên cần nên tham vấn với bác sĩ của họ .

Lynn Ly (20/03/2012)

florida80
04-12-2019, 17:49
ASPIRIN CÓ THỂ 'LÀM CHẬM LẠI SỰ SUY GIẢM NĂO BỘ', NGHIÊN CỨU PHÁT HIỆN
(ASPIRIN MAY 'SLOW ELDERLY BRAIN DECLINE', STUDY FINDS)
Lynn Ly phỏng dịch thông tin từ nhật báo BBC
(http://www.bbc.com/news/health-19819065)


Theo nhật báo BBC, Ngày 04 tháng 10, 2012
Phóng viên Y Tế của nhật báo BBC: Anna-Marie

Một viên aspirin mỗi ngày có thể làm chậm lại sự suy thoái năo bộ ở phụ nữ cao niên có nguy cơ cao mắc bệnh tim mạch, nghiên phát hiện vậy.

Trong khoảng 500 phụ nữ có nguy cơ (về bệnh tim mạch), khoảng độ tuổi 70 đến 92, đă được theo dơi trong ṿng 5 năm - năng lực tâm thần của họ đă được thử nghiệm từ lúc bắt đầu và lúc kết thúc cuộc nghiên cứu.

Những người dùng aspirin trong toàn bộ khoảng thời gian thử nghiệm đă cho thấy điểm số của họ suy giảm ít hơn nhiều hơn so với những người không dùng thuốc.

Cuộc nghiên cứu của Thụy Điển được báo cáo trong tạp chí BMJ Open. (the journal BMJ Open)

Bác Sĩ / Tiến Sĩ Silke Kern, một trong những tác giả của bài viết, cho biết: "Không giống như các quốc gia khác - Thụy Điển là duy nhất, nơi không có thông lệ điều trị những phụ nữ có nguy cơ cao về mắc bệnh tim mạch và đột quỵ bằng aspirin . Điều này có nghĩa là chúng tôi đă có một nhóm tốt cho việc so sánh."

Những phụ nữ này đă được thử nghiệm bằng cách sử dụng một xét nghiệm nho nhỏ về trạng thái tâm thần (a mini mental state exam = MMSE) - Việc này kiểm tra năng lực trí tuệ (intellectual capacity) và bao gồm các câu hỏi định hướng (orientation questions) giống như , "ngày hôm nay là ǵ?" ", "Chúng ta ở đâu hôm nay ?" và những thử nghiệm trực giác (visual-spatial tests = không gian thị giác = trực giác) như việc vẽ ra hai mối liên kết giữa các cạnh ngũ giác (two interlinking pentagons).

KHÔNG TỰ ĐIỀU TRỊ ( NO SELF-MEDICATION).

Tuy nhiên, bài báo cáo cho thấy trong khi aspirin có thể làm chậm lại những thay đổi trong khả năng nhận thức (cognitive ability) ở phụ nữ có nguy cơ cao về nhồi máu cơ tim (heart attack)hoặc đột quỵ (stroke), Thuốc đă không tạo sự khác biệt về tốc độ ở những phụ nữ đă phát triển bệnh suy giảm trí tuệ (dementia) - sự kiện này cũng được kiểm tra bởi chuyên gia nghiên cứu thuốc men ở lănh vực rối loạn tâm thần do những căn bệnh thuộc hệ thấn kinh (neuropsychiatrist = a specialist who works in the branch of medicine dealing with mental disorders attributable to diseases of the nervous system).

Bác Sĩ/ Tiến sĩ Simon Ridley, người đứng đầu cuộc nghiên cứu tại viện nghiên cứu bệnh mất trí nhớ ở Anh Quốc (Alzheimer's Research UK), cho biết: "Những kết quả này cung cấp sự hiểu biết sâu sắc đầy thú vị về tầm quan trọng của sức khỏe tim mạch trong sự nhận thức, nhưng chúng tôi sẽ thúc giục mọi người không tự trị liệu bằng thuốc aspirin để cố gắng ngăn chặn căn bệnh sa sút trí tuệ.

"Những báo cáo nghiên cứu cho là không có lợi ích từ aspirin về toàn thể tỷ lệ sa sút trí tuệ , và việc điều tra về các thử nghiệm trước kia là tiềm năng của các loại thuốc giống như aspirin đối chứng sa sút trí tuệ hiện đă bị vô hiệu ".

Bác Sĩ / Tiến sĩ Kern nói thêm: "Chúng tôi không biết những rủi ro lâu dài của việc dùng aspirin thường xuyên . Thí dụ sự lở loét và chảy máu nghiêm trọng có thể đă đặt nặng hơn những lợi ích chúng ta đă nh́n thấy . Cần thiết thực hiện nhiều nghiên cứu thử nghiệm hơn . Chúng tôi sẽ theo dơi những phụ nữ trong cuộc nghiên cứu này một lần nữa trong 5 năm (tới). "

Lynn Ly (04/10/2012)


Quote:
Lynn Ly chú thích:

Dựa trên thông tin cập nhật này , th́ công hiệu và lợi ích của Aspirin càng ngày càng được khẳng định . Chính thông tin này cũng đă "vô hiệu hóa" các thông tin trước đây khi tuyên bố là aspirin không có lợi ích về chứng sa sút trí tuệ ở người bị nguy cơ tim mạch .

Aspirin đươc thử nghiệm và cho kết quả pḥng chống nguy cơ tim mạch , có tác dụng ngăn chận tế bào ung thư , và nay cho thêm tác dụng về làm chậm lại chứng suy thoái trí tuệ . Tác dụng lợi ích của nó ngày càng được phát hiện rơ ràng và lấn áp dần những lo ngại về tác dụng phụ là lở loét bao tử và gây chảy máu nghiêm trọng , khi tác dụng phụ của Aspirin hiện giờ đang được nhiều công ty dược phẩm khống chế trong bào chế thuốc aspirin with stomach guard .

florida80
04-12-2019, 17:50
THÔNG TIN Y HỌC VỀ SỬ DỤNG ASPIRINE

Lynn Ly tổng hợp thông tin về sử dụng Aspirine
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh



THỜI SỰ Y HỌC SỐ 27 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (20/5/200)

8/ TÁC DỤNG BẢO VỆ CỦA ASPIRINE.

Dùng aspirine với liều lượng nhỏ cải thiện rất rơ rệt khả năng sống sót sau một nhồi máu cơ tim và một tai biến mạch máu năo. Thật vậy, được cho trong giai đoạn cấp tính của một nhồi máu cơ tim, th́ cứ mỗi 1000 bệnh nhân được điều trị trong tháng đầu tiên của trị liệu, aspirine sẽ ngăn ngừa 38 trường hợp tai biến mạch máu và 23 trường hợp tử vong có nguồn gốc huyết quản. Đối với các tai biến mạch máu năo, th́ cứ mỗi 1000 bệnh nhân được điều trị, aspirine được cho ở giai đoạn cấp tính sẽ ngăn ngừa 9 tai biến mạch máu nghiêm trọng. Do đó, aspirine phải được cho nơi mỗi bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim và tai biến mạch máu năo là điều rất hợp lư.

Nhưng chỉ định của aspirine không chỉ có thế mà thôi.bởi v́ aspirine cũng có tác dụng pḥng ngừa thứ cấp các huyết khối (thrombose). Được sử dụng cho 1000 bệnh nhân có tiền sử nhồi máu cơ tim hoặc tai biến mạch máu năo, aspirine trung b́nh ngăn ngừa từ 15 đến 18 trường hợp huyết khối tái phát mỗi năm. Đối với những bệnh nhân có nguy cơ cao như cơn đau thắt ngực, tiền sử angioplastie, thấm tách máu (hémodialyse), đái đường, hẹp động mạch cổ (sténose carotidienne), aspirine cũng có lợi ích tương tự (ngăn ngừa hơn 10 tai biến cho mỗi 1000 bệnh nhân được điều trị trong 1 năm).

Sau cùng, aspirine cũng có thể được sử dụng trước khi huyết khối động mạch xảy ra, trên những bệnh nhân không có tiền sử huyết khối (pḥng ngừa nguyên phát).

6 công tŕnh nghiên cứu rộng răi đă đánh giá các lợi ích và các nguy cơ khi điều trị pḥng ngừa bằng aspirine. Tất cả các nghiên cứu này đă chứng tỏ rơ ràng rằng những lợi ích của việc dùng aspirine và sự giảm nguy cơ bị huyết khối càng quan trọng khi bệnh nhân càng kiêm nhiệm nhiều yếu tố nguy cơ. Tuy nhiên, quyết định điều trị nguyên phát bằng aspirine phải dựa trên sự tính toán hơn thua giữa các lợi ích của điều trị và các biến chứng có thể xảy ra do phép điều trị này.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 4/5/2007)

9/ CHÚNG TA CÓ THỂ NGƯNG CHO ASPIRINE?

Những trường hợp cần phải ngưng sử dụng aspirine không phải là hiếm. Nhất là những động tác can thiệp ngoại khoa hay những thủ thuật gây nhiều xuất huyết. Tuy nhiên ngừng cho aspirine không phải là không có những nguy cơ. Ngoại trừ một vài loại phẫu thuật (tiền liệt tuyến, hệ thần kinh), hầu hết các can thiệp ngoại khoa và các thủ thuật có thể được thực hiện với một liều lượng nhỏ aspirine (100 mg mỗi ngày).

Nếu phải ngừng cho aspirine trước phẫu thuật, cần phải xét đến nhip độ hồi phục của các tiểu cầu (10% mỗi ngày). Do đó nên ngừng cho aspirine 5 ngày trước khi can thiệp ngoại khoa và sau đó sử dụng trở lại càng nhanh càng tốt.

Trái với aspirine, clopidogrel thường được ngừng cho trước mọi phẫu thuật ngoại trừ angioplastie percutanée.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 4/5/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 35 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 17/7/2007 )

8/ ASPIRINE VÀ PH̉NG NGỪA UNG THƯ ĐẠI TRÀNG

Uống aspirine 300mg mỗi ngày suốt trong 5 năm sẽ bảo vệ chống lại sự phát sinh ung thư đại tràng 10 năm sau đó. Đó là kết quả của công tŕnh nghiên cứu được điều hành bởi John A. Baron thuộc Dartmouth Medical School (Hoa Kỳ). Mặc dầu việc sử dụng aspirine mỗi ngày dường như là một cách tốt đề pḥng ngừa một trong những khối u ác t́nh thường xảy ra nhất, tuy nhiên các nhà ung thư học không khuyên uống aspirine v́ mục đích này cho tất cả mọi người: việc uống aspirine lâu dài có thể gây nên xuất huyết dạ dày và ruột. Chỉ những người có nguy cơ cao bị ung thư đại tràng mới phải uống mà thôi
(SCIENCE ET VIE 7/2007)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 96 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 10/10/2008 )

8/ UỐNG MỘT VIÊN THUỐC NHỎ ASPIRINE MỖI NGÀY CÓ BẢO VỆ CHỒNG LẠI BỆNH NHỒI MÁU CƠ TIM ?

Trước hết phải xác nhận rằng việc điều chỉnh toàn bộ các yếu tố nguy cơ của bệnh động mạch vành phải là điều chủ yếu. Nếu không có những yếu tố nguy cơ th́ việc uống aspirine mỗi ngày đă không được chứng tỏ là có một lợi ích ǵ, trong khi đó vẫn có những tác dụng phụ có thể xảy ra. Những phản ứng phụ này chủ yếu rối loạn dạ dày tá tràng và khả năng chảy máu kéo dài trong trường hợp bị vết thương hay nhổ răng. Nghiêm trọng hơn là xảy ra, nhưng hiếm, một loét dạ dày và, rất ngoại lệ, một xuất huyết dạ dày-ruột hay năo .

Trái lại, nơi những người với tiền sử tai biến tim mạch (nhồi máu, tai biến mạch máu năo, can thiệp trên các động mạch vành, viêm động mạch ngoại biên) hay có một nguy cơ gia tăng rơ rệt bị biến chứng động mạch vành căn cứ trên profil nguy cơ của họ, những lợi ích của vai tṛ bảo vệ của aspirine vượt trội những bất lợi liên quan với những tác dụng phụ này. Ngay ở những người với nguy cơ thấp, vai tṛ pḥng ngừa những tai biến tim mạch bởi aspirine được chứng minh trên cơ sở những kết quả của một phân tích méta của 6 công tŕnh nghiên cứu, với một sự giảm tỷ lệ nguy cơ bị nhồi máu 23%. Để làm giảm những tác dụng phụ, cần uống mỗi ngày một viên aspirine nồng độ thấp (từ 75 đến 100 mg). Liều lượng này đủ để kiểm soát t́nh trạng tăng đông huyết của máu, vừa làm giảm thiểu nguy cơ bị các biến chứng. Chúng ta cần biết rằng vài loại thuốc có thể cản tác dụng của aspirine, như vài chất kháng viêm. Chính v́ lẽ đó luôn luôn cần hỏi ư kiến BS gia đ́nh của ḿnh.

Vẫn c̣n hai câu hỏi không được giải quyết :

Xét v́ khả năng gây ra những phản ứng phụ tuy thấp nhưng có thật, thế th́ có nên cho aspirine trong trường hợp nguy cơ tim mạch thấp hay không ? Chúng ta sẽ đợi những kết quả của một công tŕnh nghiên cứu lớn (ARRIVE) hiện đang được tiến hành, rồi mới phát biểu.

Câu hỏi khác : Aspirine có phải uống một cách vô hạn định hay không ?

Có lẽ vâng, v́ lẽ ngay ở những người mà những yếu tố nguy cơ được kiểm soát tốt, nguy cơ tai biến tim mạch c̣n lại vẫn cao so với những người không có yếu tố nguy cơ. Ngừng điều trị (thí dụ lúc phẫu thuật, nhổ răng, đục thủy tinh thể) sẽ không bao giờ được làm mà không có ư kiến của thầy thuốc, và không được quên uống trở lại aspirine ngay khi có thể được (thường ngay sáng hôm sau sau phẫu thuật).

Thật vậy, một phân tích méta trên 50.000 bệnh nhân đă cho thấy rằng những người ngừng điều trị một cách không cân nhắc có một nguy cơ tai biến tim mạch nhân lên 3 lần. Những kết quả tương tự có thể xảy ra trong trường hợp uống thuốc không đều đặn. Điều này đặc biệt đúng đối với những người mang một stent động mạch.
(COEUR ET ARTERES 9/2008)


THỜI SỰ Y HỌC SỐ 142 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 9/9/2009 )

4/ ASPIRINE LÀM GIẢM 29% TỶ LỆ TỬ VONG 29%.

Theo JAMA số 12/8 vừa qua, sự sử dụng hàng ngày acide acétylsalicylique làm giảm tỷ lệ tử vong do ung thư đại-trực tràng và tỷ lệ tử vong chung, nhất là nơi những người có khối u siêu biểu hiện COX-2. Từ nay vấn đề pḥng ngừa nơi những người trên 50 tuổi được đặt ra.

Theo một vài nhà sử học, aspirine c̣n xưa hơn cả Hippocrate. Các trích chất của cây dương liễu chứa hoạt chất của nó, đă được sử dụng vào thời đại đồ đá mới (Néolithique), do các tính chất chống đau, kháng viêm và hạ nhiệt. Chính vào năm 1899 mà aspirine được thương măi hóa lần đầu tiên và từ đó danh sách các lợi ích của nó ngày mỗi dài ra. Lợi ích sau cùng là hoạt tính chống tiểu cầu (activité antiplaquettaire).

Với những liều lượng nhỏ (giữa 75 và 300 mg/ ngày, tùy theo các công tŕnh nghiên cứu), các tính chất chống ngưng kết (propriétés antiagrégantes) của nó ngăn ngừa một cách hiệu quả sự tạo thành những cục máu đông trong các huyết quản mà không gây nên thương tổn đáng kể. Đồng thời, từ nhiều năm nay, một số các công tŕnh nghiên cứu đă muốn chứng tỏ lợi ích về lâu về dài của nó trong vài ung thư như vú, tiền liệt tuyến, miệng, họng, thực quản, đại-trực tràng và dạ dày.

V́ các liều lượng được chỉ định luôn luôn có thể gây nên xuất huyết dạ dày hay ruột, nên sự sử dụng nó đă không bao giờ được chính thức khuyến nghị để pḥng ngừa nguyên phát hay thứ phát trong dân chúng nói chung. Nhưng, hôm nay, các dữ kiện thuận lợi tích lũy đến độ vài chuyên gia đặt lại vấn đề. Đứng trước một ung thư phát triển thầm lặng, với một tỷ lệ sống tùy thuộc vào mức độ nhanh chóng của sự can thiệp, th́ há không nên sử dụng hay sao một hoá học liệu pháp đơn giản, hiệu quả và ít tốn kem, dầu phải chịu vài tác dụng phụ có thể xử lư được ?

TỶ LỆ TỬ VONG GIẢM 29%.

Mối liên hệ giữa aspirine và ung thư đại-trực tràng không phải mới có từ hôm qua. Ngay vào năm 2005, một công tŕnh nghiên cứu được thực hiện trên 82.911 phụ nữ được đưa vào trong cuộc điều tra dịch tễ học “ Nurses’ Health Study ”, được theo dơi từ 1980 đến 2000, đă cho thấy rằng những phụ nữ uống đều đặn 325 mg aspirine, hai lần mỗi tuần, đă có một sự giảm 23% nguy cơ mắc phải ung thư đại-trực tràng, so với những phụ nữ không uống đều đặn. Vào thời kỳ này, người ta đă nhấn mạnh rằng sự giảm nguy cơ chỉ đáng kể bat đầu từ 10 năm sử dụng và liên kết với liều lượng. Trong những trường hợp thái quá, các phụ nữ đă uống hơn 10 liều aspirine mỗi tuần trong 10 năm có nguy cơ bị ung thư giảm 53%.

Năm 2007, một công tŕnh nghiên cứu của Anh, tiến hành trên 7.500 người giữa năm 1970 và đầu của những năm 80, với một theo dơi 10 năm, tương ứng với một thời gian tối thiểu để một adénome phát triển thành ung thư, gợi ư rằng sự sử dụng mỗi ngày 300 mg aspinrine là một yếu tố bảo vệ chống lại ung thư đại-trực tràng. Những kết quả đă cho thấy rằng tỷ lệ mắc bệnh ung thư đại• trực tràng nơi những người có nguy cơ được giảm 73% dưới aspirine, với một tác dụng phụ thuộc vào thời gian điều trị, liều lượng, sự tôn trọng uống thuốc của bệnh nhân.

Trong công tŕnh nghiên cứu mới này, nhôm cửa Andrew Chan (Haward Medical Scholl) đă theo dơi hai nhóm 1.279 bệnh nhân bị ung thư đại-trực tràng ở những giai đoạn trầm trọng khác nhau, được điều trị và được theo dơi trong 12 năm, giữa năm 1980 và 2008 ; 43% trong số những bệnh nhân này uống aspirine mỗi ngày sau khi ung thư được chẩn đoán. Kết quả cho thấy rằng việc sử dụng aspirine mỗi ngày làm giảm 29% tỷ lệ tử vong gây nên bởi ung thư đại-trực tràng và làm giảm 21% tỷ lệ tử vong toàn thể.

Mối liên hệ giữa aspirine và quá tŕnh sinh ung thư là mối liên hệ nào ? Ngày nay, chúng ta biết rằng aspirine ngăn cản sự tăng trưởng khối u bằng cách ức chế một enzyme (COX-2), chịu trách nhiệm phản ứng viêm và sự tăng sinh của các tế bào và được siêu biểu hiện trong phần lớn của các ung thư đại trực
• tràng. Bằng cớ là trong một nhóm phụ gồm những bệnh nhân có cả khối u COX-2 dương tính được nhận diện bởi histochimie, nguy cơ tử vong do ung thư đại-trực tràng là 61% thấp hơn nơi những bệnh nhân uống aspirine so với những người không uống.

GIỮA PH̉NG NGỪA VÀ NHỮNG TÁC DỤNG PHỤ.

Nhiều công tŕnh nghiên cứu quan sát và các thử nghiệm lâm sàng đă xác lập lợi ích của aspirine trong việc pḥng ngừa các adénome và polype có nguy cơ. Tuy nhiên không có những lời khuyến nghị chính thức về sự pḥng ngừa này, có lẽ là do những tác dụng phụ được biết của aspirine như kích thích dạ dày-ruột và xuất huyết đường tiêu hóa. Vậy có phải v́ thế mà phải bỏ ư tưởng hay theo đuổi nó ?

Đối với G.S André Van Gossum (thầy thuốc chuyên khoa dạ dày-ruột của bệnh viện Erasme, Bỉ), “ Từ nhiều năm nay ư tưởng này đă được tiếp tục theo đuổi nhưng hiện nay, ở bệnh viện Erasme cũng như nơi khác ở Bỉ, aspirine không được đề nghị cho các bệnh nhân để pḥng ngừa nguyên phát hay thứ phát. Tuy nói vậy, nhưng sự tích lũy của các dữ kiện khiến một ngày nào đó sẽ phải tự nêu câu hỏi về tỷ suất giữa lợi ích và nguy cơ, trên quy mô dân chúng, theo những ǵ được thực hiện trong pḥng ngừa các bệnh tim mạch. Trước hết, chúng ta có thể h́nh dung nhắm đến các bệnh nhân có nguy cơ ung thư không có chống chỉ định về tiêu hóa hoặc thận. Trong trường hợp này, việc sử dụng aspirine nơi những người 50 tuổi thật là nhất cử lưỡng tiện ! ”.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 28/8/2009)


THỜI SỰ Y HỌC SỐ 143 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 20/09/2009 )

3/ CẢNH CÁO MỚI CHỐNG ASPIRINE.

CARDIOLOGIE. Theo một công tŕnh nghiên cứu của Ecosse, nơi những người lành mạnh, việc sử dụng hàng ngày có nhiều nguy cơ hơn là lợi ích.

Lại một đợt mới trong câu chuyện dài tranh căi chung quanh aspirine. Nơi những người mạnh khỏe, uống aspirine mỗi ngày với những liều lượng nhỏ để ngăn ngừa các tai biến tim-mạch chỉ làm gia tăng các nguy cơ xuất huyết, các thầy thuốc Ecosse đă đánh giá như vậy. Công tŕnh nghiên cứu của họ, được tiến hành nơi 3.300 người không có những tiền sử lớn về tim trong hơn 8 năm, vừa được tŕnh bày ở hội nghị của Hiệp hội tim học châu Âu, diễn ra ở Barcelone.

Từ khi được thương măi hóa, cách nay hơn 100 năm, danh sách các lợi ích tiềm tàng của thuốc chống đau này không ngừng dài ra. Lại gần đây, các người Mỹ đă đưa ra những lợi ích của một sự tiêu thụ hàng ngày trên tỷ lệ sống c̣n của những bệnh nhân bị ung thưa đại-trực tràng. Về các tính chất chống kết tụ của aspirine (làm loăng máu), chúng đă được xác lập một cách rộng răi nơi những người có nguy cơ tim mạch cao, bị cơn đau thắt ngực (angine de poitrine) hay có những tiền sử về nhồi máu cơ tim hay tai biến mạch máu năo.

Lợi ích pḥng ngừa được bàn căi hơn nơi những người lành mạnh, v́ lẽ lợi ích này phải được cân bằng với những nguy cơ xuất huyết gây nên bởi aspirine, đặc biệt là ở dạ dày-ruột. Mặc dầu những điều không chắc chắn này, càng ngày càng có nhiều người tự ư muốn thử uống aspirine mỗi ngày với liều lượng nhỏ.

Ư tưởng của G.S Gerry Fowkes (đại học Edimbourg) là nghiên cứu những tác dụng về lâu về dài của một tiêu thụ như thế nơi những người không có triệu chứng ǵ hết, nhưng được xem như là có nguy cơ gia tăng bị bệnh tim mạch. Để nhận diện ra họ, các thầy thuốc écosse đă căn cứ trên những kết quả của một thăm khám đơn giản, chỉ số huyết áp thu tâm (index de pression systolique) (tỷ số giữa huyết áp được đo ở mắc cá chân và ở cánh tay). Trắc nghiệm này cho phép phát hiện chúng viêm động mạch chi dưới trước khi được biểu hiện bằng những cơn đau đớn.

Trong số 30.000 người tuổi từ 50 đến 75, phát xuất từ dân chúng nói chung, khoảng 3.350 đă được nhận diện. Trong 8 năm, những người này đă nhận mỗi ngày 100 mg (5-10 lần ít hơn so với liều lượng được sử dụng trong trường hợp đau đớn thông thường) hay một placebo. Cả thầy thuốc lẫn bệnh nhân đă không biết thuốc ǵ đă được cấp cho bệnh nhân. Cuối cuộc thử nghiệm, những người được cho aspirine về mặt thống kê đă có số lượng những biến cố tim mạch (tai biến mạch máu năo, nhồi máu cơ tim…) giống với những người đă dùng placebo. Rơ ràng, thuốc chống ngưng kết (aspirine) đă không có một tác dụng bảo vệ nào. Ngoài ra, 2% các bệnh nhân của nhóm aspirine đă phải bị nhập viện v́ những xuất huyết nặng, so với chỉ 1,2% của những người chứng.

CUỘC BÀN CĂI CHƯA CHẤM DỨT.

GS Fowkes nhấn mạnh rằng 40% các cá nhân đă không uống thuốc aspirine đều đặn. Theo ông , sự tuân thủ điều trị kém này có thể giải thích sự không có bảo vệ tim mạch, nhưng không có thể tính đến điều đó, bởi v́ nó tương ứng với bộ phận được gặp trong đời sống thật sự hàng ngày, đó là những điều trị pḥng ngừa.

Đối với G.S Peter Weissberg, giám đốc y tế của British Heart Foundation, người đă giúp đỡ tài trợ công tŕnh này, những kết luận của ông “ nhất trí với những lời khuyến nghị của chúng tôi hiện nay, theo đó những người đă không được chẩn đoán có một bệnh mạch máu hay tim và không có những triệu chứng, không nên sử dụng aspirine bởi v́ nguy cơ xuất huyết có thể quan trọng hơn các lợi ích ”.

Những cuộc bàn căi vẫn không chấm dứt. Cách nay vài tháng, trong The Lancet, một phân tích của các công tŕnh nghiên cứu chính về chủ đề này (thực hiện trên toàn bộ 95.000 người có nguy cơ thấp) trái lại đă đánh giá rằng sự sử dụng aspirine mỗi ngày làm giảm 12% các nhồi máu cơ tim, nhưng với cái giá một sự gia tăng quá mức những xuất huyết tiêu hóa. Các chuyên gia hiện diện ở hội nghị Barcelone cũng ghi nhận rằng túc số của những người tham dự của công tŕnh nghiên cứu écosse quá thấp để có thể rút ra những kết luận khẳng định.
(LE FIGARO 1/9/2009)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 145 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 23/10/2009 )

6/ ASPIRIN LÀM GIẢM TỶ LỆ TỬ VONG DO UNG THƯ ĐẠI-TRỰC TRÀNG.

Nơi những bệnh nhân bị ung thư đại trực tràng, uống mỗi ngày một viên aspirin làm giảm nguy cơ tử vong (dưới 29% những nguy cơ chết v́ ung thư này và dưới 21% v́ những nguyên nhân khác). Đó là điều được rút ra từ công tŕnh nghiên cứu được thực hiện bắt đầu từ năm 1981 bởi Andrew Chan và các đồng nghiệp của Massachusetts General Hospital de Boston, nơi 1.300 bệnh nhân bị ung thư đại-trực tràng, mà một nửa những bệnh nhân này đă thêm aspirin vào toa đơn thuốc hàng ngày của họ. Những lợi ích của aspirin trong bệnh lư này được giải thích bởi tác dụng ức chế của nó lên enzyme COX-2, chịu trách nhiệm phản ứng viêm và sự tăng sinh của các tê bào. Mặc dầu tác dụng được xác nhận này, aspirin chẳng được khuyến nghị bao nhiêu trong mục đích pḥng ngừa bởi v́ các tác dụng phụ của nó : kích thích dạ dày ruột và chảy máu tiêu hóa. Mặt khác, tất cả các bệnh nhân không sản xuất COX-2 với lượng đủ lớn để nhạy cảm với tác dụng của aspirin.
(SCIENCE ET VIE 10/2009)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 146 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 1/11/2009 )

6/ RỐI LOẠN NHỊP TIM : MỘT ĐIỀU TRỊ RẤT HỨA HẸN.

GS Michel Desnos, trưởng khoa tim thuộc bệnh viện châu Âu Georges-Pompidou, giải thích tiến bộ đạt được với dabigatran để điều trị các rung nhĩ.

Hỏi : Các triệu chứng của rung nhĩ (fibrillation auriculaire) là gi ?
G.S Michel Desnos : Đó là loạn nhịp tim thông thường nhất (1-2% dân số sau 50 tuổi) và gia tăng với tuổi tác. Những triệu chứng đầu tiên được thể hiện bởi hồi hộp, khó ở, những bệnh này cũng có thể tiến triển không có triệu chứng và được khám phá bởi một mạch và tim không đều.

Hỏi : Không được điều trị, sẽ có những nguy cơ nào ?
G.S Michel Desnos : Có hai nguy cơ chính. 1. Rung nhĩ làm dễ sự tạo thành của các cục máu đông trong tim. Các cục máu đông này có thể di chuyển lên năo bộ và gây nên tai biến mạch máu năo. Chúng cũng có thể di chuyển đến một chi, làm bít tac động mạch và gây nên một thiếu máu cục bộ (ischémie), với đau đớn dữ dội. Không điều trị, mối nguy hiểm là hoại thư (gangrène). 2. Rung thất ảnh hưởng chức năng vận động của tim, có thể gây nên suy tim với khó thở. Nếu không điều trị, người ta sợ tai biến tim chết người.

Hỏi : Đến nay, người ta điều trị như thế nào những người bị rung nhĩ ?
G.S Michel Desnos : Về nguy cơ do các cục máu đông, ta dùng các thuốc kháng đông bằng đường miệng (các anti-vitamine K, như coumadine), rất có hiệu quả. Đối với những bệnh nhân có nguy cơ chảy máu quan trọng và không có thể dùng những thứ thuốc này, ta cho aspirin với liều lượng thấp mỗi ngày. Mục đích của hai điều trị này là làm loăng máu, do đó làm giảm các nguy cơ gây nên những biến chứng của rung nhĩ, đặc biệt là các tai biến mạch máu năo. Bên cạnh các điều trị kháng đông, các thứ thuốc chống loạn nhịp, khử rung (cardioversion) hay thủ thuật cắt bỏ (ablation) có thể tỏ ra cần thiết.

Hỏi : Những kết quả có được với điều trị hiện nay là ǵ ?
G.S Michel Desnos : Các anti-vitamine K cho phép làm giảm các tai biến mạch máu năo hơn 60%, nhưng với cái giá của một sự gia tăng các tai biến xuất huyết (trong đó có xuất huyết năo). Bất tiện khác : điều trị này không dễ sử dụng trong đời sống hàng ngày bởi v́ nó đ̣i hỏi phân tích máu đều đặn.

Hỏi : Tác dụng của điều trị mới đối với các bệnh rung nhĩ này là ǵ ?
G.S Michel Desnos : Dabigatran đă xuất hiện trên thị trường châu Âu vào tháng 10 năm 2008. Nhưng măi đến nay, nó chỉ được thương măi hóa duy nhất để tránh các cục máu đông trong các tĩnh mạch nơi những người được mổ để đặt khớp gối hay khớp háng giả. Những can thiệp này cần nằm bất động trên giường, điều này làm dễ sự xuất hiện các viêm tĩnh mạch (phlébites). Dabigatran, một chất ức chế trực tiếp thrombine (một yếu tố đông máu), phong tỏa sự tạo thành của các cục máu đông. Thuốc được cho bằng đường miệng và không cần theo dơi bằng xét nghiệm máu.

Hỏi : Những kết quả của các công tŕnh nghiên cứu đă được thực hiện là ǵ ?
G.S Michel Desnos : Vào lúc công tŕnh nghiên cứu quốc tế (RELY) trên 18.000 bệnh nhân, người ta đă so sánh các kết quả thu được với điều trị cổ điển bằng coumadine với các kết quả được ghi nhận với dabigatran. Thử nghiệm đă được thực hiện với hai liều lượng khác nhau của thuốc mới : một nhóm bệnh nhân đă nhận dabidatran 150 mg hai lần mỗi ngày ; một nhóm khác, 110 mg, cũng hai lần mỗi ngày. Dabigatran được cho với liều lượng cao làm giảm tai biến mạch máu năo nhiều hơn là điều trị cổ điển bằng coumadine, với một nguy cơ xuất huyết tương tự. Với liều lượng thấp hơn, dabigatran tỏ ra cũng hiệu quả như coumadine trong việc ngăn ngừa tai biến mạch máu năo với ít xuất huyết hơn.

Hỏi : Khi nào ta có thể sử dụng điều trị này đối với rung nhĩ. ?
G.S Michel Desnos : Chúng ta hy vọng sẽ nhận giấy phép cho lưu hành trên thị trường trong những tháng sắp đến.

Hỏi : Tóm lại, những ưu điểm của dabigatran là ǵ ?
G.S Michel Desnos : 1. Không phải theo dơi, dầu liều lượng cho là bao nhiêu. 2. Với liều lượng thấp, ít nguy cơ xuất huyết hơn. 3. Với liều cao, một hiệu quả lớn hơn để ngăn ngừa các tai biến mạch máu năo.
(PARIS MATCH 8/10-1/10/2009)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 157 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 18/1/2010 )

5/ CÁC VAN ĐỀ SỬA CHỮA TIM.

Khi van tim, có nhiệm vụ chuyển máu từ tâm thất trái qua động mạch chủ bị nghẽn, từ nay ta có thể thay thế nó bằng cách đi qua bên trong hệ tuần hoàn mà không cần phải gây mê tổng quát. Vậy không c̣n cần phải mổ tim mở (opération à coeur ouvert) với các nguy cơ liên kết với phẫu thuật này. Phương pháp thay thế, mặc dầu c̣n trong ṿng thí nghiệm, nhưng đă chứng tỏ có khả năng. Hiện nay, phương pháp này c̣n được dành cho những bệnh nhân có sức khỏe kém nhất, không chịu nỗi một phẫu thuật nặng nề. “ Ngày nay, trên thế giới có từ 8000 đến 9000 van được đặt ”, Alec Vahanian, trưởng khoa tim của bệnh viện Bichat, một trong ba trung tâm tiền phong của Pháp đă chỉ rơ như vậy. “ Kỹ thuật này theo dự kiến sẽ được phát triển một cách quan trọng ở Pháp vào năm 2010.” Phẫu thuật đầu tiên thuộc loại này đă được thực hiện, cách nay 8 năm, bởi nhóm của Alain Cribier ở CHU de Rouen.

Hai van được sử dụng ngày nay (Edwards Sapien và Corevalve) cho những kết quả tốt. Sự thiết đặt các van này được thực hiện hoặc qua động mạch đùi (artère fémorale) từ một đường xẻ ở cẳng chân, hoặc bằng một đường xẻ nhỏ trong tâm thất trái của tim. Đường xẻ này được ưa thích hơn trong trường hợp có nguy cơ bị các biến chứng nơi các động mạch. Không cần một điều trị nặng nề nào cả, ngoại trừ một loại thuốc chống sự tạo thành của các cục máu đông và aspirin để làm loăng máu. Đối với các bệnh nhân, “ lợi ích là không thể chối căi được ”, theo Gilles Rioufol, bệnh viện Louis-Bron ở Lyon. Ưu điểm khác : không c̣n cần nữa một tuần hoàn ngoài cơ thể (circulation sanguine extracorporelle) như đối với một phẫu thuật tim mở (opération à coeur ouvert).

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN NHỮNG BỆNH NHÂN TRẺ.

Chứng hẹp van động mạch chủ (sténose de la valve aortique) gây bệnh cho khoảng 2 đến 3% những bệnh nhân trên 80 tuổi. “ Nhưng hiện nay, sự thiết đặt van chỉ được thực hiện nơi những bệnh nhân có nguy cơ rất cao nếu thực hiện một can thiệp ngoại khoa cổ điển, Alec Vahanian đă nhắc lại như vậy. Một nhóm hoàn chỉnh các thầy thuốc khoa tim họp lại để quyết định xem, tùy theo t́nh trạng của bệnh nhân, liệu kỹ thuật này có thể dự kiến được hay không. Những kết quả đầu tiên dường như rất dương tính, nhưng “ chúng tôi thiếu 3 đến 4 năm để được an ḷng về những diễn biến về lâu về dài của các van này, vốn là đối tượng của các nghiên cứu ở Hoa Kỳ và ở Pháp, Gilles Rioufol đă xác nhận như vậy. Hiện nay, chúng tôi mổ những người với lứa tuổi trung b́nh 82, nhưng những triển vọng chẳng bao lâu hẳn phải được mở rộng ra.” Các bệnh nhân trẻ tuổi hơn nhiều có thể hưởng phẫu thuật này, do đó tầm quan trọng phải đảm bảo khả năng đề kháng của các van với thời gian. Tuy nhiên, trong khi đường hướng phẫu thuật này chỉ chiếm 1% các trường hợp thay van, việc phát triển nó lại đặt ra vấn đề tài chánh : các van này phí tổn từ 15.000 đến 20.000 euro và không được đảm nhận bởi bảo hiểm y tế.
(SCIENCE ET VIE 1/2010)

florida80
04-12-2019, 17:52
lly (Lynn Ly)


Rank: Advanced Member



Groups: Y Học Đời Sống, Registered
Joined: 4/5/2011(UTC)
Posts: 5,338



Thanks: 2457 times
Was thanked: 2381 time(s) in 1228 post(s)





THÔNG TIN Y HỌC VỀ SỬ DỤNG ASPIRINE

Lynn Ly tổng hợp thông tin về sử dụng Aspirine
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh
(Tiếp Theo ... )



THỜI SỰ Y HỌC SỐ 168 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 5/4/2010 )

6/ NGĂN NGỪA CÁC HUYẾT KHỐI TRÊN STENT : ĐIỀU TRỊ MỚI.

GS Michel Desnos, trưởng khoa tim bệnh viện châu Âu Georges-Pompidou, giải thích tiến bộ quan trọng với sự thương măi hóa mới đây ở Pháp thuốc prasugrel.

Hỏi : Trong những trường hợp nào khiến ta phải thực hiện một angioplastie đồng thời đặt stent và protocol là ǵ ?
GS Michel Desnos : Angioplastie là thủ thuật nhằm đưa một quả bóng nhỏ (baloonet) vào trong các động mạch của tim (các động mạch vành), để mở lỗ bị hẹp. Trong đại đa số các trường hợp, để tránh sự hẹp tái phát, người ta thiết đặt một loại lưới sắt nhỏ, được gọi là stent. Có hai chỉ định chính đối với thủ thuật này. 1. Nhồi máu cơ tim khi động mạch vành bị bít bởi một cục máu đông. 2. Những cơn đau ngực không kiểm soát được bằng điều trị ngoại khoa, bởi v́ cơn đau xảy ra do động mạch bị hẹp. Ở Pháp, người ta thực hiện khoảng 120.000 angioplastie với đặt stent mỗi năm. Và con số này không ngừng gia tăng.

Hỏi : Những kết quả thu được là ǵ ? Những biến chứng là những biến chứng nào ?
GS Michel Desnos : Về nhồi máu cơ tim, từ 10 năm qua, kỹ thuật này đă cho phép một sự thu giảm một nửa tỷ lệ tử vong. Nhưng cũng như mọi sự can thiệp, có những nguy cơ có thể xảy ra trong khi làm thủ thuật hay xuất hiện thứ phát. Người ta quan sát thấy 2 biến chứng muộn. 1. Một sự hẹp trở lại (resténose) : sau 3 đến 6 tháng động mạch lại bị hẹp lại ở cùng vị trí trước đây. 2. Một sự tắc (occlusion) : động mạch bị trít lại hoàn toàn với huyết khối (thrombose) trên stent (2 đến 3%), một tai biến trầm trọng có thể dẫn đến tử vong (trong 40% các trường hợp).

Hỏi : Măi đến nay, làm sao ta có thể ngăn ngừa những biến chứng này ?
GS Michel Desnos : Khi sự hẹp trở lại xuất hiện ở cùng một chỗ, ta có thể thực hiện một sự nong giăn mới. Để ngăn ngừa sự xuất hiện một huyết khối (thrombose), ta kê đơn một điều trị chống kết tụ tiểu cầu (traitement antiagrégant plaquettaire), sẽ ngăn cản sự tạo thành một cục máu đông (caillot) trong máu. Trong ít nhất năm đầu sau khi đặt stent, ta kê đơn hai thuốc chống ngưng kết tiểu cầu (antiagrégant) là aspirin kết hợp với clopidogrel (Plavix) và sau đó nói chung chỉ c̣n một thứ thuốc.

Hỏi : Những thất bại nơi các bệnh nhân được điều trị pḥng ngừa này là do đâu ?
GS Michel Desnos : Chủ yếu do 3 nguyên nhân. 1. Một sự tuân thủ điều trị kém của các bệnh nhân, quên uống thuốc hay ngừng điều trị không được biện minh (ví dụ để chữa răng hay nội soi tiêu hóa). 2. Sự hiện hữu của vài loại bệnh liên kết, đặc biệt là bệnh đái đường. 3. Một sự đề kháng đối với clopidogrel do những bất thường di truyền được biểu hiện nơi gan : nơi 25% các bệnh nhân, chất chống ngưng kết này tỏ ra không có hiệu quả.

Hỏi : Liệu pháp mới nhất dành cho các trường hợp đề kháng với điều trị cổ điển là ǵ ?
GS Michel Desnos : Đó là prasugrel, một chất chống ngưng kết tiểu cầu mới được thương măi hóa ở Pháp. Đối với những bệnh nhân đề kháng này, thuốc prasugrel có hiệu quả hơn và tác dụng của nó ít được liên kết với chuyển hóa gan hơn và do đó ít nhạy cảm hơn với những bất thường di truyền. Người ta kê đơn thuốc này với liều lượng 10 milligramme mỗi ngày, liên kết với 75 đến 325 mg aspirin.

Hỏi : Những thử nghiệm nào đă chứng tỏ hiệu quả của prasugrel ?
GS Michel Desnos : Công tŕnh nghiên cứu lớn “ Triton ” (được công bố trong “ New England Journal of Medicine ”) đă được thực hiện trên hơn 13.000 bệnh nhân đă bị một nhồi máu cơ tim và mang stent (trong 700 bệnh viện của 30 nước). Các nhà nghiên cứu đă so sánh trong ṿng một năm những bệnh nhân được điều trị cổ điển (aspirin +clopidogrel) với những bệnh nhân được điều trị bởi aspirin và prasugrel. Kết quả : thuốc mới đă tỏ ra có hiệu quả hơn do làm giảm 52% các huyết khối trên stent.

Hỏi : Điều trị mới này có gây nên những phản ứng phụ hay không ?
GS Michel Desnos : Điều trị với prasugrel có một nguy cơ gây xuất huyết, nhất là nơi năo bộ, ít xảy ra hơn (2,4% các xuất huyết với clopidogrel so với 1,8% với prasugrel).

Hỏi : Người ta có thể giảm mối nguy hiểm này không ?
GS Michel Desnos : Có, bằng cách không cho thuốc này nơi các bệnh nhân có nguy cơ cao hơn : những người trên 75 tuổi, những người đă bị một tai biến mạch máu năo, những người cân nặng dưới 60kg.
(PARIS MATCH 1/3-17/3/2010)


THỜI SỰ Y HỌC SỐ 185 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 02/8/2010 )

8/LOÉT DẠ DÀY : CÁC THUỐC KHÁNG SINH CÓ NGĂN CẢN TÁI PHÁT ?

Docteur Anne Courillon-Mallet
Hépato-gastroentérologue
CHU Villeneuve-Saint-Georges

Nhiễm trùng do vi khuẩn Helicobacter pylori là nguyên nhân của 70% các loét dạ dày hay của tá tràng (tá tràng là phần đầu của ruột ngay sau dạ dày). Chừng nào nhiễm trùng c̣n tồn tại, loét sẽ tái phát trong 60% các trường hợp trong năm. Sự loại bỏ nhiễm trùng vi khuẩn khiến nguy cơ chuyển từ 60% xuống c̣n 6%.

Điều trị kháng sinh nhiễm trùng do Helicobacter pylori do đó ngăn ngừa một cách hiệu quả loét tái phát tuy nhiên với điều kiện đảm bảo rằng vi trùng đúng là đă được loại bỏ sau điều trị. Thật vậy, tỷ lệ loại bỏ nhiễm trùng sau một đợt điều trị kháng sinh đầu tiên chỉ là 70%, bởi v́ những đề kháng đối với các kháng sinh, được phát triển bởi vi khuẩn. Vậy cần phải kiểm tra tính hiệu quả của điều trị.

Trong trường hợp loét tá tràng (ulcère du duodénum), người ta sử dụng một trắc nghiệm hô hấp (test respiratoire). Trắc nghiệm này phát hiện sự hiện diện của một enzyme, uréase, đặc trưng của vi khuẩn Helicobacter pylori. Trắc nghiệm đơn giản và không gây đau đớn : sau 8 giờ nhịn đói, cho bệnh nhân uống urée được đánh đầu với carbone 13 (không phóng xạ) rồi thu lại khí thở ra 30 phút sau. Trắc nghiệm rất đáng tin cậy với điều kiện đă không dùng kháng sinh trong 4 tuần trước khi xét nghiệm và không sử dụng các thuốc ức chế sự tiết axít trong hai tuần trước khi trắc nghiệm.

Trong trường hợp loét dạ dày, người ta khuyến nghị thực hiện một soi dạ dày sau vài tuần để kiểm tra sự lành sẹo của vết loét (và đừng bỏ qua một ung thư có dạng vẻ của một loét thông thường) và soi dạ dày cho phép kiểm tra đồng thời sự biến mất của nhiễm trùng. Nếu nhiễm trùng vẫn tồn tại, người ta đề nghị một đợt điều trị thứ hai và, có thể, một đợt điều trị kháng sinh thứ ba. Một khi nhiễm trùng đă biến mất, ta có thể xem như rằng sự loại bỏ vi khuẩn là dứt điểm bởi v́ nguy cơ tái nhiễm trùng nơi những người trưởng thành hầu như là số không.

Nguyên nhân chính khác của loét là sử dụng thuốc kháng viêm không phải stéroide (AINS) hay uống aspirin. Khi người ta dự kiến một điều trị kéo dài bởi loại thuốc này, tốt hơn là t́m kiếm và điều trị một nhiễm trùng bởi Helicobacter pylori để không kiêm nhiệm hai yếu tố nguy cơ. Nhưng việc loại bỏ nhiễm trùng bởi Helicobacter pylori không đủ để hủy bỏ nguy cơ loét do các thứ thuốc.

Để tránh những loét trong lúc điều trị bởi AINS hay aspirin, người ta khuyến nghị, trong vài trường hợp, ví dụ sau 65 tuổi hay trong trường hợp điều trị kháng đông, sử dụng một loại thuốc ức chế sự sản xuất axít.
(LE FIGARO 29/3/2010)


THỜI SỰ Y HỌC SỐ 196 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 18/10/2010 )

4/ UNG THƯ ĐẠI TRÀNG : ASPIRIN CÓ TÁC DỤNG BẢO VỆ ?

Vào năm 2007, những kết quả của những công tŕnh nghiên cứu của Anh và Mỹ, được thực hiện trên hàng ngàn bệnh nhân, đă xác nhận rằng aspirin có thể có một tác dụng bảo vệ chống ung thư đại tràng. aspirin ức chế một enzyme tai hại, cyclo-oxygénase 2 : men này đóng một vai tṛ quan trọng trong quá tŕnh viêm và biến hóa của một polype hiền tính thành ung thư. Trung b́nh sự giảm nguy cơ là 33% nơi những người dùng 325 mg aspirin hai lần mỗi tuần trong ít nhất 5 năm ; 40% nơi những người dùng 300 mg mỗi ngày trong 5 năm và 70% khi sự tiêu thụ vượt quá 5 năm. Mặc dầu với những kết quả này, vẫn c̣n thiếu sự xác định liều lượng tối thiểu có thể mang lại một tác dụng bảo vệ, bởi v́ 300 mg mỗi ngày là một liều lượng cao. Một công tŕnh nghiên cứu của Anh mới đây (Drs Faraht Din et Malcolm Dunlop) đă so sánh 2.279 người bị ung thư đại tràng với 2900 người chứng lành mạnh, và đă có thể xác định rằng một tác dụng bảo vệ (với giảm 22% nguy cơ) xuất hiện ngay năm đầu tiên, bắt đầu từ 75mg aspirin, 4 lần mỗi tuần.
(PARIS MATCH 7/10-13/10/2010)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 200 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 15/11/2010 )

6/ SINH SẢN NAM GIỚI : NGUY CƠ CỦA CÁC THUỐC GIẢM ĐAU TRONG THỜI KỲ THAI NGHÉN.

Vài loại thuốc, như aspirine hay ibuprofène, được sử dụng bởi một phụ nữ có thai, ảnh hưởng lên khả năng sinh sản của đứa bé sẽ sinh ra đời.

PROCREATION. Từ nhiều năm nay, một sự hạ thấp của các tinh trùng được phát hiện trong vài nước, đặc biệt là ở Phần Lan, nhưng cũng xảy ra trong vài thành phố của Pháp, đặc biệt là ở Paris. Một số hơi cao hơn các dị dạng sinh dục (malformations génitales) như tinh hoàn ẩn (cryptorchidie) (tinh hoàn không đi xuống b́u dái của cháu trai, toàn bộ hay một phần) cũng đă được mô tả khắp nơi trong những nước công nghiệp hóa. Sau cùng, ung thư tinh hoàn gia tăng trong các vùng nói trên. Nguyên nhân chính xác của những hiện tượng này vẫn không được biết đến. Hôm nay tạp chí Human reproduction công bố những kết quả của những công tŕnh, được thực hiện ở Đan mạch, Phần lan và Pháp, cho phép nghi ngờ vai tṛ của các thuốc giảm đau được sử dụng bởi bà mẹ trong thời kỳ thai nghén.

Như thế, theo những nghiên cứu này, sự việc đă sử dụng aspirine hay ibuprofène trong hơn hai tuần trong tam cá nguyệt thứ nhất hay thứ hai của thai kỳ, đă làm gia tăng gấp hai nguy cơ sinh ra đời một đứa bé trai bị chứng tinh hoàn ẩn (cryptorchidie). Cùng khuynh hướng được quan sát với paracétamol. Và đối với những bà mẹ tương lai đă sử dụng cùng lúc, trong hơn 15 ngày, hai loại thuốc giảm đau, nguy cơ có một đứa bé trai bị bệnh tinh hoàn ẩn 22 lần cao hơn nguy cơ của những phụ nữ không sử dụng ǵ hết. Thế mà, người ta biết rằng bệnh tinh hoàn ẩn là một yếu tố nguy cơ đồng thời của chứng vô sinh nam giới (infertilité masculine) và của ung thư tinh hoàn.

Trong những năm 1980, các nhà nghiên cứu vốn đă nghi ngờ những thuốc giảm đau này dùng nơi động vật đực gây nên những rối loạn sinh sản. Nhưng đă phải đợi công tŕnh nghiên cứu được công bố hôm nay để có được những dữ kiện chính xác hơn nơi người. Công tŕnh nghiên cứu này được thực hiện trên hơn 400 phụ nữ có thai người Đan Mạch, đă chấp nhận trả lời một bảng câu hỏi về các thói quen trong cuộc sống và nhất là việc sử dụng các thuốc giảm đau. Sau khi sinh, các trẻ em giới tính nam, được sinh ra từ những phụ nữ này, đă được thăm khám để đặc biệt t́m kiếm một bệnh tinh hoàn ẩn. Chính như vậy mà các tác giả của công tŕnh nghiên cứu lần đầu tiên đă có thể nhận thức rằng các đứa trẻ của những phụ nữ vốn đă dùng một hay nhiều trong số 3 thuốc giảm đau được khảo sát, trong hơn 15 ngày, suốt trong 6 tháng đầu của thai nghén, có nguy cơ gia tăng một cách đáng kể bị chứng tinh hoàn ẩn.

Để hiểu hiện tượng này, các thầy thuốc Đan Mạch và Phần lan đă tiếp xúc Bernard Jégou, giám đốc nghiên cứu ở Inserm đơn vị 625 và ở đại học Rennes-I và chuyên gia quốc tế về những vấn đề môi trường và khả năng sinh sản nam giới. Nhà chuyên môn này khảo sát các canh cấy tế bào tinh hoàn của phôi thai chuột, nhằm trắc nghiệm các loại thuốc hay phân tử hóa học và đánh giá tác dụng của chúng lên chức năng sinh sản của phôi thai. Như thế trên mô h́nh chuột này ông đă có thể phát hiện một sự giảm tiết testostérone (kích thích tố nam) của những tế bào tinh hoàn phôi thai trước sự hiện diện của các thuốc giảm đau này (paracétamol, ibuprofène hay aspirine).

Sau hết, các nhà nghiên cứu Đan mạch đă tiến hành một thí nghiệm thứ ba. Họ đă cho các con chuột cái mang thai một trong những thuốc giảm đau này với liều lượng lớn. Và sau đó họ cũng đă có thể quan sát thấy trong hậu duệ nam vài bất thường thể hiện một sự nhạy cảm ít hơn đối với testostérone. “ Những công tŕnh nghiên cứu này là những dấu hiệu chỉ rơ rằng phải đặc biệt chú ư đến việc sử dụng các thuốc giảm đau trong thời kỳ thai nghén. Tuy nhiên vẫn phải thận trọng : chúng tôi phát hiện một sự liên kết chứ không phải là một mối liên hệ nhân quả, Bernard Jégou, đồng tác giả của bài báo được đăng tải trong Human Reproduction đă giải thích như vậy. Nhưng những lư lẽ gián tiếp khác cũng đi theo chiều hướng này. Chính ở Đan mạch là nơi sự tiêu thụ cao nhất paracétamol được quan sát và cũng chính là nước có tỷ lệ tinh hoàn ẩn cao nhất. Hôm nay, những tín hiệu này chỉ cho chúng ta rằng phải tiến hành những nghiên cứu dịch tễ và thí nghiệm mới.” Kể từ nay chính giới hữu trách y tế có trách nhiệm tuyên bố về tính thích đáng trong việc hạn chế sử dụng các thuốc giảm đau trong thời kỳ thai nghén.
(LE FIGARO 9/11/2010)


THỜI SỰ Y HỌC SỐ 202 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 29/11/2010 )

9/ MỘT ÍT ASPIRIN CHỐNG LẠI UNG THƯ ĐẠI TRỰC TRÀNG.

Sử dụng aspirin 75 mg mỗi ngày làm giảm tỷ lệ mắc phải và tỷ lệ tử vong của các khối u này. Nhưng việc uống thuốc không toa vẫn không được khuyến nghị.

PREVENTION. Được sử dụng một cách đều đặn trong nhiều năm, một liều lượng tối thiểu aspirin (75mg mỗi ngày) có thể làm giảm 24% nguy cơ ung thư đại-trực tràng và làm giảm 1/3 tỷ lệ tử vong của nó nơi những bệnh nhân bị bệnh. Đó là điều được đánh giá bởi các thầy thuốc người Anh, có công tŕnh nghiên cứu đă được công bố trong tạp chí y học The Lancet. Đối với Peter Rothwell, thuộc đại học Oxford, tác giả đầu tiên của bài báo, một điều trị với những liều lượng nhỏ aspirin có thể được kê đơn để pḥng ngừa cho những người có nguy cơ cao bị ung thư đại• trực tràng, thí dụ do thể địa gia đ́nh.

Nhưng dường như c̣n sớm để đề nghị mộ cách rộng răi hơn chiến lược “ hóa học-pḥng ngừa ” này trong dân chúng, nhất là do những tác dụng phụ của aspirin ở đường tiêu hóa (kích thích, chảy máu).

Các ung thư đại-trực tràng là trong số những khối u ác t́nh thường xảy ra nhất trong các nước phát triển. Ở Pháp, khoảng 37.000 trường hợp mới được ghi nhận hàng năm, điều này đặt những ung thư này vào hàng thứ ba về mặt tỷ lệ xuất hiện bệnh và hàng thứ hai đối với tỷ lệ tử vong. Người ta chứng thực một tố bẩm gia đ́nh (prédisposition familiale) trong 17% các trường hợp.

Trong những năm qua, nhiều công tŕnh nghiên cứu đă gợi ư những tính chất bảo vệ của aspirin (với những liều lượng hàng ngày vài trăm milligramme), nơi những người có nguy cơ cao bị những ung thư này hay nơi những người đă bị bệnh. Lợi ích của công tŕnh của Peter Rothwell và các đồng nghiệp là đă tổng hợp các dữ kiện của 5 công tŕnh nghiên cứu rộng lớn về chủ đề này, được tiến hành ở Vương Quốc Anh, ở Ḥa Lan và Thụy Điển. Như thế các tác giả đă có thể phân tích một quần thể 14.000 bệnh nhân, được cung cấp aspirin mỗi ngày hay không (để pḥng ngừa tim mạch) trong 6 năm. Trong 18 tháng theo dơi, 2,8% những người tham dự đă phát triển một ung thư đại-trực tràng.

“ TÔI SẼ TỰ CHO PHÉP CHIẾN LƯỢC PH̉NG NGỪA NÀY ”

Toàn bộ, trong thời kỳ này, nguy cơ xuất hiện các khối u đại trực-tràng được giảm 24% nơi những người sử dụng aspirin. Và tỷ lệ tử vong của những ung thư này giảm 35%. Lợi ích được quan sát đối với những liều lượng hàng ngày 75mg, và những liều lượng cao hơn không cho những lợi ích bổ sung, các nhà nghiên cứu đă xác nhận như vậy. Họ cũng ghi nhận rằng tác dụng bảo vệ của aspirin liên hệ chủ yếu những khối u nằm trong phần đầu (được gọi là gần) của đại tràng, vùng khó thấy được bằng những thăm khám nội sọi. aspirin không có vai tṛ bảo vệ đối với những ung thư của phần xa đại tràng và ở trực tràng.

Đối với các nhà nghiên cứu người Anh, các kết quả này có những hàm ư đối với thực hành hàng ngày. Nơi những bệnh nhân phải được điều trị chống ngưng kết (traitement antiagrégant) để làm giảm nguy cơ tai biến tim mạch, lư lẽ pḥng ngừa các ung thư đại trực tràng phải làm lệch cán cân về phía aspirin hơn là dành cho một loại thuốc khác. Ngay từ bây giời tôi sẽ tự cho phép chiến lượt này nơi những người có nguy cơ cao bị ung thư gia đ́nh, được đả thông về những lợi ích và nguy cơ của aspirin ”, GS Robert Benamouzig thuộc bệnh viện Avicenne (Bobigny, Pháp) đă b́nh luận như vậy. Công tŕnh nghiên cứu này hẳn là một giọt nước làm tràn đầy ly, và khiến các chuyên gia phai họp nhau lại để quyết định ai sẽ được hưởng biện pháp ngăn ngừa bằng aspirin này ”, thầy thuốc chuyên khoa tiêu hóa nói thêm như vậy. Nhưng trong khi chờ đợi một hội nghị nhất trí như vậy, ông khuyên không nên tự dùng thuốc để thực hiện sự pḥng ngừa.
(LE FIGARO 24/10/2010)


THỜI SỰ Y HỌC SỐ 204 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 13/12/2010 )

4/ ASPIRIN VỚI NHỮNG LIỀU LƯỢNG NHỎ CHỐNG LẠI TẤT CẢ HOẶC HẦU NHƯ TẤT CẢ CÁC LOẠI UNG THƯ.

Một cuộc điều tra được công bố hôm nay tiết lộ rằng sử dụng aspirin 75 mg mỗi ngày làm giảm 20% tỷ lệ tử vong do ung thư.

CANCEROLOGIE. Hơn 100 năm sau khi được thương măi hóa, aspirin vẫn không ngừng tiết lộ các bí mật và nhất là những lợi ích của nó. Lợi ích mới nhất : một tác dụng pḥng ngừa hầu như vạn ứng đối với các ung thư, khi aspirin được sử dụng với những liều lượng nhỏ trong nhiều năm. Măi cho đến nay, tính chất này chủ yếu đă được nghiên cứu và xác lập một cách vững chắc đối với các ung thư đại trực tràng. Cách nay vài tuần, một công tŕnh của nhóm nghiên cứu Anh của GS Peter Rothwell, thuộc đại học Oxford, đă đánh giá rằng một sự tiêu thụ tối thiểu aspirin (75 mg mỗi ngày), trong một thời gian dài lâu, làm giảm 24% nguy cơ mắc phải ung thư đại trực tràng, và làm giảm 1/3 tỷ lệ tử vong của nó nơi những người đă bị ung thư này.

NHỮNG TÁC DỤNG PHỤ CỦA ĐƯỜNG TIÊU HÓA.

Cùng nhóm nghiên cứu này công bố hôm nay, vẫn trong tạp chí Anh The Lancet, những dữ kiện mới, theo đó acide acétylsalycilique (aspirin) tác dụng lên nhiều khối u ác tính khác, làm giảm ít nhất 20% tỷ lệ tử vong của chúng. Để nghiên cứu những mối liên hệ mật thiết giữa việc dùng aspirin và các ung thư, Peter Rothwell và các đồng nghiệp đă xem xét lại những công tŕnh nghiên cứu lớn, so sánh aspirin với một placebo hay với một loại thuốc khác như thuốc chống ngưng kết tiểu cầu (antiagrégant) hay thuốc kháng đông (anticoagulant) nhằm ngăn ngừa những bệnh tim mạch. Thật vậy, aspirin là một trong những điều trị nền (traitement de fond) cổ điển để làm loăng máu nơi những người có nguy cơ cao bị các tai biến tim. Tổng cộng, 7 thử nghiệm đă được phân tích lại, bao gồm 25.570 bệnh nhân. Trong số những bệnh nhân này, 674 đă chết v́ các ung thư. Nh́n toàn bộ, nơi những bệnh nhân dùng aspirin, tỷ lệ tử vong bởi khối u ác tính đă giảm 21% trong thời gian thực hiện các nghiên cứu. Các lợi ích lại c̣n rơ rệt hơn sau 5 năm, với một sự giảm 34%, nếu tính đổ đồng các ung thư, và ngay cả giảm 54% nếu đó là những ung thư dạ dày-ruột.

Các tác dụng của aspirin xuất hiện sau khoảng 5 năm đối với các ung thư thực quản, tụy tạng, năo và phổi ; và sau khoảng 10 năm đối với các ung thư dạ dày và đại tràng và 15 năm đối với các ung thư của tuyến tiền liệt. Trong những thử nghiệm với sự theo dơi rất lâu dài, các lợi ích được duy tŕ trong hơn 20 năm, Peter Rothwell đă nhấn mạnh như vậy, đồng thời cũng xác nhận rằng những lợi ích này chỉ được giới hạn đối với vài loại ung thư, nhất là những ung thư thuộc loại adénocarcinome ”.

“ Đó là một công tŕnh được thực hiện rất tốt, vững chắc trên phương diện phương pháp học, và mở đường cho một phương pháp pḥng ngừa các ung thư có hiệu quả và có thể thực hiện được, BS Catherine Hill, chuyên gia dịch tễ học thuộc Viện Gustave-Roussy (Villejuif) đă lấy làm phấn khởi. Cho măi đến nay, trong lănh vực này, sự pḥng ngừa chủ yếu dựa trên việc chống lại các yếu tố nguy cơ, như thuốc lá, rượu..Nhưng c̣n về thuốc men, th́ chẳng có bao nhiêu. Nhiều hướng đă được nghĩ đến, như hướng của tamoxifène để pḥng ngừa ung thư vú hay hướng của các anticox (thuốc chống viêm) nhưng những phương pháp này đều thất bại bởi v́ có nhiều nguy cơ hơn là lợi ích.” Một cách cụ thể, ta có thể khuyến nghị mỗi người dùng vào mỗi buổi sáng một liều lượng nhỏ aspirin hay không ?

Về các ung thư đại trực tràng, điều đó không c̣n xa vời lắm. Trong bài báo được đăng tải hôm tháng 10, Peter Rothwell đă gợi ư như vậy đối với những người có nguy cơ cao bị những ung thư này. Nhưng một “ hóa học pḥng ngừa ” (chimioprévention) thực hiện rộng răi trong dân chúng dường như c̣n quá sớm, đặc biệt do những tác dụng phụ tiêu hóa của aspirin. “ Phải cần đến những công tŕnh nghiên cứu khác ” các nhà nghiên cứu người Anh đă chấp nhận như vậy, đồng thời đặc biệt nhấn mạnh việc thiếu những dữ kiện về các ung thư phụ nữ, đặc biệt là ung thư vú.

Trong lúc chờ đợi, các nhà nghiên cứu cho rằng nơi những người đang được điều trị chống ngưng kết (traitement antiagrégant), th́ những kết quả của công tŕnh nghiên cứu của họ làm lệch cán cân về phía aspirin.
(LE FIGARO 7/12/2010)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 232 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (27/6/2011)

3/ ASPIRINE LÀM GIẢM TỶ LỆ TỬ VONG DO UNG THƯ.

Sự tiêu thụ đều đặn aspirine làm giảm ít nhất 20% tỷ lệ tử vong trong trường hợp của các ung thư thực quản, tụy tạng, năo và phổi, theo các nhà nghiên cứu của đại học Oxford. Kết quả quan sát này dựa trên nhiều công tŕnh so sánh giữa việc tiêu thụ aspirine và việc sử dụng một placebo, trong ít nhất 4 năm bởi hơn 25.000 người. Vào tháng mười năm qua, các nhà nghiên cứu này đă ước tính rằng những liều lượng thấp aspirine (khoảng 75 mg) cho phép làm giảm 35% nguy cơ tử vong do ung thư đại trực tràng. Nhưng họ đánh giá là c̣n sớm để có thể kê đơn aspirine mỗi ngày : c̣n phải đo cán cân giữa các lợi ích và nguy cơ, nhất là xuất huyết.
(SCIENCE ET VIE 2/2011)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 238 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (10/8/2011)

3/ ASPIRINE ĐỀ PH̉NG NGỪA UNG THƯ ?

Robert Benamouzig là trưởng khoa dạ dày ruột thuộc bệnh viện Avicenne, Bobigny

Hỏi : Một công tŕnh nghiên cứu dịch tễ học về mối liên hệ giữa việc sử dụng aspirine và ung thư vừa được công bố. Công tŕnh này cho thấy điều ǵ ?
Robert Benamouzig :Công tŕnh nghiên cứu này cho thấy rằng một liều thấp aspirine (75mg mỗi ngày) trong ít nhất 5 năm, làm giảm 20% tỷ lệ tử vong, tất cả các ung thư cộng lại. Để đạt đến kết luận này, nhóm của Peter Rothwell, thuộc đại học Anh Oxford đă thực hiện một phân tích méta từ 8 thử nghiệm lâm sàng, nguyên thủy được tiến hành để đánh giá tác dụng của loại thuốc này lên những bệnh tim mạch. Toàn bộ, 25.570 bệnh nhân đă nhận hoặc là aspirine, hoặc là một placebo. Theo quá tŕnh theo dơi trong 20 năm, những trường hợp tử vong bởi ung thư (nhất là những ung thư đại trực tràng và của thực quản) là ít quan trọng hơn đối với những người đă sử dụng aspirine.

Hỏi : Ta đă có thể mong chờ một tác dụng bảo vệ của aspirine ?
Robert Benamouzig : Vâng, ta đă nghi ngờ điều đó : từ hai chục năm nay ta quan sát thấy rằng ung thư đại trực tràng ít thường xảy ra hơn ở những người sử dụng đều đặn aspirine. Ta cũng biết rằng aspirine cũng như những thuốc kháng viêm khác, ức chế các enzyme có liên quan trong sự tăng sinh của các khối u. Nhưng nhờ những thử nghiệm trên một số lớn các bệnh nhân, Peter Rothwell và nhóm nghiên cứu của ông mới đây đă mang lại những luận cứ mới về tác dụng bảo vệ của aspirine chống lại ung thư đại trực tràng, rồi bây giờ đây tác dụng của nó chống lại hầu hết các ung thư.

Hỏi : Những kết quả này sẽ mang lại những áp dụng đối với thực hành hàng ngày không ?
Robert Benamouzig : Theo ư kiến của tôi, aspirine phải được kê đơn để pḥng ngừa ung thư đại trực tràng, đặc biệt đối với những người có một nguy cơ cao, nhất là có yếu tố gia đ́nh. Nhưng không có vấn đề kê đơn để pḥng ngừa cho tất cả mọi người hay tự dùng thuốc lấy. Thật vậy, ngay cả với liều thấp, aspirine vẫn có thể gây nên xuất huyết dạ dày ruột trong khoảng 1% các trường hợp. Vậy không nên tạo một cách sai lầm nguy cơ cho những người có nguy cơ thấp, bởi v́, đối với họ, lợi ích của việc sử dụng aspirine sẽ thấp hơn nguy cơ gặp phải. Cũng không nên bắt bệnh nhân sử dụng aspirine quá lâu một cách vô ích : tác dụng bảo vệ xuất hiện sau 5 đến 10 năm, vậy aspirine chỉ có thể bắt đầu được sử dụng khoảng 50 tuổi mà thôi, trừ trường hợp những người có một nguy cơ cao bị ung thư sớm. Vậy vấn đề hiện nay là tính tỷ suất lợi ích đối với nguy cơ của việc sử dụng hàng ngày aspirine để xác định phương pháp ngăn ngừa này sẽ hữu ích đối với những ai.

Hỏi : Những khuyến nghị phải chăng chẳng bao lâu nữa sẽ được soạn thảo ?
Robert Benamouzig : Xác định một cách chính xác giới hạn mà lợi ích của aspirine vượt quá nguy cơ không phải dễ dàng. Phải cần thời gian để các chuyên gia tổ chức và hội họp để soạn thảo những khuyến nghị. Do đó tôi e ngại rằng điều đó c̣n cần đến vài năm trước khi phương pháp này được áp dụng trong thực tiễn.
(LA RECHERCHE 2/2011)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 246 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (29/10/2011)

4/ PH̉NG NGỪA TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO

Một công tŕnh nghiên cứu của Hoa Kỳ cho thấy rằng sự điều trị tích cực sau báo động đầu tiên cho phép làm giảm các tái phát. Điều trị cao huyết áp là cơ bản.

NEUROLOGIE. Với 120.000 đến 150.000 trường hợp mỗi năm ở Pháp, trong đó một nửa ở những người trên 70 tuổi, tai biến mạch máu năo mỗi năm gây nên 32.000 trường hợp tử vong và bấy nhiêu những tàn tật nặng. Đó là nguyên nhân thứ ba gây tử vong sau các bệnh tim-mạch và các ung thư, nguyên nhân thứ hai gây sa sút trí tuệ sau bệnh Alzheimer. Vậy pḥng ngừa tai biến mạch máu năo, thường nhất do một động mạch tưới máu năo bị tắc, là điều chủ yếu : pḥng ngừa trước khi xảy ra tai biến mạch máu năo hay tai biến thiếu máu cục bộ thoáng qua (accident ischémique transitoire) báo trước tai biến, bằng cách làm giảm những yếu tố nguy cơ mạch máu. Nhưng cũng ở những bệnh nhân sau một tai biến mạch máu năo đầu tiên, khi đó có một nguy cơ quan trọng bị một tai biến mới. Gần 80% các tai biến mạch máu năo là do một nhồi máu năo (infarctus cérébral) được gây nên bởi một huyết khối (thrombus), một trường hợp trên bốn là do những mảng xơ mỡ động mạch (plaques d’athérome) làm hẹp đường kính của các động mạch năo, nhưng đôi khi do một rung nhĩ (fibrillation auriculaire), một rối loạn nhịp tim hay một thương tổn những mạch máu nhỏ (microangiopathie). Làm sao tránh tái phát ?

Mối đe dọa này được giảm nhiều (50 đến 75%) nhờ một điều trị triệt để những yếu tố nguy cơ quan trọng như cao huyết áp, LDL-cholestérol (nho statines) và triglycérides, bệnh đái đường, t́nh trạng nhàn rỗi không hoạt động (sédentarité), chứng nghiện thuốc lá, bệnh béo ph́...và một điều trị chống tiểu cầu bằng aspirine và clopidrogel (Plavix) để làm loăng máu. Khi động mạch cảnh trong (carotide interne), có nhiệm vụ mang máu từ tim lên năo, bị tắc ở cổ, ngoại khoa cho phép lấy mảng xơ mỡ đi và làm giảm 60% nguy cơ tái phát. Bắt chước kỹ thuật được sử dụng trong cardiologie, angioplastie par ballonnet với stent được đặt trong động mạch cảnh để duy tŕ sự thông thương mạch máu, cũng đă được trắc nghiệm, bởi v́ thủ thuật này ít xâm nhập hơn ngoại khoa. Nhưng kỹ thuật này nhiên hậu gây nhiều nguy cơ hơn ngoại khoa và chỉ được sử dụng en seconde intention.

CÔNG TR̀NH NGHIÊN CỨU HOA KỲ.

Một sự làm giăn các động mạch năo như thế có cho phép làm giảm các nguy cơ không ? Công tŕnh nghiên cứu Hoa Kỳ SAMMPRIS, được công bố tuần qua trong New England Journal of Medicine, cho thấy rằng không phải là như vậy : sau một tai biến thiếu máu cục bộ thoáng qua (AIT : accident ischémique transitoire) hay một tai biến mạch máu năo đầu tiên, 451 trong số những bệnh nhân này đă nhận điều trị nội khoa chuẩn “ tích cực ”. Một nửa trong số những bệnh nhân này cũng đă được làm angioplastie với stent được đặt trong động mạch nội sọ bị teo hẹp nhất. Trong tháng sau khi angioplastie được thực hiện, 14,7% các bệnh nhân của nhóm thứ hai này đă bị một tai biến mạch máu năo mới hay bị chết, so với chỉ 5,8% trong nhóm được điều trị nội khoa đơn độc. Một năm sau, có hai lần số trường hợp tử vong nhiều hơn trong nhóm với stent so với nhóm kia. “Angioplastie đôi khi được thực hiện trong chỉ định này ở những bệnh nhân không đáp ứng với điều trị nội khoa, nhưng không chắc chắn về lợi ích của thủ thuật này. Từ nay chúng ta có bằng cớ chứng tỏ rằng angioplastie không được sử dụng, ít nhất tức thời, cũng như sau một tai biến mạch máu năo đầu tiên, GS Emmanuel Touzé, thầy thuốc chuyên khoa thần kinh (unité neuro-vasculaire, Bệnh viện Sainte-Anne, Paris), đă giải thích như vậy. Nhưng dầu cho điều trị nội khoa đă đạt được những tiến bộ to lớn, vẫn c̣n một marge de progression quan trọng.” Đối với GS Jean-Marc Orgogozo (pôle neurologie, CHU Pellegrin, Bordeaux), “ những kết quả này chắc chắn sẽ đánh dấu một coup d’arrêt đối với kỹ thuật này.”

Sự thất vọng này, dầu cho những tiến bộ thật sự của pḥng ngừa thứ cấp (prévention secondaire), lại c̣n làm nổi bật hơn tầm quan trọng phải làm tất cả để tránh một tai biến mạch máu năo đầu tiên. “ Tai biến thiếu máu cục bộ thoáng qua (AIT), với những dấu hiệu như những rối loạn đột ngột về ngôn ngữ, thị giác, vận động, một sự mất cân bằng..., ngay cả khi chỉ kéo dài vài phút, phải khiến bệnh nhân phải đi khám bệnh ngay, dầu cho những dấu hiệu này đă thoái lui sau đó, bởi v́ 3% trong số những bệnh nhân này sẽ tiến triển thành một tai biến mạch máu năo thật sự trong 48 giờ, và 9% trong tháng tiếp theo, trong khi đó một điều trị nhanh chóng ở unité neuro-vasculaire làm giảm 80% nguy cơ này ”, GS Touzé đă nhấn mạnh như vậy. Mặt khác, sự tích lũy trong chất trắng năo bộ nhiều thương tổn mạch máu nhỏ không gây triệu chứng, hoàn toàn không được nhận biết, nhiên hậu gây nên những hậu quả, nhất là về mặt nhận thức, ở những người già cả nhất.Việc chống lại những yếu tố nguy cơ tim mạch, mà trước hết là chống lại cao huyết áp, có tính chất quyết định trong sự pḥng ngừa những thương tổn này. Sự khám phá t́nh cờ chúng ở một bệnh nhân chắc chắn phải xem bệnh nhân này có nguy cơ bị tai biến mạch máu năo.” Việc pḥng ngừa nguy cơ năo-mạch máu (risque cérébro-vasculaire) ở những người già chắc chắn là một trong những enjeu lớn về y tế trong những năm đến.
(FIGARO 20/9/2011)

5/ PH̉NG NGỪA TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO BẰNG TỪ TRƯỜNG

Rongjia Tao, trưởng bộ môn vật lư của đại học Temple de Philadelphie (Hoa Kỳ)
Ư tưởng : Khi ta cho máu tiếp xúc với một từ trường (champ magnétique), độ nhớt (viscosité) của máu giảm. Và do đó nguy cơ tạo các cục máu đông giảm. Do đó cho các cánh tay ḿnh tiếp xúc đều đặn với từ trường phát sinh từ các bobine nam châm cho phép làm giảm nguy cơ tai biến mạch máu năo và nhồi máu cơ tim ở những người có nguy cơ.

Hỏi : Ông đă đến ư nghĩ này như thế nào ?
Rongjia Tao : Vào năm 2006, tôi đă khám phá rằng ta có thể làm giảm độ nhớt (viscosité) của dầu thô (pétrole brut) bằng cách cho nó chịu tác dụng của một từ trường song song với chiều tuần hoàn của nó trong một ống. Từ trường này, do làm phân cực các hạt treo lơ lửng trong dầu hỏa, khiến chúng bị kết dính lại. Các hạt khi đó tập hợp lại để tạo thành những chuỗi nhỏ sau đó chảy một cách dễ dàng hơn. Tôi đă nghĩ đến việc sử dụng kỹ thuật này trên máu, vốn chứa nhiều tế bào trôi lơ lửng, nhất là những tế bào hồng cầu. Bởi v́ độ nhớt của máu khi tăng cao làm dễ sự tạo thành các cục máu đông, và do đó sự xuất hiện những tai biến mạch máu năo và tim. Hiện nay giải pháp duy nhất để làm loăng máu ở những người đă bị một tai biến mạch máu năo là dùng những thuốc như aspirine nhưng loại thuốc này có thể gây nên những tác dụng phụ như xuất huyết dạ dày, loét dạ dày-ruột hay ù tai (acouphène). Các từ trường loại bỏ những tác dụng không được mong muốn này. Mặt khác, chụp h́nh ảnh bằng cộng hưởng từ hạt nhân (IRM), được sử dụng rộng răi từ nhiều năm nay, đă chứng minh tính vô hại của các từ trường.

Hỏi : Những kết quả ông đă thu được là ǵ ?
Rongjia Tao : Với nhóm nghiên cứu của tôi, chúng tôi vừa cho thấy rằng, trên những mẫu nghiệm máu chảy xuyên qua những ống có đường kính 1 mm (kích thước tương tự với kích thước của vài mao mạch), một sự tiếp xúc trong 1 phút với một từ trường làm giảm độ nhớt hơn 20%. Chủ yếu các hồng cầu kết dính với nhau thành những chuỗi nhỏ nhưng chức năng của chúng không bị biến đổi.Tuy nhiên, sau đó, khi không c̣n tiếp xúc với từ trường nữa, độ nhớtcàng dần dần tăng lên khi các chuỗi hồng cầu càng bị tan vỡ. Trung b́nh sau hai giờ, máu phục hồi lại độ nhớt lúc đầu : vậy hiệu quả chỉ có tính chất tạm thời.

Hỏi : Kỹ thuật này có thể được sử dụng như thế nào ?
Rongjia Tao : Kỹ thuật này có thể cho phép làm giảm huyết áp của những bệnh nhân bị cao huyết áp. Các bệnh nhân đặt các cánh tay của ḿnh trong những bobine nam châm sinh ra một từ trường mạnh, song song với động mạch của mỗi cánh tay. Bằng cách này, toàn bộ máu sẽ được xử lư trong ṿng 15 đến 20 phút. Ta có thể tưởng tượng một thiết bị mang theo người (un dispositif portable), dùng ở nhà. Vấn đề c̣n lại là thời gian tác dụng. Những kết quả thí nghiệm của chúng tôi cho thấy rằng thời gian tác dụng có thể tăng gấp đôi nếu độ nhớt lúc đầu tăng cao. Vậy chúng tôi có thể tưởng tượng những thử nghiệm lâm sàng với hai buổi điều trị mỗi ngày, một vào buổi sáng và một vào buổi chiều. Kết quả tiếp theo sẽ tùy thuộc vào những thử nghiệm này !
(SCIENCE ET VIE 10/2011)


THỜI SỰ Y HỌC SỐ 247 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (7/11/2011)

4/ ASPIRINE PH̉NG NGỪA UNG THƯ ĐẠI TRỰC TRÀNG.

Những bệnh nhân có nguy cơ di truyền rất cao (patients à très haut risque génétique) có thể hưởng lợi nhờ điều trị này.

PREVENTION. Hy vọng có được một điều trị pḥng ngừa ung thư làm sôi nỗi không những các nhà nghiên cứu mà c̣n cả những người có những nguy cơ cao. Đó là trường hợp những người bị hội chứng Lynch, một bất thường di truyền làm gia tăng một cách đáng kể nguy cơ ung thư, nhất là ung thư đại-trực tràng nhưng cũng những cơ quan khác như nội mạc tử cung. Trong hội chứng hiếm hoi này, nhưng vẫn là nguyên nhân thường gặp nhất của các ung thư đại
trực tràng di truyền (cancers colo-rectaux héréditaires), các bệnh nhân đặc biệt phải chịu những nội soi đại tràng (colonoscopie) tối đa mỗi 2 năm ngay ở lứa tuổi 20. Dĩ nhiên mục tiêu là phát hiện sớm ung thư đại-trực tràng mà ta biết gây bệnh cho hơn một trường hợp đối với 3 trong số những bệnh nhân này.

Công tŕnh nghiên cứu, được công bố hôm nay trong tạp chí quốc tế The Lancet, hẳn sẽ mang lại một ít hy vọng cho những bệnh nhân mà tuổi trung b́nh lúc được khám phá một ung thư đại-trực tràng là 42 tuổi (đôi khi ngay cả trước 25 tuổi). Thật vậy công tŕnh này cho thấy vai tṛ pḥng ngừa của aspirine. Trên hơn 850 người, một nửa dùng aspirine c̣n nửa kia dùng một placebo (thuốc không có tác dụng), kết quả cho thấy rằng những bệnh nhân đă uống mỗi ngày 600 mg aspirine trong hai năm đă có nguy cơ ung thư đại-trực tràng giảm 1/3 so với những người dùng placebo. Và có được kết quả này nhưng không chịu những tác dụng phụ đặc biệt nào. Các tác giả đă quan sát thấy 18 ung thư đối với 427 bệnh nhân trong nhóm sử dụng aspirine, so với 30 trên 434 bệnh nhân dùng placebo.

Vào năm 2008, cũng chính những nhà nghiên cứu này đă không phát hiện tính hiệu quả của aspirine trong nghiên cứu này. Chính nhờ kéo dài thời gian theo dơi những bệnh nhân đă dùng aspirine trong hơn 2 năm mà họ đă nhận thức được tác dụng pḥng ngừa của aspirine. Sau hai năm, sự dị biệt giữa hai nhóm bắt đầu xuất hiện nhưng vẫn c̣n chưa đủ về mặt thống kê để rút ra những kết luận.

BS David Malka, thầy thuốc chuyên về ung thư tiêu hóa thuộc Viện Gustave-Roussy (Villejuif) tỏ ra lạc quan thận trọng : “ Đó là một công tŕnh nghiên cứu có thể cho phép thêm vào một vũ khí mới (aspirine) bên cạnh sự theo dơi các bệnh nhân nhờ soi đại tràng ”, ông đă giải thích như vậy. Lần này, GS John Burn (Viện y học di truyền, đại học Newcastle) và các đồng nghiệp tỏ ra dứt khoát hơn : “ Những kết quả của chúng tôi, đặt trong mối liên hệ với những nghiên cứu khác mới đây, mang lại một cơ sở chắc chắn để khuyến nghị dùng aspirine để pḥng ngừa một cách hệ thống trong hội chứng Lynch ”, ông đă viết như vậy trong The Lancet. Theo họ, vấn đề c̣n lại là phải xác định liều lượng tốt và thời gian điều trị tốt.

Tuy nhiên các chuyên gia ngạc nhiên khi có được kết quả này mặc dầu số các polype được phát hiện bằng soi đại tràng đều y hệt dầu bệnh nhân uống aspirine hay không. Thật vậy lư thuyết muốn rằng các polype là giai đoạn đầu tiên trước khi biến đổi thành ung thư. Những kết quả thu được này ở những bệnh nhân với nguy cơ rất cao, do là bệnh di truyền (hội chứng Lynch), phải chăng có thể áp dụng cho những loại khác ? Đâu là tỷ suất lợi ích/nguy cơ của điều trị bằng aspirine trong những trường hợp này, nếu xét đến nguy cơ xuất huyết do aspirine ? Hiện nay những kết quả thu được với những liều lượng thấp aspirine (dưới 100 mg mỗi ngày), được sử dụng trong pḥng ngừa những tái phát của các tai biến tim mạch nói chung, đă không cho thấy lợi ích để làm giảm nguy cơ ung thư đại-trực tràng. Ngược lại, đối với những bệnh nhân đă có một ung thư đại-trực tràng được điều trị, những công tŕnh nghiên cứu lại cho thấy một tác dụng pḥng ngừa nhưng mức độ vừa phải của aspirine. Vẫn c̣n quá sớm để có thể dám đưa ra một khuyến nghị chung, ngoài trường hợp hội chứng Lynch.
(LE FIGARO 28/10/2011)


THỜI SỰ Y HỌC SỐ 265 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (7/4/2012)

7/ UNG THƯ : TÁC DỤNG CÓ LỢI CỦA ASPIRINE ĐƯỢC XÁC NHẬN

3 công tŕnh nghiên cứu phát hiện lợi ích của aspirine trong pḥng ngừa và điều trị các ung thư.

SANTE PUBLIQUE. Điều đó càng ngày càng rơ ràng : aspirine đóng một cách rơ ràng một vai tṛ dương tính không những trong sự pḥng ngừa, mà c̣n trong tiến triển của ung thư. Ba công tŕnh nghiên cứu mới, được công bố hôm thứ tư trong Lancet và Lancet Oncology củng cố những kết quả đă thu được bởi nhóm nghiên cứu của GS Peter Rothwell (đại học Oxford). Ngay năm 2007, những công tŕnh nghiên cứu của ông đă chỉ rơ rằng aspirine đưa đến một sự giảm toàn bộ nguy cơ về lâu về dài tử vong bởi ung thư. Vào năm 2010, trước hết ông đă chứng minh tác dụng có lợi này đối với ung thư đại trực tràng, rồi đối với những ung thư khác như tiền liệt tuyến, dạ dày, phổi, tụy tạng … Sự giảm toàn bộ này của tỷ lệ tử vong bởi ung thư, từ 20 đến 25% tùy theo các khối u ung thư, lại c̣n cao hơn (34%) khi thời gian dùng aspirine mỗi ngày vượt quá 5 năm.

Vấn đề c̣n phải biết là tác dụng có lợi này có được nhận thấy sau một thời gian dùng aspirine ngắn hơn hay không. Đó là điều mà Peter Rothwell và John Radcliffe (bệnh viện Oxford) đă t́m cách xác lập trong loạt các công tŕnh nghiên cứu mới này. Để được như thế, họ đă sử dụng như trước đây nhiều thử nghiệm lâm sàng đă từng đánh giá tác dụng của aspirine, được sử dụng với liều lượng hàng ngày nhằm pḥng ngừa lâu dài những tai biến mạch máu năo nhờ tác dụng chống ngưng kết tiểu cầu (effet anti-agrégant plaquettaire) và làm loăng máu.

Trong công tŕnh nghiên cứu thứ nhất được công bố hôm thứ tư bởi Lancet, phân tích các hồ sơ y khoa của 77.549 bệnh nhân được đưa vào trong 51 thử nghiệm pḥng ngừa tim mạch, cho thấy rằng, xét toàn bộ, aspirine làm giảm 15% nguy cơ tử vong bởi ung thư ở những bệnh nhân được điều trị so với những người chứng. Nguy cơ này ngay cả giảm 37% nếu ta chỉ xét đến 5 năm đầu tiên điều trị. Ngoài ra, trong 6 thử nghiệm pḥng ngừa nguyên phát những tai biến tim mạch bằng những liều thấp aspirine mỗi ngày (hoặc 35.535 người tham dự), sự xuất hiện một ung thư được làm giảm khoảng ¼ suốt trong 3 năm đầu điều trị, với kết quả gần như y hệt ở đàn ông (23%) và phụ nữ (25%). Nguy cơ xuất huyết do sử dụng aspirine có khuynh hướng thu giảm với thời gian điều trị.

Công tŕnh nghiên cứu thứ hai hướng về sự xuất hiện các di căn sau khi ung thư được chẩn đoán, trong 5 thử nghiệm về pḥng ngừa các tai biến tim mạch bởi aspirine với liều 75 mg mỗi ngày, hoặc 17.285 người. Thời gian theo dơi trung b́nh là 6,5 năm. Ở đây nguy cơ ung thư với di căn xa đă được thu giảm 36% trong nhóm được điều trị bởi aspirine, so sánh với nhóm chứng được điều trị với placebo. Sự thu giảm này đặc biệt (46%) đối với các adénocarcinome, những dạng thường gặp nhất của các khối u rắn (tumeur solide) (nhất là đại tràng, phổi, tiền liệt tuyến...), thấp hơn đối với những dạng ung thư khác. Đối với các adénocarcinome này, nguy cơ được giảm 31% nếu đó là chẩn đoán ung thư di căn tức thời, và 55% khi đó là những di căn xuất hiện sau chẩn đoán. Hiệu quả này độc lập với tuổi tác và giới tính.

Công tŕnh nghiên cứu thứ ba, được công bố bởi Lancet Oncology, công tŕnh này cũng quan tâm đến tác dụng pḥng ngừa của aspirine lên các di căn, nhưng lần này so sánh những kết quả của các thử nghiệm với những kết quả được tiến hành theo những phương pháp học khác. Công tŕnh này xác nhận sự làm giảm các di căn đối với nhiều loại ung thư được khảo sát (đại trực tràng, thực quản, dạ dày, vú...).

Đối với GS François Chast (Hôtel-Dieu, Paris), “ Sau khi đă lần lượt công nhận những tính chất của aspirine trong rhumatologie rồi trong cardiologie, ta sẽ hướng về một cách không thể tránh được sự công nhận lợi ích của aspirine trong pḥng ngừa các ung thư. Những kết quả trở nên có ư nghĩa bắt đầu từ năm thứ ba đối với liều cao, từ năm thứ 5 đối với những liều thấp, điều này khá nhanh, và công tŕnh nghiên cứu xác nhận sự cần thiết của sử dụng thuốc mỗi ngày.”Nhưng cũng phải cần ghi nhớ vài hạn chế của những công tŕnh nghiên cứu này, nhà dược học đă đánh giá như vậy : “ Các công tŕnh nghiên cứu này đă được thực hiện từ những công tŕnh nghiên cứu về pḥng ngừa tim mạch, vậy không phải được thai nghén bởi các chuyên gia về ung thư học. Ngoài ra, không nên xem thường nguy cơ xuất huyết tiêu hóa với aspirine, mặc dầu ta có thể làm giảm nó một cách đáng kể bằng cách điều trị những bệnh nhân này để trừ khử vi khuẩn Helicobacter pylori khỏi dạ dày của họ, hay bằng cách thêm vào điều trị một inhibiteur de la pompe à protons để hạn chế nguy cơ loét.” Nhưng, GS Chast đă đánh giá như vậy, “ những kết quả này có vẻ như báo hiệu mùa xuân của một phương thức mới trong ung thư học. ”
(LE FIGARO 21/3/2012)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 294 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (26/1/2013)

7/ METFORMINE : MỘT TÁC DỤNG CHỐNG UNG THƯ ?

Người ta đă đưa ra hai giả thuyết nói rằng hai loại thuốc, aspirine và các statines (statines được sử dụng chống xơ vữa động mạch), có những tác dụng pḥng ngừa chống lại nhiều ung thư.

Một dược phẩm được kê đơn rộng răi như là thuốc hạ đường huyết ở những người bị bệnh đái đường loại 2, metformine có cùng những tác dụng pḥng ngừa ; vào năm 2005, một công tŕnh nghiên cứu đă báo cáo một sự hạ tỷ lệ mắc phải ung thư ở những người đái đường được điều trị. Những thử nghiệm thí nghiệm sau đó đă xác nhận tác dụng chống khối u của dược phẩm này (trên những ḍng khác nhau những tế bào ung thư người và trên một mô h́nh động vật ung thư phổi) cũng như một sự gia tăng tính nhạy cảm đối với hóa học trị liệu của những tế bào ung thư của vú, tuyến tiền liệt và phổi. 3 công tŕnh nghiên cứu trên người mới đây cho thấy rằng, ở những người không bị đái đường, một sự hạ 40% nguy cơ ung thư đại trực tràng, một sự giảm trong ṿng 6 tuần thể tích khối u của tuyến tiền liệt ở 22 bệnh nhân, một tỷ lệ sống sót được nhân lên 3,7 lần ở 178 phụ nữ bị ung thư buồng trứng so với 239 người khác không sử dụng metformone. Cơ chế tác dụng vẫn c̣n chưa được hiểu rơ.
(PARIS MATCH 10/1 – 16/1/2012)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 296 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (14/2/2013)

7/ ĐỂ LÀM GIĂN CÁC ĐỘNG MẠCH : NHỮNG STENTS BIORESORBABLE.

GS Antoine Lafont, cardiologue interventionnel thuộc bệnh viện châu Âu Georges-Pompidou, trưởng kíp sửa chữa động mạch Inserm U970, giáo sư của đại học Paris-Descartes, đồng sáng lập của société française ART (đă hiệu chính stent biorésorbable châu Âu và đă được Agence nationale de sécurité du médicament (NSM) cho phép đánh giá trên vào năm 2012), giải thích những thiết bị mới này tránh những biến chứng lâu dài như thế nào.

Hỏi : Ông hay mô tả cho chúng tôi système implantable nhằm làm giăn rộng một động mạch bị hẹp.
GS Antoine Lafont : Đó là một ḷ xo nhỏ (petit ressort), bằng kim loại, được chế tạo để khai tắc một động mạch. Protocole gồm có đưa một cathéter được trang bị ở đầu mút bởi một stent, qua động mạch quay (cổ tay) hay động mạch đùi (của bẹn) và đưa nó đến tận vùng bị hẹp, ở đó stent triển khai, đẩy lùi các thành động mạch và mở lỗ của huyết quản. Khi đó máu có thể lưu thông một cách b́nh thường và mang đến tim oxy mà nó cần.

Hỏi : Ta đặt một stent trong những trường hợp nào ?
GS Antoine Lafont : ở những bệnh nhân bị cơn đau thắt ngực (đau tim do oxy mang đến tim không đủ) hay khi một xơ vữa động mạch nghiêm trọng làm hẹp những động mạch của các cẳng chân, gây đau trong các bắp chân khi bước. Chứng xơ vữa động mạch cũng có thể làm thương tổn các động mạch cảnh, khi đó gây nên một nguy cơ đột qụy.

Hỏi : Tính hiệu quả của những stent kim loại này là ǵ ?
GS Antoine Lafont : Mặc dầu stent đă có phép thay thế một số lớn các pontage, tuy nhiên chỉ định của chúng có những giới hạn. Để sử dụng các stent kim loại, chiều dài của hẹp động mạch không được quá quan trọng và những tắc động mạch (obstruction artérielle) không được quá nhiều. Các kết quả tỏ ra thỏa măn, ngay cả 25 năm sau khi đặt. Nhất là nhờ sử dụng các thuốc chống ngưng kết tiểu cầu (trong đó có aspirine), trong khoảng 12 tháng, để ngăn cản sự tạo thành các cục máu đông. Mặc dầu đó là một g̣ bó nhưng cần thiết. Cũng như ở tất cả những bệnh nhân bị bệnh động mạch vành, aspirine sẽ vẫn là một điều trị suốt đời. Các stent không chữa nguyên nhân của bệnh, nếu ta không điều trị những yếu tố nguy cơ (thuốc lá, tăng cholestérol-huyết, cao huyết áp, bệnh đái đường), những hẹp động mạch khác sẽ có thể xuất hiện.

Hỏi : Ta có thể lấy stent đi không ?
GS Antoine Lafont : Không, bởi v́ chúng được xếp lợp trong thành động mạch (sau một phản ứng sẹo), thành động mạch dày lên và có thể phát khởi một phản ứng viêm, có nguy cơ dần dần gây tắc lần nữa động mạch (resténose). Trong những trường hợp hiếm, sự tắc này xảy ra ngay cả một cách đột ngột. Do đó cần theo dơi đều đặn.

Hỏi : Làm sao, qua thời gian, ta đă t́m cách làm giảm những nguy cơ này ?
GS Antoine Lafont : Vào đầu những năm 2000, ta đă hiệu chính một kỹ thuật để bọc những stent kim loại này bằng một loại thuốc được phân tán tại chỗ để làm giảm phản ứng hóa sẹo. Kết quả : ta đă cải thiện mức độ dung nạp của các stent nhưng bệnh nhân buộc phải kéo dài sự sử dụng hai loại thuốc chống ngưng kết (đôi khi suốt đời) để tránh mối nguy cơ huyết khối.

Hỏi : Thành phần của những stent mới có thể tiêu đi (stents résorbables) này là ǵ ?
GS Antoine Lafont : Chúng không c̣n bằng kim loại nữa mà bằng polymère biorésorbable. Sau khi đă khai thông động mạch, chúng giữ động mạch mở cho đến khi các thành hóa sẹo. Rồi chúng tự phá hủy dần dần để biến mất trong khoảng 18 tháng.

Hỏi : Những công tŕnh nghiên cứu nào đă chứng tỏ tính hiệu quả của những stents biorésorbables nhất này ?
GS Antoine Lafont : Đă có nhiều công tŕnh quốc tế, trong đó công tŕnh mới nhất đang được tiến hành trên 1000 bệnh nhân. Những thử nghiệm này đă cho thấy một độ dung nạp tốt.

Hỏi : Ta có thể đặt bao nhiêu stent trên một bệnh nhân ?
GS Antoine Lafont : Đối với các stent biorésorbable, không có giới hạn. Đối với các stent kim loại, ở tại chỗ, ta cố giới hạn số lượng đặt.

Hỏi : Nói tóm lại những ưu điểm của các stent biorésorbable là ǵ ?
GS Antoine Lafont : 1. V́ chúng biến mất (như các chỉ tiêu) trong 18 tháng, nên chúng tránh những biến chứng về lâu về dài. 2. Trái với những stent kim loại, ta có thể đặt bao nhiêu stent biorésorbable nếu cần. 3. Chúng cho phép thu giảm 1 tháng thời gian điều trị bởi hai thuốc chống tiếu cầu. 4. Trong vài tháng, thành động mạnh lấy lại tính mềm dẻo của nó, bởi và thành không bị xếp lợp vào trong lồng kim loại của stent.
(PARIS MATCH 10/1-16/1/2013)

THỜI SỰ Y HỌC SỐ 297 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (23/2/2013)

9/ MÁY BAY : BƯỚC ĐỂ TRÁNH VIÊM TĨNH MẠCH

Những chuyến bay đường dài làm dễ nguy cơ viêm tĩnh mạch (phlébite), thậm chí nghẽn tắc động mạch phổi (embolie pulmonaire).

PNEUMOLOGIE. “ Đối với chúng tôi, đó là syndrome de malaise sur la passerelle au petit matin ” (hội chứng khó ở vào sáng sớm trên cầu thang máy bay), BS Philippe Bargain, thầy thuốc của phi trường Roissy đă kể lại như vậy. Sau một chuyến bay hơn 10 giờ, người hành khách trước đó đă uống một viên thuốc ngủ để ngủ, đứng dậy để bước xuống máy bay và cảm thấy khó ở. “ Trong số 60 triệu hành khách mỗi năm của phi trường Roissy, chúng tôi chứng thực khoảng một chục trường hợp mỗi năm, trong đó 2 hoặc 3 trường hợp tử vong ”, Philippe Bargain đă giải thích như vậy. Nguyên nhân của những triệu chứng khó ở này ? Nghẽn tắc động mạch phổi tiếp theo sau một huyết khối tĩnh mạch sâu (thrombose veineuse profonde) (hay viêm tĩnh mạch) do sự tạo thành của một cục máu đông trong các tĩnh mạch chi dưới. Lúc đứng dậy sau nhiều giờ không động đậy, người hành khách huy động cục máu đông và gởi nó vào trong tuần hoàn phổi.

Những tai biến cực kỳ nghiêm trọng này may mắn thay khá hiếm. Vào năm 2001, Samu 93 đă quan sát 56 trường hợp nghẽn tắc động mạch phổi nghiêm trọng trên hơn 135 triệu hành khách. “ Hoặc một tần số 0,4 trường hợp đối với một triệu hành khách và 4,8 trường hợp đối với những chuyến bay trên 10.000 km. Nhưng tỷ lệ thật sự của những biến cố bị đánh giá thấp bởi v́ những bệnh nhân với một huyết khối tĩnh mạch sâu hay một nghẽn tắc động mạch phổi không trầm trọng, một biến cố xảy ra thứ phát hay một ngừng tim đă không được tính đến ”, BS Frédéric Lapostolle, tác giả của công tŕnh nghiên cứu đă giải thích như vậy.

Tại sao nguy cơ viêm tĩnh mạch gia tăng lúc đi máy bay ? Huyết khối tĩnh mạch sâu (thrombose veineuse profonde) phát triển khi có sự hiện diện của một thương tổn của thành các huyết quản, do sự ứ đọng máu trong tĩnh mạch (satse veineuse), và những biến đổi của máu : đó là tam chứng Virschow. Tư thế ngồi, do làm dễ sự đè ép kéo dài các đùi chân lên cạnh của ghế ngồi, là nguồn gốc của các thương tổn của thành các mạch máu. Sư đè ép này cũng làm dễ sự ứ máu trong tĩnh mạch (stase veineuse), gây nên một sự gia tăng độ nhớt của máu (viscosité sanguine). Từ lâu được mệnh danh là hội chứng hạng kinh tế (syndrome de la classe économique), bệnh huyết khối nghẽn mạch (maladie thromboembolique) gây bệnh cho tất cả các hành khách, như hiệp hội của các thầy thuốc chuyên khoa phổi Hoa Kỳ vừa nhắc lại điều đó ngày 7/2 đồng thời công bố những khuyến nghị trong tạp chí Chest.

“ Toàn bộ, lúc đi máy bay, nguy cơ mắc phải một bệnh huyết khối nghẽn mạch, không nhất thiết trầm trọng, là 1 đối với 5000 chuyến bay ”, GS Joseph Emmerich, thầy thuốc chuyên khoa tim, chuyên gia các bệnh mạch máu ở Bệnh viện châu Âu Georges Pompidou (Paris) đă tương đối hóa như vậy. Tuy nhiên hiệp hội Hoa Kỳ nhắc lại rằng vài yếu tố làm gia tăng khả năng bị một viêm tĩnh mạch lúc đi máy bay. Đó là trường hợp của những tiền sử bị bệnh huyết khối nghẽn mạch, ung thư, phẫu thuật gần đây, tuổi tác, ngừa thai, thai nghén, béo ph́, bất động và do sự việc ngồi trên một chiếc ghế cạnh cửa sổ. “ Mặc dầu nguy cơ liên kết với thời gian hành tŕnh được xác lập một cách rơ ràng (bắt đầu từ 5 hay 7 giờ bay), vai tṛ của những yếu tố khác vẫn không chắc chắn. Nguy cơ dường như gia tăng ở các phụ nữ ”, BS Frédéric Lapostolle đă phát biểu như vậy.

Sau khi đă nhận diện những hành khách có nguy cơ, các thầy thuốc người Mỹ đă đưa ra một loạt những lời khuyên dành cho những kẻ đi những chuyến bay trên 6 giờ. Các thầy thuốc này chủ trương đi lại thường xuyên, kéo giăn các cơ của bắp chân, nên dùng những ghế ngồi cạnh hành lang và dùng tất và chausette de contention. “ Tôi khuyên uống nhiều. Điều này bắt buộc phải đứng dậy để đi tiểu. Để làm tốt, phải đi lại trong máy bay mỗi giờ, GS Isabelle Quéré, thầy thuốc mạch máu của CHU de Montpellier đă giải thích như vậy. Đối với contention, chú ư đừng bó chặt đầu gối cũng như đáy của đùi, điều đó có thể gây nên một viêm tĩnh mạch ”. Sau cùng Isabelle Quéré hết sức khuyên không nên dùng thuốc ngủ và uống rượu trên những chuyến bay dài tạo nên sự bất động,“ sự ứ đọng máu tĩnh mạch gây nên bởi tư thế khi đó giống hệt với sự ứ đọng của một gây mê, yếu tố của bệnh huyết khối nghẽn mạch ”.

PH̉NG NGỪA.

Ngược lại hiệp hội Hoa Kỳ vẫn rất thận trọng về sự pḥng ngừa bằng các thuốc kháng đông như aspirine hay các héparine. Một thực hành rất phổ biến ở Pháp. “ Không có lư do để mở rộng một dự pḥng bằng aspirine hay héparine”, GS Joel Constans, thay thuốc chuyên khoa mạch máu (Bordeaux) đă nhấn mạnh như vậy. “ Những người có nguy cơ cao đă được điều trị. Không có ǵ phải làm khác ngoài việc khuyên họ đứng dậy mỗi hai hay ba giờ và bước trong máy bay”, GS Joseph Emmerich đă nhấn mạnh như vậy. Đối với những hành khách đă bị một viêm tĩnh mạch nhưng không được điều tri kháng đông, quyết định sẽ tùy thuộc từng trường hợp.
(LE FIGARO 13/2/2012)

florida80
04-12-2019, 17:53
Những Ảnh Hưởng Của Bưởi Và Nước Ép Trái Bưởi Trên Một Số Thuốc
(The Effects of Grapefruit and its Juice on Certain Drugs)
Lynn Ly phỏng dịch thông tin của bộ Y Tế Canada (Health Canada)
( ww.hc-sc.gc.ca/hl-vs/iyh-vsv/food-aliment/grapefruit-pamplemousse-eng.php )


VẤN ĐỀ (ISSUE)

Một số loại thuốc có thể gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng hoặc đôi khi đe dọa tính mạng nếu sử dụng thuốc kết hợp với trái bưởi hoặc nước ép trái bưởi

BỐI CẢNH / TRƯỜNG HỢP (BACKGROUND)

Ăn trái bưởi hoặc uống nước ép trái bưởi (bưởi tươi hay bưởi đông lạnh) có thể gia tăng, hoặc làm suy giảm (dù tính cách làm suy giảm ít xảy ra), tác dụng của một số loại thuốc. Có một số chất trong trái bưởi gây trở ngại chiều hướng cơ thể tiếp nhận một số loại thuốc.

Những ảnh hưởng này được biết là do gây ra bởi sự kết hợp giữa trái bưởi hay nước ép trái bưởi với một số loại thuốc và các sản phẩm y tế được sử dụng trong việc điều trị những t́nh huống được liệt kê như sau :

•Đau thắt lồng ngực (Angina)

•Chứng bồn chồn, lo âu ( Anxiety)

•Ung thư (Cancer)

•Động Kinh ,co giật (Convulsions)

•Bệnh trầm cảm (Depression)

•Nam giới bị rối loạn cương dương (Erectile dysfunction)

•Trào ngược tiêu hóa , trào ngược dạ dày (Gastrointestinal reflux)

•Cao huyết áp (High blood pressure)

•Cao mỡ trong máu ( High lipid (cholesterol) levels )

•Bệnh HIV / AIDS (HIV/AIDS)

•Những bệnh Nhiễm trùng (Infections)

•Loạn nhịp tim (Irregular heart rhythms)

•Đào thải cơ quan nội tạng được gán ghép vào cơ thể ( Organ graft rejections)

•Những vấn đề về tâm thần (Psychotic problems)


Loại cam chua chẳng hạn như trái Seville, hay nước ép của nó, có thể có ảnh hưởng tương tự như trái bưởi hay nước ép trái bưởi . Hầu hết các loại trái cây thuộc gịng họ cam quưt, chẳng hạn như chanh vỏ xanh , chanh vỏ vàng, những loại cam ngọt tự nhiên và quưt th́ lại không có ảnh hưởng nhu trái bưởi. Tuy nhiên, tangellos, loại bưởi lai , cũng có thể gây ảnh hưởng trở ngại dược tính của thuốc.

TRÁI BƯỞI VÀ NƯỚC ÉP TRÁI BƯỞI CÓ PHẢN ỨNG VỚI MỘT SỐ LOẠI THUỐC RA SAO ?

Trái bưởi có những chất mà có thể gây ảnh hưởng / gây trở ngại đến phương cách cơ thể hấp thụ và chuyển hóa một số loại thuốc . Sự ảnh hưởng này gia tăng dược tính thuốc cao hơn b́nh thường khi lưu chuyển trong ḍng máu của bạn, mà đôi khi có thể cho kết quả nghiêm trọng hay những phản hồi bất lợi đe dọa đến tính mạng.

Tối thiểu một ly nước ép trái bưởi ( khoảng 8 oz = 250 ml) có thể gia tăng mức độ thuốc trong máu và những ảnh hưởng có thể kéo dài trong ba ngày hoặc lâu hơn. V́ vậy, ngay cả khi bạn uống nước ép trái bưởi vào buổi sáng và đến tối trước khi đi ngủ mới uống thuốc, th́ mức độ của thuốc trong máu của bạn vẫn có thể bị ảnh hưởng .

Những ảnh hưởng này có khác biệt giữa người này và người kia, loại thuốc này với thuốc kia, và giữa các cách tạo ra nước ép trái bưởi. Điều này dẫn đến sự gia tăng không thể phỏng đoán về mức độ thuốc trong máu, mà trong một số trường hợp có thể gây ra ảnh hưởng hết sức nghiêm trọng.

HĂY GIẢM THIỂU TỐI ĐA HUNG HIỂM CHO BẠN (MINIMIZING YOUR RISK)

Hăy thực hiện các biện pháp pḥng ngừa sau đây để giảm thiểu nguy cơ tác dụng phụ khi ăn trái bưởi hay uống nước ép trái bưởi:

•Nếu bạn đang uống thuốc để trị liệu bất kỳ căn bệnh nào liệt kê ở trên , đừng uống nước ép trái bưởi hoặc ăn bưởi dưới bất kỳ h́nh thức pha chộn nào cho đến khi bạn tham vấn với bác sĩ và dược sĩ của bạn về tiềm năng những phản ứng bất lợi đối với loại thuốc bạn uống


•Tránh dùng bất cứ thuốc cùng chung với nước bưởi, trái bưởi cho đến khi bạn đă tham vấn với bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn.


•Hăy đọc nhăn hiệu dán trên thực phẩm và dán trên các sản phẩm thiên nhiên về sức khỏe để đảm bảo là chúng không chứa tính chất của trái bưởi hoặc nước ép trái bưởi , hoặc loại cam Seville.


•Luôn luôn tường thuật bất kỳ phản ứng phụ của thuốc cho bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn biết ngay lập tức.


CHÍNH PHỦ CANADA BẢO VỆ SỨC KHỎE CỦA BẠN THẾ NÀO ?

Bộ Y Tế Canada (Health Canada) đă ban hành một số tài liệu truyền thông để nhắc nhở các bác sĩ , nhân viên Y tế về những tương tác có thể xảy ra giữa trái bưởi và các loại thuốc. Ngoài ra, Bộ Y Tế Canada đang làm việc với các nhà sản xuất dược phẩm mà có dược phẩm bị ảnh hưởng bất lợi với trái bưởi, để đảm bảo rằng các thông tin cần thiết được ghi chú rơ ràng trên nhăn hiệu dược phẩm. Một tư vấn công cộng đă được ban hành về trái bưởi và ảnh hưởng của nó trên một số loại thuốc.

CẦN THÊM THÔNG TIN ?

Hăy liên lạc với bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn nếu bạn có bất kỳ nghi vấn ǵ về sự tương tác có thể xảy ra giữa các loại thuốc bạn đang dùng đối với trái bưởi.

Tường thuật , báo cáo tất cả các phản ứng phụ hoặc tương tác thuốc với bưởi xin liên lạc:

Adverse Reaction Information Unit
Marketed Health Products Directorate
Health Products and Food Branch
Health Canada, Tunney's Pasture, Locator 0201C1
Ottawa, Ontario, K1A 1B9
Telephone: (613) 957-0337 or Toll-free: 1-866-234-2345
Facsimile: (613) 957-0335 or 1-866-678-6789
or visit our website at Drugs and Health Products

(All information below will be available in the Web version only)

Phản ứng phụ hoặc tương tác thuốc với bưởi cũng có thể được báo cáo cho Trung tâm ADR khu vực sau đây:

British Columbia
BC Regional ADR Centre
c/o BC Drug and Poison
Information Centre
1081 Burrard St.
Vancouver BC V6Z 1Y6
Telephone: 604-806-8625
Fax: 604-806-8262
adr@dpic.bc.ca

Ontario
Ontario Regional ADR Centre
LonDIS Drug Information Centre
London Health Sciences Centre
339 Windermere Rd.
London ON N6A 5A5
Telephone: 519-663-8801
Fax: 519-663-2968
adr@lhsc.on.ca

New Brunswick, Nova Scotia, Prince Edward Island and Newfoundland
Atlantic Regional ADR Centre
Queen Elizabeth II Health
Sciences Centre
Drug Information Centre
Rm. 2421, 1796 Summer St.
Halifax NS B3H 3A7
Telephone: 902-473-7171
Fax: 902-473-8612
rxkls1@qe2-hsc.ns.ca

Saskatchewan
Sask ADR Regional Centre
Dial Access Drug Information Service
College of Pharmacy and Nutrition
University of Saskatchewan
110 Science Place
Saskatoon SK S7N 5C9
Telephone: 306-966-6340 or 800-667-3425
Fax: 306-966-6377
vogt@duke.usask.ca

Québec
Québec Regional ADR Centre
Drug Information Centre
Hôpital du Sacré-Coeur de Montréal
5400, boul. Gouin ouest
Montréal QC, H4J 1C5
Telephone: 514-338-2961 or 888-265-7692
Fax: 514-338-3670
cip.hscm@sympatico.c a

Những nguồn thông tin cho các Bác Sĩ, Dược Sĩ và Nhân Viên Y Tế:

The Compendium of Pharmaceuticals and specialities (CPS). Lilac Section: Clin Info-Drug Administration and Grapefruit Juice.

florida80
04-12-2019, 17:55
Thuốc Cai Nghiện Hút Thuốc Lá Liên Quan Đến
Nguy Cơ Tim Mạch, Trầm Cảm và Ư Tưởng Tự Sát
('Quit smoking' drug linked to heart risk )
Lynn Ly phỏng dịch bản tin từ trang web Health của BBC News
http://www.bbc.co.uk/news/health-14015089


Theo BBC New , ngày 4 tháng 7, 2011

Các nhà nghiên cứu cho biết là một loại thuốc được người hút thuốc sử dụng để giúp họ bỏ thuốc lá đang làm tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim (heart attacks) và các vấn đề tim mạch nghiêm trọng khác.

Một nhóm nghiên cứu quốc tế đă cứu xét lại những cuộc nghiên cứu liên quan đến hơn 8.000 người hút thuốc lá, và đă phát hiện người sử dụng thuốc Champix bị phát bệnh nhiều hơn những người dùng loại thuốc ngụy tạo khác (the other dummy drugs)

Việc cứu xét này, được đăng tải trên Tạp chí Hiệp hội Y tế Canada (the Canadian Medical Association Journal, www.cmaj.ca/content/183/12/1359 ), đề nghị người nghiện hút thuốc không nên sử dụng thuốc để cai nghiện .

Tuy nhiên, các nhà sản xuất Pfizer nói rằng thuốc giúp cai nghiện là "một chọn lựa hỗ trợ quan trọng" (important option) để trợ giúp người nghiện bỏ hút thuốc lá, và các chuyên gia đă "nghiêm trọng hóa" việc hút thuốc như đó là 1 yếu tố chính về nguy cơ bệnh tim .

Thuốc Champix (varenicline)được chỉ định trong hơn 955,000 toa thuốc tại Anh Quốc vào năm ngoái (2010). Hoạt tính của thuốc là cắt giảm cơn thèm thuốc, nhưng trong quá khứ thuốc có liên quan đến bệnh trầm cảm và những ư tưởng tự sát.

"NHỮNG LỢI ÍCH SO VỚI NHỮNG HUNG HIỂM RỦI RO"

Việc cứu xét này, được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu tại trung tâm Wake Forest Baptist Medical thuộc Bắc Carolina, trường đại học Y khoa Johns Hopkins - Maryland, và trường Đại học Anh Quốc Eat Anglia (the UK's University of East Anglia) , đă cứu xét 14 cuộc nghiên cứu nhắm vào các vấn đề tim mạch ở những người dùng thuốc cai nghiện

Tất cả đơn vị được loại trừ những người có tiền sử bệnh tim, và được kéo dài từ bảy tuần đến một năm. Phần lớn những người tham gia là nam giới ở độ tuổi dưới 45.

Trong số 4.908 người dùng thuốc Champix (được gọi là Chantix ở Mỹ), 52 người có trải nghiệm về vấn đề tim mạch nghiêm trọng như nhồi máu cơ tim (heart attack) hay chứng loạn nhịp tim / nhịp tim bất thường (arrhythmia) so với 27 người trong số 3308 người dùng các loại thuốc ngụy tạo (dummy drugs).

Cơ quan Quản lư thực phẩm và thuốc men Hoa Kỳ (FDA) đă ra cảnh báo được in ra trên tờ giấy thông tin nho nhỏ về nguy cơ những ư tưởng tự sát và mới gần đây đă bổ xung vào tờ thông tin về nguy cơ tim mạch đối với những người đă có bệnh tim sau khi xem xét một nghiên cứu trên 700 người.

Trên tạp chí, các nhà nghiên cứu cho biết: "Các bác sĩ lâm sàng nên cẩn thận cân bằng giữa những rủi ro nhiêm trọng về tim mạch có liên quan với việc sử dụng thuốc varenicline so với các lợi ích được biết đến của thuốc cai nghiện thuốc lá."

Bác sĩ Yoon Loke của trường đại học East Anglia, người đă thực hiện việc cứu xét, đă đồng ư về các con số liên quan là nhỏ, nhưng nói lên khả năng là các cuộc nghiên cứu đă chỉ xem xét ở những người khỏe mạnh - và ông cho rằng nguy cơ có thể lớn hơn cho những người hút thuốc mà đă có vấn đề về tim mạch .

Ông bổ xung thêm : "Có rất nhiều những chọn lựa khác để trợ giúp người ta cai nghiện thuốc lá mà không đ̣i hỏi dùng thuốc cai nghiện"

HĂY THAM VẤN VỚI BÁC SĨ CỦA BẠN

Doireann Maddock, một y tá nhiều thâm niên về tim mạch tại Tổ Chức Tim Mạch của Anh Quốc (British Heart Foundation), cho biết: "Hút thuốc lá là một trong những yếu tố nguy cơ chính gây ra bệnh tim. Trong thực tế, người hút thuốc đă nhân đôi nguy cơ bị nhồi máu cơ tim (heart attack) so với những người chưa bao giờ hút thuốc, và việc cai bỏ hút thuốc là điều quan trọng duy nhất nhất mà bạn có thể làm để cải thiện sức khỏe tim mạch của bạn."

Bà nói sự phát hiện trong nghiên cứu là "một mối quan ngại cần lưu ư" , nhưng cần thiết có thêm những nghiên cứu tiếp theo sau đó trước khi cho kết luận chắc chắn loại bỏ thuốc cai nghiện hút thuốc.

"Những người đang sử dụng thuốc varenicline để giúp họ bỏ thuốc lá th́ không nên ngừng sử dụng nó bởi v́ tự nghiên cứu một ḿnh, ngược lại nên tṛ chuyện với bác sĩ của họ về việc này và về các biện pháp đă có sẵn để chọn lựa lại."

Một phát ngôn viên của Pfizer, công ty sản xuất thuốc cai nghiện, cho biết công ty không đồng ư với giải thích của các dữ liệu "trong nghiên cứu, cho biết đă có " hạn chế ".

Ông nói thêm là: "Champix là một lựa chọn điều trị quan trọng đối với những người hút thuốc muốn bỏ thuốc lá . Bệnh nhân nên tham khảo ư kiến với các bác sĩ của họ để xác định những loại thuốc thích hợp cho họ."

Cơ Quan Qui Định Về Các Sản Phẩm Chăm Sóc Sức Khoẻ (The Medicines Healthcare products Regulatory Agency = MHRA), cơ quan giám sát an toàn của các loại thuốc được sử dụng ở Anh, tuyên bố là họ đă nhận được 306 báo cáo về các phản ứng phụ của thuốc liên quan đến vấn đề tim mạch do thuốc cai nghiện kể từ khi được đưa ra thị trường trong năm 2006 - và có 17 trường hợp tử vong trong số đó.

Tuy nhiên, họ cũng đă nhấn mạnh rằng các báo cáo đó đă không chứng minh được một liên kết đến thuốc cai nghiện, và các yếu tố cơ bản khác có thể đă dự phần gây ra tác hại.


Quote:
Lynn chú thích:

Cả thảy có hơn 950,000 loại toa thuốc về cai nghiện hút thuốc lá ở Anh Quốc vào năm trước (2010) khi bản tin này đưa ra .

Hiện tại , th́ có khá nhiều liệu pháp trong việc điều trị cai nghiện hút thuốc lá để lựa chọn. Việc dùng thuốc cai nghiện đang được lưu ư v́ luôn cho phản ứng phụ và 1 số tác hại nhưng các cuộc nghiên cứu vẫn chưa cho chứng minh đầy đủ để đi đến khẳng định là nên loại bỏ chất nào trong thuốc, hoặc loại bỏ loại thuốc cai nghiện nào, hay cấm chỉ định dùng loại thuốc cai nghiện trong trường hợp nào



Lynn Ly (04-07-2011)

florida80
04-12-2019, 17:56
Thuốc Cai Nghiện Hút Thuốc Lá Liên Quan Đến
Nguy Cơ Tim Mạch, Trầm Cảm và Ư Tưởng Tự Sát
('Quit smoking' drug linked to heart risk )
Lynn Ly phỏng dịch bản tin từ trang web Health của BBC News
http://www.bbc.co.uk/news/health-14015089


Theo BBC New , ngày 4 tháng 7, 2011

Các nhà nghiên cứu cho biết là một loại thuốc được người hút thuốc sử dụng để giúp họ bỏ thuốc lá đang làm tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim (heart attacks) và các vấn đề tim mạch nghiêm trọng khác.

Một nhóm nghiên cứu quốc tế đă cứu xét lại những cuộc nghiên cứu liên quan đến hơn 8.000 người hút thuốc lá, và đă phát hiện người sử dụng thuốc Champix bị phát bệnh nhiều hơn những người dùng loại thuốc ngụy tạo khác (the other dummy drugs)

Việc cứu xét này, được đăng tải trên Tạp chí Hiệp hội Y tế Canada (the Canadian Medical Association Journal, www.cmaj.ca/content/183/12/1359 ), đề nghị người nghiện hút thuốc không nên sử dụng thuốc để cai nghiện .

Tuy nhiên, các nhà sản xuất Pfizer nói rằng thuốc giúp cai nghiện là "một chọn lựa hỗ trợ quan trọng" (important option) để trợ giúp người nghiện bỏ hút thuốc lá, và các chuyên gia đă "nghiêm trọng hóa" việc hút thuốc như đó là 1 yếu tố chính về nguy cơ bệnh tim .

Thuốc Champix (varenicline)được chỉ định trong hơn 955,000 toa thuốc tại Anh Quốc vào năm ngoái (2010). Hoạt tính của thuốc là cắt giảm cơn thèm thuốc, nhưng trong quá khứ thuốc có liên quan đến bệnh trầm cảm và những ư tưởng tự sát.

"NHỮNG LỢI ÍCH SO VỚI NHỮNG HUNG HIỂM RỦI RO"

Việc cứu xét này, được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu tại trung tâm Wake Forest Baptist Medical thuộc Bắc Carolina, trường đại học Y khoa Johns Hopkins - Maryland, và trường Đại học Anh Quốc Eat Anglia (the UK's University of East Anglia) , đă cứu xét 14 cuộc nghiên cứu nhắm vào các vấn đề tim mạch ở những người dùng thuốc cai nghiện

Tất cả đơn vị được loại trừ những người có tiền sử bệnh tim, và được kéo dài từ bảy tuần đến một năm. Phần lớn những người tham gia là nam giới ở độ tuổi dưới 45.

Trong số 4.908 người dùng thuốc Champix (được gọi là Chantix ở Mỹ), 52 người có trải nghiệm về vấn đề tim mạch nghiêm trọng như nhồi máu cơ tim (heart attack) hay chứng loạn nhịp tim / nhịp tim bất thường (arrhythmia) so với 27 người trong số 3308 người dùng các loại thuốc ngụy tạo (dummy drugs).

Cơ quan Quản lư thực phẩm và thuốc men Hoa Kỳ (FDA) đă ra cảnh báo được in ra trên tờ giấy thông tin nho nhỏ về nguy cơ những ư tưởng tự sát và mới gần đây đă bổ xung vào tờ thông tin về nguy cơ tim mạch đối với những người đă có bệnh tim sau khi xem xét một nghiên cứu trên 700 người.

Trên tạp chí, các nhà nghiên cứu cho biết: "Các bác sĩ lâm sàng nên cẩn thận cân bằng giữa những rủi ro nhiêm trọng về tim mạch có liên quan với việc sử dụng thuốc varenicline so với các lợi ích được biết đến của thuốc cai nghiện thuốc lá."

Bác sĩ Yoon Loke của trường đại học East Anglia, người đă thực hiện việc cứu xét, đă đồng ư về các con số liên quan là nhỏ, nhưng nói lên khả năng là các cuộc nghiên cứu đă chỉ xem xét ở những người khỏe mạnh - và ông cho rằng nguy cơ có thể lớn hơn cho những người hút thuốc mà đă có vấn đề về tim mạch .

Ông bổ xung thêm : "Có rất nhiều những chọn lựa khác để trợ giúp người ta cai nghiện thuốc lá mà không đ̣i hỏi dùng thuốc cai nghiện"

HĂY THAM VẤN VỚI BÁC SĨ CỦA BẠN

Doireann Maddock, một y tá nhiều thâm niên về tim mạch tại Tổ Chức Tim Mạch của Anh Quốc (British Heart Foundation), cho biết: "Hút thuốc lá là một trong những yếu tố nguy cơ chính gây ra bệnh tim. Trong thực tế, người hút thuốc đă nhân đôi nguy cơ bị nhồi máu cơ tim (heart attack) so với những người chưa bao giờ hút thuốc, và việc cai bỏ hút thuốc là điều quan trọng duy nhất nhất mà bạn có thể làm để cải thiện sức khỏe tim mạch của bạn."

Bà nói sự phát hiện trong nghiên cứu là "một mối quan ngại cần lưu ư" , nhưng cần thiết có thêm những nghiên cứu tiếp theo sau đó trước khi cho kết luận chắc chắn loại bỏ thuốc cai nghiện hút thuốc.

"Những người đang sử dụng thuốc varenicline để giúp họ bỏ thuốc lá th́ không nên ngừng sử dụng nó bởi v́ tự nghiên cứu một ḿnh, ngược lại nên tṛ chuyện với bác sĩ của họ về việc này và về các biện pháp đă có sẵn để chọn lựa lại."

Một phát ngôn viên của Pfizer, công ty sản xuất thuốc cai nghiện, cho biết công ty không đồng ư với giải thích của các dữ liệu "trong nghiên cứu, cho biết đă có " hạn chế ".

Ông nói thêm là: "Champix là một lựa chọn điều trị quan trọng đối với những người hút thuốc muốn bỏ thuốc lá . Bệnh nhân nên tham khảo ư kiến với các bác sĩ của họ để xác định những loại thuốc thích hợp cho họ."

Cơ Quan Qui Định Về Các Sản Phẩm Chăm Sóc Sức Khoẻ (The Medicines Healthcare products Regulatory Agency = MHRA), cơ quan giám sát an toàn của các loại thuốc được sử dụng ở Anh, tuyên bố là họ đă nhận được 306 báo cáo về các phản ứng phụ của thuốc liên quan đến vấn đề tim mạch do thuốc cai nghiện kể từ khi được đưa ra thị trường trong năm 2006 - và có 17 trường hợp tử vong trong số đó.

Tuy nhiên, họ cũng đă nhấn mạnh rằng các báo cáo đó đă không chứng minh được một liên kết đến thuốc cai nghiện, và các yếu tố cơ bản khác có thể đă dự phần gây ra tác hại.


Quote:
Lynn chú thích:

Cả thảy có hơn 950,000 loại toa thuốc về cai nghiện hút thuốc lá ở Anh Quốc vào năm trước (2010) khi bản tin này đưa ra .

Hiện tại , th́ có khá nhiều liệu pháp trong việc điều trị cai nghiện hút thuốc lá để lựa chọn. Việc dùng thuốc cai nghiện đang được lưu ư v́ luôn cho phản ứng phụ và 1 số tác hại nhưng các cuộc nghiên cứu vẫn chưa cho chứng minh đầy đủ để đi đến khẳng định là nên loại bỏ chất nào trong thuốc, hoặc loại bỏ loại thuốc cai nghiện nào, hay cấm chỉ định dùng loại thuốc cai nghiện trong trường hợp nào

florida80
04-12-2019, 17:57
LOÀI CHUỘT GERBILS BỊ ĐIẾC ĐĂ NGHE LẠI ĐƯỢC SAU KHI CHỮA TRỊ BẰNG TẾ BÀO GỐC
(DEAF GERBILS 'HEAR AGAIN' AFTER STEM CELL CURE)
Lynn Ly phỏng dịch thông tin từ báo BBC


Theo James Gallagher Health and science reporter, BBC News
12/09/2012

Các nhà nghiên cứu Anh cho biết họ đă thực hiện một bước tiến lớn trong việc điều trị chứng điếc sau khi các tế bào gốc đă được sử dụng để khôi phục lại thính giác ở động vật ngay ở lần đầu thí nghiệm.

Một nghiên cứu trong các báo cáo trên tạp chí Nature (wXw.nature.com/nature/journal/vaop/ncurrent/full/nature11415.html )cho biết : Một phần khả năng thích giác có biểu hiện tiến bộ khi các dây thần kinh trong tai, truyền âm thanh vào trong năo, khi được tái tạo ở loài chuột gerbils

Để có được cùng một sự cải thiện ở những người bị điếc sẽ là một sự thay đổi từ t́nh trạng không thể nghe thấy ǵ đến có thể nghe một cuộc tṛ chuyện. Tuy nhiên, việc điều trị cho con người vẫn c̣n là một viễn cảnh xa xôi.

Nếu bạn muốn nghe radio hoặc có một cuộc tṛ chuyện với một người bạn, tai của bạn phải hoán chuyển các sóng âm thanh trong không khí thành tín hiệu điện từ (electrical signal) mà năo có thể hiểu được tín hiệu đó . Điều này xảy ra ở tại sâu bên trong bộ phận tai trong, nơi những rung động di chuyển những sợi lông nhỏ và sự di chuyển này tạo ra một tín hiệu điện từ.

Tuy nhiên, trong khoảng 1/10 người bị mất thính giác hoàn toàn , tế bào thần kinh tiếp nhận tín hiệu bị hư hại . Việc này cũng giống như thả dùi cui sau chặng đầu tiên của một cuộc chạy đua tiếp sức.

Mục đích của các nhà nghiên cứu tại Đại học Sheffield là thay thế những tế bào thần kinh "baton-dropping" (baton-dropping =spiral ganglion neurons = tế bào thần kinh hạch xoắn ốc ) bằng những tế bào mớị

Họ đă sử dụng tế bào gốc từ một phôi thai người (human embryo), tế bào có khả năng trở thành bất kỳ loại tế bào nào trong cơ thể con người từ dây thần kinh, bắp thịt , da đến thận.

Một hợp chất hóa học được thêm vào các tế bào gốc mà chuyển đổi tế bào gốc thành các tế bào tương tự như các tế bào thần kinh hạch xoắn ốc. Đây là cách tiêm chích tinh vi vào bên trong tai của 18 con chuột gerbils bị điếc. Qua 10 tuần khả năng nghe của các con chuột gerbils được cải thiện. Trung b́nh là 45% khả năng thính giác của chúng đă được phục hồi vào lúc cuộc nghiên cứu kết thức.

Tiến sĩ Marcelo Rivolta nói: "Điều này có nghhĩa là từ t́nh trạng bị điếc, khi bạn không thể nghe thấy một tiếng động của xe cam nhông hoặc xe tải trên đường, đến bạn có thể nghe được một cuộc tṛ chuyện. Việc này chưa phải là cách trị liệu khỏi hẳn bệnh điếc, họ sẽ không có thể nghe được tiếng th́ thầm, nhưng họ chắc chắn sẽ có thể để duy tŕ một cuộc tṛ chuyện trong một căn pḥng."

Khoảng 1/3 trong số những con chuột gerbils đă hồi đáp thực sự tốt về cách điều trị này với con số phục hồi tăng lên đến 90% về khả năng thính giác , trong khi chỉ có dưới 1/3 trong số những con chuột gerbils th́ như không có phản ứng ǵ cả .

Những con chuột Gerbils được sử dụng v́ chúng có thể nghe âm thanh trong một phạm vi tương tự như người, không giống như những loài chuột khác mà có thể nghe âm thanh ở tần số cao hơn.

Các nhà nghiên cứu phát hiện việc cải thiện thính giác bằng cách đo sóng năo (brainwaves). Loài chuột Gerbils cũng đă được thử nghiệm trong ṿng chỉ có 10 tuần. Nếu điều này trở thành một phương pháp điều trị cho người th́ hiệu quả sẽ cần phải được chứng nghiệm trong thời gian dài hơn .

Cũng c̣n có những các câu hỏi xung quanh sự an toàn và đạo đức của các phương pháp điều trị tế bào gốc mà sẽ cần phải được giải quyết.

'RẤT ĐÁNG KHÍCH LỆ'

Giáo sư Dave Moore, giám đốc của Viện Nghiên cứu Y học của Hội đồng Nghe Nghiên cứu ở Nottingham (the Medical Research Council's Institute of Hearing Research in Nottingham), đă nói với BBC: "Thật là một thời điểm quan trọng, phát hiện này thực sự là một bước tiến bộ lớn." Tuy nhiên, ông cảnh báo rằng sẽ có khó khăn trong việc áp dụng thành tích này ở con người . Ông nói: "Vấn đề thực sự lớn nhất là việc đưa tế bào gốc vào bộ phận của tai trong, nơi tê bào gốc sẽ hoạt động tốt. Tế bào gốc cực kỳ nhỏ và rất khó khăn để đưa vào và đó sẽ là một điều cam kết đáng lo ngại "

Tiến sĩ Ralph Holme, người đứng đầu nghiên cứu hóa sinh của cơ quan từ thiện về khiếm thính (the charity Action on Hearing Loss), cho biết: "Nghiên cứu này là rất đáng khích lệ và cung cấp cho chúng tôi hy vọng thực sự rằng việc này sẽ có thể để sửa chữa nguyên nhân thực sự của một số t́nh trạng mất thính giác trong tương lai

Đối với hàng triệu người bị giảm thính lực đang bị bào ṃn chất lượng sống th́ điều này chưa thể đến sớm hơn"

florida80
04-12-2019, 17:57
BỆNH TIỂU ĐƯỜNG LIÊN KẾT ĐẾN UNG THƯ VÚ Ở PHỤ NỮ SAU MĂN KINH
( Diabetes Link To Breast Cancer In Post-Menopausal Women )
Lynn Ly phỏng dịch thông tin từ báo BBC

Theo Báo BBC , 13 /09/ 2012

Những phụ nữ ở thời kỳ sau khi măn kinh bị bệnh tiểu đường loại 2 cho biểu hiện có nguy cơ ung thư vú cao hơn 27% so với b́nh thường, các chuyên gia tuyên bố.

Một nhóm nghiên cứu quốc tế, viết trên Tạp Chí về Ung Thư của Anh Quốc (the British Journal of Cancer), đă kiểm tra 40 nghiên cứu riêng biệt khi quan sát tiềm năng liên kết giữa ung thư vú và bệnh tiểu đường.

Bị béo ph́ hoặc dư thừa thể trọng (trong lượng cơ thể) có liên quan đến cả hai t́nh trạng (sau khi măn kinh và tiểu đường loại 2).

Tuy nhiên, các chuyên gia về ung thư cũng cho rằng có thể có một kết nối trực tiếp giữa cả hai.

Có hơn 56.000 phụ nữ bị ung thư vú tham gia vào những nghiên cứu này .

Những phụ nữ ở thời kỳ sau khi măn kinh bị bệnh tiểu đường loại 2 đă bị gia tăng 27% hung hiểm về ung thư vú. Tuy nhiên, không có sự liên kết đối với phụ nữ ở thời tiền măn kinh (Pre-Menopause) hoặc những người có bệnh tiểu đường loại 1.

Các nhà nghiên cứu cũng đề nghị rằng chỉ số tỷ lệ về trọng lượng và chiều cao (BMI=body mass index) mà cao , thường liên kết với bệnh tiểu đường, có thể là một yếu tố góp phần cơ bản.

HOẠT ĐỘNG CỦA HORMONE / NỘI TIẾT TỐ

Giáo sư Peter Boyle, chủ tịch Hiệp Hội Quốc tế về Nghiên Cứu Pḥng Ngừa (the International Prevention Research Institute) , trưởng nhóm nghiên cứu, cho biết: "Chúng tôi vẫn chưa biết cơ chế ẩn tàng lư do tại sao bệnh tiểu đường loại 2 có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú . Nói khác đi, ư nghĩ cho rằng bị dư thừa trọng lượng thường liên quan đến bệnh tiểu đường loại 2, và ảnh hưởng do thay đổi hoạt động hormone có thể chịu một phần trách nhiệm đối với tiến tŕnh mà dẫn đến sự phát triển ung thư vú. Tuy nhiên , cũng không thể loại trừ một số yếu tố liên quan đến bệnh tiểu đường mà có thể được tham gia vào quá tŕnh nàỵ."

Martin Ledwick, người y tá trưởng về thông tin tại Viện Nghiên Cứu Ung Thư Anh Quốc ( Cancer Research UK ), đă nói " Nghiên cứu này không chứng minh rơ ràng có mối quan hệ nguyên nhân và kết quả giữa bệnh tiểu đường và nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ sau măn kinh. Tuy nhiên như chúng ta đă biết chỉ số tỷ lệ về trọng lượng và chiều cao (high BMI) cao có thể góp phần tăng nguy cơ của cả hai : bệnh tiểu đường loại 2 và bệnh ung thư vú, điều này có nghĩa là phụ nữ nên cố gắng duy tŕ tốt trọng lượng cơ thể để được khoẻ mạnh "

Lynn Ly (17/09/2012)

florida80
04-12-2019, 17:58
GEN KHUYẾT TẬT LIÊN QUAN ĐẾN CƠN ĐAU THẮT LƯNG
(Gene flaw linked to low back pain)
Lynn Ly phỏng dịch thông tin từ báo BBC

Theo Báo BBC , 21 /09/ 2012

Các nhà khoa học đă xác định một loại khuyết tật gen có liên quan đến những vấn đề của đĩa đệm cột sống là một nguyên nhân phổ biến của đau vùng dưới thắt lưng (low back pain).

Nghiên cứu của Anh Quốc, được công bố trong sách Niêm Giám Những Bệnh Thấp Khớp (the Annals of Rheumatic Diseases), đă quan sát 4.600 người và t́m thấy gen PARK2 có liên quan đến những vấn đề đĩa đệm cột sống do tuổi tác .

A third of middle-aged women have problems with at least one spinal disc - and the condition is known to be inherited in up to 80% of patients.

Một phần ba trong tổng số phụ nữ trung niên có vấn đề vế đĩa đệm cột sống ít nhất một và t́nh trạng được biết đến là được di truyền th́ lên 80% trong số người bệnh.

Các chuyên gia cho biết việc phát hiện loại gen nay có thể dẫn đến các phương pháp điều trị mới mà đang được tiến hành thực hiện.

Chứng bệnh đau lưng làm Anh Quốc phí tổn 7 tỷ Euros hằng năm v́ chi phí nghỉ việc do bệnh và chi phí điều trị, nhưng những nguyên nhân của t́nh trạng này không được hiểu thật trọn vẹn .

Ở chứng thoái hóa đĩa điệm cột sống vùng thắt lưng (Lumbar Disc Degeneration = LDD), đĩa đệm cột sống bị mất nước và mất đi bề dày, và các đốt sống (vertebrae) bên cạnh chúng phát triển tăng trưởng xương được gọi là osteophytes, dẫn đến đau vùng dưới thắt lưng .

Những nhà nghiên cứu của trường cao đẳng King tại London (The King's College London)đă tiến hành Chụp H́nh Cộng Hưởng Từ Trường (MRI scans) tất cả những người trong cuộc nghiên cứu này và quan sát sự khác biệt trong sự thành lập di truyền của chúng.

Họ phát hiện ra các biến thể (variants) của gen PARK2 xuất hiện có hiệu lực ở những người bị thoái hóa đĩa đệm và sự ảnh hưởng đến tốc độ mà t́nh trạng của họ bị xấu đi.

NHỮNG TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG

Các nhà nghiên cứu, được tài trợ bởi Wellcome Trust và Arthritis Research của Anh Quốc, nói rằng hiện nay cần có thêm nhiều nghiên cứu nữa để t́m hiểu làm thế nào gen ảnh hưởng đến t́nh trạng chứng bệnh.

Nhưng họ đề nghị là có thể làm ngừng hoạt động của gen này ở những người bị chứng thoái hóa đĩa điệm cột sống vùng thắt lưng (LDD).

Và họ nói rằng chứng thoái hóa đĩa điệm cột sống vùng thắt lưng có thể là yếu tố môi trường - chẳng hạn như chế độ ăn uống và lối sống có thể tạo ra những ǵ đă được biết như là những biến đổi biểu sinh ( epigenetic changes) đối với gen.

Các nhà nghiên cứu nói rằng một khi cơ chế được hiểu rơ tường tận, phát hiện của họ có thể dẫn đến việc tiến hành những phương pháp điều trị mới cho chứng bệnh đau dưới thắt lưng.

Tiến sĩ Frances Williams, thuộc bộ phận nghiên cứu song sinh và dịch tễ học di truyền (genetic epidemiology) tại trường Cao đẳng King tại London, ông đă làm việc về nghiên cứu này, cho biết: "Chúng tôi biết rằng những người bị ṃn đĩa đệm cột sống là có nguy cơ gia tăng từng phần về chứng đau dưới thắt lưng, nhưng những đĩa đệm cốt sống của người b́nh thường th́ rất khó để có được để nghiên cứu như vậy cho đến bây giờ kiến thức của chúng ta về sinh học của con người b́nh thường dă không đầy đủ.

"Công việc trong tương lai của các nhà nghiên cứu đĩa đệm để xác định vai tṛ của gen PARK2 sẽ phải thực hiện, chúng tôi hy vọng sẽ làm sáng tỏ một trong hầu hết các nguyên nhân quan trọng của chứng đau vùng dưới thắt lưng.

"Đúng là khả thi nếu chúng ta có thể xây dựng trên những phát hiện này và nâng cao kiến ​​thức của chúng ta về t́nh trạng đau lưng, chúng ta một ngày có thể có phát triển mới, phương pháp điều trị hiệu quả hơn cho bệnh đau lưng gây ra bởi t́nh trạng phổ biến này".

Giáo sư Alan Silman, giám đốc y tế tại Arthritis Research của Anh Quốc , cho biết: "Chứng thoái hóa đĩa đệm cột sống vùng thắt lưng là một nguyên nhân phổ biến của đau dưới thắt lưng, và nó đang được biết có tới 80% các trường hợp là do cơ sở di truyền, nhưng đây là những thời điểm đầu của một gen vừa được xác định là có liên quan đến cơn đau thường xuyên và t́nh trạng bị vô hiệu hóa.

"Đúng là một khởi đầu đầy hứa hẹn và cung cấp cho chúng ta với các đầu mối đầu tiên về căn bản di truyền của t́nh trạng này, và với nghiên cứu sâu xa hơn, có khả năng có thể dẫn đến sự phát triển về việc điều trị hiệu quả hơn".

Lynn Ly (21/09/2012)

florida80
04-12-2019, 17:59
TẾ BÀO CHẾT KHƠI LÊN NIỀM HY VỌNG VỀ KHẢ NĂNG SINH SẢN VÀ ĐIỀU TRỊ UNG THƯ
(CELL DEATH OFFERS HOPE ON FERTILITY AND CANCER TREATMENT)
Lynn Ly phỏng dịch thông tin từ báo BBC


Theo Báo BBC , 22 /09/ 2012

Một khám phá về tế bào chết đi như thế nào có thể đă dẫn đến đường lối bảo vệ khả năng sinh sản ở phụ nữ đang được trị liệu ung thư, các nhà nghiên cứu đề nghị góp ư .

Các nhà khoa học Úc đă t́m thấy hai loại protein cụ thể mà đă khiến cho các tế trứng chết sớm ở trong buồng trứng (ovaries). Việc ngăn chận những protein này có nghĩa là những tế bào được sinh tồn sau ảnh hưởng của xạ trị (radiotherapy), theo nghiên cứu công bố trong tạp chí Molecular Cell.

Một chuyên gia của Anh Quốc nói với nhà nghiên cứu là "Một điểm khởi đầu đáng khích lệ".

'BẢO VỆ TỐT HƠN' ('BETTER PROTECTION')

Các nhà nghiên cứu từ Viện Walter và Eliza Hall (Walter and Eliza Hall Institute), từ Đại học Monash và Học Viện của Hoàng tử Henry về Nghiên cứu Y khoa đă quan sát các tế bào trứng được gọi là noăn bào nang trứng non (primordial follicle oocytes), những tế bào này chu cấp cho suốt cuộc đời 1 phụ nữ khả năng sản xuất noăn bào (trứng) .

Họ phát hiện khi DNA của các tế bào bị hư hỏng thông qua hóa trị (chemotherapy) hoặc xạ trị (radiotherapy), hai loại protein được gọi là Puma và Noxa đă khiến cho nơan bào (trứng) bị chết. Điều này khiến cho rất nhiều nữ bệnh nhân ung thư bị trở thành vô sinh. Sự suy giảm số lượng tế bào trứng cũng có thể khiến người phụ nữ tiến đến một thời kỳ măn kinh sớm hơn .

Khi những tế bào này đă được điều chỉnh để chúng không c̣n có protein Puma, chúng sẽ không chết sau khi tiếp xúc với xạ trị.

Giáo sư Jeff Kerr, từ Đại học Monash, người đă làm việc trong cuộc nghiên cứu này cho biết: "Đây có lẽ là căn nguyên để quan tâm lo ngại bởi v́ bạn muốn những tế bào trứng bị hư hỏng bị chết đi như vậy là không sản sinh quái thai (con cái không b́nh thường = offspring) ."

Nhưng ông đă nói thêm: "Để ngạc nhiên chúng tôi, chúng tôi thấy rằng không chỉ các tế bào c̣n sống sót bị bức xạ, các tế bào đă có thể sửa chữa những thiệt hại DNA mà chúng đă gánh chịu và có thể rụng trứng và thụ tinh, sản sinh những đứa con khỏe mạnh.

Khi những tế bào cũng thiếu loại protein Noxa, th́ có sự bảo vệ tốt hơn để chống lại tia bức xạ."

SỰ MẤT TRỨNG CHẬM LẠI ('SLOW EGG LOSS')

Giáo sư Clare Scott,từ Viện Walter và Eliza Hall về Nghiên cứu Y Khoa (the Walter and Eliza Hall Institute of Medical Research), người cũng làm việc trong cuộc động vật tại pḥng thí nghiệm, nói thêm: "Điều này có nghĩa rằng trong tương lai, các loại thuốc ngăn chặn các chức năng của protein Puma có thể được sử dụng để ngăn chặn tế bào trứng bị chết ở những bệnh nhân đang điều trị bằng hóa trị hoặc xạ trị.

"Kết quả của chúng ta cho thấy rằng việc này có thể duy tŕ khả năng sinh sản của những bệnh nhân này."

Các nhà nghiên cứu cho biết rằng sự phát hiện cũng có thể có nghĩa là sẽ có thể làm chậm sự mất mát của các tế bào trứng từ buồng trứng, do đó tŕ hoăn t́nh trạng măn kinh sớm.

Tiến sĩ Jane Stewart của Trung tâm Khả Năng Sinh Sản trong Cuộc Đời Newcastle (Newcastle Fertility Centre at Life = Trung tâm Khoa học đời sống), và phát ngôn viên của Hiệp hội sinh sản Anh (the British Fertility Society), cho biết: "Tiềm năng mất khả năng sinh sản là một vấn đề lo lắng của nhiều phụ nữ trẻ đang trải qua các điều trị ung thư."

Trong khi điều này không phải luôn luôn là một vấn đề , nó có thể không phỏng đoán trước và những khả thi về hiệu quả duy tŕ khả năng sinh sản ở phụ nữ vẫn c̣n hạn chế.

"Việc gia tăng sự hiểu biết về những thiệt hại và những tiềm ẩn để trực tiếp bảo vệ buồng trứng và noăn bào sẽ được hoan nghênh và trong khi đó th́ công việc này có thể có một số đường lối chuyển dần sang thực nghiệm lâm sàng - việc này đang được khuyến khích như là một điểm khởi đầu khả thi (bước khởi đầu của 1 công việc thực hiện được)"

Lynn Ly (22/09/2012)

florida80
04-12-2019, 17:59
LOẠI CORONAVIRUS MỚI GIỐNG SARS CORONAVIRUS ĐƯỢC XÁC ĐỊNH BỞI CÁC QUAN CHỨC ANH
( NEW 'SARS-LIKE' CORONAVIRUS IDENTIFIED BY UK OFFICIALS )
Lynn Ly phỏng dịch thông tin từ báo BBC


Theo Báo BBC , 24 /09/ 2012
Do Michelle Roberts biên tập viên về sức khỏe của báo BBC

Một căn bệnh hô hấp mới tương tự như virus SARS đă lây lan toàn toàn cầu / toàn thế giới trong năm 2003 và đă giết chết hàng trăm người đă được xác định trong một người đàn ông đang được điều trị ở Anh Quốc.

Người đàn ông 49 tuổi, được chuyển tới một bệnh viện ở London bằng máy bay cứu thương từ Qatar, là người thứ hai được xác nhận có loại coronavirus này

Trường hợp đầu tiên là một bệnh nhân ở Ả Rập Saudi đă tử vong

Các giới chức vẫn c̣n đang xác định mối đe dọa do loại virus mới có thể gây ra.

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) vẫn chưa có khuyến cáo về hạn chế việc du lịch/ hạn chế đi lại.

Giáo sư John Watson, người đứng đầu khoa các bệnh hô hấp tại Cơ quan Bảo Vệ Sức Khỏe của Anh Quốc (the UK's Health Protection Agency), cho biết: "Dựa trên các kết luận từ mức độ nghiêm trọng về căn bệnh mà đă được xác định trong 2 trường hợp được xác nhận, những bước kế tiếp liền sau đó đă được thực hiện để bảo đảm những người từng tiếp xúc với ca bệnh tại Anh Quốc đă không bị lây nhiễm, và không có bằng chứng cho thấy rằng họ bị nhiễm bệnh.

"Thông tin chi tiết về những ca bệnh đang được khai triển về phía các nhân viên y tế tại Anh Quốc, cũng như việc tư vấn để giúp duy tŕ gia tăng cảnh giác về loại virus này."

Ông cho biết không có bằng chứng cụ thể vế sự lây lan virus này từ người này sang người khác và ông đă chưa có lời khuyên cho các hành khách đi đi lại lại nơi chốn công cộng.

Peter Openshaw, giám đốc của Trung tâm bệnh nhiễm trùng đường hô hấp tại trường Cao Đẳng Imperial London(the Centre for Respiratory Infection at Imperial College London), nói với tờ báo Reuters rằng ở giai đoạn này loại virus mới được phát hiện dường như không minh chứng một mối quan ngại ǵ, và có thể cũng chỉ là được xác định do các kỹ thuật kiểm tra tinh vi.

Coronavirus là những virus có liên quan ṇi giống rộng lớn bao gồm những loại virus gây ra cảm lạnh thông thường và SARS (hội chứng suy hô hấp cấp tính nặng).

Loại virus mới này là khác với từ bất kỳ loại coronavirus đă được xác định trước đó ở người.

Đă có một số ít ca bệnh khác về bệnh hô hấp nghiêm trọng ở Trung Đông trong ba tháng qua, một trong số đó đă được điều trị tại Anh nhưng đă qua đời.

Căn bệnh của người này cũng đang được điều tra, mặc dù không có bằng chứng cho thấy rằng căn bệnh do bởi cùng loại virus gây ra hoặc có liên kết với các ca bệnh hiện tại. Cho đến nay không có những ca bệnh đă được xác định tại Anh Quốc.

SARS là một bệnh nhiễm trùng đường hô hấp nghiêm trọng đă gây ra một đại dịch toàn cầu vào năm 2002, rồi lan rộng từ Hồng Kông đến hơn 30 quốc gia khác nhau trên khắp thế giới, và khiến khoảng 800 người thiệt mạng. Dẫu cho SARS đă không được nhổ tận gốc rễ sự lây lan của nó một cách hoàn toàn vào năm 2003. Giống như các loại coronavirus khác, SARS lây lan qua những giọt chất lỏng của cơ thể sản xuất qua hắt hơi và ho.

Lynn Ly (24/09/2012)

florida80
04-12-2019, 18:00
VIRUS VÔ HẠI TRÊN DA TRỊ MỤN TRỨNG CÁ
("HARMLESS SKIN VIRUS" FIGHTS ACNE )
Lynn Ly phỏng dịch thông tin từ báo BBC
(wXw.bbc.co.uk/news/health-19702511)


Theo Báo BBC , 25 /09/ 2012

MộT loại virus vô hại mà sống trên da của chúng ta có thể được sử dụng như 1 trị liệu cho mụn trứng cá , các nhà khoa học tin tưởng vậy .

Loại virus nay được gọi là thể thực khuẩn (phage) , là một cấu trúc tự nhiên nhằm tiêu diệt vi khuẩn gây mụn trứng cá - Propionibacterium acnes

Quote:
Lynn Ly chú thích:
phage = thể thực khuẩn là 1 loại kư sinh trùng tái tạo từ chính nó ở dạng vi khuẩn .
Propionibacterium acnes là một loại vi khuẩn xâm chiếm nang da và tóc, và là tác nhân chính gây nên mụn trứng cá


Các chuyên gia tại Đại học California, Los Angeles (University of California, Los Angeles = UCLA) và Đại học Pittsburgh đă t́m thấy 11 phiên bản khác nhau của virus trong ḍng họ của thể thực khuẩn này mà có năng lực. Họ lên kế hoạch thực hiện trong pḥng thí nghiệm để xem họ có thể khai thác khả năng của chúng như một liệu pháp.

Những nhà khoa học tại những viện nghiên cứu khác cũng hứng thú quan tâm về việc sử dụng thể thực khuẩn như một cách trị liệu mụn trứng cá.

Nhà khoa học dẫn đầu cuộc nghiên cứu hiện giờ, Giáo sư Robert Modlin, nói :"Mụn trứng cá ảnh hưởng đến hàng triệu người, lúc này chúng tôi có vài phương pháp điều trị an toàn và hiệu quả.

"Việc khai thác khả năng một loại virus tự nhiên làm con mồi ở vi khuẩn mà vi khuẩn là nguyên nhân gây nổi mụn th́ có thể cung cấp một công cụ mới đầy hứa hẹn chống lại những vết thương về vật lư và tâm lư về các vết sẹo do bị mụn trứng cá nặng".

BẢO VỆ TỰ NHIÊN (NATURAL DEFENCE)

Mụn trứng cá gây ra khi nang lông bị bế tắc bởi bă nhờn một chất dầu gọi là sebum, chất này do cơ thể tạo ra để ngăn chặn tóc và da không bị khô.

Một cách phổ thông vi khuẩn vô hại, chẳng hạn như Propionibacterium acnes, sống trên da có thể làm ô nhiễm và lây nhiễm sang các nang lưu giữ chất dầu (plugged follicles) .


Quote:
(Lynn Ly chú thích:
plugged follicles là nang lưu giữ chất dầu cũng như vi khuẩn để làm da tiếp tục sản xuất chất nhờn).


Thể thực khuẩn (phages) xuất hiện trợ giúp làm mất tác dụng (lây nhiễm) này

Khi các nhà khoa học sắp xếp tŕnh tự mật mă DNA của thể thực khuẩn, họ phát hiện ra rằng việc chia sẻ hầu hết các tố chất di truyền của chúng th́ tất cả các virus vô hại này đă có một số đặc tính chính chung.

Tất cả virus này đều mang một gen tạo ra một protein được gọi là endolysin - một loại enzyme để tiêu diệt vi khuẩn bằng cách phá vỡ thành tế bào của vi khuẩn.

Và không giống như các loại thuốc kháng sinh mà tiêu diệt nhiều loại vi khuẩn bao gồm cả những loại vi khuẩn tốt sống trong ruột chúng ta, thể thực khuẩn được thiết lập theo qui tắc để chỉ nhắm đến loại vi khuẩn riêng biệt rơ ràng.

Người cộng tác nghiên cứu, tiến sĩ Jenny Kim, giám đốc bệnh viện UCLA về mụn trứng cá (Acne), mụn trứng cá dạng đỏ (Rosacea) và thẩm mỹ, cho biết: "Thuốc kháng sinh như tetracycline được sử dụng rộng răi mà nhiều chủng loại mụn trứng cá đă dang phát triển sức đề kháng với thuốc này, và các loại thuốc như Accutane, trong khi cho hiệu quả, th́ có thể tạo những phản ứng phụ nguy hiểm, nên đang hạn chế sử dụng những thuốc này. "

Những thể thực khuẩn (phages) có thể có khả năng cung cấp một liệu pháp phù hợp với ít tác dụng phụ hơn, các chuyên gia đă nói với tạp chí của Hiệp Hội Hoa Kỳ chuyên về vi trùng học và Vi Sinh Học ( journal of the American Society for Microbiology, mBio)

Hermione Lawson, thuộc tổ chức Cơ Sở về Da của Anh Quốc (British Skin Foundation), cho biết: "Đây là thông tin rất thú vị hấp dẫn . Mụn trứng cá là một t́nh trạng phổ biến mà ảnh hưởng đến lên đến 8 trong số 10 người ở độ tuổi giữa 11 và 30 ở Anh Quốc, và hiện tại không có cách chữa trị cho căn bệnh về da này.

"Chúng ta am hiểu các triệu chứng của mụn trứng cá có thể làm khổ sở người bị mụn như thế nào, và hoan nghênh bất kỳ sự phát triển nào có thể dẫn đến một cách chữa trị hoặc ít nhất là cho một sự hiểu biết tốt hơn về căn bệnh này."

Lynn ly (25/09/2012)

florida80
04-12-2019, 18:00
YÊU CẦU CÁC NHA SĨ KIỂM TRA UNG THƯ MIỆNG
(PLEA TO DENTISTS TO CHECK FOR MOUTH CANCER)
Lynn Ly phỏng dịch thông tin từ báo BBC
(wXw.bbc.co.uk/news/health-19714151)


Theo Báo BBC , 25 /09/ 2012

Các Nha sĩ cần phải kiểm tra thêm cho bệnh nhân về ung thư miệng, những chuyên gia nói vậy .

Viện nghiên cứu ung thư Anh Quốc (Cancer Research UK) cho biết tỷ lệ ung thư miệng đang gia tăng và một số nha sĩ đang bỏ lỡ cơ hội phát hiện những người có nguy cơ.

Tất cả các nha sĩ nên thăm hỏi bệnh nhân về các yếu tố nguy cơ như hút thuốc hoặc uống nhiều rượu cũng như phát hiện các dấu hiệu sớm báo trước trong miệng, tổ chức từ thiện nói vậy.

Đến khoảng năm 2030, dự đoán sẽ có 9200 trường hợp ung thư miệng hàng năm tại Anh Quốc so với 6240 trong năm 2009.

Ung thư miệng ảnh hưởng đến môi, lưỡi, niêm mạc g̣ má, nướu răng, ṿm miệng (palate) và đáy miệng.

Hiệp HỘi Nha Sĩ Anh Quốc (The British Dental Association) đă cho biết các nha sĩ cần kiểm tra các khu vực này như là một phần của một cuộc kiểm tra nha khoa theo chu kỳ.

Tỷ lệ ung thư miệng đang tiếp tục gia tăng ở cả nam và nữ, và bao gồm tất cả các nhóm tuổi dưới 50 tuổi trong đó có nhiều người trẻ tuổi đang phát triển chứng bệnh ung thư miệng hơn bao giờ hết.

Các yếu tố nguy cơ chính bao gồm việc hút thuốc lá và uống rượu và 1 loại virus được gọi là HPV (Human Papilloma Virus) có thể lây nhiễm miệng là kết quả quan hệ t́nh dục bằng đường miệng.

Hazel Nunn, người đứng đầu Viện nghiên cứu ung thư Anh Quốc về bằng chứng sức khỏe và thông tin, cho biết: "Thông thường ung thư miệng được phát hiện ở giai đoạn cuối khi việc điều trị th́ như đang bị hủy hoại và cơ hội sống sót th́ ít.

"Những nhóm chuyên gia về nha khoa đang trong tư thế hợp nhất lại để trợ giúp phát hiện ung thư miệng ở giai đoạn sớm nhất lúc căn bệnh được điều trị dễ dàng hơn và có nhiều triển vọng."

"Nếu một nha sĩ quan sát răng của một ai đó và biết người này hút 50 điếu thuốc một ngày và cũng uống rượu cao hơn liều lượng đề nghị, ông ta có thể nên quan sát (bệnh nhân) cẩn thận thêm chút nữa."

NHỮNG THAY ĐỔI BẤT THƯỜNG

Chẩn đoán và điều trị sớm có thể gia tăng cơ hội sống sót cho bệnh nhân ngay từ dưới 50% đến khoảng 90%

Hằng năm ung thư miệng giết chết khoảng 1700 người ở Anh Quốc.

Những triệu chứng phổ biến nhất bao gồm những vết lở loét không đau mà không lành, những mảng màu đỏ và trắng, và những biến đổi bất thường trong miệng.

Viện nghiên cứu ung thư Anh Quốc (Cancer Research UK), Hiệp hội Anh Quốc về Thuốc Men đường miệng (the British Society for Oral Medicine), và Hiệp hội Anh Quốc về nghiên cứu Cộng đồng Nha khoa (the British Association for the Study of Community Dentistry) đang yêu cầu các nha sĩ thực hiện việc phát hiện và pḥng ngừa ung thư miệng như một phần bắt buộc trong chương tŕnh đào tạo bổ xung (ongoing training) của các nha sĩ.

Vào tháng Năm , Tổng Cục Hội đồng Nha khoa Anh quốc (General Dental Council = GDC) đă đề nghị thực hiện việc phát hiện ung thư miệng, nhưng chưa bắt buộc nha sĩ làm việc này.

Một phát ngôn viên của GDC cho biết hiện tại Hội đồng không có quyền hạn để giới thiệu những điều chính yếu bắt buộc thực hiện cho đến khi những quy định mới và hướng dẫn mới trở nên có hiệu lực được dựa theo việc quan sát theo dơi đang thực hiện hiện giờ.

Lynn Ly (26/09/2012)

florida80
04-12-2019, 18:02
LOẠI CORONAVIRUS MỚI GIỐNG SARS CORONAVIRUS ĐƯỢC XÁC ĐỊNH BỞI CÁC QUAN CHỨC ANH
( NEW 'SARS-LIKE' CORONAVIRUS IDENTIFIED BY UK OFFICIALS )
Lynn Ly phỏng dịch thông tin từ báo BBC


Theo Báo BBC , 24 /09/ 2012
Do Michelle Roberts biên tập viên về sức khỏe của báo BBC

Một căn bệnh hô hấp mới tương tự như virus SARS đă lây lan toàn toàn cầu / toàn thế giới trong năm 2003 và đă giết chết hàng trăm người đă được xác định trong một người đàn ông đang được điều trị ở Anh Quốc.

Người đàn ông 49 tuổi, được chuyển tới một bệnh viện ở London bằng máy bay cứu thương từ Qatar, là người thứ hai được xác nhận có loại coronavirus này

Trường hợp đầu tiên là một bệnh nhân ở Ả Rập Saudi đă tử vong

Các giới chức vẫn c̣n đang xác định mối đe dọa do loại virus mới có thể gây ra.

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) vẫn chưa có khuyến cáo về hạn chế việc du lịch/ hạn chế đi lại.

Giáo sư John Watson, người đứng đầu khoa các bệnh hô hấp tại Cơ quan Bảo Vệ Sức Khỏe của Anh Quốc (the UK's Health Protection Agency), cho biết: "Dựa trên các kết luận từ mức độ nghiêm trọng về căn bệnh mà đă được xác định trong 2 trường hợp được xác nhận, những bước kế tiếp liền sau đó đă được thực hiện để bảo đảm những người từng tiếp xúc với ca bệnh tại Anh Quốc đă không bị lây nhiễm, và không có bằng chứng cho thấy rằng họ bị nhiễm bệnh.

"Thông tin chi tiết về những ca bệnh đang được khai triển về phía các nhân viên y tế tại Anh Quốc, cũng như việc tư vấn để giúp duy tŕ gia tăng cảnh giác về loại virus này."

Ông cho biết không có bằng chứng cụ thể vế sự lây lan virus này từ người này sang người khác và ông đă chưa có lời khuyên cho các hành khách đi đi lại lại nơi chốn công cộng.

Peter Openshaw, giám đốc của Trung tâm bệnh nhiễm trùng đường hô hấp tại trường Cao Đẳng Imperial London(the Centre for Respiratory Infection at Imperial College London), nói với tờ báo Reuters rằng ở giai đoạn này loại virus mới được phát hiện dường như không minh chứng một mối quan ngại ǵ, và có thể cũng chỉ là được xác định do các kỹ thuật kiểm tra tinh vi.

Coronavirus là những virus có liên quan ṇi giống rộng lớn bao gồm những loại virus gây ra cảm lạnh thông thường và SARS (hội chứng suy hô hấp cấp tính nặng).

Loại virus mới này là khác với từ bất kỳ loại coronavirus đă được xác định trước đó ở người.

Đă có một số ít ca bệnh khác về bệnh hô hấp nghiêm trọng ở Trung Đông trong ba tháng qua, một trong số đó đă được điều trị tại Anh nhưng đă qua đời.

Căn bệnh của người này cũng đang được điều tra, mặc dù không có bằng chứng cho thấy rằng căn bệnh do bởi cùng loại virus gây ra hoặc có liên kết với các ca bệnh hiện tại. Cho đến nay không có những ca bệnh đă được xác định tại Anh Quốc.

SARS là một bệnh nhiễm trùng đường hô hấp nghiêm trọng đă gây ra một đại dịch toàn cầu vào năm 2002, rồi lan rộng từ Hồng Kông đến hơn 30 quốc gia khác nhau trên khắp thế giới, và khiến khoảng 800 người thiệt mạng. Dẫu cho SARS đă không được nhổ tận gốc rễ sự lây lan của nó một cách hoàn toàn vào năm 2003. Giống như các loại coronavirus khác, SARS lây lan qua những giọt chất lỏng của cơ thể sản xuất qua hắt hơi và ho.

Lynn Ly (24/09/2012)

TỔ CHỨC Y TẾ THẾ GIỚI (WHO) CHO BIẾT VIRUS MỚI "GIỐNG SARS' KHÔNG DỄ LAY LAN
(New 'Sars-like' not easily transmitted says WHO)
Lynn Ly phỏng dịch thông tin từ báo BBC
(wXw.bbc.co.uk/news/health-19756089)


Theo Báo BBC , 28 /09/ 2012

Căn bệnh mới về đường hô hấp từ cùng một ḍng họ như virus SARS - có biểu hiện không dễ dàng lây lan , các chuyên gia của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho biết.

Một người đàn ông Qatar, 49 tuổi, nhiễm virus này đang được điều trị tại Anh Quốc . Người đầu tiên được biết là đă có virus này, ở Sandi Arabia, đă chết.

Vào hôm Thứ Sáu Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đă cho biết rằng đà có biểu hiện lại virus mới "không thể dễ dàng lan truyền từ người này sang người khác."

Các virus SARS, bộc phát ở Trung Quốc vào năm 2002, đă giết chết hàng trăm người.

Cả hai loại virus là SARS (hội chứng hô hấp cấp tính nặng) và loại mới, chưa có tên, đều giống như loại virus gây cảm lạnh thông thường - thuộc về ḍng họ coronavirus .

Tuy nhiên, loại virus mới này khác với bất kỳ loại coronavirus đă được nhận dạng trước đây ở người .

Cả hai bệnh nhân được biết là đă có trải nghiệm về virus làm suy thận .

TÍNH CÁCH LÂY LAN TỪ ĐỘNG VẬT SANG NGƯỜI (ZOONOTIC)

WHO cho biết sẽ tiếp tục quan sát theo dơi t́nh h́nh nhưng không khuyến cáo bất kỳ hạn chế đi du lịch đối với 2 khu vực Saudi Arabia hoặc Qatar.

Tuy nhiên họ cho biết họ đă đang làm việc chặt chẽ với chính quyền Saudi trước về lễ hội Hajj sắp tới, lễ hội hàng năm mà người Hồi giáo hành hương đến thánh địa Mecca.

WHO cũng đă công bố các xét nghiệm chẩn đoán đă đang được khai triển thực hiện bởi các nhà khoa học khắp nơi trên thế giới càng nhanh càng tốt.

Trung tâm châu Âu về kiểm soát và pḥng ngừa dịch bệnh (The European Centre for Disease Prevention and Control = ECDC), tổ chức giám sát căn bệnh trong phạm vi toàn khối Châu Âu (European Union), cho biết kết quả ban đầu cho thấy virus này có thể có nguồn gốc từ động vật - những căn bệnh được biết đến là lan truyền từ động vật sang người (zoonotic).

Viết trong tạp chí Eurosurveillance, họ (người đại diện trung tâm) nói: "Đúng là rất khả thi / rất có thể về căn nguyên lây lan bệnh từ động vật sang người và có khác biệt trong phương cách tác động (behaviour) so với SARS."

Lynn Ly (28/09/2012)

florida80
04-12-2019, 18:03
THUỐC MỚI DÙNG TĂNG CƯỜNG MÁU ĐƯỢC THỬ NGHIỆM TẠI ANH
- NƠI DẪN ĐẦU CÁC CUỘC THỬ NGHIỆM LÂM SÀNG
(NEW BLOOD 'BOOSTER' TESTED IN UK-LED CLINICAL TRIALS)
Lynn Ly phỏng dịch thông tin từ báo BBC
(www.bbc.co.uk/news/health-19561158)


Theo phóng viên Y tế Neil Bowdler , Nhật báo BBC

Một bệnh viện ở London đang dẫn đầu cuộc thử nghiệm trên toàn thế giới về một loại thuốc được thiết kế để hỗ trợ việc phục hồi cho bệnh nhân bị mất nhiều máu.

MP4OX được tạo ra từ những thành phần máu đă hết hạn kỳ sử dụng, và mưu cầu tái tạo các chức năng của các tế bào hồng huyết cầu là chuyên chở oxygen đi khắp cơ thể.

MP4OX đang được dùng cho bệnh nhân mất nhiều máu tại 56 trung tâm trên toàn thế giới.

Bệnh viện Hoàng Gia London (Royal London Hospital) đang dẫn đầu các cuộc thử nghiệm lâm sàng.

MP4OX đă được tạo ra bởi Sangart Hoa Kỳ (US pharmaceutical company Sangart), nơi đang tài trợ cho cuộc thử nghiệm này, và là một sản phẩm dựa trên hemoglobin được chế biến từ các thành phần truyền máu đă hết thời hạn.

Những phân tử Haemoglobin (Haemoglobin molecules) là những protein trong các tế bào hồng huyết cầu vận chuyển oxygen đến các cơ bắp và các mô trên khắp cơ thể.

Ở những bệnh nhân bị chấn thương, những người đă đang bị mất nhiều máu, những phân tử này đang trong t́nh trạng thiết hụt nguồn cung cấp, và các nguồn cung cấp những phân tử này yêu cầu MP4OX có thể cung cấp sự gia tăng oxygen đến các cơ quan nội tạng và mô trong cơ thể, để làm giảm nguy cơ bị suy nội tạng.

Họ cho biết thuốc không mang nguy cơ lây nhiễm và có thể được chỉ định là an toàn cho tất cả các bệnh nhân.

Giáo sư Karim Brohi, làm việc tại Barts và Bệnh viện Hoàng Gia London (the Barts and The Royal London Hospital), đang dẫn đầu các cuộc thử nghiệm.

Ông nói với nhật báo BBC: "Chúng tôi đang cho thuốc này cho những người bị thương nặng trong tai nạn xe hơi, bị té cửa sổ, đă bị đâm chém v..v.. , về cơ bản nó là một loại thuốc lưu giữ oxygen và chuyên chở oxigen đến các tế bào bị thiếu oxygen v́ không có đủ máu di chuyển khắp cơ thể."

Loại thuốc này đă được thử nghiệm trong một cuộc thử nghiệm thí điểm gồm có 50 bệnh nhân, trong đó đă biểu hiện cho thấy thuốc an toàn.

Cuộc thử nghiệm thí điểm hiện đă đang được mở rộng tiến tới thành một thử nghiệm trên toàn thế giới bao gồm 360 bệnh nhân, để tiếp tục kiểm tra về an toàn và hiệu quả của nó. Cuộc thử nghiệm đang tiến tới giai đoạn hoàn tất mặc dù các nhà nghiên cứu vẫn chưa quy tŕnh về bất kỳ kết quả nào.

"Trong cuộc thử nghiệm ban đầu, dường như cho thấy những bệnh nhân đă rời khỏi bệnh viện nhanh hơn nhiều hơn so với bệnh nhân không có dùng thuốc", ông nói.

"Đó là một thử nghiệm nhỏ với rất nhiều chỗ cho sai sót, nhưng có một tín hiệu khá mạnh mẽ là đă có nhiều bệnh nhân đă sống sót hơn và ra khỏi bệnh viện ở 28 ngày so với những người đă không có dùng thuốc".

Tuy nhiên, ông đă nhấn mạnh rằng đó chỉ là sau khi kết quả của thử nghiệm . "Giai đoạn 2b" của cuộc thử nghiệm đă đang mở rộng, từ thử nghiệm này họ sẽ biết có bao nhiêu hứa hẹn mà thuốc cho thấy.

Cuộc thử nghiệm này là những ǵ được biết như là "ngẫu nhiên", các bệnh nhân được khai thuốc không theo chủ ư / theo quy định (randomly) hoặc một giả dược (placebo) kèm theo hướng dẫn ở trong một phong b́ niêm phong. Thuốc này cũng được bọc trong một túi màu đen trong pḥng thí nghiệm trước khi giao cho khu vực, khu pḥng, do đó, bác sĩ lâm sàng cũng như bệnh nhân không ai biết những ǵ họ đang được đưa cho.

Những cách đo lường này được thiết kế để nâng cao tính chính xác và tính khách quan của kết quả.

Cuộc thử nghiệm này là một trong nhiều dự án trên khắp thế giới, trong đó các nhà nghiên cứu đang cố gắng để nhân rộng một số chức năng của máu.

Gần đây đài BBC phát thanh 4 tài liệu đă được xem xét về một số trong những nỗ lực, quá khứ và hiện tại, để tạo ra các sản phẩm máu nhân tạo, bao gồm cả những nỗ lực để phát triển các phương pháp điều trị hemoglobin từ vi khuẩn E.coli và từ tế bào gốc.

Tuy nhiên, Giáo sư Brohi nói MP4OX không nên được coi là "máu nhân tạo" ("artificial blood").

Ông nói: "Đây không phải là một chất thay thế cho máu bởi v́ chúng tôi cung cấp ít hơn liều lượng một lon nước uống Coke cho mỗi bệnh nhân - trong khi những bệnh nhân này có thể đă mất đến 5 lít máu - v́ vậy không có cách nào chất này là một thay thế các tế bào hồng huyết cầu cho bệnh nhân", .

"Những ǵ chất này làm là làm tăng khả năng của các tế bào hồng huyết cầu làm công việc của chúng."

Lynn Ly (01/10/2012)

florida80
04-12-2019, 18:04
LỜI KÊU GỌI VỀ VIỆC NGĂN CHẬN THUỐC GIẢ TRÊN TOÀN CẦU
(CALL FOR GLOBAL CRACKDOWN ON FAKE MEDICINES)
Lynn Ly phỏng dịch theo Nhật Báo BBC
( wXw.bbc.co.uk/news/health-20313541 )


Viết bởi : Michelle Roberts , Nhật báo BBC . ( 13-11-2012 )

Một hiệp ước toàn cầu để ngăn chặn (crack down) mối giao dịch thương mại chết người về thuốc giả là rất cấp thiết, các chuyên gia tuyên bố .

Hiện nay, có những biện pháp trừng phạt xung quanh việc sử dụng thuốc lá bất hợp pháp nhiều hơn so với thuốc giả.

Tạp chí Y học Anh viết, các chuyên gia thúc giục Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) thiết lập một khuôn khổ giống như việc kiểm soát thuốc lá để bảo vệ công chúng.

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho biết có hơn 1 trong 10 sản phẩm thuốc tại các quốc gia nghèo là giả mạo . Các chuyên gia nghiên cứu khuyến cáo là 1/3 số thuốc chống sốt rét (malaria drugs) là giả. Ở các nước giàu hơn, thuốc men th́ an toàn hơn, nhưng thuốc không đạt tiêu chuẩn (substandard) và làm sai lệch (falsified) vẫn c̣n gây ra hàng ngàn phản ứng bất lợi và một số trường hợp tử vong.

Gần đây, tại Hoa Kỳ, các nguồn cung cấp thuốc men bị ô nhiễm gây ra một đợt bùng phát bệnh viêm màng năo cho đến nay đă làm 16 người thiệt mạng.

VẤN ĐỀ TOÀN CẦU / TOÀN THẾ GIỚI

Amir Attaran và các đồng nghiệp của Liên đoàn Thế giới của Hiệp hội Y tế Công cộng (the World Federation of Public Health Associations), Liên Đoàn Dược Phẩm Quốc Tế và Hội Đồng Quốc Tế Các Y Tá (nternational Pharmaceutical Federation and the International Council of Nurses), nói rằng trong khi chính phủ cũng như các công ty dược phẩm lấy làm ân hận (deplore) về các loại thuốc không an toàn, th́ lại thật khó khăn để đạt được thỏa thuận về hành động v́ các cuộc thảo luận thường xuyên tiến tới những xung đột dễ dàng xảy ra như giá dược phẩm hoặc các quyền sở hữu trí tuệ.

Mặc dù một số quốc gia cấm thuốc giả theo quy định của pháp luật quốc gia, nhưng không có 1 hiệp ước toàn cầu mà có ư nghĩa là những tổ chưc tội phạm không thể tiếp tục giao dịch trong việc sử dụng tại những quốc gia mà luật pháp lỏng lẻo hoặc không có.

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ước tính gần 1/3 các quốc gia mà thường có ít hay không có quy định về thuốc men.

Trong những bối cảnh khác, những điều qui ước toàn cầu đă giúp những chính phủ tăng cường pháp luật của ḿnh và sự hợp tác quốc tế để kiểm soát nơi trú ẩn - ví dụ, về việc rửa tiền.

Tương tự như vậy, một quyết nghị (protocol) mới theo khuôn khổ qui ước (Framework Convention) về kiểm soát thuốc lá đ̣i hỏi các sản phẩm thuốc lá phải được theo dơi và buộc tội việc buôn bán bất hợp pháp trên toàn cầu - "Việc tạo luật lệ cứng rắn hơn đối thuốc lá giả mạo so với thuốc giả mạo thật là kỳ quaí", Amir Attaran nói.

"Quyết nghị (protocol) bây giờ sẽ làm một yêu cầu để theo dơi và giao dịch các sản phẩm thuốc lá. Thuốc lá có thể mang "mă số xê ri" (serial numbers) do đó có thể theo dơi từ đầu đến cuối"

"Nếu việc này là một điều ǵ đó bạn có thể làm cho một gói thuốc lá $5, Tôi không thấy lư do tại sao chúng ta không thể làm điều đó cho một gói thuốc 3000 dolar US mà có thể cứu sống sinh mạng của bạn."

Ở Canada, chúng tôi đă nh́n thấy một phiên bản giả mạo về thuốc tim mạch Avastin nhập vào quốc gia mà không chứa dược liệu có hiệu lực (active drug), mà chỉ là tinh bột (starch) và và thuốc tẩy sơn móng tay

"Lúc bạn đang đối phó với một loại thuốc như thế nếu có một "mă số xê ri" dán trên thuốc, bạn sẽ có thể dễ dàng nh́n thấy nếu thuốc đó là giả."

WHO nói rằng họ đang cung cấp sự hỗ trợ một cách trực tiếp đến quốc gia và khu vực để tăng cường các loại thuốc quy định . Và việc này cần đến 194 quốc gia là thành viên để quyết định nếu điều ước quốc tế là định hướng tương lai .

Trong năm 2011, một chỉ thị để bảo vệ bệnh nhân từ thuốc chữa bệnh giả đă được sự chấp thuận của Nghị viện Châu Âu (the European Parliament).

Lynn Ly (14-11-2012)
Edited by user Wednesday, November 14, 2012 5:53:20 PM(UTC) | Reason: Not specified

florida80
04-12-2019, 18:05
lly (Lynn Ly)


Rank: Advanced Member



Groups: Y Học Đời Sống, Registered
Joined: 4/5/2011(UTC)
Posts: 5,338



Thanks: 2457 times
Was thanked: 2381 time(s) in 1228 post(s)





CHẾT YỂU LIÊN QUAN ĐẾN LỰC CƠ BẮP
( EARLY DEATH LINK TO MUSCLE POWER )
Lynn Ly phỏng dịch theo Nhật Báo BBC
( wXw.bbc.co.uk/news/health-20406742 )


Biên Tập Viên về Sức Khỏe: Michelle Roberts, nhật báo BBC

Cơ bắp của bạn ra sao lúc c̣n là một thiếu niên có thể cho dự đoán bạn sống thọ bao lâu, hoặc tối thiếu nếu bạn đang là một người đàn ông (người trưởng thành).

Các chuyên gia người Thụy Điển đă theo dơi hơn một triệu nam thiếu niên trong ṿng 24 năm và đă phát hiện những người có lực cơ bắp thấp - những cơ bắp ở chân và cánh tay và kiểu dáng đi khập khễnh không vững - đă bị gia tăng nguy cơ chết yểu (chết sớm).

Nhóm người sau cuộc nghiên cứu BMJ tin rằng sức mạnh cơ bắp phản ánh năng lực luyện tập thể dục phổ thông, điều này giải thích sự liên kết.

Các chuyên gia nhấn mạnh những kết quả phát hiện không có nghĩa là việc tập luyện tạo cho cơ bắp to lớn lên th́ làm cho bạn sống lâu hơn.

Kết quả của việc luyện tập thể dục ít vận dụng cơ bắp ở những người được theo dơi th́ tương tựa như các yếu tố nguy cơ khác mà tạo ra sự chết yểu, chẳng hạn như béo ph́ và huyết áp cao.

Khi các nhà nghiên cứu xem xét các yếu tố nguy cơ được biết đến nhiều hơn, họ đă t́m thấy mối liên hệ giữa sự chết yểu và lực cơ bắp được duy tŕ.

Những người đàn ông ốm ốm và mập mập dường như ở t́nh trạng tồi tệ như nhau về tuổi thọ (life expectancy) nếu họ có lực cơ bắp yếu hơn so với mức trung b́nh, trong khi những người đàn ông vạm vỡ lực lưỡng (burly men) có tỷ lệ sinh tồn cao hơn ngay cả khi họ bị thừa cân.

Trong quá tŕnh nghiên cứu, có khoảng 26,145 (2.3%) người đàn ông đă chết. Nguyên nhân tử vong hàng đầu duy nhất là do tai nạn thương tích, tiếp theo là tự tử, ung thư, bệnh tim mạch và đột quỵ.

Một phần ba các ca tử vong do các nguyên nhân khác đă được các nhà nghiên cứu gom lại và phân nhóm cho những tính toán của họ.

Các thanh thiếu niên được đánh giá trên trung b́nh về sức mạnh cơ bắp từ lúc bắt đầu cuộc nghiên cứu th́ có nguy cơ thấp hơn 20-35% về chết yểu so với bất kỳ nguyên nhân nào khác và cũng so với các loại bệnh về tim mạch.

Những thanh thiếu niên này cũng giảm thiểu 20-30% nguy cơ chết yểu do tự tử, và giảm đến 65% khả năng về bất kỳ chẩn đoán bị tâm thần, chẳng hạn như bệnh tâm thần phân liệt (schizophrenia) hoặc trầm cảm (depression).

Trong khi đó, thanh thiếu niên 16 - 19 tuổi có mức thấp nhất về sức mạnh cơ bắp th́ có nguy cơ tử vong cao nhất trước khi họ đến giữa thập niên 50 tuổi.

Những thanh thiếu niên, tất cả những người được khám tuyển nghĩa vụ quân đội Thụy Điển, được yêu cầu nắm bắt chặt chẽ và làm một số động tác như cong chân và hít đất để đo lường sức mạnh cơ bắp.

Một phát ngôn viên của Cơ Quan Tim mạch Anh Quốc(British Heart Foundation) cho biết: "Các nghiên cứu cho thấy những lợi ích của hoạt động thể chất/hoạt động vật lư ở bất cứ độ tuổi nào mà đă được thực hiện tốt th́ có thể ngăn chặn trẻ con phát triển bệnh tật về sau trong cuộc sống, cũng như cải thiện khả năng tập trung tư tưởng của chúng ở trường học, toàn bộ sức khỏe tinh thần của chúng và sống khỏe mạnh."

Stephen Evans, giáo sư về lănh vực nghiên cứu ảnh huởng của thuốc lên người (pharmacoepidemiolog y) tại Trường Vệ sinh và Y học Nhiệt đới London(the London School of Hygiene and Tropical Medicine), cho biết trong khi có bằng chứng rất rơ ràng về luyện tập thể dục là có lợi cho sức khỏe, nghiên cứu đă không cho thấy việc tập luyện thể dục nhiều hơn là điều nhất thiết sẽ kéo dài tuổi thọ cho bạn.

Và việc khuyến khích mọi người thực hiện hoạt động thể chất/vận động vật lư thường xuyên hơn có thể là một sự thử thách, ông nói thêm.

"Đáng buồn là những thử nghiệm về một can thiệp để tăng cường tập luyện đă không được hiển thị lợi ích đáng chú ư, mặc dù điều đó không ngăn cản tôi và nhiều người khác tập thể dục," Giáo sư Evans nói.

Lynn Ly (21/11/2012)


Quote:
Lynn Ly Chú Thích:

Luyện tập thế dục, thể thao có rất nhiều loại. Phương cách luyện tập tốt nhất đế pḥng chống bệnh tật và kéo dài tuổi thọ là các kiểu luyện tập mang tính cách tốt cho tim mạch và tạo sức dẻo dai cho các bắp thịt, thí dụ như : chạy bộ chậm chậm với bước ngắn, khiêu vũ cổ điển , tập Thái Cực Quyền, đi bộ lên xuống cầu thang (cầu thang có khoảng 13- 15 nấc thang, liên tục lên xuống cầu thang khoảng 7- 10 lần/1 ngày) v..v...

Các kiếu thế dục về tim mạch và tạo sức dẻo dai cho cơ bắp th́ nên thực hiện tối thiểu 30 phút - 1 giờ / 1 ngày , và 3 lần/1 tuần th́ mới đem lại kết quả tốt .

Nói riêng về Thái Cực Quyền, th́ TCQ có nhiều môn phái, và càng ngày càng nhiều hướng dẫn viên. Tuy nhiên, đại đa số hướng dẫn viên đă chuyển môn vơ thuật cổ truyền của TQ này từ mục đích "kiền thân cường thể và điều trị nội thương" thành bộ môn "múa dẻo + múa chậm chậm" ... nên đánh mất dần tác dụng "điều trị nội thương" cúa bộ môn vơ thuật này !!! Tóm lại , người hướng dẫn TCQ phải biết "nội công tâm pháp của TCQ" và cách ứng dụng của chiêu thức TCQ. Cho nên khi học TCQ th́ Lynn đề nghị là bước đầu tiên là xin người hướng dẫn dạy "nội công tâm pháp TCQ" . Học viên cần nên được hướng dẫn "nội công tâm pháp TCQ" trước tiên, để nắm lấy yếu lư vận dụng hơi thở trước khi học chiêu thức ... Điều này quan trọng v́ biết điều hơi vận khí kết hợp với chiêu thức th́ hiệu quả vô cùng. Am hiểu về "nội công tâm pháp TCQ" cũng phân định được tŕnh độ của hướng dẫn viên mà ḿnh theo học đế tránh tốn thời theo học mà hiệu quả lại không cao.

florida80
04-12-2019, 18:05
EM BÉ NHIỄM HIV TẠI MỸ ĐƯỢC 'CHỮA LÀNH' DO SỚM ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ
(US HIV BABY 'CURED' BY EARLY DRUG TREATMENT )

Lynn Ly phỏng dịch theo Nhật Báo BBC
( wXw.bbc.co.uk/news/world-us-canada-21651225 )


Tin đăng ngày 3 tháng 3, 2013 , được cập nhật vào lúc 04:44 giờ địa phương

UserPostedImage
HIV The human immunodeficiency virus (HIV) attacks the immune system

Một bé gái ở Mỹ sinh ra bị nhiễm HIV vừa được chữa khỏi / chữa lành sau khi điều trị rất sớm bằng thuốc tiêu chuẩn, các bác sĩ nói vậy .

Đứa bé tại tiểu bang Mississippi này , hiện giờ là 2 tuổi rưỡi và đă được ngừng dùng thuốc khoảng một năm khi không c̣n có dấu hiệu nhiễm trùng.

Một số xét nghiệm cần phải được thực hiện thêm nữa để xem nếu việc điều trị mà được áp dụng trong ṿng vài giờ sau khi sinh sẽ có hiệu quả đối với những em bé khác.

Nếu bé gái này vẫn khỏe mạnh, th́ sẽ là báo cáo thứ hai trên thế giới về 'chữa lành căn bệnh'.

Bác Sĩ Deborah Persaud, một nhà siêu vi trùng học tại Đại học Johns Hopkins ở Baltimore, đă tŕnh bày những phát hiện tại Hội nghị về Retrovirus và cơ hội nhiễm trùng (the Conference on Retroviruses and Opportunistic Infections) tại Atlanta ..

"Đây là một bằng chứng về khái niệm cho rằng HIV có khả năng có thể chữa lành được ở trẻ sơ sinh", cô Bác Sĩ đă nói vậy.

PHỐI HỢP THUỐC (COCKTAIL OF DRUGS)

Trong năm 2007, Timothy Ray Brown đă trở thành người đầu tiên trên thế giới tin rằng đă được chữa khỏi bệnh HIV.

Nhiễm trùng của anh ta đă được tiêu diệt thông qua một điều trị bệnh bạch cầu (leukaemia)liên quan đến việc phá hủy hệ thống miễn dịch của anh ta và việc cấy ghép tế bào gốc từ một người hiến tặng có một đột biến di truyền hiếm có mà đối kháng chống lại lây nhiễm HIV .

Ngược lại, trường hợp của em bé ở Mississippi th́ liên quan đến một hỗn hợp các loại thuốc được sử dụng rộng răi, được biết đến như một liệu pháp đối kháng retrovirus, đă được sử dụng để điều trị bị nhiễm HIV ở trẻ sơ sinh.

Sự kiện này cho thấy việc điều trị nhanh chóng đă tiêu diệt HIV trước khi nó có thể h́nh thành và ẩn náu trong cơ thể.

Các nguồn chứa đựng tế bào thụ động / tế bào không hoạt động (dormant cells) thường nhanh chóng tái phát lây nhiễm cho bất cứ ai ngừng dùng thuốc, Tiến sĩ Persaud nói vậy.

Đứa bé đă ra đời tại một bệnh viện nông thôn, nơi người mẹ đă chỉ được thử nghiệm là có dương tính với HIV.

Bởi v́ người mẹ đă không được áp dụng bất kỳ điều trị HIV trước khi sinh, các bác sĩ đă biết là em bé có nguy cơ cao bị lây nhiễm.

Các nhà nghiên cứu cho biết em bé đă được chuyển giao cho trường Đại học của Trung tâm Y tế Mississippi (the University of Mississippi Medical Center) tại Jackson.

Ngay khi đó, chuyên gia về nhi khoa HIV là Bác sĩ Hannah Gay đă đưa trẻ sơ sinh này vào phác đồ trị liệu theo cách phối hợp ba tiêu chuẩn thuốc chống HIV chỉ trong ṿng 30 tiếng đồng hồ tuổi đời, ngay cả trước khi các thử nghiệm tại pḥng thí nghiệm gởi đến để khẳng định có nhiễm HIV hay không.
.

Tôi chỉ cảm thấy dường như em bé này có nguy cơ cao hơn b́nh thường và xứng đáng tiếp nhận mũi kim chích tốt nhất của chúng tôi", tiến sĩ Gay nói vậy.

Việc điều trị đă được tiếp tục trong ṿng 18 tháng, ngay tại thời điểm lúc ấy, em bé đă ra khỏi hệ thống thuốc men. Năm tháng sau đó hai mẹ con được điều trị thêm một lần nữa, nhưng đă ngừng điều trị tại thời điểm tạm thời này .

Các bác sĩ đă tiến hành các xét nghiệm để xem nếu virus đă tái xuất hiện trở lại và đă rất ngạc nhiên khi thấy rằng chúng đă không tái xuất hiện.

Bác sĩ Rowena Johnston, thuộc quỹ nghiên cứu bệnh AIDS (the Foundation for Aids Research), nói rằng sự kiện này tiết lộ rằng việc can thiệp sớm mà bắt đầu ngay sau khi vừa sinh sinh ra cho hiệu quả lành bệnh .

"Tôi thực sự tin rằng điều này là rất thú vị".

"Điều này chắc chắn là ca bệnh cho tài liệu đầu tiên mà chúng tôi có thể thực sự tin tưởng về tất cả các thử nghiệm đă được thực hiện."

"Nhiều bác sĩ trong tất cả sáu pḥng thí nghiệm khác nhau đă ứng dụng nhiều cách khác biệt để cố gắng kiểm tra rất tinh vi hầu t́m HIV ở trẻ sơ sinh này và không ai có thể t́m thấy bất kỳ biểu hiện ǵ .

"Và v́ vậy chúng tôi thực sự có thể hoàn toàn tự tin cho kết luận vào thời điểm này là đứa bé có rất nhiều biểu hiện là được chữa khỏi."

Một phát ngôn viên cho tổ chức từ thiện HIV / AIDS Terrence Higgins Trust (the HIV/Aids charity the Terrence Higgins Trust) cho biết: "Điều này rất thú vị, nhưng bệnh nhân vẫn cần liên tục cẩn thận theo dơi để chúng tôi hiểu được những tác động lâu dài cho người mẹ và bất kỳ tiềm ẩn ở trẻ sơ sinh bị nhiễm HIV."

Lynn Ly (04/03/2013)

florida80
04-12-2019, 18:06
THOÁI HÓA HOÀNG ĐIỂM: THUỐC ĐIỀU TRỊ CHOLESTEROL "CÓ THỂ CỨU VĂNG THỊ LỰC'
(MACULAR DEGENERATION: CHOLESTEROL DRUGS 'MAY SAVE SIGHT')
Lynn Ly phỏng dịch theo Nhật Báo BBC
(htXp://www.bbc.co.uk/news/health-22002454)


Tác giả: phóng viên James Gallagher thuộc Y tế và khoa học , Nhật báo BBC
Ngày 2 tháng 4, 2013

Các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ cho biết là thuốc nhỏ mắt được chỉ định dùng để giảm cholesterol (mỡ trong máu) có thể ngăn chặn một trong những dạng phổ biến nhất gây mù ḷa.

Họ đă cho biết là cholesterol ở mức độc cao có thể ảnh hưởng đến hệ miễn dịch và dẫn đến thoái hóa điểm vàng ra sao .

Những thử nghiệm trên chuột và người, đă được công bố trên tạp chí Cell Metabolism (the journal Cell Metabolism), đă cho thấy rằng các tế bào miễn dịch bị hủy diệt khi chúng bị chất béo làm tắc nghẽn .

Những xét nghiệm khác cảnh báo rằng việc nghiên cứu này vẫn c̣n ở giai đoạn đầu.

Hoàng điểm là vùng nhỏ trung tâm trong vơng mạc nơi tập trung các tế bào đặc biệt nhạy cảm với ánh sáng khiến chúng ta nh́n thấy những chi tiết một cách rơ ràng. Khả năng nh́n rơ ràng chi tiết rất quan trọng trong việc đọc sách, lái xe và nhận diện nét mặt của từng người .

Thoái hóa hoàng điểm (Macular degeneration) xuất hiện phổ biến nhiều lên ở tuổi già. Căn bệnh này bắt đầu ở dạng "khô" khi mà các tế bào cảm nhận ánh sáng trong mắt bị tổn hại, rồi th́ có thể tiến triển đến mức đáng sợ hơn là dạng "ướt", khi các mạch máu mới được h́nh thành nhanh chóng có thể gây mù ḷa.

NHỮNG MANH MỐI VỀ CHẤT BÉO

Các bác sĩ tại Đại học Y Khoa Washington (The Washington University School of Medicine) đă điều tra vai tṛ của những đại thực bào (macrophages), một bộ phận của hệ thống miễn dịch, trong quá tŕnh căn bệnh thoái hóa hoàng điểm hoán chuyển từ dạng khô sang dạng ướt .

Một trong các nhà nghiên cứu là Tiến sĩ Rajendra Apte, cho biết vai tṛ của các đại thực bào đă thay đổi và đă kích hoạt việc sản xuất các mạch máu mới.

"Thay v́ thực hiện việc bảo vệ, chúng thúc đẩy căn bệnh phát triển nhanh lên, nhưng chúng tôi không hiểu lư do tại sao các đại thực bào biến chuyển trở thành các tế bào xấu," ông nói với BBC.

Thông thường các tế bào này có thể "ăn" chất cặn béo và gửi trả chúng trở lại vào máu.

Tuy nhiên, nghiên cứu đă cho thấy rằng các đại thực bào cũ hơn đang vật vă gắng sức. Chúng vẫn có thể "ăn" các chất cặn béo, nhưng chúng không thể trục xuất tống ra chất béo. V́ vậy, các đại thực bảo đă trở nên "to lớn cồng kềnh", gây viêm nhiễm, từ đó dẫn đến việc tạo ra các mạch máu mới.

Bác Sĩ Apte nói: "Dựa trên những phát hiện, chúng tôi cần phải điều tra xem có phải là việc mất thị lực do thoái hóa điểm vàng có thể ngăn ngừa bằng loại thuốc nhỏ mắt làm giảm cholesterol hay các loại thuốc khác có thể ngăn chặn sự tích tụ của chất béo ở bên dưới vơng mạc (retina)".

Clara Eaglen, thuộc cơ quan từ thiện khiếm thị RNIB, cho biết: "Nghiên cứu mới này rất thú vị vi cho thấy rằng thuốc giảm cholesterol có thể được sử dụng để ngăn chặn mất thị giác cho hàng ngàn người ở bất kỳ t́nh trạng nào về bệnh thoái hóa hoàng điểm do tuổi tác (AMD) - một nguyên nhân lớn nhất gây mất thị lực hiện giờ tại Anh Quốc .

"Thoái Hóa Hoàng điểm dạng ướt, dạng hung hẵn hơn dạng khô, nó có thể làm bạn mất thị lực ở vùng trung tâm trong ṿng ba tháng nếu không được điều trị.

Clearly this research is still at an early stage but it will be exciting to watch how it progresses and at some point cholesterol-lowering eye drops may become part of a growing army of treatments for sight-threatening eye conditions


"Rơ ràng th́ nghiên cứu này vẫn c̣n ở giai đoạn đầu, tuy nhiên nó đang tạo ra niềm hứng thú trong việc quan sát diễn tiến ra sao và những đặc điểm nào của loại thuốc nhỏ mắt dùng làm giảm cholesterol th́ có thể trở thành 1 bộ phận trong phác đồ điều trị những t́nh trạng mắt bị đe dọa mất thị lực."

Lynn Ly (04/04/2013)

florida80
04-12-2019, 18:07
TRUNG QUỐC: THÊM BỐN TRƯỜNG HỢP NHIỄM CÚM GIA CẦM H7N9
(China: Four more infected with H7N9 bird flu)
Lynn Ly phỏng dịch theo Nhật Báo BBC
(htXp://www.bbc.co.uk/news/health-22016945)


Bốn trường hợp mới đây về 1 loại virus cúm gia cầm mà trước đây chưa từng phát hiện được ở người đă được báo cáo bởi các cơ quan có thẩm quyền tại Trung Quốc.

Ba người phụ nữ khoảng 32, 45 và 48 tuổi, và một người đàn ông 83 tuổi được chẩn đoán từ 19 đến 21 tháng ba là bị bệnh nặng.

Đến nay có bảy trường hợp được xác nhận là thuộc về virus H7N9, Tổ chức Y tế Thế giới cho biết. Hai người đă chết.

Nhưng WHO cho biết là không có bằng chứng lan truyền từ người sang người.

Tuy nhiên, hơn 160 người đă tiếp xúc với những người bệnh th́ đang được theo dơi chặt chẽ.

Cho đến giờ phút này, chưa có ai phát tác ra các triệu chứng.

Các trường hợp mới nhất được t́m thấy tại tỉnh Giang Tô, trong khi các trường hợp trước đó th́ tại các tỉnh Thượng Hải và An Huy.

Hai người tiếp xúc với 1 ca bệnh trong các ca bệnh tại Thượng Hải đă phát triển các triệu chứng họ đang được giám sát kỹ càng.

Một người đă chết c̣n người kia th́ đă phục hồi, tuy nhiên vẫn chưa có sự xác nhận của pḥng thí nghiệm là họ đă bị nhiễm H7N9 hay không .

CÁC BIÊN PHÁP VỆ SINH

Chính phủ Trung Quốc hiện đă tăng cường giám sát dịch bệnh, pḥng chống nhiễm trùng và kiểm soát giao tiếp giữa sức khỏe người và động vật và các ngành công nghiệp.

Chính phủ đă tư vấn cho dân chúng để duy tŕ tốt vệ sinh cá nhân, bao gồm cả việc rửa tay thường xuyên và tránh tiếp xúc trực tiếp với động vật bị bệnh hoặc chết.

WHO không khuyến cáo bất kỳ hạn chế đi du lịch hoặc thương mại.

Bác Sĩ John McCauley, Giám đốc Trung tâm hợp tác với WHO về bệnh cúm (Influenza) tại Viện Nghiên cứu Y học quốc gia MRC, cho biết: "Loại virus thuộc loại thế hệ cấp dưới (subtype)của A(H7N9); Một loại thế hệ cấp dưới mà trước đây không lây nhiễm đến người, và vừa xuất hiện từ nguồn virus cúm gia cầm.

"Vẫn chưa được biết loại virus này được lây truyền ra sao

"Bằng phương cách xác định nguồn lây nhiễm, những phương sách có thể được thực hiện để làm giảm sự lây nhiễm ở con người.

"Trung tâm Kiểm soát và Pḥng ngừa dịch bệnh Trung Quốc đang điều tra liệu có sự truyền nhiễm từ người sang người hay không."

Các xét nghiệm cho thấy loại virus này có thể được điều trị bằng các loại thuốc chống cúm như là Tamiflu và Relenza

Lynn Ly (04/04/2013)

florida80
04-12-2019, 18:08
VITAMIN C DIỆT TRỪ BỆNH LAO KHÁNG THUỐC TRONG THỬ NGHIỆM TẠI PH̉NG THÍ NGHIỆM
(VITAMIN C KILLS DRUG-RESISTANT TB IN LAB TESTS)
Lynn Ly phỏng dịch bài viết www.bbc.co.uk/news/health-22614522


Theo Nhật Báo BBC, Ngày 22 tháng 5, 2013
Tường thuật viên chuyên đề sức khỏe: Michelle Roberts, nhật báo BBC

Vitamin C có thể tiêu diệt bệnh lao kháng nhiều loại thuốc (multidrug-resistant TB; TB = Tubercle Bacillus = Tuberculosis) trong pḥng thí nghiệm, các nhà khoa học đă phát hiện.

Những khám phá bất ngờ này có thể chỉ ra một phương pháp mới để giải quyết vấn đề khó khăn ngày càng gia tăng trong việc điều trị căn bệnh nhiễm trùng này, các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ tại Đại học Yeshiva đă phát biểu trên tờ tuần san khoa học "Nature Communications".

Ước tính đă có khoảng 650.000 người trên thế giới mắc căn bệnh lao kháng nhiều loại thuốc (multidrug-resistant TB).

Những nghiên cứu hiện giờ chủ yếu là xét xem nếu phương cách điều trị cho hiệu quả khi ứng dụng những tác dụng của vitamin C ,th́ phương cách này sẽ hữu ích giống như một loại thuốc điều trị lao ở người.

HOẠT ĐỘNG SƠ KHỞI (EARLY WORK)

Trong những nghiên cứu tại pḥng thí nghiệm, vitamin C đă cho biểu hiện có tác động như một "chất khử" (reducing agent) - một chất ǵ đó kích hoạt việc sản xuất những loại phản ứng oxygen (reactive oxygen species) mà được gọi là gốc tự do (free radicals). Các gốc tự do này tiêu trừ bệnh lao, ngay cả các dạng đối kháng thuốc mà không thể điều trị băng bằng loại thuốc kháng sinh thông thường như isoniazid.

Bác sĩ William Jacobs, người dẫn đầu cuộc nghiên cứu là giáo sư vi trùng học (microbiology) và miễn dịch học (immunology) thuộc phân Khoa Y Học Albert Einstein (Albert Einstein College of Medicine) tại Đại học Yeshiva, cho biết: "Chúng tôi chỉ có thể chứng minh phát hiện này trong ống nghiệm, và chúng tôi không biết phương pháp này sẽ có hiệu quả ở người và ở động vật hay không .

Đây là một nghiên cứu tuyệt vời để suy xét bởi v́ chúng ta có các loại bệnh lao mà chúng ta không có thuốc điều trị, và tôi biết rằng trong pḥng thí nghiệm, chúng tôi có thể tiêu diệt những chủng loại bệnh lao này bằng vitamin C.

Phát hiện này cũng trợ giúp rất nhiều v́ như chúng ta biết là vitamin C rẻ tiền, được phổ biến rộng răi và rất an toàn để sử dụng. Tối thiểu, , công việc này cho chúng ta một cơ chế mới để có thể tận dụng để tấn công căn bệnh lao."

TIỀM NĂNG ĐIỀU TRỊ (POTENTIAL TREATMENT)

Thật khả thi là vitamin C có thể được sử dụng cùng với thuốc chống lao. Ngoài ra, các nhà khoa học có thể tạo ra thuốc chống lao mới mà tạo tác dụng trong việc sản xuất một khối lượng lớn các gốc tự do.

Vitamin C, hay acid ascorbic, có nhiều chức năng quan trọng trong cơ thể, bao gồm cả việc bảo vệ các tế bào và gin giữ chúng khỏe mạnh.

Những nguồn thiên nhiên tốt đẹp chứa vitamin C bao gồm trái cam, trái phúc bồn tử đen (blackcurrants) và bông cải xanh (broccoli), và hầu hết mọi người có thể thu nạp chất này vào cơ thể qua chế độ ăn uống.

Bác Sĩ Ibrahim Abubakar, người đứng đầu khoa bệnh lao tại Y tế Công cộng Anh Quốc(Public Health England), cho biết: "Chúng tôi hoan nghênh bất kỳ nghiên cứu mới mà sẽ mở rộng sự hiểu biết của chúng ta về việc điều trị bệnh lao như thế nào . Trong khi các kết quả của nghiên cứu này biểu hiên đầy hứa hẹn, nghiên cứu tiếp theo là xác nhận những quan sát rất cần thiết trước khi vitamin C có thể được sử dụng để bổ sung trong điều trị lao. "


Quote:
Chú Thích:

Bệnh Lao kháng thuốc (Drug-resistant TB)
•Bệnh lao (TB) gây ra bởi viêm nhiễm vi khuẩn M. tuberculosis


•Ngày càng ngày, các bác sĩ phát hiện các loại thuốc mà họ thường sử dụng để điều trị căn bệnh nhiễm trùng này không c̣n tác dụng v́ bệnh lao đă phát triển sức đề kháng thuốc


•Kháng thuốc phát sinh do sử dụng không đúng loại thuốc kháng sinh, , hay không theo đúng qui định - Thí dụ, trường hợp bệnh nhân không hoàn tất chu kỳ dùng thuốc kháng sinh trong phác đồ điều trị căn bệnh của họ . Điểm tối quan trọng cần biết là dùng bất kỳ loại thuốc kháng sinh nào, người bệnh phải theo đúng qui định đề nghị về liều lượng thuốc và số ngày sử dụng thuốc phải liên tục không được gián đoạn (không nên ngày uống thuốc, ngày không uống thuốc ).

florida80
04-12-2019, 18:09
THUỐC ĐIỀU TRỊ NHỒI MÁU CƠ TIM CÓ THỂ LÀM GIẢM TỔN THƯƠNG MÔ TIM
(HEART ATTACK DRUG MAY REDUCE TISSUE DAMAGE)
Lynn Ly phỏng dịch bài viết wXw.bbc.co.uk/news/health-22655582


Theo Nhật Báo BBC ngày 27, tháng 5, 2013 .

Một loại thuốc mới có thể giúp giảm sự tổn thương cho cơ thể sau một cơn đau tim / nhồi máu cơ tim (heart attack), đột quỵ (stroke) hoặc một phẫu thuật lớn (major surgery) đă được triển khai bởi các nhà khoa học Anh.

Những thử nghiệm trên các con chuột cho thấy hợp chất bảo vệ tim khi lưu lượng máu đột ngột được phục hồi sau một khoảng thời gian mà các mô (tissue) đă đang bị thiếu dưỡng khí oxygen.

MitoSNO vẫn chưa được thử nghiệm trên người, nhưng có thể dẫn đến một loại thuốc hoàn toàn mới.

Các nhà nguyên cứu đă công bố kết quả thử nghiệm trên tạp chí Nature Medicine.

Một trong những vấn đề sau một cơn đau tim / nhồi máu cơ tim là sự tổn thương gây ra cho các mô tim khi lưu lượng máu được phục hồi đột ngột sau một thời gian dài thiếu vắng dưỡng khí oxygen.

Sự lưu chuyển máu chảy trở lại vào các mô tim thường kích hoạt việc sản xuất của các phân tử có hại (harmful molecules), được gọi là các gốc tự do (free radicals), những phân tử này được tạo ra bên trong ti thể (mitochondrion) - nguồn năng lượng của tế bào.


Quote:
Chú thích theo định nghĩa Y Khoa tiếng Việt :

mitochondrion = "Ti Thể" là bào quan phổ biến ở các tế bào nhân chuẩn có lớp màng kép và hệ gene riêng . Ti thể được xem là trung tâm năng lượng của tế bào v́ là nơi chuyển hóa các chất hữu cơ thành năng lượng tế bào có thể sử dụng được là ATP (ATP = Adenosine Triphosphate như là nguồn năng lượng tự nhiên (nature's energizer)



Các loại thuốc mới có tác dụng như "1 công tắc điện làm ngưng" tạm thời các ti thể (mitochondria) trong một vài phút để ngăn chặn một sư gia tăng các gốc tự do.

Trong nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đă thử nghiệm hợp chất trên một con chuột mẫu bị nhồi máu cơ tim.

Đă có những suy giảm rơ rệt trong tổng diện tích về mô tim bị tổn thương ở chuột mà được áp dụng hợp chất thuốc so với với các phương pháp kiềm chế khác .

Các nhà nghiên cứu hy vọng sẽ kiểm nghiệm hợp chất thuốc mới này của họ trong thử nghiệm trên sơ khởi ở người.

"MitoSNO như một công tắc điện làm ngừng một cách hiệu quả ở các ti thể, nó làm chậm lại sự kích hoạt trong những phút quan trọng đầu tiên khi lưu lượng máu chảy lại và bảo vệ mô tim từ những tổn thương tiếp theo sau đó", tiến sĩ Mike Murphy thuộc Đơn vị thuộc Hội đồng Nghiên cứu Sinh học Ti Thể Y Khoa (Medical Research Council Mitochondrial Biology Unit), là trưởng nhóm cuộc nghiên cứu đă nói vậy.

Chúng tôi nghĩ rằng một tiến tŕnh tương tự xảy ra trong các t́nh huống khác mà mô tim bị thiếu oxygen trong một thời gian kéo dài, ví dụ như sau một cơn đột quỵ hoặc trong quá tŕnh phẫu thuật lớn, nơi động mạch chính bị kẹp để tránh bị mất máu.

Chúng tôi hy vọng rằng nếu thử nghiệm MitoSNO trên người thành công th́ cuối cùng có thể được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác của y học."

Bàn thảo và ư kiến về nghiên cứu này từ Tổ chức Tim Mạch của Anh Quốc (the British Heart Foundation), tổ chức tài trợ một phần tài trợ nghiên cứu, cho biết loại thuốc này xuất hiện đầy hứa hẹn.

"Thuốc này có khả năng điều trị người ngay lập tức sau khi một cơn đau tim / nhồi máu cơ tim ngay lúc lưu lượng máu chảy về tim được khôi phục như là một phần trong phác đồ điều trị thông thường, " cố vấn nghiên cứu Shannon Amoils đă nói vậy.

Điều này có thể có nghĩa là người sống sót sau cơn đau tim / nhồi máu cơ tim được giảm thiểu gánh nặng về suy tim (heart failure) t́nh huống mà đối với nhiều người là một t́nh trạng suy nhược và đau buồn."

Lynn Ly (27/05/2013)

florida80
04-12-2019, 18:10
VẤN ĐÁP: CÚM GIA CẦM H7N9
(Q&A: H7N9 bird flu)
Lynn Ly Phỏng Dịch Bài Viết http://wXw.bbc.co.uk/news/health-22107104


Tường Thuật Viên về Sức Khỏe và Khoa Học Nhật Báo BBC: James Gallagher (27/03/2012)

Một loại cúm mới đă h́nh thành từ gia cầm lây sang người tại Trung Quốc - loại này được biết là H7N9.

UserPostedImage
H7N9 Loại Virus cúm mới xuất hiện

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO = The World Health Organization) cho biết loại này như là một "virus nguy hiểm bất thường", nhưng vẫn c̣n quá sớm để nói là liệu nó sẽ gây ra một mối đe dọa toàn cầu về sức khỏe con người hay không.

Loại này nguy hiểm thế nào?

Các nhà khoa học đă mô tả loại virus mới này như một "mối đe dọa nghiêm trọng" và "một căn nguyên đáng quan tâm". Kể từ trường hợp đầu tiên được phát hiện, chỉ một tháng trước, hơn 100 người đă bị lây nhiễm - đây là một tỷ lệ cao bất thường đối với một loại nhiễm trùng mới. Một phần năm (1/5) tổng số những bệnh nhân đă qua đời, 1/5 đă phục hồi và phần c̣n lại vẫn c̣n trong t́nh trạng bệnh nặng. Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, H7N9 là một nhiễm trùng nguy hiểm.

Những triệu chứng là ǵ?

Triệu chứng chính là viêm phổi nặng (severe pneumonia). Loại virus này cũng có làm hệ thống miễn dịch quá tải, gây ra những ǵ mà được gọi là "cơn băo cytokine" (cytokine storm) . Nhiễm độc máu và suy nội tạng cũng có thể xảy ra.

Tôi có nên lo sợ chưa ?

Vẫn chưa. Tối thiểu tính đến hiện nay, nó là một virus chỉ có thể nhảy (truyền) từ gia cầm sang người. Nó đă được phát hiện ở gà, vịt và chim bồ câu tại thị trường Trung Quốc. Trừ khi bạn đă tiếp xúc gần gũi với gia cầm trong khu vực bị ảnh hưởng th́ những hung hiểm rủi ro c̣n thấp. Tuy nhiên, điều này có thể thay đổi khi có những virus đột biến (virus mutates).

Tôi nên quan tâm lưu ư những ǵ ?

Hồi chuông báo động lớn nhất về dịch cúm gia cầm loại mới là nếu nó bắt đầu lây lan giữa người và người nhiều hơn là từ các loài gia cầm sang người. Cụm từ chuyên môn gọi là sự truyền nhiễm từ người sang người (human-to-human transmission). Điều này sẽ báo cho biết là nó khả năng lây lan trên toàn thế giới trong cả nước giàu và nghèo. Virus này vẫn chưa đến mức độ báo động vừa nêu ra, nhưng điều lo ngại là nó sẽ đột biến.

Nó cũng sẽ là một vấn đề nếu những ca bệnh tiếp tục gia tăng. Đây là một tṛ chơi về con số (a numbers game) - càng nhiều người bị nhiễm bệnh, số lượng virus càng nhân lên, càng có nhiều khả năng nó sẽ có thể lây lan truyền nghiễm giữa người với người. Ngoài ra nếu virus nhảy vào loài động vật khác, đặc biệt là lợn (heo), điều này cũng có thể làm gia tăng cơ hội về sự phát triên những đột biến nguy hiểm .


Sự kiện này đă từng xảy ra ?

Những virus nhảy sang những chủng loại khác một cách thường xuyên. Dịch cúm gia cầm lớn cuối cùng, H5N1, đă nhảy sang người vào năm 1997 và từ đó đă giết chết hơn 300 người. Nhưng H5N1 cũng vẫn không thể lây lan từ người sang người. Đại dịch nổi tiếng nhất - năm 1918 cúm Tây Ban Nha, đă làm thiệt mạng khoảng 40 triệu người - có lẽ đă đến từ các loại gia cầm. Nỗi sợ hăi là cuối cùng một loại virus mới sẽ lan truyền toàn thế giới trong kiểu cách tương tự. Một lần nữa, bệnh dịch chỉ đơn giản là một tṛ chơi con số, cuối cùng khi bệnh dịch xảy ra và một số người sẽ rút ra kết luận cho rằng chúng ta đă quá chậm .

Virus cúm gia cầm H7N9 khác với virus cúm gia cầm H5N1 ra sao ?

H7N9 là ít nguy hiểm chết người hơn H5N1, H5N1 đă giết chết 60% những người bị nhiễm. Đây là một điều tốt đối với những người đă bị nhiễm bệnh H7N9, nhưng có thể vấn đề lớn hơn trên toàn cầu khi có nhiều người hơn có khả năng truyền nhiễm từ người này sang người khác.

Sự khác biệt chính khác trong các loài gia cầm. H5N1 đă giết chết nhiều chim / gia cầm, H7N9 th́ không. Đây là điều khác biệt quan trọng trong việc theo dơi sự lây lan căn bệnh truyền nhiễm gây tử vong được nhiều dễ dàng hơn, và bầy nhóm / khối người bị nhiễm H7N9 sẽ phát hiện khó khăn hơn.

Một đại dịch là ǵ?

Đó là khi cùng một loại truyền nhiễm bùng phát trên toàn thế giới.

Chúng ta đang cận kề đại dịch ra sao ?

Chúng tôi không thể tuyên bố trong vài tuần hoặc vài tháng trước một trận đại dịch . Tuy nhiên khi có thông tin bên trong mă di truyền của virus th́ sẽ cung cấp một số manh mối. Nghiên cứu tranh luận để sửa đổi những đột biến được nhấn mạnh ở mức số 5 về virus H5N1 đối với truyền nhiễm giữa người với người là cần thiết .

Hai phần năm (2/5) đă được t́m thấy H7N9. Điều này hiển hiện một loại dịch cúm gia cầm mới đang xuất hiện ở một người , nhưng không phải là tất cả, về những đột biến mà sẽ trợ giúp trong việc h́nh thành một đại dịch. Nhưng điều đó không có nghĩa là nó sẽ chiếm được ba phần đột biến c̣n lại hoặc những ǵ sẽ xảy ra nếu nó hoạt động.

Virus lây lan ở những nơi nào ?

Chưa có những ca bệnh ở người được phát hiện bên ngoài nước Trung Quốc

Có an toàn đi du lịch Trung Quốc không ?

Tổ chức Y tế Thế giới đă không đề nghị bất kỳ hạn chế đi lại khi mà tổng số các trường hợp tính đến nay vẫn c̣n thấp.

Có thể có trường hợp ở nơi khác?

Đúng vậy, virus có thể lây lan qua các loài chim / gia cầm di chuyển sang các nước khác. Mọi người cũng có thể bị lây nhiễm tại Trung Quốc và đi du lịch trước khi họ bắt đầu cảm thấy bị bệnh . Điều này có nghĩa là các quốc gia trên thế giới đang chuẩn bị về những ca bệnh.

Những thuốc điều trị có hiệu quả không ?

Virus cúm H7N9 dường như nhạy cảm với các loại thuốc kháng virus như Tamiflu, tuy nhiên có rất ít nghiệm chứng về việc sử dụng các loại thuốc trong lĩnh vực này.

Có thuốc chích ngừa cúm này chưa ?

Tại thời điểm này , chưa có thuốc chích ngừa (vaccine), nhưng những giai đoạn đầu về sự phát một hành thuốc chích ngừa đang được tiến hành. Hiện vẫn chưa rơ liệu có cần một loại thuốc chích ngừa không . Điều này thật khó quyết định để bắt đầu sản xuất một loại thuốc chích ngừa khi mà có hạn chế về khả năng toàn cầu để sản xuấc các thuốc chích ngừa cúm. Thuốc được cấy trồng trong trứng già và tốn vài tháng. Một loại thuốc chích ngừa H7N9 sẽ ảnh hưởng đến việc sản xuất các loại thuốc chích ngừa cúm theo mùa.

Những mầu tự "H" và "N" có ư nghĩa ǵ ?

Những mẫu tự này được sử dụng để phân loại các loại cúm A. "H" là viết tắt của haemagglutinin và "N" là viết tắt của neuraminidase. Cả hai đều là các loại protein trên bề mặt của virus mà được tính trong việc phân biệt các giống khác nhau, mỗi 1 loại trong số những chủng loại đó được phận định bằng một con số khác nhau.

Lynn Ly (28/05/2013)

florida80
04-13-2019, 15:49
So Sánh Mức Độ Nguy Hiểm Giữa Virus HIV Và Ebola




Nhiều người cho rằng, virus Ebola sẽ trở thành loại virus thế kỷ với mức độ nguy hiểm hơn cả virus HIV/AIDS.

Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), tính đến ngày 9/10, số ca tử vong do mắc Ebola đă lên tới 3.900 người. Gần đây nhất, một bệnh nhân nhiễm Ebola ở Mỹ đă tử vong.

Nhiều người cho rằng, dịch bệnh này c̣n đáng sợ hơn dịch bệnh HIV/AIDS bởi những người mắc bệnh HIV có thể sống sót nhiều năm nếu được dùng thuốc nhưng bất cứ trường hợp nào tiếp xúc với người nhiễm Ebola gần như nhận bản án tử v́ virus này chưa có vaccine và thuốc pḥng.



Cùng so sánh mức độ nguy hiểm của hai loại virus này ở một vài khía cạnh đơn giản qua Infographic dưới đây.

florida80
04-13-2019, 15:52
Chất 3-MCPD Trong Soy Sauce - Danh Sách Những Bê Bối Lớn Về Thực Phẩm Của Trung Cộng Xưa Nay - GS Hùynh Chiếu Đẳng






Chất độc trong nước tương, x́ dầu và dầu hàu





V́ có nhiều bằng hữu ăn chay hỏi về chuyện nầy, tôi tŕnh các bạn xem chơi. Nước tương nước chấm làm từ đậu nành theo phương thức ngày nay bao giờ cũng chứa chất gây ung thư (biết chắc) là 3-MCPD.


Trong email nầy có nhiều link, các bạn click vào nó sẽ dẫn chứng từ điểm một, nhưng chắc không cần đâu. H́nh có hay không cũng không quan trọng.


A survey of soy sauces and similar products available in the UK was carried out by the Joint Ministry of Agriculture, Fisheries and Food/Department of Health Food Safety and Standards Group (JFSSG) in 2000 and reported more than half of the samples collected from retail outlets contained various levels of 3-MCPD.[9]
•In 2001 the United Kingdom Food Standards Agency found in tests of various oyster sauces and soy sauces that some 22% of samples contained MCPD at levels considerably higher than those deemed safe by the European Union. About two-thirds of these samples also contained a second chloropropanol called 1,3-DCP (1,3-dichloropropane-2-ol) which experts advise should not be present at any levels in food. Both chemicals have the potential to cause cancer and the Agency recommended that the affected products be withdrawn from shelves and avoided.[10][11]
•Britain's Food Standards Agency (FSA) and Food Standards Australia New Zealand (FSANZ, formerly ANZFA) singled out brands and products imported from Thailand, China, Hong Kong and Taiwan. Brands named in the British warning include Golden Mountain, King Imperial, Pearl River Bridge, Golden Mark, Kimlan (金蘭), Golden Swan, Sinsin, Tung Chun and Wanjasham soy sauce. Knorr soy sauce was also implicated, as well as Uni-President Enterprises Corporation (統一企業公司) creamy soy sauce from Taiwan, Silver Swan soy sauce from the Philippines, Ta Tun soy bean sauce from Taiwan, Tau Vi Yeu seasoning sauce and Soya bean sauce from Vietnam, Zu Miao Fo Shan soy superior sauce and Mushroom soy sauce from China and Golden Mountain and Lee Kum Kee chicken marinade.[12][13][14]
•Relatively high levels of 3-MCPD and other chloropropanols were found in soy sauce and other foods in China between 2002 and 2004.[15]
•In 2007 in Vietnam, 3-MCPD was found in toxic levels (Testing since 2001, In 2004, the HCM City Institute of Hygiene and Public Health found 33 of 41 sample of soya sauce with high rates of 3-MCPD, including six samples with up to 11,000 to 18,000 times more 3-MPCD than permitted, an increase over 23 to 5,644 times in 2001) [16] in soy sauces there in 2007, along with formaldehyde in the national dish Pho, and banned pesticides in vegetables and fruits. A prominent newspaper Thanh Nien Daily commented, "Health agencies have known that Vietnamese soy sauce, the country's second most popular sauce after fish sauce, has been chock full of cancer agents since at least 2001," [17]
•In March 2008 in Australia, "carcinogens" were found in soy sauces there, and Australians were advised to avoid soy sauce.[18]
•In Nov 2008, Britain's Food Standards Agency reported a wide range of household name food products from sliced bread to crackers, beefburgers and cheese with 3-MCPD above safe limits. Relatively high levels of the chemical were found in popular brands such as Mother's Pride, Jacobs crackers, John West, Kraft Dairylea and McVitie's Krackawheat. The same study also found relatively high levels in a range of supermarket own-brands, including Tesco char-grilled beefburgers, Sainsbury's Hot 'n Spicy Chicken Drumsticks and digestive biscuits from Asda. The highest levels of 3-MCPD found in a non- soy sauce product, crackers, was 134 µg per kg. The highest level of 3-MCPD found in soy sauce was 93,000 µg per kg, 700 times higher. The legal limit for 3-MCPD coming in next year[when?] will be 20 µg per kg, but the safety guideline on daily intake is 120 µg for a 60 kg person per day.[19]



Vài chi tiết high light màu vàng bên trên:


Ở Việt Nam (2007) thử 41 mẫu khác nhau thấy 31 mẫu không an toàn, c̣n bánh phở th́ chứa fomaldehyde (formol). C̣n ở Úc châu (2008) người dân được khuyên là tránh tất cả soy sauce (x́ dầu, nước tương, dầu hàu....tức là nước chấm xuất thân từ đậu nành).


Năm 2008 tại Anh người ta thấy hầu hết các món (... tên kể trên) đều chứa chất 3-MCPD quá tỉ lệ cho phép. C̣n trong soy sauce (x́ dầu, nước tương, dầu hàu....tức là nước chấm xuất thân từ đậu nành) th́ chất nầy vượt tới 700 lần (700 lần) lượng cho phép. Ăn vào thụt lưởi là cái chắc.


Người ta thấy như vậy, th́ nói như vậy, c̣n ăn hay đừng th́ tùy bụng các bạn nghe. Tôi không có khuyên chi hết, những điều kể bên trên là có thật, đă lần lượt được đăng tin từ những hảng thông tấn lớn vào lúc đó. Trong MTC cũng c̣n dấu vết vào thời đó.


Nguồn tin từ webpage nầy click => Chất 3-MCPD trong nước tương



Kết luận: Hiện cho tới bây giờ 2014, nó vẫn chưa an toàn, lư do là chất 3-MCPD là sản phẩm phụ trong quá tŕnh sản xuất, không do người ta bỏ vào, tự nó sinh ra, và muốn làm cho nó sinh thật ít để hợp tiêu chuẩn th́ vạn nan với thủ công nghệ. Nhà máy khổng lồ c̣n chưa kham nói chi kiểu sản xuát thủ công tại Việt Nam hay Trung Hoa. Tại Mỹ cũng bị nữa, nhưng dân Mỹ ít ăn nên người ta chưa lư tới nhiều.






--------------------

Các vụ bê bối an toàn thực phẩm tại Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa


=======



Quí bạn đọc theo thứ tự thời gian tăng dần, càng ngày càng bê bối


Thấy th́ tŕnh các bạn xem chơi thôi, nhớ bất cứ món ǵ của Trung Cộng cũng đừng đụng tới, nhất là đồ ăn chay. V́ sao đồ ăn chay, thưa v́ nguyên liệu chế biến thức ăn chay đều từ Trung Cộng hay Đài Loan (và Đài Loan cũng cá mè một lứa, theo tin mới nhất)





Các vụ vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2003


Giăm bông Kim Hoa nhiễm độc


Năm 2003, một số cơ sở nhỏ chuyên sản xuất giăm bông Kim Hoa hoạt động trái mùa đă sản xuất giăm bông trong những tháng nóng hơn. Họ xử lư giăm bông bằng thuốc trừ sâu để tránh bị hư hỏng và nhiễm côn trùng.[2] Giăm bông được ngâm vào trong dung dịch thuốc trừ sâu Dichlorvos. Đây là một loại thuốc trừ sâu có hợp chất cơ phospho dễ bay hơi.[3]





Các vụ vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2004


Sữa trẻ em giả


Trong tháng 4 năm 2004, ít nhất 13 trẻ em ở Phụ Dương, An Huy và từ 50 đến 60 trẻ nữa trong các vùng nông thôn của tỉnh An Huy đă chết v́ suy dinh dưỡng do uống phải sữa trẻ em giả. Từ 100 đến 200 em bé khác trong tỉnh An Huy bị suy dinh dưỡng nhưng vẫn sống sót. Các quan chức địa phương ở Phụ Dương đă bắt giữ 47 người chịu trách nhiệm sản xuất và bán các loại sữa giả. Ngoài ra, các nhà điều tra phát hiện 45 loại sữa dưới tiêu chuẩn được bán tại thị trường Phụ Dương, hơn 141 nhà máy chịu trách nhiệm về việc sản xuất sữa giả. Các nhà chức trách Trung Quốc thu giữ 2.540 túi sữa giả vào giữa tháng 4. Tháng 5 năm 2004, Cục Thực phẩm và Dược phẩm Nhà nước đă phát động điều tra.





Theo các bác sĩ Trung Quốc th́ những em bé bị mắc chứng "bệnh đầu to". Trong thời gian 3 ngày kể từ khi uống sữa, đầu các em bé phồng to lên trong khi cơ thể trở nên gầy đi v́ suy dinh dưỡng. Các loại sữa trẻ em giả được kiểm tra chỉ có 1-6% protein trong khi tiêu chuẩn quốc gia là 10% protein. Chính phủ hứa sẽ bồi thường cho gia đ́nh và giúp đỡ họ, bao gồm chi trả hóa đơn y tế. Hầu hết các nạn nhân là từ những gia đ́nh ở nông thôn.[4][5][6]





Bún tàu nhiễm độc


Năm 2004, nhà cầm quyền Trung Quốc xét nghiệm thấy rằng một số nhăn hiệu bún tàu được sản xuất tại địa cấp thị Yên Đài, tỉnh Sơn Đông bị nhiễm độc ch́. Một số công ty vô lương tâm đă chế tạo bún tàu của họ bằng bột bắp thay v́ bằng đậu xanh để tiết kiệm chi phí. Để làm bột bắp trở nên trong suốt, họ thêm vào chất tẩy trắng có chứa ch́.[7] Tháng 12 năm 2006, nhà chức trách Bắc Kinh một lần nữa kiểm tra sản phẩm bún tàu của Công ty sản xuất Bún tàu Yantai Deshengda[8] tại làng Siduitou, trấn Zhangxing, thị xă Chiêu Viễn, địa cấp thị Yên Đài và họ đă t́m thấy chất sodium formaldehyde sulfoxylate được sử dụng trong qui tŕnh sản xuất bún tàu. Đây là một loại thuốc tẩy công nghiệp có thể gây ung thư, độc hại và bị cấm làm chất phụ gia tại Trung Quốc. Trước khi công ty này bị cấm sản xuất và phân phối, các sản phẩm bún tàu của hăng đă được bán ra thị trường Trung Quốc và xuất khẩu sang nước ngoài.[9][10][11][12] Trang mạng của công ty cũng bị đóng kể từ đó.





Rau cải chua pha tạp chất
Trong tháng 6 năm 2004, Cục Kiểm tra Chất lượng Thành Đô phát hiện rằng chỉ có khoảng 23% rau cải ngâm chua sản xuất tại Thành Đô có lượng chất phụ gia hóa học ở mức chấp nhận được. Nội dung thành phần hóa chất ghi trên nhăn của các loại thành phẩm này được phát hiện là không chính xác. Tại Tứ Xuyên, các nhà máy đă sử dụng muối công nghiệp để ướp chua các loại rau, ngoài ra c̣n phun thuốc trừ sâu có chứa một lượng DDVP cao trên dưa muối trước khi giao hàng.[13]









Rượu gạo tại một cửa hàng Trung Quốc.

Rượu giả

Mùa xuân năm 2004, bốn người đàn ông đă chết v́ ngộ độc rượu ở tỉnh Quảng Đông, 8 người đàn ông khác đă nhập viện tại Bệnh viện nhân dân Quảng Châu. Wang Funian và Hou Shangjian, cả hai đều từ thị xă Thái Ḥa, đă qua đời vào tháng 5 sau khi uống rượu mua từ cùng một cửa hàng. Hai người đàn ông khác, một người là công nhân nhập cư, chết trong đêm trước đó tại Zhongluotan ở tỉnh Hồ Nam. Các nhà chức trách của cơ quan y tế địa phương nghi ngờ rằng những người sản xuất rượu giả đă trộn cồn công nghiệp vào trong rượu gạo, đồng thời tiến hành đóng cửa một số xưởng sản xuất rượu không có giấy phép.[14]


Nước tương làm từ tóc người

Câu chuyện bắt đầu lưu hành trên báo chí về nước tương giá rẻ làm từ tóc người. Những loại nước tương được sản xuất tại Trung Quốc này sử dụng phương pháp chiết xuất một loại amino axit hóa học tương tự như nước tương được thủy phân nhân tạo và sau đó âm thầm xuất khẩu sang các nước khác. Một cuộc điều tra phát sóng trên truyền h́nh Trung Quốc cho thấy các nguồn tóc không những mất vệ sinh và có khả năng bị nhiếm bẩn độc hại.




Khi được hỏi si-rô (hoặc bột) amino acid được tạo ra như thế nào, các nhà sản xuất trả lời rằng bột đă được tạo ra từ tóc của con người. Bởi v́ tóc người được thu thập từ các tiệm hớt tóc, thẩm mỹ viện và bệnh viện trên cả nước, do đó chúng mất vệ sinh và nằm trộn lẫn với bao cao su, bông bệnh viện, băng vệ sinh và ống tiêm đă qua sử dụng,..."[15]




Đáp lại, chính phủ Trung Quốc đă cấm sản xuất các loại nước tương làm từ tóc. Tuy nhiên các chất gây ung thư khác vẫn c̣n. Xem 3-MCPD.


Các vụ vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2005



Phẩm nhuộm Sudan I






Solvent yellow 14 - hóa chất thuộc nhóm Sudan I





Năm 1996, Trung Quốc cấm các nhà sản xuất thực phẩm sử dụng phẩm nhuộm Sudan I để nhuộm màu sản phẩn của họ. Trung Quốc theo chính sách của một số quốc gia phát triển khác nghiêm cấm phẩm nhuộm v́ nó có liên hệ đến bệnh ung thư và các tác dụng nghiêm trọng khác đối với sức khỏe con người. Tuy nhiên, vào năm 2005, các giới chức thuộc Tổng Cơ quan Giám sát Chất lượng, Thanh tra và Kiểm dịch, Cục Công nghiệp và Thương mại Quốc gia, và Cơ quan Quản trị Thuốc và Thực phẩm Quốc gia phát hiện rằng chất phẩm nhuộm Sudan I vẫn được sử dụng trong thực phẩm ở nhiều thành phố lớn. Tại Bắc Kinh, công ty Heinz đă thêm chất phẩm nhuộm vào trong tương ớt; tại các tỉnh Quảng Đông, Triết Giang, Hồ Nam và Phúc Châu, phẩm nhuộm được t́m thấy trong rau cải và các loại ḿ, bún. Kentucky Fried Chicken (KFC) sử dụng phẩm nhuộm trong 1.200 tiệm ăn của ḿnh. Ngay thuốc uống tại Thượng Hải cũng có chứa Sudan I.


Các công ty tại Trung Quốc đă sử dụng Sudan I bất hợp pháp trong nhiều năm trước 2005. Các giới chức chính phủ đưa ra hai lư do tại sao lệnh cấm năm 1996 đă không được thi hành đầy đủ. Lư do thứ nhất là v́ có quá nhiều cơ quan trông coi sản xuất thực phẩm nên tạo ra nhiều lổ hổng và bất hiệu quả. Lư do thứ hai là v́ các cơ quan chính phủ không được trang bị hay đào tạo sử dụng các dụng cụ thử nghiệm thực phẩm mà có thể phát giác ra chất phẩm nhuộm sớm hơn. Các giới chức thông báo rằng họ sẽ bắt đầu cải cách hệ thống an toàn thực phẩm từ cấp bậc địa phương đến quốc gia.[16]





Các vụ vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2006


Thuốc giả


Cơ quan Quản trị Thuốc uống và Thực phẩm Quốc gia Trung Quốc báo cáo rằng các giới chức của họ đă giải quyết 14 trường hợp có liên quan đến thuốc giả và 17 trường hợp có liên quan đến "các tai nạn y tế" tại các cơ sở sản xuất thuốc.[17] Một trong số những trường hợp này có thể kể đến là vụ thuốc giả Armillarisni A; trong đó 10 người thiệt mạng sau khi được tiêm thuốc giả vào tháng 5 năm 2006.[18][19] Các nhà thanh tra phẩm chất thuốc tại nhà máy sản xuất thuốc Armillarisni A đă không phát hiện ra hóa chất diglycol được thêm vào thuốc. Tháng 7 năm 2006, 6 người thiệt mạng và 80 người nữa trở bệnh sau khi dùng một loại thuốc kháng sinh có trộn chất khử trùng.[20] Năm 2006, chính phủ cũng "thu hồi giấy phép thương mại đối với 160 nhà sản xuất và bán lẻ thuốc."[20]





Ngộ độc thực phẩm trường học


Ngày 1 tháng 9 năm 2006, hơn 300 học sinh tại trường tiểu học Thực nghiệm thành phố Trường Châu ở tỉnh Tứ Xuyên,Trung Quốc đă bị ngộ độc thực phẩm sau khi ăn trưa. Trong số đó, khoảng 200 học sinh đă phải nhập viện do đau đầu, sốt, nôn mửa và tiêu chảy. Nhà trường đă phải tạm thời đóng cửa để điều tra.[21] Cùng ngày hôm đó, các học sinh trung học ở tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc cũng bị ngộ độc thực phẩm sau khi ăn tối ở trường. Bộ Giáo dục đă ra lệnh điều tra và các quan chức nghi ngờ rằng nguyên nhân của việc ngộ độc thực phẩm là điều kiện thiếu vệ sinh tại các trường học. Trong kỳ nghỉ hè, các trường đă không được lau dọn làm sạch hoặc khử trùng, do đó có thể các em học sinh đă tiếp xúc với thực phẩm hoặc nước uống mất vệ sinh khi tái nhập học vào tháng 9.[22]





Cá bơn nhiễm độc


Cuối năm 2006, các giới chức tại Thượng Hải và Bắc Kinh đă phát hiện ra một hàm lượng hóa chất bất hợp pháp trong cá bơn. Theo báo The Epoch Times giải thích th́ "Trung Quốc bắt đầu nhập cảng cá bơn từ châu Âu vào năm 1992. Hiện nay, sản lượng hàng năm của Trung Quốc là 40 ngàn tấn. V́ cá bơn có hệ miễn dịch yếu nên một số nhà nông Trung Quốc dùng những loại thuốc cấm để duy tŕ mức độ sản xuất của họ v́ các kỹ thuật nuôi cá của họ không đủ để ngăn ngừa bệnh cho cá."[23] Các giới chức của Cơ quan Quản trị Thuốc và Thực phẩm Thượng Hải t́m thấy hóa chất kiềm chế sự phát triển của vi trùng, có độc tính gây ung thư trong cá. Các loại thuốc khác trong đó có malachite green trong cá cũng được t́m thấy tại Bắc Kinh. Các thành phố khác như Hàng Châu đă bắt đầu thử nghiệm cá bơn và cấm cá bơn có nguồn gốc từ tỉnh Sơn Đông. Nhiều nhà hàng tại Thượng Hải, Bắc Kinh và Hồng Kông ngưng mua cá bơn sau khi các giới chức phát hiện ra hàm lượng cao các chất kháng sinh bất hợp pháp trong cá.[24]





Thuốc trừ sâu trong rau cải


Đầu năm 2006, Greenpeace đă tiến hành thử nghiệm các loại rau tại hai cửa hàng tạp hóa rau quả ở Hồng Kông là Parknshop và Wellcome, kết quả cho thấy hơn 70% số mẫu thử nghiệm đều phát hiện có thuốc trừ sâu tồn đọng lại. 30% mẫu rau của họ vượt quá mức an toàn cho phép đối với thuốc trừ sâu, một vài mẫu được phát hiện có thuốc trừ sâu bị cấm như DDT, HCH và Lindane. Greenpeace giải thích rằng gần 80% các loại rau tại các cửa hàng tạp hóa có nguồn gốc từ đại lục Trung Quốc. John Chapple, quản lư của Sinoanalytica, cơ quan thí nghiệm phân tích thực phẩm cơ sở ở Thanh Đảo, bổ sung thông tin của Greenpeace, anh không ngạc nhiên với những phát hiện trên và giải thích rằng người nông dân ở Trung Quốc có ít kiến ​​thức về sử dụng đúng thuốc trừ sâu.[25]


Mặc dù nhiều vùng trồng trọt ở Trung Quốc đang chuyển đổi sang nông nghiệp hữu cơ, tuy nhiên việc sử dụng thuốc trừ sâu trong nhiều lĩnh vực vẫn c̣n cao.[26]





Thịt ốc sên nhiễm trùng


Từ tháng 6 đến tháng 8 năm 2006, nhà hàng Shuguo Yanyi tại Bắc Kinh phục vụ món thịt ốc sên Amazon sống. Kết quả qua xét nghiệm, có đến 70 thực khách bị viêm màng năo angiostrongylus. Thịt ốc sên bị nhiễm loại giun tṛn có tên là Angiostrongylus cantonesis, đây là một loại kư sinh trùng gây hại cho hệ thần kinh con người, gây chứng nhức đầu, ói mửa, cổ cứng và sốt.[27] Tuy nhiên không ai mất mạng qua cơn bùng phát bệnh viêm màng năo này. Văn pḥng Thành phố Bắc Kinh đặc trách Kiểm tra Y tế đă không t́m ra bất cứ con ốc sên sống nào trong 2000 nhà hàng khác.
Tuy nhiên, Văn pḥng Y tế Thành phố Bắc Kinh cấm các nhà hàng phục vụ ốc sên sống hoặc ốc sên nửa chín và xử phạt nhà hàng Shuguo Yanyi. Bệnh viện Hữu nghị Bắc kinh, nơi ca viêm màng năo đầu tiên được chữa trị, bắt đầu một chương tŕnh giảng dạy cách điều trị bệnh viêm màng năo angiostrongylus cho các bác sĩ. Trung tâm Kiểm soát và Ngăn ngừa Dịch bệnh Quăng Châu giải thích rằng các ca viêm màng năo này là cơn dịch bùng phát đầu tiên kể từ thập niên 1980.[28]





Nấm độc


Tháng 12 năm 2006, 16 thực khách đă phải nhập viện sau khi ăn phải một loại nấm thông độc ở nhà hàng vịt nướng Dayali tại Bắc Kinh. Người bị ngộ độc loại nấm này có các triệu chứng buồn nôn, nôn mửa và chóng mặt. Các thực khách bị ngộ độc đă được điều trị tại Bệnh viện Bo'ai và Bệnh viện 307 của Quân đội Giải phóng Nhân dân.[29]


Tháng 11 năm 2006, các quan chức Bộ Y tế Trung Quốc đă cảnh báo về sự gia tăng số ca ngộ độc nấm. "Từ tháng 7 đến tháng 9, 31 người đă thiệt mạng và 183 người bị ngộ độc nấm."[30] Các quan chức lo ngại rằng người dân không thể phân biệt chính xác nấm ăn được và nấm độc.





Các vụ vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2007


Thuốc giả


Theo John Newton thuộc cơ quan h́nh cảnh quốc tế Interpol, các nhóm tội phạm có tổ chức người Trung Quốc đang hoạt động khắp nơi bên ngoài bên giới quốc gia Trung Quốc có dự phần vào việc làm thuốc giả với qui mô công nghiệp và hiện nay hiện diện khắp châu Phi.[31] Đài truyền h́nh trung ương Trung Quốc thuật lời một viên chức nói rằng những kẻ làm giả albumin kiếm được 300% lợi nhuận v́ sản phẩm thật khan hiếm.[32]





Dầu chiên bị cho là có khả năng gây ung thư


Tháng ba năm 2007, Tuần báo Tin tức Quảng Châu cáo buộc hăng Kentucky Fried Chicken (KFC) về việc thêm bột lọc dầu, magiê trisilicat vào trong dầu chiên mà hăng sử dụng. Tuần báo cho biết các nhà hàng KFC tại một số thành phố ở phía Tây Bắc tỉnh Thiểm Tây đă sử dụng hóa chất này để dầu chiên có thể sử dụng được nhiều lần lên đến mười ngày. KFC khẳng định những chất phụ gia được Hoa Kỳ và các tiêu chuẩn quốc tế đánh giá là an toàn. Nhưng các cơ quan sức khỏe ở Hàm Dương, Ngọc Lâm, Tây An và tất cả các thành phố ở tỉnh Thiểm Tây đă tiến hành kiểm tra chuỗi nhà hàng KFC tại địa phương và tịch thu bột chiên. Các cơ quan thành phố Quảng Châu cũng đă bắt đầu điều tra các loại dầu chiên, và các thành phố kêu gọi Bộ Y tế vào cuộc.[33][34] KFC cho biết bột lọc dầu không gây ra vấn đề sức khỏe và đáp ứng các tiêu chuẩn địa phương và quốc tế, nhưng chính quyền địa phương Trung Quốc tuyên bố rằng tái sử dụng bột làm giảm đi giá trị dinh dưỡng của nó và có khả năng gây ra ung thư. Magiê trisilicat thường được sử dụng trong các loại thuốc như thuốc kháng a-xít và được công nhận rộng răi là an toàn cho con người sử dụng và không có liên quan đến việc gây ra ung thư.[34]





Gluten lúa ḿ và protein gạo nhiễm độc trong sản phẩm xuất khẩu


Tháng 5 năm 2007, Tổng cơ quan Giám sát Chất lượng, Thanh tra và Kiểm dịch (AQSIQ) đă xác nhận rằng có hai công ty quốc nội đă xuất cảng protein gạo và gluten lúa ḿ có nhiễm melamine. Các sản phẩm bị qui trách nhiệm là đă làm cho chó và mèo chết tại Hoa Kỳ.[35] Tháng 8 năm 2007, AQSIQ giới thiệu các hệ thống thu hồi đối với các sản phẩm thực phẩm và đồ chơi trẻ em không an toàn. Ngày 3 tháng 12 năm 2007, Trung Quốc ra lệnh cho 69 nhóm sản phẩm phải được mă vạch hóa tại nhà máy để cải thiện an toàn sản phẩm nhằm đối phó với các vụ bê bối vừa xảy ra. Trong số các vụ bê bối này gồm có: "gà vịt được cho ăn phẩm nhuộm Sudan đỏ có tác nhân gây ung thư để làm cho ḷng đỏ trứng được đỏ hơn, thức ăn cho vật nuôi như chó mèo có protein lúa ḿ nhiễm melamine làm chết hàng tá chó mèo tại Hoa Kỳ."[36][37].





Nước cống rănh được sử dụng trong sản xuất đậu phụ


Gần 100 nhà sản xuất "đậu phụ thối" tại tỉnh Quảng Đông bị phát hiện kết hợp sử dụng nước cống rănh, cặn bă, và sulfate sắt (II) để đẩy nhanh tốc độ sản xuất cũng như cải thiện bề mặt sản phẩm đậu phụ lên men của ḿnh.[38]





Bánh bao các tông


Tháng 7 năm 2007, chương tŕnh tường thuật trên kênh BTV-7 của đài truyền h́nh Bắc Kinh về vụ lừa đảo bánh bao các tông đă vén màn một câu chuyện bí mật. Chương tŕnh tiết lộ rằng những người bán bánh bao đường phố đă trộn thêm giấy các tông vào bánh bao (tiếng Trung Quốc: 包子, bính âm: bāozi) của họ. Cảnh trong phần tường thuật quay từ máy bay cho thấy những người bán bánh bao địa phương đang bán bánh bao nhân thịt chứa hỗn hợp 60% giấy các tông ngâm sô đa xút ăn da với 40 phần trăm mỡ lợn.[39] Sau khi một số sản phẩm Trung Quốc bị thu hồi, chương tŕnh tường thuật đă gây phẫn nộ trên diện rộng.





Ngày 18 tháng 7 năm 2007, các quan chức hành luật của Trung Quốc cho biết họ đă giam giữ Tư Bắc Giai (訾 北 佳), một phóng viên địa phương, v́ bị cáo buộc đưa tin giả mạo. Tư có bí danh là Hồ Nguyệt (胡 月),[40] được cho là đă thuê bốn lao động nhập cư làm bánh bao các tông trong khi Tư tiến hành quay phim lại.[41] Đài BTV-7 đă chính thức "xin lỗi sâu sắc" về màn lừa dối và những "tác động xấu đến xă hội" của chương tŕnh. Cơ quan y tế của Bắc Kinh cho biết không t́m thấy chứng cứ của các tông ở bánh bao địa phương. Hơn nữa, Municipal Food Safety Office Bắc Kinh phát hiện rằng ngay cả nếu bánh bao chỉ được trộn với một hỗn hợp 5% các tông th́ "các chất xơ có thể dễ dàng nh́n thấy, và thịt bánh làm bằng cách này khó có thể nhai dễ dàng."[42] Một số người dân Trung Quốc và ở nước ngoài vẫn tiếp tục tin rằng vụ bê bối không phải là một tṛ lừa bịp,[40] và tin rằng tuyên bố của chính phủ Trung Quốc tuyên bố chỉ để làm dịu nỗi lo sợ hoang mang đang dấy lên trong quần chúng vào lúc đó.


Ngày 12 tháng 8 2007, Tư đă bị kết án một năm tù giam và phạt tiền 132 USD.[43]





Các vụ vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2008


Sủi cảo nhiễm độc


Tháng 1 năm 2008, một số người Nhật tại tỉnh Hyōgo và Chiba ngă bệnh sau khi ăn sủi cảo làm tại Trung Quốc có nhiễm thuốc trừ sâu methamidophos.[44][45][46][47][48][49] Sản phẩm sủi cảo này được làm tại nhà máy thực phẩm Tianyang tại tỉnh Hà Bắc[50]. Thông tấn xă Kyodo News tường tŕnh rằng khoảng 500 người cảm thấy đau đớn khó chịu.[51] Ngày 5 tháng 2, cảnh sát hai tỉnh Hyōgo và Chiba thông báo rằng họ xem các ca ngộ độc này như hành động cố ư mưu sát.[52]. Cả hai sở cảnh sát thiết lập một đội chuyên án điều tra chung. Khi cảnh sát Nhật Bản và các nhà chức trách của các tỉnh khác kiểm tra sủi cảo bị thu hồi th́ họ t́m thấy các loại thuốc trừ sâu không những methamidophos mà c̣n có Dichlorvos và Parathion.[53][54][55][56] Cơ quan cảnh sát quốc gia Nhật Bản t́m thấy các chất độc hại này trong các gói hàng đă được đóng gói kín hoàn toàn.[57][58] Họ kết luận rằng gần như không thể nào đưa các chất độc này từ bên ngoài vào trong các gói hàng.[59] Họ đă cung cấp kết quả thử nghiệm cho Bộ Công an Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa (MPS).[60]





Các cuộc điều tra chung do chính phủ Nhật Bản và Trung Quốc tiến hành đă miễn trách nhiệm đối với công ty sản xuất sủi cảo Trung Quốc sau khi không t́m thấy bất cứ chất độc hại nào trong nguyên liệu được dùng hay bên trong nhà máy.[61][62] Tới thời điểm này th́ các giới chức xem vụ này là một vụ đầu độc có tính toán, và một cuộc điều tra được tiến hành.[63] Ngày 28 tháng 2 năm 2008, văn pḥng điều tra tội phạm thuộc Bộ Công an Trung Quốc thông báo rằng ít có khả năng là chất methamidophos đă bị đưa vào sủi cảo tại Trung Quốc. Họ cho biết cảnh sát Nhật Bản đă khước từ yêu cầu của Bộ Công an Trung Quốc đến kiểm tra hiện trường, từ chối đưa ra các bằng chứng vật liệu có liên quan và các báo cáo thử nghiệm, như thế Bộ Công an Trung Quốc đă không nhận được thông tin về bằng chứng hoàn toàn.[64] Cùng ngày, Hiroto Yoshimura, tổng thanh tra Cơ quan Cảnh sát Quốc gia Nhật Bản tranh căi chống các giới chức Trung Quốc, ông cho rằng phía Nhật Bản đă giao hết các kết quả thử nghiệm và bằng chứng ảnh cho phía Trung Quốc. Ông tuyên bố một phần những khẳng định cáo buộc của Trung Quốc "không thể bị xem nhẹ".[65][66] Phía Nhật Bản yêu cầu các giới chức Trung Quốc đưa ra bằng chứng.[67]





Ngày 5 tháng 8 năm 2008, giới truyền thông Nhật Bản tiết lộ rằng một số người Trung Quốc ăn sủi cảo bị thu hồi do công ty Tianyang Food sản xuất cũng bị ngă bệnh sau vụ nhiễm độc tại Nhật Bản vào giữa tháng 6 năm 2008; một lần nữa nguyên nhân gây ra là do nhiễm độc chất methamidophos.[68][69][70][71][72] Chính phủ Trung Quốc cảnh báo cho chính phủ Nhật Bản về sự thật này ngay trước Hội nghị G8 lần thứ 34 vào tháng 7 năm 2008. Báo Yomiuri Shimbun tường tŕnh rằng vụ ngộ độc này làm gia tăng nghi ngờ đối với thực phẩm được làm tại Trung Quốc.[73]





Bột gừng nhiễm độc




Trong tháng 7 năm 2008, có thông báo rằng các chuỗi siêu thị Whole Foods tại Hoa Kỳ đă được phép bán bột gừng bột sản xuất tại Trung Quốc với nhăn dán là thực phẩm hữu cơ, nhưng khi kết quả thử nghiệm đă phát hiện có chứa thuốc trừ sâu Aldicarb bị cấm.[74][75][76] Loại gừng này đă được Cơ quan Bảo hiểm Chất lượng Quốc tế Hoa Kỳ (Quality Assurance International) chứng nhận hữu cơ một cách nhầm lẫn dựa trên hai cấp

chứng nhận của Trung Quốc bởi v́, theo luật pháp Trung Quốc, người nước ngoài không được quyền kiểm tra các nông trại Trung Quốc.[77]








Gần nửa triệu người tham gia biểu t́nh chống sữa Trung Quốc ngày 25 tháng 10 năm 2008 tại Đài Loan.





Sữa trẻ em độc hại


Bài chi tiết: Vụ bê bối sữa Trung Quốc 2008


Trong tháng 9 năm 2008 xảy ra phát sinh vấn đền về bệnh thận do sữa bột trẻ em nhiễm melamine gây ra. Sáu trẻ em bị chết và 294.000 trẻ bị bệnh do công thức sữa giả, trong đó 51.900 trẻ trong t́nh trạng phải nhập viện.[78][79] Nhà cung cấp sữa là Tập đoàn Tam Lộc, một thương hiệu và là nhà phân phối chính của ngành công nghiệp Trung Quốc. Các nguồn tin cho rằng công ty này đă biết vấn đề về sữa của họ từ hàng tháng trước, nhưng phía công ty tuyên bố các chất độc hại là từ phía các nhà cung cấp sữa.[80][81]







Các vụ vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2009







Trà sữa trân châu





Hạt trân châu bột sắn và nhựa


Trà sữa trân châu hiện diện khắp nơi không chỉ ở Trung Quốc mà c̣n ở nhiều nước như Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam... Thành phần chính của hạt trân châu là bột sắn. Nhưng nếu chỉ là bột sắn đơn thuần th́ không đủ độ dai, cho nên người ta trộn thêm ḷng trắng trứng và bột ḿ. Nhưng cách nhanh gọn nhất vẫn là cho thêm vật liệu polyme - một chất cơ thể con người không thể hấp thụ và gây hại cho sức khỏe.[82]




Bột sữa pha trà trên thực tế có những thành phần như: bột sữa, chất dẻo cao phân tử, natri sunphat ngậm nước (Na2SO4.10H2O) và một vài độc tố hóa học sử dụng trong công nghiệp như Clo, ngoài ra có thể có thêm đường hóa học và được bán với giá rẻ cùng với các gói trân châu ở các khu chợ.[83]






Màn thầu trắng truyền thống Trung Hoa.





Thuốc trừ sâu trong màn thầu


Nhằm cải thiện tính mềm xốp của màn thầu (饅頭, mántóu - bánh bao ngọt không nhân), người làm bánh đă cho thêm thuốc trừ sâu Dichlorvos vào. Ngoài ra, lưu huỳnh cũng được sử dụng để cải thiện bề ngoài bằng cách làm bánh trắng ra.[84]





Thịt vịt nước tiểu dê


Các nhà kinh doanh tại Thanh Đảo bị phát hiện đă ướp thịt vịt với nước tiểu dê hoặc cừu để cho thịt vịt có mùi và hương vị của thịt cừu. Thịt vịt loại này sau đó được bán như thịt cừu cho khách hàng.[85]





Dồi lợn fomanđehit


Thanh tra Vũ Hán phát hiện ra rằng hầu hết dồi lợn tại thị trường Trung Quốc chứa ít thành phần máu thật mà được chế biến bằng cách thêm vào formalđehit, tinh bột ngô, muối công nghiệp và màu thực phẩm nhân tạo.[86]





Trứng gà giả


Ở Trung Quốc hiện có nhiều trang web công khai cách làm trứng gà giả, chi phí thấp và công nghệ đơn giản từ muối alginate, canxi oxit, màu thực phẩm và các phụ gia khác.[87] Trứng gà giả đă xuất hiện ở Trung Quốc từ năm 2005, đến tháng 3 năm 2009, công thức của loại thực phẩm này khi được tiết lộ đă làm rúng động dư luận. Mỗi ngày, một người thuần thục nghề có thể tự làm từ 3.000 đến 4.000 quả trứng. Trứng được phân phát qua các đầu mối hợp tác với các trang trại nuôi gà địa phương.[88] Một số đặc điểm của trứng giả là bề ngoài như trứng thật nhưng không có mùi tanh, khó vỡ và rán lên xốp như nylon, khi nấu chín ḷng trắng và ḷng đỏ trứng trở nên cứng và dai như cao su, thậm chí có thể tung hứng như trái bóng bàn và đă xuất hiện ở một số nước lân cận như Việt Nam.[89]





Các vụ vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2010


Ḿ gạo có chất gây ung thư


Ḿ gạo được làm bằng gạo hỏng, có chứa nhiều chất phụ gia gây ung thư và được bán rộng răi ở miền Nam Trung Quốc. Theo điều tra của Nhật báo Thanh niên Bắc Kinh, có 50 nhà máy ở thành phố Đông Hoản ở Quảng Đông, gần Hồng Kông, mỗi ngày sản xuất khoảng nửa tấn ḿ gạo bằng gạo mốc, hỏng.[90]





Các vụ vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2011


Cơ quan Kiểm tra An toàn Thực phẩm Trung Quốc cho biết, trong chiến dịch an toàn thực phẩm kéo dài 5 tháng, Chính phủ Trung Quốc đă bắt giữ hơn 2.000 can phạm, tịch thu nhiều tấn thực phẩm hư thối và đóng cửa hơn 5.000 công ty. Một số trường hợp bị bỏ tù và nặng nhất là bị tử h́nh.[91] Cuộc thanh tra đă được tiến hành đối với gần 6 triệu cơ sở sản xuất thực phẩm và chất phụ gia trong nước.[92]





Clenbuterol trong thức ăn gia súc


Clenbuterol c̣n gọi là "bột thịt nạc" đă bị cấm sử dụng từ những năm 1990.[93] Tuy nhiên v́ lợi nhuận, nhiều người vẫn trộn chất này vào trong thức ăn gia súc, chủ yếu là cho lợn, để giúp tạo thịt nạc hơn và giảm lượng mỡ, giúp thịt có vẻ ngoài tươi hơn trong thời gian dài.[94] Chất này tập trung nhiều ở các cơ quan nội tạng như gan, thận, phổi động vật.[95] Trong y khoa, đây là một hoá chất tổng hợp có tác dụng giăn phế quản, kích thích thần kinh giao cảm, làm thuốc điều trị hen suyễn, bệnh phổi tắc nghẽn măn tính. Ngoài ra c̣n tính năng kích thích đốt mỡ và tạo cơ nên c̣n được sử dụng để giảm cân. Nhưng việc dùng quá liều có thể gây tổn hại cho hệ thần kinh, hệ tuần hoàn.[95] Các chuyên gia cho biết việc tiêu thụ thịt nhiễm clenbuterol có thể gây các triệu chứng chóng mặt, nhức đầu, run tay, tim đập nhanh và lo âu, đặc biệt nguy hiểm đối với những người có bệnh tim mạch,[96] có thể dẫn đến loạn nhịp tim, co giật, thậm chí tử vong.[93]





Ngày 23 tháng 4 năm 2011, 286 dân làng phải nhập viện do nôn ói sau khi dự một đám cưới ở tỉnh Hồ Nam, trong đó 91 người được chẩn đoán ngộ độc thực phẩm do ăn phải clenbuterol. Một số bệnh nhân lâm vào t́nh trạng bi kịch. Giám đốc cơ quan kiểm tra thực phẩm thuộc Trung tâm kiểm soát bệnh dịch Trung Quốc cho biết, nếu bị ngộ độc có khả năng các bệnh nhân đă ăn phải một lượng khá lớn.[92][96]


Beijing News ngày 16 tháng 8 đưa tin, dù là chất phụ gia dù bị cấm nhưng clenbuterol được trộn rất phổ biến vào thức ăn cho cừu ở 2 huyện thuộc tỉnh Hà Bắc trong nhiều năm và được bán nhiều ở thị trường Hà Nam, Giang Tô và Thượng Hải với giá thành lợi hơn.[97] Các nhà quan sát cho hay ít nhất ở vùng nông thôn nước này, hóa chất clenbuterol vẫn được dùng tràn lan.[98]





Pan Chenjun, chuyên gia phân tích cao cấp về kinh doanh thực phẩm tại Trung Quốc thừa nhận đây thực sự là một vấn đề lớn tại quốc gia này.[94][98] Đầu năm năm 2011, hăng tin AP cho biết t́nh trạng lạm dụng thuốc trong thức ăn gia súc để tăng hiệu quả kinh tế ở Trung Quốc đă đến mức báo động, sử dụng trong cả thịt rắn và thịt ḅ.[98]





Wen Peng, biên tập viên The Pig Site, trang tin tổng hợp về ngành công nghiệp thịt lợn toàn cầu, cho biết rằng việc ngăn chặn t́nh trạng sử dụng clenbuterol rất khó khăn v́ cho dù Trung Quốc có các quy định nghiêm khắc chống việc sử dụng loại chất này, nhưng việc thực thi lại rất lỏng lẻo và người vi phạm thường chỉ phải nộp phạt.[95]





Trước đó, vào tháng 8 năm 2009, Wang Yunlong, lănh đạo Ủy ban về Các vấn đề Nông nghiệp và Nông thôn đă gửi một báo cáo gửi tới Quốc hội Trung Quốc nói rằng nỗ lực ngăn chặn việc sử dụng "bột thịt nạc" đă không đạt hiệu quả ở nhiều khu vực đồng thời kêu gọi việc thực hiện "một nỗ lực tập trung trên toàn quốc nhằm kiểm soát t́nh h́nh".[95]


Một số trang trại cam kết nuôi trồng thực phẩm sạch đă bắt đầu xuất hiện nhưng giá thịt lợn ở đây có giá gấp 3 lần giá thịt bán ở các siêu thị.[95]





Bánh bao tái chế bằng hóa chất


Bánh bao đă hết hạn sử dụng sẽ được thu hồi, đưa về một cơ sở sản xuất trải qua quá tŕnh nhồi ngâm và thêm nhiều chất phụ gia để bánh được như mới sau khi ra ḷ. Được biết, mỗi ngày có hơn 30.000 chiếc bánh bao tái chế được được đưa vào các siêu thị của Trung Quốc.[99] Loại bánh bao này cũng được phân phối vào các trường học tại Ôn Châu, Triết Giang. Theo lời khai của 3 tội phạm sản xuất bị bắt giữ th́ họ đă tiêu thụ khoảng 200.000 chiếc bánh bao "màu" ra thị trường trong đó có khoảng 11.000 cho trường học trong toàn thành phố Ôn Châu. Một số xưởng sản xuất tại đây theo điều tra không có giấy phép kinh doanh và giấy chứng nhận an toàn thực phẩm của Bộ Y Tế.[100]





Trong một đợt kiểm tra thực phẩm, các nhà chức trách thành phố Thượng Hải, Trung Quốc đă thu giữ hơn 6.000 bánh bao bị nghi ngờ nhuộm hóa chất. Sau khi Đài Truyền h́nh Trung ương Trung Quốc phát sóng một phóng sự điều tra về việc sử dụng hóa chất nhuộm và làm mới bánh bao, Thị trưởng thành phố Thượng Hải tuyên bố sẽ mở rộng điều tra vụ việc này. Các loại hóa chất nghi ngờ sử dụng gồm đường hóa học độc hại sodium cyclamate và chất bảo quản potassium sorbate.[101]





Giá đỗ nhiễm độc


Tháng 4 năm 2011, cảnh sát thành phố Thẩm Dương tiến hành thu giữ 40 tấn giá đỗ nhiễm độc. Loại giá này được xử lư với nhiều chất phụ gia nguy hiểm bị cấm sử dụng. Viện nghiên cứu an toàn thực phẩm thành phố Thẩm Dương sau khi nghiên cứu cho biết: những chất phụ gia có chứa natri nitrit - chất mà khi phản ứng với axit trong dạ dày sẽ trở thành một trong những tác nhân gây ung thư, ngoài ra c̣n có urê cũng như thuốc kháng sinh và kích thích tố thực vật. Các hóa chất được dùng để giá lớn nhanh hơn và trông bóng hơn, rút ngắn thời gian nảy mầm và tạo ra được những cây giá cao và mập mạp.[102][103]





Giấm nhiễm độc


Reuters dẫn nguồn tin của Tân Hoa xă ngày 22 tháng 8 cho biết, giấm được lưu trữ trong các thùng nhựa từng đựng chất chống đông - một loại hóa chất độc hại đối với con người, được cho là thủ phạm cướp đi sinh mạng của 11 người và làm 120 người khác bị bệnh tại vùng Tân Cương. Trong các nạn nhân có nhiều trẻ em.[97][104]





Các vụ vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2012


Táo độc


Trung Quốc xảy ra vụ bê bối về công nghệ sản xuất táo độc hại được phanh phui, Những quả táo đỏ, thơm ngon nổi tiếng ở Yên Đài, Sơn Đông được bọc trong túi chứa chất bột độc hại ngay từ trên cây những quả táo trông đẹp mắt, thơm ngon lại gây hại cho sức khỏe của người tiêu dùng, bởi chúng được bọc trong những túi không được kiểm dịch, chứa một loại bột độc hại, các túi đó chứa thiram (một loại diệt nấm nguy hiểm, bị cấm) và melarsoprol (hợp chất thạch tín hữu cơ độc hại)[105][106] đặc biệt những lại táo này sẽ trở nên cực kỳ độc hại khi ăn cả vỏ do công nghệ bọc táo từ khi c̣n non ở trên cây đến khi thu hoạch ở Trung Quốc. Tuy rằng, công nghệ bọc kín quả khi quả c̣n non ở trên cây để tránh sâu bệnh (bằng màng phủ trên bề mặt, bằng các loại chất dẻo) là một trong những công nghệ bảo quản hoa quả tiên tiến hiện nay. Tuy nhiên, công nghệ bảo quản này sẽ không gây độc hại cho người nếu được nghiên cứu và kiểm duyệt quy tŕnh chặt chẽ. Có những thuốc bảo vệ thực vật được các cơ quan chức năng cho phép, khi sử dụng đúng liều lượng và không ngấm sâu vào quả mà chỉ bảo vệ bề ngoài, trước khi ăn ngâm rửa và gọt vỏ th́ sẽ không độc[107]





Trái cây khô nhiễm độc


Năm 2012, cơ quan chức năng của Trung Quốc phát hiện hàng loạt cơ sở sản xuất trái cây sấy khô và xí muội sử dụng các loại chất phụ gia, hóa chất có thể gây ung thư. Sau khi trung tâm kiểm nghiệm phân tích Hóa Lư, thành phố Bắc Kinh đưa ra một số kết quả, đài truyền h́nh trung ương Trung Quốc CCTV đă nêu đích danh ba công ty thực phẩm uy tín tại thành phố Hàng Châu là Siêu Đạt, Linh Hâm, Bách Di chứa một lượng lớn các chất phụ gia cao gấp ba lần quy định của các cơ quan chức năng, bao gồm các chất tạo ngọt, tạo màu, tẩy trắng và chất bảo quản. Trong đó, một số chất có thể chuyển hoá thành chất cực độc có thể gây ung thư, thoái hóa năo, gan, phổi và gây hại cho cơ thể con người khi vượt quá liều lượng cho phép. Các sản phẩm trên có mặt ở nhiều nơi tại các cửa hàng bách hoá lớn tại Trung Quốc.[108][109]





Thịt bẩn


Bài chi tiết: Thịt bẩn


Trung Quốc từng có hơn 50 tấn thịt cừu giả chứa chất phụ gia gây ung thư đă bị phát hiện tại một nhà máy ở đông bắc Trung Quốc, làm dấy lên mối lo ngại về chất lượng an toàn thực phẩm. Toàn bộ số sản phẩm trên được tái chế từ thịt vịt ôi, mỡ cừu cùng nhiều chất phụ gia khác. Trong các sản phẩm nhiễm độc là 8,69g trên 1 kg, vượt xa tiêu chuẩn quốc gia về thịt tươi và thịt đông lạnh. Thực tế, chỉ cần 3g sodium nitrite là đủ để khiến một người trưởng thành thiệt mạng[110][111][112][113]. Bên cạnh việc bê bối thực phẩm tại Trung Quốc, kinh tế Trung Quốc c̣n tuồn, đẩy sang nước láng giềng Việt Nam, có đến 70% thịt bẩn tuồn vào Việt Nam là do các đầu nậu nhập lậu qua địa bàn tỉnh Lạng Sơn[114]





Nhiều mặt hàng thực phẩm đă chế biến hoặc c̣n tươi sống từ Trung Quốc như xúc xích, chả cá, nội tạng heo (nầm lợn), cá tầm, gà cay, khô hổ, bim bim… đang nhập lậu qua biên giới Lào Cai để tuồn vào nội địa Việt Nam tiêu thụ, dân buôn lậu người Việt Nam tiếp tay thực hiện rất tinh vi bằng cách cho vào rọ thả xuống sông rồi dùng thuyền kéo qua biên giới.[115] hàng nhập khẩu bị tráo đổi, làm mất an toàn hoặc bị bơm thêm thuốc bảo quản. Trong năm 2012, lực lượng chức năng ở Việt Nam đă tiêu hủy hơn 16.000 tấn thủy sản, thịt đông lạnh nhập lậu...[115].

florida80
04-13-2019, 15:56
Ghiền Đường - Bác Sĩ Hồ Ngọc Minh









Nhiều bác sĩ đă từ lâu cảnh báo về t́nh trạng “ghiền đường” mà vị ngọt của đường là một loại ma túy nguy hiểm có thể giết người trong thầm lặng.

Trong một bài viết trước đây về hội chứng “Mỡ, Đường, Máu”, BS. Minh có cho độc giả một câu hỏi để suy gẫm: “Giữa một lon Coke và một quả trứng gà, cái nào nguy hiểm cho tim mạch hơn?” Hôm nay chúng ta đă có một câu trả lời xác đáng dựa trên nghiên cứu mới nhất đăng trên báo Y Khoa của Hội Y Sĩ Hoa Kỳ (JAMA) tháng 2/2014, sau quá tŕnh theo dơi 40,000 bệnh nhân: “Trứng gà không gây ra đột quỵ tim mà thủ phạm chính là đường”!

Sự “ghiền đường” dường như đă được in đậm vào trong DNA của loài người chúng ta từ hằng chục ngàn năm qua, cộng thêm với những ảnh hưởng của xă hội làm cho ta khó thấy sự tác hại của bệnh ghiền này, v́ lẽ, mọi người, không ít th́ nhiều đều bị… nghiện đường.





Có bao nhiêu loại đường?





Đường là danh từ chung để chỉ một loại nhu yếu phẩm cần cho con người. Trên thực tế, tất cả loại cây cỏ, thảo mộc đều có chứa đường dưới nhiều thể loại khác nhau. Thí dụ như cây lúa chẳng hạn, từ hột lúa, rễ cây lúa, lá lúa đến thân cây lúa, đều có đường trong đó. Tuy nhiên những loại đường có trong thân cây, lá cây v.v… so với các loài như trâu, ḅ ngựa…có thể hấp thụ được, cơ thể chúng ta lại chịu thua. Để đơn giản hóa vấn đề, đối với con người, có 3 loại đơn đường, Glucose, Fructose (có nhiều trong trái cây), và Galactose (có nhiều trong sữa). Đường cát đa phần được kết tinh từ nước mía chứa một loại đường đôi gọi là sucrose, được kết hợp từ đường glucose và fructose.

Đường phèn, đường cát, đường đen, đường nâu, đường bông g̣n,… tất cả đều được biến chế từ đường mía mà ra.




Cần bao nhiêu đường th́ đủ?




Trên thực tế chúng ta chỉ cần khoảng 5% đến 7% tổng số lượng calories trung b́nh đến từ đường mỗi ngày, tức là khoảng 2 hay 3 muỗng cà phê đường. Trên thực tế chúng ta tiêu thụ đến mức 25% calories do đường cung cấp mỗi ngày. Nghiên cứu trên đây cho biết, khả năng bị đột quỵ tim tăng gấp đôi nếu chúng ta tiêu thụ 20% tổng số calories đến từ đường, nhưng tăng gấp 4 lần nếu dùng trên 25% năng lượng đến từ bất kể loại đường nào!

Từ khoảng năm 1970, để cạnh tranh kinh tế và duy tŕ lợi nhuận cho nghành nông nghiệp Mỹ, chính phủ Mỹ đă tăng thuế nhập cảng đường mía từ các nước khác, và tăng cường sản xuất một loại đường đặc chế từ hạt bắp gọi là “đường sy-rô nồng độ cao từ bắp” (High Fructose Corn Syrup, HCFS). Loại đường HCFS này về thành phần hóa học th́ hơi giống như đường mía, nhưng ngọt hơn và dễ thấm vào máu hơn. Có người cho là v́ hai tính chất này mà HCFS độc hơn đường mía, v́ dễ ghiền và mau “phê” hơn là đường mía. Trên thực tế cả hai thứ đều là “bad guys” (kẻ xấu) hết.


Chỉ v́ chính phủ Mỹ cố t́nh làm cho đường HCFS rẻ hơn nên kỹ nghệ biến chế thức ăn tha hồ tưới, nhét, trộn đường HCFS vào đồ ăn. Bạn có để ư là nước ngọt Coca Cola ở Mỹ mùi vị hơi khác hơn ở các nước khác không? Sự khác biệt là do mùi vị khác nhau của đường HCFS và đường mía. Nói đến Coca Cola, chỉ ½ lon soda có thể làm tăng tỉ số bị đột quỵ tim lên đến 30%. Bạn có biết là một muỗng tương cà chua Heinz có nhiều đường hơn là một cái bánh quy Oreo không? Hoặc, một hủ da-ua (fruit yogurt) có nhiều đường hơn là một lon Coke? Hay trong một tô cereal buổi sáng, 75% calories đến từ đường? Ngay cả nước trái cây “bổ dưỡng” fruit juice, nước uống “tăng cường năng lực”, cà phê Starbucks v.v… hăy thử đoán có bao nhiêu đường trong đó?





Tại sao đường gây ra tai hại?





Khi bạn mới uống hay ăn thức ăn có đường vào cơ thể đa phần bạn sẽ có cảm giác thoải mái, dễ chịu. Thứ nhất v́ trên thực tế cơ thể chúng ta cần một số ít đường để sống. Lượng đường nầy thấm vào các tế bào, cung cấp năng lượng cấp thời làm cho ta…khỏe. Thứ nh́ có thể v́ yếu tố tâm lư của đa số bệnh ghiền, v́ từ thuở nhỏ chúng ta đă quen với vị ngọt của đường, nhất là những khi bé khóc là bố mẹ dúi cho một cục keo hay một cây cà rem. V́ thế bây giờ khi bị “stress” chúng ta dễ đi t́m niềm an ủi với vị ngọt của đường.


Sau khi cảm giác dễ chịu qua đi, chúng ta sẽ thấy cơ thể nặng nề v́ những lượng đường dư thừa sẽ tạo gánh nặng cho cơ thể. Lá gan và pancreas cần phải “giải độc” khối lượng đường phụ trội này bằng cách chế biến và chứa vào mỡ đặc (triglycerides) làm cho ta béo ph́ ra, hay làm tăng mỡ lỏng (cholesterol, LDL) làm cho tim, mạch máu bị nghẽn. Ngoài ra, các tế bào bị ngâm trong đường sẽ biến thành… mứt quất (mứt tắt), để cân bằng nồng độ hai bên, nước từ bên trong tế bào sẽ rút ra máu, làm khô nước bên trong và dễ chết (Bạn dă đọc bài “Yêu Nước” chưa?). Càng ngâm trong đường càng lâu các tế bào sẽ có hiệu ứng giống như bị “thắng đường” khi các bà làm nước màu kho cá!. Cuối cùng lá gan cũng đầu hàng, sanh ra bệnh tiểu đường. Ṿng tṛn tử vong tiếp tục xoáy tṛn kéo ḿnh vào vực sâu của đáy huyệt một cách nhanh chóng.





Làm thế nào để bớt ghiền đường?





1. Không nên ăn đường giả (sugar substitute, diet gugar)! Đường thật mà c̣n có hại huống chi đường giả! Đường giả đa phần có cấu trúc giống như đường có trong... lá cây, rễ cây v.v… để lừa cơ thể chúng ta mà thôi. Tuy không làm tăng calorie nhưng vẫn có những tác hại tương tự.




2. Nên để ư hàm lượng đường trong tất cả các loại thức ăn. Tốt hơn hết là không ăn đồ ăn đă chế biến mà chỉ ăn đồ ăn tươi do chính ḿnh nấu nướng lấy.




3. Ăn ít , ăn cân bằng và biết lựa chọn. Thí dụ không ai cấm bạn ăn một quả chuối mỗi ngày, miễn đừng ăn luôn cả nải chuối. Giữa một quả cam và một ly nước cam th́ nên chọn…?




4. Ăn chậm, nhai chậm lại để tận hưởng vị ngọt của thức ăn. Tôi bảo đảm với bạn sau khi bạn nhai một miếng dưa chuột thật kỹ, thật lâu bạn sẽ thấy vị ngọt của nó không thua ǵ một múi cam. Mà có nhai một múi cam, th́ cũng nên bỏ th́ giờ mà tận hưởng hương vị của nó. Nên nhớ ngoài vị ngọt c̣n có những vị khác nữa.




5. Tập thể dục, thể thao mỗi ngày. Đi bộ tối thiểu 15 phút trước hay ngay sau khi ăn, hoặc cả hai càng tốt. Đi bộ sẽ làm cho các tế bào mở rộng cửa để cho đường thấm nhanh vào bên trong, giảm bớt nồng độ đường ngoài mạch máu.

Hôm nay nên là bắt đầu mới cho mọi người. Chúc bạn đọc khỏe, vui vẻ v́ bớt… “nghiện đường”.




BS Hồ Ngọc Minh

florida80
04-13-2019, 15:58
Những Chất Phụ Gia Trong Thực Phẩm Đầu Độc Trong Thầm Lặng.




Cám ơn Giáo sư Hùynh Chiếu Đẳng và cô Trà Mi








Ông Huỳnh Chiếu Đẳng, cựu giáo sư bộ môn Lư-Hoá nhiều năm giảng dạy tại Việt Nam, nay đang định cư tại Mỹ. Ông là người thường xuyên nghiên cứu và có nhiều bài viết về đề tài an toàn vệ sinh thực phẩm.


Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Chất phụ gia là những chất được người ta thêm vào trong thục phẩm với mục đích tạo ra màu sắc, hoặc tạo ra mùi thơm, hoặc bảo quản những thực phẩm chế biến sẵn cho lâu hư.


Từ lâu đời rồi người ta đă biết dùng các chất phụ gia như giấm để ngâm rau cải, củ kiệu, như muối ăn dùng muối thịt, cá, hoặc chất tạo ra màu là lá dứa để tạo ra mùi thơm và màu xanh, hay trái gấc tạo ra màu đỏ cho xôi gấc, hoặc hoa lài, hoa sen được dùng để ướp trà. Tất cả những chất đó có thể được coi như là chất phụ gia.




Nhưng lúc sau này người ta dùng những chất hoá học trong kỹ nghệ làm chất phụ gia cho thực phẩm. Bây giờ những chất hoá học lọt vào tay những người không chuyên môn quá nhiều. Thí dụ chuyện dùng phân ure để ướp cá cho tươi lâu là chuyện chắc chắn không nên làm.




Trà Mi: Có hai nguồn gốc, một là chất phụ gia từ thiên nhiên, hai là chất phụ gia từ các hoá chất, vậy chắc có lẽ không phải tất cả các loại phụ gia đều không an toàn, không có lợi cho sức khoẻ?


Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Chất phụ gia cũng cần thiết. Nếu không có chất phụ gia th́ ḿnh gần như là không thể nào có kỹ nghệ đồ hộp hoặc là những thực phẩm chế biến sẵn. Hiện bây giờ ở tất cả mọi quốc gia chúng ta không thể nào t́m được một món thực phẩm chế sẵn mà không có chút xíu chất phụ gia trong đó.


Chất phụ gia tự bản thân nó nếu được dùng đúng th́ là cần thiết. Nhưng hiện giờ trong các quốc gia kỹ nghệ thực phẩm mới vừa phát triển (Trung Quốc, Việt Nam chẳng hạn) người ta dùng những hoá chất rất là nguy hiểm.


Tác hại của chất formol


Trà Mi: Những chất phụ gia nào được dùng một cách phổ biến, thông dụng, nhiều nhất, và nên đặc biệt cần chú ư, thưa ông?


Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Danh sách này th́ gần như là vô tận. Nhưng bây giờ sự kiểm soát những chất phụ gia ở những quốc gia đă có kinh nghiệm, như tại Mỹ, Canada, nhà nước lập ra danh sách những hoá chất nào được dùng trong thực phẩm, những chất nào được dùng khá lâu rồi và người ta thấy chúng không gây ra bất cứ một hiệu quả nào hết, th́ người ta đặt tên chúng là "những chất được biết là an toàn".
Thí dụ nhà nước Mỹ lập ra một danh sách rất là dài, trong đó chất nào được bỏ vào thực phẩm với phân lượng bao nhiêu, không được nhiều quá. Nhưng ở Việt Nam hiện bây giờ người ta dùng chất phụ gia mà tôi thấy rất là nguy hiểm. Thứ nhất phải kể tới là hàn the. Hàn the là borax. Chất này không phải là chất dùng để ăn được mà là chất dùng trong kỹ nghệ. Lâu nay người Việt Nam ḿnh dùng hàn the trong bánh đúc, gị chả, hoặc trong hoa quả rau cải ngâm giấm với mục đích làm cho nó gịn. Hàn the nếu ḿnh ăn ít th́ nó có hại cho gan, cho thận và cho cơ quan sinh dục

Một chất khác cũng được người Việt Nam dùng rất phổ biến, đó là muối diêm. Muối diêm nói chung là tất cả những chất của nhóm nitric. Ở Hoa Kỳ người ta cấm hẳn, không được dùng muối diêm trong thực phẩm. Nhưng tại Việt Nam th́ muối diêm được dùng rất là phổ thông để tạo ra màu đỏ của thịt heo. Người ta bỏ muối diêm vào trong lạp xưởng, nem.


Trà Mi: Và tác hại của muối diêm trước mắt và lâu dài ra sao, thưa ông?


Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Muối diêm có tác hại nguy hiểm nhất mà người ta biết được là gây ra bệnh ung thư. Dĩ nhiên không phải thỉnh thoảng ḿnh ăn một vài chiếc nem hay một đôi lạp xưởng mà bị. Điều quan trọng là chúng ta ăn lâu dài, chất này sẽ tích luỹ và tạo ra những bệnh về lâu về dài.




Hiện giờ người ta dùng formol để giữ cho thực phẩm không hư. Formol là khí formoldehyde tan trong nước. Formol được dùng trong pḥng thí nghiệm để ngâm xác sinh vật, cũng như trong ngành y khoa là dùng formol để ướp xác người cho sinh viên thực tập. Chất đó nguy hiểm lắm. Theo tôi được biết, trong 20 mẩu bánh phở được đem đi phân chất ở thành phố Hồ Chí Minh th́ có tới 16 mẩu có formol với hàm lượng khá cao.




Trà Mi: Chúng tôi c̣n nghe nói là ngay cả bây giờ bánh tráng được phát hiện cũng có formol.




Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Vâng, đúng vậy. Đó là một điều tôi rất quan tâm.




Trà Mi: Họ dùng formol với công dụng ǵ, thưa ông?




Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Formol được sử dụng để cho bánh tráng không bị meo mốc. Ngoài formol được dùng trong bánh tráng, người ta c̣n dùng chất tẩy trắng trong đó nữa. Bản thân bánh tráng không trắng, không trong đẹp. Nhưng không riêng ǵ bánh tráng, ngay cả bún tàu (miến) cũng rất trong v́ có chất tẩy màu.




Người ta dùng chất tẩy màu trong kỹ nghệ để tẩy sạch màu sắc của những sản phẩm mà người thấy không đẹp. Nhưng tại Việt Nam ḿnh người ta dùng chất đó trong thực phẩm, mà dùng một cách rất là liều lĩnh.




Trà Mi: Xin được hỏi ông kỹ một chút là khi người ta tiêu thụ phải những thức ăn có chứa formol th́ gặp phải tai hại như thế nào?




Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Formol gây ra bệnh ung thư. Điều đó người ta biết chắc. Theo Tiến sĩ Nguyễn Bá Đức ở Bệnh Viện Ung Bướu Trung Ương, mỗi năm tại Việt Nam có thêm 150.000 người măc bệnh ung thư, trong đó ước lượng có 50.000 người mắc bệnh v́ ăn uống.




Trà Mi: Tức là một phần ba.




Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Vâng, một phần ba. Trong đó người ta phải kể formol là một trong những nguyên nhân gây ra t́nh trạng ung thư tại Việt Nam.




Phân ure




Trà Mi: Ngoài formol, hàn the, chất tẩy trắng như ông vừa tŕnh bày th́ báo chí Việt Nam dạo gần đây cũng có lên tiếng về việc người ta cho phân ure vào nước mắm.




Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Ngư dân đánh cá ngoài biển muốn cho cá trữ trên nghe nhiều ngày mà trông vẫn c̣n tươi, đem về nhà c̣n bán được, th́ người ta ướp cá này bằng phân ure, tức là phân đạm. Khi chất này thấm vào cá th́ nó giữ cho cá được cứng và tươi lâu. Khi về đất liền người ta bán cá đó lại cho các hăng làm nước mắm. Những hăng nước mắm này không đủ nước để rửa cá mà dù có rửa cho sạch đi nữa th́ cùng không làm sách hết ure v́ nó đă thấm vào cá. Cho nên khi làm nước mắm th́ vẫn c̣n hàm lượng ure trong nước mắm. Đó là một lư do.



Ngoài ra tôi được biết người ta dùng "pin" có chứa những chất chứa kim loại nặng như ch́, thuỷ ngân, cadmium, thạch tín. Những chất này nằm trong cái người ta gọi là "pin" đó có mục đích là làm cho lá bánh chưng được xanh tươi, hoặc một số thực phẩm có màu xanh tươi.





Những chất này rất là nguy hiểm, nhất là ch́. Ch́ là chất ảnh hưởng lên trí óc, nhất là trí óc trẻ con. Kế đó là thuỷ ngân. Cadmium cũng là chất độc và thạch tín là một chất rất là độc được dùng để đầu độc giết người từ xưa nay.
Vừa rồi ở nước Mỹ có hàng triệu đồ chơi trẻ con bị thu hồi, lư do là nước sơn bên ngoài có chứa ch́. Sơn pha ch́ được dùng từ xưa, có tên là sơn bạch diêm. Thế giới cấm dùng từ năm bảy chục năm nay rồi, nhưng mà đồ chơi do Trung Hoa sản xuất th́ lại vẫn c̣n sơn ch́.


Thuỷ ngân cũng là một kim loại mà người ta e ngại lắm. Những người mẹ mang thai được khuyên là nên ăn ít cá biển càng tốt.

Trà Mi: Những cá biển càng to càng có nhiều thuỷ ngân phải không, thưa ông?



Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Đúng vậy. Thuỷ ngân có trong thiên nhiên. Lư do cá chứa nhiều thuỷ ngân là do các nhà máy hoá học từ nhiều năm nay đă đổ ra biển, cho nên cá ven biển chứa nhiều thuỷ ngân hơn cá ngoài khơi.
Thường thường những hoá chất trên đây có hại cho các bộ phận bên trong cơ thể, nhất là óc (do kim loại nặng), kế đó là thận, rồi gan, và dĩ nhiên chúng làm thay đổi các tế bào trong cơ thể và đưa tới hậu quả sau cùng là bệnh ung thư.


Trà Mi: Tai hại như vậy, nhưng như ông vừa tŕnh bày th́ nếu dùng chất phụ gia đó lâu ngày với số lượng nhiều th́ mới gây nguy hại đáng kể cho sức khoẻ, chứ c̣n lâu lâu mới dùng một lần th́ không đáng ngại, vậy xin hỏi dùng bao nhiêu được xem là nhiều và tḥi gian bao lâu gọi là lâu dài, th́ mới đáng lo?


Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: T́nh trạng thay đổi tuỳ theo chất. Thí dụ hàn the (borax) chúng ta dùng rất là lâu dài th́ số lượng gây chết người là 15 gam dùng cho một lần. Tức là với số lượng 15 gam th́ người lớn có thể chết. Với trẻ con là 3 gam. Nhưng không bao giờ chúng ta ăn nhiều như vậy v́ hàn the không ngon chút nào hết.


Thứ hai nữa là khi bỏ vào bánh tráng th́ người ta cũng chỉ cho một số lượng rất ít, cho nên khi ta ăn vào cơ thể th́ nó tích luỹ dần và lâu dài và nó gây bệnh về lâu dài. Điều này rất là nguy hiểm, những chất nào ăn vào chết liền th́ người ta sợ nên người ta tránh. C̣n những chất mới ăn vào người ta không cảm thấy ǵ cả, rồi tới khi nó phát ra bệnh th́ lúc đó đă trễ rồi.





Trà Mi: Đúng là kẻ giết người thầm lặng, phải không ông?




Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Vâng. Thành thử những chất nào người ta biết được là chất độc th́ ở các quốc gia Tây Phương ngựi ta cấm hẳn, không được có chút xíu nào trong thực phẩm hết.




Thí dụ kẹo sản xuất từ bên Mexico không phải người ta bỏ ch́ vào trong đó, nhưng các máy móc sản xuất người ta hàn bằng ch́. Những vết hàn bằng ch́ tan rất ít vào trong đường, trong kẹo. Đem qua Mỹ bán, chính phủ Mỹ phân chất thấy có chút xíu lượng ch́ trong đó và ra lệnh thu hồi liền.




Bột ngọt




Trà Mi: Lâu nay vẫn có nhiều người bán tín bán nghi về tính lợi hại của bột ngọt. Nhiều người không dám dùng bột ngọt trong nêm nếm thức ăn v́ nghe nói là độc hại cho sức khoẻ. Bột ngọt có tác hại thực sự ra sao? Có độc hay không, thưa ông?




Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Huyền thoại về bột ngọt đă có từ lâu lắm, từ khoảng hai ba mươi năm nay. Chính nó là chất mà tôi theo dơi nhiều nhất, thành thử nếu nói về bột ngọt th́ tôi rành nó lắm. Nó chỉ là một huyền thoại thôi.



Thực sự bột ngọt là một chất phụ gia gần như vô hại. Tôi nói là gần như vô hại nếu chúng ta không ăn với số lượng quá lớn. Bột ngọt là chất đă có tự nhiên ở trong thịt cá, dầu chúng ta có thêm vào hay không thêm vào th́ nó vẫn có bột ngọt. Thí dụ như chúng ta lên men nước tương theo lối cổ truyền th́ ở trong đó nó đă có bột ngọt rồi.




Bột ngọt là ǵ? Đó là acid glutamic mà cộng với sút, mà acid glutamic là một chất có trong thịt cá, có trong protein. Nó là một amino acid, tức là nó có trong tự nhiên.




Ở những nhà máy sản xuất bột ngọt người ta dùng phương pháp lên men khoai ḿ hoặc hiện bây giờ người ta c̣n lên men một vài thứ củ khác.




Các bà nội trợ có nhiều người tránh bột ngọt, nhưng thực sự chúng ta vào quán ăn chúng ta không thể nào mà không ăn bột ngọt hết. Tôi có một người quen làm trong tiệm phở. Người này cho biết một thùng nước lèo to của tiệm phở, người ta bỏ vào đó 2 bịch bột ngọt, hoặc có khi 3 bịch. Một bịch bột ngọt là nửa kư lô. Thành ra khi chúng ta vào một tiệm phở, ăn phở về, những người nhạy cảm một lúc sau họ thấy khô miệng, họ thấy đầu hơi choáng váng một chút, tê lưỡi. Có người bị ngứa ngoài da nữa. Những người đó được biết là những người dị ứng với bột ngọt.Theo thống kê, cứ 100 người th́ có 1 người bị dị ứng. "Hội chứng quán ăn Tàu" .




Trà Mi: Chính những phản ứng tức th́ làm cho người ta lo sợ?



Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Đúng vậy. Và triệu chứng đó, người Mỹ gọi là "hội chứng quán ăn Tàu", tại v́ trong tất cả quán ăn Á Đông nói chung th́ người ta luôn luôn dùng bột ngọt bởi lư do cạnh tranh. Nếu không gia thêm bột ngọt (vào thức ăn) th́ thực khách ăn không thấy ngon. Nhưng có điều là những chủ quán ăn lẫn người đầu bếp không rơ là bột ngọt gây thêm hương vị, nó làm cho vị ngọt thịt cá tăng lên. Nhưng bỏ càng nhiều th́ hương vị tăng lên không nhiều. Nó chỉ đên một giới hạn nào đó thôi, rồi nó không tăng lên nữa. Cho nên số lượng bột ngọt dùng trong nấu ăn không nên bỏ nhiều, chỉ đến một giới hạn nào đó rồi thôi. Ngoài giới hạn đó th́ nó không có lợi ích ǵ hết.




Nếu ḿnh nói vô hại hoàn toàn th́ không đúng, nhưng nó là chất phụ gia an toàn và được biết là không gây bệnh về lâu về dài.




Tuy nhiên, chính phủ Mỹ có khuyên hẳn hoi là những bà mẹ đang mang thai và trẻ sơ sinh c̣n quá nhỏ th́ không nên cho ăn những thực phẩm mà trong đó có bột ngọt.




Chính bản thân bột ngọt, tôi biết lúc xưa người Pháp dùng nó để làm thuốc bổ óc. Mà ngay như chúng tôi lúc c̣n đi học ở trung học th́ vẫn mua những viên thuốc bổ óc để uống. Những viên này là acid glutamic. Và người Pháp c̣n chế dưới dạng nước, dạng ống, đó là acid glutamic dưới dạng nước mà người ta gọi tên là glutaminol. Nếu nó là chất gây bệnh hay là chất có hại về lâu về dài th́ người Pháp họ đă biết và họ không dùng như vậy đâu.




Trà Mi: Có những tin đồn rằng bột ngọt được chế biến bằng khoai ḿ công nghiệp có nhựa độc thành ra người ta sợ bột ngọt không bảo đảm chất lượng.




Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Thưa cô, khoai ḿ nó độc. Nó độc không phải là ăn khoai ḿ độc hay ǵ đâu. Khoai ḿ, nhất là lá khoai ḿ, bông khoai ḿ có chứa một loại acid gọi là acid cyanhydric. Đó là loại acid mà ngày xưa Đức Quốc Xă dùng để giết người Do Thái. Hiện bây giờ vẫn c̣n những nơi người ta dùng chất đó để xử những tội nhân bị tử h́nh.




Trong khoai ḿ có một hàm lượng nhỏ acid cyanhydric, cũng giống như là trong măng tre. Măng tre cũng có một hàm lượng nhỏ acid cyanhydric.




Nếu khoai ḿ được luộc ít nước hoặc chúng ta ăn đọt khoai ḿ th́ có khi bị ngộ độc v́ chất acid đó. Nhưng nếu khoai ḿ được luộc nhiều nước hoặc chúng ta lấy bột khoai ḿ để cho lên men thành bột ngọt th́ không c̣n có dính dáng ǵ tới acid cyanhydric.




Bột ngọt là chính do những con men sinh sống bằng khoai ḿ tạo ra, chứ không phải ngay từ bản thân khoai ḿ.




Nếu người ta luộc đọt khoai ḿ để ăn th́ có thể bị ngộ độc. Hoặc là măng tre mà không được luộc hai ba nước và cứ để như vậy mà ăn th́ cũng có thể bị ngộ độc.




Món mắm các loại




Trà Mi: Xin được hỏi thêm là một món ăn cổ truyền rất phổ biến tại Viẹt Nam, rất quen thuộc với mọi người, đó là mắm các loại. Đối với nhiều người Việt Nam, thưỏng thức các loại mắm cũng không khác ǵ các món sơn hào hải vị. Nhưng bây giờ người ta nghi ngờ trong các loại mắm cũng có chứa những chất phụ gia độc hại. Thưa, có phải như vậy không?




Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Cảm ơn cô đă hỏi câu này. Vâng, tôi xin nói một chút xíu về mắm. Mắm theo ông bà chúng ta làm ngày xưa đó th́ tự bản thân nó cũng là chất rất là độc. Thậm chí đến nỗi cơ quan USDA của Hoa Kỳ khuyên người dân khi đi du lịch ở Trung Hoa hay ở các nước Á Châu th́ đừng ăn những chất protein ngâm muối. Tức là chính phủ Mỹ có ư muốn nói rằng đừng ăn thịt muối hay là cá muối, là mắm, là khô, là những loại rau cải được ngâm muối.




Nếu tôi nhớ không lầm th́ chính phủ Trung Hoa cũng đă khuyến cáo dân chúng là đừng ăn quá nhiều rau cải ngâm muối. Rau cải được ướp muối, được ngâm chua, được ngâm muối là món ăn truyền thống của người Trung Hoa. Và chính phủ Trung Hoa biết rằng nó gây ra bệnh ung thư.



Tôi trở lại với món mắm. Mắm tự bản thân nó là protein được ngâm muối, trong đó có nhiều chất độc được coi như chất tạo ra bệnh ung thư về lâu về dài. Thứ hai, lượng muối quá nhiều. Theo các nhà chuyên môn, hiện giờ mỗi ngày một người lớn chỉ được ăn chừng 1 tới 5 gam muối mà thôi. Đó là một số lượng rất ít, so với số lượng mà người Việt Nam tiêu thụ hiện giờ.




Ngay người Âu Châu, người Pháp làm thống kê, ngựi ta thấy số lượng muối ăn vào đă gấp 5-6 lần số lượng 1-5 gam. Và người ta biết rằng khi ăn muối nhiều như vậy th́ bệnh sẽ xảy ra về tim mạch.




Thành thử nếu chúng ta ăn mắm, ăn nước mắm quá nhiều th́ đă là không tốt rồi. Nhưng hiện bây giờ người ta bỏ thêm vào mắm nhiều chất phụ gia khác nữa, mà các chất phụ gia đó th́ chúng ta không kiểm soát được. Nó do sáng kiến từ nơi sản xuất: người ta muốn làm thế nào th́ làm miễn là trông tươi, trông ngon, trông đẹp th́ người ta ăn.




Tôi được biết khô cá, như khô cá thiều, theo một phóng sự mà tôi đọc được từ báo trong nước, th́ người ta dùng một loại cá biển không ngon đem về xay ra, xong rồi trộn chất phụ gia nào đó rất là nhiều. Xong người ta ép lại cho giống như miếng khô cá thiều rồi đem phơi nắng. Theo phóng viên tờ báo, khi đem phơi như vậy chính ruồi nhặng cũng không dám bám vào miếng khô đó nữa. Điều đó cho chúng ta thấy là đáng ngại lắm.




Tôi được biết tôm khô được người ta xịt thuốc trừ kiến vào trong đó để không bị kiến và bị mốc, màu được tươi. Tôi không biết thuốc trừ kiến đó là chất ǵ, mà con kiến đă sợ chất đó th́ dĩ nhiên là con người cũng phải sợ.




Khô mực và các loại cá khô




Trà Mi: Thế c̣n khô mực, cá loại cá khô khác có nên quan ngại không, thưa ông?




Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Khô mực tới bây giờ tôi không được biết người ta đă bỏ chất ǵ vào trong đó, nhưng chính con khô mực có thành phần cholesterol rất cao. Khô mực là một trong những thực phẩm có cholesterol cao nhất. Kế đó là óc heo, óc ḅ.




Trà Mi: Mặc dù là không có chất phụ gia thực phẩm?




Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Mặc dù không có, nhưng khô mực ăn nhiều không tốt đâu, tại v́ cholesterol trong đó cao lắm. Nó cao hơn cả tṛng đỏ trứng gà nữa.




Trà Mi: Dạ. Cholesterol ngày nay cũng là một cái đáng sợ.




Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Đó là một cái mà người ta khuyến khích không nên đem vào cơ thể nhiều. Số lượng mà cơ quan USDA của Mỹ khuyên người dân là một người lớn trung b́nh mỗi ngày chỉ nên đem vào cơ thể chừng 300 miligam trở lại. Một trong đỏ hột gà chứa từ 250 tới 300 milgam. C̣n nếu trứng vịt th́ hàm lượng cholesterol c̣n cao hơn nhiều./.




Ai Mont sưu tầm

florida80
04-13-2019, 15:59
Không Ăn Sáng Hậu Quả Không Lường









Bữa ăn sáng thực sự quan trọng trong cuộc sống của chúng ta, để đảm bảo sức khỏe và tăng tuổi thọ, bạn hăy chú ư đến bữa ăn sáng.




Bệnh tim mạch: Một nghiên cứu của Mỹ vừa công bố cho rằng, nam giới bỏ bữa ăn sáng có nguy cơ lên cơn đau tim hoặc mắc bệnh tim mạch cao hơn tới 27% so với những người ăn sáng đầy đủ.




Ung thư túi mật: Sau giấc ngủ dài, thức ăn của bữa tối đă được tiêu hoá hết và dạ dày vẫn tiếp tục tiết ra dịch vị. Nếu bạn không 'nạp năng lượng' vào bữa sáng, các chất cặn bă tích tụ trong dạ dày không có cơhội đào thải ra ngoài, lâu ngày sẽ kết lại thành sỏi, gây bệnh sỏi thận và túi mật.




Già nhanh: T́nh trạng bỏ bữa sáng kéo dài có thể khiến bạn nhanh già. Khi không ăn sáng, cơ thể con người tiêu thụ glycogen và protein được lưu trữ trong cơ thể. Dần dần nó sẽ gây khô da, h́nh thành nếp nhăn và thiếu máu, đẩy nhanh quá tŕnh lăo hóa của con người.




Tăng cân: Nếu bạn không ăn sáng, bạn sẽ ăn nhiều thức ăn hơn vào bữa trưa, do vậy nó sẽ gây ra khó khăn trong việc tiêu hóa và hấp thu dinh dưỡng. Trong trường hợp này, quá nhiều chất béo sẽ được tích lũy trong cơ thể và dần dần làm cho bạn béo.




Táo bón: Nếu bạn không ăn sáng sẽ dẫn đến táo bón. Nếu bạn luôn luôn không có bữa ăn sáng, nó có thể gây ra rối loạn phản xạ và sau đó dẫn đến táo bón. Nếu cơ thể không thể đẩy các độc tố, chất độc quá nhiều sẽ tích lũy trong cơ thể, và sau đó dẫn đến nhiều triệu chứng như nổi mụn.




Bệnh tiều đường tuưp 2: Bỏ qua bữa sáng sẽ khiến nâng lên và giảm xuống mức insulin, gây không cân đối thường xuyên làm cho cơ thể bạn tự nhiên tạo ra sự đề kháng với insulin gây nên bệnh tiểu đường tuưp 2.




Bệnh huyết áp thấp: Nếu bạn là người có sức khỏe yếu th́ việc không ăn sáng thực sự là vô cùng tai hại và nguy hiểm. Nó sẽ làm bạn tụt đường huyết, hạ huyết áp. Bạn sẽ bị thường xuyên bị chóng mặt, nhức đầu, ngất xỉu, tay chân ră rời và đó là những dấu hiệu biểu hiện bạn bịbệnh huyết áp thấp rồi đấy




Đau dạ dày: Ngay sau khi bạn thức dậy, các cơ quan trong cơ thể bắt đầu hoạt động mạnh mẽ, nhưng khi bạn không ăn sáng, dạ dày luôn co bóp không, dịch vị tiết ra nhưng không có ǵ để tiêu hóa, dần dần sẽ dẫn đến viêm loét dạ dày.




Xơ vữa động mạch: Nhiều người có suy nghĩ ăn bù dự trữ từ đêm hôm trước đề bỏ bữa sáng ngày hôm sau. Tuy nhiên, ăn nhiều vào bữa tối, đặc biệt là sau 19 giờ tối sẽ tích lũy thành mỡ đấy. Mỡ này sẽ bám vào thành mạch, thành tim, trong gan, trong thận và xơ vữa động mạch.




Một số bệnh măn tính khác: Bạn bắt đầu ngày làm việc mới trong t́nh trạng đói mềm, để có sức lực, cơ thể phải huy động các tuyến nhưtuyến giáp, tuyến cận giáp, tuyến yên… hoạt động để tạo ra năng lượng. Khi các tuyến này hoạt động thái quá nó có thể tạo ra nhiều axit, dẫn tới các bệnh măn tính.




Phản ứng chậm chạp: Bữa sáng là nguồn năng lượng cho hoạt động năo bộ, nếu không ăn sáng, cơ thể không nạp đủ nhiên liệu và năng lượng để thực hiện những hoạt động trong ngày. Khi đó, cơ thể bạn mệt mỏi, năo không thể tập trung, tinh thần không hưng phấn, phản ứng tŕ trệ.




Sưu tầm

florida80
04-13-2019, 16:01
Không Ăn Sáng Hậu Quả Không Lường









Bữa ăn sáng thực sự quan trọng trong cuộc sống của chúng ta, để đảm bảo sức khỏe và tăng tuổi thọ, bạn hăy chú ư đến bữa ăn sáng.




Bệnh tim mạch: Một nghiên cứu của Mỹ vừa công bố cho rằng, nam giới bỏ bữa ăn sáng có nguy cơ lên cơn đau tim hoặc mắc bệnh tim mạch cao hơn tới 27% so với những người ăn sáng đầy đủ.




Ung thư túi mật: Sau giấc ngủ dài, thức ăn của bữa tối đă được tiêu hoá hết và dạ dày vẫn tiếp tục tiết ra dịch vị. Nếu bạn không 'nạp năng lượng' vào bữa sáng, các chất cặn bă tích tụ trong dạ dày không có cơhội đào thải ra ngoài, lâu ngày sẽ kết lại thành sỏi, gây bệnh sỏi thận và túi mật.




Già nhanh: T́nh trạng bỏ bữa sáng kéo dài có thể khiến bạn nhanh già. Khi không ăn sáng, cơ thể con người tiêu thụ glycogen và protein được lưu trữ trong cơ thể. Dần dần nó sẽ gây khô da, h́nh thành nếp nhăn và thiếu máu, đẩy nhanh quá tŕnh lăo hóa của con người.




Tăng cân: Nếu bạn không ăn sáng, bạn sẽ ăn nhiều thức ăn hơn vào bữa trưa, do vậy nó sẽ gây ra khó khăn trong việc tiêu hóa và hấp thu dinh dưỡng. Trong trường hợp này, quá nhiều chất béo sẽ được tích lũy trong cơ thể và dần dần làm cho bạn béo.




Táo bón: Nếu bạn không ăn sáng sẽ dẫn đến táo bón. Nếu bạn luôn luôn không có bữa ăn sáng, nó có thể gây ra rối loạn phản xạ và sau đó dẫn đến táo bón. Nếu cơ thể không thể đẩy các độc tố, chất độc quá nhiều sẽ tích lũy trong cơ thể, và sau đó dẫn đến nhiều triệu chứng như nổi mụn.




Bệnh tiều đường tuưp 2: Bỏ qua bữa sáng sẽ khiến nâng lên và giảm xuống mức insulin, gây không cân đối thường xuyên làm cho cơ thể bạn tự nhiên tạo ra sự đề kháng với insulin gây nên bệnh tiểu đường tuưp 2.




Bệnh huyết áp thấp: Nếu bạn là người có sức khỏe yếu th́ việc không ăn sáng thực sự là vô cùng tai hại và nguy hiểm. Nó sẽ làm bạn tụt đường huyết, hạ huyết áp. Bạn sẽ bị thường xuyên bị chóng mặt, nhức đầu, ngất xỉu, tay chân ră rời và đó là những dấu hiệu biểu hiện bạn bịbệnh huyết áp thấp rồi đấy




Đau dạ dày: Ngay sau khi bạn thức dậy, các cơ quan trong cơ thể bắt đầu hoạt động mạnh mẽ, nhưng khi bạn không ăn sáng, dạ dày luôn co bóp không, dịch vị tiết ra nhưng không có ǵ để tiêu hóa, dần dần sẽ dẫn đến viêm loét dạ dày.




Xơ vữa động mạch: Nhiều người có suy nghĩ ăn bù dự trữ từ đêm hôm trước đề bỏ bữa sáng ngày hôm sau. Tuy nhiên, ăn nhiều vào bữa tối, đặc biệt là sau 19 giờ tối sẽ tích lũy thành mỡ đấy. Mỡ này sẽ bám vào thành mạch, thành tim, trong gan, trong thận và xơ vữa động mạch.




Một số bệnh măn tính khác: Bạn bắt đầu ngày làm việc mới trong t́nh trạng đói mềm, để có sức lực, cơ thể phải huy động các tuyến nhưtuyến giáp, tuyến cận giáp, tuyến yên… hoạt động để tạo ra năng lượng. Khi các tuyến này hoạt động thái quá nó có thể tạo ra nhiều axit, dẫn tới các bệnh măn tính.




Phản ứng chậm chạp: Bữa sáng là nguồn năng lượng cho hoạt động năo bộ, nếu không ăn sáng, cơ thể không nạp đủ nhiên liệu và năng lượng để thực hiện những hoạt động trong ngày. Khi đó, cơ thể bạn mệt mỏi, năo không thể tập trung, tinh thần không hưng phấn, phản ứng tŕ trệ.




Sưu tầm

florida80
04-13-2019, 16:02
Uống Nước Nhớ Nguồn - Nguyễn Thượng Chánh











Từ vài chục năm nay, kỹ nghệ nước đóng chai đã không ngừng phát triển một cách rất mạnh mẽ trên khắp thế giới.


Chỉ riêng trong khoảng thời gian từ 2002 đến 2010, sự tiêu thụ nước đóng chai trên thế giới đã tăng 7,6% mỗi năm., từ 130,95 tỉ lít lên 188,8 tỉ lít.

Năm 2012, Canada tiêu thụ 23 tỉ lít.

Hoa kỳ tiêu thụ 33,4 tỉ lít,




Tại Canada, năm 1999 mỗi người dân tiêu thụ trung bình 24,4 lít/năm. Đến năm 2005 tăng lên 60 lít/năm, và có một thương vụ là 652,7 triệu dollars.


* * *


Qua kết quả thăm dò của Leger Marketing, có lối 30 % dân Canada không còn tin tưởng và tính nhiệm vào việc dùng nước máy để uống nữa. Hiện tượng ô nhiễm môi sinh là lý do chánh của quyết định nầy.




Theo International Bottled Water Association (IBWA) dân chúng ưa chuộng nước đóng chai vì nó không gắt mùi chlorine như nước máy. Ngoài ra nó cũng có vẻ tinh khiết và bổ dưỡng cho sức khỏe nữa (?).




Bên cạnh các loại nước đóng chai đa dạng, đủ kiểu, đủ cỡ, đồng thời chúng ta cũng thấy xuất hiện các ngành kỹ nghệ phụ thuộc, như những máy lọc, những máy làm lạnh nước, những dụng cụ khử trùng và khử chất bẩn trong nước uống.




Nước được đựng trong các chai rất đẹp mắt, tiện lợi, dễ mang theo và cũng rất dễ tìm. Bởi những lý do nầy, nên nhiều người đã chọn nước đóng chai hoặc nước lọc để uống, tuy vậy cũng có một số người thì lại nghĩ rằng uống nước đóng chai hay uống nước máy thì cũng vậy thôi, không có gì khác biệt với nhau hết…




Ngoài ra cũng có người còn nói là chất plastic của chai nước rất độc hại cho sức khỏe và việc sản xuất quá quy mô của kỹ nghệ nưóc đóng chai có thể làm tổn hại đến môi trường thiên nhiên…




THẾ NÀO GỌI LÀ NƯỚC ĐÓNG CHAI?

Đây là nước uống đã được vô chai sẵn, đóng nút kỹ lưỡng và có nhãn hiệu đàng hoàng. Tại Canada, danh xưng của các nước đóng chai được luật quy định rõ rệt, và gồm có nhiều loại:




Nước suối thiên nhiên (natural spring water). Được khoan rút từ các suối ngầm chảy trong lòng đất. Nước phải trong lành và chứa một nồng độ chất khoáng không được hơn 500 ppm/lít.




Nước khoáng thiên nhiên (natural mineral water), cũng được hứng từ những mạch ngầm dưới đất, và có một nồng độ chất khoáng rất cao. Canada ấn định nồng độ nầy phải từ 500 ppm/lít trở lên (còn ở Hoa kỳ thì trên 250 ppm/lít). Thông thường nồng độ khoáng chất hòa tan trong loại nước nầy thường ở vào khoảng 700-800 ppm, tuy nhiên cũng có loại có thể chứa trên 3000 ppm chất khoáng. Đối với 2 loại nước suối và nước khoáng vừa kể, nhà sản xuất không có quyền làm thay đổi thành phần chất khoáng tiên khởi có sẵn trong nước ngầm, ngoại trừ họ có thể cho thêm khí CO2 (carbon dioxide), hoặc thêm chất fluoride. Ngoài ra họ cũng có thể sử dụng phương pháp khử trùng bằng ozone.




Nước đã qua giai đọan gạn lọc (treated water). Đây không phải là những loại nước lấy từ nguồn nước ngầm, nhưng là nước của thành phố, tức được hứng từ vòi robinet.

Thông thường là nước sông hoặc nước ao hồ được lắng lọc, làm cho trong, và khử trùng bằng nhiều phương pháp khác nhau như dùng tia cực tím (ultra violet), ozone, thẩm thấu ngược (reverse osmosis) hoặc sử dụng cách lọc đặc biệt gọi là absolute micron filtration.




Lọai nước này có thể là nước cất (distilled water), nước vô khoáng (demineralized water), và nước có gaz (carbonated water)...




*Nước cất có được qua phương pháp làm bốc hơi và sau đó làm cô động lại thành nước. Nước cất không có chứa chất khoáng hoặc chỉ chứa một nồng độ chất khoáng thật thấp dưới 10 ppm/lít...




*Nước vô khoáng là nước đã được rút bớt chất khoáng ra bằng một phương pháp nào đó ngoại trừ cách cất nước. Nồng độ chất khoáng của nó rất ư là thấp và phải dưới 10 ppm/lít. Nước vô khoáng có thể được dùng để uống, để chế vô các dụng cụ điện như bàn ủi, bình batterie, để gội đầu các trẻ sơ sinh, tráng phim hoặc để dùng trong các phòng thí nghiệm. Tại Canada, loại nước vô khoáng thường thấy bán trong các pharmacies …




* Nước có gaz để tạo bọt nhỏ li ti (sparkling) gây the the chích lưỡi và coi rất đẹp mắt




NƯỚC ĐÓNG CHAI CÓ CHỨA VI KHUẨN KHÔNG?

Nước đóng chai không phải là nước hoàn toàn vô trùng (sterile)... Nó vẫn có thể có chứa một ít vi khuẩn nào đó, nhưng điều quan trọng nhất là nó không được chứa các loại vi khuẩn có hại cho sức khỏe.




NƯỚC ĐÓNG CHAI CÓ TỐT HƠN NƯỚC MÁY KHÔNG?

Trên nguyên tắc, nhà sản xuất cũng như nhà nhập cảng phải chịu trách nhiệm và bảo đảm sản phẩm của họ phải đáp ứng đầy đủ các quy định về vệ sinh cũng như tính chất trong lành ấn định bởi cơ quan Health Canada. Điều kiện nầy cũng áp dụng cho cả nước robinet của thành phố nữa. Đến nay, tại Canada chưa thấy có báo cáo nào nói lên các trường hợp bệnh hoạn gây nên bởi nước đóng chai cả.




NÊN DÙNG LOẠI NƯỚC ĐÓNG CHAI NÀO?

Các cụ lớn tuổi, các người bệnh hoạn lâu ngày, có hệ miễn dịch bị suy yếu sẵn, và các cháu bé nhỏ tuổi nên uống nước đóng chai đã được khử trùng bằng phương pháp ozone...Để thay thế, họ cũng có thể dùng nước có gaz. Loại nước nầy có tính hơi acid nên vi khuẩn khó phát triển được trong đó…Bình thường, chúng ta nên mua những loại nước có nồng độ sodium thật thấp, trên chai có đề câu sans sodium / sodium free hoặc faible en sodium / low in sodium.




TRÊN CHAI NƯỚC CẦN PHẢI CÓ GHI NHỮNG CHI TIẾT GÌ?

Theo luật Canada, cần phải có: tên sản phẩm, thành phần và nồng độ các loại khoáng chất, cách lọc và phương pháp khử trùng ra sao, như ozone, thẩm thấu ngược (reverse osmosis), v.v… và có thêm chất fluoride vào hay không. Nguồn nước lấy từ đâu và địa chỉ nơi sản xuất.




NƯỚC ĐÓNG CHAI CÓ CHỨA NHỮNG CHẤT GÌ?

Tạp chí Protégez vous cho biết nước đóng chai bán tại Québec không có chứa hoặc chứa rất ít chất Arsenic (As), Đồng (Cu), Kẽm (Zn) và Potassium (K). Các chất sau đây thường được thấy ghi trên nhãn hiệu:


Calcium (Ca): tốt cho xương, ngừa chứng loãng xương (osteoporosis). Các hiệu sau đây có chứa những lượng calcium đáng kể: Abenakis (540 ppm), Ferrarelle (368 ppm), San Pellegrino (208 ppm), Perrier (147 ppm) và Vichy Celestins (94 ppm).


Sodium (Na): đa số nước suối thiên nhiên đều chứa rất ít sodium. Ngược lại, nước khoáng thiên nhiên lại chứa rất nhiều sodium. Abenakis (4300 ppm), Vichy celestin (1196 ppm). Bởi lẽ nầy, các loại nước khoáng thường có vị hơi mặn. Đôi khi chúng ta thấy có đề câu Sans sodium/ Sodium free, đây không có nghĩa là hoàn toàn không có sodium, nước vẫn có thể có chứa chút ít sodium nhưng chất nầy phải ít hơn 5 mg cho 100 ml. Các người có bệnh tim, cao áp huyết, hoặc đau thận thì không nên dùng nước có chứa trên 10mg sodium trong 1 lít.


Chorure, Chloride (Cl): Nước suối chứa rất ít chloride, trung bình 18 ppm, ngược lại nước khoáng chứa rất nhiều chloride, thường ở vào khoảng 350 ppm.


Magnesium (Mg) & Sulfate (SO4): Sulfate thường kết hợp với Calcium hoặc với Magnesium…Sulfate có tính nhuận trường. Uống nhiều có thể làm xót ruột và gây ra tiêu chảy. Magnesium giúp củng cố sức miễn dịch, giúp tim hoạt động tốt và điều hòa áp huyết động mạch. Luật Quebec, Canada ấn định nước suối không được chứa hơn 500 ppm sulfate. Tuy vậy, 2 hiệu sau đây đều có chứa một lượng sulfate rất cao, đó là Abenakis (750 ppm), và San Pellegrino (459 ppm).


Nitrate (NO3): Ngược với Sulfate, Nitrate rất độc và có thể gây hại cho sức khỏe. Trong cơ thể Nitrate chuyển thành Nitrite (NO2) và ngăn trở việc chuyển vận oxy trong máu, gây ngạt thở và làm tím da, thường là vùng quanh miệng, và da ở 2 bàn tay và ở 2 bàn chân. Hiện tượng nầy thường xảy ra ở các cháu bé dưới 6 tháng tuổi, người ta gọi đây là Blue baby syndrome hay methemoglobinemia. Dùng nước có chứa quá nhiều Nitrate để pha sữa có thể đưa đến hiện tượng nầy. Phụ nữ đang mang thai cũng cần nên để ý tới Nitrate… Có người còn nghi Nitrate có thể gây ra cancer nữa. Đa số nước đóng chai đều không có hoặc có rất ít Nitrate… Nitrate cũng hiện diện khá nhiều trong một số rau cải, như carrot, và rau mồng tơi.


Bicarbonate (HCO3): Đây là chất kháng acid (antacid), làm giảm độ chua của bao tử. Ở nồng độ 600ppm, Bicarbonate có thể làm giảm thiểu chứng xót dạ dầy và bụng đầy hơi. Bicarbonate có rất nhiều trong các loại nước khoáng, dẫn đầu là Vichy celestins (3026 ppm Bicarbonate).


Fluoride (F): giúp vào sự phát triển của xương cũng như ngăn ngừa sâu răng ở trẻ em. Việc lạm dụng hay thặng dư Fluoride sẽ dẫn đến tình trạng các men răng có đóm trắng đóm nâu làm mất vẻ thẩm mỹ, khoa học gọi tình trạng nầy là dental fluorosis. Ở người lớn không thấy xảy ra hiện tượng nầy, nhưng nếu tiêu thụ quá nhiều fluoride trong một thời gian lâu dài sẽ dẫn đến tình trạng đau nhức xương và khớp. Nên nhớ là fluoride cũng hiện diện trong kem đánh răng và trong một số thực phẩm nữa. Thường thì nước đóng chai có rất ít chất fluoride ngoại trừ một vài hiệu như Vichy celestin (6.1 ppm fluoride).




NHÀ SẢN XUẤT CÓ THỂ DÙNG NƯỚC MÁY ĐỂ VÔ CHAI HAY KHÔNG?

Canada cho phép. Nhưng trường hợp nầy không thể sử dụng danh từ nước suối hay nước khoáng thiên nhiên được. Nhà sản xuất có quyền được dùng nước máy (tap water), đem cất, lọc, khử trùng, làm cho bớt mùi chlore và sau đó vô chai đem bán.





NƯỚC ĐÓNG CHAI CÓ THỂ TỒN TRỮ ĐƯỢC TRONG BAO LÂU?


Để giữ sự trong lành, một khi chai nước đã được khui ra, uống không hết nên cất vào tủ lạnh ngay. Vì thời gian tồn trữ nước đóng chai thường trên 90 ngày, nên luật Canada không bắt buộc nhà sản xuất phải ghi ngày vô chai và ngày giới hạn sử dụng (Best before).


Thông thường thời gian tồn trữ nước đóng chai là 2 năm kể từ ngày vô chai với điều kiện là nắp chai vẫn còn nguyên vẹn và nước được cất giữ ở nơi tối, mát mẻ…

Đối với những loại nước mà chúng ta tự hứng vô bình tại các siêu thị, thì cần nên sử dụng càng sớm càng tốt.

Tránh cất giữ nước đóng chai nơi ẩm nóng, dưới ánh sáng mặt trời hoặc để gần nơi cất giữ xăng dầu, savon và các loại hóa chất chùi rửa…

Canadian Bottled Water Association (CBWA) khuyên chúng ta không nên dùng các chai plastic đựng nước để đựng các loại thức uống khác. Các chai nầy chỉ nên sử dụng một lần duy nhất mà thôi (usage unique) vì chất plastic có chứa chất polyethylene terephthalate (PET). Xài đi xài nhiều lần, plastic sẽ biến ra thành những chất độc có hại cho sức khỏe.


Đối với các bình lớn, loại 18 lít, chúng được làm từ chất polycarbonate rất cứng chắc nên nhà máy có thể sử dụng đi sử dụng lại 40-50 lần để đựng nước. Tại nhà máy, bình được rửa lại cẩn thận, tiệt trùng, chăm đầy nước và niêm nấp lại kỹ lưỡng trước khi đem bán cho người tiêu thụ.




ĐẮT NHƯ VÀNG

Chai nước có màu xanh lơ, nhãn hiệu cũng cùng một màu, và kèm theo lời quảng cáo thật là hấp dẫn: Nước xử lý có chứa muối khoáng, một món giải khát thật tinh khiết (Pure refreshment - Mineralized Treated Water), được lọc và khử trùng qua phương pháp thẩm thấu ngược hay phương pháp ozone. Đó chẳng qua là nước robinet mà thôi, do Cty Coca Cola sản xuất và mang tên là Dasani, giá bán 1$/1 lít...Vậy, nguồn nước đã được lấy từ đâu? Xin thưa, tại Canada, nước lấy tại thành phố Calgary (Alberta) và tại thành phố Brampton (Ontario), còn ở Hoa Kỳ nước được hứng tại một thành phố nào đó ở Kansas và Pennsylvania. Tất cả đều đúng luật định, không có gì sai trái cả.


Những năm gần đây, thị trường nước ngọt có mòi xuống dốc vì thiên hạ sợ uống ba cái thứ nước ngọt nhiều đường, nhiều caffeine sẽ không tốt cho sức khỏe. Thôi thì uống nước lã đóng chai là thượng sách rồi. Các Cty nước ngọt chụp lấy thời cơ xoay qua việc sản xuất nước đóng chai. Bán 1 vốn 10 lời.

Năm 2001, Hoa Kỳ đã tiêu thụ 20 tỉ lít nước vô chai.Theo Bewerage Digest, kỹ nghệ nước đóng chai Hoa Kỳ đã thu vào trên 7.5 tỉ $ / năm…Riêng Canada, với khoảng 31 triệu dân, từ năm 1995 đến năm 2000 lượng nước tiêu thụ đã nhảy vọt từ 527 triệu lít lên 850 triệu lít /năm. Nước đóng chai đắt gấp cả trăm lần hơn nước robinet...Tại Canada, phần lớn các hiệu nước đóng chai đều nằm trong tay của các đại công ty quốc tế như: Nestlé (Montclair, Perrier), Danone (Labrador, Evian, Naya), CocaCola (Dasani) và PepsiCola (Aquafina, sản xuất từ nước robinet của thành phố).


Mấy năm gần đây, kỹ nghệ nước uống còn sáng tạo thêm những loại nước uống rất đặc biệt. Đó là những thứ nước uống có “trị giá tăng thêm” (à valeurs additionnelles), nghĩa là được trộn thêm những chất dinh dưỡng, chất khoáng, vitamines, hydrogen(?), oxygen, hoặc cả chất chlorophylle nữa.


Hiệu Oxygizer là loại nước có thêm oxygen và được nhập cảng từ Áo quốc. Giá bán rất “bình dân”, chỉ có 4.50$ cho một chai ½ lít mà thôi. Nước có thêm oxygen (oxygenatad water) nhờ được trình bày rất đẹp mắt, quảng cáo tinh vi nên đã trở thành một mặt hàng rất phổ thông à la mode nhất là đối với giới trẻ. Thấy có ăn, rất nhiều công ty đã nhảy ra sản xuất mặc hàng nầy.


Quảng cáo của các nhà sản xuất rất táo bạo, thí dụ như nước có oxygen sẽ giúp tăng thành tích của những người chơi thể thao… Có thật vậy không? Sự thật thế nào thì phải hỏi lại! Theo tạp chí Journal of American Association Nov 2003, thì dù cho có uống nước pha oxygen đi nữa thì thành tích của một người vận động viên cũng không thấy gì thay đổi hết!




NHỮNG MÁY LỌC NƯỚC TẠI NHÀ

Để giải quyết phần nào vấn đề ô nhiễm của nước uống, bạn cũng có thể sử dụng các máy lọc hiện có bán trên thị trường. Mỗi loại máy đều có tính chất và đặc điểm riêng rẽ, và giá cả cũng khác biệt nhau. Không có điều luật nào của chính phủ chi phối và kiểm soát sự công hiệu của các loại máy nầy hết.

Chúng ta chỉ còn biết trông cậy vào những lời quảng cáo mà thôi. Nhưng có một điều chắc chắn, là nếu sử dụng không đúng cách và không năng chùi rửa, tẩy trùng thường xuyên các bộ phận chứa nước thì chắc chắn rong rêu và vi khuẩn sẽ bám đầy trong đó và máy lọc sẽ trở nên một ổ chứa vi trùng khổng lồ mà thôi.




NƯỚC ROBINET HAY NƯỚC MÁY

Tại các thành phố và thị trấn lớn, nước sông, rạch, ao hồ được đưa về trữ trong những bể khổng lồ tại các nhà máy nước. Sau đó, nước được lắng lọc, pha trộn hóa chất để làm trầm hiện các chất hữu cơ, giúp nước được trong, đồng thời để khử các loại vi khuẩn, virus và ký sinh trùng.

Chlore (Chlorine) là chất thường được dùng nhiều nhất để khử trùng nước uống. Trở ngại chính của chlore là làm cho nước có mùi gắt, uống không ngon.


Ngoài ra hóa chất nầy cũng có thể tác dụng với các chất hữu cơ, chẳng hạn như lá cây mục rác rến, để tạo ra những phế chất nhóm Trihalomethanes (THM). Người ta nghi về lâu về dài THM có thể gây ra cancer (ruột và bọng đái) hoặc gây xảo thai...


Để làm mất mùi chlore, chúng ta có thể đun nước cho sôi lên để làm mùi bay đi. Chúng ta cũng có thể hứng nước vào bình, không đậy nấp và đem cất qua đêm trong tủ lạnh, hôm sau sẽ bớt mùi chlore...Health Canada cho phép nước robinet có thể chứa một nồng độ THM tối đa là 0.1mg/lít.

Cũng có một số ít nhà máy sử dụng ozone để khử trùng nước uống. Phương pháp nầy rất hữu hiệu nhưng rất tốn kém. Trở ngại chính là ozone dần dần sẽ mất tác dụng trong hệ thống phân phối nước, trong khi chất chlore rất ổn định và bền bỉ trong nước suốt từ nhà máy đến nơi tiêu thụ.




Tại Canada, 40% thành phố đã cho thêm chất Fluoride vào nước robinet. Phương pháp nầy nhầm giúp ngừa sâu răng đồng thời cũng giúp cho răng phát triển tốt hơn. Tuy nhiên, cũng có nhiều người không đồng ý và chống đối phương pháp thêm Fluoride vào nước. Họ sợ một sự thặng dư Fluoride sẽ ảnh hưởng không tốt cho sức khỏe thậm chí còn có thể gây ra cancer nữa. Health Canada cho phép nước robinet được chứa một nồng độ Fluoride là 1.0 mg trong 1 lít...




Các tests xét nghiệm về vi trùng học, virus, ký sinh trùng học, kim loại nặng và các hóa chất độc vẫn thường được thực hiện tại các nhà máy nước uống. Kết quả cho thấy là nước robinet ở Canada rất tốt và có thể uống được một cách an toàn không nguy hiểm.


Tuy vậy, thỉnh thoảng chính quyền địa phương vẫn ra thông báo khuyên người dân phải đun nước cho sôi rồi hãy uống với lý do là nước đã bị

nhiễm vi trùng đường ruột (coliformes) khá cao trên mức quy định...Còn nhớ, tháng 5 năm 2000, tại thành phố Walkerton Ontario cũng đã xảy ra vụ tai tiếng nước robinet bị nhiễm khuẩn E.coli 0157:H7, còn gọi là khuẩn bệnh Hamburger. Biến cố nầy đã khiến trên 2000 dân địa phương phải đến bệnh viện để được điều trị chứng đau bụng và tiêu chảy. Cuối cùng cũng có 7 nạn nhân chẳng may đã thiệt mạng, đa số là những người lớn tuổi...




Bên cạnh vi khuẩn ra, nước cũng có thể bị nhiễm bởi 2 loại ký sinh trùng thuộc nhóm nguyên sinh vật (protozoa), đó là Giardia và Cryptosporum. Các ký sinh trùng nầy, dưới dạng bào tử (spores), có thể sống rất dai trong môi sinh...Giardia được tìm thấy trong phân người, chó, hải ly (castor, beaver) và chuột xạ. Bị nhiễm Giardia, chúng ta sẽ bị đau bụng và tiêu chảy dây dưa cả tuần lễ... Cryptosporum cũng được thấy trong phân người và trong phân của gia súc như bò chẳng hạn. Cryptosporum có thể nhiễm vào nguồn nước, kể cả nước giếng. Đau bụng và tiêu chảy là triệu chứng chính của nước đã bị nhiễm Cryptosporum. Bệnh có thể rất nặng ở các cháu bé nhỏ tuổi và ở các bác lớn tuổi.


Đun nước cho sôi là cách hữu hiệu nhất để diệt vi khuẩn, virus và ký sinh trùng trong nước uống.

Nhưng điều e ngại nhứt của mọi người vẫn là các hóa chất ô nhiễm trong kỹ nghệ và canh nông có thể có trong nước sông và từ đó mà nhiễm vào hệ thống nước robinet của thành phố…

Chất diệt cỏ Atrazine là một trong nhiều loại ô nhiễm hóa học được phát hiện trong nước sông ở Québec... Atrazine có thể gây ung thư...




Nhiễm chì (Pb) cũng là một vấn đề quan trọng của nước robinet. Nước máy có thể bị nhiễm chì từ hệ thống ống nước bằng chì thường thấy ở các nhà được xay cất cách nay 5-6 chục năm. Cũng may là ngày nay, luật Canada cấm sử dụng ống nước bằng chì trong việc xây dựng nhà cửa. Nhiễm chì trong thời gian lâu dài rất có hại cho hệ thần kinh trung ương, nhất là đối với các cháu bé. Để ngăn ngừa vấn đề nầy, người ta khuyên chúng ta mỗi buổi sáng nên mở xả bỏ nước robinet cho chảy tự do trong vòng một phút rồi hãy uống.




Nước robinet đôi khi cũng có màu sắc khác thường, như hơi đỏ nâu. Đây có thể là thùng nước nóng đã bị rỉ sét, hoặc có người đang sửa chữa hệ thống ống dẫn nước trong khu vực của mình.




Vào những ngày mùa đông lạnh lẻo, khi mở robinet, đôi lúc nước có màu trắng đục. Đây là hiện tượng rất bình thường mà thôi. Bọt khí được giữ trong ống, lúc được mở ra, nhiệt độ cũng như áp suất bị thay đổi đột ngột làm cho nước tạo ra những bọt nhỏ li ti. Hứng trong ly, nước có màu trắng đục, nhưng để yên một lúc thì nước sẽ lần lần trong trở lại bắt đầu từ dưới đáy ly lên trên.




Nên nhớ là đừng bao giờ sử dụng nước nóng hứng từ robinet để uống, để pha sữa hoặc để nấu ăn, vì nước nóng có thể tích lũy nhiều chất kim loại, như chì và đồng cũng như các chất rỉ sét xuất phát từ bồn chứa.



UỐNG NƯỚC GIẾNG CÓ BẢO ĐẢM KHÔNG?


Tại Canada, dân sống xa thành thị, bắt buộc phải đào giếng để có nước mà xài. Có 2 loại giếng: giếng cạn dưới 30 mét, và giếng sâu từ 30 mét trở lên. Giếng cạn dễ bị ô nhiểm hơn giếng sâu. Như nước sông, nước giếng tự nó củng không hoàn toàn tinh khiết trong lành. Các loại vi khuẩn, như E.coli, và ký sinh trùngCryptosporidiu m từ phân gia súc có thể nhiễm vào đất và ngấm vào thủy cấp... Chất nitrate có thể xuất phát từ tác động của vài loại vi khuẩn trên các chất phế thải gốc thực vật và động vật, củng như nitrate từ phân bón hóa học tan trong nước mưa và sau đó nhiễm vào nước giếng. Các hóa chất nông dược, thuốc trừ sâu, và thuốc diệt cỏ đều là nhửng mối đe doạ cho nước giếng. Tính chất và độ trong lành của nước giếng cũng rất thay đổi tùy theo nơi. Có nơi nước giếng có thể chứa 1 tỉ lệ muối calcium, magnesium và sắt khá cao. Người ta gọi đây là nước cứng (hard water), uống không ngon, giặt rửa quần áo củng khó sạch vì làm savon ít tạo bọt được.

Nước nặng vì chứa nhiều muối khoáng nên thường làm đóng quầng bồn tắm và lavabo. Để giải quyết vấn đề nầy, người ta phải dùng mọt loại máy để khử bớt chất khoáng cho nước trở nên mềm (soft water) rồi mới xài. Đôi khi nước giếng có mùi hôi thum thũm như trứng gà ung. Hiện tượng này do nước có quá nhiều chất lưu hùynh (sulfur) hoặc do khí hydrogen sulfide ( H2S ) tạo nên bởi 1 số vi khuẩn. Mổi năm, mẩu nước giếng cần nên được gởi đi xét nghiệm về mặt hóa học và vi trùng học. Tốt hơn hết là nên đun sôi nước giếng rồi hãy uống.




LẠY TRỜI MƯA XUỐNG LẤY NƯỚC TÔI UỐNG.

Tại nông thôn Vn củng như tại các quốc gia đang phát triển, nước mưa thường được người dân hứng lấy để uống. Riêng tại Canada, người gõ chưa bao giờ nghe ai nói đến việc uống nước mưa hết.

Xét cho kỹ thì nước mưa thật sự không hoàn toàn tinh khiết như mọi người lầm tưởng. Nước bốc hơi từ ao hồ, sông rạch và bể cả, tạo thành mây. Từ trên cao mưa rớt xuống xuyên qua biêt bao tầng lớp không khí đầy bụi bậm, rồi rớt lên mái nhà, chảy vào máng xối đầy chất bẩn.


Đó là chưa kể vô số chất ô nhiểm từ khói xe hơi, từ các óng khói các khu kỹ nghệ, v.v… quyện vào mây và nhiễm vào nước mưa. Nước mưa củng có thể nhiễm khuẩn như bất cứ loại nước nào khác.

Nước mưa thuộc loại nước mềm, nhờ chứa ít muối khoáng nên nó rất thích hợp để dùng pha trà hoặc để tưới hoa kiểng trong nhà. Để cẩn thận, nước mưa cần được đun sôi trước khi uống.




NƯỚC ĐÓNG CHAI TẠI VIỆT NAM THÌ SAO?

Theo các báo bên nhà cho biết:

“Tại Việt Nam, thị trường nước uống đóng chai chủ yếu có hai loại là nước tinh khiết và nước khoáng. Trong đó thị trường nước uống tinh khiết đóng chai chiếm 22% sản lượng toàn bộ sản lượng thị trường nước giải khát ở Việt Nam. Dự báo cuối năm 2014, thị trường nước uống đóng chai Việt Nam sẽ đạt tổng doanh thu khoảng 279 triệu USD, tăng trưởng 6%/năm trong giai đoạn 2009-2014.” (Ngưng trích Xuân Đức-Thị trường nước uống đóng chai Việt Nam sẽ đạt tổng doanh thu khoảng 279 triệu USD-*********** 10/7/13)

“TP - Năm lần bảy lượt bị xử phạt, nhiều cơ sở nước uống đóng chai, đóng bình tại TPHCM vẫn tìm mọi cách luồn lách cho ra thị trường những bình nước bẩn. Ngay cả nước uống nhiễm trực khuẩn mủ xanh cực độc, gây bệnh tiêu chảy, nhiễm trùng hô hấp… còn hiện diện ở bệnh viện và trường học, dù đã bị đình chỉ.” (Ngưng trích, Lê Nguyễn- Tái xuất hiện nước đóng chai bẩn,Tiền Phong online


http://www.*********.vn/xa-hoi/543419/Tai-xuat-hien-nuoc-dong-chai-ban-tpp.html)


“Sài Gòn: Nước Uống Vỉa Hè Khó Có Bảo Đảm Vệ Sinh”-(Vietbao.com 11/17/13)




KẾT LUẬN

Thật ra, sống tại Canada và Hoa kỳ thì vấn đề nước uống cũng không đến đổi nào tệ lắm.

Chính người gõ đôi khi cũng thường hay uống nước robinet ở nhà. Lúc đi chơi xa thì dùng nước chai cho nó tiện.

Vòi nước uống miễn phí tại hải ngoại.

Ở sở, ở hãng thì có bình nước tự động. Tại các công viên, trong hội trường, trường học, thương xá, phi trường… hoặc các nơi công cộng cũng thường có các vòi nước để cho mọi người uống miễn phí, tuy hơi hôi ten một chút nhưng chả sao. Có cái lạ, là hầu như đa số vòi nước thường được dặt ngay phía ngoài và không mấy xa cửa ra vào khu toilet.

Chúng ta đi ăn tiệm, ly nước đá lạnh mà mình uống trong bữa ăn chắc chắn cũng là nước máy mà thôi...

Nếu bạn không ưa “gu”, ưa mùi của nước máy, không tin tưởng và tín nhiệm các nhà máy lọc của chánh phủ, và nhất là để được an tâm khỏi hồi hộp thì bạn nên uống nước chai hoặc nước lọc cho chắc ăn.

Còn muốn tiết kiệm và nếu siêng thì mỗi ngày bạn hãy nấu nước sôi đổ vào bình chứa và đem cất trong tủ lạnh để uống dần. Đây là phương pháp rẻ tiền và an toàn nhất.

Không ít nhà có trang bị máy làm lạnh nước, máy nấu nước tự động và cũng không thể quên nồi cơm điện.

Còn muốn tiện, thì mua vài thùng nước đóng chai loại nhỏ để dành uống từ từ. Thùng 24 chai giá 5-6$.

Trong xe, thì lúc nào mình cũng có thủ sẵn vài ba chai nước. Khi nào khát là có sẵn nước bên cạnh khỏi cần phải ghé vô tiệm mua coke hay pepsi, vừa hao tài và cũng vừa không tốt cho sức khỏe.

Chuyện nước nôi coi vậy mà rất quan trọng trong đời sống của chúng ta. Uống nước nào, chuộng loại nước nào, đó là tùy theo sở thích và quyền lựa chọn của mỗi người./.




Tài liệu tham khảo:

florida80
04-13-2019, 16:03
Lời Khuyên Người Ốm Đau - ĐỨC ĐẠT-LAI LẠT-MA









Ngày nay y khoa đạt được những tiến bộ lớn lao. Tuy nhiên sức mạnh tinh thần vẫn giữ một vai tṛ then chốt trong việc pḥng ngừa hay trong lúc điều trị. Ảnh hưởng của sức mạnh tinh thần đă được chứng minh rơ rệt.




Thân xác và tâm thức liên hệ chặt chẽ với nhau. V́ thế dù cho bịnh t́nh nguy kịch đến mấy đi nữa cũng không bao giờ nên thất vọng. Phải tự nhủ là luôn luôn sẽ có một phương thuốc để chữa chạy th́ ta sẽ có cơ may được lành bịnh. Dù sao đi nữa, phải hiểu rằng sự lo buồn cũng chẳng ích lợi ǵ cả v́ đấy chỉ là một cách rước thêm khổ đau vào đau khổ mà thôi. Tôi xin lập lại một lời khuyên hết sức thiết thực của một nhà hiền triết Ấn độ là ngài Tịch Thiên (1) như sau : Nếu đă có một phương thuốc th́ lo âu để làm ǵ, cứ an tâm mà dùng phương thuốc ấy. Nếu không có thuốc chữa th́ lo âu lại càng vô ích. Nó chỉ làm cho đớn đau trở nên nặng nề thêm mà thôi !




Phương thuốc tốt nhất là pḥng ngừa. Phương thuốc ấy liên quan mật thiết với việc ăn uống và cách sống thường ngày của ta. Nhiều người lạm dụng rượu chè và thuốc lá. Chỉ v́ một chút lạc thú nhỏ nhoi và phù du phát sinh từ mùi vị và sự chi phối của những thứ ấy mà họ hủy hoại cả sức khoẻ của ḿnh. Một số người khác chỉ v́ ăn quá nhiều mà phải mang lấy đủ thứ bệnh tật. Tôi từng biết có nhiều nhà tu Phật giáo khi c̣n ẩn cư trong hang động hẻo lánh trên núi th́ hết sức khoẻ mạnh. Thế nhưng mỗi lần xuống núi để thăm gia đ́nh hay bạn hữu vào dịp lễ đầu năm hay là các lễ lạc khác, họ không c̣n kiểm soát được sự tham ăn nữa và đă ngă bịnh. (Ngài cười to).




Đức Phật đă từng nói với các đồ đệ của Ngài rằng nếu ăn không đủ th́ họ sẽ bạc nhược, nhưng Ngài cũng bảo rằng nếu sống một cuộc sống quá dư thừa th́ ta sẽ phung phí hết những ǵ xứng đáng (2) của ḿnh. Những lời trên đây nhắc nhở ta hăy giảm bớt những thèm khát, vui ḷng với những ǵ đang có, cố gắng thăng tiến trên mặt tinh thần, và như thế sẽ giữ được sức khoẻ tốt. Ăn quá nhiều hay ăn không đủ đều đưa đến bệnh tật. Trong cuộc sống thường nhật hăy cố tránh đừng bị rơi vào một thái cực nào cả.




Ghi chú :

1- Tịch Thiên (Shantideva) là một đại sư Ấn độ thuộc Trung quán tông, sinh vào khoảng cuối thế kỷ thứ VII, từng tu học ở Đại học Na-lan-đà, tác giả của một tập luận bằng thi phú có thể xem như là một kiệt tác, đó là tập Nhập Bồ đề hành luận (Bodhicaryavatara).




2- Chữ « xứng đáng » trong Phật giáo có nghĩa là những hành vi tốt lành. Năng lực tích cực phát sinh từ những hành vi ấy in sâu vào « ḍng tiếp nối liên tục » của tri thức, và sau đó trong một thời gian lâu hay mau, tùy thuộc chúng có bị ảnh hưởng của năng lực tiêu cực từ những vết hằn của những hành vi thiếu đạo hạnh ngăn chận và hoá giải hay không, sẽ làm phát sinh những xu hướng tinh thần mang đến hạnh phúc cho ta. Đồng thời qua quy luật tương liên (lư duyên khởi), những xu hướng tích cực ấy cũng sẽ đem đến cho ta sức khoẻ, sự giàu sang,...chẳng hạn.




Sưu tầm

florida80
04-13-2019, 16:08
https://i.imgur.com/hOx0ssN.gif

Nhiều người quan niệm, cà phê không tốt cho sức khỏe . Tuy nhiên, nếu bạn uống một lượng vừa phải vào buổi sáng trước các bài luyện tập thân thể, chắc hẳn bạn sẽ bất ngờ với nhiều tác dụng mà cà phê mang lại.




1. Giảm đau

Một nghiên cứu gần đây được thực hiện tại trường Đại học Illinois chỉ ra rằng, uống hai đến ba tách cà phê vào khoảng một tiếng trước khi tiến hành các bài tập vận động sẽ giúp giảm các cơn đau cơ. Các nhà khoa học tin rằng, lượng caffeine trong cà phê góp phần tăng cường sức mạnh cũng như sự dẻo dai cho cơ.




2. Tăng cường quá tŕnh tuần hoàn máu

Một nghiên cứu được thực hiện tại Nhật Bản về tác dụng của cà phê đối với quá tŕnh tuần hoàn máu của những người không thường xuyên uống cà phê. Theo đó, mỗi người uống khoảng gần 30 ml cà phê. Sau đó, các nhà nghiên cứu xác định quá tŕnh lưu thông của máu tới các ngón tay.

Kết quả cho thấy, những người uống cà phê thường xuyên tăng khoảng 30% lượng máu lưu thông trong khoảng thời gian hơn 75 phút so với nhóm người không uống cà phê. Sự lưu thông máu tốt hơn đồng nghĩa với việc lượng oxy vận chuyển tới các cơ nhiều hơn.




3. Tăng cường trí nhớ

Đại học John Hopkins đă tiến hành một cuộc nghiên cứu và phát hiện chất caffeine trong cà phê có thể tăng cường trí nhớ tỏng ít nhất 24 giờ sau khi con người uống cà phê.




4. Nạp nhiều nhiên liệu hơn cho cơ

Một nghiên cứu khác được công bố trên Tạp chí Sinh lư Ứng dụng chỉ ra rằng, một lượng nhỏ caffeine rất hữu ích cho những người phải luyện tập thân thể với cường độ cao, đặc biệt là các vận động viên. Những người bổ sung caffeine tăng 66% hàm lượng glycogen trong cơ. Glycogen đóng vai tṛ là nguồn năng lượng thiết yếu đối với các buổi tập thể thao tốn sức, giúp bạn tập luyện trong thời gian dài hơn.




5. Bảo vệ cơ

Nghiên cứu trên động vật được các nhà khoa học tại trường Đại học Conventry thực hiện cho thấy, caffeine trong cà phê có tác dụng hỗ trợ bù đắp sự suy giảm sức mạnh của cơ theo tuổi tác. Với một hàm lượng vừa phải, cà phê cũng có thể bảo vệ sức khỏe chúng ta, giảm nguy cơ các tổn thương liên quan đến tuổi tác.

florida80
04-13-2019, 16:11
Ăn Cơm Mới, Nói Chuyện Cũ & Mới - BS Vũ Quí Đài




Có ǵ mới trong vấn đề ăn uống sao cho lành mạnh? Trong ṿng một vài chục năm trở lại đây, có nhiều điều mới không giống những kiến thức ta có từ trước.

Sau đây là những tóm lược của khoa dinh dưỡng thuộc Viện Đại Học Berkeley.


Bơ và margarine









Chuyện cũ: Có một thời người ta ca tụng margarine, v́ margarine có nguồn gốc thực vật nên không có cholesterol và ít chất béo băo ḥa hơn là bơ. Sau đó lại thấy là cũng phải coi chừng margarine v́ chất dầu trong margarine có nhiều thứ chất béo gọi là “trans” (transfat), cũng có hại cho tim mạch như chất béo băo ḥa.


Chuyện mới: Có một số margarine mới được tung ra thị trường gần đây, không có chất béo trans. Thí dụ như margarine làm bằng dầu canola. Hoặc là những thứ margarine lỏng, margarine “diet” trong đó chất béo trans được giảm đi nhiều. Ngoài ra cũng có những margarine mới, như Benecol, Take Control ăn vào có thể giảm cholesterol phần nào. Nếu chỉ lâu lâu dùng chút đỉnh, th́ thật ra cũng không cần chọn lựa ǵ nhiều, bơ hay margarine đều được cả.


Vấn đề muối





Chuyện cũ: Ăn mặn th́ sẽ bị cao huyết áp.


Chuyện mới: Không phải cứ ăn mặn th́ huyết áp bị cao. Chỉ có những người do yếu tố di truyền hay nguyên do nào khác mà nhạy cảm với muối, th́ mới cần kiêng mặn.


Tuy nhiên, về thực tế, không biết được ai là người nhạy cảm, ai không, và huyết áp có cao lên th́ cũng bị từ từ không thấy được ngay, cho nên tốt hơn hết là đừng nên ăn mặn quá. Ngoài những món mặn, như đồ ăn kho, những thực phẩm bán sẵn như đồ hộp, xúc xích, chips... thường có rất nhiều muối. Ngoài ra, ăn nhiều muối cũng có thể làm cho xương bị xốp.

Đậu nành












Chuyện cũ: Đậu nành là một thứ ngũ cốc không có ǵ đặc sắc.




Chuyện mới: Đậu nành và những chế phẩm làm từ đậu nành như tàu hũ, sữa đậu nành không những làm cho cholesterol giảm bớt, mà c̣n có thể làm đỡ bị ung thư. Nếu bạn ăn uống theo chế độ, ít cholesterol, ít chất béọ lại thêm chừng 25 grams chất đạm từ đậu nành th́ sẽ giảm thiểu được rủi ro bị bệnh nghẹt động mạch vành sinh, đứng tim.

Tuy nhiên, đậu nành, cũng như những rau cỏ khác (và tất cả thực phẩm khác), là một hợp thể phức tạp của nhiều chất. Cho nên ăn có chừng mực vẫn là điều quan trọng.




Ăn bắp











Chuyện cũ: Ăn bắp không tốt bằng ăn cơm hay bánh ḿ.




Chuyện mới: Bắp là một thứ ngũ cốc cũng tốt không kém ǵ các loại gọi là “whole grain” khác. Bắp vàng có chứa nhiều chất tiền phẩm của sinh tố A, nhóm carotenoid, làm cho “sáng mắt.” Tuy nhiên cũng nên nhớ là sinh tố A nhiều quá mức lại có hại. Bắp màu trắng th́ không được tốt như bắp vàng.




Cà chua










Chuyện cũ: Cà chua có nhiều sinh tố C, nhưng phải là cà chua tươi mới được.


Chuyện mới: Đúng là cà chua có nhiều sinh tố C, và càng tươi th́ sinh tố càng nhiều. Nhưng ngoài sinh tố C, cà chua c̣n có một chất gọi là lycopene. Chất này có thể pḥng ngừa bệnh ung thư tiền liệt tuyến. Có điều đặc biệt là cà chua đă chế biến (như xốt cà) th́ chất lycopene lại dễ hấp thụ vào cơ thể hơn.


Tôm, cua, mực...







Chuyện cũ: Tôm có nhiều cholesterol, không nên ăn.


Chuyện mới: Đúng là tôm và mực có nhiều cholesterol nhất so với nghêu, ṣ, hến. Một nửa pound tôm có khoảng 300 mg cholesterol, là mức tối đa cho một ngày. Nhưng tôm lại rất ít chất béo băo ḥa, là thứ làm hại tim nhiều hơn là cholesterol. Ngoài ra, tôm cũng có chất béo omega-3 là thứ chất béo giúp cho đỡ bị nghẹt tim. Như vậy th́ ăn vừa phải là tốt hơn cả.

Cũng nên ghi thêm là tôm, cua (kể cả tôm hùm), scallop, nghêu, ṣ, chem chép... có ít cholesterol hơn là thịt ḅ.


Cà phê và trà




Chuyện cũ: Uống cà phê có hại. Có người nói uống trà bị xốp xương.
Chuyện mới: Cà phê là thứ đồ uống được nghiên cứu kỹ càng nhất trên thế giới. Các kết quả cho thấy là cà phê, cũng như chất caffeine trong các thực phẩm khác, không làm hại tim, không sinh ung thư, không làm loét bao tử.

Có một số người uống nhiều quá th́ cảm thấy bứt rứt, nhưng nói chung th́ uống vừa phải không có hại ǵ nếu không sẵn có bệnh như bệnh loạn nhịp tim. Nếu đang uống cà phê nhiều đều đều mà muốn thôi, th́ đừng ngưng ngang, mà phải bớt từ từ trong nhiều ngày để tránh khỏi bị nhức đầu.

Trà có chất “kháng oxyt hóa” (antioxidant), nên có thể giảm thiểu rủi ro bị ung thư. Ngoài ra, trà cũng làm cho đỡ nghẹt mạch máu v́ cholesterol. Trà không làm xốp xương. Dĩ nhiên là những thứ lá lẻo linh tinh gọi là “herb tea” v́ không phải là trà, nên không kể .

Tin vui cho người mê sô cô la







Chuyện cũ: Sô cô la có hại, nhiều ca lo ri lắm, đừng ăn.



Chuyện mới: Đúng là sô cô la có nhiều ca lo ri. Nhưng sô cô la cũng như trà, có nhiều chất kháng oxyt hóa.


Ngoài ra có một cuộc khảo sát đại quy mô, cho thấy là trong số những người b́nh thường có hoạt động thể dục thể thao, th́ nhóm người có ăn mỗi tháng vài phong sô cô la sống lâu hơn nhóm người không ăn sô cô la. Lư do th́ không hiểu tại sao. Cuộc khảo sát chưa kết thúc.

Cam, chanh, bưởi







Chuyện cũ: Các trái cây này có nhiều sinh tố C.

Chuyện mới: Vẫn đúng vậy. Nhưng ngoài ra, cam, chanh, bưởi c̣n có nhiều chất giúp cho đỡ bị ung thư và trúng gió.


Màu sắc của rau quả








Chuyện cũ: Không để ư đến màu sắc.


Chuyện mới: Những loại rau và trái cây đậm màu, thường có nhiều sinh tố và chất khoáng hơn. Thí dụ như nho đỏ, dâu, mận “Đà Lạt,” cam, cà rốt, rau dền, rau cải xanh, củ cải đỏ, v.v. Ngoài ra, chất màu của thực vật c̣n có thể pḥng ngừa nhiều bệnh kinh niên, kể cả ung thư, v́ có nhiều chất kháng oxyt hóa.

Trái Bơ







Chuyện cũ: Ngày xưa người ta, cả giới y khoa, cũng cho là trái bơ nó nhiều chất béo lắm, nên nó c̣n có nickname là "butter pear" nữa. Một trái trung b́nh có 30 grs chất béo, tương đương với một cái hambuger to), và v́ thế các vị "chuyên môn" thường khuyên ḿnh nên hạn chế ăn uống thứ trái cây này.


Chuyện mới: Nhưng gần đây, các nhà nghiên cứu khám phá ra rằng, hầu hết chất béo từ trái bơ thuộc loại "monounsaturated", lại là tốt cho ḿnh. Tốt v́ nó có thể làm giảm mức độ cholesterol. V́ thế chính phủ Mỹ khuyên nên ăn trái này ( bơ ) . Em mừng hết lớn.


Cụ thể hơn, trong một cuộc thử nghiệm năm 1996, 45 người đă ăn trái bơ mỗi ngày trong một tuần. Kết quả là họ đă thấy cholesterol ở những người này giảm trung b́nh khoảng 17%. Tưởng cũng nên nói thêm một tí rằng cholesterol của ḿnh nó gồm



- LDL (low density lipoprotein, hoặc "bad fat") và triglycerides, có thể gây hoặc làm trầm trọng hơn những chứng bịnh tim



- HDL (high density lipoprotein, hay "good fat" levels), có thể làm giảm bớt nguy cơ bệnh tim


Số 45 người kia th́ sau một tuần "thí nghiệm", số LDL của họ xuống và HDL lên.


Họ t́m thấy trái bơ có nhiều beta-sitosterol, một chất natural có thể làm giảm nhiều số lượng cholesterol trong máu.


Nói vậy, nhưng người ta cũng khuyên ḿnh nên ăn có chừng mực, v́ nó nhiều calories hơn nhiều trái cây khác.



Tóm lại:










Về vấn đề dinh dưỡng, nếu đọc càng nhiều càng thấy mù mờ hơn, hoặc là không thể nào nhớ nổi các chi tiết lẻ tẻ, th́ có lẽ nên theo nguyên tắc là ăn uống ǵ cũng chừng mực, trừ phi là ḿnh có bệnh th́ phải theo chế độ của bác sĩ chỉ dẫn.

florida80
04-13-2019, 16:12
ĐAU CỔ - Bác Sĩ Nguyễn Văn Đức








Đau cổ (neck pain) xảy ra khi có vấn đề hay chấn thương của một hoặc nhiều cơ cấu nối kết giúp cổ chúng ta hoạt động.


Cấu tạo của cổ phức tạp, gồm:


- Xương: cổ có 7 đốt sống cổ xếp chồng lên nhau. Đây là những đốt đầu tiên của cột xương sống cơ thể chúng ta. Đau cổ có thể xảy ra khi các đốt sống cổ này thoái biến, sụp xuống, hoặc mọc những chồi xương bất thường (bone spurs).





- Các dây chằng (ligaments): là những mô liên kết mạnh, dẻo dai, có nhiệm vụ nối các đốt sống cổ với nhau, giữ chúng nằm ở vị thế đúng của chúng. Những dây chằng này có thể bị tổn thương như trong trường hợp tai nạn xe cộ, đầu bất ngờ bị đẩy mạnh về phía trước rồi giật ngược về phía sau, hoặc ngược lại.




- Các đĩa sụn (discs): là những đĩa đệm nằm giữa các đốt sống. Khi các đĩa đệm này thay đổi h́nh dạng, hoặc không c̣n nằm tại vị trí đúng của chúng, ta có thể bị đau cổ.




- Các bắp thịt: các bắp thịt vùng đầu cổ giúp giữ đầu chúng ta thẳng và cổ chuyển động nhuần nhuyễn. Khi các bắp thịt này căng dăn bất thường, như khi chúng ta ngồi làm việc lâu trong một tư thế không cân bằng, chúng ta có thể bị đau cổ; ngay cả khi chúng ta căng thẳng về tinh thần, các bắp thịt này cũng dễ nhận những tín hiệu bất thường truyền xuống từ năo bộ khiến chúng gồng cứng gây đau.




- Các dây thần kinh (nerves): một hệ thống các dây thần kinh quyện vào nhau chạy dọc theo cột sống, và từ đó chia nhánh, các nhánh này rời cột sống đến khắp các phần của cơ thể ta. Chúng ta có thể đau cổ nếu những dây thần kinh chạy dọc theo cột sống cổ bị chèn ép, đẩy ra khỏi vị trí b́nh thường của chúng bởi các đốt sống hoặc đĩa sụn thoái biến v́ tuổi tác.




Triệu chứng




Đau cổ có thể xảy ra với bất cứ bất thường nào của các đốt sống cổ, dây chằng, đĩa sụn, bắp thịt hoặc thần kinh vùng cổ. Khi đau cổ, tùy vấn đề nhẹ hay nặng, chúng ta có một hoặc nhiều triệu chứng dưới đây:




- Cổ đau, cứng, khó xoay chuyển; vùng cổ, vai, lưng trên, hay tay thấy căng, không thoải mái.

- Nhức đầu.

- Cổ yếu đi.

- Không thể xoay cổ.

- Đau khi chúng ta xoay hoặc cúi đầu.

- Tê hoặc có cảm giác như kim châm ở vai, tay.

- Đi đứng khó khăn.

- Không kiểm soát được việc đi tiểu, đi cầu như trước.




Đau cổ thường hay xảy ra, nếu nhẹ và mau chóng bớt dần, chúng ta không cần đi khám bác sĩ. Trong những trường hợp sau, chúng ta nên đi khám bác sĩ:




- Chấn thương nặng vùng đầu, cổ.

- Đau dữ quá.

- Thấy tay hay chân tê, yếu.

- Không kiểm soát được việc đi tiểu, đi cầu như trước.

- Tự chữa ở nhà hơn 1 tuần vẫn chưa thấy bớt.




Có cần chụp phim?




Hầu hết các trường hợp đau cổ sẽ bớt dần theo thời gian, và không cần chụp phim. Một số trường hợp như đau mới xảy ra ở người trên 50 tuổi; đau kèm nóng sốt hoặc các triệu chứng bất thường khác; đau quá 6 tuần không thấy thuyên giảm, bác sĩ có thể sẽ khuyên chụp phim X-ray, CT scan, hoặc MRI scan.

Những trường hợp nghi thần kinh cổ bị chèn ép (cervical radiculopathy), chúng ta nhờ bác sĩ chuyên khoa thần kinh (neurologist) làm các trắc nghiệm đo luồng thần kinh chạy từ cổ ra, xem các thần kinh và bắp thịt có ǵ bất thường.






Chữa trị




Chúng ta chữa đau cổ bằng nhiều cách:




- Dùng thuốc giảm đau: như các thuốc tylenol, advil, motrin, ibuprofen, naproxen.

- Nhẹ nhàng nắn bóp (massage) các bắp thịt vùng đau.

- Đắp đá vùng đau vài lần mỗi ngày, mỗi lần chừng 5-7 phút. Hoặc thay v́ dùng đá, chúng ta dùng bịch đậu để trong ngăn đá tủ lạnh, đắp vào vùng đau 20 phút, vài lần mỗi ngày.

- Thay v́ dùng đá, chúng ta cũng có thể chườm vùng đau với nhiệt: đắp khăn nóng ấm vào vùng đau chừng 20 phút, vài lẫn mỗi ngày; nhưng nhớ cẩn thận đừng dùng nước nóng quá kẻo phỏng da.

- Thể dục vùng cổ: các thể dục đúng, giúp những bắp thịt vùng cổ, vai, lưng dẻo dai, mạnh hơn, sẽ khiến cái đau mau bớt hơn.

- Giảm căng thẳng: căng thẳng tinh thần khiến cái đau dễ nặng hơn, lâu thuyên giảm. Tinh thần bớt căng thẳng sẽ giúp đau cổ nhẹ đi, chóng hết. Tinh thần và thể xác chúng ta có sự tương quan, tuy hai nhưng một, tinh thần thoải mái, những cái đau thể xác cũng dễ chịu hơn.

- Tư thế cân bằng, thẳng thắn: khi làm việc, chúng ta nhớ giữ cơ thể trong tư thế cân bằng, cổ thẳng với thân ḿnh, và tránh những hoạt động nào khiến cổ phải chuyển động nhiều quá. Lúc ngủ cũng vậy, nhớ giữ đầu và cổ cùng một trục với thân ḿnh, nên tránh tư thế nằm sấp, đầu cổ ngoẹo một bên.




Pḥng ngừa




Đau ǵ cũng khổ cả. Cẩn thận, chúng ta có thể ngừa đau cổ đừng xảy ra.




- Chúng ta ngồi học hành, làm việc với tư thế cân bằng, thẳng thắn, đầu giữ thẳng và vai xuôi xuống.

- Tránh không nên ngồi quá lâu trong cùng một tư thế.

- Tránh làm những công việc khiến ta phải ngửng đầu nh́n lên cao trong một thời gian dài.

- Tránh đặt sức nặng trên cổ, vai, lưng trên: phụ nữ hay đeo trên vai những túi xách to nặng (không biết chứa những ǵ trong đó mà trông nặng thế!), đàn ông hay để các cháu nhỏ ngồi trên cổ chơi chạy ṿng ṿng, ...

- Khi ngủ, chúng ta giữ cổ thẳng hàng ngay lối với thân ḿnh, không nên nằm sấp.

Bác sĩ Nguyễn Văn Đức

Mời click vào h́nh ảnh dưới đây để xem cách bấm huyệt giúp giảm đau vai và cổ

florida80
04-14-2019, 17:07
Đừng Xài Whey Nếu Không Cần Thiết - Vũ Thế Thành







Bột whey là nguyên liệu khá thông dụng để làm bánh kẹo và nhiều loại thực phẩm khác. Và rồi bột whey cũng được “nâng cấp” thành whey protein, một loại thực phẩm chức năng thường được giới lực sĩ thể h́nh dùng để giảm mỡ tăng nạc. Whey protein cũng được quảng cáo với nhiều tính năng hấp dẫn: giảm béo, hạ đường huyết, cholesterol, huyết áp, trị ung thư,… Sự thật thế nào?

Sữa ḅ có 2 loại protein chính là casein (chiếm 80%) và whey (20%). Khi chế biến, casein và chất béo đông tụ lắng xuống, lấy ra đem làm phó mát. Phần nước bên trên được gọi là dịch whey.




Trước đây dịch whey được đem vất đi. Sau này khoa học tiếc của, sấy khô thành bột, gọi là bột whey (whey powder).

Bột whey chủ yếu là đường lactose (hơn 70%) và protein whey (11%), và cũng c̣n sót chút ít khoáng, chủ yếu là calcium. V́ chứa quá nhiều đường lactose, lại có hương vị sữa, nên đừng lấy bột whey pha uống như sữa, dù bụng dạ có “chắc” tới đâu, cũng bị tiêu chảy.

Bột whey được thêm chừng vài % vào bánh kẹo, ướp thịt nướng BBQ, làm nước sốt,…cho đậm đà hương sữa, và cũng được bổ sung vào thức ăn gia súc v́ rẻ tiền. Bột whey trên thị trường thường đóng trong bao b́ 25 kg.




Whey protein khác với bột whey

Bột whey được “nâng cấp” để có hàm lượng protein cao hơn gọi là whey protein (cũng ở dạng bột). Tùy hàm lượng protein, người ta phân ra vài loại whey protein
•Whey protein concentrate (WPC), có hàm lượng protein từ 35 – 80%. Lưu ư, con số đứng đằng sau WPC chỉ hàm lượng protein, chẳng hạn WPC 65, có hàm lượng protein là 65%, phần trăm c̣n lại là đường lactose. Chất béo trong whey protein không đáng kể. WPC chủ yếu được dùng làm bánh kẹo, yogurt, chế biến thịt, hoặc bổ sung vào các thực phẩm dinh dưỡng khác để nâng cao đạm. Đừng buồn t́nh lấy bột whey hoặc WPC dưới 50 pha sữa uống, sẽ đi tiêu chảy ngay v́ hàm lượng lactose trong các loại này rất cao.
•Whey protein isolate (WPI), có lượng protein trên 90%. Các lực sĩ thể h́nh thường dùng loại này.
•Whey protein hydrolysate (WPH), protein loại này đă được thủy giải một phần để khi vào ruột dễ hấp thu hơn.

Whey protein làm tăng nạc giảm mỡ?

Whey protein khi vào tới hệ tiêu hóa sẽ bị chặt nhỏ tới bến thành acid amin, ruột mới hấp thu được. Hấp thu rồi lại tổng hợp các acid amin thành protein theo nhu cầu của cơ thể. Whey chứa nhiều loại acid amin phân nhánh, lại có thêm leucine (cũng là 1 loại acid amin). Hai thứ này thúc đẩy cơ thể tổng hợp protein rất nhanh, nhất là protein cơ bắp, sau khi luyện tập nặng. Nạc ra nhiều là v́ vậy. Có lẽ đây là tính năng dễ thấy nhất của whey protein




Mayo Clinic, một cơ sở nghiên cứu y học phi lợi nhuận (Hoa Kỳ) cho rằng, whey protein có thể làm giảm đường huyết ở người b́nh thường và người bị tiểu đường type 2, nhưng hạ huyết áp, trị ung thư,..là chuyện mơ hồ. C̣n ăn whey protein để giảm béo có lẽ là do whey protein làm giảm độ ngon miệng, nên dễ ăn kiêng hơn, chứ tiêu thụ protein và kiêng khem đường mỡ cũng đủ giảm béo rồi, chứ chẳng riêng ǵ ăn whey protein.




Mặc dù có nhiều nghiên cứu lẻ tẻ ra sức chứng minh whey protein làm hạ cholesterol, huyết áp, ung thư,.. nhưng những duyệt xét của giới khoa học đều cho rằng chưa đủ chứng cớ, chủ yếu là do phương pháp nghiên cứu chưa thuyết phục. Việc tạo mẫu đối chứng ở whey protein dễ… lộ tẩy trong các thử nghiệm mù (blind tests).

Nhưng với thực phẩm chức năng th́ chỉ cần kết quả mơ hồ cũng đủ ăn tiền rồi. Họ trộn thêm vào whey protein vài thứ “siêu dinh dưỡng” khác nữa là quảng cáo bốc hỏa ngay.




Đừng lấy bàn ghế tủ giường đem chụm củi

Không thể phủ nhận giá trị dinh dưỡng của whey protein, thậm chí whey c̣n được đánh giá cao hơn casein. Sữa mẹ tuy ít protein hơn sữa ḅ, nhưng lượng whey cao hơn, nên tụi bê bi tiêu hóa sữa mẹ thoải mái. Bột whey và whey protein chủ yếu được dùng trong công nghệ thực phẩm. Ở gia đ́nh để làm bánh, ướp thịt,.. chứ chẳng ai dùng để uống như uống sữa (trừ mấy ông bà lực sĩ thể h́nh)




Việc tiêu thụ nhiều whey protein cũng gây ra hiệu ứng phụ: đau bụng, nhức đầu, ăn mất ngon,…Whey protein cũng có thể tương tác bất lợi với vài loại kháng sinh như tetracycline, quinolone,..

Whey protein được xem là protein đậm đặc, nhất là với loại isolate (WPI). Tiêu thụ dư thừa protein, th́ gan thận phải làm việc nhiều để thải, hoặc tử tế hơn th́ đem đi đốt (vào chu tŕnh Kreb), như đốt cơm gạo bánh ḿ, khoai bắp và chất béo. Đem protein đi đốt chẳng khác nào lấy bàn ghế tủ giừơng hàng hiệu đem chụm củi.

Cơ thể cần mỗi ngày khoảng 1,0 gr protein/kg thể trọng. Protein thứ xịn có đầy trong thịt cá trứng, sữa, đậu nành,…tha hồ ăn đủ và ngon (lành).




Whey protein chỉ nên dành người bệnh nặng, kiệt sức, hoặc người già (như nguồn bổ sung) sử dụng với ư kiến của bác sĩ. C̣n người khỏe mạnh, dù hơi yếu một chút cũng chỉ nên ăn uống cân đối là tốt nhất. Với thực phẩm chế biến đâu chỉ có protein, mà trong đó c̣n nhiều thứ dinh dưỡng khác nữa, c̣n hơn phải nhắm mắt uống ly whey protein. Ớn!

florida80
04-14-2019, 17:09
Thực Phẩm Hữu Cơ An Toàn Hơn? - Vũ Thế Thành









Rau quả, thực phẩm hữu cơ được quảng cáo là an toàn hơn, ngon hơn, đậm hơn, bổ hơn, và nào là thực phẩm siêu sạch, vườn sạch, tự nhiên,… Nghe mát rượi! Nhưng rất tiếc, sau khi đã duyệt xét một cách hệ thống các kết quả nghiên cứu, giới khoa học đã đi đến đồng thuận: không có đủ chứng cớ khoa học để nói thực phẩm hữu cơ an toàn hơn hay bổ dưỡng hơn so với thực phẩm thông thường cùng loại.




Kẹt quá cũng phải nới lỏng chút chút

Rau quả hữu cơ là nông sản không dùng phân bón hóa học, thuốc trừ sâu, diệt cỏ, hormon tăng trưởng,.. chỉ dùng phân xanh, phân ủ, rơm rạ mục nát. Diệt sâu bọ thì để loài này diệt loài kia. Canh tác luân phiên để bảo vệ màu mỡ của đất,…




Động vật hữu cơ phải nuôi ở môi trường sạch (đồng cỏ hay ao hồ) không dùng thuốc trừ sâu, phân hóa học, hóa chất,… Thức ăn gia súc phải thuộc loại hữu cơ, cũng không dùng hormone tăng trưởng hay thuốc kháng sinh.

Thực phẩm hữu cơ cũng gắt gao không kém, nguyên liệu để chế biến phải là loại hữu cơ, không dùng phụ gia thực phẩm (hóa chất), các loại dung môi công nghiệp và chiếu xạ.

Nói chung, nuôi trồng chế biến thực phẩm hữu cơ là quay trở lại với phương pháp nhân loại đã từng làm cách nay vài ngàn năm.

Nguyên tắc xem gắt gao như thế, nhưng quy định có thể nới lỏng đôi chút tùy điều kiện cụ thể ở mỗi nước, chẳng hạn có thể cho phép dùng kháng sinh hay loại thuốc trừ sâu nào đó ở mức rất hạn chế.




An toàn hơn, bổ dưỡng hơn?

Có rất nhiều khảo cứu về mức dinh dưỡng của thực phẩm hữu cơ đủ loại và đưa ra nhiều kết quả trái ngược. Năm 2009, cơ quan Tiêu chuẩn Thực phẩm của Anh (FSA) đă ủy thác cho trường Vệ sinh và Y học nhiệt đới Luân Đôn duyệt xét 1 cách hệ thống các chứng cớ thu thập trong 50 năm, đă đi đến kết luận rằng, thực phẩm hữu cơ cũng chẳng khác ǵ thực phẩm thường cùng loại xét về mặt dinh dưỡng, kể cả mức nitrate thấp hơn trong một số rau quả hữu cơ cũng không cải thiện về rủi ro sức khỏe.




Điều người tiêu dùng có vẻ tin tưởng hơn là, về mặt an toàn v́ thực phẩm hữu cơ không dùng đến thuốc bảo vệ thực vật. Niềm tin này có chắc ăn? Tờ CBC News ngày 8/1/2004 đưa tin, 45,8% mẫu rau quả hữu cơ ở Canada nhiễm thuốc trừ sâu. Có lẽ là do lây nhiễm từ môi trường chung quanh. Canada đất rộng người thưa mà c̣n thế! Không thể phủ nhận dư lượng thuốc trừ sâu ở thực phẩm hữu cơ ít hơn, nhưng Hội Ung thư Hoa Kỳ cho rằng, với mức dư lượng thuốc trừ sâu cho phép ở thực phẩm thường không làm gia tăng rủi ro ung thư, và thực phẩm hữu cơ cũng chẳng làm giảm rủi ro ung thư.

Điểm tích cực nhất của thực phẩm hữu cơ đó là vấn đề môi trường. Với cách nuôi trồng nghiêm ngặt như thế rơ ràng làm giảm ô nhiễm, duy tŕ hệ sinh thái, bảo vệ nguồn đất và nước.




Nhưng nhược điểm là thực phẩm hữu cơ lại dễ hư hơn, trông không bắt mắt, ít ngon hơn v́ không được phép dùng phụ gia thực phẩm.

Việt Nam chưa có tiêu chuẩn chính thức quy định thế nào là thực phẩm hữu cơ, mặc dù các cửa hàng cũng quảng cáo hoành tráng rau sạch vườn sạch, và có cả chứng nhận. Trên trang web của một tổ chức chứng nhận rau quả hữu cơ (*), đă chứng minh rằng rau quả hữu cơ ngon hơn, đậm hơn loại thường cùng loại qua kết quả phân tích lượng đường, vitamin C, chất khô,... (sự khác biệt các chỉ tiêu giữa 2 loại này gần như không đáng kể), và gọi đây là “cơ sở khoa học”. Một tổ chức chứng nhận rau quả hữu cơ mà c̣n kết luận hàm hồ như thế, th́ chất lượng rau quả hữu cơ ở thị trường liệu có đáng tin cậy?




Ra tới thị trường là phải an toàn

Chỉ ở Việt Nam mới có cái gọi là “rau an toàn”, “rau sạch”, và quảng cáo tưng bừng. Báo chí trong nước cũng đă nói nhiều về rau không an toàn, rau hữu cơ dỏm tràn vào siêu thị. Ở nước ngoài th́ không, bất cứ loại thực phẩm nào có mặt trên thị trường cũng đều phải an toàn, không đáp ứng yêu cầu an toàn sẽ bị lôi thôi với pháp luật ngay, chứ không cần phải quảng cáo.

Hàng năm Việt Nam nhập cả trên 100.000 tấn thuốc trừ sâu, dùng bừa băi, vứt chai lọ bừa băi, cùng với hệ thống kênh rạch chằng chịt th́ việc lan và nhiễm khủng khiếp thế nào. Đây mới là vấn đề nguy hiểm lâu dài hơn nhiều so với việc dùng hóa chất lăng nhăng trong chế biến thực phẩm.




Rau quả hữu cơ, dù thật hay giả, chỉ dành cho một thiểu số người, nhưng rau quả th́ bắt buộc phải an toàn cho tất cả mọi người, dù đó là những người ăn chỉ để tồn tại. Vấn đề là cơ quan hữu trách kiểm soát kiểm tra an toàn tới đâu?

florida80
04-14-2019, 17:10
Đông Máu Tĩnh Mạch - Bệnh Của Tương Lai?








TP - Không phải ống dẫn máu b́nh thường. Tĩnh mạch là những khí quan tinh xảo tạo thành hệ tuần hoàn máu phức tạp và hoạt động hoàn hảo.




Tuy nhiên thỉnh thoảng không cần nhiều sự cố, để chức năng của nó bị đảo lộn và khi ấy tĩnh mạch bắt đầu sinh bệnh. Và không hiếm trường hợp t́nh trạng suy tĩnh mạch đe dọa tính mạng con người.


Cục máu đông tĩnh mạch, mối đe dọa sự sống

“Cần nh́n nhận một cách nghiêm túc bệnh tĩnh mạch. Tĩnh mạch chân nổi cộm không phải là vấn đề mang tính thẩm mỹ chỉ cần “xóa nḥa” bằng mỹ phẩm hoặc mang tất vỡ dầy hơn b́nh thường” – bác sĩ phẫu thuật nổi tiếng, giám đốc Bệnh viện Phẫu thuật Học viện Y khoa Warszawa (Ba Lan), GS. BS Wojciech Noszczyk nhấn mạnh trong cuốn sách “Viêm tĩnh mạch chân và những bệnh tĩnh mạch khác”. Ấn phẩm xuất bản không chỉ dành cho nạn nhân các bệnh tĩnh mạch chân, mà cả những người mong muốn né tránh mọi rắc rối liên quan đến hệ tuần hoàn máu.

Tuy nhiên nói về các bệnh tĩnh mạch, GS. BS Noszczyk bắt đầu từ hiện tượng máu vón cục tĩnh mạch sâu, tức bệnh máu vón cục-tắc nghẽn mạch. Tại sao? “Bởi đó là bệnh ít biết hơn, song hiểm độc hơn nhiều so với bệnh suy tĩnh mạch chân mạn tính. Nguy hiểm hơn bệnh viêm tĩnh mạch chân và chủ yếu không bộc lộ triệu chứng. (…). Không hiếm trường hợp cục máu đông tách ra khỏi ḍng chảy tĩnh mạch và chạy ngược ḍng về tim và phổi, gây tắc tĩnh mạch phổi. Nếu to, có thể dẫn đến tử vong, những cục nhỏ hơn, cỡ đầu đinh ghim, sẽ làm tắc nghẽn những tĩnh mạch nhỏ hơn ở phổi, gây khó thở” – người thầy thuốc giầu kinh nghiệm cảnh báo, riêng giới quan tâm nghĩ ngay đến câu chuyện bi thảm của Kamilia Skolimowska, nữ vận động viên điền kinh (VĐV) nổi tiếng Ba Lan, huy chương vàng Olympic bộ môn ném tạ.




Cái chết xuất hiện bất ngờ

26 tuổi, thân h́nh khoẻ mạnh, thường xuyên được kiểm tra sức khỏe. Mặc dù vậy trong đợt tập huấn tại Bồ Đào Nha, nữ VĐV bất ngờ cảm thấy khó chịu. – Thứ Tư Kamilia đến pḥng tập thể lực tại chỗ chúng tôi. Chị ngồi xuống ghế và người lả dần, bác sĩ vật lư trị liệu Andrzej Krawczyk chạy lại và hô hấp nhân tạo. Chúng tôi gọi xe cấp cứu. Kamilia tự trèo lên xe. Song giây lát sau chị lại ngất xỉu, xe đưa nữ VĐV đến bệnh viện. Tiếc rằng mọi nỗ lực đều vô hiệu. Kamilia qua đời một tiếng sau đó – Szymon Ziolkowski, một đồng nghiệp của nạn nhân, người chứng kiến sự kiện sau đó kể.


Dư luận sôi lên trong các phương tiện truyền thông. Gia đ́nh, bạn bè, người hâm mộ: tất cả đ̣i hỏi lời giải thích. Bởi ai cũng biết, thực tế các vận động viên thể thao thường xuyên được theo dơi sức khỏe. - Suốt hơn chục năm nữ nạn nhân không có bất cứ dấu hiệu nào khác thường – Jacek Wszola, ban thân của gia đ́nh b́nh luận về cái chết của nữ VĐV.


Khi ấy người ta c̣n nghi ngờ, nguyên nhân tử vong là nhồi máu cơ tim. Măi về sau kết quả khám nghiệm tử thi mới chứng tỏ, thủ phạm là t́nh trạng tắc nghẽn động mạch phổi, và những chứng cứ tiếp theo được bộc lộ. Đồng nghiệp trong đợt tập huấn thừa nhận, trước đó Kamilia đă cảm thấy khó chịu, hô hấp khó khăn, thường kêu đau đùi và vài tháng trước từng có lần ngất xỉu. Ngay khi ấy các bác sĩ đă phát hiện trong phổi chị có cục máu, nhưng kết quả xét nghiệm sau đó khẳng định, dị vật đă biến mất. Để gạt bỏ mọi suy diễn không cần thiết, bố nữ VĐV, ông Robert Skolimowski (VĐV cử tạ nổi tiếng) đă chính thức công bố kết luận khám nghiệm tử thi: “T́nh trạng tắc nghẽn động mạch phổi là nguyên nhân tử vong của Kamilia. Sau cuộc nói chuyện và tham khảo ư kiến bác sĩ chuyên về lĩnh vực này, chúng tôi biết rằng, điều kiện di truyền, t́nh trạng cơ thể mất nước, hiện tượng máu vón cục, sử dụng thuốc tránh thai hoặc nỗ lực vận động quá sức đều có thể dẫn đến kết cục đáng tiếc” – ông Robert Skolimowski giải thích trước công luận.


Nhận mặt kẻ thù

Bệnh xảo quyệt, nguy hiểm, thêm nữa xuất hiện nhiều hơn so với những ǵ vẫn tưởng. GS Noszczyk đă viết về hiện tượng cục máu đông trong tĩnh mạch sâu: “Các số liệu thống kê y học báo động. Theo đó, tại các nước phương Tây, trung b́nh cứ một ngàn dân có 1 đến 4 trường hợp bị bệnh/năm. Tiếc rằng, cục máu đông là bệnh của tương lai và nguy cơ xuất hiện gia tăng cùng các bệnh của nền văn minh”. Pḥng ngừa bằng cách nào?




Thông thường tất cả bắt đầu từ t́nh trạng tổn thương thành tĩnh mạch. Tự nhiên, thành tĩnh mạch được “dán” một lớp màng mỏng, phẳng và dễ trầy xước – thực tế thuận lợi để hồng cầu dễ bám và h́nh thành cục vón. Thành tĩnh mạch mỏng manh rất dễ vỡ - trường hợp không may chúng ta bị va đập, chấn thương hoặc xuất hiện tổn thương ở vùng mô bao quanh tĩnh mạch. Khi ấy những bụi máu và hồng cầu sẽ lấp đầy vết thương. Nếu tổn thương được bổ sung t́nh trạng suy giảm vận động (thí dụ đối tượng bắt buộc phải nằm dưỡng thương) hoặc cơ thể mất nước, hiện tượng kéo theo ḍng chảy của máu chậm lại và máu đặc, hồng cầu tiếp tục tồn đọng và hậu quả máu vón cục. Cùng với thời gian – giống nút chai – cục máu đóng kín ḍng chảy tĩnh mạch và lớn dần nhằm vào hướng trái tim. GS Noszczyk cảnh báo: “Hiện tượng xảy ra nhiều nhất ở những tĩnh mạch sâu dưới đùi. Cục máu phát triển đến tận tĩnh mạch dưới đầu gối và đùi, cùng lúc lấp đầy tất cả van một chiều bên trong tĩnh mạch. Thông thường khởi đầu của đoạn máu đông cắm chặt vào thành tĩnh mạch, đoạn cuối – lơ lửng bên trong. Và chính bộ phận cuối cục máu đông có thể gẫy ra bất cứ lúc nào và trôi đến tim hoặc phổi cùng với ḍng máu chảy. Nguy cơ tử vong có thể xảy ra trong vài ba giây - nếu vật cản to. Những cục máu nhỏ gây tắc nghẽn những tính mạch nhỏ của phổi sẽ gây khó thở”.


Dấu vết để lại

Xảy ra chuyện ǵ, khi cục máu đông tách ra? Tâm thất phải của tim bị áp suất quá tải, trong khi máu trở về tâm thất trái từ phổi quá ít, để duy tŕ áp suất động mạch và cung cấp máu cho các cơ quan có nhu cầu. Khi ấy sẽ xảy ra hiện tượng choáng, bất tỉnh và tử vong. Cũng may không phải tất cả sự cố đều kết thúc bi thảm như vậy. Phần nhiều cục máu bị cuốn trôi, động mạch tự “hàn gắn” các vết thương hoặc máu lưu thông bằng những con đường phụ, bỏ qua “đoạn đường bị tắc nghẽn”. Tuy nhiên bệnh để lại dấu vết ở dạng viêm tính mạch chân thứ phát hoặc sự biến dạng bên trong thành tĩnh mạch. Cặp gị đang tṛn lẳn phẳng phiu bỗng chốc nổi cộm “những con giun” cực phản cảm. Và sau vài ba tháng hoặc vài ba năm sẽ lần lượt xuất hiên “những con giun” mới.


Nguy cơ gia tăng cùng tuổi tác

Không dễ chẩn đoán bệnh máu vón cục-tắc nghẽn, v́ thế việc nhận biết nhân tố gia tăng nguy cơ đóng vai tṛ đặc biệt quan trọng. Ngoài nhân tố h́nh thành cục máu đông như đă nói, tuổi tác và lối sống ít vận động cũng là nhân tố quyết định. Tuổi bốn mươi là giới hạn an toàn. Sau đó nguy cơ tăng dần sau mỗi thập kỷ, bởi khi ấy tự nhiên nhiều người trong chúng ta thường bị mắc các bệnh tim-mạch nhiều hơn và sinh hoạt càng ít vận động. Trong cả hai truờng hợp máu đều tuần hoàn chậm hơn, và t́nh trạng tŕ trệ ở chân đặc biệt nguy hiểm.


Chúng ta cảm thấy ǵ sau nhiều giờ ngồi xe hơi, đi máy bay hoặc đứng bất động hàng giờ? Hai chân nặng hơn ch́, đau nhức “bánh chè” và đi lại khó khăn. Tất cả v́ lư do giản đơn: ở tư thế ngồi hoặc đứng, máu dưới chân chảy chậm hơn, bơm cơ bắp hoạt động kém, hệ thống van một chiều trong tĩnh mạch đóng kín. Để những van này mở và máu từ hai chân chảy ngược theo hướng lên tim – cần thiết hoạt động cơ bắp. V́ thế t́nh trạng bất động kéo dài là nhân tố nguy cơ tiếp theo. Nguy cơ này gia tăng ở những người sau phẫu thuật, bị găy hoặc chấn thương chân nghiêm trọng và thậm chí cả ở những đối tượng duy tŕ nếp sống lười vận động. Cũng v́ thế, để bệnh nhân hồi phục nhanh sau chữa trị, các bác sĩ bao giờ cũng chỉ định tăng cường vận động.


Trong danh mục các nhân tố nguy cơ xuất hiện cục máu đông, GS Noszcyk c̣n xếp cả việc phụ nữ áp dụng các giải pháp ngừa thai hormone, t́nh trạng rối loạn hormone, phụ nữ có thai, béo ph́, hút thuốc lá, các bệnh ung thư và một số bệnh liên quan đến máu.


Chữa trị

Có thể chữa trị cục máu đông tính mạch sâu bằng nhiều cách. Sử dụng biệt dược chống đông máu là cách đơn giản nhất. Khi đă khẳng định chắc chắn bệnh lư qua những xét nghiệm đặc thù, bác sĩ thường chỉ định tiêm thuốc thuộc nhóm heparine (làm loăng máu, ngăn ngừa nguy cơ h́nh thành máu vón cục). Phần lớn tiêm dưới da, ở khu vực quanh rốn, người bệnh nằm ngả lưng trong tư thế dựng chân lên cao. Đồng thời việc điều trị bằng thuốc uống cũng tiến hành song song, nhằm ngăn ngừa khả năng đông máu phổi và xuất hiện cục máu mới.

V́ lư do nguy cơ biến chứng phức tạp và xuất huyết cao, việc sử dụng biệt dược làm tan cục máu đông rất hiếm trường hợp được chỉ định.


Hăy “tốt bụng” với tĩnh mạch!

“Tất nhiên, với các bệnh tĩnh mạch, việc pḥng ngừa có ư nghĩa đặc biệt. Rất khó hy vọng y học t́m ra phương thức sửa chữa có hiệu quả van tĩnh mạch đă bị hư tổn trong tương lai gần. Tuy nhiên có thể và cần phải tự tạo những thói quen thân thiện đối với tĩnh mạch; những thói quen khả dĩ ngăn ngừa t́nh trạng máu vón cục và ḱm hăm xu thướng suy tĩnh mạch. (…). Bản thân việc quan sát cơ thể là quá ít. Cần phải hành động” – GS Noszczyk nhấn mạnh và gợi ư một số giải pháp.

1- Thứ nhất: Lựa chọn bộ môn thể thao thích hợp (những môn như cử tạ, đẩy tạ, cưỡi ngựa…không tốt đối với tĩnh mạch; các môn bơi lội, dạo bộ, khiêu vũ, đi xe đạp rất tốt);

2- Thứ hai: Giảm thiểu sức ép đè nặng đôi chân

3- Thứ ba: Thực đơn thích hợp (hạn chế thịt, chất béo, đường…nhiều rau xanh, hoa quả, cá…nhằm tránh béo ph́).

Nguyên tắc liệu pháp cơ bản có nội dung: “Hai chân cần liên tục hoạt động”. Vậy nên cố gắng vận động các ngón chân, thậm chí cả khi ngồi trên ghế hay dạo bộ tại chỗ, cũng đứng trên những ngón chân và tự xoay cơ thể.

- Buổi tối ngồi xem tivi nên gác chân lên ghế đẩu hoặc mặt bàn, tốt nhất ở mặt bằng cao hơn trái tim.

- Sáng dậy thực hiện vài động tác đứng lên – ngồi xuống, đá chân tứ phía hoặc đi xe đạp.

- Tránh tắm nước quá nóng (làm thui chột tuần hoàn máu); thay đổi vài lần ḍng nước nóng-lạnh, trường hợp tắm ṿi hoa sen.

- Lưu ư chọn giầy vừa chân, tạo cảm giác thoải mái (đế giầy cao 2 cm) và quần áo rộng.

- Hàng ngày uống đủ nước (từ 1,5 đến 2lít/ngày), tốt nhất nước đun sôi để nguội, nước chè hoặc nước ép trái cây.






Theo Thu Vinh
Tri Thức Trẻ

florida80
04-14-2019, 17:12
Ăn Thiếu Chất Béo (dầu và mỡ) Hại Sức Khoẻ Và Nguy Hiểm Đến Tính Mạng - Bác sĩ Pham H. Liem, MD








Ăn ít chất béo c̣n có hại cho sức khoẻ tổng quát v́ cơ thể sẽ bị thiếu các sinh tố quan trọng hoà tan trong chất béo như sinh tố A, sinh tố D và sinh tố K.

Ăn thiếu chất béo, nhất là chất béo động vật, gây ra chứng xuất huyết năo sau 45 tuổi với số tử vong cao như đă tường tŕnh từ các nghiên cứu trên nữ điều dưỡng Mỹ (2001), người Nhật (2003) và người Ấn Độ (2012). Thiền sư Thích Nhất Hạnh bị xuất huyết năo gần đây có lẽ v́ tuổi cao và thiếu chất béo động vật như đă chứng tỏ qua các khảo cứu kể trên?





Đầu tháng Chín năm nay (2014), trên mục Sức Khoẻ của một nhật báo lớn ở Mỹ, The New York Times, kư giả Anahad O’Connor đă viết một bài với nhan đề Lời Kêu Gọi Cho Cách Ẩm Thực Ít Chất Đường Thêm Chất Béo (A Call for a Low-Carb Diet That Embraces Fat).

http://www.nytimes.com/2014/09/02/health/low-carb-vs-low-fat-diet.html?_r=0

Bài báo này đánh dấu một sự chuyển hướng quan trọng trong dư luận và truyền thông Mỹ về vấn đề dinh dưỡng từ kỵ-chất-béo qua thêm-chất-béo trong thực phẩm.

O’Connor muốn thông tin cho độc giả về các bằng chứng khoa học vững chắc cho thấy khi con người ăn bớt đường bột và ăn thêm chất béo (ngoại trừ trans fat), nguy cơ cuả bệnh tim mạch được giảm đi nhiều.




Không những thế nó c̣n giảm lượng mỡ trong cơ thể và xuống kư rơ rệt nhờ ăn thêm chất béo thay v́ chất đường. Kết quả khảo cứu mới nhất từ Đại Học Tulane, tài trợ bởi Viện Nghiên Cứu Y Học Quốc Gia Hoa Kỳ (NIH- National Institute of Health), đăng trên Nguyệt san Y học Annals of Internal Medicine trước đó, cho thấy sự khác biệt rơ ràng, như đă nói ở trên, giữa nhóm tiêu-thụ-bớt-đường-thêm-chất-béo và nhóm ăn-thực-phẩm-có-lượng-chất-béo-thấp như Chính phủ Liên bang và Hội Chuyên gia Bệnh Tim Hoa Kỳ vẫn đang khuyến khích hiện nay.




Điểm đáng chú ư là cả hai nhóm đều không phải giới hạn lượng calorie tiêu thụ mỗi ngày như các chương tŕnh dinh dưỡng khác. Kết quả của cuộc thí nghiệm này chứng tỏ rằng phong trào bài trừ chất béo trong thực phẩm trên hơn ba mươi năm qua ở Hoa Kỳ là sai lầm.

V́ đâu nên nỗi: Từ thập niên 1950, Y học Hoa Kỳ đă biết rằng lượng mỡ cholesterol cao trong máu có liên hệ đến bệnh tim mạch nhưng nguồn gốc của cholesterol gia tăng trong máu th́ vẫn rất mơ hồ. Cholesterol đóng vai tṛ quan trọng cho sinh hoạt của mỗi tế bào, đồng thời cũng là nguồn cội trong việc sản xuất các kích tố steroids và vitamin D rất quan trọng cho cơ thể.




Trong suốt thập niên 1960, các nhà nghiên cứu y khoa xác định một vài chứng bệnh di truyền hiếm (đề nghị bỏ chữ hoi) có thể gây lượng mỡ cao trong máu, nhưng trong đa số bệnh nhân tim mạch, lượng cholesterol đến từ thói quen ăn uống. Một cuộc tranh luận gay gắt xảy ra giữa hai nhóm khoa học gia: Một nhóm tin rằng lượng cholesterol cao trong bệnh nhân là đến từ chất đường trong khi nhóm kia quả quyết rằng cao cholesterol là đến từ chất béo trong thực phẩm.




Qua thập niên 1970, Giáo Sư Ancel Keys, thuộc ngành Dinh Dưỡng cuả Đại Học Minnesota, đưa ra kết quả của một cuộc nghiên cứu quan trọng trên bảy quốc gia Âu Mỹ cho thấy rằng tiêu thụ nhiều chất béo băo hoà từ mỡ động vật là nguyên do của cholesterol cao và bệnh tim mạch. Các khoa học gia khác đă nhanh chóng ủng hộ GS Keys và các hội chuyên khoa về tim cùng chính phủ Hoa Kỳ khuyến cáo người Mỹ nên ăn ít chất béo, nhất là mỡ động vật, và các công ty sản xuất thực phẩm nên giảm thiểu chất béo trước khi bày bán trên thị trường.




Hậu quả bi đát với vài “nghịch lư”: Dân Mỹ vào siêu thị mua thực phẩm với các quảng cáo Ít Mỡ (Low Fat) hoặc Không Mỡ (No Fat) to tướng trên nhăn hiệu. Để thay thế bơ mà người Mỹ ưa quẹt vào bánh ḿ, khoa học gia lại t́m cách làm rắn mỡ thực vật lỏng bằng cách thay thế dạng Cis của axít béo với hydro qua gạch nối dạng Trans gọi là Trans Fat, một chất béo thực vật mới hoàn toàn nhân tạo không có trong thiên nhiên để thay thế bơ (margarine with trans fat).

Trong các thập niên kế tiếp, từ 1980 cho đến bây giờ, Hoa Kỳ rồi các nước giàu có trên thế giới bị hoành hành với chứng mập ph́ và nạn dịch Tiểu Đường loại 2 ngày càng thêm nặng, v́ đại đa số người dân nhiễm Hội Chứng Biến Dưỡng do sự kháng insulin trong cơ thể làm mập ph́, tăng cholesterol và chất triglyceride trong máu, tăng huyết áp và chứng Tiểu Đường.




Cho đến 7-8 năm trở lại đây, nguyên do của nạn dịch này mới được xác định là người Mỹ đă dùng đường và bột ngày thêm nhiều để bù đắp cho số calorie bị mất đi khi họ ăn ít chất béo; chất đường ngọt, nhất là đường fructose, là nguyên nhân của sự tích tụ mỡ trong gan, bụng và cả bắp thịt gây ra chứng kháng insulin (sau khi kháng insulin đă xảy ra th́ cả đường glucose cũng trở thành nguy hại). Khách hàng đă phải trả một giá quá đắt về sức khoẻ và sinh mạng v́ tiêu thụ các thực phẩm Ít Mỡ và Không Mỡ nhan nhản trên thị trường, trong lúc các bác sĩ của họ tiếp tục khuyến khích dinh duỡng kỵ chất béo, nhất là mỡ động vật, một cách sai lầm trong suốt 40 năm.





Một vài chuyện nghịch lư (paradox) phát hiện trong thời gian này, nhưng khoa học và chính phủ Hoa Kỳ vẫn không quan tâm và suy diễn đúng, v́ vẫn c̣n bị mê hoặc với chính sách giảm chất béo:




1. Nghịch lư người Pháp. Dân Pháp thích ăn uống ngon miệng nên họ nhất định không ăn giảm chất béo nhất là mỡ động vật, v́ làm như thế thức ăn sẽ mất mùi vị. Họ tiếp tục ăn bơ, phó mát, thịt ḅ, gà vịt ngỗng, heo, trứng….như thường lệ, nhưng tỷ số mập ph́, tiểu đường loại 2 và bệnh tim mạch tại Pháp lại thấp hơn Hoa Kỳ và các nước Tây Âu lân cận. Nghịch lư này được giải thích v́ người Pháp uống nhiều rượu vang đỏ có chất kháng ốc-xy và nhất là resveratrol.




2. Nghịch lư về thuốc chống cholesterol. Có hơn 6 nhóm thuốc làm hạ cholesterol trong máu được chính phủ Hoa Kỳ chấp thuận cho bán ở dược pḥng, nhưng chỉ có nhóm thuốc statin đă chứng tỏ giúp bệnh nhân ngừa khỏi biến chứng tim mạch và sống lâu. Các nhóm thuốc kia, mặc dù hạ thấp cholesterol nhưng không ngăn ngừa được bệnh tim mạch. Hoá ra thuốc statin c̣n có tác dụng chống viêm, làm thành mạch máu trơn láng hơn, và có thể tăng thêm tuổi thọ với tác dụng trên tế bào.




3. Nghịch lư về biến chứng của Tiểu Đường loại 2. Mặc dù Hoa Kỳ đă và đang trải qua cơn dịch Tiểu Đường loại 2 với tiềm năng gây biến chứng tim mạch, trên thực tế số luợng tim đột quỵ (heart attack) và tai biến mạch máu năo cùng tỷ số tử vong đă giảm đi từ 15 năm nay. Lư do là thuốc statin và các thuốc chống áp huyết cao đă được dùng rất phổ thông cho người Mỹ.




Nhờ cuộc khảo cứu của Đại Học Tulane và bài báo cảnh tỉnh của kư giả O’Connor mà hôm nay chúng ta biết rằng các “nghịch lư” kể trên không phải là nghịch lư ǵ cả. Y học và Chính phủ Hoa Kỳ đă sai lầm khi cổ vơ và áp dụng cách dinh dưỡng thiếu chất béo.


Cuộc khảo cứu 7 quốc gia cuả GS Keys đă bị các khoa học gia đương thời duyệt lại và cho thấy ông đă phạm nhiều sơ xuất dẫn đến kết quả không đúng với sự thật.


Ăn ít chất béo c̣n có hại cho sức khoẻ tổng quát v́ cơ thể sẽ bị thiếu các sinh tố quan trọng hoà tan trong chất béo như sinh tố A, sinh tố D và sinh tố K.




Ăn thiếu chất béo, nhất là chất béo động vật, gây ra chứng xuất huyết năo sau 45 tuổi với số tử vong cao như đă tường tŕnh từ các nghiên cứu trên nữ điều dưỡng Mỹ (2001), người Nhật (2003) và người Ấn Độ (2012). Thiền sư Thích Nhất Hạnh bị xuất huyết năo gần đây có lẽ v́ tuổi cao và thiếu chất béo động vật như đă chứng tỏ qua các khảo cứu kể trên?





Ngoài ra, nhiều chứng ung thư thường xảy ra trên người có lượng cholesterol trong máu rất thấp, nhưng cho đến nay Y học vẫn chưa chứng minh được là ung thư làm hạ cholesterol hay thiếu cholesterol gây ra ung thư?




Kết Luận: Hiện nay người Mỹ vẫn c̣n theo tiêu chuẩn ăn bớt chất béo cổ động bởi chính phủ Hoa Kỳ với lượng dầu mỡ dưới 30% của tổng số calorie tiêu thụ, và v́ thế đă ăn quá nhiều đường bột để bù đắp với hậu quả tai hại. Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama buộc các em học sinh trường công lập Mỹ ăn trưa với thực phẩm ít béo ít đường từ quầy ăn nhà trường làm thức ăn tồi tàn và dở ẹc như nhai giấy b́a; tội nghiệp các em đang sức lớn mà đói meo.




Các chuyên gia về bệnh tim c̣n sai lầm khi họ muốn giảm chất béo xuống đến 10% mổi ngày, mặc dù làm như vậy sẽ tăng hiểm nguy của xuất huyết năo. Theo nghiên cứu mới nhất đă nói ở đầu bài, nhóm tiêu thụ hơn 40% chất béo cho tổng số calorie từ thực phẩm đă xuống kư v́ ăn mau no, ăn bớt đường bột, nên giảm nguy cơ của bệnh tim mạch. Chúng ta nên ăn uống thoải mái, thêm thịt cá gà vịt trứng tôm cua… với nhiều chất đạm và chất béo; không phải kiêng khem ǵ ngoài việc ăn bớt đường bột cơm gạo, và ăn thêm rau quả. Vào siêu thị chúng ta không mua thực phẩm Low Fat và No Fat và nhất quyết không tiêu thụ thực phẩm có chứa trans fat.




Trans fat thực vật là chất béo xấu duy nhất cho con người hiện nay.

Chất béo tốt là mono-unsaturated fat và omega-3-fatty acid có tác dụng chống viêm và ngừa bệnh tim mạch. Thực phẩm với chất béo tốt gồm có dầu olive, dầu canola, dầu gan cá, trái bơ (avocado), mỡ vịt, dầu dừa, dầu đậu phụng, ḷng đỏ trứng, và c̣n nhiều nữa. Chất béo băo hoà từ mỡ ḅ, heo, hay chất béo poly-unsaturated từ dầu đậu nành, dầu bắp, v.v., cũng không độc hại ǵ nếu ăn vừa phải. Người ăn nhiều cá hay gà vịt rất ít khi bị tai biến mạch máu năo, trong khi người ăn thiếu mỡ bị xuất huyết năo nhiều hơn như chúng ta đă biết.


Pham H. Liem, MD

Former Jackson T. Stephens Professor and Vice-Chairman of the Donald W. Reynolds Department of Geriatrics, UAMS



at 12:24 PM

florida80
04-14-2019, 17:14
Fast Food Đang Chạy Ngược…- Vũ Thế Thành







Bánh hambuger (hoặc đùi gà chiên) + khoai tây chiên + ly nước ngọt có gas được xem là khẩu phần hoàn hảo của cái gọi là “fast food”. Các nhà dinh dưỡng thường ái ngại với chất béo và đồ ngọt. Tổ chức WHO đầu năm 2014 đă nhập cuộc với khuyến cáo, cần thắt chặt hơn nữa đối với quảng cáo fast food, nhất là quảng cáo nhắm vào trẻ em.




Thích nghi luôn cả quy định lỏng lẻo




Fast food mà dịch ra tiếng Việt là “thức ăn nhanh” chẳng khác nào nước mắm dịch ra tiếng Anh là fish sauce. Fast food ban đầu được xem loại thức ăn được chế biến và phục vụ nhanh. Khái niệm này theo thời gian cũng thay đổi, người ta xem đó là món ăn chế biến sẵn ở nhà hàng, chỉ cần đóng gói và “take away” (mang đi). Hiểu theo kiểu này th́ Việt Nam có vô số cửa hàng fast food, chẳng hạn ra quán mua phở, bún ḅ, hủ tíu,…”take away”. Trong bài này chỉ đề cập đến fast food chế biến theo kiểu công nghiệp đến từ chuỗi nhà hàng của các đại gia KFC, Lotteria, Jollibee, Burger King, McDonalds,…





Về an toàn thực phẩm rất khó “soi mói” fast food, v́ họ có cả mô h́nh quản lư chất lượng rất bài bản, kiểm soát “trước đầu vào và sau đầu ra” (các nhà hàng trong nước nên học cách làm việc của họ), nhưng dinh dưỡng fast food lại là một vấn đề.




Điều e ngại nhất đó là chất béo trong fast food. Đa phần đó là chất béo no, và tệ hơn nữa là chất béo trans có trong dầu chiên. Miếng thịt ḅ bằm trong hambuger, đùi gà cánh gà, khoai tây… được chiên ngập dầu. Dầu chiên này được pha chế riêng và được xem là bí quyết của mỗi công ty, và không loại trừ pha cả mỡ ḅ (beef tallow) để bảo đảm được bảo quản và hương vị, cái mà họ gọi là ”hương vị tự nhiên” (natural flavor) . Mỡ từ con ḅ mà, chứ có phải tổng hợp đâu mà không được gọi là ”tự nhiên”.




Các đại gia fast food không chỉ thích nghi với văn hóa ẩm thực của địa phương, mà c̣n thích nghi luôn với quy định lỏng lẻo của địa phương đó. Thành phần dầu chiên của cùng 1 hăng khác nhau ở mỗi nước, và do đó trans fat t́m thấy trong cùng loại sản phẩm mỗi nơi mỗi khác.




Fast food VN ngon nhất thế giới nhờ trans fat?




Thông tấn xă AP trong bài báo năm 2006, dẫn nguồn từ tạp chí Y học New England Journal of Medicine, nghiên cứu về mức trans fat ở khoai tây chiên và gà chiên của 2 hăng McDonalds (McD) và KFC ở các nước khác nhau. Đan Mạch là một trong những nước đầu tiên có quy định giới hạn trans fat, nên hàm lượng trans fat thấp nhất, c̣n ở những nước khác th́…vô tư. Điều này cho thấy thành phần dầu chiên của cùng 1 hăng fast food khác nhau tùy địa phương.


Việt Nam chưa có quy định hạn chế trans fat, thậm chí cũng chưa có quy định dán nhăn trans fat. Tha hồ mà múa nhé! Không chừng fast food hambuger, đùi gà chiên của Việt Nam thuộc loại ngon nhất thế giới cũng nên.





Hầu hết các loại fast food đều rất ít chất xơ, vitamin và khoáng chất.




Fast food cung cấp năng lượng khủng, trong đó gần 50% đến từ chất béo. Lấy 1 trio của McDonalds làm thí dụ gồm : 1 hambuger big Mac + 1 large khoai tây chiên + 1 lon Coca. Khẩu phần này cung cấp 1.250 Calo (nhu cầu 1 người cần khoảng 2.000 -2.500 Calo), trong đó 480 Calo đến từ chất béo, 210 đến từ nước ngọt, phần c̣n lại từ hambuger.




Tiếp thị của các hăng fast food cũng rất độc đáo và độc… địa. Mua hàng combo bao giờ cũng rẻ hơn từng món rời, và chiêu quá khổ (supersize) mới làm nhức nhối khách hàng, chẳng hạn, một hambuger gồm 2 lát sandwich kẹp 1 lát thịt giá 50.000 đồng, nhưng Big mac gồm 3 lát sandwich và 2 lát thịt, giá chỉ có 60.000.




Người ta chạy đi, ḿnh chạy tới




Thị trường Việt Nam thật béo bở. Đối tượng nhắm tới không phải là giới trung niên hay giới già. Loại này th́ bảo thủ về ẩm thực hết thuốc chữa rồi. Người ta nhắm vào thanh thiếu niên, nhất là các cô cậu du học sinh. Giới trẻ vừa ăn fast food, vừa uống Coke, vừa bấm facebook hay xem phim. Chúng sẽ cảm thấy hiện đại, đúng gu, đúng điệu, như thế mới hội nhập vào cái gọi là văn hóa toàn cầu.




Rơ khổ! Khi các nước giàu đang cố gắng chuyển dần từ fast food sang các thực phẩm có lợi cho sức khỏe, th́ các nước đang phát triển lại tích cực chạy ngược, tiếp nhận nhiều chuỗi thức ăn nhanh từ những nước giàu.Người ta chạy đi, ḿnh chạy tới.




Trong bản tường tŕnh đưa ra hồi tháng 2 năm 2014, tổ chức WHO đă khuyến cáo các chính phủ cần có biện pháp mạnh hơn (firmer) để ngăn chặn dịch béo ph́ mà hậu quả lâu dài là tiểu đường, tim mạch và ung thư. WHO đặc biệt nhấn mạnh đến những nước có khẩu phần chính là ngũ cốc (như Việt Nam ăn gạo) lại đang dịch chuyển dần qua thực phẩm nhiều chất béo và đường.




Tuyệt diệu hảo từ




PR của các hăng fast food phát biểu: Không có thực phẩm tốt hay xấu, chỉ có khẩu phần ăn tốt hay xấu mà thôi. Tuyệt diệu hảo từ! Chỉ có bậc thầy về ngụy biện mới nghĩ ra được một câu tuyệt vời như thế. Quả banh đă chuyển qua người tiêu dùng.




Người tiêu dùng phải tự bảo vệ chính ḿnh. Cách tự vệ tốt nhất là “lạnh mặt” với quảng cáo. Các chiêu khuyến măi bao giờ cũng khai thác ḷng ham rẻ. Hàng tăng thêm gấp 3, tiền chỉ tăng thêm 1, khách cứ ăn cho đã, béo phì tim mạch tính sau.




Fast food ăn chơi th́ được, nhưng ăn hoài th́ rất phiền cho sức khỏe.




Vũ Thế Thành

florida80
04-14-2019, 17:15
Chẩn Đoán Nguyên Nhân Đau Bụng Qua Vị Trí Đau










Đau bụng là triệu chứng thường gặp, chúng xuất hiện đơn lẻ hoặc đi kèm với nhiều dấu hiệu khác. Bạn có thể chẩn đoán bệnh thông qua vị trí đau ở đâu.


Đau bụng là một danh từ chung chung v́ bệnh của bất kỳ một cơ quan nào nằm trong ổ bụng đều có triệu chứng đau. Tuy vậy, tính chất đau bụng đôi khi không hoàn toàn giống nhau mà có đặc thù riêng của từng bệnh.


Danh từ bụng, người ta muốn ám chỉ là ổ bụng. Ổ bụng bao gồm từ mũi ức xuống tận đáy chậu. Bụng gồm có 2 vùng chính là thượng vị (trên rốn) và hạ vị (dưới rốn). Ổ bụng gồm có các tạng cơ bản như dạ dày - tá tràng, gan, lách, tuỵ tạng, hệ thống mật (đường dẫn mật và túi mật), ruột (đại tràng, ruột non, mạc treo, trực tràng, hậu môn), hệ tiết niệu (thận, niệu quản, bàng quang), với phụ nữ c̣n có tử cung, buồng trứng, ṿi trứng, âm đạo.


Đôi khi, các cơn đau là do ăn quá no hoặc ăn quá nhiều một số loại thực phẩm (như thực phầm giàu chất béo, thực phẩm sinh hơi, hoặc người không dung nạp lactose ăn nhiều sản phẩm sữa). Đau bụng thường khỏi trong vài giờ hoặc kéo dài vài ngày. Đây là hiện tượng b́nh thường không nguy hiểm, nhưng cũng là dấu hiệu cảnh báo bạn cần chú ư đến sức khỏe hơn.





Nhưng trong một số trường hợp, đau có thể là dấu hiệu cảnh báo sớm của một rối loạn nặng hơn, có thể cần điều trị thuốc. Việc xác định nguyên nhân gây đau bụng thường rất phức tạp. Xác định vị trí đau sẽ giúp bác sĩ phát hiện nguyên nhân sâu xa gây nên.


V́ nhiều tạng trong bụng cần cho sự sống và tín hiệu chúng gửi đi khá phức tạp, nên việc xác định nguyên nhân đau bụng có thể rất khó khăn và đôi khi có thể xác định sai. Dưới đây là một số vị trí và nguyên nhân dẫn đến đau bụng:



- Vùng rốn: Đau gần rốn có thể liên quan tới rối loạn ruột non hoặc viêm ruột thừa. Viêm ruột thừa là một cấp cứu ngoại khoa. Nếu không điều trị, ruột thừa bị viêm có thể vỡ và gây viêm phúc mạc. Các dấu hiệu và triệu chứng của viêm ruột thừa bao gồm buồn nôn, nôn, chán ăn, sốt nhẹ, có nhu cầu trung tiện hoặc đại tiện.


- Trên rốn: Ngay trên rốn ở vùng trên-giữa của bụng là vùng thượng vị. Đây là nơi bạn có thể có cảm giác đau liên quan tới a-xít dạ dày. Đau kéo dài ở vùng này có thể báo hiệu rối loạn tá tràng, tụy hoặc túi mật.


- Dưới rốn: Đau dưới rốn và lan sang bên có thể báo hiệu rối loạn đại tràng. Với phụ nữ, nguyên nhân hay gặp của đau vùng này là viêm đường tiết niệu và viêm tiểu khung






- Bụng trên bên trái: Ít khi đau vùng này. Khi bị đau, có thể là rối loạn đại tràng, dạ dày hoặc tụy.


- Bụng trên bên phải: Đau dữ dội bụng trên bên phải thường liên quan tới viêm túi mật. Đau có thể lan ra giữa bụng và xuyên ra sau lưng. Đôi khi, viêm tụy hoặc tá tràng cũng có thể đau vùng này.


- Bụng dưới bên trái: Đau ở đây thường là rối loạn đại tràng xuống, nơi phân được thải ra. Các rối loạn có thể gồm viêm túi thừa hoặc viêm đại tràng - bệnh Crohn hoặc viêm loét tá tràng.


- Bụng dưới bên phải: Viêm đại tràng có thể gây đau bụng dưới bên phải. Một nguyên nhân khác có thể và có lẽ nặng hơn là viêm ruột thừa.


- Đau di chuyển: Một trong những đặc điểm bất thường của đau bụng là khả năng di chuyển dọc theo đường dẫn truyền thần kinh sâu và đau ở các vị trí xa nơi gây bệnh. Thí dụ: đau do viêm túi mật có thể lan lên ngực và dọc vai phải. Đau do rối loạn tụy có thể lan giữa hai vai.




Đối với nữ giới, viêm tử cung, buồng trứng, ṿi trứng cũng gây đau bụng dưới, đặc biệt là đau bụng dưới do u nang buồng trứng xoắn hoặc chửa ngoài dạ con vỡ, nếu ở bên hố chậu phải th́ rất dễ nhầm với viêm ruột thừa cấp tính. Cũng như đau thượng vị, để chẩn đoán chính xác đau hạ vị rất cần có sự hỗ trợ tích cực của cận lâm sàng. Ngoài đau bụng khu trú ở thượng vị hay hạ vị th́ có thể gặp đau bụng không thấy khu trú rơ ràng ở một vùng nào nhất định như xoắn ruột, tắc ruột, viêm phúc mạc...




Khi nào cần khám bệnh?




Mặc dù phần lớn đau bụng không trầm trọng, một số triệu chứng có thể báo hiệu một bệnh nặng. Tuy nhiên, thường không thể chẩn đoán nguyên nhân đau bụng dựa theo triệu chứng hoặc vị trí đau. Hăy đến bệnh viện nếu thấy:




- Đau nặng, tái phát hoặc kéo dài.

- Đau ngày càng nặng hơn.

- Đau kèm theo thở gấp, chóng mặt, xuất huyết, nôn hoặc sốt cao.

- Nhất là đối với trẻ nhỏ khi đau bụng không biết nói nên rất khó chẩn đoán và xác định vị trí đau v́ vậy việc đưa đến bênh viên là hết sức cần thiết.




Vebtretho tổng hợp

florida80
04-14-2019, 17:16
Những Nguy Hại Đằng Sau Các Loại Thuốc Cảm






Chúng ta có thể mua được thuốc cảm, không cần toa bác sĩ, để chữa khỏi bệnh cảm lạnh, nghẹt mũi, ngứa cổ, nhưng đôi khi những thứ thuốc này lại đưa đến những nguy hại lớn không ngờ được.




Cali Today News - Theo bà Leight Ann Mike, Dược sĩ, dạy ở trường Dược Khoa của đại học University of Washington: “ Người ta vẫn thường có quan niệm cho rằng v́ có thể mua thuốc chữa bệnh cảm không cần toa bác sĩ, nên có thể dùng một cách thoải mái, an toàn. Điều đó không phải lúc nào cũng đúng.”.

Chúng ta nên thận trọng t́m hiểu về những hậu quả phụ tai hại của những loại thuốc cảm để tránh lạm dụng.




Acetaminophen gây hư hại cho gan:

Nếu bạn thường dùng acetaminophen (như Tylenol) để chữa bệnh đau nhức do phong thấp (arithritis) hay chữa chứng nhức đầu, khi bạn dùng thuốc đó chung với thuốc cảm, bạn sẽ vượt quá mức giới hạn cho phép dùng là 3,000 hay 4,000 miligram acetaminophen tối đa trong một ngày. Mỗi năm có khoảng 78,000 người phải đưa vào bệnh viện cấp cứu v́ dùng quá nhiều acetaminophen. Chất này đưa đến hậu quả gây tai hại cho gan.




Triệu chứng đầu tiên thường thấy là nôn mửa, đau bụng, và ăn mất ngon. Những triệu chứng này thường không rơ ràng, và dễ làm người ta lầm tưởng như triệu chứng của bệnh cảm. Sau đó, là đến hiện tượng nước tiểu có mầu đậm, và đau ở phiá trên, bên phải của thân ḿnh. Nếu bạn nghi ḿnh bị hậu quả của acetaminophen, bạn nên đi bệnh viện ngay.




Biện pháp an toàn:

Khi dùng acetaminophen, tuyệt đối không được uống rượu, hay bia. Chỉ nên dùng liều lượng thấp nhất, nhớ uống theo đúng thời gian trong chỉ dẫn, và đọc kỹ lời dặn ghi trên nhăn hiệu thuốc. Nhiều loại thuốc cảm có sẵn chất acetaminophen, nên coi chừng bạn dùng chất này nhiều quá mà không hay.




Ibuprofen làm loét bao tử và có hại cho thận:

Chất Ibuprofen có trong thuốc Advil và Motrin là loại thuốc chống sưng tấy mà không có chất steroid, gọi tắt là NSAID. Do đó, rất hiệu nghiệm trong việc làm giảm đau nhức, nhức đầu, và nóng sốt. Loại thuốc này cũng gây ra những phản ứng rất mạnh nếu cơ thể bị dị ứng với chất aspirin. Những thuốc này có thể làm loét bao tử (ulcer) và hư thận nếu dùng về lâu dài.

Chất Ibuprofen c̣n có thể đưa đến đột qụy tim (heart attack), tai biến mạch máu năo (stroke) nếu trong cơ thể đă sẵn có bệnh tim, hay huyết áp cao, hút thuốc lá, hay có bệnh tiểu đường.




Biện pháp an toàn:

Tránh đừng uống rượu nếu phải dùng ibupropen thường xuyên. Nên gặp bác sĩ ngay nếu thấy đi cầu ra phân mầu đen, hay có máu, có sự thay đổi trong thói quen đi tiểu tiện, khó khăn khi đi bộ, hay mắt mờ, nói năng ngọng nghịu.




Thuốc chữa bệnh nghẹt mũi làm tăng huyết áp:

Các loại thuốc chữa chứng nghẹt mũi –decongestants – như Traminic và Dimetapp Cold Drops – giúp thông lỗ mũi, và co thắt các mạch máu ở mũi, do đó giúp bạn thở dễ dàng. Nhưng rủi thay, chính v́ lẽ đó, thuốc chữa chứng nghẹt mũi có bề xấu của nó. Chúng có thể làm cho huyết áp tăng vọt lên, và khiến cho thuốc chữa huyết áp cao bị giảm tác dụng.

Loại thuốc chữa chứng nghẹt mũi bằng cách xịt hơi vào mũi như “Afrin Nasal Spray” hay “Neo-Synephrine” giúp thông lỗ mũi nghẹt ngay, và ít gây tác hại như thuốc uống. Nhưng theo chuyên gia về bệnh dị ứng, ông Federic Little ở trường đại học Boston, nếu bạn dùng thuốc xịt nhiều quá mỗi ngày, bạn sẽ bị ghiền, và mũi của bạn cứ buộc bạn phải dùng nó nhiều hơn.

Nếu bạn cảm thấy khó thở, nhịp đập của tim chậm lại, hay cảm thấy bối rối, bất thường, bạn nên đi gặp bác sĩ ngay.




Biện pháp an toàn:

Nếu trong người bạn có vấn đề về tim mạch, huyết áp cao, tiểu đường, áp suất trong mắt cao, hay bị phản ứng mạnh khi dị ứng, bạn nên hỏi bác sĩ kỹ trước khi dùng thuốc chữa bệnh nghẹt mũi.




Chất Antihistamines dễ làm té ngă:

Các loại thuốc chống chảy nước mũi cấp kỳ như Benadryl và Chlor-Trimeton giúp ngăn chặn việc sản sinh ra chất histamine, và giúp bạn ngưng chảy nước mũi, hay ngứa mũi. Bác sĩ Federic Little cho biết các loại thuốc này chỉ đem lại hiệu quả chừng bốn giờ đồng hồ. Nhưng đồng thời chúng cũng khiến cho người ta buồn ngủ. Thuốc có thể giúp cho bạn dễ ngủ nếu dùng vào buổi tối. Nhưng chính v́ hậu quả làm cho người ta buồn ngủ, nên vào lúc nửa đêm, người lớn tuổi hay phải thức dậy đi tiểu, dễ bị té ngă. Bác sĩ Little cho hay thuốc có chất antihistamines làm cho người ta lảo đảo, đi đứng không vững, dễ bị ngă.




Những thuốc có hiệu lực dài hơn như Claritin, Zyrtec và Allegra thường chỉ dùng mỗi ngày một viên, và không làm cho chúng ta buồn ngủ. Thường th́ thuốc này dùng chữa bệnh dị ứng, nhưng chúng cũng giúp chữa bệnh ngứa, khan cổ, và chảy nước mũi, triệu chứng của bệnh cảm lạnh.




Biện pháp an toàn:

Nên nói chuyện với bác sĩ trước khi dùng thuốc có chất antihistamin, tác dụng ngắn hạn, nếu trong người bạn bị những bệnh khác như glaucoma (áp suất máu trong mắt), trực tràng sưng to, thở khó, huyết áp cao, hay bệnh tim. Nếu bạn dùng chất antihistamin, tác dụng dài hạn, và thấy có đốm ngứa, nổi mề đay v́ dị ứng, hay khó thở, khó nuốt, bạn nên đi gặp bác sĩ ngay.




Các loại thuốc chữa cảm cúm, nghẹt mũi dễ gây ra biến chứng cho bệnh tim: Các nhà nghiên cứu ở Tân Tây Lan mới t́m ra rằng những loại thuốc bán không cần toa, chữa bệnh cảm, trong đó có chứa chất acetaminophen, và chất phenylephrine chữa nghẹt mũi như các thuốc: Contac Cold+Flu Non Drowsy, Theraflu Daytime Severe Cold & Cough có thể đưa đến những hậu quả phụ nghiêm trọng như làm thay đổi nhịp đập của tim, huyết áp tăng cao đến mức nguy hiêm, làm co giật, run rẩy.




Biện pháp an toàn:

Nên nghĩ đến việc chữa trị một căn bệnh làm phiền bạn nhiều nhất. Nếu muốn dùng thuốc chữa nhiều chứng bệnh khác nhau bạn nên đọc kỹ những chất chính có trong thuốc, để bảo đảm rằng bạn không dùng những chất đó quá nhiều.

Bài tường thuật của Nissa Simon trên báo AARP tháng 1 &2, 2015




Nguyễn Minh Tâm dịch

florida80
04-15-2019, 18:47
Những Màn Liệu Pháp Mát-Xa Thót Tim Nhất Thế Giới

https://i.imgur.com/LAQqX12.gif


Thay v́ sử dụng đôi bàn tay mềm mại và khéo léo của con người, người ta c̣n nghĩ ra nhiều liệu pháp mát-xa kỳ quái hơn với trăn, voi hay dao phay để phục vụ mục đích chữa bệnh cho các khách hàng ưa mạo hiểm.

1. Mát-xa trăn ở Philippines






Nữ khách hàng gan dạ thử mát-xa bằng trăn Miến Điện khổng lồ.




Với ưu điểm có thể tác động sâu vào những mảng cơ nhức mỏi nhưng mát-xa trăn lại được coi là liệu pháp khá kinh dị, thử thách sự gan dạ của khách hàng. Mỗi khách hàng sẽ được trải nghiệm cảm giác để cho 4 con trăn Miến Điện khổng lồ dài 5m, với tổng trọng lượng lên tới 250kg trườn ḅ lên khắp cơ thể. Theo hướng dẫn của nhân viên, khách hàng không được hà hơi hay hét toáng lên v́ các con trăn sẽ tưởng nhầm đó là con mồi mà tấn công.




Tuy nhiên, những con trăn được "tuyển dụng" thành "nhân viên mát-xa" đều là những con lành tính, không gây hại cho con người. Ban đầu, khách hàng thường có xu hướng sợ sệt chung nhưng chỉ một lần được trải nghiệm, họ đều cảm thấy hài ḷng và thích thú.




Có nguồn gốc xuất xứ từ Philippines, mát-xa trăn đă chính thực được ra mắt tại Vườn thú Cebu thuộc thành phố Cebu của quốc gia này từ tháng 5/2014. Cho tới tháng 1/2015 vừa qua, dịch vụ mát-xa trăn mới chính thức trở thành dịch vụ đem lại doanh thu cho vườn thú.




2. Mát-xa dao phay ở Đài Loan






Nhân viên dùng dao băm nhẹ lên cơ thể khách hàng






Mát-xa bằng dao phay chặt thịt trên đầu và mặt khách hàng.





Đối với người dân thành phố Tân Trúc, phía Bắc Đài Loan (Trung Hoa Dân Quốc), mát-xa dao phay là một h́nh thức trị liệu cổ truyền đă có lịch sử hơn 2.000 năm. Tuy nhiên, cho tới ngày nay, khách hàng vẫn có thể t́m tới phương pháp mát-xa dao tại thành phố lớn như Đài Bắc.




Dao phay bản to sau khi được mài sẽ được sử dụng làm công cụ để mát-xa trên cơ thể khách hàng. Động tác vỗ nhẹ hay miết cán dao có tác dụng lưu thông máu và thải độc tố đồng thời làm giảm cơn đau. Ngoài ra, người ta tin phương pháp trị liệu này c̣n có tác dụng chữa các bệnh măn tính như khớp, cột sống, mất ngủ hay tiêu hóa...




Mặc dù trông có vẻ nguy hiểm nhưng mát-xa dao được đảm bảo là không để lại chấn thương trong quá tŕnh trị liệu. Để quá tŕnh diễn ra như mong đợi, khách hàng phải nằm bất động hoàn toàn theo chỉ dẫn của nhân viên mát-xa.




3. Mát-xa voi ở Thái Lan






Một du khách được trải nghiệm cảm giác mát-xa bằng ṿi và chân voi.







Chỉ một bước hụt của "nhân viên mát-xa" khổng lồ thôi cũng có thể gây ra thương vong.




Để cho con voi nặng vài tấn "giày xéo" lên cơ thể quả là điều ít ai dám nghĩ tới nhưng thực chất, đó lại là một liệu pháp mát-xa giảm đau hữu hiệu tại một số thành phố lớn ở Thái Lan.




Trong đó, mỗi con voi có trọng lượng dao động từ 2 tới 5 tấn sẽ đảm nhiệm công việc mát-xa cho khách hàng. Qua quá tŕnh huấn luyện, voi sẽ dùng ṿi và chân để day lên từng phần trên cơ thể khách hàng.




Tuy nhiên, dù chỉ là một sơ suất nhỏ thôi, khách hàng cũng có thể bị chấn thương nghiêm trọng, dẫn tới tử vong. V́ vậy, mát-xa voi hiện vẫn đang được xem là một h́nh thức trị liệu trái phép tại quốc gia này.




4. Mát-xa tát ở Mỹ








Chuyên gia làm đẹp Tata Sombutham đang mát-xa tát cho một nữ khách hàng.




Thay v́ dùng đôi tay mềm mại để xoa bóp, bà lang người Thái Lan Tata Sombutham lại sử dụng cách "vả bôm bốp" vào mặt khách hàng với lời đảm bảo có tác dụng làm săn chắc cơ mặt, thu nhỏ lỗ chân lông và xóa nếp nhăn. Salon làm đẹp của cô tại San Francisco đă thu hút được rất nhiều khách hàng ưa cảm giác mạnh ghé thăm.




Sombutham cho biết, cô từng được đào tạo tại Thái Lan. Bằng cách tát, nắn bóp và xoa vào các vùng da điều trị, cô khẳng định rằng, khách hàng sẽ có được làn da khỏe mạnh ngay lập tức.




Hiện nay vẫn chưa có tài liệu khoa học nào chứng minh phương pháp trị liệu của Sombutham là có cơ sở nhưng y học vẫn thừa nhận, tát vào vùng da mặt có thể cải thiện lưu thông máu và làm da khỏe mạnh.




5. Mát-xa ốc sên









Một "nhân viên" ốc sên năng nổ đang mát-xa da cho khách hàng.

Cảm giác để cho một con vật mềm nhũn như ốc sên trườn ḅ trên mặt có lẽ sẽ khiến những người yếu tim như muốn ngất xỉu ngay tại chỗ. Thế nhưng, tại các spa làm đẹp trên thế giới, đây lại được coi là một phương pháp massage độc đáo có tác dụng làm giảm quá tŕnh lăo hóa da.




Chất nhầy sau khi được chiết xuất sẽ được làm sạch qua màng lọc rồi đem bảo quản lạnh. Khi ốc sên trườn ḅ trên mặt khách hàng, nhân viên của spa sẽ bỏ thêm chút muối vào dịch nhầy để làm tăng tính hiệu quả. Tuy nhiên, lượng muối này rất ít và không có khả năng gây hại cho ốc sên.




Theo các nhà nghiên cứu, dịch nhầy của ốc sên có chứa nhiều collagen, axit glycolic, kháng sinh và các hợp chất khác có tác dụng tái tạo tế bào da đồng thời làm lành vết thương. Với những ưu điểm vượt trội này, mát-xa ốc sên có thể coi là "Cuộc Cách mạng" lớn của ngành công nghiệp thẩm mỹ - làm đẹp.




(Nguồn: Tổng hợp)





Theo Chi Mai / Trí Thức Trẻ



at 11:42 AM







No comments:





Post a Comment







Newer Post Older Post Home



Subscribe to: Post Comments (Atom)










Người Phương Nam

Người Phương Nam





Blog Archive



► 2019 (503)




► 2018 (1685)












► 2017 (1773)












► 2016 (1943)












▼ 2015 (1914) ► December (163)
► November (175)
► October (175)
► September (157)
► August (167)
► July (160)
► June (145)
► May (157)
► April (162)
► March (159)
▼ February (151) Đóa Hoa Từ Tâm - Trầm Vân
Phự Nữ Thông Minh, Phụ Nữ Ngu Ngốc
Di Tích Lịch Sử của VN Xă Hội Chủ Nghĩa...
Ư Nghĩa Của 5 Ngón Tay
Xuân Đầy T́nh Nghĩa - Trầm Vân
Mồng Tám Giải Hạn Sao Thưa - Đỗ Công Luận
Bàn Về "Con Vịt" Đồ Hộp Thái Lan Nhiểm HIV - GS Hù...
Người Là Mùa Xuân - Chúc Anh - Mai Đằng - Tâm Thư ...
Tiếng Phone Reo - Trầm Vân
Mở Toang Cánh Cửa Mùa Xuân - Đỗ Công Luận
Tô Hủ Tiếu To Nhất VN: Kỷ Lục Của Sự... Háo Danh -...
Người Bỏ Báo - Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích
Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ: Quốc Gia Bá Quyền Cuối Cùn...
Nghệ Thuật Uốn Dẻo - Extreme Contortionist Stretch...
Đời Người Như Gió Qua - Phạm Thanh Chương
Ngày Mồng Sáu Tết Say Nhừ - Đỗ Công Luận
Dược Thảo, Lợi Hại Ra Sao? - Dr Liêu Vĩnh B́nh (Đ...
Thơ Người Phương Nam - PPS Marian Tran
Người Dân Xứ "Nẩu" - Sông Lô
Tự T́nh Mùa Xuân - Đỗ Công Luận
Sài G̣n, Cà Phê Và Nhạc Sến - Vũ Thế Thành
Tân Niên Họp Mặt Thầy Tṛ - Trầm Vân
Chuyện Khó Tin Nhưng Có Thật Về Trạm Vũ Trụ Quốc T...
SỨC KHOẺ : Dép Xỏ Ngón !
Ở Trọ Mùa Xuân - Trầm Vân
Vài Mẹo Vặt Khi Chơi Bài Ở CASINO.
Một Chút Tết Paris
"Chơi Nổi" Và Hiện Thực Đời Sống VN..!!!
Trâu Nước Cao Thượng
[Hài Kịch] Một Chuyến Đi Về - Show Hè Trên Xứ Lạnh...
Ly Rượu Mừng - Trầm Vân
Mồng Ba Xuân Thắm Đong Đưa - Đỗ Công Luận
Từ Chính Lược Đến Chiến Thuật - Nguyễn Đạt Thịnh
Mồng Năm Nhớ Tết Quang Trung - Đỗ Công Luận
Đến Một Lúc - PPS Marian Tran
Ai Đang Thống Trị Nước Mỹ - Nguyễn Hải Ḥanh
Xuân Về Nhớ Đống Đa Xưa - Trầm Vân
Bức Thư Viết Năm 2070 - Vô Cùng Ư Nghĩa
Tiết Lộ Tính Cách Qua Độ Dài Đốt Ngón Tay Út
Niềm Vui Ngày Mồng Hai Tết - Đỗ Công Luận
"Ly Rượu Mừng / Xuân Miền Nam"
Tết Trên Xứ Người - Người Phương Nam
Cờ Vàng Trong Trái Tim Tôi - Destiny Nguyễn
Chờ Xuân - Chúc Anh
Chúc Mừng Năm Mới Ất Mùi - Trầm Vân
Triết Lư Sống Đáng Suy Ngẫm Từ Những Loài Cây Kiên...
Khai Bút Đầu Năm Ất Mùi - Trầm Vân
Chúc Mừng Năm Mới - Minh Lương
Chiều Ba Mươi Tết Đăm Chiêu - Đỗ Công Luận
CHUYỆN ĐÀN ÔNG - Ngân Uyển
Chuyện Đời Thường
Encore Pour Rire - Thêm Chuyện Để Cười
Tổng Hợp Những Thiệp Chúc Tết Từ Thân Hữu Trên Diễ...
Những Người "Gom" Tết Trên Băi Rác
Xuân Nhớ Trường Xưa - Trầm Vân
Hai Mươi Chín Tết Chợ Trưa - Đỗ Công Luận
Hăy chúc nhau “Hapy New Year” - Đừng Chúc "Sống Lâ...
Đầu Năm Ăn Món "Thăng Hoa Phát Lộc"
CSVN Sẽ Tách Khỏi Quỹ Đạo Trung Cộng – Thế Giới Ở ...
Khúc T́nh Xuân Hát Miên Man - Đỗ Công Luận
Thiệp Chúc Tết Từ Người Phương Nam
Khai Bút Đầu Năm - Hoài Hương
Định Nghĩa T́nh Yêu - Đỗ Công Luận
Hổ Phụ Sinh Hổ Tử
Vang Bóng Xuân Xưa - Trầm Vân
Lời Khuyên Đầu Năm: BỚT Và ĐƯỢC
Ông Và Cháu - Đỗ Công Luận
Dùng Thuốc Bổ Cho Người Cao Tuổi
Cung Buồn Thứ 4 - Tác giả Đông Hải
Đá Ṃn Nhưng Dạ Chẳng Ṃn - Tiểu Tử
Cuộc Chiến Giành Quyền Lănh Đạo Thế Giới - Lữ Gian...
Sân Ga - Trầm Vân
Xuân Và Tết Trong Nhạc Việt Nam - NC_Lê Hoàng ...
Em Đi Chùa Hương - Remix
Tôn Trọng Cuộc Sống Riêng Tư Của Con Cái - Lâm Chi...
Lời Chúc Valentine - Như Nguyệt
Nguồn Gốc Valentine Có Từ Việt Nam Xa Xưa !!!
Chỉ Có Ở Việt Nam
Chúc Xuân Ất Mùi - Trầm Vân
Nguyên Đán - Hoài Hương
Lợi Ích Sức Khỏe Bất Ngờ Từ Bia (Theo ĐSPL)
Niệm Khúc Cuối Cho Đời - Đỗ Công Luận
Kỳ Quan VN
3 Cách Đối Nhân Xử Thế Giúp Bạn Sống An Vui
Lục Bát T́nh Nhân và Ảnh Động Valentine Day
Anh Yêu, - Chúc Anh
Soi Ngón Áp Út Biết Tính Cách và Tương Lai Của Bạn...
Thời Điểm Để Nh́n Rơ Đảng Cộng Sản - Nguyễn Gia Ki...
Em Đă Yêu - Thơ Hồng Thúy - Đỗ Quân - Lâm Dung - D...
Vợ Chồng Già Và Ngày Lễ T́nh Yêu Saint Valentine -...
V́ Sao Việt Nam Không Có Vietnam Town? - BS Hồ Hải...
23 Điều Vô Lư Chỉ Có Ở Việt Nam - Triết Học Đường ...
Táo Quân Tŕnh Tấu Ngọc Ḥang - Đỗ Công Luận
Thang Hai Vọng Tưởng - Trầm Vân
Điều Tôi Muốn Biết
Sự Thật Mất Ḷng Nhưng Vẫn Phải Nói
Mùi Hương Bồ Kết - Trầm Vân
Gừng Ngâm Dấm
Thương Sao Vị Ngọt Tết Quê Hương - Đỗ Công Luận
Những Màn Liệu Pháp Mát-Xa Thót Tim Nhất Thế Giới

► January (143)

► 2014 (1228)












► 2013 (466)












Total Pageviews


Sparkline 3813603













Những Màn Liệu Pháp Mát-Xa Thót Tim Nhất Thế Giới




Thay v́ sử dụng đôi bàn tay mềm mại và khéo léo của con người, người ta c̣n nghĩ ra nhiều liệu pháp mát-xa kỳ quái hơn với trăn, voi hay dao phay để phục vụ mục đích chữa bệnh cho các khách hàng ưa mạo hiểm.

1. Mát-xa trăn ở Philippines






Nữ khách hàng gan dạ thử mát-xa bằng trăn Miến Điện khổng lồ.




Với ưu điểm có thể tác động sâu vào những mảng cơ nhức mỏi nhưng mát-xa trăn lại được coi là liệu pháp khá kinh dị, thử thách sự gan dạ của khách hàng. Mỗi khách hàng sẽ được trải nghiệm cảm giác để cho 4 con trăn Miến Điện khổng lồ dài 5m, với tổng trọng lượng lên tới 250kg trườn ḅ lên khắp cơ thể. Theo hướng dẫn của nhân viên, khách hàng không được hà hơi hay hét toáng lên v́ các con trăn sẽ tưởng nhầm đó là con mồi mà tấn công.




Tuy nhiên, những con trăn được "tuyển dụng" thành "nhân viên mát-xa" đều là những con lành tính, không gây hại cho con người. Ban đầu, khách hàng thường có xu hướng sợ sệt chung nhưng chỉ một lần được trải nghiệm, họ đều cảm thấy hài ḷng và thích thú.




Có nguồn gốc xuất xứ từ Philippines, mát-xa trăn đă chính thực được ra mắt tại Vườn thú Cebu thuộc thành phố Cebu của quốc gia này từ tháng 5/2014. Cho tới tháng 1/2015 vừa qua, dịch vụ mát-xa trăn mới chính thức trở thành dịch vụ đem lại doanh thu cho vườn thú.




2. Mát-xa dao phay ở Đài Loan






Nhân viên dùng dao băm nhẹ lên cơ thể khách hàng






Mát-xa bằng dao phay chặt thịt trên đầu và mặt khách hàng.





Đối với người dân thành phố Tân Trúc, phía Bắc Đài Loan (Trung Hoa Dân Quốc), mát-xa dao phay là một h́nh thức trị liệu cổ truyền đă có lịch sử hơn 2.000 năm. Tuy nhiên, cho tới ngày nay, khách hàng vẫn có thể t́m tới phương pháp mát-xa dao tại thành phố lớn như Đài Bắc.




Dao phay bản to sau khi được mài sẽ được sử dụng làm công cụ để mát-xa trên cơ thể khách hàng. Động tác vỗ nhẹ hay miết cán dao có tác dụng lưu thông máu và thải độc tố đồng thời làm giảm cơn đau. Ngoài ra, người ta tin phương pháp trị liệu này c̣n có tác dụng chữa các bệnh măn tính như khớp, cột sống, mất ngủ hay tiêu hóa...




Mặc dù trông có vẻ nguy hiểm nhưng mát-xa dao được đảm bảo là không để lại chấn thương trong quá tŕnh trị liệu. Để quá tŕnh diễn ra như mong đợi, khách hàng phải nằm bất động hoàn toàn theo chỉ dẫn của nhân viên mát-xa.




3. Mát-xa voi ở Thái Lan






Một du khách được trải nghiệm cảm giác mát-xa bằng ṿi và chân voi.







Chỉ một bước hụt của "nhân viên mát-xa" khổng lồ thôi cũng có thể gây ra thương vong.




Để cho con voi nặng vài tấn "giày xéo" lên cơ thể quả là điều ít ai dám nghĩ tới nhưng thực chất, đó lại là một liệu pháp mát-xa giảm đau hữu hiệu tại một số thành phố lớn ở Thái Lan.




Trong đó, mỗi con voi có trọng lượng dao động từ 2 tới 5 tấn sẽ đảm nhiệm công việc mát-xa cho khách hàng. Qua quá tŕnh huấn luyện, voi sẽ dùng ṿi và chân để day lên từng phần trên cơ thể khách hàng.




Tuy nhiên, dù chỉ là một sơ suất nhỏ thôi, khách hàng cũng có thể bị chấn thương nghiêm trọng, dẫn tới tử vong. V́ vậy, mát-xa voi hiện vẫn đang được xem là một h́nh thức trị liệu trái phép tại quốc gia này.




4. Mát-xa tát ở Mỹ








Chuyên gia làm đẹp Tata Sombutham đang mát-xa tát cho một nữ khách hàng.




Thay v́ dùng đôi tay mềm mại để xoa bóp, bà lang người Thái Lan Tata Sombutham lại sử dụng cách "vả bôm bốp" vào mặt khách hàng với lời đảm bảo có tác dụng làm săn chắc cơ mặt, thu nhỏ lỗ chân lông và xóa nếp nhăn. Salon làm đẹp của cô tại San Francisco đă thu hút được rất nhiều khách hàng ưa cảm giác mạnh ghé thăm.




Sombutham cho biết, cô từng được đào tạo tại Thái Lan. Bằng cách tát, nắn bóp và xoa vào các vùng da điều trị, cô khẳng định rằng, khách hàng sẽ có được làn da khỏe mạnh ngay lập tức.




Hiện nay vẫn chưa có tài liệu khoa học nào chứng minh phương pháp trị liệu của Sombutham là có cơ sở nhưng y học vẫn thừa nhận, tát vào vùng da mặt có thể cải thiện lưu thông máu và làm da khỏe mạnh.




5. Mát-xa ốc sên









Một "nhân viên" ốc sên năng nổ đang mát-xa da cho khách hàng.

Cảm giác để cho một con vật mềm nhũn như ốc sên trườn ḅ trên mặt có lẽ sẽ khiến những người yếu tim như muốn ngất xỉu ngay tại chỗ. Thế nhưng, tại các spa làm đẹp trên thế giới, đây lại được coi là một phương pháp massage độc đáo có tác dụng làm giảm quá tŕnh lăo hóa da.




Chất nhầy sau khi được chiết xuất sẽ được làm sạch qua màng lọc rồi đem bảo quản lạnh. Khi ốc sên trườn ḅ trên mặt khách hàng, nhân viên của spa sẽ bỏ thêm chút muối vào dịch nhầy để làm tăng tính hiệu quả. Tuy nhiên, lượng muối này rất ít và không có khả năng gây hại cho ốc sên.




Theo các nhà nghiên cứu, dịch nhầy của ốc sên có chứa nhiều collagen, axit glycolic, kháng sinh và các hợp chất khác có tác dụng tái tạo tế bào da đồng thời làm lành vết thương. Với những ưu điểm vượt trội này, mát-xa ốc sên có thể coi là "Cuộc Cách mạng" lớn của ngành công nghiệp thẩm mỹ - làm đẹp.




(Nguồn: Tổng hợp)





Theo Chi Mai / Trí Thức Trẻ



at 11:42 AM







No comments:





Post a Comment







Newer Post Older Post Home



Subscribe to: Post Comments (Atom)










Người Phương Nam

Người Phương Nam





Blog Archive



► 2019 (503)




► 2018 (1685)












► 2017 (1773)












► 2016 (1943)












▼ 2015 (1914) ► December (163)
► November (175)
► October (175)
► September (157)
► August (167)
► July (160)
► June (145)
► May (157)
► April (162)
► March (159)
▼ February (151) Đóa Hoa Từ Tâm - Trầm Vân
Phự Nữ Thông Minh, Phụ Nữ Ngu Ngốc
Di Tích Lịch Sử của VN Xă Hội Chủ Nghĩa...
Ư Nghĩa Của 5 Ngón Tay
Xuân Đầy T́nh Nghĩa - Trầm Vân
Mồng Tám Giải Hạn Sao Thưa - Đỗ Công Luận
Bàn Về "Con Vịt" Đồ Hộp Thái Lan Nhiểm HIV - GS Hù...
Người Là Mùa Xuân - Chúc Anh - Mai Đằng - Tâm Thư ...
Tiếng Phone Reo - Trầm Vân
Mở Toang Cánh Cửa Mùa Xuân - Đỗ Công Luận
Tô Hủ Tiếu To Nhất VN: Kỷ Lục Của Sự... Háo Danh -...
Người Bỏ Báo - Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích
Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ: Quốc Gia Bá Quyền Cuối Cùn...
Nghệ Thuật Uốn Dẻo - Extreme Contortionist Stretch...
Đời Người Như Gió Qua - Phạm Thanh Chương
Ngày Mồng Sáu Tết Say Nhừ - Đỗ Công Luận
Dược Thảo, Lợi Hại Ra Sao? - Dr Liêu Vĩnh B́nh (Đ...
Thơ Người Phương Nam - PPS Marian Tran
Người Dân Xứ "Nẩu" - Sông Lô
Tự T́nh Mùa Xuân - Đỗ Công Luận
Sài G̣n, Cà Phê Và Nhạc Sến - Vũ Thế Thành
Tân Niên Họp Mặt Thầy Tṛ - Trầm Vân
Chuyện Khó Tin Nhưng Có Thật Về Trạm Vũ Trụ Quốc T...
SỨC KHOẺ : Dép Xỏ Ngón !
Ở Trọ Mùa Xuân - Trầm Vân
Vài Mẹo Vặt Khi Chơi Bài Ở CASINO.
Một Chút Tết Paris

florida80
04-15-2019, 18:51
Có tới 61% người cao tuổi bị suy dinh dưỡng, suy chức năng nên phải thường xuyên dùng thuốc. Tuy nhiên, việc lạm dụng có thể làm một số bệnh tật xuất hiện, nhất là khi cơ thể đă yếu do thời gian.



Trải qua gần cả cuộc đời, đấu tranh vật lộn với cuộc sống, chống chọi với ốm đau, tật bệnh, nói chung cơ thể con người ở tuổi xế chiều đều suy yếu, cần phải duy tu, bảo dưỡng. Việc dùng thuốc bổ là cần thiết. Thuốc bổ thường là các sinh tố, chất khoáng, acid amin, hợp chất đơn giản do chuyển hóa chất đạm tạo thành. Chúng có tác dụng làm trẻ hóa tế bào, tăng cường khả năng biến đổi thức ăn thành dưỡng chất nuôi cơ thể, bồi bổ xương khớp, chống loăng xương, gây tai nạn găy xương…


Thuốc bổ chống ôxy hóa


Nhóm thuốc bổ này có tác dụng làm tăng tuổi thọ tế bào, đề pḥng bệnh tật tuổi già như bệnh tim mạch, cao huyết áp, bệnh nhiễm trùng, rối loạn thị giác. Thành phần gồm có 4 chất: Bêta caroten (tiền sinh tố A) 5000 UI, sinh tố C 500 mg, sinh tố E 400 UI và Sêlênium.


Bêta caroten có tác dụng tăng trưởng đổi mới tế bào, tăng sức đề kháng của cơ thể, bảo vệ tế bào niêm mạc chống lăo hóa, ngăn ngừa ung thư, giảm tử vong ở bệnh tim mạch, chống thoái hóa điểm vàng, đục thủy tinh thể.



Sêlênium, chất xúc tác, hoạt hóa sinh tố E, ngăn cản sản sinh các gốc tự do thứ cấp.


Sinh tố E là chất dinh dưỡng thiết yếu cho cơ thể, ngăn ngừa bệnh măn tính như ung thư, bệnh tim mạch, thoái hóa thần kinh. Nhưng nếu dùng liều cao sẽ làm cạn kiệt sinh tố A, hoặc gây khó khăn cho việc hấp thu sinh tố D.


Sinh tố C có tác dụng chống lăo hóa, ngăn ngừa nhiễm trùng, giảm dị ứng, giúp cơ thể hấp thu tốt các chất vi lượng cần thiết. Tuy nhiên, nếu dùng quá 500 mg/ngày, chất này sẽ gây viêm loét dạ dày, ruột, viêm bàng quang, ống tiết niệu.





Acid amin



Có khoảng 20 acid amin rất cần cho cơ thể, trong đó có 8 acid amin thiết yếu buộc phải được cung cấp từ thức ăn, thức uống, đó là leucin, isoleucin, methionin, phenylmethionin, thionin, tryptophan, valin, và lysin.


Thuốc bổ chứa các acid amin được dùng để bổ sung các acid amin thiết yếu mà cơ thể có thể thiếu hụt. Riêng lysin có trong thành phần nhiều loại thuốc bổ, được bổ sung vào nhiều loại thức ăn v́ nó không những bổ trợ chất dinh dưỡng mà c̣n tham gia vào nhiều phản ứng chuyển hóa trong cơ thể, cải thiện t́nh trạng suy nhược.




Thiếu lysin sẽ sinh chứng chán ăn, rối loạn chuyển hóa chất béo, gây yếu cơ.




Thuốc bổ 3B



Thường được người cao tuổi uống để pḥng đau nhức thần kinh, cơ bắp, thấp khớp và suy dinh dưỡng. Liều lượng phối hợp thường là 123-250 mg sinh tố B1; 125-250 mg sinh tố B6 và 1.000 mg sinh tố B12 trong 1 viên. Các chế phẩm đều có hàm lượng thành phần ở mức gấp hàng trăm lần nhu cầu b́nh thường hằng ngày. Khi sử dụng thuốc bổ 3B này cần chú ư:


Việc sử dụng sinh tố B1 kéo dài hay liều cao có thể gây bệnh Pellagra (do thiếu sinh tố PP), viêm miệng (thiếu sinh tố B2), dễ dị ứng, phù Quink, bị ban đỏ và choáng.




Việc sử dụng sinh tố B6 ở liều 1 g/ngày kéo dài hàng tháng sẽ gây thừa sinh tố, làm viêm dây thần kinh, giảm trí nhớ, giảm tiết prolactin, làm tăng transaminase.




Việc sử dụng sinh tố B12 ở liều cao, sử dụng liên tục sẽ tích lũy ở gan, gây các triệu chứng thừa cobalt, gây tăng sản lượng tuyến giáp, gây bệnh cơ tim và tăng hồng cầu quá mức.




Thuốc bổ đa sinh tố

Một số người dùng thuốc này để tự bồi dưỡng v́ cho rằng sẽ đảm bảo cung cấp đầy đủ các sinh tố cho cơ thể. Nhưng ít người biết rằng sử dụng thuốc đa sinh tố trong thời gian dài sẽ gây những phản ứng phụ do thừa một vài sinh tố nào đó. Nếu sử dụng dài ngày và dùng liều cao phải lưu ư:




Liều cao sinh tố E dễ sinh suy kiệt sinh tố A hoặc làm giảm hấp thu sinh tố K.




Thừa sinh tố D sẽ gây tăng canxi máu, gây canxi hóa mô mềm, xương hóa sụn sớm, suy thận.




Thừa sinh tố A sẽ gây nhức đầu, tăng áp lực nội sọ, viêm da, dễ tử vong.




Một vài chế phẩm như campozyme, geritol complete… có cả thành phần sinh tố K, dễ có nguy cơ tăng đông máu ở những người có bệnh tim mạch. Sinh tố này chỉ cần thiết ở trẻ em, v́ hệ vi khuẩn đường ruột chưa phát triển hoàn toàn hoặc ở những người mà sinh tố K không hấp thụ được (do uống kháng sinh dài ngày, gây hủy hoại hệ vi khuẩn ruột).




Dùng quá liều sinh tố PP (acid nicotinic) sẽ tăng khả năng đông máu, gây tắc mạch, co thắt động mạch, tăng huyết áp.




Thuốc bổ sinh tố C

Thường được dùng để tăng sức đề kháng của cơ thể, chống chảy máu chân răng, chống lăo hóa, giảm dị ứng, nhiễm trùng. Loại thuốc này thường được bào chế ở dạng viên sủi, thơm ngon, tác dụng nhanh, dễ sử dụng. Nhưng cũng cần lưu ư:




- Đường làm ngọt là đường tổng hợp aspartam, phải cẩn thận trong trường hợp phênylxeton niệu.




- Không được dùng cho bệnh nhân kiêng muối v́ thành phần có một lượng lớn muối kiềm, có thể gây kiềm huyết.




- Việc dùng trên 1000 mg/ngày trở lên có thể viêm loét dạ dày, ruột, gây tiêu chảy, viêm bàng quang, ống tiết niệu, do acid ascorbic.




- Dùng trên 2 g/ngày sẽ gây mất ngủ, tạo sỏi oxalat, ức chế bài tiết insulin, tăng huyết áp, tổn thương thận do tăng tổng hợp corticoit và catecholamin.




Thuốc bổ đa khoáng chất

Là thuốc bổ đa sinh tố, được bổ sung thêm khoáng chất nên cần lưu ư:




Thừa cobalt sẽ có nguy cơ rối loạn tuyến giáp và tim.




Thừa chất sắt gây ngộ độc, viêm dạ dày ruột cấp, tiêu chảy, phân đen.




Thừa iốt (lớn hơn 6 mg/ngày), gây ức chế hoạt động tuyến giáp, gây nhược giáp.




Thừa kẽm sẽ cản trở việc hấp thu, sử dụng đồng và sắt.




Thừa molypden sẽ tăng đào thải chất đồng.




Thuốc bổ chống loăng xương

Người cao tuổi xương bị xốp, dễ găy, chỉ trượt ngă nhẹ cũng có thể găy xương. Thuốc bổ nhóm này là thuốc bổ hỗn hợp giữa canxi và sinh tố D. Nếu sử dụng lạm dụng sẽ tăng canxi máu, gây vôi hóa mô mềm, xương hóa sụn và suy thận.




Thuốc bổ trợ giúp tiêu hóa

Loại thuốc này thường kết hợp các enzym giúp tiêu hóa thức ăn như amylase, lipase, protease hoặc kết hợp với enzym tuyến tuỵ, chiết xuất từ mật ḅ và các chất chống đầy hơi như dimethicone.





(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)



at 1:34 AM

florida80
04-15-2019, 18:54
:thankyou::handshake ::hafppy:

florida80
04-15-2019, 18:55
1. Ngón cái:

Đây là yếu tố quan trọng nhất của ban tay. Một ngón cái yếu ớt hay mạnh mẽ cho thấy một tính cách tương tự. Nếu ngón cái to đến thống lĩnh cả bàn tay, đó là người thích cai trị.

Ngón cái trung b́nh bắt đầu từ giữa bàn tay, dài tương đương ngón út, cho thấy một cái tôi ôn ḥa, nhạy cảm trước nhu cầu của người khác, và có thể nói giùm họ nếu cần.

Ngón cái cao đến gần đốt giữa ngón trỏ cho thấy một cái tôi quá đáng, nếu to ngang nữa th́ người này nhiều tham vọng và quyết đạt mục tiêu. C̣n ngón cái dài nhưng thon thể hiện người có tham vọng không rơ ràng v́ thiếu động cơ.

Ngón cái thấp thể hiện người thực tế, có thể không trí thức lắm và một cái tôi bé nhỏ.

Ngón cái có hai phần, nếu phần trên dài hơn, trái tim sẽ điều khiển cái đầu. Ngược lại, bạn là người chỉ dựa vào lư trí. Phần trên cồng kềnh hay nặng nề chứng tỏ người này rất ngoan cố trong những đ̣i hỏi, thậm chí có thể hiếp đáp người khác.

Ngón cái càng dẻo, ứng xử càng linh hoạt. Ngón cái cứng nhắc cho thấy một người khó thay đổi nhưng đáng tin cậy. Tuy nhiên, một ngón cái có thể uốn cong cảnh báo một khả năng phóng đại sự thật.




2. Ngón trỏ:

Thể hiện mức độ kiêu hănh. Ngón càng dài, sự kiêu hănh càng cao, có thể dẫn đến kiêu ngạo. Những người này tin rằng ḿnh luôn đúng. Đây là mẫu người làm lănh đạo, luôn khát khao quyền lực.

Ngón trỏ ngắn thể hiện người thích theo đuôi người khác. Họ thường rất e ngại, khó có quyết định riêng v́ sợ mất mặt. Ngón trỏ trung b́nh cho thấy sự tự tin vừa đúng mức.




3. Ngón giữa:

Thể hiện người có tinh thần trách nhiệm. Người có ngón giữa càng dài rất đáng tin cậy, có xu hướng nhận lấy nhiều gánh nặng trên vai ḿnh. Có thể v́ vậy mà suy nghĩ về cuộc đời có phần kém tươi.

Ngón giữa ngắn cho thấy người hay né tránh trách nhiệm. Đặc biệt, một ngón giữa rất ngắn là biểu hiện của “bệnh” không thể hết ḿnh. Mẫu người này khó có thể nảy sinh ư muốn lập gia đ́nh.




4. Ngón đeo nhẫn:

Thể hiện khả năng sáng tạo và cảm xúc. Ngón này có chiều dài trung b́nh cho thấy đó là một người có tính nghệ sĩ vừa mức, cảm xúc thăng bằng.

Ngón này dài sẽ biểu hiện một người không xa lạ với những xúc cảm quá căng, có vẻ như c̣n lớn hơn cả cuộc đời họ.

Ngón đeo nhẫn ngắn cho thấy người này có vẻ khá thờ ơ và phải rất vất vả mới thể hiện được cảm xúc của ḿnh. Họ cũng cảm thấy khó mà chấp nhận được những nhu cầu cảm xúc của người khác.




5. Ngón út:

Thể hiện khả năng giao tiếp của bạn. Để xác định chiều dài ngón út, nên cụp bàn tay lại sao cho chân các ngón bằng nhau và so ngón út với ngón đeo nhẫn. Một ngón út trung b́nh sẽ chạm tới vạch đốt trên của ngón đeo nhẫn, cho thấy đối tượng ít gặp khó khăn trong giao tiếp.

Ngón út dài là dấu hiệu của một nhà ngoại giao hạng siêu, có thể “tán” chuyện và chắc chắn sôi nổi, cũng có thể thông minh vượt mức. Người có ngón út ngắn ngại giao tiếp, có thể hơi trẻ con trong giọng nói, cách nói.

Ngón út có dáng thẳng thể hiện sự trung thực. Một ngón út khúc khuỷu thể hiện người phóng đại hoặc tệ hơn là dối trá.

Ngón út cách biệt hẳn với những ngón khác th́ chứng tỏ người đó có tinh thần tự lập rất cao.




Sưu tầm

florida80
04-15-2019, 18:58
Mắt Cũng Cần… “Thể Dục”







(Dân trí) - Ngay cả khi có thị lực 10/10, việc chăm sóc đôi mắt vẫn rất quan trọng. Và dù bạn tin hay không, việc tập luyện cho đôi mắt cũng quan trọng như việc luyện tập những bộ phận c̣n lại của cơ thể.




Việc chăm sóc đôi mắt nên được ưu tiên hàng đầu, đặc biệt, nếu bạn dành phần lớn thời gian ngồi trước máy tính, điện thoại hoặc màn h́nh ti vi. Và nếu nh́n chằm chằm vào máy tính trong thời gian dài th́ có thể khiến toàn bộ cơ thể trở nên mệt mỏi, chứ không riêng ǵ mắt.




Tập luyện cho đôi mắt rất quan trọng




TS. Keki Mehta, bác sĩ chuyên khoa Mắt, giải thích: “Những bài tập mắt rất tốt cả về mặt cơ học và quang học. Nó sẽ cải thiện sự ổn định cơ học của mắt bằng cách phối hợp và tăng cường các cơ mắt, làm tăng khả năng tập trung của mắt. Về mặt quang học, tập luyện mắt giúp cải thiện h́nh ảnh quang học phối hợp giữa hai mắt, giúp mắt chuyển tiếp một h́nh ảnh ba chiều chính xác đến năo. Sau đó, sẽ gửi một tín hiệu khiến chúng ta nh́n rơ h́nh ảnh”.




Tuy các bài tập cho mắt có thể không giúp bạn giảm sự lệ thuộc vào kính, nhưng nó rất cần thiết nếu bạn muốn có một đôi mắt khỏe. Đôi mắt của bạn cũng giống như bất kỳ phần nào khác của cơ thể - chúng cần được nghỉ ngơi và phục hồi sau một ngày làm việc.




Tập luyện đôi mắt thường xuyên chắc chắn sẽ giúp bạn không cảm thấy mệt mỏi vào cuối ngày và đảm bảo rằng đôi mắt của bạn luôn trong trẻo.




Nguyên nhân của mỏi mắt




Đọc sách trong điều kiện không đủ sáng dẫn đến căng thẳng. Điều này là do đồng tử mắt phải giăn ra để cho phép nhiều ánh sáng vào mắt. Căng thẳng đôi mắt có thể dẫn đến nhức đầu dai dẳng, mệt mỏi, mờ mắt và mất khả năng tập trung.




Một trong những nguyên nhân phổ biến nhất của sự mệt mỏi của đôi mắt là nh́n quá lâu vào các thiết bị kỹ thuật số như màn h́nh máy tính, điện thoại thông minh hoặc các tṛ chơi video.




T́nh trạng mỏi mắt được gọi là hội chứng thị lực máy tính. Nó ảnh hưởng đến khoảng 50-90 % nhân viên phải thường xuyên làm việc với máy tính. Tiếp xúc với ánh sáng quá chói hoặc nh́n chằm chằm vào một vật ǵ đo rất có hại cho mắt.




Ngoài ra, bất kỳ hoạt động nào khiến bạn phải tập trung cao độ trong thời gian dài có thể làm giảm tần số chớp mắt, dẫn đến khô mắt. Đây là lư do tại sao mắt bạn thường mỏi khi đọc trên đường đi hoặc đọc trong ánh sáng mờ.




Các bài tập cho đôi mắt




Đảo mắt: Đảo mắt theo chiều kim đồng hồ và sau đó đảo theo chiều ngược lại. Lặp lại sau 30 phút. Điều này đặc biệt cần thiết nếu bạn đang ngồi trước màn h́nh máy tính hoặc phải nghiên cứu trong nhiều giờ.




Che sáng: Nhắm mắt lại và dùng khum bàn tay của bạn che ánh sáng cho mắt. Tránh áp đẩy lực lên nhăn cầu. Điều này giúp thư giăn và xóa tan mệt mỏi cho đôi mắt.




Tập trung: Tập trung vào một vật xa bạn trong khoảng nửa phút. Cố gắng duy tŕ sự tập trung, sau đó chớp mắt nhanh nhiều lần. Tiếp theo, tập trung vào một vật gần đó trong khoảng 15 giây, rồi chớp mắt nhanh và nhiều lần. Thực hiện động tác này khoảng 10 lần.




Mai Phương

Theo The time of India



at 4:57 PM

florida80
04-15-2019, 19:02
8 Loại Rau Bạn Chỉ Cần Mua 1 Lần




Những loại rau quen thuộc này lại có cách trồng dễ một cách bất ngờ!


Ngày nay, bạn có thể dễ dàng mua nhiều loại rau ưa thích từ chợ và siêu thị. Thế nhưng, không phải lúc nào rau bạn mua cũng an toàn, do đó hăy tự trồng cho ḿnh một vườn rau nhỏ tại nhà với phương pháp dưới đây nhé!




1. Hành lá:









Khi nấu ăn, bạn hăy giữ lại phần rễ và khoảng 3cm phần ngọn non, ngâm chúng vào một cốc thủy tinh chứa nước và để nơi có ánh sáng. Chỉ vài ngày sau, nhánh hành đă bị cắt sẽ mọc lại phần lá xanh tươi hơn. Khi cần dùng, bạn chỉ cần cắt phần ngọn ra ăn, để phần gốc hành trong cốc nước để trồng tiếp nhé! Nếu muốn cây đẻ nhánh và lên tươi tốt th́ bạn nên nhấc ra trồng ở đất sau 5 ngày.




2. Tỏi:









Mầm tỏi mọc từ các tép tỏi, mỗi tép sẽ phát triển thành một cây con. Khi tỏi bắt đầu mọc mầm, bạn hăy đặt chúng vào một cái đĩa sâu ḷng với một chút nước. Khi mầm tỏi nhô tương đối cứng cáp, bạn có thể trồng chúng xuống đất vườn hoặc trồng trong các thùng xốp, lấp đất kín các tép tỏi. Rễ tỏi sẽ phát triển nhanh và mạnh nếu gặp thời tiết ấm áp.




3. Cải th́a:









Cắt bỏ phần lá phía trên để chế biến như b́nh thường và giữ lại khoảng 2cm phần thân sát gốc. Đặt gốc cải vào trong một bát nước ấm nhỏ sao cho chỉ ngập 2/3 là hợp lư. Sau 1 tuần ngâm trong nước, bạn có thể chuyển chúng ra trồng trong đất vườn hoặc trong các chậu tùy thích để giúp cây hấp thụ đầy đủ chất dinh dưỡng hơn.




4. Cà rốt:









Giữ lại 3cm phần đầu của củ cà rốt, đặt vào khay có chứa nước, để khay ở trong pḥng có ánh sáng tốt hoặc trên bệ cửa sổ. Sau vài ngày, phần lá xanh sẽ mọc tươi tốt th́ bạn chuyển ra trồng ở đất nhé! Cà rốt sẽ cho củ sau khoảng 3 tháng.




5. Húng quế:









Đặt ngọn húng quế dài 5 – 7cm vào cốc nước, sau đó đặt dưới ánh sáng Mặt trời trực tiếp. Khi rễ mới mọc ra dài đến 5cm, bạn chuyển chúng vào chậu. Sau một thời gian, những nhánh đó sẽ phát triển đầy đủ thành cây húng quế. Bạn nhớ thay nước liên tục để cây không bị thối nhé!




6. Cần tây:









Giữ lại phần gốc, rửa sạch và đặt vào trong một chiếc đĩa hoặc bát nước ấm, rồi để nơi đầy đủ ánh nắng. Bạn lưu ư để phần gốc ch́m trong nước và phần thân đă bị cắt hướng lên trên. Sau thời gian ươm mầm 5 - 7 ngày, bạn chuyển gốc cây cần tây sang trồng trong đất. Bạn có thể trồng ở bất kỳ nơi nào trong vườn hoặc trong các loại chậu tùy thích.




7. Xà lách:









Đặt gốc rau xà lách ngập ½ trong nước, đảm bảo giữ nước ở mức này, nếu để ngập hết gốc, xà lách sẽ bị thối, không thể mọc mầm và cho lá. Khi rễ mới xuất hiện, bạn chuyển cây vào đất, các lá xà lách sẽ phát triển kích thước rất nhanh trong điều kiện thoáng mát, đủ ánh sáng mà không cần bón thêm bất kỳ loại phân bón nào. Bạn có thể trồng bắp cải bằng cách tương tự nhé!




8. Rau mùi:









Nếu đặt nhánh rau mùi trong cốc nước, chúng sẽ phát triển thành cây. Ươm đến khi rễ đủ dài, trồng rau vào chậu đất. Đặt chậu ở nơi có nhiều ánh sáng, cung cấp đủ nước. Rau sẽ mọc rất tốt sau khoảng một tháng.




Mách nhỏ: nếu muốn cây phát triển tốt, các bạn có thể sử dụng thêm gói dưỡng chất thủy canh có bán tại các trường Học viện Nông Nghiệp và một số hàng cây cảnh.






Nguồn: Sưu tầm



Theo Dorayaki / Trí Thức Trẻ



at 9:45 PM







No comments:

florida80
04-16-2019, 19:16
Đường Hóa Học Lợi Hại Ra Sao? (tài liệu BBC) - GS Hùynh Chiếu Đẳng
















Nhắc lại bài được một người Việt Nam viết năm rồi (2014) gởi rần rần qua email, phe ta "phổ biến làm phước" như điên, nay trích lại để các bạn lở uống đường hóa học "đọc mà run" chơi
(bắt đầu trích -- >)







Đường Hóa Học Và Diet Soda, Giết Người Không Gươm Đao
Tôi xóa tên tác giả- (Phỏng dịch theo một bài viết trên Internet.)

Tháng 10 năm 2001, em gái tôi bắt đầu trở bệnh. Cô ấy bị những chứng co giật trong bao tử và cảm thấy đi đứng rất khó khăn. Mỗi lần bước ra khỏi giường, cô ấy đă phải cố gắng lắm mới nhấc ḿnh lên được v́ đau đớn. Đến tháng 3 năm 2002, em tôi đă phải trải qua nhiều lần lấy mẫu nội tạng ra thử nghiệm đồng thời phải uống cả tá thuốc mỗi ngày. Các bác sĩ không thể định bệnh được. Em tôi đau đớn quá chừng và biết rằng ḿnh sắp chết v́ không ai t́m ra phương pháp chữa bệnh.


Để chắc chắn rằng những đứa con ḿnh được săn sóc đầy đủ sau khi cô qua đời, em tôi để tên đứa con gái lớn vào tất cả các trương mục ngân hàng, nhà cửa, bảo hiểm nhân thọ của ḿnh. Nhưng truớc khi qua đời, cô ấy muốn làm một chuyến du lịch cuối cùng qua Florida trong chiếc xe lăn của cô ấy vào ngày 22 tháng 3 năm ấy. Vào ngày 19 tháng 3, tôi gọi đến cô để xem kết quả định bệnh ra sao, em tôi cho biết bác sĩ không t́m ra nguyên nhân ǵ, chỉ biết rằng cô ấy bị triệu chứng co giật bắp thịt liên tục.


Tôi chợt nhớ lại một người bạn tôi, một luật sư, đă từng điện thư hỏi tôi xem em gái tôi có hay uống "diet soda" (nước ngọt dành cho người ăn kiêng) hay không, tôi vội điện thoại hỏi em ngay th́ được biết cô vẫn uống loại nước này thường xuyên. Thực tế, lúc ấy, em tôi đang sắp mở một chai nước ngọt khác để uống. Vội vàng, tôi nói em tôi ngừng ngay lập tức, không được uống thứ nước ấy nữa, rồi sau đó, tôi chuyển bức điện thư của người bạn tôi cho cô ấy đọc.


Chỉ trong khoảng 32 tiếng đồng hồ sau, em tôi gọi điện thoại cho tôi biết cô ấy đă ngừng uống loại nước dành cho người ăn kiêng ấy từ lúc đó, và giờ đây, em tôi đă có thể đi đứng được một ḿnh!


Những cơn đau co giật đă ngừng. Mặc dầu, cô chưa hết triệu chứng 100% nhưng cô đă cảm thấy nhiều phần khỏe hơn. Cô em tôi cho biết cô sẽ đến bác sĩ, đưa cho ông ấy xem bức điện thư này và sẽ gọi tôi khi về đến nhà.


Thật là kinh ngạc! Vị bác sĩ ấy đă gọi điện thoại cho tất cả những bệnh nhân co giật của ông và khám phá thấy rằng hầu như tất cả đều có uống "Diet Soda" hoặc các chất có đường nhân tạo đủ loại...


Nói vắn tắt lại, cô em tôi đă bị đầu độc bởi "Aspartame", một hợp chất đường hóa học, trong các chai nước uống dành cho người ăn kiêng, và chút nữa th́ đă ra nguời thiên cổ...


Khi cô đến Floria vào ngày 22 tháng 3, tất cả việc điều trị của cô chỉ là uống một viên thuốc trị bệnh ngộ độc v́ đường hóa học. Em tôi, sau đó, đă hoàn toàn b́nh phục, giă từ chiếc xe lăn cọc cạch...


Như vậy, chúng ta đừng bao giờ nghĩ đến việc ăn hay uống những loại thực phẩm, nước uống có chữ "Sugar Free" (Không có chất Đường) trên nhăn hiệu.


Bản thân tôi, đă liên tục thuyết tŕnh trong các cuộc hội thảo về đề tài "Aspartame" được viết dưới dạng "NutraSweet" , "Equal", hay "Spoonful".. .


Trong cuộc hội thảo của Tổ Chức An B́nh Thế Giới (EPA) mới đây, khi nghe một bản thông báo là số người bị các chứng "multiple sclerosis" (co giật) va "lupus" (lở da) đă gia tăng một cách đáng ngại mà người ta lại không t́m ra được nguyên nhân ǵ hay độc chất ǵ đă gây ra triệu chứng này, tôi đă đứng dậy, phát biểu ngay rằng:


Khi nhiệt độ của những chất ngọt này tăng lên đến 86 độ F, chất "alcohol" (phân tử ruợu) trong Aspartame (đường hóa học) phân hóa thành "formaldehyde" (chất hơi không mùi) rồi biến thành "Formic acid", sau đó thành "Metabolic Acidosis". Chất "Formic acid" là chất độc được t́m thấy trong ng̣i chích của con kiến lửa. Chất độc loại "Methanol" này đă bắt chước, trong các điều kiện khác nhau, và tạo ra sự rung giật bắp thịt hay sự lở da.


Rất nhiều người đă bị định bệnh sai lầm. Mặc dầu sự rung giật bắp thịt không dẫn đến tử vong, nhưng chất độc loại "Methanol" th́ gây ra việc đó. Sự lở da một cách có hệ thống đă trở thành hung ác cũng y như sự rung giật bắp thịt, đặc biệt với những người từng uống nhiều "loong" có chữ "Diet" (ăn kiêng). Những người uống nhiều loại này không biết rằng đường hóa học là thủ phạm gây ra các bệnh trên. Họ cứ uống tràn, cho đến khi trở thành người hấp hối. Nhưng chúng tôi cũng đă từng chứng kiến nhiều người tưởng đă "ngoẻo" nhưng lại hết ngay triệu chứng, một khi ngưng dùng các loại thực phẩm ăn kiêng như thế.


.... Các chai nước uống có chữ "diet soda", thực ra, không phải loại ăn kiêng. Đó chỉ là một chất hóa học được biến cải, một loại muối nhiều (multiple sodium), và chất "Aspartame" (đường hóa học) trữ một loại sản phẩm khiến ta thèm chất "carbohydrates" . Việc này cũng giống hệt như là việc chúng ta tự tăng thêm kí lô vậy!


Những sản phẩm này chứa chất "Formaldehyde" (chất hơi không mùi), là chất nằm trong các tế bào mỡ, đặc biệt ở háng và ở đùi. Chất hơi không mùi thực sự là một chất độc và chuyên dùng trong việc bảo quản các mẫu sinh học....


....Hiện nay có trên 5000 sản phẩm bán ngoài thị trường có chứa những chất độc loại này và sẽ có hàng ngàn loại khác sắp ra đời...


Báo New York Time đă đưa vấn đề này ra mặt báo...


Thượng nghị Sĩ Howard Metzenbaum đă viết một dự luật đề nghị là phải có một lời cảnh báo được in trên các nhăn hiệu của các sản phẩm có chứa chất "Aspartame", đặc biệt lưu ư các người mang thai, thiếu niên và trẻ em. Dự luật cũng đ̣i hỏi phải có những cơ sở độc lập nghiên cứu về những nguy hiểm và trở ngại trong các sản phẩm có sự hiện diện của các chất này gây ra các chứng co giật, thay đổi trong năo bộ và hệ thần kinh, cùng các biến chứng về tính cách. Dự luật này bị d́m chết... Chúng ta đều biết rằng các cơ sở chế tạo chất hóa học và thuốc men là những thế lực "chạy chọt hậu trường" rất mạnh...(< -- hết trích)



====

HCD: Thưa các bạn đó là bài từ tiếng Anh, tác giả nào đó dịch ra, tiếc rằng bài trên được nhiều webpage "nấu cháo vịt lâu rồi" Nhiều tác giả Việt Nam dịch mà không kiểm kỹ, loan tin vịt làm bà con khi đọc "ướt quần" cũng bộn. Và lâu nay nhiều vị không may mắc tiểu đường đọc bài trên xong, sợ quá, bèn "sống kham khổ", thèm cà phê chỉ dám uống đắng, thèm bánh ngọt mà không dám ăn kể cả loại "no sugar"... đó là hai cái hại nho nhỏ kể ra thí dụ để các bạn thấy tin theo vịt nói th́ tai hại cở nào, có khi tin và làm theo những con vịt "bày thuốc" mà mất cả sinh mệnh.


Đó cũng là một trong những lư do tôi bắt vịt, bạn nào không thích loạt email bắt vịt xin thông cảm giùm.


Thôi th́ để các bạn đở sợ, mời đọc bài của đài BBC (người Anh viết, và đài BBC Anh xưa nay có những tài liệu rất giá trị) Hôm nay là ngày 01-Mar-2015


(bắt đầu trích -- >)


Đường hoá học lợi hay hại cho sức khoẻ?
Claudia Hammond 5 giờ trước






Ngành công nghiệp thực phẩm dùng nhiều loại chất tạo ngọt thay thế cho đường trong đồ dành cho người ăn kiêng. Những chất này có an toàn không? Claudia Hammond t́m hiểu.





Nhiều người chọn mua loại thức uống, đồ ăn dành cho người kiêng khem (diet) nhằm giảm bớt lượng đường vào người.


Người tiêu dùng nhận thức được ngày càng rơ hơn về an toàn sức khoẻ. Thế nhưng các loại chất tạo ngọt, c̣n được gọi là đường hoá học, hay đường nhân tạo, có hại cho sức khoẻ con người hay không?


‘Không gây ung thư’


Aspartame có lẽ là loại đường hoá học được biết đến nhiều nhất và là thứ bị báo chí nói về tác hại nhiều nhất.


Nó là một thứ thay thế đường, là một loại acid béo được tạo ra từ acid aspartic và phenylalanine.


Aspartame hầu như không gây ra tác hại ǵ là bởi aspartame hầu như không trực tiếp hấp thụ vào hệ tuần hoàn mà nhanh chóng được phân tách thành những sản phẩm phụ.









Hồi năm 1996, một tờ báo có nêu ư kiến về nguy cơ gia tăng mắc bệnh u năo có thể liên quan đến việc lạm dụng aspartame.
Nỗi sợ cứ kéo dài và người ta c̣n nói tới cả các loại ung thư khác nữa. Nỗi lo khiến Viện Ung Bướu Quốc Gia Hoa Kỳ tiến hành nghiên cứu diện rộng với sự tham gia của nửa triệu người, và kết quả được công bố vào năm 2006.


Nghiên cứu cho thấy những người dùng aspartame không có nguy cơ cao hơn trong việc mắc các bệnh ung thư năo, bệnh bạch cầu hoặc u bạch huyết.


Tương tự, Cục An Toàn Thực Phẩm Châu Âu cũng tiến hành phân tích toàn diện nhất những bằng chứng có được cho đến nay và kết luận rằng nếu dùng trong mức khuyến nghị (40mg cho 1 kg trọng lượng cơ thể), th́ chất này an toàn, ngay cả đối với trẻ em và phụ nữ có thai.


Lư do aspartame hầu như không gây ra tác hại ǵ là bởi aspartame hầu như không trực tiếp hấp thụ vào hệ tuần hoàn mà nhanh chóng được phân tách thành những sản phẩm phụ.


Chỉ có một ngoại lệ. Những người bị rối loạn gen (hiếm gặp), gọi là bệnh phenylketonuria hoặc PKU, không thể hấp thụ phenylalanine, một trong những sản phẩm phụ của aspartame, và với họ việc sử dụng aspartame sẽ không an toàn.


Đó là lư do v́ sao các thực phẩm có dùng chất tạo vị ngọt đều được dán nhăn rơ ràng với lời cảnh báo có thành phần phenylalanine.


‘Tốt cho răng’


Có một số loại đường hoá học gây tác dụng phụ. Nếu bạn từng ăn quá nhiều bạc hà không đường có chứa xylitol th́ có thể bạn đă cảm nhận được điều này.


Xylitol là một loại carbohydrate làm từ cây bạch dương và các cây gỗ cứng khác. Lượng calorie của nó ít hơn đường 30% và nó để lại một dư vị, và nếu bạn dùng nhiều quá nó có thể giữ nước và gây tiêu chảy.


Nhưng có bằng chứng làm phấn khích các nha sỹ là chất này có thể giúp pḥng ngừa sâu răng. Kẹo cao su hoặc gọi là bạc hà ngọt có xylitol có biểu hiện làm giảm độ acid đóng cao răng.


Chất ngọt mới nhất trong loại này được chiết xuất từ cây stevia, tuy nhiên nó không thực sự là phát hiện mới.


Ở Paraguay và Brazil, cây stevia vẫn được dùng làm thuốc từ hàng trăm năm nay. Nó không có calorie và ngọt hơn đường 300 lần. Ở Nhật Bản, nó là thứ chất ngọt được bán hơn 40 năm nay.


Là cây sinh ra ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới ở Nam Mỹ và Mỹ Latin, hợp chất ngọt được gọi là steviol glycosides được chiết xuất từ lá của cây này bằng cách dùng chân đạp lá trong nước.


Hợp chất này vào cơ thể ta mà không bị hấp thụ. Stevia được cho phép sử dụng làm phụ gia thực phẩm ở Mỹ năm 2008 và ở Châu Âu năm 2011.







Nhưng steviol glysocides có an toàn không?

Cục An Toàn Thực Phẩm Châu Âu cho là có, sau khi họ tiến hành phân tích tất cả những bằng chứng thu được từ các thử nghiệm trên con người và động vật trong năm 2010.

Cơ quan này kết luận là những hợp chất này không gây ung thư, không độc hại, an toàn cho trẻ em và phụ nữ có thai.




Giúp chống béo ph́?

Người ta đă rất hy vọng là đường hoá học sẽ giúp con người thỏa cơn hảo ngọt mà không bị tăng cân hay mắc chứng tiểu đường.









Tuy nhiên, các chất có vị ngọt thay thế cho đường đă tồn tại được một thời gian nhưng cho đến nay dường như chúng không giúp ngăn được nạn béo ph́.

Các nhà khoa học vẫn c̣n chưa biết liệu có hậu quả ǵ hay không khi mà năo bộ ghi nhận được việc ta ăn chất có vị ngọt, nhưng cơ thể lại không nhận được tác dụng muốn có. Họ quan ngại rằng rất có thể đường hoá học đă đánh lừa được cơ thể khiến ta tiết ra quá nhiều insuline, là chất khiến tăng cân.

Hiện chưa thể khẳng định là điều này có xẩy ra hay không. Nhưng theo Cục An Toàn Thực Phẩm Châu Âu th́ không đủ bằng chứng để nói stevia giúp đạt được hoặc duy tŕ trọng lượng lành mạnh cho cơ thể.

Giúp chống bệnh tiểu đường?
Chất có vị ngọt có vẻ như không đáng để bị tiếng xấu.
Tuy nhiên, năm nay một số nghiên cứu mới từ Israel được công bố cho thấy các chất đường nhân tạo aspartame, saccharin và sucralose không những không giúp ta pḥng chống tiểu đường Loại 2 mà có thể làm bệnh tăng hơn.
Trong một nghiên cứu, các con chuột khỏe mạnh được cho uống nước có pha một trong ba chất ngọt hoá học nói trên.
Khi đo mức glucose trong máu chuột, các nhà nghiên cứu thấy những con chuột uống nước pha đường hoá học th́ có biểu hiện không dung nạp glucose, là t́nh trạng đi kèm với bệnh tiểu đường Loại 2, trong khi đó các con chuột uống nước không có đường hoặc nước pha đường thường th́ không bị.
Có vẻ như vẫn c̣n quá sớm để chúng ta có được sản phẩm hoàn toàn thay thế cho đồ uống có đường
Lư do là ở những vi khuẩn trong ruột; nếu chuột tiêu thụ chất tạo vị ngọt th́ vi khuẩn đường ruột của chúng bị thay đổi.
Những kết quả đối với chuột không thể lúc nào cũng quy chiếu sang con người, và chế độ ăn thông thường của một con chuột tất nhiên cũng rất khác với chế độ ăn của người.
Ở bước thứ hai, các nhà nghiên cứu đă tiến hành thử nghiệm ở người, bằng cách cho các đối tượng tham gia dùng saccharin ở mức cao nhất cho phép, tương đương với 40 lon nước ngọt dạng kiêng khem (diet).
Trong ṿng năm ngày, hơn nửa các đối tượng ít nhiều có biểu hiện không dung nạp glucose. Điều đáng chú ư là những người này có vi khuẩn đường ruột khác biệt.
Sau đó, trong bước tiếp theo, các nhà nghiên cứu tiến hành cấy ghép phân của người sang chuột.

Kết quả là những con chuột được cấy phân từ người không dung nạp glucose cũng trở nên không dung nạp chất này, cho thấy vi khuẩn đường ruột là yếu tố chính.

Tuy nhiên, trước khi chúng ta khẳng định rằng chất có vị ngọt rốt cuộc là có hại, th́ đây chỉ là một nghiên cứu đơn lẻ thực hiện chủ yếu với chuột, với vẻn vẹn chỉ có bẩy người tham gia thử nghiệm.






Ngay cả các tác giả cũng thừa nhận là cần phải t́m hiểu thêm. Nghiên cứu này không nói được ǵ về tác động lâu dài của chất có vị ngọt đối với con người.
Năm 2013, một nghiên cứu quy mô lớn với 300.000 người từ tám nước Châu Âu cho thấy không có sự liên kết ǵ giữa việc mắc bệnh tiểu đường Loại 2 với việc ăn hoặc uống chất ngọt nhân tạo.


Có một bài học từ tất cả những nghiên cứu trên. Đó là không có một loại “chất có vị ngọt” nào là tốt hoặc là xấu cả. Từng loại thứ đều rất khác nhau và cần được nghiên cứu và xem xét tách biệt.


Khi xem xét tất cả những bằng chứng này, th́ có vẻ như vẫn c̣n quá sớm để chúng ta có được sản phẩm hoàn toàn thay thế cho đồ uống có đường.


Nội dung bài viết chỉ nhằm cung cấp thông tin chung chung, không thay thế cho cho các tư vấn về chăm sóc sức khỏe từ bác sỹ hay các chuyên gia y tế. BBC không chịu trách nhiệm về các triệu chứng mà độc giả gặp phải do làm theo các thông tin nêu trong bài, cũng không ủng hộ cho các sản phẩm hay dịch vụ nào được nêu, được tư vấn trên các trang mạng. Hăy hỏi ư kiến bác sỹ nếu bạn thấy lo ngại về sức khỏe cá nhân.


Bài gốc tiếng Anh (<- click) đă được đăng trên BBC Future. (< -- hết trích)

florida80
04-16-2019, 19:17
Bàn Về 8 Điều Cấm Kỵ Khi Xử Dụng Mật Ong - GS Hùynh Chiếu Đẳng










From: K Pham [mailto:gjgkhoi@gmail .com]

Sent: Sunday, March 1, 2015 10:18 AM

To: Dang Huynh Chieu

Subject: HOAX?: Fwd: 8 ĐIỀU CẤM KỴ KHI SỬ DỤNG MẬT ONG




Thân gởi anh Đẳng,

Tôi nghĩ đây là những lời nói xàm, nói tầm bậy thuộc loại tin vịt cồ. Xin anh cho ư kiến

Khôi




HCD: Thưa quí bạn anh Khôi forward cái email dưới đây chữ nghiêng đen, tôi viết lời bàn vào từ đoạn một cho dễ thấy

---------- Forwarded message ----------

From: Thai Pham

Làm ơn nhớ

Không nên ăn đậu hũ với mật ong!

Cám ơn.

Subject: Fwd: 8 ĐIỀU CẤM KỴ KHI SỬ DỤNG MẬT ONG




8 ĐIỀU CẤM KỴ KHI SỬ DỤNG MẬT ONG




Mật ong vừa thực phẩm vừa là dược phẩm, tuy nhiên nếu sử dụng sai cách có thể bị ngộ độc, gây nguy hiểm cho sức khỏe, thậm chí gây tử vong. Do đó, bạn cần nắm rơ kiến thức những thực phẩm kỵ với mật ong để có cách sử dụng hợp lư, bảo vệ sức khỏe gia đ́nh ḿnh.

HCD: Thưa mật ong là thực phẩm không là dược phẩm đâu. nếu mật ong là dược phẩm, th́ mọi thứ ăn được đểu là dược phẩm.




Mật ong có khả năng ngăn ngừa sự phát triển của vi khuẩn. Mật ong thường được dùng điều trị các khối u ở dạ dày, do chúng có tác dụng làm dịu thành dạ dày.

HCD: Đường cát, sirop cũng diệt vi khuần, muối ăn diệt mạnh hơn. C̣n điều trị th́ kết quả được bao nhiêu phần trăm, thử trên bao nhiêu người hay chỉ đồn cho vui.




Nếu được sử dụng thường xuyên, mật ong c̣n làm tăng khả năng miễn dịch của cơ thể. Tuy mật ong rất tốt cho sức khỏe nhưng khi dùng cần chú ư những điều dưới đây để tránh gây hại cho sức khỏe.




Mật ong kỵ với cua: Nếu dùng chung hai thứ sẽ kích thích đường ruột, và dễ gây tiêu chảy, thậm chí trúng độc. cho nên không nên ăn chung.

HCD: Bây gờ ḿnh suy luận đi: Mật ong bán cùng khắp trong tiệm thực phẩm ở Mỹ, và người Mỹ không có đọc cái email này, hẳn trong 300 triệu người Mỹ có ít ra 100 người ăn hai thứ chung, có bao giờ báo chí đăng tin chết con vịt nào hay vô nhà thương v́ ăn hai thứ đó chung không.




Trong Đậu phụ (tàu hũ) thường có thạch cao và trong Mật ong th́ có đường.

Hai thành phần này gặp nhau sẽ tạo hiện tượng vón cục, đông cứng trong dạ dày gây khó thở, hụt hơi rồi hôn mê. Đặc biệt, nếu mắc bệnh tim mạch, thời gian dẫn đến tử vong có thể nhanh hơn.

Mật ong kỵ với đậu phụ: Đậu cũng như các sản phẩm chế biến từ đậu và mật ong đều chứa nhiều chất dinh dưỡng và tốt cho sức khỏe.

Tuy nhiên, chúng lại không thể kết hợp với nhau để cùng chế biến, nếu không sẽ dẫn đến tiêu chảy.

Không những thế, khoáng chất, protein thực vật, axit hữu cơ trong đậu phụ nếu kết hợp với enzym trong mật ong sẽ xảy ra phản ứng sinh hóa bất lợi cho sức khỏe.

HCD: Cũng y vậy, cả thế giới, người Nhật, người Tàu, Đại Hàn, Thái Lan... hẳn có nhiều người không biết bài nầy, mỗi ngày có mươi người ăn chung có ai chết đâu. C̣n lư luận của tác giả về chất nầy chất nọ là không đúng.




Mật ong kỵ với cá chép

Nếu vô t́nh trong món ăn nào đó, bạn kết hợp mật ong và cá chép là không tốt, cơ thể có thể bị trúng độc ngay.

Trong trường hợp này, bạn có thể dùng đậu đen, cam thảo để giải độc.

Mật ong kỵ với cây th́ là: Mật ong và cây th́ là, nếu vô t́nh kết hợp chúng trong một món ăn nào đó sẽ không tốt, có thể gây tổn thương gan, sưng hoặc đau mắt đỏ.

HCD: Nói không bằng chứng, và cũng chẳng thấy nói người Việt Nam nào nhiểm độc hết. Thật sự mật ong là đường, không có ǵ thần bí trong mật ong hết. Ngày xưa mật ong hiếm, nên được coi là "thần dược" coi là nên thuốc, hiện giờ mật ong lan tràn đáng lư cái huyền thoại mật ong nên bỏ phức, đưa nó về cho đúng thực tế. Ham uống mật ong cho bổ có ngày mang hại v́ mật Trung Cộng chứa nhiều chất độc. Mật ong Trung Cộng bán tại Mỹ khá nhiều..




Mật ong và cơm: Nghe có vẻ rất khó hiểu v́ cơm vốn dĩ mát, lành chúng ta vẫn ăn hằng ngày.

C̣n mật ong lại bổ dưỡng. Nhưng sự thật, mật ong ăn cùng cơm có thể làm bạn bị đau dạ dày.

HCD: Hồi nhỏ th́nh thoảng tôi được ba tôi cho ăn cơm nguội chấm vào dĩa mật ong. Chẳng thấy hại chi. Ngon lắm, các bạn thử đi. Phải là mật ong non hơi chua chua của ngày xưa. Mật ngày nay mua trong tiện là mật già đặc kẹo không ngon chi hết.




Mật ong không nên pha với nước đun sôi: Mật ong có thể uống chung với nước ấm rất tốt cho cơ thể. Nhưng nếu pha mật ong với nước đun sôi lại không hề tốt.

Mật ong có hàm lượng enzyme, vitamin và khoáng chất phong phú.

Nếu ḥa lẫn với nước sôi, sẽ không thể duy tŕ được màu sắc, vùi vị tự nhiên, mà c̣n phá vỡ thành phần dinh dưỡng của mật ong. Nhiệt độ nước tốt nhất để ḥa cùng mật ong là 35 độ C.

HCD: Không đúng, mật ong không có chi nhiều về vitamin hay mineral hết. Chẳng có ǵ gọi là phong phú. Một cọng rau, một trái cây nhỏ chứa vitamin nhiều hơn rất nhiều.




Mật ong kỵ với hành tây

Mật ong kết hợp với hành tây sẽ khiến cho axit hữu cơ, enzyme trong mật ong gặp axit amin chứa lưu huỳnh trong hành tây, nảy sinh phản ứng hóa học có hại, hoặc sản sinh chất có độc, kích thích dạ dày gây tiêu chảy.

HCD: Thịt cá chứa rất nhiều axit amin, thế tại sao người Mỹ ướp thịt với mật ong, ăn vào chẳng ai chết.




Mật ong không nên dùng với lá hẹ

Theo dân gian, trẻ nhỏ bị ho thường dùng mật ong và lá hẹ hấp lên lấy nước cho uống.

Nhưng thực tế lại không phải vậy. Nó chỉ có tác dụng nếu hệ tiêu hóa của em bé tương đối ổn định. Hẹ có hàm lượng vitamin C phong phú.

Tuy nhiên, nếu kết hợp với mật ong có thể gây tiêu chảy.

HCD: Cũng chẳng có chi đúng hết, chỉ là đồn huyển, v́ nếu có hại th́ người ta biết rồi




Kết luận: V́ anh Khôi hỏi tôi bàn cho vui, các bạn tin ai th́ tin. Sở dĩ có bài nầy vỉ tác giả tưởng mật ong là thứ ǵ rất quí, thưa nó chỉ là đường. Về mặt hóa học nó là đường y như sirop. Chỉ có vậy thôi, bỏ huyền thoại về mật ong đi.

Credit của tôi là có một thời nuôi ong lấy mật và giải trí, có viết sách về nuôi ong cùng với anh Thái văn Ánh. Hiện ở Việt Nam chắc có người c̣n giữ quyển đó. Trong tất cả loài vật nuôi trong nhà, ong là loài nuôi tôi thích hơn hết. Sáng sớm tinh mơ, ra ngồi kế bên thùng ong, thấy nó rộn rịp đi về, nghe thoáng mùi hoa bười hoa cao thật thú vị. Vào mùa mật, mở thùng ong ra, cắt một chút mật và phấn hoa, thưởng thức tại chỗ, chưa chắc cao lương mỹ vị mắc tiền ngon bằng. Ong Việt Nam thời đó rất hiền, không có chuyện mang lưới dùng khói như các bạn thấy trong video đâu. Mở thùng ong tay không, miễn là đừng có hấp tấp, đừng có sợ bị chích và quần áo tay phải sạch.






Hùynh Chiếu Đẳng (Quán ven đường)



at 7:10 PM

florida80
04-16-2019, 19:19
Bàn Về 8 Điều Cấm Kỵ Khi Xử Dụng Mật Ong - GS Hùynh Chiếu Đẳng










From: K Pham [mailto:gjgkhoi@gmail .com]

Sent: Sunday, March 1, 2015 10:18 AM

To: Dang Huynh Chieu

Subject: HOAX?: Fwd: 8 ĐIỀU CẤM KỴ KHI SỬ DỤNG MẬT ONG




Thân gởi anh Đẳng,

Tôi nghĩ đây là những lời nói xàm, nói tầm bậy thuộc loại tin vịt cồ. Xin anh cho ư kiến

Khôi




HCD: Thưa quí bạn anh Khôi forward cái email dưới đây chữ nghiêng đen, tôi viết lời bàn vào từ đoạn một cho dễ thấy

---------- Forwarded message ----------

From: Thai Pham

Làm ơn nhớ

Không nên ăn đậu hũ với mật ong!

Cám ơn.

Subject: Fwd: 8 ĐIỀU CẤM KỴ KHI SỬ DỤNG MẬT ONG




8 ĐIỀU CẤM KỴ KHI SỬ DỤNG MẬT ONG




Mật ong vừa thực phẩm vừa là dược phẩm, tuy nhiên nếu sử dụng sai cách có thể bị ngộ độc, gây nguy hiểm cho sức khỏe, thậm chí gây tử vong. Do đó, bạn cần nắm rơ kiến thức những thực phẩm kỵ với mật ong để có cách sử dụng hợp lư, bảo vệ sức khỏe gia đ́nh ḿnh.

HCD: Thưa mật ong là thực phẩm không là dược phẩm đâu. nếu mật ong là dược phẩm, th́ mọi thứ ăn được đểu là dược phẩm.




Mật ong có khả năng ngăn ngừa sự phát triển của vi khuẩn. Mật ong thường được dùng điều trị các khối u ở dạ dày, do chúng có tác dụng làm dịu thành dạ dày.

HCD: Đường cát, sirop cũng diệt vi khuần, muối ăn diệt mạnh hơn. C̣n điều trị th́ kết quả được bao nhiêu phần trăm, thử trên bao nhiêu người hay chỉ đồn cho vui.




Nếu được sử dụng thường xuyên, mật ong c̣n làm tăng khả năng miễn dịch của cơ thể. Tuy mật ong rất tốt cho sức khỏe nhưng khi dùng cần chú ư những điều dưới đây để tránh gây hại cho sức khỏe.




Mật ong kỵ với cua: Nếu dùng chung hai thứ sẽ kích thích đường ruột, và dễ gây tiêu chảy, thậm chí trúng độc. cho nên không nên ăn chung.

HCD: Bây gờ ḿnh suy luận đi: Mật ong bán cùng khắp trong tiệm thực phẩm ở Mỹ, và người Mỹ không có đọc cái email này, hẳn trong 300 triệu người Mỹ có ít ra 100 người ăn hai thứ chung, có bao giờ báo chí đăng tin chết con vịt nào hay vô nhà thương v́ ăn hai thứ đó chung không.




Trong Đậu phụ (tàu hũ) thường có thạch cao và trong Mật ong th́ có đường.

Hai thành phần này gặp nhau sẽ tạo hiện tượng vón cục, đông cứng trong dạ dày gây khó thở, hụt hơi rồi hôn mê. Đặc biệt, nếu mắc bệnh tim mạch, thời gian dẫn đến tử vong có thể nhanh hơn.

Mật ong kỵ với đậu phụ: Đậu cũng như các sản phẩm chế biến từ đậu và mật ong đều chứa nhiều chất dinh dưỡng và tốt cho sức khỏe.

Tuy nhiên, chúng lại không thể kết hợp với nhau để cùng chế biến, nếu không sẽ dẫn đến tiêu chảy.

Không những thế, khoáng chất, protein thực vật, axit hữu cơ trong đậu phụ nếu kết hợp với enzym trong mật ong sẽ xảy ra phản ứng sinh hóa bất lợi cho sức khỏe.

HCD: Cũng y vậy, cả thế giới, người Nhật, người Tàu, Đại Hàn, Thái Lan... hẳn có nhiều người không biết bài nầy, mỗi ngày có mươi người ăn chung có ai chết đâu. C̣n lư luận của tác giả về chất nầy chất nọ là không đúng.




Mật ong kỵ với cá chép

Nếu vô t́nh trong món ăn nào đó, bạn kết hợp mật ong và cá chép là không tốt, cơ thể có thể bị trúng độc ngay.

Trong trường hợp này, bạn có thể dùng đậu đen, cam thảo để giải độc.

Mật ong kỵ với cây th́ là: Mật ong và cây th́ là, nếu vô t́nh kết hợp chúng trong một món ăn nào đó sẽ không tốt, có thể gây tổn thương gan, sưng hoặc đau mắt đỏ.

HCD: Nói không bằng chứng, và cũng chẳng thấy nói người Việt Nam nào nhiểm độc hết. Thật sự mật ong là đường, không có ǵ thần bí trong mật ong hết. Ngày xưa mật ong hiếm, nên được coi là "thần dược" coi là nên thuốc, hiện giờ mật ong lan tràn đáng lư cái huyền thoại mật ong nên bỏ phức, đưa nó về cho đúng thực tế. Ham uống mật ong cho bổ có ngày mang hại v́ mật Trung Cộng chứa nhiều chất độc. Mật ong Trung Cộng bán tại Mỹ khá nhiều..




Mật ong và cơm: Nghe có vẻ rất khó hiểu v́ cơm vốn dĩ mát, lành chúng ta vẫn ăn hằng ngày.

C̣n mật ong lại bổ dưỡng. Nhưng sự thật, mật ong ăn cùng cơm có thể làm bạn bị đau dạ dày.

HCD: Hồi nhỏ th́nh thoảng tôi được ba tôi cho ăn cơm nguội chấm vào dĩa mật ong. Chẳng thấy hại chi. Ngon lắm, các bạn thử đi. Phải là mật ong non hơi chua chua của ngày xưa. Mật ngày nay mua trong tiện là mật già đặc kẹo không ngon chi hết.




Mật ong không nên pha với nước đun sôi: Mật ong có thể uống chung với nước ấm rất tốt cho cơ thể. Nhưng nếu pha mật ong với nước đun sôi lại không hề tốt.

Mật ong có hàm lượng enzyme, vitamin và khoáng chất phong phú.

Nếu ḥa lẫn với nước sôi, sẽ không thể duy tŕ được màu sắc, vùi vị tự nhiên, mà c̣n phá vỡ thành phần dinh dưỡng của mật ong. Nhiệt độ nước tốt nhất để ḥa cùng mật ong là 35 độ C.

HCD: Không đúng, mật ong không có chi nhiều về vitamin hay mineral hết. Chẳng có ǵ gọi là phong phú. Một cọng rau, một trái cây nhỏ chứa vitamin nhiều hơn rất nhiều.




Mật ong kỵ với hành tây

Mật ong kết hợp với hành tây sẽ khiến cho axit hữu cơ, enzyme trong mật ong gặp axit amin chứa lưu huỳnh trong hành tây, nảy sinh phản ứng hóa học có hại, hoặc sản sinh chất có độc, kích thích dạ dày gây tiêu chảy.

HCD: Thịt cá chứa rất nhiều axit amin, thế tại sao người Mỹ ướp thịt với mật ong, ăn vào chẳng ai chết.




Mật ong không nên dùng với lá hẹ

Theo dân gian, trẻ nhỏ bị ho thường dùng mật ong và lá hẹ hấp lên lấy nước cho uống.

Nhưng thực tế lại không phải vậy. Nó chỉ có tác dụng nếu hệ tiêu hóa của em bé tương đối ổn định. Hẹ có hàm lượng vitamin C phong phú.

Tuy nhiên, nếu kết hợp với mật ong có thể gây tiêu chảy.

HCD: Cũng chẳng có chi đúng hết, chỉ là đồn huyển, v́ nếu có hại th́ người ta biết rồi




Kết luận: V́ anh Khôi hỏi tôi bàn cho vui, các bạn tin ai th́ tin. Sở dĩ có bài nầy vỉ tác giả tưởng mật ong là thứ ǵ rất quí, thưa nó chỉ là đường. Về mặt hóa học nó là đường y như sirop. Chỉ có vậy thôi, bỏ huyền thoại về mật ong đi.

Credit của tôi là có một thời nuôi ong lấy mật và giải trí, có viết sách về nuôi ong cùng với anh Thái văn Ánh. Hiện ở Việt Nam chắc có người c̣n giữ quyển đó. Trong tất cả loài vật nuôi trong nhà, ong là loài nuôi tôi thích hơn hết. Sáng sớm tinh mơ, ra ngồi kế bên thùng ong, thấy nó rộn rịp đi về, nghe thoáng mùi hoa bười hoa cao thật thú vị. Vào mùa mật, mở thùng ong ra, cắt một chút mật và phấn hoa, thưởng thức tại chỗ, chưa chắc cao lương mỹ vị mắc tiền ngon bằng. Ong Việt Nam thời đó rất hiền, không có chuyện mang lưới dùng khói như các bạn thấy trong video đâu. Mở thùng ong tay không, miễn là đừng có hấp tấp, đừng có sợ bị chích và quần áo tay phải sạch.






Hùynh Chiếu Đẳng (Quán ven đường)



at 7:10 PM

florida80
04-16-2019, 19:20
Virus Thực Phẩm Gây Rối Loạn Tiêu Hóa - BS Nguyễn Thượng Chánh











Khác với sự hiểu biết ngày xưa, ngày nay các nghiên cứu khoa học cho biết chính virus là tác nhân của 67% trường hợp rối loạn tiêu hóa (gastroenterite) so với 30% do vi khuẩn gây nên.


Người ta gọi những loại virus nầy là virus thực phẩm.


Trong nhóm nầy thường gặp nhất là Rotavirus và Norovirus (c̣n gọi là Norwalk virus).


Bộc phát rối loạn tiêu hóa mùa Giáng sinh 2014 tại Pháp


VIDEO - Nol: la gastro-entérite sinvite sous le sapin


http://www.bfmtv.com/societe/la-gastro-enterite-s-installe-la-grippe-en-embuscade-854373.html


* * *
- Rotavirus được xác định năm 1978 bằng kính hiển vi điện tử. Virus có thể tồn tại hằng tháng ở nhiệt độ 4 độ C hay ở điều kiện pH acid 3-3,5...


Nó thường là tác nhân chính gây rối loạn tiêu hóa nặng ở trẻ em dưới 2 tuổi nhưng triệu chứng nhẹ hơn ở người lớn.


Bệnh không mấy quan trọng ở các quốc gia kỹ nghệ nhưng ngược lại Rotavirus là một vấn đề rất trọng đại tại các quốc gia đang phát triển.


Ước lượng hằng năm trên thế giới có vào khoảng 600.000 trẻ em chết v́ Rotavirus. Triệu chứng thường thấy là: sốt, nhức đầu, nôn mửa, đau bụng, tiêu chảy và đôi khi biểu lộ một cách tạm thời dấu hiệu bất dung nạp đường lactose của sữa (lactose intolerance). Triệu chứng kéo dài từ 3 đến 8 ngày...


Rotavirus (Wikipedia)


- Norovirus do thức ăn mang vào và chiếm hơn 50% ca rối loạn tiêu hoá.

Noroviruses cause gastroenteritis, also known as the stomach flu. They are highly contagious, according to the Centers for Disease Control and Prevention.




Symptoms associated with the virus include nausea, vomiting, diarrhea and stomach cramping. Affected individuals often experience low-grade fever, chills, headache, muscle aches and fatigue. The illness typically lasts one to two days according to the CDC.

Norovirus thuộc họ Caliciviridae và là một loại ARN virus...

Mấy lúc gần đây, tại Bắc Mỹ và Hoa Kỳ đă xảy ra nhiều dịch bệnh rối loạn tiêu hoá do Norwalk virus gây nên.

Được biết Norwalk virus là một Norovirus (NoV) mà ngày xưa người ta thường hay gọi là Norwalk like virus (Virus NLV).




Mấy năm trước dây, Norwalk virus thường gây ra rối loạn tiêu hóa trên các du thuyền (cruise ships) chẳng hạn như Carnival Cruise Lines Liberty (Nov 2006), Freedom of the Sea và Sun Princess (Dec 2006), RMS QE2 (Jan 2007).

Virus Norwalk được t́m thấy dưới kính hiển vi điện tử năm 1978 từ mẫu phân của một bệnh nhân ở Norwalk, Ohio. Virus nầy có thể sống rất dai trong điều kiện môi sinh khắc nghiệt như nó có thể sống hằng năm trong điều kiện đông lạnh hay ở nhiệt độ nóng 60 độ C trong 30 phút hoặc ở môi trường chlore 6,25mg/lít.




Triệu chứng chung là nhức đầu, nôn mửa, đau bụng, tiêu chảy, đau nhức các bắp cơ, sốt nhẹ, nóng lạnh. Bệnh thường khỏi sau hai ba ngày. Trẻ em thường nôn mửa nhiều hơn người lớn.

Norovirus có khả năng lây nhiễm rất cao. Virus hiện diện trong phân và trong nước ói mửa.




Nguyễn T Chánh & Nguyễn N Lan: Rối loạn tiêu hóa trên du thuyền

http://vietbao.com/a216636/roi-loan-tieu-hoa-tren-du-thuyen




Ngày 15 Feb 2010, một dịch bệnh rối loạn tiêu hóa đă xảy ra trên du thuyền The Celebrity Cruises ship Mercury xuất phát từ Charleston, South Carolina để đi đến vùng eastern Caribbean. Có trên 400 hành khách đă ngă bệnh như đau bụng, nôn, mửa và tiêu chảy.




Bệnh cũng thường hay xảy ra trong bênh viện, nhà nuôi dưỡng người già nursing home, trong nhà trẻ và trường học, v.v…




Người già, những người có sức miễn dịch suy yếu sẵn, phụ nữ mang thai và trẻ em là những người có thể bị nhiễm bệnh nặng hơn các đối tượng khác.




Rửa tay kỹ lưỡng và thường xuyên cũng là một cách đề pḥng sự lây nhiễm của Norovirus.




Virus thực phẩm bắt buộc phải sống kư sinh trong tế bào




Virus chỉ phát triển trong cơ thể mà thôi và nên nhớ là thuốc kháng sinh không có tác dụng diệt virus.




Để có thể phát triển sinh sản (replication), virus cần phải sống kư sinh bắt buộc trong những tế bào nào thích hợp với chúng. Đầu tiên, virus xâm nhập vào tế bào chẳng hạn như tế bào gan. Sau đó, virus truyền yếu tố di truyền ADN hoặc ARN của nó sang qua cho tế bào gan. Từ giờ phút nầy tất cả chức năng biến dưỡng của tế bào đều do virus điều khiển. Tế bào gan trở thành nhà máy sản xuất ra các thông tin di truyền của virus cũng như tạo ra các protéine của virus. Qua cách nầy, hằng triệu phần tử virus mới (particules virales) được thành lập.




Đây là hiện tượng réplication của virus.
Đến một lúc nào đó tế bào sẽ bị hủy diệt đi, và phóng thích các phần tử virus ra ngoài để lây nhiễm môi sinh.


Virus thực phẩm rất ổn định trong môi sinh


Virus chịu đựng rất dễ dàng những điều kiện khắc nghiệt của các phương pháp đông lạnh và trữ lạnh, là những kỹ thuật thường hay được áp dụng để làm chậm lại sự phát triển của vi khuẩn.


Ngược lại, đối với virus đây là những phương pháp giúp nó có thể kéo dài thêm sự sống.


Virus c̣n có khả năng chịu đựng được một số chất sát trùng thông thường cũng như độ pH acid của môi trường.


Chỉ cần từ 10 đến 100 virus là có thể gây thành bệnh được rồi.




Thức ăn nào nguy hiểm nhất

Ṣ hến sống bằng cách lược thức ăn trong nước, đều được xem là thủ phạm hàng đầu trong các trường hợp ngộ độc thực phẩm do virus.

Ngoài ra, các loại trái cây nhỏ như dâu Tây, rasberry, sữa, nước, bánh trái, v.v… cũng có thể bị lây nhiểm virus từ lúc thu hoạch, biến chế và phân phối đến bàn ăn của chúng ta.

Đa số các trường hợp ngộ độc thực phẩm do virus đều bắt nguồn từ con người mà ra.

Nếu thức ăn bị nhiễm virus trong lúc được biến chế th́ rất có thể nó vẫn c̣n tồn tại trong đó mặc dù đă phải kinh qua nhiều khâu trong dây chuyền sản xuất và bảo quản.




Để hạn chế nguy cơ nhiễm virus vào thức ăn, nhà sản xuất phải đặc biệt quan tâm đến vệ sinh cá nhân của người làm việc cũng như của khung cảnh chung nơi sản xuất.




Rửa tay thường xuyên và mang bao tay lúc phải sờ mó vào thức ăn là điều kiện bắt buộc tại các nhà máy biến chế thực phẩm ở Canada và Hoa Kỳ.




Trở ngại duy nhất là những người có mang sẵn virus trong ḿnh nhưng không có triệu chứng bệnh, gọi là những porteurs, carriers. Họ có thể làm nhiễm virus vào thức ăn một cách vô t́nh mà thôi.








Làm sao pḥng ngừa?


Việc pḥng ngừa là việc rất cần thiết và là điều quan trọng nhất...Cần tuân hành một số nguyên tắc vệ sinh:


+Phát hiện những ai có mang sẵn virus trong người. Nói dễ nhưng khó thực hiện v́ làm sao mà biết được người nào? Virus cũng có thể đă được thải ra ngoài trước khi người nhân viên đó có biểu lộ ra triệu chứng bệnh.


+Giữ vệ sinh cá nhân tối đa. Rửa tay thường xuyên.


+Tôn trọng các nguyên tắc vệ sinh an toàn thực phẩm.


+Nấu kỹ cho thật chín rồi mới ăn, mới uống.

+Kiểm soát kỹ các vùng nước đánh bắt hay nuôi trồng ṣ hến.

+Lúc đi du lịch các xứ nóng, ăn uống phải hết sức cẩn thận, nhất là vấn đề nước nôi, nước đá và rau cải tươi, v.v…

+Tách riêng rẽ các thức ăn đă được nấu chín ra khỏi các thức ăn tươi chưa được nấu.

+Nên chủng ngừa hépatiteA và hépatite B trước khi đi du lịch các xứ nóng Á châu.




Tham khảo:

- Sair, A.I. et al. Human enteric viruses as causes of foodborne disease. Comprehensive Reviews in Food Science and Food Safety. 2002:1:73-89.

http://members.ift.org/NR/rdonlyres/A11C8021-9FCC-4DE3-BACD-F174E::13Ố13::B2E/0/crfsfsv01n2p073089ms 20010312.pdf




- CDC. Rotavirus, Norovirus, HepatitisA virus.




- CDC. Norovirus Q/A

http://www.cdc.gov/ncidod/dvrd/revb/gastro/norovirus-qa.htm




- CDC. Viral gastroenteritis.

http://www.cdc.gov/ncidod/dvrd/revb/gastro/faq.htm




CDC,Norovirus-U.S. Trends and Outbreaks

http://www.cdc.gov/norovirus/trends-outbreaks.html




Montreal, 2014




Nguyễn Thượng Chánh



at 3:47 PM

florida80
04-16-2019, 19:22
100 Lời Khuyên Của Vị Thầy Thuốc Trung Y 112 Tuổi Lúc Lâm Chung (Phần 1) - NTDTV






Món quà để lại lúc lâm chung của một vị Thầy thuốc Trung y cao tuổi, thật quá tuyệt vời! Tổng cộng có 100 điều, mỗi điều đều rất cao thâm, nên cần phải đọc đi đọc lại nhiều lần, nó sẽ giúp bạn đề cao nhận thức đối với sức khỏe!


1. Hăy nhớ kỹ: Ngủ là yếu tố quan trọng nhất của dưỡng sinh. Thời gian ngủ nên từ 21h đến 3h sáng. V́ thời gian này là mùa đông trong ngày, mùa đông chủ yếu là ẩn náu, mùa đông mà không ẩn náu th́ mùa xuân, hạ sẽ không thể sinh trưởng, sang ngày hôm sau sẽ không có tinh thần.
2. Hết thảy các vị thuốc dùng để trị bệnh cho dù là Trung y hay là Tây y đều chỉ là trị phần ngọn, không trị tận gốc. Tại v́ hết thảy bệnh tật đều bắt nguồn từ những nguyên nhân sai lầm mà sản sinh ra hậu quả sai lầm. Nguyên nhân sai lầm mà không trừ dứt, th́ hậu quả sẽ không thể bỏ tận gốc. Nguồn gốc căn bản của sức khỏe là tại tâm. Hết thảy pháp từ tâm sinh ra. Tâm tịnh thân sẽ tịnh. V́ thế khi bị bệnh rồi, không được hướng ngoại cầu, phải dựa vào hệ thống phục hồi của bản thân để chữa trị bệnh của chính ḿnh. Kỳ thực con người và động vật là giống nhau, bệnh của động vật đều là tự dựa vào bản thân mà tự hồi phục, và con người cũng có khả năng đó.




3. Quan niệm đúng đắn có tác dụng giúp người bệnh tiêu trừ bệnh tật tốt hơn nhiều so với sử dụng biệt dược đắt đỏ và phẫu thuật. Có được quan niệm đúng đắn, bạn sẽ có quyết định đúng đắn, bạn sẽ có hành vi đúng đắn, và bạn sẽ có thể pḥng ngừa rất nhiều bệnh tật phát sinh.




4. Con người vốn hội tụ hết thảy trí huệ, tuyệt đối không phải là học từ trong sách vở, mà là từ tâm chân thành, tâm thanh tịnh của bản thân, từ trong [thiền] định mà sinh ra.




5. Trong giới sinh vật con người là linh thể có cấu tạo hoàn mỹ nhất, khi con người được sinh ra là đă có một cơ thể khỏe mạnh; sự điều chỉnh trạng thái khỏe mạnh của con người là dựa vào chính hệ thống điều tiết phục hồi của bản thân để hoàn thành, chứ không phải dựa vào nhân tố bên ngoài, các nhân tố bên ngoài chỉ có tác dụng phụ trợ.




6. Đại đa số hiện tượng bệnh tật của con người là hiện tượng biểu hiện khi cơ thể đang điều tiết, thanh lọc những thứ không tốt trong thân thể, là trạng thái biểu hiện ra khi cơ thể tự động điều tiết trở lại trạng thái cân bằng, v́ thế chúng ta nên coi đó là hiện tượng sinh lư b́nh thường, chứ không nên coi đó là căn bệnh để tiêu diệt. V́ vậy khi con người bị bệnh, nhất định không nên có tâm thái oán trách và giận giữ, tâm lư phải ổn định, tâm định th́ khí sẽ thuận, khí thuận th́ máu sẽ thông, khí thuận huyết thông th́ trăm bệnh đều sẽ tiêu tán.




7. Sức khỏe của con người không thể xa rời hai nhân tố: 1) Khí huyết đầy đủ; 2) Kinh mạch thông suốt ( bao gồm huyết quản và đường thông bài tiết những thứ cặn bă).




8. Khí huyết đầy đủ dựa vào: sự đầy đủ về thức ăn + dịch mật + bắt buộc trong khoảng thời gian (sau khi trời tối đến 1h40 sáng) có thể ngủ ngon giấc (thời gian này đại năo hoàn toàn không làm việc, đều do thần kinh thực vật làm chủ đạo) + có thói quen sinh hoạt lành mạnh.




9. Kinh mạch thông suốt cần: Tâm thanh tịnh. Hết thảy thất t́nh lục dục đều có thể phá hoại tâm thanh tịnh, từ đó phá hoại sự lưu thông b́nh thường của kinh mạch.




10. Duy tŕ một cơ thể khỏe mạnh khỏe mạnh không chỉ cần “tăng thu” (gia tăng khí huyết), mà c̣n cần “tiết chi” (giảm thiểu sự hao tổn khí huyết).




11. Ăn uống quá độ không những không thể gia tăng khí huyết, mà c̣n trở thành những thứ cặn bă mang gánh nặng cho cơ thể, hơn nữa c̣n bị tiêu hao khí huyết để thanh lọc chúng đi. Lục phủ ngũ tạng là một xưởng gia công khí huyết, thức ăn là nguyên vật liệu, năng lực gia công là hữu hạn, c̣n thức ăn là vô hạn, cho nên số lượng thức ăn nhất thiết phải được khống chế.




12. Vận động thích hợp có thể giúp cho khí huyết lưu thông, nhưng đồng thời cũng tiêu hao đi khí huyết. Sự tuần hoàn của cơ thể tại vi mô chủ yếu dựa vào trạng thái lỏng và tĩnh mà đạt được, đây cũng là điều không thể thiếu cho một cơ thể khỏe mạnh.




13. Chất cặn bă trong cơ thể càng nhiều sẽ cần càng nhiều khí huyết để thanh lọc chúng, nhưng khi chất cặn bă nhiều lên và làm tắc huyết mạch sẽ làm giảm thiểu khí huyết, cái đó sẽ dẫn đến sự tuần hoàn ác tính, cũng chính là cơ lư khiến con người già yếu đi. V́ vậy nếu con người muốn khỏe mạnh không già yếu th́ phải: 1) Giảm thiểu chất cặn bă trong cơ thể; 2) Tăng cường sự thông suốt của các đường kinh mạch; 3) Tăng cường khí huyết trong cơ thể.




14. Tin tưởng vào thuốc, tin tưởng vào số liệu kiểm tra, không bằng tin tưởng vào cảm giác của bản thân, tin tưởng rằng chính ḿnh có đầy đủ năng lực để điều tiết. Nhưng trước hết bạn cần phải là người đắc đạo (trí huệ đă khai mở), mới có thể phân biệt được hết thảy những điều này.




15. Sự khỏe mạnh, khởi đầu từ việc điều ḥa tâm tính. V́ sức khỏe của bạn, bạn hăy tu Phật. Tu Phật đạt được sự vui vẻ đó là sự hưởng thụ tối cao của đời người.




16. Đối với người có bệnh cũ mà nói, chỉ khi có khí huyết đầy đủ (một là thông qua phương pháp bổ sung khí huyết như đă giới thiệu

ở đây, hai là thông qua việc đi tản bộ để đánh thông khí cơ), bệnh t́nh mới có thể hiển hiện ra. V́ thế người luyện công sau khi công phu đă đạt đến một tŕnh độ nhất định đều xuất hiện một vài hiện tượng “bệnh”. Đến lúc đó phải vững vàng kiên định, tâm thần phải tĩnh lại và luyện nhiều tĩnh công hơn để gia tăng khí huyết của bản thân, để mau chóng vượt qua giai đoạn này.




17. Con người làm trái với quy luật dưỡng sinh, mặc dù không nhất định sẽ bị bệnh ngay lập tức, nhưng một khi đă h́nh thành thói quen, liền gia tăng nguy cơ mắc bệnh. Điều này giống với luật lệ giao thông, bạn vi phạm luật lệ giao thông, không nhất định sẽ xảy ra sự cố, nhưng t́nh trạng nguy hiểm là có thể thấy rất rơ ràng.




18. Tại sao con người nhất thiết phải duy tŕ trạng thái đói khát nhất định th́ mới có lợi cho dưỡng sinh? Kỳ thực đây chính là sự vận dụng tuyệt diệu của chữ “Hư”. Đạo gia giảng, hư th́ linh. Chính cái đó cùng với sự khiêm tốn khiến cho con người tiến bộ, giống như tự măn khiến con người lạc hậu, v́ thế con người nhất thiết phải thường xuyên duy tŕ trạng thái “hư linh”, mới có thể luôn luôn duy tŕ sự thanh tỉnh, duy tŕ sự khỏe mạnh.




19. Con người muốn khỏe mạnh, th́ nhất thiết phải làm cho bên trong cơ thể có đầy đủ “khí” để “khí hóa” những thức ăn đi vào. Chỉ có như thế, th́ bên trong thân thể bạn mới không tích tụ chất cặn bă, sẽ không có thức ăn thừa bị phóng thích và phân tán “hư hỏa” gây tổn hại các cơ quan nội tạng trong cơ thể bạn. Cái “hư hỏa” c̣n làm tổn hại “khí” của bạn. V́ thế, từ trên ư nghĩa đó có thể thấy, con người hiện đại bị bệnh, đại đa số là do ăn uống không điều độ mà thành.




20. “Nằm lâu hại khí”, “Ngồi lâu hại thịt”, “Nhàn hạ ắt khí ứ đọng”, lại dưỡng tĩnh quá độ, sẽ khiến công năng tiêu hóa của t́ vị bị hạ thấp, chức năng của tạng phủ ́ trệ, khí huyết lưu chuyển ứ tắc không thông thuận, lực đề kháng giảm, khả năng miễn dịch bị tổn hại, lượng đường, mỡ, axit uric, huyết áp tăng cao, dần dần lâu ngày, con người sẽ sinh bệnh, hơn nữa đa phần đều là thân thể yếu nhiều bệnh, ví dụ như cảm mạo thường xuyên, không muốn ăn, thần trí mỏi mệt, sốt ruột căng thẳng v.v…




21. Tục ngữ có câu “Linh cơ nhất động, kế thượng tâm lai” (nhạy bén hễ động, nảy ra sáng kiến). Chữ “cơ” nếu như có thể thực sự hiểu được thấu, thế th́ ngộ tính của bạn được tính là đă khai mở rồi. Thầy giáo dạy người, bác sỹ trị bệnh, kỳ thực chính là đang chỉ ra cái “cơ” này của bạn, khiến cái “cơ” này của bạn khai mở. cái “cơ” này có lúc cũng gọi là “then chốt”. Đương nhiên cái “cơ” này khởi tác dụng là có điều kiện, cũng giống như khinh khí chỉ khi đạt đến nồng độ nhất định, th́ gặp lửa mới có thể bùng cháy. Hăy nhớ kỹ, tác dụng của người khác đều là nhân tố bên ngoài, bản thân bạn mới thực sự là nguyên nhân bên trong.




22. Kỳ thực, rất nhiều sự phát hiện và phát minh chân chính, điều cần thiết [để sáng tạo ra chúng] không phải là cái gọi là hệ thống kiến thức trên sách vở; mà hoàn toàn ngược lại, một người chưa từng thông qua bất kể sự giáo dục nào một cách hệ thống, nhưng ngộ tính rất cao, là người có tư duy cởi mở, họ thường thực sự ngộ ra được chân tướng.




23. Con người tối kỵ nhất là loạn chữ, loạn tâm, khi đối ngoại có thể làm hỏng việc, đối nội có thể ảnh hưởng đến khí huyết, làm mất đi sự hoạt động thông thường. Phàm là khi vui buồn, tức giận, hoài nghi, lo lắng, đều là loạn, là căn nguyên của bệnh tật và đoản thọ, không chỉ khi dưỡng bệnh mới không nên loạn, mà khi b́nh thường cũng rất kỵ tâm loạn.




24. Giận nhiều hại gan, dâm nhiều hại thận, ăn nhiều hại ruột, ưu tư hại lá lách, phẫn nộ hại gan, sầu muộn hại tinh thần.




25. Khi đổ bệnh, đều do tâm suy yếu, ngoại tà thừa cơ xâm nhập. Mà khi tâm yếu khí nhược, mỗi khi do tâm t́nh hỗn loạn, thân thể không sung măn, xuất hiện đủ loại bất an, Tham ăn, tham thắng, tham đạt, tham vui an dật, đều đủ để dẫn đến bị bệnh. Khi tham mà không được, th́ dễ dẫn đến giận dữ. Hay giận dữ khiến tâm khí hỗn loạn, gan mật rối loạn, sáu mạch chấn động, ngũ tạng sôi trào, ngoại tà cùng lúc đó mà thừa cơ xâm nhập, đó là nguyên nhân của bệnh tật.




26. Người thường mong cầu trường thọ, trước tiên phải trừ bệnh. Mong cầu trừ bệnh, phải biết dụng khí. Muốn biết dụng khí, trước hết phải dưỡng sinh. Phương pháp dưỡng sinh, trước hết phải điều tâm (điều ḥa tâm thái).




27. Con người do khí trong ngũ hành mà sinh, nhục thân lấy khí làm chủ. Khí bị hao tổn ắt sinh bệnh, khí ứ động không thông cũng sinh bệnh. Muốn trị bệnh này, ắt phải trị khí trước tiên.




28. Khí để thông huyết, huyết để bổ khí, tuy hai mà như một vậy. Phàm là người nh́n nhiều (sử dụng mắt nhiều) ắt tổn thương huyết, nằm nhiều tổn thương khí, ngồi nhiều tổn thương thịt, đứng nhiều tổn thương xương, đi nhiều tổn thương gân, thất t́nh lục dục quá độ ắt tổn thương nguyên khí, hại tới tâm thận. Như ngọn lửa cháy mạnh mẽ, bị hao tổn dương khí.




29. Trị bệnh về ngũ tạng, đầu tiên cần bổ khí. Thận là cấp bách nhất. Bổ khí nghiêm cấm động tâm, động tâm ắt nóng gan, các mạch bị chấn động, chân thủy sẽ hao tổn. Tâm bị động, sẽ dẫn khởi phong. Phong động ắt hỏa vượng, hỏa vượng ắt thủy can, thủy can ắt địa tổn.




30. Tâm định thần nhất, người được chữa bệnh cần tín tâm kiên định chuyên nhất, lưỡng tâm tương hợp, có thể trị khỏi bách bệnh, không cần dùng thần dược.




31. Bệnh của con người có thể chia thành 2 loại: một là kinh lạc cơ bản thông suốt nhưng khí không đủ. Biểu hiện là thường xuyên đau chỗ này chỗ kia, đó là v́ khí của anh ta không đủ để khí hóa thức ăn, từ đó sản sinh ra tương hỏa (cũng gọi là hư hỏa), thuận theo kinh lạc di chuyển hỗn loạn trong thân thể, chỗ nào thông th́ chạy qua chỗ đó, gặp phải chỗ bị tắc nghẽn, chỗ đó ắt sẽ bị đau. Những người như vậy uống một chút thuốc liền lập tức thấy công hiệu. Hai là kinh lạc không thông, khí không có chỗ nào để lưu lại trong thân thể. Biểu hiện bề ngoài không có chút dấu hiệu nào của bệnh tật, nhưng một khi đă phát bệnh th́ rất nặng, hơn nữa loại người này dù uống thuốc ǵ th́ hiệu quả cũng rất chậm, hoặc căn bản không có tác dụng ǵ.


Chủ phát gọi là cơ. Mũi tên muốn bay ra từ cánh cung, bắt buộc phải có cái cơ này để phát động. Bất kỳ sự t́nh nào cũng đều như thế, đều có một cái cơ, chỉ khi nào kích động cái cơ này, th́ sự t́nh mới phát sinh, nếu chẳng kích động được cái cơ này, các điều kiện khác dẫu có nhiều đến mấy, cũng không có cách nào dẫn khởi sự việc. Vậy rốt cuộc cơ nó là cái thứ ǵ, nó chính là nhân tố then chốt để phát sinh mọi sự việc. Nó là điểm, không phải là diện. Thế nhưng nếu kích động được điểm này, th́ có thể kéo theo cả một diện. Cho nên bệnh cơ là nhân tố then chốt nhất trong sự phát sinh, phát triển và biến hóa của bệnh, (cũng có thể nói, bệnh cơ một khi khai mở, bệnh trạng của người đó sẽ hiển hiện ra, người đó sẽ tiến nhập vào trạng thái tuần hoàn ác tính của bệnh, đối lập với bệnh cơ là “sinh cơ”. Khi sinh cơ mở ra, người đó sẽ tiến nhập vào trạng thái thuần tốt đẹp của quá tŕnh hồi phục. Thực tế bệnh cơ và sinh cơ là hai phương diện của cùng một thứ, là một cặp âm dương. Khi bệnh cơ mở ra, sinh cơ sẽ đóng lại; khi sinh cơ mở ra, bệnh cơ tự nhiên cũng sẽ đóng. Đây gọi là pháp biện chứng).




32. Cảnh giới cao nhất của Trung y là dưỡng sinh, cảnh giới cao nhất của dưỡng sinh là dưỡng tâm. Cho nên, đối với dưỡng sinh mà nói, hạ sỹ dưỡng thân, trung sỹ dưỡng khí, thượng sỹ dưỡng tâm. Nh́n một cá nhân cũng giống như thế, nh́n tướng không bằng nh́n khí, nh́n khí không bằng nh́n tâm.




33. Tâm thần bất an, tâm t́nh nóng vội, là căn nguyên dẫn đến bị bệnh và tử vong. Phương pháp giữ tâm b́nh an, là bí quyết số một trong việc bảo vệ sinh mệnh. Tâm có thể chủ động tất cả. Tâm định ắt khí ḥa, khí ḥa ắt huyết thuận, huyết thuận ắt tinh lực đủ mà thần vượng, người có tinh lực đủ thần vượng, lực đề kháng nội bộ sẽ khỏe, bệnh tật sẽ tự tiêu tan. Cho nên để trị bệnh đương nhiên cần lấy dưỡng tâm làm chủ [yếu].




34. Phong hàn âm dương mùa hạ nóng ẩm, đều có thể khiến cho con người mắc bệnh. Ngộ nhỡ lực đề kháng yếu, [bệnh tật] sẽ thừa cơ xâm nhập. Người có thân thể yếu nhược thường nhiều bệnh, chính là cái lư này. Người giàu có điều kiện bảo hộ tốt, như ăn-mặc-ở v.v… Người nghèo có lực đề kháng, nếu như khí đủ thần vượng, lỗ chân lông dày khít, không dễ bị [bệnh tật] xâm nhập v.v… Người giàu ăn nhiều đồ béo ngọt, hại dạ dày hại răng. Người nghèo hay phải chịu đói, thức ăn không phức tạp, nhờ đó mà không bị bệnh ở ruột. Người giàu thường nhàn hạ, v́ thế mà nhiều phiền muộn. Người nghèo lao động nhiều, nhờ đó mà bệnh tật ít. Người giàu không tạo phúc mà chỉ hưởng phúc, chỉ toàn tiêu phúc, tiêu cạn ắt nghèo. Người nghèo có thể cần kiệm, đó chính là tạo phúc, khi quả chín sẽ giàu có. Phàm là điều kiện bảo hộ ăn-mặc-ở đầy đủ th́ lực đề kháng về tinh khí thần sẽ yếu. Điều kiện bảo hộ kém, lực đề kháng ắt sẽ mạnh.




35. Mới khỏi bệnh nặng, cần tránh cắt tóc, rửa chân, tắm gội




36. Con người đều muốn cầu trường thọ vô bệnh, thân thể luôn khỏe mạnh. Muốn thân thể khỏe mạnh, đương nhiên cần điều tiết tinh khí thần. Muốn điều tiết tinh khí thần, đương nhiên cần cự tuyệt sự can nhiễu của những thứ tà. Muốn chặn đứng tà, đầu tiên cần phải dưỡng tâm. Muốn dưỡng tâm, cần phải hóa giải tam độc tham-sân-si. Muốn hóa giải tam độc này, bắt buộc phải học tâm giới. Nhưng muốn giữ được giới về ngôn từ lời nói, không nói không làm những việc vô ích, cần phải khai [trí] huệ, vứt bỏ đi những điều ngu muội, và bắt buộc phải đạt được định trước tiên. Muốn đạt được định, tất phải học tản bộ.




37. Có thể tĩnh ắt phải là người nhân [nghĩa], có nhân [nghĩa] ắt sẽ thọ, có thọ chính là hạnh phúc thực sự.




38. Tất cả những pháp môn tu thân tu tâm, chỉ có bí quyết gồm 2 từ: một là phóng hạ, hai là quay đầu. Phóng hạ đồ đao, lập địa thành Phật; Biển khổ vô biên, quay đầu là bờ. Chỉ cần phóng hạ, quay đầu, người bệnh lập tức khỏi, người mê lập tức giác ngộ. Đây mới thực sự là người có vô lượng thọ.




39. Người mà tâm quá lao lực, tâm trí mệt mỏi th́ gan sẽ vượng, tâm quá lao lực chính là tâm quá đầy, không rỗng. Tâm đầy, ắt không thể dung nạp can (mộc) sinh chi hỏa, tâm không dung nạp can sinh chi hỏa, khí trong gan ắt sẽ tích tụ lại nhiều. Gan là mộc khắc thổ, nên t́ vị sẽ mắc bệnh, tiêu hóa sẽ không tốt, dinh dưỡng không đủ, tối ngủ sẽ không yên. Mộc lại khắc thủy, từ đó mà thận thủy bị thiếu, thủy không đủ ắt hỏa càng vượng, tâm thận có liên hệ tương hỗ, nên tâm khí càng yếu, bệnh phổi sẽ h́nh thành. Nội bộ có mối liên quan tương hỗ, một thứ động sẽ kéo theo toàn bộ đều động, một chỗ bị bệnh sẽ khiến toàn cơ thể bị bệnh. Người có cái tâm nhiễu loạn, chính là do cái tâm ngông cuồng đầy tham vọng, cho nên muốn trị bệnh cần làm an cái tâm này lại, an cái tâm này lại chính là chấm dứt vọng tưởng, để chấm dứt vọng tưởng cần có tâm sáng, tâm sáng chính là tự giác ngộ, mà để đạt được khỏe mạnh th́ công hiệu nhất lại là ở tản bộ.




40. Tản bộ là phương pháp điều ḥa tâm, tâm điều ḥa ắt thần an (tinh thần an lạc), thần an ắt khí đủ, khí đủ ắt huyết vượng, khí huyết lưu thông, nếu có bệnh có thể trừ bệnh, nếu không đủ có thể bồi bổ, đă đủ rồi có thể gia tăng. Bệnh hiện tại có thể trừ, bệnh tương lai có thể pḥng tránh. Điều tâm c̣n khiến cho thần minh (tinh thần minh mẫn sáng suốt), thần minh ắt cơ linh, người có tâm thanh tĩnh thật tuyệt diệu biết bao, họ có cái nh́n biện chứng, tác phong bề ngoài linh hoạt, thấu hiểu các nguyên lư một cách chính xác, liệu sự nh́n xa trông rộng, gặp loạn bất kinh, thấy cảnh đẹp không bị mê hoặc, có thể thông đạt mọi thứ, bản thân không có những ư kiến chủ quan sai lệch, đại cơ đại dụng, chính là từ đó mà ra.




41. Con người khi bị bệnh kỵ nhất là khởi tâm oán giận. Lúc này nhất định phải giữ sự b́nh an ḥa ái, khiến cho tâm an định. Sau đó dần dần điều chỉnh, sức khỏe sẽ rất nhanh hồi phục. Tâm an th́ khí mới thuận, khí thuận mới có thể trừ bệnh. Nếu không ắt tâm sẽ gấp hỏa sẽ thăng, can khí sẽ phải chịu hao tổn, làm bệnh t́nh càng thêm nặng. Tâm thân yên nhất, khí huyết toàn thân ấy, sẽ tự phát huy tác dụng khôi phục sức khỏe.




42. Giờ Tư (từ 11 giờ đêm đến 1 giờ sáng) mất ngủ, thủy thận tất thiếu, tâm thận có liên hệ tương hỗ, thủy thiếu ắt hỏa vượng, rất dễ tổn hại tới [tinh] thần.




43. Trong khi ngủ nếu có tư tưởng, tâm không thể an, không được vừa nằm vừa suy nghĩ trăn trở, rất dễ hao tổn [tinh] thần.




44. Giờ Ngọ (từ 11 giờ đến 13 giờ) thuộc về tâm, giờ này có thể tản bộ 15 phút, nhắm mắt dưỡng thần, tâm khí ắt khỏe mạnh.




45. Dậy sớm trong khoảng giờ Dần từ 3 giờ đến 5 giờ, giờ này kỵ nhất buồn giận, nếu không ắt hại phổi tổn thương gan, hy vọng mọi người hết sức chú ư.




46. Tất cả sự nghiệp trong cuộc đời, đều lấy tinh thần làm căn bản, sự suy vượng cường thịnh của tinh thần, đều dựa vào sự tĩnh định bất loạn của tâm và thần, một chữ loạn, cũng đủ để làm trở ngại tới công việc.




47. Nhân sinh lấy khí huyết lưu thông làm chủ, khí ứ đọng có thể ngăn trở huyết, máu huyết bị ngăn trở có thể tích độc thành nhọt thành bệnh, thành u thành ung thư, tất cả đều là do huyết khí không thông tạo thành. Khí lấy thuận làm chủ, huyết lấy thông làm suông sẻ. Căn nguyên bách bệnh đầu tiên đều do khí tắc, khí bị tắc bên trong, gan sẽ bị thương tổn trước tiên. Cách cứu chữa, chính là ở bí quyết hóa giải. Mà bí quyết hóa giải lại gồm có 2 loại: Một là t́m căn nguyên của nó, căn nguyên này chính là ở tâm, tâm không ắt tất cả tự động được hóa giải. Hai là dùng thuốc và châm cứu, trợ giúp hóa giải thêm bằng mát xa, sẽ giúp cho khí huyết lưu thông.




48. Dưỡng bệnh trị bệnh không thể đ̣i hỏi nhanh. Bởi v́ nóng vội sẽ trợ giúp hỏa, hỏa vượng sẽ tổn khí, gây tác dụng ngược lại. Ngoài ra không thể tham nhiều, tham lam ắt tâm không kiên định mà nóng vội, huống hồ bách bệnh đều do tham mà ra, nên không thể lại tham mà làm cho bệnh t́nh càng thêm nặng là vậy.




49. Tâm thuộc tính Hỏa, Thận thuộc tính Thủy, Tâm Thận liên hệ tương hỗ. Hỏa cần giáng hạ, Thủy cần thăng lên, Thủy Hỏa tương tề, ắt khí trong thân thể sẽ bộc phát. Các bộ phận cơ thể vận động, có thể được mạnh khỏe. Điều này qua việc quan sát lưỡi có thể biết được. Lưỡi không có nước ắt không linh hoạt, v́ chữ hoạt (活) là do bộ Thủy và chữ lưỡi (舌) ghép thành. Lưỡi có thể báo cáo t́nh trạng nặng nhẹ của các loại bệnh bên trong thân thể, từ đó mà phán đoán việc sinh tử.




Nguồn: NTDTV



at 1:41 PM

florida80
04-16-2019, 19:25
100 Lời Khuyên Của Vị Thầy Thuốc Trung Y 112 Tuổi Lúc Lâm Chung (Phần 2) - NTDTV









50. Phương pháp tự cứu khi lâm đại bệnh: Một là không được sợ chết, tin tưởng rằng bệnh của ḿnh, không những có thể khỏi, mà thân thể có thể trở nên đặc biệt khỏe mạnh, sống lâu trường thọ. Bởi v́ bản thân cơ thể bản chất đă có năng lực này, không phải chỉ là suy nghĩ để tự an ủi. Hai là tin tưởng không cần dùng thuốc hoặc dựa vào bất kỳ thực phẩm dưỡng sinh nào, nhất định bản thân tự có khả năng trừ bệnh kéo dài tuổi thọ. Ba là bắt đầu từ hôm nay, phải quyết định không được lại động tới thân bệnh của bản thân, không được nghĩ tới bệnh của bản thân là bệnh ǵ, tốt hay xấu đều không được suy tính về nó, chỉ làm một người vô tư. Bốn là trong khoảng thời gian chữa trị, không được nghĩ tới công việc, cũng không được hối hận về công việc và thời gian đă mất, chuyên tâm nhất trí, nếu không sẽ lại chậm trễ có khi hỏng việc.




51. Phương pháp dưỡng tĩnh: an tọa (nằm) trên giường, đặt thân tâm nhất tề hạ xuống, toàn thân như ḥa tan, không được phép dùng một chút khí lực nào, như thể không có cái thân thể này vậy, hô hấp tùy theo tự nhiên, tâm cũng không được phép dùng lực, một niệm khởi lên cũng là đang dùng lực. Để tâm đặt xuống tận dưới bàn chân, như thế có thể dẫn hỏa đi xuống, dẫn thủy đi lên, tự nhiên toàn thân khí huyết sẽ thông thuận.






52. Yếu quyết tu luyện: tĩnh lặng theo dơi, tránh dùng lực


Yêu cầu cụ thể: Không cho phép bất cứ bộ phận nào dùng khí lực dù chỉ một chút, bao gồm ư niệm, hô hấp, tứ chi, cần làm được: mắt không nh́n, tai không nghe, mũi không ngửi, lưỡi không nếm, miệng không nạp (ăn), tâm không nghĩ. Đó là điều kiện duy nhất. Nếu có bất cứ hành vi tư tưởng, nghe, cảm giác nào đều là đang dùng khí lực, thậm chí cử động ngón tay cũng là dùng khí lực. Thở mạnh cũng lại là dùng khí lực. Không bao lâu hơi thở sẽ tự nhiên trở nên an ḥa, như thể không phải ra vào từ lỗ mũi, mà như thể 8 vạn 4 ngàn lỗ chân lông trên toàn cơ thể đều có động tác, hoặc nở ra hoặc khép lại, lúc này sẽ là trạng thái vô ngă vô thân vô khí vô tâm, tự nhiên tâm sẽ quy hồi vị trí bản nguyên. Cái gọi là dẫn hỏa quy nguyên, hay c̣n gọi là thủy hỏa kư tế, chính là bí quyết chung để điều trị bách bệnh.







53. Trường hợp chăm chút dưỡng sinh nhưng lại chết sớm, chiếm đến ba phần mười, vậy rốt cuộc là thế nào? Đó là v́ quá yêu quư thân thể của ḿnh. V́ cái thân xác này, sợ phải chịu xấu hổ, sợ bị nuông chiều, sợ chịu thiệt, sợ bị mắc lừa, lo trước lo sau, nh́n ngang nh́n dọc, lo lắng hốt hoảng, tính toán thiệt hơn … như thế, trái tim đó của anh ta cả ngày giống như quả hạch đào bị chó gặm đi gặm lại, làm sao mà có thể không chết chứ. Càng sợ chết, càng chết nhanh. Nếu bạn muốn dưỡng sinh, th́ phải không sợ chết. Chỉ có không sợ chết, mới có thể cách xa cái chết.


Người thực sự không sợ chết, đi đường sẽ không gặp phải hổ, nếu có gặp phải, hổ cũng không ăn thịt anh ta. Đánh nhau không gặp phải đao súng, nếu có gặp, đao súng cũng sẽ không làm anh ta bị thương. Tại sao? Bởi v́ anh ta không coi cái chết là ǵ, không sợ chết, cái chết cũng không có cách nào. Dưỡng sinh, mặc dù không phải là mục đích của việc tu đạo, nhưng người tu đạo đă nh́n thấu được sinh tử, cho nên sẽ không sợ chết nữa, v́ đă không sợ chết nữa, nên cái chết cũng không c̣n là vấn đề. Quan sinh tử đă qua rồi, c̣n ǵ mà không thể vượt qua nữa? V́ thế, người tu đạo có thể trường sinh. Không nghĩ đến trường sinh, trái lại lại có thể trường sinh. Tâm luôn nghĩ muốn trường sinh, trái lại càng nhanh chết. Trường sinh không phải là mục đích của tu đạo, nó chỉ là hiện tượng đi kèm của tu đạo.





54. Người có bệnh, lại không cho rằng ḿnh có bệnh, đây chính là bệnh lớn nhất của con người. Người mà biết bản thân ḿnh có bệnh liệu có được bao nhiêu?




55. Người mà ngày nào nửa đêm canh ba cũng vẫn c̣n ở trên mạng, bản thân đó chính là điều đại kỵ của dưỡng sinh. Bao gồm cả một số người gọi là danh y cũng thế. Ngoài ra, tâm của họ c̣n luôn tính toán so đo, thử hỏi người như vậy th́ đến bản thân c̣n không giữ nổi, th́ làm sao chữa bệnh cho người khác đây?




56. Đừng tham những cái lợi nhỏ nhặt, cái lợi lớn cũng đừng tham. Một từ tham nhưng bao hàm cả họa. Tham lam, suy tính thiệt hơn sẽ khiến cho người ta mắc các bệnh về tim. Tham lam, suy hơn tính thiệt là biểu hiện của việc không hiểu Đạo Pháp về cái lư tự nhiên.




57. Đừng có ngày nào cũng nghĩ xem ăn cái ǵ để bổ âm, ăn cái ǵ để tráng dương. Hăy nhớ kỹ, vận động là có thể sinh dương; tản bộ th́ có thể sinh âm. Âm là mẹ của dương, dương là được vận dụng bởi âm.




58. Người ta khi khí không đầy đủ, không được mù quáng mà bổ khí, nếu không ắt sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe. Nếu như v́ huyết không đủ, th́ cần phải bổ huyết trước, bởi v́ huyết là mẹ của khí, nếu không ắt sẽ thành dụng cụ thiêu đốt, làm cho nội tạng bị đốt cháy; nếu là v́ kinh lạc không thông, th́ có thể gia tăng khí huyết, đồng thời bồi bổ khí huyết. Như vậy mới có thể đạt được tác dụng của bổ khí.




59. Hoàn cảnh đối với người dưỡng sinh có tính trọng yếu là điều vô cùng rơ ràng. Đây chính là đạo lư mà v́ sao người ở những vùng không khí trong lành nơi rừng sâu núi thẳm, có thể dưỡng khỏi những bệnh tật khó chữa. Bởi v́ những vật chất tinh vi nơi rừng sâu núi thẳm (ion điện âm) sẽ thông qua trạng thái thả lỏng của con người trong khi hít thở sâu mà hấp thụ vào trong nội bộ nhân thể, từ đó mà tưới đều lục phủ ngũ tạng, khiến cho người ta có được sức sống mới. Ngoài ra c̣n có một điểm mà người thường không hề biết, đó chính là con người không chỉ hô hấp thông qua lỗ mũi, mà mỗi một lỗ chân lông trên thân thể con người đều có thể hô hấp, hơn nữa những ǵ chúng hấp thụ chính là tinh hoa của trời đất.




60. Con người trong trạng thái thả lỏng và tĩnh, hít thở sâu và chậm có thể cảm nhận được sự giao hoán những tinh khí của con người với trời đất: Trong khi hấp thụ khí, thực tế ngoại trừ lúc phổi đang hít khí vào, toàn bộ thân thể đều đang bài trừ khí bên trong thân thể ra ngoài, và đem khí của người phóng thích ra ngoài trời đất; c̣n khi phổi đang thải khí ra, thực tế con người đang hấp thụ tinh khí của đất trời thông qua các lỗ chân lông. Điều này đại khái chính là điều mà Lăo Tử đă nói “Thiên địa chi gian, kỳ do thác dược hồ”.






61. Khi vận động có hai điểm cấm kỵ: một là không được vận động khi khí huyết không đủ; hai là không được vận động trong môi trường bị ô nhiễm.

62. Vận động có hai tác dụng: một là gia tăng tốc độ vận hành của khí huyết, thúc tiến quá tŕnh bài xuất chất cặn bă trong thân thể ra ngoài; hai là khai mở lỗ chân lông trên da, để hấp thụ tinh khí của trời đất.

63. Ngộ tính là ǵ? Trí huệ là ǵ? Ngộ tính và trí huệ chính là xử dụng những phương pháp đơn giản nhất để xử lư, xem xét tất cả các sự vật. Nhưng có một số người thường hay gây nhiễu loạn luôn nh́n những sự việc đơn gian thành phức tạp, làm thành phức tạp. Phức tạp và đơn giản kỳ thực là một thứ, là hai mặt của một thứ. Điều người thông minh nh́n thấy là mặt đơn giản, điều người ngu xuẩn nh́n thấy là mặt phức tạp.

64. Con người không trị được bệnh, th́ cần phải nhờ Thần trị; Thần trị không khỏi bệnh th́ phải nhờ Phật trị. Phật giảng điều ǵ? Điều Phật giảng là tâm.


65. Bệnh viện và ṭa án ngày nay đều như nhau, có động tới hay không cũng đều đưa cho bệnh nhân giấy thông báo phán quyết tử h́nh. Mà trong nhiều t́nh huống, phán tử h́nh cho nhiều người đáng lẽ không bị tử h́nh. Tại sao lại nói như thế? Lấy “ung thư” làm ví dụ, trong tâm con người ngày nay ung thư đồng nghĩa với tử h́nh. Kỳ thực nếu như chúng ta không gọi nó là ung thư, thế th́ đối với bệnh nhân mà nói, chính là mang cho bệnh nhân một tia hi vọng, bằng như lưu lại cho họ một cơ hội sống. Cho nên tôi mới nói, bệnh nhân ung thư ngày nay có đến hơn một nửa là bị dọa chết, là bị áp lực tinh thần dày ṿ đến chết. Đồng thời cũng chính là bị bệnh viện hành hạ đến chết.



Bởi v́ một khi bạn bị chẩn đoán thành bệnh ung thư, họ sẽ có thể không kiêng nể ǵ cả mà tùy ư xử lư bạn, điều trị mà không chết coi như mệnh của bạn lớn, điều trị mà chết, th́ là do bệnh của bạn là ung thư. Sự thực mà nói, không có bệnh ǵ là trị không khỏi, chỉ là xem cái tâm của bạn có thể buông xuống được không, tất cả bệnh tật đều từ tâm sinh, tất cả bệnh tật cũng đều từ tâm mà trị. Chỉ cần bạn vẫn c̣n sống, bạn vẫn c̣n cơ hội. T́m thấy được cơ hội này, áp dụng nó đối với việc trị bệnh ung thư, bạn sẽ khỏe mạnh trở lại.


66. Hiện nay ngoài xă hội đều nói về cạnh tranh, việc này đă khiến cho mọi trật tự bị đảo loạn, khiến cho con người bị dẫn dụ vào ma đạo. Cạnh tranh là ǵ? Cạnh tranh chính là khiến người ta bị cuốn vào cảnh giới tham dục vô hạn. Một mặt bạn đề xướng cạnh tranh, một mặt bạn nói về những ǵ là xây dựng và ổn định xă hội, đây chẳng phải là điển h́nh của việc tự lừa ḿnh dối người sao.




67. Căn cứ vào nguyên lư âm dương tương hỗ mà xét, thanh khiết và vẩn đục là hấp dẫn lẫn nhau. Cho nên con người ăn vào những thứ tươi mới tất sẽ có tác dụng tương hợp với những vật chất bẩn trong cơ thể, từ đó mà bài trừ những thứ ấy ra ngoài.




68. Những vật chất vẩn đục sinh ra là do ăn vào những thực phẩm không sạch, nhưng chủ yếu là do ăn quá nhiều, cơ thể không thể tiêu hóa được khiến đống thức ăn thừa đó biến thành cặn bă.




69. Tùy kỳ tự nhiên là cảnh giới cao nhất của dưỡng sinh. Một người khi sinh ra, vận mệnh của anh ta căn bản là đă có định số rồi. Anh ta nên làm ǵ, không nên làm ǵ, nên ăn ǵ, không nên ăn ǵ, nếu như có thể thuận theo vận số của bản thân mà làm, th́ sẽ có thể được b́nh an vô sự. Người có ngộ tính sẽ phát hiện ra được, sẽ biết được vận mệnh của bản thân, biết được họ nên làm cái ǵ, không nên làm cái ǵ. Cho nên dưỡng sinh tuyệt đối không đơn giản là bắt trước, bảo sao làm vậy.

Không cần hâm mộ người khác, cần t́m ra ngộ tính của bản thân từ trong tâm của chính ḿnh. Vậy con người làm thế nào mới có thể phát hiện bản thân đă đạt được tùy kỳ tự nhiên hay chưa? Kỳ thực điều này quá dễ, khi bạn có bệnh, bạn cảm thấy không thoải mái, bạn thấy không được tự tại, chứng tỏ bạn đă đi ngược lại tự nhiên rồi. Cần làm được thuận theo tự nhiên của đại tự nhiên bên ngoài, ngoài ra c̣n phải thuận theo lẽ tự nhiên của vận mệnh bên trong bản thân, hai điều này đều không thể thiếu được.




70. Rất nhiều người khi nghe thấy bác sỹ tuyên bố bản thân bị mắc trọng bệnh, thường đều sẽ biểu hiện ra dáng vẻ không vui, hi vọng có thể dùng phương pháp cắt, gọt, độc, giết v.v… để loại bỏ căn bệnh đó, tuy nhiên, bệnh tật thực sự không phải sản sinh từ đó? Trên thế gian tuyệt đối không có hiện tượng “đang khỏe mạnh đột nhiên sinh bệnh”. Lấy cảm mạo làm ví dụ, nếu thực sự yêu cầu bệnh nhân tự làm kiểm điểm, thông thường bệnh nhân sẽ cho biết, bản thân trước khi cảm mạo, đă trải qua vài lần thức thâu đêm; có người sẽ nói rằng bản thân bị trúng gió lạnh, bị dính mưa ướt; có một số người lại nói do áp lực công việc quá lớn, thường xuyên đau đầu, mất ngủ. Kỳ thực, những hiện tượng như thế, đều có thể là nhân tố dẫn tới cảm mạo, nói thêm nữa, nếu như độ mẫn cảm và tính cảnh giác của con người đầy đủ, tự nhiên sẽ có thể đạt được mục đích “đề pḥng tai họa”.




71. Khoa học chân chính là ǵ? Chính là nhân duyên quả báo. Không tin nhân quả, th́ không phải là khoa học chân chính.




72. Cái tâm không sợ chịu thiệt, không sợ bị người khác chiếm lấy lợi ích. Hay nói một cách khác là bạn có thể chịu thiệt, người khác muốn lấy mạng của bạn mà bạn vẫn có thể buông xả, bạn đều có thể cho họ hết, hơn nữa tự bản thân trong bất kỳ hoàn cảnh nào đều không ham lợi ích, khi đó cái tâm của bạn có thể sẽ không định (tĩnh lặng) sao? Con người trên thế gian có ai làm được? Nhưng Phật là có thể làm được.




73. Sau khi con người nắm vững được phương pháp về sức khỏe, họ sẽ thực sự hưởng thụ được một trạng thái tự tin khi không c̣n lo sợ mắc bệnh. Cái loại cảm giác này thật tuyệt, hy vọng rằng bạn và chúng tôi đều có thể có được trạng thái tự tin đó.




74. Khi học vấn thâm sâu ư chí sẽ b́nh lặng, tâm định ắt khí sẽ yên. Cho nên đối với một người đắc Đạo mà nói, quan sát một người, không phải là một việc quá khó khăn, đây cũng là kết quả của tướng tùy tâm chuyển.




75. Danh là điều khó phá vỡ nhất trong ngũ dục, sắc đứng thứ hai, tiếp theo là tài, sau đó là ăn và ngủ. Tâm về danh không bỏ, th́ không có cách nào nhập Đạo.




76. Khởi nguồn của bách bệnh, đều bắt nguồn từ việc bị gió độc thừa cơ xâm nhập. Nếu như thân thể khí suy nhược, khả năng pḥng vệ kém, hoặc ưu tư sợ hăi, đắm ch́m trong tửu sắc, làm việc quá lao lực, chân khí sẽ bị hao tổn từ đó tà ngoại thừa cơ tấn công.




77. Trị bệnh về ngũ tạng, đầu tiên cần phải bổ khí. Khi bổ khí cấm động tâm, tâm động ắt gan vượng, gây chấn động mạch, chân thủy sẽ hao tổn. Tâm là quạt, sẽ dẫn khởi gió. gió động ắt hỏa vượng, hoặc vượng ắt thủy can, thủy can ắt địa tổn.




78. Đối với bác sỹ mà nói, tâm định thần nhất, người được chữa bệnh có tín tâm kiên định, lưỡng tâm tương hợp, có thể trị được bách bệnh.




79. Qua trường hợp Hitler đi ṿng qua pḥng tuyến kiên cố Maginot của quân đội liên minh, tôi ngộ ra rằng: để đối phó với một số bệnh cứng đầu, không thể tấn công cứng nhắc từ chính diện, cần đột phá từ những phương diện khác có liên quan. Chẳng hạn như việc điều trị các bệnh cứng đầu như bệnh thận, bệnh gan, có thể đạt được hiệu quả thông qua việc điều chỉnh phổi và lá lách v.v…




80. Trung Dung, là nguyên tắc căn bản của dưỡng sinh. Khí huyết trong cơ thể người cũng là một cặp âm dương, huyết là âm là thể, khí là dương là dụng. huyết là mẹ của khí, khí là chủ tướng của huyết. Khí không đủ, dễ mắc các bệnh do ứ trệ tạo nên như mọc u, tắc động mạch; khí quá độ; dễ mắc các bệnh về xuất huyết năo. Cho nên, chỉ khi khí huyết cân bằng, con người mới có thể khỏe mạnh.




81. Con người chỉ khi ngộ ra được cái ǵ là “tự nhiên”, mới được coi là đắc đạo. Biết được tự nhiên, sau đó mới có thể tùy kỳ tự nhiên. người này chính là Thần nhân. Hiểu được âm dương, hiểu được tùy kỳ tự nhiên, bạn nhất định sẽ trở thành lương y đại đức.




82. Cái ǵ là tự nhiên, tự nhiên chính là bất kỳ sự vật ǵ đều có hai mặt âm dương, bất kỳ sự vật nào đều cần trải qua quá tŕnh Sinh (sinh sản), Trưởng (tăng trưởng), Thu (thu hoạch), Tàng (tàng trữ). Bạn thuận theo quá tŕnh này, sử dụng nguyên lư tương sinh tương khắc của ngũ hành để điều tiết sự cân bằng của bệnh nhân, làm sao mà không trị được khỏi bệnh chứ.




83. Đơn giản và phức tạp là một cặp âm dương, sự t́nh càng phức tạp, thường thường sử dụng biện pháp đơn giản nhất lại có thể giải quyết. Cũng đồng dạng như thế, một vấn đề nh́n tưởng chừng đơn giản, để giải quyết nó bạn sẽ thấy thật không dễ dàng, bạn phải phó xuất nỗ lực rất lớn cũng không nhất định giải quyết được. Điều này giống cương nhu vậy, cực nhu có thể khắc chế cương, cực cương th́ nhu cũng không thể chống. Cho nên, chúng ta khi giải quyết vấn đề cần có lối suy nghĩ rằng, gặp phải vấn đề phức tạp nên t́m biện pháp đơn giản để giải quyết, gặp phải vấn đề đơn giản đừng vội coi thường nó, cần phải chú trọng đủ mức tới nó.




84. Chúng ta hăy thử xem trong thế giới này có phải là có tồn tại đạo lư đó hay không. Liệu có được mấy người có thể tùy kỳ tự nhiên trong việc ăn ngủ, có được mấy người có thể tuân thủ tự nhiên. Bạn tuân thủ không được, v́ sao? Bởi v́ nó quá đơn giản, chính v́ quá đơn giản, cho nên bạn không dễ mà có thể tuân thủ. Đây gọi là phép biện chứng.




85. Cái ǵ là cân bằng? Cân bằng chính là sự tồn tại dựa vào nhau và khắc chế nhau của âm dương, phương diện nào quá độ hoặc quá kém cũng sẽ khiến mất đi sự cân bằng. Tổn thương nguyên khí là ǵ, mất đi sự cân bằng chính là tổn thương nguyên khí. Thường xuyên ở trong trạng thái cân bằng, nguyên khí ắt sẽ được bảo tŕ tốt, con người sẽ lăo hóa chậm.




86. Đạo về âm dương chính là sự tương hỗ dựa vào nhau và chuyển hóa lẫn nhau của hai phương diện mâu thuẫn đối lập. Bất kỳ một cặp mâu thuẫn nào, nếu một bên thoát ly khỏi bên kia, không c̣n chịu sự ức chế của đối phương nữa, th́ thời điểm mà nó bị diệt vong cũng không c̣n xa. Bạn thử nh́n xem, xă hội ngày nay, các lănh đạo đều không thích bị khống chế, thích được độc lập tự do, thích làm theo ư ḿnh, tham ô hối lộ, thế th́ kết quả là ǵ đều có thể tưởng tượng ra được. Âm và dương chính là như thế. Trong đại tự nhiên, khi một sự vật xuất hiện, đều có mang theo nhân tố do nó sinh ra, nhưng đồng thời cũng sẽ xuất hiện một nhân tố để khắc chế nó. Đó chính là đạo lư ngũ hành tương sinh tương khắc, cũng là đạo lư dựa vào nhau, ức chế lẫn nhau của âm dương. Cho nên đạo lư dưỡng sinh cũng vậy, khi bạn bị bệnh, luôn tồn tại một nhân tố khiến bạn sinh bệnh, đồng thời cũng sẽ có một nhân tố ức chế nó, có thể giúp bạn tiêu trừ nhân tố gây bệnh. Tương tự như thế trong thế giới tự nhiên, tại chỗ có tồn tại rắn độc, chắc chắn khu vực xung quanh sẽ có tồn tại loại thảo dược có thể giải độc.




87. Cái ǵ gọi là đắc ư vong h́nh (v́ đắc ư mà quên đi dáng vẻ vốn có của ḿnh) ? Anh ta đă mất đi sự khống chế, mất đi sự ức chế của mặt âm, cho nên kết quả nhất định là …. cũng như thế con người không nên để tinh thần sa sút, v́ như thế sẽ mất đi sự ức chế của mặt dương đối với họ.




88. Làm thế nào để có đại trí huệ? Nếu không có tấm ḷng quảng đại, ở đâu mà có đại trí huệ chứ.




89. Tục ngữ có nói, sống đến già, học đến già. Học tập cũng cần phải hợp thời, đến tuổi nào th́ học những điều mà ta nên học vào giai đoạn ấy, nếu không ắt sẽ không hợp thời, không tùy kỳ tự nhiên. Nhưng hăy xem sự giáo dục của chúng ta ngày nay, từ nhà trẻ đến đại học, có bao nhiêu điều là đáng để học. Lúc c̣n nhỏ nên học cái ǵ. nên học đạo đức, học hiếu đạo, tiếp theo là học nhận biết chữ, dấu chấm câu, tiếp theo là học cách làm việc. Đến tuổi thanh niên th́ học cách làm sao để sống tốt giáo dục con cái tốt, làm cho gia đ́nh hạnh phúc. Đến tuổi trung niên, học tập đạo dưỡng sinh. Đến những năm tuổi già, học cách buông bỏ tâm thái, an hưởng tuổi già. Ngành giáo dục cần học ǵ, chính là học những thứ này.




90. T́nh chí (7 loại t́nh cảm của con người) đối với bệnh tật có mối tương quan mật thiết với nhau, có một số bệnh tật là do t́nh chí gây ra, bạn dùng thuốc trị liệu, trị măi mà vẫn không khỏi, đối với loại bệnh tật này, muốn cởi chuông th́ phải t́m người buộc chuông. Ngũ chí có thể gây bệnh, ngũ chí cũng có thể giải trừ bệnh.




91. Dưỡng sinh có một điều rất trọng yếu, đó là không được sợ chết. Người sợ chết dương khí không đủ, dương khí không đủ, tử thần sẽ t́m ra được bạn. Đây chính là điều mà đạo gia giảng, người tu luyện cần có một khí chất anh hùng. Nhân, trí, dũng không thể thiếu một trong ba.




92. Khi nào bạn lấy học vấn lư giải được nó là vô cùng đơn giản và b́nh dị, lúc này bạn mới là chân chính đạt được một trong tam muội. Nếu như bạn vẫn c̣n cảm thấy nó là bác đại tinh thâm, thâm sâu không thể đo lường, chứng tỏ bạn vẫn chưa nắm được tinh túy của nó, mới chỉ nh́n thấy phần tươi tốt của lá cây, mà vẫn chưa nh́n thấy được căn bản của nó, lúc này bạn mới chỉ ở giai đoạn “có”, vẫn chưa đặt được cảnh giới của “vô”. Tất cả đều không thoát được âm dương, vạn sự vạn vật đều không thoát khỏi được âm dương. Căn bản của điều này chính là âm dương. Biết được một điều này, mọi sự đều có thể hoàn thành.




93. Tập trung tinh thần định khí, quên đi cả bản thân và mọi sự vật. Đó là cốt lơi của dưỡng sinh




94. Chủ minh ắt hạ an, theo đó để dưỡng sinh ắt sẽ thọ, t́nh thế sống chết cũng không nguy hiểm, thiên hạ ắt sẽ hưng thịnh. Chủ bất minh ắt thập nhị quan gặp nguy, khiến cho đạo tắc nghẽn không thông, thực thể liền bị thương tổn, theo đó để dưỡng sinh ắt sẽ mang họa, người trong thiên hạ, và gia tộc này sẽ gặp đại nguy, nghiêm cấm nghiêm cấm !




95. Ứng dụng của ngũ hành tương sinh tương khắc: Phàm là do ngũ tạng hoạt động thái quá sẽ gây ra bệnh tật, đều có thể dùng phương pháp ngũ hành tương sinh tương khắc để trị. Giống như thế, phàm là v́ ngũ hành không đủ dẫn khởi bệnh tật th́ đều có thể dùng phương pháp ngũ hành tương sinh tương khắc để giải quyết. Đây là nguyên tắc căn bản của phép vận dụng ngũ hành.




96. Người hiện đại thường chú trọng vào phương diện truy cầu đề cao chất lượng cuộc sống, hậu quả của loại truy cầu này rất đáng sợ. Cần biết, dục vọng của con người đối với vật chất là không có giới hạn. Khi mà loại dục vọng này không được khống chế, cũng tương đương sự thống khổ không có giới hạn của chúng ta. Kỳ thực, vật chất có thể đem lại sự hưởng thụ, th́ tinh thần cũng có thể; thuốc có thể trị bệnh, th́ phương pháp trị liệu tâm lư cũng có thể làm được. Cho nên, chúng ta dùng cả cuộc đời để truy cầu tài phú, th́ chi bằng hăy dùng quăng thời gian ấy để bồi dưỡng một loại tâm thái tốt, khiến cho tinh thần của chúng ta đạt tới một loại cảnh giới siêu phàm.




97. Sau khi con người nắm vững được phương pháp về sức khỏe, họ sẽ thực sự hưởng thụ được một trạng thái tự tin khi không c̣n lo sợ mắc bệnh. Cái loại cảm giác này thật tuyệt, hy vọng rằng bạn và chúng tôi đều có thể có được trạng thái tự tin đó.




98. Thân thể của chúng ta là một cơ thể có đầy đủ trí tuệ và chức năng, thân thể của chúng ta có rất nhiều “lính gác” như: răng, ruột thừa, a-mi-đan v.v… Khi thân thể chúng ta có hiện tượng dị thường (thông thường là “thăng hỏa”), những lính canh này sẽ lập tức phản ứng thông báo tới đại năo. Người thông minh lúc này nên điều tiết lại tâm thái, kiểm điểm bản thân, để thân thể cân bằng hài ḥa trở lại. Vậy mà hiện nay Tây y đều làm những việc ǵ? Bạn bị đau đúng không, tôi sẽ cắt bỏ bộ phận bị đau của bạn. Hiện nay thậm chí c̣n có người, phát minh ra một loại máy, bạn bị viêm mũi dị ứng sẽ phải hắt x́ hơi đúng không? Vậy tôi sẽ đốt cháy khu vực thần kinh mẫn cảm trong mũi của bạn, như thế sau này mũi bạn có bị kích thích ǵ đi nữa cũng sẽ không bị hắt hơi. Hậu quả của những việc làm như thế của Tây y chính là sau này nếu chúng ta lại tiếp tục bị bệnh, th́ bộ phận bị cắt bỏ chính là lục phủ ngũ tạng của chúng ta.




99. Hăy nhớ kỹ, khi chúng ta ngẫu nhiên bị đau bụng, hắt hơi, ho, phát sốt v.v… đều là hệ thống phục hồi thân thể của chúng ta đang hoạt động, đừng có quá lạm dụng thuốc khi vừa mới xuất hiện bệnh trạng, nếu không chính thuốc ấy sẽ phá hoại chức năng phục hồi thân thể của bạn, khi mà chức năng phục hồi của bạn bị suy yếu hoặc mất đi, thế th́ bạn đă giao vận mệnh của ḿnh cho thuốc rồi. Nên nhớ rằng, nếu bệnh trạng không nghiêm trọng, biện pháp tốt nhất là dưỡng tĩnh, an tâm tĩnh khí có thể khiến hệ thống sữa chữa của bản thân hoàn thành được công tác phục hồi. Cho nên, mỗi một người trong chúng ta cần thận trọng khi dùng thuốc, để cho hệ thống hồi phục chức năng của cơ thể được khôi phục, đây mới chính là đạo chân chính trong việc giữ ǵn sức khỏe.




100. Rất nhiều trọng bệnh hoặc bệnh hiểm nghèo, đều chỉ bắt nguồn từ một lư do: Hận. Khi mà cái hận này biết mất, bệnh ắt cũng theo đó mà tiêu trừ. Trong thế gian này điều khó giải quyết nhất chính là hận thù kéo dài, chính v́ không hóa giải được cái hận đó, mới có những bệnh không thể trị khỏi được. (Hết)



Nguồn: NTDTV

florida80
04-16-2019, 19:27
https://youtu.be/TFbv757kup4

florida80
04-16-2019, 19:29
Dr. Oz addresses the top body pains viewers search for online. Learn how to decode your pain today.




https://youtu.be/xN1v-eTLJwY

florida80
04-16-2019, 19:31
https://youtu.be/geZmAsTSx5g

Tension headaches are often caused by tension in the neck and at the base of the skull. In this movie, we'll show you some easy exercises you can do at home to alleviate your neck tension and help your headache pain to feel better.

florida80
04-16-2019, 19:32
22 foods you can eat a lot of and still not gain weight. We have to admit, eating healthy isn’t all that bad. There are some really yummy foods out there that actually taste pretty good. And the best part? You can eat them as much as you want without worrying about your diet. That’s right. There are a number of foods out there that you can enjoy eating without worrying about gaining a couple

https://youtu.be/yqM_A99edaQ

Timestamps:
Number 1. Popcorn:42:29
Number 2. Celery Sticks:53:06
Number 3. Eggplants:01:03
Number 4. Citrus Fruits:01:17
Number 5. Melons In General:01:28
Number 6. Algae:01:41
Number 7. Zucchini:01:56
Number 8. Cucumber:02:09
Number 9. Beets:02:20
Number 10. Whole Eggs:02:32
Number 11. Pineapples:02:49
Number 12. Apples:03:00
Number 13. Salads:03:12
Number 14. Currants And Cranberries:03:24
Number 15. Brassica Oleracea:03:46
Number 16. Boiled Potatoes:04:01
Number 17. Oatmeal:05:08
Number 18. Broth-Based Soups:05:39
Number 19. Legumes:06:31
Number 20. Fish:07:08
Number 21. Cottage Cheese:08:14
Number 22. Kale Chips:08:52

Music:
https://www.youtube.com/audiolibrary/...

Summary:
Number 1. Popcorn. This movie theatre staple is probably the healthiest snack you can enjoy. If you make it without butter and sugar, you can go crazy with it!

Number 2. Celery Sticks. If you’re craving something crunchy and chips are out of the question, pig out on celery stems. You’ll actually lose weight eating them.

Number 3. Eggplants. While these aren't really in your average American diet, Eggplants can be really yummy. If you make it properly, by grilling or baking it, you can enjoy this delicious veggie with no limitations.

Number 4. Citrus Fruits. You shouldn’t eat a lot of fruits while on a diet, but citrus fruits are definitely an exception. They are great for your skin and digestion.

Number 5. Melons In General. Watermelon and melon actually help you get rid of excess liquid from your body. Therefore, you can enjoy these fruits as a snack all day, every day.

Number 6. Algae. You might think of this as something that only Spongebob eats, but stay with us here. Algae can help your thyroid function by keeping your hormones at a normal level. This results in preventing you from gaining those extra pounds.

Number 7. Zucchini. Like eggplant, zucchini can be a delicious meal if made properly. There are a ton of benefits to eating it, but it’s so low in calories that you can enjoy it endlessly.

Number 8. Cucumber. A lot of us might not be such fans of cucumber but once you get used to the taste, it’s perfect for losing weight. Also, you can enjoy it in your water.

Number 9. Beets. Having beets in a salad is really yummy and is key to helping you lose weight. They also help burn fat more efficiently and you can eat them until you turn pink.

Number 10. Whole Eggs. These breakfast staples are great for your health, especially if they're the "whole" variety. Eggs are also really tasty and there are a ton of different ways you can make them. Best part? You can eat them for breakfast, lunch, and dinner without gaining weight.

Number 11. Pineapples. Who doesn’t like Pineapple (if it isn't on pizza, of course)? They are so delicious and sweet and you don’t even have to worry about gaining any pounds.

Number 12. Apples. Having one apple is enough to make you full and is great for regulating your digestion. Plums are also rich in vitamin C and potassium. And they’re delicious

Number 13. Salads. It’s not shocking to say that salad is something that we can all eat as much as we want. Of course, without the super fattening dressing. But you can make it yummy!

Number 14. Currants And Cranberries. While it might sound like the next Post Malone album, it's actually two of the best foods you can eat if you're on a diet. Currants and cranberries are great to snack on and also throw into your salad. They have almost no calories and are rich in vitamin C. This also helps getting rid of excess water.

Number 15. Brassica Oleracea. You know, the vegetables that look like little trees. Cabbage, broccoli, and cauliflower are your allies in the fight against excess weight. They also have almost zero calories.

florida80
04-16-2019, 19:34
Start at:



































Published on Aug 23, 2018


This is what eating a banana and an avocado every day will do to your body. Fruits and vegetables are vital for maintaining a healthy lifestyle. They contain vitamins and minerals that keep our body functioning at a high level. So, if you’re familiar with your fruits and vegetables, than you probably know that bananas and avocados both contain potassium and magnesium.

These two fruits are considered powerhouses because of the endless benefits they provide, but it was only recently that scientists have found that bananas and avocados may also prevent a serious health risk from occurring.

#Banana #Avocado #Nutrition


Music:
https://www.youtube.com/audiolibrary/...

Summary:
The heart is the biggest organ in the body. It keeps us alive and pumps blood throughout our whole body. But when it becomes compromised, scary things can happen, like a heart attack.

Doctors and scientists are constantly researching ways to prevent heart attacks from occurring, and now they believe that consuming bananas and avocados could potentially be added to that list of ways to prevent one.

The research was done at the University of Alabama and can also be found in the journal JCI Insight. What scientists gathered from their research was that if an individual consumes at least one banana or avocado per day, they could increase their chances of protecting their heart from heart disease.

The research team also found that bananas and avocados could also lower the risk of arterial blockages, which often requires a major bypass surgery. Their reason behind their findings is that the potassium found in bananas and avocados actually reduced vascular calcification, which is one of the complications that kidney disease and cardiovascular disease encounter.

In order to gather their findings, the team gave mice different diets that contained low, normal or high levels of potassium.

What they found was that the mice who received the highest level of potassium had substantially more pliable arteries, while those who were given lower amounts harder arteries.

This also goes the same for humans. When you include foods in your diet that have high levels of potassium and magnesium, it’s natural that these types of symptoms (soft and hard arteries) are alleviated, mainly the stiffness of the arteries.

The reason why stiff arteries are a main concern for doctors is because they can cause the heart to work harder to pump blood through the body. Artery calcification is just one of the many problems a large amount of potassium in your diet can help prevent.

Protecting your arteries can help you prevent serious related conditions such as: heart disease, a stroke, metabolic syndrome, chronic kidney disease, and hypertension.

Now I’ve been using the word calcification a lot, and it is the buildup of calcium in your tissues, organs and blood vessels. While the calcium builds up, it can stop necessary processes that keep your body working properly.

According to scientists: “Arteriosclerosis is a defect occurring in the artery (blood vessels carrying oxygenated blood) walls. It refers to hardening of the normally flexible walls due to loss of elasticity of the arterial musculature. When young, the arteries are flexible due to the presence of a protein called elastin.”

They also explained that “As age advances, there is loss of this elastin causing thickening of the arterial walls. Atherosclerosis is another condition that refers to the deposition of fat plaques and cholesterol globules within the arteries causing narrowing of the lumen of the arteries.”

Scientists also made reference that vascular smooth muscle cells (VSMCs), also contribute to vascular calcification in arteriosclerosis. They also went on to state that “Arterial stiffness has become an independent predictor of cardiovascular morbidity and mortality, representing an important health problem for the nation as a whole.”

Bananas help balance your sugar level, because they don’t raise your glycemic index. They can help maintain your blood pressure level, and they can also help lower your chances of developing kidney stones because of the high amounts of potassium.

Avocados provide loads of nutrients that positively impact almost every part of your body, but mainly your heart and arteries. They contain fiber, which like bananas, will provide you with energy. They also contain vitamin C, vitamin K and folate, which are all essential ingredients to maintaining a healthy body.

florida80
04-16-2019, 19:36
https://youtu.be/2CygNfW2UvI






















































.














































Published on Dec 15, 2018


What are the benefits of eating eggs? Do you wanna know what eating just one boiled egg a day will do for you? We're about to tell you about that!

In fact, this product is balanced by nature itself. It contains a whole slew of vitamins and important elements. Egg yolk contains healthy fats that help cells function properly, and this includes the ones in your immune system. With a boost in your immunity, you’ll see yourself getting sick a lot less often!

TIMESTAMPS:
What does an egg contain? 0:46
What does the eggshell contain? 4:50
How eggs can benefit your mental health 5:26
Why eggs are the perfect product for those wishing to lose weight 6:02
Beauty benefits of eggs 6:18
How to keep eggs correctly 7:42

#eggs #benefitsofeggs #healthydiet

Music by Epidemic Sound https://www.epidemicsound.co m/

SUMMARY:
- Since the whole purpose of an egg is to provide the embryo with vital nutrients, then this product is balanced by nature itself.
- Egg yolk contains healthy fats that help cells function properly, and this includes the ones in your immune system.
- Got used to eating one egg for breakfast every day? You’ll soon notice that your mind is becoming sharper and sharper.
- Vitamin D can also be found in eggs. This vitamin helps your body absorb calcium.
- The unique combination of selenium and zinc found in eggs plays the role of an effective antioxidant that will remove harmful substances from the body.
- Eggs are also recommended to those who are planning pregnancy. They contain Vitamin B9 (or folic acid), which is vital for the health of a fetus.
- Due to a high content of phospholipids, eggs help the liver cope with toxic substances, including alcohol!
- Eggs can benefit your mental health and put you in a good mood. They contain tryptophan, which boosts the production of the “happiness hormone” serotonin.
- Eggs are easily digested and contain few calories, making them the perfect product for those wishing to lose weight.
- Eggs contain B vitamins, which will give you this au-naturel makeover

florida80
04-16-2019, 19:39
These Foods Make Cancer Cells Grow In Your Body! Stop Eating Them Right Now!
.




https://youtu.be/5n5kQusJ_QE











































.









https://i.imgur.com/bHAbWm2.jpg




.



























































Published on Mar 26, 2018


These Foods Make Cancer Cells Grow In Your Body! Stop Eating Them Right Now!
We have come to know, through medical research, and ancestral wisdom, that there are foods, that contain certain nutrients, that prevent, and, or kill cancerous cells, in the body.
But are there foods, that cause cancer, to develop, and grow?
Below are cancer-causing foods, to avoid to stave off cancer; they may not directly cause cancer, but they sure do contribute, towards the condition.

florida80
04-16-2019, 19:44
https://youtu.be/E208XhVG7cU






In this video I talk about 5 very common fish that have worms in their meat.

florida80
04-16-2019, 19:47
https://youtu.be/MXz7cjMQpuw

florida80
04-16-2019, 19:48
https://youtu.be/Y1KsvQwoiZE

florida80
04-16-2019, 19:50
https://youtu.be/bTHwkh7nHZE

florida80
04-16-2019, 20:02
6 Foods that help cleanse the liver
.






































6 Foods that help cleanse the liver










The liver is a gland that secretes chemicals required by
other parts of the body. In fact, the liver is the only part of
your body that is both an organ and a gland. A healthy
liver regulates the composition of blood, removes
harmful toxins from the blood as well as processes and
converts nutrients absorbed by the intestines during
digestion into forms that the body can use. It also stores
some vitamins, iron and simple sugar glucose.
Many foods can help cleanse, rejuvenate and detoxify your
liver. Here are the top 10 liver-cleansing superfoods.

Number One.
Garlic.

Garlic is great for cleansing your liver. It helps activate enzymes
in the liver that help clear out toxins. It also contains two
natural compounds called allicin and selenium, which aid
in the liver-cleansing process and protect the liver from
toxic damage. Moreover, garlic reduces cholesterol and
triglyceride levels, which can overload the liver and hamper
its functioning. To promote liver health, use fresh raw garlic
instead of processed, minced garlic or powder. Eat 2 or 3
raw garlic cloves daily and include garlic in your cooking
whenever possible. You can also take garlic supplements,
but only after consulting your doctor.

Number Two.
Grapefruit.

Being a good source of vitamin C, pectin and antioxidants,
grapefruit also aids the natural cleansing process of the liver.
It also contains glutathione, a powerful antioxidant that
neutralizes free radicals and detoxifies the liver.
Glutathione also helps in the detoxification of heavy metals.
Moreover, the flavonoid naringenin in grapefruit helps
break down fat. Drink a small glass of freshly squeezed
grapefruit juice or enjoy the whole fruit with your breakfast
daily. Note: If you are on medications, consult your doctor
before taking this fruit as it may interact with certain drugs.

Number Three.
Beetroots.

Beetroots are another powerful food for cleansing and
supporting liver function. High in plant flavonoids and
beta-carotene, they help stimulate and improve overall
liver function. Moreover, beetroots are natural blood purifiers.

Simply add fresh beetroots or juice to your daily diet.
Make a powerful liver-cleansing salad with 1 cup of chopped or
grated beetroots, 2 tablespoons of cold-pressed extra-virgin
olive oil and the juice of ½ lemon. Mix all the ingredients
together and eat 2 teaspoons of it every 2 hours during the day for a week.

Number Four.
Lemons.

Lemons help detoxify the liver mainly due to the antioxidant
D-Limonene present in it, which helps activate enzymes in the
liver that aid detoxification. Moreover, the high amount of
vitamin C in lemons helps your liver produce more enzymes to
aid digestion. Lemons also boost mineral absorption by the liver.
Make lemon water at home by adding the juice of 1 lemon to
a jar of water. You can even add chopped lemons to it.
Drink this water at regular intervals. If desired, add a little honey.

Number Five.
Green Tea.

By drinking green tea daily, you can help your body flush out
toxins and fat deposits, while increasing hydration levels.
A 2002 study published in the International Journal of
Obesity found that the catechins in tea help stimulate
lipid catabolism in the liver. This in turn prevents fat
accumulation in the liver. This healthy beverage also protects
the liver from the damaging effects of toxic substances like alcohol.
Green tea is also beneficial in treating or preventing liver disease.
According to a 2009 study published in Cancer Causes and Control,
people who drink green tea have a lower risk of developing liver cancer.
Drink 2 to 3 cups of green tea daily. If desired, sweeten your tea with honey.
Note: Avoid drinking green tea in excess as it can have an
adverse impact on your liver and other body parts.

Number Six.
Turmeric.

Turmeric is another popular and effective liver-cleansing
food. It also improves the body’s ability to digest fats.
The compound curcumin in turmeric induces the formation
of a primary liver detoxification enzyme called glutathione
S-transferase. It also helps regenerate damaged liver cells.
Mix ¼ teaspoon of turmeric powder in a glass of water and
boil it. Drink it twice daily for a couple of weeks.
Also, include this spice in your daily cooking.


https://youtu.be/dJLHk6wjZrk

florida80
04-16-2019, 20:05
10 Warning Signs That Your Liver Isn’t Functioning Properly | Liver Not Functioning Properly
.

Remedies One

Remedies One























Subscribe208K























.

Add to
Share
More











14,197 views



157 14 .



































https://youtu.be/dtjIOn9jWoM






10 Warning Signs That Your Liver Isn’t Functioning Properly | Liver Not Functioning Properly Symptoms
Liver – the heaviest and the second largest organ in the human body. It is probably one of the most hardworking organs of the body and performs a number of functions. It is a key player in our body’s digestive system as whatever you eat or drink passes through it.

florida80
04-16-2019, 20:07
How To Detox Your Liver
.

Beauty Within

Beauty Within























Subscribe1.5M























.

Add to
Share
More











1,356,149 views



26,623 1,150 .



















































https://youtu.be/BZgNPJArsRI






If you're feeling sluggish or have excess weight you can't get rid of, chances are you are not taking good care of your liver!
Just like the rest of your body, your liver needs to detox in order to function better.
Here is what to avoid, what to eat and pressure points that will help protect and detox your liver

florida80
04-16-2019, 20:10
Those who are unfortunate enough to suffer from it know that Gout is an extremely painful thing. It is as inflammation of the joints caused by a buildup of needle-sharp uric-acid crystals.

The big toe is the most common target, but gout can attack the feet, ankles, knees, and hands as well.

An attack or “flare” can last for days or months. Obese people are more likely to suffer from it. If you’re prone to gout, the foods you eat—and don’t eat—play a key role in keeping your joints pain-free.

These health secrets offer natural cures to prevent hyperuricemia. Keep a look out on your Uric Acid Symptoms!

Here are ten foods to avoid.

https://youtu.be/ZkSoAeD9SFs

florida80
04-17-2019, 18:20
CÁC LOẠI BỆNH GAN
(LIVER DISEASES c̣n được gọi là HEPATIC DISEASES)

Lynn Ly Phỏng Dịch theo trang web MedLine Plus
( wxw.nlm.nih.gov/medlineplus/liverdiseases.html )



CÁC LOẠI BỆNH GAN
(LIVER DISEASES c̣n được gọi là HEPATIC DISEASES)

Gan là cơ quan nội tạng lớn nhất trong cơ thể của bạn. Nó cũng là một trong những cơ quan nội tạng quan trọng nhất. Gan có nhiều việc làm, bao gồm cả thay đổi thức ăn thành năng lượng và làm sạch chất alcohol / chất rượu và các chất độc ra khỏi máu. Gan cũng tạo ra mật, một chất lỏng màu vàng-xanh để trợ giúp tiêu hóa.

Có nhiều loại bệnh gan. Virus / virut/ siêu vi gây ra một số trong số bệnh gan, giống như viêm gan A (hepatitis A), viêm gan B (hepatitis B) và viêm gan C (hepatitis C). Những bệnh gan khác có thể là kết quả của thuốc uống, độc tố / thuốc độc, hoăc uống quá nhiều rượu / loại nước uống có chứa nhiều alcohol. Nếu gan h́nh thành mô sẹo do một loại bệnh, th́ được gọi là xơ gan (cirrhosis). Vàng da (Jaundice), hoặc vàng da (yellowing of the skin) , có thể là một dấu hiệu của bệnh gan.

Giống như các bộ phận khác của cơ thể, ung thư có thể ảnh hưởng đến gan. Bạn cũng có thể bị di truyền một căn bệnh gan như bệnh nhiễm sắc tố sắt mô (hemochromatosis).

VIÊM GAN A
(Hepatitis A c̣n được gọi là HAV)

Viêm gan A là một loại viêm gan - một loại bệnh gan - gây ra bởi virus/virut/siêu vi viêm gan A (HAV). Bệnh lây lan chủ yếu qua thức ăn hoặc nước bị ô nhiễm từ phân người bị nhiễm bệnh. Bạn có thể bị viêm gan A (HAV) từ :
•Ăn thực phẩm do một người bị bệnh viêm gan A (HAV) mà họ không rửa tay sau khi đi nhà vệ sinh (đi tiêu tiểu)

•Quan hệ t́nh dục qua đường hậu môn hay đường miệng với người mắc bệnh viêm gan A (HAV)

•Không rửa tay sau khi thay tă lót

•Uống nước bị ô nhiễm


Viêm gan A (HAV)gây nên sự sưng gan, nhưng hiếm khi gây tổn hại lâu dài. Bạn có thể có cảm thấy giống như bạn từng bị cảm cúm, hoặc bạn có thể không có triệu chứng nào cả. T́nh trạng sức khỏe thường tự trở nên tốt hơn sau vài tuần.

Thuốc chủng ngừa viêm gan A có thể pḥng chống bệnh viêm gan A (HAV) . Những thói quen lành mạnh cũng tạo nên sự khác biệt. Rửa tay kỹ càng trước khi chuẩn bị thức ăn, sau khi sử dụng nhà vệ sinh hoặc sau khi thay tă lót . Những du khách quốc tế / du khách nước ngoài nên cẩn thận khi uống nước máy.

(Dựa theo Tài liệu của NIH = National Institute of Diabetes and Digestive and Kidney Diseases )

VIÊM GAN B
(Hepatitis B c̣n được gọi là HBV)

Viêm gan B là một loại viêm gan - một loại bệnh gan - gây ra bởi virus/virut/siêu vi viêm gan B (HBV). Viêm gan B lây lan qua tiếp xúc với máu, tinh dịch của người bị nhiễm bệnh hoặc chất dung dịch / chất lỏng của cơ thể người khác. Một phụ nữ bị nhiễm bệnh viêm gan B có thể truyền cho em bé của cô ta lúc sinh nở.

Nếu bạn mắc bệnh viêm gan B (HBV), bạn có thể cảm thấy giống như là bạn từng bị cảm cúm, hoặc bạn có thể không có triệu chứng nào cả. Một xét nghiệm máu có thể cho biết nếu bạn có bị bệnh viêm gan B hay không. Viêm gan B (HBV) thường sẽ tự trở nên tốt hơn sau một vài tháng. Nếu căn bệnh không trở nên tốt hơn, nó được gọi là viên gan B mạn tính (chronic HBV) , căn bệnh mà kéo dài suốt cả cuộc đời. viên gan B mạn tính (chronic HBV) có thể dẫn đến tạo ra vết sẹo trong gan, gan bị hư hỏng hoặc ung thư gan.

Hiện có thuốc chủng ngừa viêm gan B. Đ̣i hỏi ba mũi chích ngừa. Tất cả các em bé nên chich ngừa, nhưng trẻ lớn và người lớn có thể chích ngừa luôn. Nếu bạn đi du lịch đến các nước nơi mà bệnh viêm gan B là phổ biến, bạn nên chính ngừa.

VIÊM GAN C
(Hepatitis C c̣n được gọi là HCV)

Viêm gan C là một loại viêm gan - một loại bệnh gan - gây ra bởi virus / virut/siêu vi viêm gan C (HCV). Nó thường lây lan qua tiếp xúc với máu nhiễm bệnh. Nó cũng có thể lan truyền qua quan hệ t́nh dục với người mắc bệnh và từ mẹ truyền sang con trong khi sinh.

Hầu hết những người bị nhiễm viêm gan C không có bất kỳ triệu chứng trong nhiều năm. Một xét nghiệm máu có thể cho biết nếu bạn có bị viêm gan C. Thông thường, viêm gan C không tự trở nên tốt hơn / không tự thuyên giảm. Nhiễm trùng có thể kéo dài suốt đời và có thể dẫn đến việc tạo ra sẹo trên lá gan hoặc bệnh ung thư gan. Thuốc men đôi khi trợ giúp, nhưng tác dụng phụ có thể là một vấn đề. Trường hợp nghiêm trọng có thể cần phải cấy ghép gan.

Hiện giờ không có thuốc chủng ngừa cho viêm gan C

BỆNH VÀNG DA
(Jaundice c̣n được gọi là Icterus)

Bệnh vàng da (Jaundice) khiến cho da của bạn và tṛng trắng mắt bạn chuyển sang màu vàng. Quá nhiều bilirubin cũng khiến cho vàng da . Bilirubin là một hóa chất màu vàng trong hemoglobin, chất này vận chuyển oxy trong tế bào hồng huyết cầu của bạn. Khi các tế bào hồng huyết cầu phân tách / phá vỡ ra, cơ thể của bạn tạo ra các tế bào mới để thay thế chúng. Những tế bào cũ được xử lư khôi phục (processed) bởi lá gan. Nếu gan không thể xử lư khôi phục các tế bào máu khi chúng đă bị phá vỡ, bilirubin tích tụ trong cơ thể và da của bạn có thể cho trông thấy mầu vàng vàng.

Nhiều trẻ sơ sinh khỏe mạnh có chút bệnh vàng da trong tuần lễ đầu tiên của cuộc đời. Bệnh vàng da này thường biến mất. Tuy nhiên, bệnh vàng da có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi và có thể là một dấu hiệu của một vấn đề. Bệnh vàng da có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân, chẳng hạn như:
•Những bệnh về máu (Blood diseases)

•Những hội chứng di truyền (Genetic syndromes).

•Những loại bệnh gan, như viêm gan hoặc xơ gan (Liver diseases, such as hepatitis or cirrhosis)

•Tắc nghẽn đường ống mật (Blockage of bile ducts)

•Nhiễm trùng (Infections)

•Thuốc men (Medicines)


BỆNH XƠ GAN
(Cirrhosis c̣n được gọi là Hepatic fibrosis)

Xơ gan tạo ra vết sẹo trong gan. Mô sẹo h́nh thành bởi v́ chấn thương hoặc 1 căn bệnh lâu dài / căn bệnh măn tính. Mô sẹo không thể làm những ǵ mà mô gan khỏe mạnh làm - (thí dụ) tạo ra protein / tạo ra chất đạm, trợ giúp chống nhiễm trùng, làm sạch máu, giúp tiêu hóa thức ăn và dự trữ năng lượng. Xơ gan có thể dẫn đến :
• Dễ bị bầm tím hoặc chảy máu, hoặc chảy máu cam / chảy máu mũi (Easy bruising or bleeding, or nosebleeds)

•Sưng to ở bụng hoặc ở chân (Swelling of the abdomen or legs)

•Thêm nhiều sự mẫn cảm đối với thuốc men (Extra sensitivity to medicines)

•Huyết áp cao ở trong tĩnh mạch nơi đi vào lá gan (High blood pressure in the vein entering the liver)

•Các tĩnh mạch nở to lên ở thực quản và dạ dày (Enlarged veins in the esophagus and stomach)

•Suy thận / Hư thận (Kidney failure)



Khoảng 5% người bệnh xơ gan mắc bệnh ung thư gan

Bệnh xơ gan có nhiều nguyên nhân . Tại Hoa Kỳ / Mỹ, những nguyên nhân phổ biến nhất là nghiện rượu và viêm gan măn tính . Không có cách ǵ sẽ làm cho các mô sẹo biến mất, nhưng điều trị nguyên nhân có thể ǵn giữ không cho nó trở nên tồi tệ hơn. Nếu quá nhiều mô sẹo h́nh thành, bạn có thể cần phải xem xét việc cấy ghép gan.

UNG THƯ GAN
(Liver Cancer c̣n được gọi là Hepatocellular carcinoma )

Lá Gan là cơ quan nội tạng lớn nhất trong cơ thể bạn. Nó gạn lọc các chất có hại từ máu, tiêu hóa chất béo từ thức ăn và lưu trữ chất đường mà cơ thể của bạn sử dụng tạo ra năng lượng. Ung thư gan nguyên bào (Primary liver cancer) bắt đầu từ trong gan. Ung thư gan do di căn (Metastatic liver cancer) bắt đầu ở một nơi khác và lây lan đến gan của bạn.

Nhưng yếu tố hung hiểm cho ung thư gan nguyên bào gồm có:
•Mắc bệnh viêm gan (Having hepatitis)

•Mắc bệnh xơ gan, hoặc sự tao ra vết sẹo trong gan (Having cirrhosis, or scarring of liver)

•Nam hóa / chuyển đổi giới tính ở người phụ nữ (Being male)

•Trọng lượng lúc sơ sinh thấp (nhẹ cân lúc sơ sinh) (Low weight at birth)



Các triệu chứng có thể bao gồm một khối u hoặc sự đau nhức ở phía bên phải của bụng và vàng da. Tuy nhiên, bạn có thể không có triệu chứng và bệnh ung thư có thể không được t́m thấy cho đến khi nó phát triển đến mức độ cao . Điều này làm cho căn bệnh khó điều trị. Sự chọn lựa điều trị bao gồm phẫu thuật, xạ trị, hóa trị hoặc cấy ghép gan

BỆNH NHIỄM SẮC TỐ SẮT MÔ
(Hemochromatosis c̣n được gọi là Iron overload disease )

Bệnh nhiễm sắc tố sắt mô (Hemochromatosis) là một bệnh di truyền mà trong đó có quá nhiều sắt tích tụ trong thân thể bạn. Căn bệnh này là một trong hầu hết các loại bệnh di truyền phổ biến nhất ở Hoa Kỳ / Mỹ .

Chất sắt (Iron) là một khoáng chất được t́m thấy trong nhiều loại thực phẩm. Cơ thể bạn thường hấp thụ khoảng 10% chất sắt trong thực phẩm bạn ăn. Nếu bạn mắb bệnh nhiễm sắc tố sắt mô (hemochromatosis), bạn thường hấp thụ chất sắt nhiều hơn số lượng bạn cần. Cơ thể của bạn không có phương cách tự nhiên để loại bỏ các chất sắt dư thừa . Nó lưu trữ lại chất sắt trong các mô cơ thể, đặc biệt là gan, tim, và tuyến tụy. Sư dư thừa chất sắt có thể làm hỏng các bộ phận nội tạng của bạn. Nếu không điều trị, căn bệnh này có thể khiến cho các cơ quan của bạn hư hại không thể hoạt động được nữa.

Việc điều trị phổ biến nhất là loại bỏ một lượng máu, giống như khi bạn hiến máu. Việc này được gọi là phép điều trị trích lấy bớt máu ra (therapeutic phlebotomy)̣ Các loại thuốc cũng có thể giúp loại bỏ các chất sắt dư thừa. Bác sĩ có thể đề nghị một số thay đổi trong chế độ dinh dưỡng của bạn.

florida80
04-17-2019, 18:20
CÁC VẤN ĐỀ VỀ GAN
(LIVER PROBLEMS)
Lynn Ly Phỏng Dịch theo trang web MedLine Plus
( wXw.mayoclinic.com/health/liver-problems/DS01133/METHOD=print )


Bài viết do các Nhân viên của Trạm Xá Mayo (Mayo Clinic staff)

ĐỊNH NGHĨA (DEFINITION)

Những vấn đề về gan bao gồm một loạt các bệnh và các t́nh huống có thể ảnh hưởng đến gan của bạn. Gan của bạn là một cơ quan nội tạng có kích thước khoảng 1 trái banh mà tọa vị ngay dưới xương sườn trong lồng ngực bạn về phía bên phải của bụng. Nếu không có lá gan, bạn không thể tiêu hóa thức ăn và hấp thụ dinh dưỡng, loại bỏ các chất độc từ cơ thể hoặc duy tŕ sự sống.


UserPostedImage


H́nh ảnh của trang web Mayo Clinic về vị trí lá gan trong cơ thể bạn

Những vấn đề về gan có thể là do di truyền, hoặc những vấn đề về gan có thể xảy ra do phản hồi đối với virus và các hóa chất. Một số vấn đề về gan th́ tạm thời và tự biến mất, trong khi những vấn đề về gan khác có thể kéo dài trong một thời gian dài và dẫn đến những biến chứng nghiêm trọng.


UserPostedImage


H́nh ảnh của trang web Mayo Clinic về lá gan b́nh thường và lá gan bị bệnh

Những vấn đề về gan có thể xảy ra bao gồm bệnh gan nhiễm mỡ (fatty liver disease)và xơ gan (cirrhosis). Gan và các tế bào của nó - như đă thấy qua kính hiển vi - thay đổi đáng kể khi một lá gan b́nh thường trở nên nhiễm mỡ hoặc xơ gan.

NHỮNG TRIỆU CHỨNG (SYMPTOMS)

Những dấu hiệu và triệu chứng của những vấn đề về gan bao gồm:
•Da bị đổi mầu và mắt xuất hiện màu vàng (Discolored skin and eyes that appear yellowish)

•Bụng đau và Bụng sưng to lên (Abdominal pain and swelling)

•Da bị ngứa ngáy mà dường như không biến mất (Itchy skin that doesn't seem to go away)

•Nước tiểu đậm mầu (Dark urine color)

•Phân nhạt màu (Phân có chút mầu xanh rêu) (Pale stool color)

•Phân có máu hoặc phân có màu hắc ín (Bloody or tar-colored stool)

•Mỏi mệt kinh niên (Chronic fatigue)

•Buồn nôn (Nausea)

•Chán ăn (Loss of appetite)



Khi nào cần đi gập Bác Sĩ (When To See A Doctor)

Hăy hẹn gập bác sĩ nếu bạn có bất cứ những dấu hiệu hay triệu chứng ǵ kéo dài mà làm bạn lo âu. Hăy t́m đến sự quan tâm về y tế ngay lập tức nếu bạn bị đau bụng nghiêm trọng mà bạn không thể nằm / ngồi / đứng yên được

NHỮNG NGUYÊN NHÂN ( CAUSES )

Những vấn đề có thể xảy ra ở trong gan bao gồm:
•Suy gan cấp tính (Acute liver failure)

•Viêm gan do rượu (Alcoholic hepatitis)

•Sự thiếu hụt Alpha-1-antitrypsin (Alpha-1-antitrypsin deficiency)

•Viêm gan tự miễn nhiễm (Autoimmune hepatitis)

•Tắc nghẽn ống dẫn mật (Bile duct obstruction)

•Suy gan măn tính (Chronic liver failure)

•Xơ gan (Cirrhosis)

•Gan bị to lớn lên (Enlarged liver)

•Hội chứng Gilbert (Gilbert syndrome)

•Bệnh nhiễm sắc tố sắt mô (Hemochromatosis)

•Viêm gan A (Hepatitis A)

•Viêm gan B (Hepatitis B)

•Viêm gan C (Hepatitis C)

•Viêm gan D (Hepatitis C)

•Viêm gan E (Hepatitis E)

•U bướu gan (Liver adenoma)

•Ung thư gan (Liver cancer)

•U nang gan (Liver cyst)

•U mao mạch gan / u mạch máu gan (Liver hemangioma)

•Hạch gan (sự gia tăng nhiều tiêu diểm hạt nho nhỏ) - Liver nodule (focal nodular hyperplasia)

•Bệnh gan nhiễm mỡ mà không có chất cồn rượu (Nonalcoholic fatty liver disease)

• Nhiễm kư sinh trùng (Parasitic infection)

•Tắt nghẹn tĩnh mạch mà vận chuyển máu đến gan( Portal vein không biết gọi tắt là ǵ???!!!) - Portal vein thrombosis

•Sơ gan mật sơ cấp (Primary biliary cirrhosis)

•Viêm gan do nhiễm độc (Toxic hepatitis)

•Bệnh Wilson (Wilson's disease)



NHỮNG YẾU TỐ NGUY HIỂM / YẾU TỐ RỦ DO (RISK FACTORS )

Những yếu tố có thể làm gia tăng nguy cơ bệnh gan bao gồm:
•Một công việc mưu sinh mà khiến bạn tiếp cận đến máu và dung dịch cơ thể của của người khác

•Sự truyền máu trước năm 1992

•Sự đục lỗ để đeo khuyên, đeo trang sức lên thân thể (thí dụ đục lỗ đeo hoa/bông tai)

•Một số loại thảo mộc và những chất bổ xung nào đó

•Một số thuốc theo toa bác sĩ

•Bệnh đái thoái đường / bệnh tiểu đường

•Sử dụng rượu mạnh

•Mực độ chất béo trung tính trong máu của bạn cao

•Tiêm chích ma túy mà sử dụng chung kim tiêm

•Bệnh mật ph́

•Xâm h́nh lên người

•Quan hệ t́nh dục không an toàn

•Làm việc với hóa chất hoặc chất độc mà không có biện pháp pḥng ngừa an toàn kèm theo



CHUẨN BỊ CHO CUỘC HẸN GẬP BÁC SĨ CỦA BẠN (PREPARING FOR YOUR APPOINTMENT)

Nếu bạn nghi ngờ bạn có vấn đề về gan, khởi đầu bằng cuộc hẹn gập bác sĩ gia đ́nh của bạn hoặc một bác sĩ đa khoa trước hết. Nếu được xác định rằng bạn có thể có vấn đề về gan, bạn có thể được giới thiệu đến một bác sĩ chuyên về gan (hepatologist).

Bởi v́ các cuộc hẹn có thể tóm tắt, và bởi v́ thường bao gồm nhiều vấn đề căn bản, ư tưởng chuẩn bị kỹ thật tốt cho cuộc hẹn của bạn . Dưới đây là một số thông tin để giúp bạn chuẩn bị cho cuộc hẹn của bạn, và những ǵ cần mong đợi từ bác sĩ.

Điều ǵ bạn có thể làm:
•Hăy cẩn thận về bất kỳ hạn chế nào trước cuộc hẹn. Vào thời điểm bạn lấy cuộc hẹn, hăy chắc chắn là có thể hỏi bất cứ điều ǵ bạn cần nên hỏi trước, chẳng hạn như hạn chế chế độ ăn uống dinh dưỡng của bạn

•Hăy viết ra bất kỳ triệu chứng nào bạn đang có, bao gồm bất kỳ những triệu chứng mà có vẻ không liên quan đến nguyên nhân cho cuộc hẹn theo thời hạn.

•Hăy viết ra những thông tin cá nhân quan trọng, bao gồm bất kỳ những căng thẳng chính yếu hoặc những thay đổi trong cuộc sống mới gần đây.

•Hăy làm 1 bảng liệt kê tất cả các loại thuốc , bao gồm luôn tất cả các loại vitamin hoặc các chất bổ xung, mà bạn sử dụng / uống

•Nên có 1 thân nhân hoặc người bạn đi cùng, nếu có thể . Đôi khi thật khó tiếp thu tất cả các thông tin được cung cấp trong một cuộc hẹn. Một người đi cùng bạn có thể nhớ một số điều ǵ đó mà bạn bị bỏ sót không nghe kịp hoặc quên

•Hăy viết ra những thắc mắc để hỏi bác sĩ bạn



Thời gian của bạn với bác sĩ rất giới hạn, nên việc chuẩn bị một bảng liệt kê các câu hỏi sẽ giúp bạn tận dụng tối đa thời gian đó. Bảng liệt kê các câu hỏi từ quan trọng nhất đến ít quan trọng hơn trong trường hợp hết thời gian. Đối với các vấn đề về gan, một số câu hỏi cơ bản để hỏi bác sĩ của bạn bao gồm:
•Điều ǵ dường như gây ra vấn đề về gan của tôi ?

•Tôi cần những loại xét nghiệm nào ?

•Lá gan của tôi bị vấn đề tạm thời hay măn tính ?

•Những vấn đề về lá gan của tôi có thể được điều trị không ?

•Có phương pháp điều trị làm giảm các dấu hiệu và triệu chứng của tôi không?

•Tôi có nên ngừng dùng một số thuốc bổ sung không?

•Tôi có nên tránh uống rượu không ?

•Tôi có nên gập chuyên gia không ? Chi phí sẽ là bao nhiêu và bảo hiểm của tôi có bao chi phí đó không?

•Có những tài liệu tóm tắt ngắn gọn hoặc tài liệu nhiều trang khác được in ra mà tôi có đem về không? Bác sĩ có đề nghị trang web nào cho tôi xem không ?



Ngoài các câu hỏi mà bạn đă chuẩn bị để hỏi bác sĩ, đừng ngần ngại đặt câu hỏi ở bất kỳ thời điểm nào mà bạn không hiểu điều ǵ đó.

NHỮNG XÉT NGHIỆM VÀ CHUẨN ĐOÁN (TESTS AND DIAGNOSIS)

Các xét nghiệm và tiến tŕnh được sử dụng để chẩn đoán những vấn đề về gan bao gồm:
•Những xét nghiệm máu . Xét nghiệm một nhóm máu được gọi là xét nghiệm chức năng gan có thể được sử dụng để chuẩn đoán những vấn đề về gan . Những xét nghiệm máu khác có thể được thực hiện để t́m rơ vấn dề ǵ của gan hoặc t́nh huống di truyền mà ảnh hưởng đến gan

•Xét nghệm h́nh ảnh / chuẩn đoán h́nh ảnh . Những tiến tŕnh mà tạo ra h́nh chụp lá gan của bạn, như là kỹ thuật rà quét vi tính chụp cắt lớp (computerized tomography Scan = CT scan),h́nh ảnh cộng hưởng từ trường (magnetic resonance imaging = MRI)và siêu âm (ultrasound), có thể tiết lộ / cho thấy vấn đề về gan.

•Những xét nghiệm về mô của gan. Một tiến tŕnh để lấy mô ra từ gan của bạn (sinh thiết gan = liver biopsy) có thể trợ giúp trong chẩn đoán các vấn đề về gan. Sinh thiết gan thường được thực hiện bằng cách sử dụng một cây kim dài đưa qua da để lấy ra một mẫu mô (kim sinh thiết = needle biopsy). Các mẫu mô được gửi đến một pḥng thí nghiệm, nơi nó có thể được quan sát dưới kính hiển vi.



UserPostedImage


H́nh ảnh siêu âm của Lá gan có khối u của website Mayo Clinic

ĐIỀU TRỊ VÀ THUỐC MEN (TREATMENTS AND DRUGS)

Điều trị bệnh gan phụ thuộc vào những chẩn đoán cho bạn. Một số vấn đề về gan có thể được điều trị bằng thuốc. Những vấn đề khác có thế đ̣i hỏi đến phẫu thuật

Cấy ghép gan có thể được yêu cầu cuối cùng cho vấn đề về gan mà gây ra sự suy gan.

NHỮNG THUỐC THAY THẾ (ALTERNATIVE MEDICINE)

Một số thảo dược bổ xung được sử dụng như là phương pháp điều trị thay thế thuốc có thể có hại cho gan của bạn. Để bảo vệ gan, hăy nói chuyện với bác sĩ về những rủi ro tiềm ẩn trước khi bạn dùng:
•Black cohosh

•Một số loại dược thảo Trung Quốc / thuốc Bắc, bao gồm ma-huang (Certain Chinese herbs, including ma-huang)

•Chaparral

•Comfrey

•Germander

•Greater celandine

•Kava

•Mistletoe

•Pennyroyal

•Skullcap

•Valerian



PH̉NG NGỪA (PREVENTIONS)

Pḥng ngừa những vấn đề về gan bằng cách bảo vệ lá gan của bạn. Ví dụ:
•Uống rượu vừa phải, nếu ở mọi t́nh huống / mọi trường hợp . Giới hạn số lượng rượu bạn uống không quá một ly mỗi ngày cho phụ nữ và không có nhiều hơn hai ly một ngày đối với nam giới.

•Hăy tránh những ứng sử hung hiểm. Tiếp nhận trợ giúp nếu bạn sử dụng bất hợp pháp các loại thuốc tiêm tĩnh mạch. Không dùng chung kim tiêm được sử dụng để tiêm chích ma túy. Nếu bạn chọn lựa quan hệ t́nh dục, sử dụng bao cao su . Nếu bạn chọn xâm h́nh lên người hay đục lỗ đeo khuyên lên cơ thể, cân phải cầu kỳ khén chọn sự sạch sẽ và an toàn khi đến các cửa tiệm mà bạn chọn ra.

•Tiếp nhận chủng ngừa. Nếu bạn đang có nguy cơ mắc bệnh viêm gan, hoặc nếu bạn đă bị nhiễm bất kỳ dạng viêm gan vurus/virut nào, hăy nói chuyện với bác sĩ về việc chủng ngừa viêm gan B. Một chủng ngừa cũng có sẵn cho bệnh viêm gan A.

•Sử dụng thuốc men một cách khôn ngoan. Chỉ sử dụng thuốc theo toa bác sĩ và thuốc không cần toa thuốc khi bạn cần thuốc đó và chỉ uống đúng liều lượng khuyến cáo. Không dùng thuốc trộn với rượu. Hăy nói chuyện với bác sĩ trước khi pha trộn thảo dược hay thuốc theo toa hoặc thuốc không cần toa thuốc.

•Tránh tiếp xúc với máu và dịch cơ thể của người khác. Bệnh viêm gan virus /virut có thể lây lan bằng sự đâm kim bất ngờ hoặc sự làm sạch máu hay chất dung dịch cơ thể không đúng cách . Cũng có thể bị lây nhiễm bởi việc dùng chung lưỡi dao cạo hoặc bàn chải đánh răng.

•Hăy cẩn thận với thuốc xịt aerosol. Khi bạn sử dụng một b́nh xịt aerosol để sạch, phải chắc chắn là căn pḥng được thông gió, hoặc phải đeo khẩu trang. Thực hiên các biện pháp bảo vệ tương tự như khi phun thuốc trừ sâu, thuốc diệt nấm, sơn và hóa chất độc hại khác. Luôn luôn tuân theo chỉ dẫn của nhà sản xuất.

•Hăy coi chừng những ǵ bám lên trên da của bạn. Khi sử dụng thuốc trừ sâu và hoá chất độc hại khác, che đậy da của bạn với găng tay, áo tay dài, đội mũ và mặt nạ.

•Chọn một chế độ ăn uống dinh dưỡng lành mạnh. Chọn một chế độ ăn uống dinh dưỡng thực vật với nhiều loại trái cây và rau quả. Hạn chế các thực phẩm giàu chất béo.

•Duy tŕ một trọng lượng cơ thể khỏe mạnh. Béo ph́ có thể gây ra một t́nh trạng gọi là bệnh gan nhiễm mỡ không do chất rượu cồn, có thể bao gồm gan mỡ, viêm gan và xơ gan.



Lynn Ly (17/12/2010)


Xem Thêm: Mục Lục Sức Khỏe là Vàng

florida80
04-17-2019, 18:21
TIẾN TRIỂN / DIỄN TIẾN BỆNH GAN
(THE PROGRESSION OF LIVER DISEASE)
Lynn Ly Phong Dịch theo trang web American Liver Foundation (Hiệp hội Gan của Hoa Kỳ)
( wXw.liverfoundation. org/abouttheliver/info/progression// )


Bệnh gan có rất nhiều loại khác nhau. Nhưng dù bất kể loại ǵ mà bạn mắc phải, những tổn hại cho gan của bạn dường như tiến triển trong cùng 1 chiều hướng tương tự.

Cho dù gan của bạn bị nhiễm virus / virut / siêu vi, do bị tổn thương do hóa chất, hoặc đang bị tấn công từ hệ thống tự miễn dịch của bạn , nguy hiểm cơ bản đều như nhau - đó là lá gan của bạn sẽ trở nên hư hỏng nặng nề khiến nó không thể tiếp tục làm công việc ǵn giữ sinh mạng của bạn .

LÁ GAN KHỎE MẠNH (THE HEALTHY LIVER)

Lá gan của bạn trợ giúp chống nhiễm trùng và làm sạch máu . Nó cũng trợ giúp tiêu hóa thức ăn và dự trữ năng lượng khi bạn cần đến . Một lá gan khỏe mạnh có khả năng tuyệt vời về sự phát triển trở lại, hoặc sự tái tạo / sự tái sinh khi nó bị hư hại . Bất cứ điều ǵ mà khiến lá gan của bạn không làm đúng nhiệm vụ của nó - hoặc không phát triển trở lại sau khi tổn thương - th́ có thể đưa cuộc sống của bạn gặp nguy hiểm

SỰ VIÊM NHIỄM (INFLAMMATION)

Ở giai đoạn đầu của bất kỳ bện gan nào, lá gan của bạn có thể bị viêm . Nó có thể trở nên mềm mỏng đi và bị to lên . Sự viêm biểu lộ ra cơ thể bạn đang cố gắng chống lại sự nhiễm trùng hoặc làm lành một tổn thương / chấn thương . Những t́nh trạng viêm tiếp tục kéo dài, nó có thể bắt đầu làm tổn thương lá gan của bạn vĩnh viễn .

Khi hầu hết các bộ phận khác của cơ thể bạn bị viêm, bạn có thể cảm giác ra - khu vực đó trở nên nóng và đau đớn. Tuy nhiên, một lá gan bị viêm có thể không gây cho bạn bất kỳ cảm giác khó chịu nào cả.

Nếu bệnh gan của bạn được chuẩn đoán và được trị liệu thành công ở giai đoạn này, sự viêm nhiễm có thể tan biến mất

SỰ XƠ HÓA (FIBROSIS)

Nếu không chữa trị, lá gan bị viêm (inflamed liver) sẽ bắt đầu có vết sẹo. Khi mô sẹo phát triển nhiều lên, chúng sẽ thay thế các mô gan khỏe mạnh. Quá tŕnh này được gọi là xơ hóa. (các mô sẹo là một loại mô xơ hóa.)

Những mô sẹo không thể làm công việc mà những mô gan khỏe mạnh có thể làm . Hơn thế nữa, những mô sẹo có thể không cho máu chạy qua gan . Khi mô sẹo tích tụ nhiều hơn, gan của bạn có thể làm tốt công việc như nó đă từng làm. Hoặc, phần lành mạnh của lá gan bạn phải làm việc nhiều hơn để bù cho phần bị sẹo (xơ hóa) trầm trọng.

Nếu bệnh gan của bạn được chẩn đoán và được điều trị thành công ở giai đoạn này, vẫn c̣n một cơ hội mà gan bạn có thể tự hồi phục / tự lành lại theo thời gian.

BỆNH XƠ GAN (CIRRHOSIS)

Nhưng nếu không chữa trị, gan của bạn có thể trở nên bị sẹo nghiêm trọng rồi th́ không c̣n có thể tự lành bệnh được. Giai đoạn này - khi mà sự tổn hại không thể đảo ngược / không thể làm lành lại - được gọi là bệnh xơ gan.

Bệnh xơ gan có thể dẫn đến một số biến chứng, bao gồm cả ung thư gan. Ở một số người, những triệu chứng của bệnh xơ gan có thể là dấu hiệu đầu tiên của bệnh gan.
•Bạn có thể chảy máu hoặc bầm tím dễ dàng (You may bleed or bruise easily)

•Nước có thể tích tụ ở chân bạn và / hoặc ở bụng (bệnh phù nề) (Water may build up in your legs and/or abdomen).

•Da và mắt của bạn có thể chuyển sang màu vàng, một t́nh trạng gọi là bệnh vàng da (Your skin and eyes may take on a yellow color, a condition called jaundice.)

•Làn da của bạn có thể bị ngứa ngáy dữ dội (Your skin may itch intensely).

•Trong các mạch máu dẫn đến lá gan, máu có thể bị dội ngược lại v́ sự tắc nghẽn. Các mạch máu có thể bị vỡ ra.

•Bạn có thể trở nên nhạy cảm / mẫn cảm với thuốc men cùng các phản ứng phụ của thuốc .

•Bạn có thể phát triển sự chống kháng insulin và bị tiểu đường loại 2 / bệnh đái tháo đường loại 2.

•Những độc tố có thể tích tụ trong năo của bạn, gây ra những vấn đề đối với khả năng tập trung suy tưởng , trí nhớ, giấc ngủ, hoặc những chức năng tâm thần / chức năng thần kinh khác



Một khi bạn đă được chẩn đoán là bị bệnh xơ gan, việc điều trị sẽ tập trung vào việc ǵn giữ t́nh trạng của bạn khỏi trở nên tồi tệ hơn. Sự việc này có thể ngăn chặn hoặc làm chậm quá tŕnh tổn thương lá gan. Điều quan trọng là bảo vệ các tế bào gan khỏe mạnh bạn tồn tại.

BỆNH SUY GAN / GAN KHÔNG C̉N HOẠT ĐỘNG (LIVER FAILURE)

Bệnh suy gan có nghĩa là gan của bạn đang mất dần hoặc mất tất cả các chức năng làm việc. Đó là một t́nh trạng đe dọa tính mạng mà yêu cần cần được chăm sóc về y tế khẩn cấp

Những triệu chứng đầu tiên của suy gan là thường buồn nôn, chán ăn, mệt mỏi, và tiêu chảy. Bởi v́ các triệu chứng này có thể có nhiều nguyên nhân, nó có thể là khó cho biết rằng gan đang bị mất chức năng hoạt động.

Nhưng khi suy gan tiến triển, các triệu chứng trở thành nghiêm trọng hơn. Bệnh nhân có thể trở nên lú lẫn và mất phương hướng, và cực kỳ buồn ngủ. Có nguy cơ về hôn mê sâu (coma) và chết . Việc trị liệu ngay lập tức là cần thiết . Các nhóm y tế sẽ cố gắng cứu chữa bất cứ một phần nào của lá gan vẫn hoạt động. Nếu việc này không thể thực hiện, sự lựa chọn duy nhất có thể là cấy ghép gan.

Khi bệnh suy gan xảy ra như là kết quả của bệnh xơ gan, căn bệnh này thường có nghĩa là lá gan đă đang mất khả năng hoạt động từng bước từng bước một theo thời gian, có thể trong ṿng nhiều năm. Điều này được gọi là suy gan măn tính.

Suy gan măn tính cũng có thể gây ra bởi sự suy dinh dưỡng . Hiếm khi hơn, suy gan có thể xảy ra thật bất ngờ, như trong ṿng ít nhất là 48 giờ. T́nh huống này được gọi là suy gan cấp tính và thường là một phản ứng đối với ngộ độc hoặc sử dụng thuốc quá liều

Bệnh Xơ Gan, Ung Thư Gan, và Suy Gan là những t́nh trạng nghiêm trọng mà có thể đe dọa tính mạng của bạn . Một khi bạn đến những giai đoạn này của bệnh gan, sự lựa chọn điều trị cho bạn có thể rất ư là giới hạn / rất ư bị hạn chế

Đó là lư do tại sao điều quan trọng là phát hiện bệnh gan mới khởi phát, ở trong giai đoạn viêm và xơ hóa. Nếu bạn được điều trị thành công ở các giai đoạn này, lágan của bạn có thể có một cơ hội để tự chữa bệnh và phục hồi.

Hăy báo cho bác sĩ của bạn về bệnh gan . T́m ra nếu bạn đang ở mức nguy hiểm hoặc nếu bạn nên trải qua những xét nghiệm nào đó hoặc tiêm chủng ngừa

Lynn Ly (19/12/2010)

florida80
04-17-2019, 18:22
NHỮNG CĂN BỆNH THUỘC VỀ NĂO BỘ
(BRAIN DISEASES)
Lynn Ly phỏng dịch, tóm tắt theo thông tin từ website WebMD.com


Bệnh năo bao gồm nhiều dạng khác nhau. Nhiễm trùng, chấn thương, đột quỵ hay tai biến mạch máu năo, co giật, và u bướu là một số loại bệnh chính của những bệnh năo. Dưới đây là một cái nh́n tổng quát về các căn bệnh khác nhau thuộc về bộ năo.

I. NHỮNG BỆNH NĂO: NHIỄM TRÙNG (BRAIN DISEASES: INFECTIONS)

Những bệnh năo trong phân loại về nhiễm trùng bao gồm:
•Bệnh Viêm Màng Năo (Meningitis): Một t́nh trạng viêm tại màng bao phủ năo bộ hoặc tủy sống, thường là do nhiễm trùng. Đau cổ, nhức đầu, và lú lẫn / nhầm lẫn là những triệu chứng phổ biến.


•Bệnh Viêm Năo (Encephalitis): Một t́nh trạng viêm tại mô năo (brain tissue), thường là do nhiễm trùng. Viêm màng năo (Meningitis) và viêm năo (Encephalitis) thường xuất hiện cùng một lúc, được gọi là viêm năo màng năo (meningoencephalitis ).


•Áp-xe Năo (Brain abscess): Một t́nh trạng nhiễm trùng có bọc mủ nằm trong hộp sọ ở vị trí ngoài màng cứng, dưới màng cứng và trong năo mà thường gây ra bởi vi khuẩn. Thuốc kháng sinh và phẫu thuật giải thoát dịch mủ ở khu vực này thường là cần thiết.


II. NHỮNG BỆNH NĂO: CO GIẬT / ĐỘNG KINH (BRAIN DISEASES: SEIZURES)

Động Kinh Rối Loạn (Epilepsy = Seizure Disorder ) được gom chung vào trong các loại động kinh thuộc về bệnh năo. Những kiểu chấn thương đầu và các kiểu đột quỵ có thể gây ra động kinh / co giật, nhưng nguyên nhân thường không được xác định.

III. NHỮNG BỆNH NĂO: CHẤN THUƠNG ( BRAIN DISEASES: TRAUMA )

Chấn thương bao gồm những t́nh trạng sau đây:
•Chấn Động (Concussion): Một thương tích năo bộ gây ra một sự xáo trộn tạm thời trong chức năng hoạt động của năo, đôi khi kèm theo sự bất tỉnh và lú lẫn. Các tổn thuơng năo do chấn thuơng mà gây ra bởi những chấn động (concussions).


•Tổn Thương Năo Do Chấn Thương (Traumatic Brain Injury): Năo bị hư hại vĩnh viễn từ 1 vết thương ở đầu do chấn thương. Sự suy giảm tinh thần rơ ràngg hoặc có thể xảy ra biến đối tinh tế hơn về nhân cách và tính khí / tâm trạng (mood) .


• Xuất Huyết Nội Sọ (Intracerebral hemorrhage): Bất kỳ t́nh trạng chảy máu thế nào ở bên trong năo mà có thể xảy ra sau một tổn thương do chấn thương hoặc do bị cao huyết áp.


IV. NHỮNG BỆNH NĂO: NHỮNG U BƯỚU, NHỮNG KHỐI U, VÀ SỰ GIA TĂNG ÁP LỰC HỘP SỌ (BRAIN DISEASES: TUMORS, MASSES, AND INCREASED PRESSURE)

Các loại bệnh năo này bao gồm:
•Bướu Năo (Brain tumor) Bất kỳ sự phát triển mô bất thường ở bên trong năo. Cho dù những khối u năo ác tính (ung thư) hoặc lành tính, thường gây ra những vấn đề bởi áp lực mà tác động lên một bộ năo b́nh thường (normal brain).


•U Nguyên Bào Đệm (Glioblastoma): Một khối u năo ác tính hung hẵn. U nguyên bào đệm năo (Brain glioblastomas) tiến triển rất nhanh chóng và thường rất khó chữa trị.


•Năo úng thủy (Hydrocephalus): Một số lượng dịch năo(cerebrospinal fluid) gia tăng bất thường bên trong hộp sọ. Thông thường, t́nh trạng này là do các chất dịch lỏng không được lưu hành thỏa đáng.


•Năo Úng Thuỷ Áp Lực B́nh Thường (Normal pressure hydrocephalus): Một dạng năo úng thủy thường gây ra những vấn đề về đi đứng, cùng với sự sa sút trí tuệ (dementia) và chứng đi tiểu không tự chủ / chứng són tiểu(urinary incontinence). Những áp lực bên trong năo vẫn b́nh thường, mặc dù chất dịch gia tăng.


•U Giả Năo Bộ (pseudotumor cerebri), hay c̣n gọi là Tăng Áp Lực Nội Sọ Hiền Tính (Benign Intracranialhyperten sion) : Áp lực bên trong hộp sọ gia tăng mà không có nguyên nhân rơ ràng. Những thay đổi thị lực, đau đầu, chóng mặt, và buồn nôn là những triệu chứng phổ biến.


V. NHỮNG BỆNH NĂO: NHỮNG T̀NH TRẠNG THUỘC VỀ MẠCH MÁU ( BRAIN DISEASES: VASCULAR (BLOOD VESSELS) CONDITIONS )

Những bệnh năo liên kết đến những t́nh trạng thuộc về mạch máu bao gồm:
•Đột Quỵ (Stroke): lưu lượng máu và oxygen đột nhiên bị gián đoạn khi đi đến một vùng mô năo, rồi th́ vùng mô năo đó chết đi. Một phần cơ thể được điều khiển bởi các vùng năo bị hư hỏng đó (chẳng hạn như một cánh tay hoặc một chân) có thể không c̣n hoạt động thỏa đáng nữa.


•Đột Qụy Do Thiếu Máu Cục Bộ (ischemic stroke) : Một cục máu đông đột nhiên phát triến trong một động mạch(artery), ngăn chặn ḍng máu chảy và gây ra một cơn đột quỵ.


•Đột Quỵ Do Xuất Huyết (Hemorrhagic stroke): Sự chảy máu trong năo tạo ra sự ùn tắc(congestion) và áp lực lên mô năo, làm suy yếu việc vận chuyển máu và gây ra một cơn đột quỵ.


•Tai Biến Mạch Máu Năo( Cerebrovascular accident = CVA): Một tên gọi khác về đột quỵ.


•Cơn Thiếu Máu Năo Thoáng Qua (Transient ischemic attack = TIA): Một gián đoạn tạm thời về lưu lượng máu và oxygen đến một vùng năo bộ. Những triệu chứng tương tự như triệu chứng một cơn đột quỵ, nhưng chúng tan biến hoàn toàn không có sự thiệt hại đến mô năo.


•Chứng ph́nh động mạch năo (Brain aneurysm): Một động mạch trong năo phát triển một khu vực suy nhược mà phồng như bong bóng. Sụ vỡ động mạch năo tại nơi ph́nh ra đó gây ra đột quỵ do chảy máu.


•Máu Tụ Dưới Màng Cứng (Subdural Hematoma): Sự chảy máu ở bề mặt của năo bộ. Máu Tụ Dưới Màng Cứng có thể gây áp lực lên năo, gây ra các vấn đề về thần kinh.


•Máu Tụ Ngoài Màng Cứng (Epidural Hematoma = extradural hematoma): Sự chảy máu ở giữa hộp sọ và màng cứng của năo bộ. Sự chảy máu thường là từ động mạch, thông thường là ngay sau khi bị chấn thương đầu. Những triệu chứng ban đầu nhè nhẹ có thể tiến triển nhanh chóng đến bất tỉnh và tử vong nếu không được điều trị.


•Xuất Huyết trong Năo Bộ (IntraCerebral Hemorrhage): Sự chảy máu ở bên trong năo bộ .


•Phù năo (Cerebral edema): Sự sưng mô năo có thể là do những nguyên nhân khác nhau, bao gồm cả sự phản hồi của 1 thương tích hoặc sự mất cân bằng chất điện phân (electrolyte imbalances).


VI. NHỮNG BỆNH NĂO: T̀NH TRẠNG TỰ MIỄN DỊCH (BRAIN DISEASES: AUTOIMMUNE CONDITIONS)

Những bệnh năo liên quan đến t́nh trạng tự miễn dịch bao gồm:
•Viêm Mạch Máu (Vasculitis): Sự viêm các mạch máu của năo bộ. Lú lẫn/ lầm lẫn, co giật, nhức đầu, và bất tỉnh có thể là kết quả.


•Đa xơ cứng (Multiple sclerosis = MS): Hệ thống miễn dịch tấn công một cách nhầm lẫn và làm hư hại các dây thần kinh của cơ thể. Bắp thịt bị co thắt (chuột rút = vọp bẻ), mệt mỏi, và suy nhược là những triệu chứng. MS có thể xảy ra ở những cuộc tấn công bởi hệ thống miễn dịnh một cách định kỳ hoặc liên tục không gián đoạn.


VII. NHỮNG BỆNH NĂO: T̀NH TRẠNG THOÁI HÓA THẦN KINH (BRAIN DISEASES: NEURODEGENERATIVE CONDITIONS)

Những bệnh năo liên quan đến t́nh trạng thần kinh thoái hóa bao gồm:
•Bệnh Parkinson (Parkinson's disease): Những dây thần kinh trong một khu vực trung tâm năo bộ bị thoái hóa chầm chậm, gây ra các vấn đề về cử động và khả năng phối hợp. Run rẩy / run lẩy bẩy bàn tay là một dấu hiệu phổ biến ở thời kỳ khởi đầu của căn bệnh .


•Bệnh Huntington: Một chứng rối loạn thần kinh do di truyền có ảnh hưởng đến năo bộ. Chứng sa sút trí tuệ (dementia) và khó khăn trong việc kiểm soát các cử động là những triệu chứng của căn bệnh . Khi bệnh tiến triển đến giai đoạn cuối th́ người bệnh bị mất hoàn toàn các kỹ năng vận động ngay cả cử động nhai nuốt hay nói năng.


•Bệnh Pick (Pick's Disease) c̣n gọi là Bệnh Sa Sút Trí Tuệ Trán-Thái Dương ( Frontotemporal Dementia ): Qua nhiều năm, khu vực rộng lớn của các dây thần kinh ở phía trước (trán) và hai bên năo (thái dương) bị phá hủy do sự tích tụ một protein bất thường. Những thay đổi nhân cách, những hành vi không phù hợp, và mất trí nhớ cùng mất khả năng trí tuệ là những triệu chứng. Bệnh Sa Sút Trí Tuệ Trán-Thái Dương c̣n gọi là bệnh Pick th́ tiến triển liên tục một cách kiên định .


•Bệnh Xơ Cứng Cột Bên Teo Cơ = Bệnh Thoái Hóa Thần Kinh Vận Động Một Bên (Amyotrophic lateral sclerosis = ALS): Bệnh này c̣n được gọi là bệnh Lou Gehrig . Trong căn bệnh này, các dây thần kinh kiểm soát chức năng bắp thịt bị phá hủy liên tục thật đều đặn. Bệnh ALS tiến triển liên tục đến mức bại liệt và mất khả năng hô hấp khi không có máy hỗ trợ hô hấp. Chức năng nhận thức nói chung th́ không bị ảnh hưởng.


•Bệnh Sa Sút Trí Tuệ (Dementia): Sự suy giảm chức năng nhận thức, do các tế bào thần kinh trong năo chết đi hoặc không vận động. Những t́nh trạng mà trong đó các dây thần kinh trong năo thoái hóa, cũng tương tự như sự lạm dụng rượu và đột quỵ có thể gây ra chứng sa sút trí tuệ .


•Bệnh Mất Trí Nhớ = Bệnh Alzheimer (Alzheimer): Đối với những lư do không rơ ràng, các dây thần kinh trong vùng năo nhất định bị thoái hóa đi, gây ra sự mất dần trí nhớ và kỹ năng thuộc về tâm thần. Sự tích tụ những mô bất thường ở những khu vực năo bộ - thường được gọi là những tảo bẹ (tangles) và những mảng bợn (plaques) - được cho là góp phần gây ra căn bệnh này. Bệnh Alzheimer là dạng phổ biến nhất của chứng sa sút trí tuệ.


Lynn Ly (17/10/2012)

florida80
04-17-2019, 18:23
CẤP CỨU NỘI THẦN KINH SỐ 3

CHÓNG MẶT (VERTIGO AND DIZZINESS)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH


1/ KỂ BA HỆ THỐNG ĐIỀU H̉A CÂN BẰNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG KHÔNG GIAN.

•Hệ thị giác : mắt và các cơ nhăn cầu.

•Hệ nhận cảm bản thể (proprioceptive system) : các cột sau tủy sống (posterior columns), dây gân, khớp và cơ.

•Hệ tiền đ́nh (vestibular system) : mê đạo (labyrinth), dây thần kinh số 8, thân năo và tiểu năo.


Rối loạn bên trong hay giữa bất cứ một trong 3 hệ này đều có thể dẫn đến chóng mặt. Tuy nhiên thường chỉ cần những bất thường của hệ tiền đ́nh không thôi cũng thường đủ gây nên chóng mặt.

2/ THÁI ĐỘ XỬ LƯ TRƯỚC MỘT BỆNH NHÂN CHÓNG MẶT (DIZZINESS).

Trước hết bảo bệnh nhân mô tả cảm giác chóng mặt, t́nh huống xảy ra, và sự cảm nhận mối liên hệ giữa thân thể của họ đối với không gian. Sự mô tả này cho phép phân biệt giữa các nguyên nhân tiền đ́nh (vertigo) và không tiền đ́nh của chóng mặt.

Chóng mặt (dizziness) có thể được xếp thành 6 loại tổng quát :
1.vertigo (ngoại biên và trung ương).
2.chóng mặt trước khi ngất (presyncopal dizziness)
3.chóng mặt đó hạ đường huyết (hypoglycemic dizziness)
4.chóng mặt do nguyên nhân sinh lư tâm thần (psychophysiologic dizziness)
5.chóng mặt do thuốc (drug-induced dizziness)
6.rối loạn cân bằng (dysequilibrium).


3/ VERTIGO KHÁC VỚI DIZZINESS NHƯ THỂ NÀO?

Vertigo là ảo giác (illusion) hoặc cảm giác chuyển động trong khi lại không có trên thực tế. Bệnh nhân có thể mô tả những triệu chứng chóng mặt như quay tṛn (spinning), xoay tít (whirling), lúc lắc (rocking) hay tṛng trành (tilting). Vertigo xảy ra từng đợt và những triệu chứng liên kết có thể bao gồm nôn, mửa, toát mồ hôi, bất thường thính giác (ù tai, điếc hoặc đau tai) và đau bụng quặn.

Dizziness là một thuật ngữ không đặc hiệu được dùng để mô tả những triệu chứng đặc biệt khác nhau như ngất xỉu (faintness), chóng mặt (giddiness), light headedness, bồng bềnh (floating), lảo đảo (unsteadiness). Dizziness thường dai dẳng và những triệu chứng liên kết thường ít xảy ra.

4/ KỂ CÁC NGUYÊN NHÂN CỦA CHÓNG MẶT TRƯỚC KHI NGẤT, DO HẠ ĐƯỜNG HUYẾT VÀ DO NGUYÊN NHÂN SINH TÂM THẦN?

•Chóng mặt trước khi ngất (presyncopal dizziness) : gây nên bởi thiếu máu tạm thời toàn thể năo bộ. Các nguyên nhân thông thường gồm có :
◦hạ huyết áp thế đứng (orthostatic hypotension)
◦ngất mạch-thần kinh phế vị (vasovagal attacks)
◦các bất thường tim (loạn nhịp,hẹp van động mạch chủ,bệnh cơ tim)
◦tăng thông khí phổi (hyperventilation)


•Chóng mặt do hạ đường huyết (hypoglycemic dizziness) : thường là do biến chứng của dùng insulin hoặc thuốc hạ đường huyết dùng bằng đường miệng trên những bệnh nhân đái đường nhưng cũng có thể do các khối u tiết insulin và ngộ độc.

•Chóng mặt đó nguyên nhân sinh lư tâm thần (psychophysiologic dizziness): là do sự hội nhập bất thường của các tín hiệu cảm giác, xảy ra ở các bệnh nhân với cơn hoảng sợ (panic attacks), lo âu (anxiety) và chứng sợ (phobias).


5 / CÁC THUỐC NÀO GÂY CHÓNG MẶT?

•Aminoglycosides
•thuốc chống co giật (anticonvulsants)
•thuốc chống sốt rét (antimalarials)
•thuốc an thần (tranquilizers)
•salicylates và rượu đều có thể gây nên chóng mặt và mất thăng bằng (dysequilibrium).
•Chóng mặt trước khi ngất có thể gây nên bởi các thuốc chống tăng áp hoặc các thuộc lợi tiểu (các thuốc này gây nên hạ huyết áp thế đứng).


6/ ĐỊNH NGHĨA SỰ MẤT THĂNG BẰNG.

Đó là cảm giác lảo đảo (unsteadiness) hay thiếu cân bằng (imbalance), nhưng không có các chuyển động do ảo giác hoặc không bị bất tỉnh ngay sau đó. Sự mất thăng bằng thường rơ rệt hơn khi đứng hoặc bước đi. Mất chức năng tiền đ́nh-tủy sống (vestibulospinal), bản thể (proprioceptive) hoặc tiểu năo có thể gây nên mất thăng bằng. Độc tính đối với cơ quan thính giác (ototoxicity), tai biến mạch máu năo, bệnh thần kinh ngoại biên (peripheral neuropathy), sự thoái hóa tiểu năo và tuổi cao thường là những nguyên nhân thông thường.

7/ NHỮNG TRIỆU CHỨNG VẬT LƯ NÀO CẦN PHẢI T̀M KIẾM NƠI BỆNH NHÂN BỊ CHÓNG MẶT?

Khám vật lư tổng quát cần đặc biệt chú ư mạch, huyết áp, hệ tim mạch và hệ thần kinh. Thiết yếu là các dấu chứng sinh tồn thế đứng. Khám mắt cần ghi nhận sự hiện diện và chiều hướng của rung giật nhỡn cầu (nystagmus). Trong khi khám tai cần đánh giá ống tai ngoài (external auditory canal), màng nhĩ và thính lực. Khám tim mạch cần ghi nhận tiếng tim, tiếng thổi hoặc loạn nhịp. Khám trực tràng cần được thực hiện để loại trừ xuất huyết ẩn dạ dày-ruột (occult gastro-intestinal hemorrhage). Cần khám thần kinh toàn bộ, đặc biệt chú ư đến chức năng các dây thần kinh, tiểu năo và dáng đi.

Mọi bệnh nhân bị chứng chóng mặt cần được trắc nghiệm t́m rung giật nhỡn cầu theo tư thế (positional nystagmus) với thủ thuật Dix-Hallpike. Thủ thuật được tiến hành bằng cách làm thay đổi nhanh bệnh nhân từ tư thế ngồi sang tư thế nằm với đầu quay 45 độ về một phía và hơi duỗi ra khỏi mép bàn khám.

Rung giật nhỡn cầu ngoài (lateral gaze nystagmus) về phía tai nằm thấp nhất và những triệu chứng kèm theo (chóng mặt, nôn, mửa) cần được đánh giá nhanh chóng. Thủ thuật cần được lập lại với đầu quay về phía đối diện. Tai bị thương tổn là phía gây nên rung giật nhỡn cầu hay các triệu chứng rơ rệt nhất trong khi làm thủ thuật.

8/ NÓI TẦM QUAN TRỌNG CỦA RUNG GIẬT NHĂN CẦU NƠI BỆNH NHÂN CHÓNG MẶT.

Nếu các triệu chứng của bệnh nhân là do loạn năng tiền đ́nh thực thể (organic vestibular dysfunction), th́ mọi cơn chóng mặt đều có kèm theo rung giật nhỡn cầu. Nếu một bệnh nhân khai chóng mặt nhưng thiếu rung giật nhỡn cầu ngẫu nhiên hoặc theo tư thế th́ có thể nguyên nhân là do tâm lư (psychogenic).

9/ TẠI SAO PHẢI PHÂN BIỆT GIỮA CHÓNG MẶT NGOẠI BIỂN VÀ CHÓNG MẶT TRUNG ƯƠNG?

CHÓNG MẶT NGOẠI BIÊN gây nên bởi rối loạn mê cung (labyrinth) và dây thần kinh đầu ngoại biên số VIII. Mặc dầu triệu chứng thường quan trọng hơn chóng mặt trung ương, các bệnh lư của chóng mặt ngoại biên thường không đe dọa đến tính mạng. Chóng mặt ngoại biên chiếm 85% tất cả các trường hợp chóng mặt.

CHÓNG MẶT TRUNG ƯƠNG gây nên bởi những thương tổn của thân năo và tiểu năo. Các bệnh lư nguyên nhân của chóng mặt trung ương có thể đe đọa đến tính mạng, có thể cần điều trị tức thời.

10/ RUNG GIẬT NHỠN CẦU GIÚP GIÁN BIỆT GIỮA CHÓNG MẶT NGOẠI BIÊN VỚI CHÓNG MẶT TRUNG ƯƠNG NHƯ THỂ NÀO?

Bệnh nhân với chóng mặt ngoại biên có rung giật nhăn cầu theo chiều ngang (horizontal) hoặc ngang-xoay (horizonto-rotatory). Rung giật theo một chiều (unidirectional) và được quan sát ở cả hai nhăn cầu. Nhăn chấn rơ nhất lúc khởi đầu và giảm dần trong vài giờ đến vài ngày. Nh́n cố định (visual fixation) làm biến mất rung giật nhăn cầu. Rung giật nhăn cầu theo tư thế (positional nystagmus) gây nên bởi trắc nghiệm Dix-Hallpike cho thấy có thời gian tiềm tàng 1-2 giây và rung giật nhăn cầu tạm thời và có thể làm biến mất liên kết với nôn mửa và chóng mặt.

Trái lại bệnh nhân với chóng mặt trung ương có thể có rung giật nhăn cầu xảy ra với bất cứ hướng nào và có thể có thể chỉ ở một nhăn cầu thôi. Rung giật nhăn cầu thẳng đứng và một bên là điển h́nh của bệnh thân năo. Rung giật nhăn cầu có thể xảy ra liên tục và không bị hủy bỏ bởi nh́n cố định. Các thương tổn trung ương đôi khi có thể gây nên rung giật nhăn cầu theo tư thế ; tuy nhiên rung giật nhăn cầu vẫn xảy ra chừng nào tư thế mới vẫn được duy tŕ, và những bệnh nhân này hiếm khi kêu chóng mặt mặc dầu nhăn cầu rung giật.

11/ CÓ CÁCH NÀO KHÁC ĐỂ GIÁN BIỆT GIỮA CHÓNG MẶT NGOẠI BIÊN VỚI CHÓNG MẶT TRUNG ƯƠNG KHÔNG?

CHÓNG MẶT NGOẠI BIÊN (PERIPHERAL VRTIGO) thường có một khởi đầu cấp tính, đột ngột, thường dữ dội và thường liên kết với nôn và mửa, toát mồ hôi và những triệu chứng thính giác (điếc, ù tai, cảm giác đầy trong tai hoặc đau tai ). Chóng mặt ngoại biên thường xuất hiện từng đợt ngắn hạn và không đi kèm với dấu hiệu thần kinh khu trú

CHÓNG MẶT TRUNG ƯƠNG (CENTRAL VERTIGO) trong trường hợp điển h́nh có khởi đầu âm ỉ hơn, với những triệu chứng kèm theo nhẹ hơn và không có triệu chứng thính giác. Chóng mặt trung ương thuờng có tính chất liên tục hơn và có thể có những dấu hiệu thần kinh khu trú đi kèm.

12/ LIỆT KÊ NHỮNG NGUYÊN NHÂN THÔNG THƯỜNG CỦA CHÓNG MẶT NGOẠI BIÊN.

•Chóng mặt kịch phát hiền tính do tư thế (benign paroxysmal positional vertigo).
•Tắc nghẽn ống tai ngoài.
•Bệnh Ménière
•Viêm mê đạo cấp tính (acute labyrinthitis)
•Viêm dây thần kinh tiền đ́nh (vestibular neuronitis)
•Viêm tai giữa cấp tính hoặc măn tính.
•Chấn thương (chấn động mê đạo, ṛ quanh bạch huyết)


13/ CHÓNG MẶT KỊCH PHÁT HIỀN TÍNH DO TƯ THỂ LÀ G̀ (BENIGN PAROXYSMAL POSITIONAL VERTIGO)?

Là nguyên nhân thông thường nhất của chóng mặt, thường xảy ra nhất ở người già với đặc điểm là các đợt chóng mặt ngắn hạn, tái đi tái lại, gây nên bởi sự thay đổi tư thế như lăn trên giường, nghiêng ḿnh về phía trước hoặc nh́n ngược lên trên. Các vật thể bồng bềnh (các thạch nhĩ : otoliths) trong nội bạch huyết (endolymph) của ống bán khuyên sau được cho là nguồn gốc của chứng chóng mặt này. Chẩn đoán được xác định căn cứ trên bệnh sử và sự hiện diện các triệu chứng gây nên bởi tư thế khi làm thủ thuật Dix-Hallpike.

14/ THỦ THUẬT EPLEY LÀ G̀?

Điều trị khởi đầu chứng chóng mặt kịch phát hiền tính do tư thế (benign proxysmal positional vertigo) này nhằm làm xê dịch các vật thể bồng bềnh ra khỏi ống bán khuyên sau (posterior semicircular canal), làm thuyên giảm tức thời 44% đến 95% các bệnh nhân. Trước hết, trắc nghiện Dike-Hallpike được thực hiện về phía tai bị bệnh.Trong khi c̣n ở tư thế nằm ngửa và sau khi chóng mặt và rung giật nhăn cầu được gây nên bởi thủ thuật đă dừng lại, đầu bệnh nhân được đưa ngay về phía đối diện, với tai bên đối diện bây giờ hướng xuống dưới. Đầu và thân của bệnh nhân được xoay thêm nữa theo cùng chiều hướng cho đến khi đầu có mặt hướng xuống dưới. Bệnh nhân nên được giữ trong tư thế này trong 10 đến 15 giây, sau đó được đưa từ từ lên tư thế ngồi với đầu vẫn c̣n giữ hướng về phía đối diện với tai bị bệnh .Trong khi ngồi, đầu được nghiêng sao cho cằm hướng xuống dưới.Thủ thuật Epley có thể cần được lập lại cho đến khi bệnh nhân không c̣n triệu chứng. Nếu thành công, bệnh nhân sẽ được chỉ thị tránh nằm trong ṿng 24 đến 48 giờ sau đó.

15/ BỆNH MENIERE LÀ G̀?

Bệnh Ménière được liên kết với một bộ ba triệu chứng : chóng mặt, ù tai và điếc do nguyên nhân thần kinh cảm giác (sensorineural hearing loss).Trong cơn bệnh, bệnh nhân có thể cảm thấy đầy (a sense of fullness) trong tai bị bệnh, và triệu chứng có thể trở thành thường trực. Bệnh này thường xảy ra ở lứa tuổi từ 30 đến 60. Nguyên nhân không rơ ràng nhưng cơ chế sinh bệnh được cho là do sự gia tăng thể tích nội bạch huyết (endolymph) và sự căng giăn của hệ nội bạch huyết (endolymphatic system). Các triệu chứng kéo dài 1 đến 2 giờ và thường tái phát.

16/ VIÊM MÊ ĐẠO CẤP TÍNH VÀ VIÊM DÂY THẦN KINH TIỀN Đ̀NH LÀ G̀?

VIÊM MÊ ĐẠO CẤP TÍNH (ACUTE LABYRINTHITIS) : là một nhiễm trùng tai trong với đặc điểm chóng mặt khởi đầu đột ngột kèm theo nôn, mửa, rung giật nhăn cầu và điếc tai mức độ ít hay nhiều hoặc ù tai. Các triệu chứng thường liên tục và có thể kéo dài trong vài tuần. Nhiễm trùng có thể do siêu vi trùng hay vi khuẩn và có thể xây ra ở bất cứ lứa tuổi nào.

VIÊM DÂY THẦN KINH TIỀN Đ̀NH (VESTIBULAR NEURONITIS) : là nhiễm trùng của dây thần kinh tiền đ́nh với đặc điểm chóng mặt xuất hiện đột ngột, kèm theo nôn, mửa, rung giật nhăn cầu.Thường không có những triệu chứng thính giác. Các triệu chứng thường đạt cao điểm trong ṿng 24 giờ và giảm dần trong ṿng nhiều ngày hoặc nhiều tuần.Khoảng 50% bệnh nhân ghi nhận trước đó bị nhiễm trùng đường hô hấp trên do vi khuẩn.Tỷ lệ mắc bệnh cao nhất xảy ra trong lứa tuổi từ 30 đến 50.

17/ KỂ NHỮNG NGUYÊN NHÂN CỦA CHÓNG MẶT TRUNG ƯƠNG :

•Các khối u hố sau (posterior fossa tumors)

•Thiểu năng động mạch đốt sống-nền (vertebro-basilar artery insufficiency)

•Xuất huyết hoặc nhồi máu tiểu năo.

•U dây thần kinh thính giác (acoustic neuroma)

•Động kinh có nguồn gốc thùy thái dương (temporal lobe epilepsie)

•Thiên đầu thống có nguồn gốc động mạch nền (basilar artery migraine)

•Xơ cứng rải rác (multiple sclerosis)

•Hợp chứng trộm dưới đ̣n ( subclavian steal syndrome)

•Chấn thương (thương tổn nhân tiền đ́nh trung ương).


18/ U DÂY THẦN KINH THÍNH GIÁC LÀ G̀?

U dây thần kinh thính giác (acoustic neuroma) là một khối u tăng trưởng chậm, khởi đầu từ các tế bào của bao dây thần kinh, điển h́nh là của phần tiền đ́nh của dây thần kinh đầu số VIII trong ống tai trong (internal auditory canal). Mặc dầu khối u bắt đầu ở phần ngoại biên, nhưng cuối cùng lại có những biểu hiện trung ương. Các triệu chứng có thể bao gồm chóng mặt nhẹ hoặc lảo đảo (unsteadiness), điếc do nguyên nhân thần kinh cảm giác (sensorineural hearing loss) một bên và xảy ra dần dần, và ù tai. Khi khối u lớn dần lên, loạn chức năng dây thần kinh đầu và ti tiểu năo có thể xảy ra. Nếu nghi ngờ, MRI là phương thức chẩn đoán được lựa chọn.

19/ CÁC XÉT NGHIỆM PH̉NG THÍ NGHIỆM CỐ HỮU ÍCH ĐỐI VỚI NHỮNG BỆNH NHÂN BỊ CHÓNG MẶT KHÔNG?

Nói chung là không có ích. Nếu bệnh nhân có bệnh sử mắc phải bệnh đái đường hoặc trên 45 tuổi th́ cần phải xét nghiệm lượng đường trong máu và thực hiện tâm điện đồ. Những xét nghiệm khác gồm có xét nghiệm thai nghén đối với chóng mặt xảy ra nơi phụ nữ trẻ tuổi và hematocrit nơi bất cứ bệnh nhân nào có bệnh sử khiến nghĩ đến thiếu máu. Nếu nghi chóng mặt trung ương th́ cần phải thực hiện MRI hay CT đầu. Nếu nghi bất túc động mạch đốt sống-nền (vertebro-basilar artery insufficiency) th́ cần hội chẩn với thầy thuốc chuyên khoa thần kinh và thực hiện magnetic resonance angiography.

20/ CÁC THUỐC NÀO CÓ THỂ DÙNG ĐỂ ĐIỀU TRỊ TRIỆU CHỨNG CHÓNG MẶT?

Điều trị phải luôn luôn nhắm vào loại bỏ nguyên nhân gây chóng mặt nếu có thể được.Thuốc để điều trị chóng mặt ngoại biên và trung ương gồm có thuốc chống gây nôn (antiemetics), thuốc an thần, antihishistamines, và anticholinergics. Không nên sử dụng những thuốc này để điều trị kéo dài nơi bệnh nhân ngoại trú bởi v́ chúng có thể cản quá tŕnh b́nh thường của hệ thần kinh trung ương trong việc bù chứng chóng mặt.

Sau đây là những thuốc được sử dụng để điều trị chóng mặt :



THUỐC và LIỀU LƯỢNG


•Antihistamines
◦Dimenhydrinate (Dramamine): 50 mg mỗi 4-6 giờ

◦Meclozine (Antivert) : 25-50 mg mỗi 8 giờ

◦Promethazine (Phenergan) : 12,5-25 mg mỗi 6 giờ (PO/IM/PR)


•Benzodiazepines
◦Diazepam (Valium): 2 -10 mg mỗi 6 giờ


•Phenothiazines
◦Prochlorperazi ne (Compazine): ◾5-10 mg IV/PO mỗi 6 giờ

◾25 mg PR mỗi 12 giờ




•Benzamides
◦Metoclopramide (Reglan): 5-10 mg PO/IV mỗi 4-6 giờ





21/ NHỮNG BỆNH NHÂN BỊ CHÓNG MẶT NÀO CẦN PHẢI ĐƯỢC NHẬP VIỆN?

Hầu hết những bệnh nhân với chóng mặt ngoại biên có thể cho xuất viện về nhà. Những bệnh nhân với viêm mê đạo cấp tính (acute labyrinthitis) do vi khuẩn, nôn mửa khó chữa và mất nước hoặc bị chóng mặt nặng mà sự xuất viện không được an toàn, cần phải nhập viện. Ngược lại, nhiều bệnh nhân với chóng mặt trung ương cần phải nhập viện và quyết định này sẽ được thực hiện sau khi đă hội chẩn với các thầy thuốc chuyên khoa nội thần kinh hoặc ngoại thần kinh.

B.S NGUYỄN VĂN THỊNH (4/9/2007)

florida80
04-17-2019, 18:24
CẤP CỨU NỘI THẦN KINH SỐ 7

CO GIẬT (SEIZURES)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH


1/ THẾ NÀO LÀ MỘT CƠN CO GIẬT ?

Co giật (seizures) là kết quả của sự phóng điện quá mức hay hỗn loạn (excessive or chaotic discharge) từ các tế bào thần kinh năo bộ. Mặc dầu hầu hết các nhà lâm sàng gọi hậu quả của sự phóng điện này (ví dụ : các cử động giật, nh́n trừng) là một cơn co giật (a seizure), nhưng cơn co giật tự bản thân là hoạt động của tế bào thần kinh (neuronal activity). Những biểu hiện quan sát được được gọi là hoạt động co giật (seizure activity).

Tầm quan trọng của các cơn co giật là rơ ràng. Cái ǵ đó cản trở sự hoạt động b́nh thường của một nhóm tế bào thần kinh. Những công tŕnh nghiên cứu kiểm tra sự tạo nên các sản phẩm phụ chuyển hóa (metabolic by-products) cho thấy rằng chính hoạt động điện bất thường, chứ không phải là sự tích tụ các sản phẩm phụ chuyển hóa, gây nên sự thương tổn và chết tế bào. V́ những lư do không được biết rơ, thùy hải mă (hippocampus) dường như đặc biệt nhạy cảm đối với thương tổn này.

2/ LÀM SAO NHẬN BIẾT MỘT CƠN CO GIẬT.

Điều này không hiển nhiên như có vẻ như vậy. Các cơn co giật có thể biểu hiện bằng nhiều cách, tùy theo kích thước và định vị của vùng năo bộ bị thương tổn. Nói chung, các cơn co giật được xếp thành 3 loại : cục bộ, toàn thể, và cục bộ với toàn thể hóa thứ phát. Một cơn co giật cục bộ (focal seizure) được giới hạn vào một vùng đặc biệt của năo bộ và chỉ ảnh hưởng một vùng nào đó của cơ thể. Một cơn co giật toàn thể (generalized seizure) được biểu hiện bởi hoạt động co giật lên toàn bộ cơ thể. Một cơn co giật cục bộ với toàn thể hóa thứ phát (focal seizure with secondary generalization) khởi đầu chỉ ảnh hưởng lên một phần của năo bộ nhưng sau đó lan rộng ra lên toàn bộ năo. Biểu hiện khởi đầu được tách biệt vào một vùng đặc biệt của cơ thể nhưng lan ra ảnh hưởng lên toàn bộ cơ thể. Hoạt động co giật không điển h́nh (atypical seizure activity) khó nhận biết hơn nhiều. Nếu một cơn co giật đă xảy ra nhưng đă dừng lại trước khi khám bệnh nhân, phải t́m kiếm những dấu hiệu thứ phát, bao gồm sự lú lẩn sau co giật, són đái hay phân, và cắn lưỡi hay niêm mạc miệng.


XẾP LOẠI CÁC CO GIẬT


LOẠI

BIỂU HIỆN

TOÀN THỂ
Co cứng-co giật (động kinh cơn lớn) (tonic-clonic) (grand mal) Mất tri giác, tiếp theo ngay sau bởi co cứng các cơ, sau đó co giật các cơ (jerkinh : giật), có thể kéo dài trong vài phút. Một thời kỳ mất định hướng (thời kỳ sau động kinh) xảy ra sau hoạt động co cứng-co giật.
Cơn vắng ư thức (động kinh cơn nhỏ) (absence)
(petit mal) Đột nhiên mất ư thức với dừng hoạt động hay kiểm soát tư thế. Thời kỳ thường kéo dài vài giây đến vài phút và được đi kèm theo bởi một thời kỳ sau động kinh tương đối ngắn.
Mất trương lực (drop attacks) Mất hoàn toàn kiểm soát tư thế và ngă xuống đất, đôi khi gây chấn thương. Thường xảy ra nơi các trẻ em.
MỘT PHẦN HAY CỤC BỘ
Một phần đơn thuần (simple partial) Có thể có nhiều dạng tùy theo vùng năo bộ bị ảnh hưởng. Nếu vỏ năo vận động bị kích thích, bệnh nhân sẽ có co thắt của vùng cơ thể tương ứng. Nếu vùng không vận động của năo bị kích thích, cảm giác có thể gồm có dị cảm, ảo giác, và déjà vu.
Một phần phức hợp (complex partiel) Thường cớ mất hoạt động vận động đang tiếp diễn, với hoạt động vận động nhỏ, như chắc lưỡi, và đi không có mục đích.
MỘT PHẦN VỚI TOÀN THỂ HÓA THỨ PHÁT Những triệu chứng khởi đầu cũng giống như động kinh một phần. Tuy nhiên, hoạt động tiến triển để ảnh hưởng lên toàn cơ thể, với mất kiểm soát tư thế và có thể có hoạt động cơ co cứng-co giật.

3/ THÁI ĐỘ XỬ TRÍ BAN ĐẦU ĐỐI VỚI MỘT BỆNH NHÂN ĐANG CO GIẬT ?

Hăy bắt đầu với ABC (airway, breathing, circulation), nhằm tất cả các dấu hiệu sinh tồn. Trước hết nên hướng sự chú ư vào đường hô hấp (airway) của bệnh nhân. Có nhiều kỹ thuật để mở hoặc có được một airway. Nên cho oxy bổ sung bởi v́ nhu cầu oxy gia tăng do sự co thắt cơ quá mức. Đánh giá t́nh trạng tim mạch với sự xác định huyết áp và capillary refill và điều chỉnh với dịch(nước muối sinh lư hay dụng dịch lactated ringer). Chú ư vào nhiệt độ và đáp ứng nhanh chóng với một bất thường là điều quan trọng.

Hầu hết can thiệp tích cực nơi bệnh nhân bị co giật nhằm vào ngăn ngừa chấn thương hay hít dịch. Bệnh nhân nên được kềm giữ (nhẹ nhàng) và, nếu có thể, nên được nghiêng về một bên để làm giảm khả năng bị hít dịch. Hút dịch miệng bệnh nhân nên được thực hiện trong lúc co giật. Điều quan trọng là không nên đặt bất cứ cái ǵ có thể bị hít hay bị cắn (kể cả các ngón tay của anh) vào trong miệng của bệnh nhân. Oxy bổ sung nên được cho bằng canun mũi (nasal cannula) hay mặt nạ, nhưng sự sử dụng thông khí bổ sung hiếm khi cần thiết nơi bệnh nhân với co giật không biến chứng.

4/ CƠN ĐỘNG KINH LIÊN TỤC (STATUS EPILEPTICUS) LÀ G̀ ?

• đó là một “ một cơn co giật động kinh (epileptic seizure) lập lại thường xuyên hoặc kéo dài tạo nên một t́nh trạng động kinh (epileptic condition) cố định và kéo dài ”.

• theo truyền thống được gọi là cơn động kinh liên tục (status epilepticus) nếu cơn co giật kéo dài hơn 30 phút hoặc các cơn co giật tái diễn nhưng bệnh nhân không tỉnh dậy giữa các cơn. Những khuyến nghị và mô tả hiện nay là hoạt động co giật kéo dài hơn 5 phút và không thể ngừng lại một cách ngẫu nhiên nên được xem là cơn động kinh liên tục (status epilepticus). Điều trị nên được bắt đầu trong ṿng 5 phút này.


Những bệnh nhân với chẩn đoán cơn động kinh liên tục (status epilepticus) cần được đánh giá kỹ và sâu rộng. Điều này bao gồm một đánh giá hoàn chỉnh để nhận diện và điều trị bất cứ các nguyên nhân gây cơn động kinh liên tục có thể đảo ngược và can thiệp nhanh để chấm dứt hoạt động neurone bất thường. Điều trị hỗ trợ đầy đủ để ngăn ngừa những biến chứng do các cơn co giật và những điều trị chúng (ví dụ suy hô hấp, tan cơ vân, hay sốt) là quan trọng.

5/ CÁC CO GIẬT ĐƯỢC LÀM NGỪNG NHƯ THẾ NÀO ?

Nếu một cơn co giật kéo dài hơn 5 phút, cần phải can thiệp ngay. Trong y khoa truyền thống, chuỗi thông thường là chẩn đoán, sau đó mới điều trị. Thường trong y khoa cấp cứu, cần chẩn đoán và điều trị đồng thời. Đừng chờ đợi cho đến khi đă lấy xong bệnh sử, khám nghiệm vật lư hoàn chỉnh, cho y lệnh làm những xét nghiệm phụ, rồi mới điều trị co giật. Các co giật làm thương tổn năo bộ ; càng để các cơn co giật diễn biến liên tục, th́ càng có nhiều tổn hại xảy ra.

Các benzodiazepine là những thuốc được lựa chọn đầu tiên để điều trị các cơn co giật kéo dài hơn 5 phút. Lorazepam (Témesta) là benzodiazepine tuyến đầu được ưa thích để điều trị các cơn co giật do tính hiệu quả gia tăng và thời gian bán hủy dài hơn trong việc giữ cho các cơn co giật khỏi bị tái phát so với diazepam (Valium). Liều lượng người trưởng thành của Lorazepam là 2-4 mg tiêm tĩnh mạch trực tiếp, với liều lượng tối đa 10-15 mg. Nếu không có lorazepam, có thể cho diazepam với liều lượng 5-10 mg tiêm tĩnh mạch trực tiếp, không vượt quá 30 mg trong một thời gian 8 giờ. Nếu nhiều liều benzodiazepine không làm ngừng co giật hay nếu benzodiazepines bị chống chỉ định nơi bệnh nhân, nên cho một liều lượng tấn công của thuốc chống động kinh nguyên phát (primary anticonvulsant).

Nếu không có đường tĩnh mạch, midazolam (Dormicum) có thể được sử dụng bằng tiêm mông hay bằng đường trực tràng. Mặc dầu diazepam và lorazepam không được khuyến nghị dùng bằng đường tiêm mông do sự hấp thụ thất thường, midazolam với liều lượng 0,05 mg/kg đă được sử dụng để điều trị thành công cơn động kinh liên tục (status epilepticus).

6/ KHI CO GIẬT ĐĂ DỪNG, LÀM SAO GIỮ CHO KHỎI TÁI PHÁT ?

Vấn đề này mang chúng ta đến một loại thuốc khác, các thuốc chống co giật (anticonvulsant). Các thuốc chống co giật không chỉ giữ cho các co cơn giật khỏi tái phát ở pḥng cấp cứu mà c̣n được sử dụng để làm ngưng các cơn co giật đề kháng với benzodiazepines.


THUỐC CHỐNG CO GIẬT


TÊN THUỐC

LIỀU LƯỢNG

ĐƯỜNG CHO THUỐC

B̀NH LUẬN

Phenytoin
(Dialantin, Diphantoine) ampoules 250mg/5ml

18-20 mg/kg
Tiêm tĩnh mạch Không nên cho nhanh hơn 50mg/phút ; bệnh nhân nên được monitor tim ; ngưng truyền nếu độc tính xuất hiện (QRS kéo dài hơn 50% căn bản, hạ huyết áp). Nếu động kinh liên tục tiếp diễn, có thể gia tăng liều lượng toàn bộ lên đến 30 mg/kg.
Fosphenytoin
(ProDilantin)
15-20 PE/kg
Tiêm tĩnh mạch, Tiêm mông Đơn vị đo lường là PE (phenytoin equivalent), được ghi chú trên chai thuốc. Thuốc này là chất tiền thân của phenytoin, như vậy an toàn khi tiêm truyền nhanh mà không gây các tác dụng huyết động nghịch. Một nồng độ điều trị của thuốc này đạt được nhanh hơn nhiều so với dilantin.
Fosphenytoin Phenobarbital
(Gardénal)
Flacons 40 mg và 200mg

lên đến 15mg/kg
Tiêm tĩnh mạch Không nên cho nhanh hơn 100mg/phút ; liều lượng có thể được nhắc lại một lần sau 30 phút nếu không có hiệu quả ; liều lượng tổng cộng tối đa là 600 mg ; coi chừng giảm áp hô hấp, đặc biệt là nếu bệnh nhân đă nhận diazepam
Pentobarbital
12mg/kg
Tiêm tĩnh mạch Chỉ sử dụng khi những loại thuốc khác thất bại
Lidocaine
1-1,5 mg/kg
Tiêm tĩnh mạch Đă được ghi nhận là làm ngưng t́nh trạng động kinh liên tục
Propofol
(Diprivan)
2mg/kg
Tiêm tĩnh mạch Có những báo cáo về sự sử dụng propofol trong trường hợp cơn động kinh liên tục đề kháng. Nên được sử dụng với nội thông khí quản và thông khí cơ học. Coi chừng hạ huyết áp và chuẩn bị để điều trị


7/ KỂ NHỮNG NGUYÊN NHÂN THÔNG THƯỜNG NHẤT CỦA CO GIẬT

Những nguyên nhân có thể đảo ngược tức thời mà các thầy thuốc cần cảnh giác gồm có hạ glucose-huyết và giảm oxy-mô (thứ phát ngộ độc nha phiến).

•Nhũ nhi

◦Chấn thương sinh đẻ (giảm oxy mô, chấn thương nội sọ)

◦Nhiễm trùng (áp xe năo, viêm màng năo)

◦Các bất thường điện giải (giảm natri-huyết, giảm canxi-huyết, giảm magnesi-huyết)

◦Các dị dạng bẩm sinh (các nang trong năo bộ, tràn dịch năo)

◦Các rối loạn di truyền (sai lầm chuyển hóa bẩm sinh, thiếu hụt pyridoxine)



•Trẻ em

◦Co giật do sốt cao

◦Co giật không rơ nguyên nhân

◦Chấn thương

◦Nhiễm trùng (viêm màng năo)



•Thiếu niên

◦Chấn thương

◦Co giật không rơ nguyên nhân

◦Ma túy hay rượu (ngộ độc hay cai cấp tính).

◦Dị dạng động-tĩnh mạch



•Thanh niên

◦Chấn thương

◦Rượu (ngộ độc hay cai cấp tính)

◦U năo



•Người trưởng thành lớn tuổi hơn

◦U năo

◦Đột quy

◦Xuất huyết trong năo.

◦Nghiện rượu

◦Các rối loạn chuyển hóa (hạ natri-huyết, tăng natri-huyết, giảm canxi-huyết, hạ đường huyết, uremia, suy gan)





8/ BỆNH SỬ CÓ QUAN TRỌNG KHÔNG ?

Bệnh sử vô cùng quan trọng ! Bạn có thể sử dụng COLD để chắc chắn rằng bạn đă hỏi các khía cạnh của hoạt động co giật :

•Character (tính chất) : Loại hoạt động co giật nào đă xảy ra ?

•Onset (Khởi đầu) : Co giật khởi đầu khi nào ? Trong khi bệnh nhân đang làm ǵ ?

•Location (vị trí) : Hoạt động co giật bắt đầu ở đâu ?

•Duration (thời gian) : co giật kéo dài bao lâu ?


Nói chung những co giật thật sự có khuynh hướng xảy ra đột ngột, có bài bảng (stereotyped) (những tính chất cơ bản của co giật được duy tŕ từ đợt này qua đợt khác), và không bị kích thích bởi những kích thích môi trường, được biểu hiện bởi những cử động không mục đích và không thích hợp, và, ngoại trừ nhưng co giật cỡ nhỏ, được tiếp theo sau bởi một thời kỳ lú lẩn và ngủ lịm (lethargy) (thời kỳ sau cơn vật). Những điểm quan trọng khác bao gồm tiền sử của bệnh nhân (đặc biệt là tiền sử co giật trước đây), sử dụng rượu và uống các độc chất khác, những thuốc đang sử dụng, và tiền sử các khối u hệ thần kinh trung ương, và tiền sử chấn thương mới đây hay đă lâu.

9/ NGOÀI KHÁM THẦN KINH, NHỮNG PHẦN KHÁC NÀO CỦA THĂM KHÁM VẬT LƯ LÀ QUAN TRỌNG VÀ TẠI SAO ?

Một thăm khám hoàn chỉnh từ đầu đến chân là quan trọng. Ngoài việc t́m kiếm các nguyên nhân của co giật, người thầy thuốc nên t́m kiếm chấn thương gây nên bởi co giật. Thăm khám thường b́nh thường nhưng đôi khi có thể cho các manh mối về vấn đề bên dưới. Đặc biệt, thăm khám da có thể phát hiện các thương tổn phù hợp với meningococcemia hay những vấn đề nhiễm trùng khác. Hăy khám đầu t́m các chấn thương. Nếu t́m thấy cứng cổ (nuchal rigidity), viêm màng năo hay xuất huyết dưới màng nhện nên được nghi ngờ. Một tiếng tim thổi, đặc biệt nếu bệnh án chỉ rơ không hề được nghe trước đó, có thể chỉ rơ viêm nội tâm mạc bán cấp do nhiễm khuẩn (subacute bacterial endocarditis), với embolization là nguyên nhân của co giật.

Thăm khám thần kinh là quan trọng. Những dấu hiệu thần kinh khu trú, như liệt nhẹ khu trú (focal paresis) sau co giật (bại liệt Todd) có thể chỉ rơ một thương tổn năo bộ khu trú (khối u, áp xe, đụng dập năo) như là nguyên nhân của co giật. Sự đánh giá các dây thần kinh đầu và đáy mắt có thể chỉ rơ tăng áp lực nội sọ.

10/ NHỮNG XÉT NGHIỆM PHỤ NÀO NÊN ĐƯỢC THỰC HIỆN NƠI MỘT BỆNH NHÂN CO GIẬT ?

Nói chung, việc sử dụng những xét nghiệm phụ tùy thuộc bệnh sử và lâm sàng của bệnh nhân. Nơi bệnh nhân với bệnh sử trước đây có rối loạn co giật, chỉ có một cơn co giật đơn độc, xảy ra tự nhiên, th́ xét nghiệm duy nhất hữu ích là nồng độ của thuốc chống co giật trong máu. Nếu nồng độ ở dưới mức điều trị, bệnh nhân nên được cho một liều tấn công thuốc này để đạt được nồng độ điều trị. Quyết định đánh giá bệnh nhân với những trắc nghiệm phụ khác (xét nghiệm và X quang) nên được căn cứ trên những dấu hiệu của bệnh sử và thăm khám vật lư. Nếu có nghi vấn không biết bệnh nhân đă có một cơn co giật vận động quan trọng hay không, nên xét nghiệm các chất điện giải và tính anion gap.

11/ Ư NGHĨA CỦA ANION GAP TRONG CHẤN ĐOÁN ĐỒNG KINH CƠN LỚN (GRAND MAL SEIZURE) ?

Một anion gap gia tăng tạm thời (thời gian 1 giờ) là bằng cớ tốt cho thấy rằng cơn động kinh cơn lớn (grand mal seizure) đă xảy ra. Điều này được xác nhận bằng cách lấy máu càng gần với lúc động kinh càng tốt. Lấy máu nơi xảy ra động kinh là lư tưởng cho khảo sát này. Nếu không có nhiễm toan anion gap, ta sẽ có thể giả định rằng bệnh nhân đă không có một cơn động kinh quan trọng.

12/ PHẢI LÀM G̀ NẾU TRƯỚC ĐÂY BỆNH NHÂN ĐĂ KHÔNG CÓ MỘT CƠN CO GIẬT ?

Nếu đây là một cơn co giật mới khởi ra (new-onset seizure), th́ những xét nghiệm phụ quan trọng hơn. Tuy nhiên hiệu năng thường rất thấp. Một xét nghiệm t́m những rối loạn chuyển hóa (sodium, calcium, glucose, magnesium, BUN tăng cao, hay creatinine) là quan trọng. Những xét nghiệm độc chất (toxicologic screen) nhắm vào các chất được biết là gây co giật (cocaine, lidocaine, thuốc chống trầm cảm, theophylline, và các chất kích thích là trong số những chất thông thường nhất) nên được thực hiện nếu có chỉ định trên phương diện lâm sàng.

13/ CÓ PHẢI TẤT CẢ BỆNH NHÂN VỚI CO GIẬT ĐỀU CẦN LÀM CT SCAN Ở PH̉NG CẤP CỨU ?

Đây là một lănh vực đang c̣n tiếp tục được nghiên cứu. Câu trả lời hay nhất có thể được cho vào lúc này là rằng sự sử dụng chọn lọc CT scan đầu là an toàn trong những t́nh huống thích đáng. Những bệnh nhân nên được chụp CT scan đầu ở pḥng cấp cứu gồm có những bệnh nhân được nghi có một biến cố cấp tính trong sọ (ví dụ máu tụ dưới màng cứng, xuất huyết dưới màng nhện), những bệnh nhân có một trạng thái tâm thần bị biến đổi kéo dài (t́nh trạng sau vật kéo dài) hay một thăm khám thần kinh bất b́nh thường, và những bệnh nhân không thể đảm bảo một đánh giá theo dơi nhanh chóng bởi thầy thuốc tuyến đầu hay thầy thuốc chuyên khoa thần kinh.

14/ XỬ TRÍ THÍCH ĐÁNG MỘT BỆNH NHÂN VỚI CO GIẬT TÁI PHÁT ?

Nếu như không có những dấu hiệu bất thường trong bệnh sử hay thăm khám vật lư, bệnh nhân có thể được cho xuất viện với theo dơi bởi thầy thuốc gia đ́nh hay thầy thuốc chuyên khoa thần kinh của bệnh nhân. Nếu nồng độ thuốc chống co giật b́nh thường hay bệnh sử gợi ư một sự thay đổi hoạt động(ví dụ tần số cơn gia tăng, loại động kinh khác), th́ bệnh nhân nên được đánh giá như là một bệnh nhân với cơn co giật mới. Điều này có thể bao gồm sự nhập viện nếu việc theo dơi không được đảm bảo hay nếu các dấu hiệu lúc thăm ḍ cho thấy cần phải nhập viện

15/ SỰ VIỆC BỆNH NHÂN CÓ CƠN CO GIẬT LẦN ĐẦU CÓ KHÁC NHAU TRONG ĐIỀU TRỊ VÀ XỬ LƯ HAY KHÔNG ?

Những bệnh nhân với cơn co giật lần đầu (first-time seizure) có khả năng được nhập viện hơn sau khi đă đánh giá ở pḥng cấp cứu. Nếu cơn co giật xảy ra ngắn ngủi, thăm khám vật lư và các xét nghiệm phụ tất cả đều b́nh thường, và sự theo dơi bởi thầy thuốc gia đ́nh hay thầy thuốc thần kinh có thể được xếp đặt trước khi bệnh nhân được cho ra khỏi pḥng cấp cứu, th́ sự nhập viện có thể không cần thiết.

Cũng tương tự như vậy, không phải tất cả các bệnh nhân bị co giật lần đầu đều cần phải bắt đầu cho thuốc chống động kinh. Những lời khuyên đặc biệt về việc sử dụng các thuốc chống động kinh nơi những bệnh nhân này là khó. Nếu có thể theo dơi sát bởi thầy thuốc gia đ́nh hay thầy thuốc thần kinh, và nếu bệnh nhân có thể tin cậy được, th́ việc cho xuất viện mà không bắt đầu cho thuốc chống co giật có thể là thích hợp.

Những chỉ thị xuất viện nên nhấn mạnh với bệnh nhân rằng không được lái xe, vận hành máy móc, hoặc đi đến những chỗ ở cao và mở (ví dụ các platform xây dựng).

16/ CO GIẬT GIẢ (PSEUDOSEIZURE) LÀ G̀, LÀM SAO CHẨN ĐOÁN ?

Những co giật giả (pseudoseizures) là những hoạt động giống co giật (seizure-like activity) nhưng không có hoạt động điện bất thường trong năo bộ. Các co giật giả khó chẩn đoán được ở pḥng cấp cứu. Những thủ thuật đă được chứng tỏ có tác dụng trong vài trường hợp bao gồm sự gợi ư với bệnh nhân rằng co giật chẳng bao lâu sẽ ngừng lại hay cố làm lăng trí bệnh nhân bằng những tiếng động lớn hay những áng sáng chói ḷa trong khi hoạt động “ co giật ” đang diễn biến. Những dạng vẻ của hoạt động bất thường làm cho nó có khả năng là một co giật giả gồm có cử động chi không đồng bộ (asynchronous extremity movement), một cử động đẩy vùng chậu ra phía trước (a forward thrusting movement of the pelvis), và mắt bị lệch về phía đất, dầu cho đầu được đặt ở vị trí nào. Chẩn đoán có thể được thực hiện bằng điện nếu bệnh nhân được móc vào một máy điện tâm đồ. Trong co giật giả, hoạt động điện bất thường không được nh́n thấy. Tương tự, việc đo prolactin huyết thanh 20 phút sau “co giật ” giúp gián biệt một co giật thật sự với một co giật giả. Trong những co giật thật sự, nồng độ prolactin tăng cao ít nhất hai lần, trong khi trong co giật giả, nồng độ prolactin vẫn trong giới hạn b́nh thường. Không có phương pháp nào trong hai phương pháp này có để sử dụng ở pḥng cấp cứu. Các co giật cơn lớn giả (pseudogrand mal seizures) thường không gây nên nhiễm toan chuyển hóa với anion gap, và sự xác định này có thể làm ở pḥng cấp cứu.

BS NGUYỄN VĂN THỊNH (21/3/2010)

florida80
04-17-2019, 18:25
CẤP CỨU NỘI THẦN KINH SỐ 15

CO GIẬT
(SEIZURES)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH


1/ SỰ KHÁC NHAU GIỮA CO GIẬT (SEIZURES) VÀ ĐỘNG KINH.
• Một cơn co giật (seizure) là một biến đổi kịch phát hành vi hay tri giác (an alteration in behavior or perception) ; đó là một triệu chứng cần thăm ḍ thêm để t́m nguyên nhân. Động kinh (epilepsy) là một bệnh được đặc trưng bởi những cơn co giật ngẫu nhiên, tái diễn không do kích thích (spontaneous recurrent unprovoked seizures)


2/ ĐỘNG KINH ĐƯỢC XẾP LOẠI NHƯ THẾ NÀO ?

Động kinh được xếp loại tùy theo loại co giật (seizure type) (được căn cứ trên triệu chứng lâm sàng hay điện năo đồ) hoặc theo hội chứng động kinh (epilepsy syndrome) (được căn cứ trên loại co giật, tuổi khởi đầu, di truyền, những nguyên nhân khả dĩ, thăm khám thần kinh, MRI, và điện năo đồ).

Cả hai hệ thống xếp loại giúp xác định thuốc chống động kinh hiệu quả nhất, nhưng xếp loại theo hội chứng động kinh cũng cung cấp thông tin về tiên lượng.

XẾP LOẠI THEO LOẠI CO GIẬT
•Khởi đầu cục bộ (partial onset) (focal seizures : động kinh cục bộ)
◦Động kinh cục bộ đơn thuần (simple partial seizures) : “ aura ” (không bị biến đổi tri giác)

◦Động kinh cục bộ phức hợp (complex partial seizures) (với biến đổi tri giác)

◦Động kinh cục bộ toàn thể hóa thứ phát (secondarily generalized partial seizures)


•Khởi đầu toàn phát (generalized onset) (generalized seizures : động kinh toàn thể)
◦Vắng ư thức (absence) : điển h́nh và không điển h́nh

◦Co cứng
◦ co giật (tonic-clonic) (cơn co cứng-co giật)

◦Co cứng (tonic) (cơn co cứng)

◦Co giật (clonic) (cơn co giật)

◦Giật rung cơ (myoclonic)

◦Vô trương lực (atonic)

◦Infantile spasm


•Không được xếp loại


3/ CƠN VẮNG Ư THỨC (ABSENCE) VÀ ĐỘNG KINH CỤC BỘ PHỨC HỢP (COMPLEX PARTIAL SEIZURES) ĐƯỢC PHÂN BIỆT NHƯ THẾ NÀO ?


CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT GIỮA CƠN VẮNG Ư THỨC VÀ CƠN ĐỘNG KINH CỤC BỘ PHỨC HỢP

UserPostedImage


4/ TRẠNG THÁI ĐỘNG KINH LIÊN TỤC (STATUS EPILEPTICUS) LÀ G̀ ?

Mặc đầu không có định nghĩa được chấp nhận một cách nhất trí, đó là một cấp cứu nội khoa, được định nghĩa như là hoạt động co giật điện hay lâm sàng kéo dài 30 phút hoặc hơn, hoặc những co giật lập lại với sự hồi phục thần kinh không hoàn toàn giữa các cơn. Nhiều người đề nghị thu ngắn tiêu chuẩn thời gian để chẩn đoán từ > hoặc = 30 phút xuống c̣n 5 phút.

NHỮNG ĐIỂM THEN CHỐT : ĐỊNH NGHĨA VÀ XẾP LOẠI CO GIẬT
1. Một cơn co giật là một dấu hiệu của động kinh hay của một t́nh trạng khác và không bao giờ là chẩn đoán của sự đánh giá.
2. Sự xếp loại co giật cả loại lẫn hội chứng là lư tưởng để chọn lọc tối ưu thuốc chống đông kinh.
3. Trạng thái động kinh là một cấp cứu nội khoa đ̣i hỏi nhận diện và can thiệp nhanh.

5/ MÔ TẢ CĂN NGUYÊN CỦA CÁC CO GIẬT MỚI PHÁT (NEW-ONSET SEIZURES).

Chỉ 1/3 các co giật mới phát có một nguyên nhân có thể nhận diện được, có thể bao gồm những yếu tố thực thể, chuyển hóa, và độc tính. Các thuốc có thể gây các co giật gồm có các thuốc chống loạn thần kinh (antipsychotics), bupropion, lithium, penicillin, SERI (selective seerotonin reuptake inhibitors), theophylline, và các thuốc chống trầm cảm ba ṿng.

CÁC NGUYÊN NHÂN CỦA CO GIẬT MỚI PHÁT.
•Các thương tổn thực thể mắc phải : để dễ nhớ sử dụng những chữ đầu của VITAMIN
◦Vascular (xuất huyết, dị dạng động-tĩnh mạch, huyết khối tĩnh mạch, cavernous angiomas)

◦Infectious (viêm màng năo, viêm năo, áp xe, neurocystercercosis, HIV/AIDS)

◦Trauma

◦Autoimmune (systemic lupus erythematosus, polyarteritis nodosum)

◦Mesial temporal sclerosis

◦Ischemic stroke (đột qụy do thiếu máu cục bộ)

◦Neoplasm (nguyên phát hệ thần kinh trung ương, di căn).


•Chuyển hóa :
◦Tăng urê máu (uremia)

◦Hạ đường máu hay tăng đường huyết

◦Giảm natri-huyết

◦Giảm canxi-huyết

◦Giảm magie-huyết

◦Phù niêm giảm năng tuyến giáp (hypothyroid myxedema)

◦Suy gan

◦Giảm oxy mô (hypoxia)

◦Hyperosmolar states.

◦Sốt cao


•Thuốc/ Độc tố
◦Cai ruợu

◦Cai benzodiazépine

◦Cocaine

◦Demerol



6/ VÀI NGUYÊN NHÂN CỦA TRẠNG THÁI ĐỘNG KINH LIÊN TỤC ?

Thương tổn cấp tính của hệ thần kinh trung ương (50%), thay đổi thuốc ở những bệnh nhân động kinh (20%), và những nguyên nhân không được biết (30%).

7/ VÀI YẾU TỐ THÔNG THƯỜNG LÀM PHÁT KHỞI CO GIẬT ?

Chữ SEIZE tóm tắt những yếu tố phát khởi co giật thông thường :
•S : Stress

•E : EtOH (thí dụ alcohol)

•I : Illness

•Z : ZZ (ví dụ thiếu ngủ)

•E : estrogen (thay đổi nồng độ, kinh kỳ)


8/ NHỮNG BỆNH KHÁC CÓ THỂ CÓ TRIỆU CHỨNG GIỐNG CO GIẬT ?

Chữ STAMP tóm tắt những bệnh có thể có triệu chứng giống co giật.
•S : Syncope (ngất xỉu) (ví dụ : vasovagal, loạn nhịp tim), các rối loạn giấc ngủ, ví dụ cơn ngủ rủ (narcolepsy), REM behavior disorder

•T : Transient ischemic attack (cơn thiếu máu cục bộ tạm thời), tetany.

•A : Amnesia (thí dụ mất trí nhớ tạm thời toàn bộ)

•M : Migraine, các rối loạn cử động ví dụ chứng máy cơ (myoclonus), rối loạn trương lực kịch phát gia đ́nh (familial paroxysmal dystonia), chứng múa giật múa vờn (choreoathetosis), chứng múa vung bán thân (hemiballismus), run (tremor).

•P : Paroxysmal vertigo (chóng mặt kịch phát), co giật do tâm lư (psychogenic seizure), ví dụ cơn hoảng sợ, rối loạn tăng động do sự thiếu quan tâm (attention deficit hyperactivity disorder), posttraumatic stress disorder, hội chứng tăng thông khí, cơn vắng ư thức (fugue state), rối loạn chuyển dạng (conversion disorder).


9/ NHỮNG ĐẦU MỐI GIÚP PHÂN BIỆT MỘT CO GIẬT ĐỘNG KINH VỚI NGẤT XỈU ?

Các cơn co giật, chứ không phải ngất xỉu, trong trường hợp điển h́nh có một trạng thái sau cơn vật (postictal state) (nghĩa là thời kỳ tạm thời giảm chức năng thần kinh khi năo bộ hồi phục sau một cơn co giật) ; có thể gây nên mất trí nhớ về trước (retrograde amnesia), són đái, và cắn lưỡi và có những cử động co cứng-co giật kéo dài và mạnh hơn các cử động giật mạnh (“ twitches ”) có thể đi kèm ngất xỉu co giật (convulsive syncope).

10/ NHỮNG G̀ PHÂN BIỆT CO GIẬT DO TÂM LƯ VỚI CO GIẬT ĐỘNG KINH ?

Co giật nguyên nhân tâm thần (psychogenic seizures) thường kéo dài hơn co giật động kinh (epileptic seizures) ( > 5 phút, thường lặp đi lặp lại), thường không liên kết với són đái hay thương tổn vật lư, và thường liên kết với những cử động đẩy xương chậu (pelvic thrusting) và quay đầu qua lại, và đề kháng với các thuốc chống co giật.

11/ NHỮNG YẾU TỐ BỆNH SỬ NÀO GIÚP XẾP LOẠI CÁC CO GIẬT ?

AURA tóm tắc những yếu tố bệnh sử cần thiết :
•A : Automatisms (tính tự động) (hoạt động không có mục đích lặp đi lặp lại), aura (tiền triệu) (những mùi bất thường, cảm giác thượng vị), altered consciousness (tri giác bị biến đổi)/ acute confusional postictal state (trạng thái lú lẫn cấp tính sau cơn vật) (điển h́nh xảy ra với tất cả các động kinh, ngoại trừ các cơn động kinh cục bộ đơn thuần (simple partial), động kinh giật rung cơ (myoclonic), và các động kinh vắng thức (absence) ; những hiện tượng sau cơn vật không điển h́nh gồm có phù phổi do nguyên nhân thần kinh (neurogenic pulmonary edema) (thường sau trạng thái động kinh và bại liệt Todd (bại liệt thần kinh khu trú tạm thời kéo dài dưới 48 giờ), accidents (các tai nạn) (thí dụ són đái, cắn lưỡi).

•U : unprovoked (thường không được phát khởi bởi những kích thích xúc cảm)

•R : Retrograde amnesia (mất trí nhớ về trước)

•A : Abrupt onset (phát khởi đột ngột), thời gian ngắn (< 90-120 giây). Các người quan sát thường đánh giá quá mức thời gian.


12/ NHỮNG YẾU TỐ NÀO KHÁC NÊN ĐƯỢC ĐƯA VÀO TRONG BỆNH SỬ ?

Tiền sử cá nhân và gia đ́nh về bệnh tâm thần hay các cơn động kinh ; tần số và kiểu co giật xảy ra ; sốt cao co giật lúc nhỏ ; các bất thường bẩm sinh ; đột qụy trước đây, nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương, hay chấn thương đầu ; bệnh đái đường, bệnh thận hay gan, sickle cell, HIV/acquired immunodeficiency syndrome (AIDS); ung thư ; thuốc bao gồm thuốc không cần toa và herbal remidies), những thay đổi liều lượng mới đây, những thuốc mới, sự tuân thủ điều trị, lạm dụng chất mà túy hay rượu ; và thiếu ngủ.

13/ NHỮNG DẤU HIỆU VẬT LƯ CHỦ YẾU CẦN T̀M KIẾM ?
• Những dấu hiệu sau cơn vật : Tăng phản xạ, phản xạ Babinski, giăn đồng tử, liệt Todd.

• Những hậu quả của một cơn co giật : són đái, tăng thân nhiệt, cao huyết áp (khởi đầu), theo sau bởi hạ huyết áp, loạn nhịp tim, phù phổi, cắn lưỡi, bầm tím, găy xương, sai khớp.


14/ NHỮNG XÉT NGHIỆM NÀO NÊN ĐƯỢC THỰC HIỆN Ở CÁC BỆNH NHÂN VỚI CO GIẬT MỚI KHỞI PHÁT ?

Bảo ḥa oxy, glucose, sodium, calcium, magnesium, BUN, creatinine, các enzyme gan, hemoglobin, các tiểu cầu, đếm bạch cầu, phân tích nước tiểu, trắc nghiệm giang mai, và thăm ḍ độc chất. Hăy xét trắc nghiệm HIV ở những vùng có mức độ lưu hành cao hay nếu có những yếu tố nguy cơ. Tất cả các bệnh nhân với những cơn động kinh mới phát khởi nên cho thực hiện CT hay MRI vào lúc thăm khám để loại bỏ những thương tổn thực thể. Nếu thăm ḍ ban đầu là CT Scan, một MRI theo dơi nội trú nên được dự kiến

15/ NHỮNG BẤT THƯỜNG NÀO CÓ THỂ THẤY ĐƯỢC TRONG CÁC KẾT QUẢ XÉT NGHIỆM SAU MỘT CƠN ĐỘNG KINH CO CỨNG-CO GIẬT TOÀN THỂ ?

Nhiễm toan chuyển hóa, hạ đường huyết/tăng đường huyết, giảm oxy-mô, tăng bạch cầu, tăng prolactine-huyết (mười phút đầu), đông máu rải rác trong ḷng mạch, tan cơ vân (rhabdomyolysis).

16/ ĐIỆN NĂO ĐỒ GIÚP CHẨN ĐOÁN NHƯ THẾ NÀO ?

Một điện năo đồ có thể giúp xếp loại, có thể giúp định vị trí vùng phát khởi co giật và có thể xác nhận chẩn đoán co giật động kinh (epileptic seizure) so với co giật không phải động kinh. Tuy nhiên một điện năo đồ b́nh thường không loại bỏ khả năng động kinh. Lập lại điện năo đồ có thể làm gia tăng tính nhạy cảm trong việc phát hiện hoạt động dạng động kinh (epileptiform activity).

17/ KHI NÀO NÊN THỰC HIỆN MỘT ĐIỆN NĂO ĐỒ CẤP CỨU ?

Trong các trường hợp (1) trạng thái tâm thần bị biến đổi kéo dài hay không phản ứng sau một cơn co giật có người chứng kiến để loại trừ t́nh trạng động kinh không co giật (nonconvulsive status epilepticus) đang tiếp tục. (2) t́nh trạng động kinh đề kháng (refractory status epilepticus), được điều trị bằng hôn mê thuốc gây mê (anesthetic coma) hay bại liệt dược lư (pharmacologic paralysis), hoặc (3) trạng thái tâm thần bị biến đổi không rơ nguyên nhân.

18/ KHI NÀO CÓ CHỈ ĐỊNH CHỌC D̉ TỦY SỐNG ?

Ở tất cả các bệnh nhân co giật, có HIV, sốt, hay mọi nghi ngờ cao nguyên nhân nhiễm trùng (v́ dụ viêm màng năo khuẩn, giang mai thần kinh, herpes, lao, nấm).

19/ NHƯNG XÉT NGHIỆM NÀO KHÁC CÓ THỂ ĐƯỢC THỰC HIỆN KHI BỆNH CẢNH KHÔNG RƠ RÀNG ?

Siêu âm tim, Holter monitor; tilt-table test, sleep study, và EEG-video monitoring.

20/ MÔ TẢ XỬ TRÍ BAN ĐẦU MỘT TRẠNG THÁI ĐỘNG KINH LIÊN TỤC ĐƯỢC CHỨNG KIẾN ?

Bảo vệ bệnh nhân khỏi bị tự gây chấn thương. Nếu bệnh nhân đứng, hăy giúp bệnh nhân nằm xuống, lót nệm nếu có thể được, giữ vững cổ bệnh nhân, bất động cổ nếu có vấn đề thương tổn cột sống. Đừng đặt ǵ vào miệng bệnh nhân. Lăn bệnh nhân về một bên và khai thông đường hô hấp vào cuối cơn co giật. Điều trị nguyên nhân nếu biết. Hầu hết các cơn co giật tự chấm dứt. Nếu tiếp tục hơn 5 phút, tiến hành điều trị cắt cơn (benzodiazepines).

21/ MÔ TẢ XỬ TRÍ CHUNG CỦA TRẠNG THÁI ĐỘNG KINH LIÊN TỤC.

Mục đích chủ yếu là làm chấm dứt co giật càng nhanh càng tốt để giảm thiểu các biến chứng bởi v́ thời gian co giật là yếu tố quyết định quan trọng của tỷ lệ bệnh và tử vong. Điều trị bao gồm bảo vệ đường khí của bệnh nhân (nội thông khí quản nếu cần) ; thiết lập đường tĩnh mạch và thực hiện các xét nghiệm thích hợp ; cho thiamine + dextrose, và tiêm tĩnh mạch benzodiazepine, tiếp theo sau bởi phenytoin (Diphantoine hay Dilantin) hay fosphenytoin (ProDilantin). Nếu co giật kéo dài, monitoring điện năo đồ và điều trị với phenobarbital (Gardénal), pentobarbital, midazolam (Dormicum), hay propofol (Diprivan). Các bệnh nhân nên được theo dơi liên tục và nên được đưa vào đơn vị ICU với hội chẩn thần kinh.

NHỮNG ĐIỂM CHỦ YẾU : ĐÁNH GIÁ CHẨN ĐOÁN CO GIẬT

1.Tất cả bệnh nhân với những cơn co giật mới phát nên cho chụp CT hay MRI đầu vào lúc ở pḥng cấp cứu để loại bỏ những thương tổn thực thể cấp tính.

2.Một điện năo đồ b́nh thường giữa các cơn không loại bỏ khả năng của một bệnh động kinh

3.Trạng thái tâm thần bị biến đổi kéo dài sau một cơn co giật được chứng kiến là một chỉ định của điện năo đồ cấp cứu.

4.Tất cả những bệnh nhân HIV dương tính với cơn co giật mới phát đ̣i hỏi chọc ḍ tủy sống


22/ SỰ KHÁC NHƯ GIỮA PHENYTOIN VA FOSPHENYTOIN ?

Fosphenytoin là thuốc tiền thân của phenytoin rất ḥa tan trong nước và có thể cho nhanh hơn với ít nguy cơ bị hạ huyết áp, loạn nhịp tim, và viêm tĩnh mạch huyết khối (thrombophlebitis) hơn.

23/ KHI NÀO NÊN BẮT ĐẦU CHO CÁC THUỐC CHỐNG CO GIẬT ?

Các thuốc chống co giật được chỉ định với các co giật tái diễn, không do kích thích (động kinh). Hăy xét bắt đầu điều trị với một thuốc chống động kinh sau một cơn co giật duy nhất trong những t́nh huống sau đây : thương tổn thực thể hay nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương, điện năo đồ cho thấy hoạt động dạng động kinh (epileptiform activity), bệnh sử gia đ́nh động kinh, bệnh nhân bị bệnh nặng hay không ổn định, ở những bệnh nhân này có thêm các cơn co giật có thể gây nên những hậu quả chuyển hóa hay tim mạch nghiêm trọng, sau trạng thái động kinh liên tục (status epilepticus) nếu nguyên nhân có thể hồi phục hiển nhiên không được nhận thấy, và ở những bệnh nhân huyết thanh dương tính (HIV-positive) không có nguyên nhân đảo ngược rơ ràng.

24/ NHỮNG YẾU TỐ NÀO ẢNH HƯỞNG SỰ LỰA CHỌN THUỐC CHỐNG ĐỘNG KINH ?

Sự chọn lựa thuốc chống động kinh bị ảnh hưởng bởi các bệnh lư nội khoa mà bệnh nhân vốn có, có thể ảnh hưởng lên chuyển hóa của bệnh nhân, các thuốc đang được sử dụng (khả năng tương tác giữa các thuốc), những phản ứng phụ, tần số các liều lượng, phí tổn thuốc, và thể thức của các hăng bảo hiểm. 2/3 các co giật được kiểm soát bởi các thuốc chống co giật ; hay nghĩ bệnh nhân không tuân thủ điều trị thuốc (medication nonadherence) nếu điều trị thất bại.


NHỮNG CHỈ ĐỊNH ĐỐI VỚI CÁC THUỐC CHỐNG ĐỘNG KINH THEO LOẠI CO GIẬT

UserPostedImage


25/ NHỮNG CHỈ THỊ NÀO CẦN THIẾT CHO NHỮNG BỆNH NHÂN BỊ CO GIẬT ?
• Đừng lái xe. Hầu hết luật liên bang đ̣i hỏi bệnh nhân không được lên cơn động kinh trong 6 đến 24 tháng trước khi lái lại.

• Tránh nâng vật nặng, thao tác máy móc lớn, leo cầu thang hay dây thừng, và bơi hay tắm một ḿnh. Hàng năm nhiều bệnh nhân chết trong bồn tắm hơn là do tai nạn xe cộ.

• Tránh các thuốc ma túy (cocaine, rượu) làm giảm ngưỡng gây co giật (seizure threshold)

• Ngủ đủ giấc

• Kiểm tra những tương tác thuốc với những thuốc mới được kê đơn

• Những người bị bệnh động kinh săn sóc các em bé nên thay quần áo và cho ăn ở sàn nhà và nhờ một người trưởng thành khác hiện diện khi tắm đứa bé.

• Mang một bracelet ghi “ seizure disorder ”


NHỮNG ĐIỂM CHỦ YẾU : ĐIỀU TRỊ CO GIẬT
1. Hầu hết các cơn có giật đều từ hạn chế. Hăy xét điều trị cắt cơn nếu co giật kéo dài trong hơn 5 phút.

2. Fosphenytoin, được ưa thích hơn phenytoin v́ profil tác dụng phụ an toàn hơn và cho thuốc nhanh hơn



BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(30/4/2012)

florida80
04-17-2019, 18:27
CÁC LOẠI BỆNH GAN
(LIVER DISEASES c̣n được gọi là HEPATIC DISEASES)

Lynn Ly Phỏng Dịch theo trang web MedLine Plus
( wxw.nlm.nih.gov/medlineplus/liverdiseases.html )



CÁC LOẠI BỆNH GAN
(LIVER DISEASES c̣n được gọi là HEPATIC DISEASES)

Gan là cơ quan nội tạng lớn nhất trong cơ thể của bạn. Nó cũng là một trong những cơ quan nội tạng quan trọng nhất. Gan có nhiều việc làm, bao gồm cả thay đổi thức ăn thành năng lượng và làm sạch chất alcohol / chất rượu và các chất độc ra khỏi máu. Gan cũng tạo ra mật, một chất lỏng màu vàng-xanh để trợ giúp tiêu hóa.

Có nhiều loại bệnh gan. Virus / virut/ siêu vi gây ra một số trong số bệnh gan, giống như viêm gan A (hepatitis A), viêm gan B (hepatitis B) và viêm gan C (hepatitis C). Những bệnh gan khác có thể là kết quả của thuốc uống, độc tố / thuốc độc, hoăc uống quá nhiều rượu / loại nước uống có chứa nhiều alcohol. Nếu gan h́nh thành mô sẹo do một loại bệnh, th́ được gọi là xơ gan (cirrhosis). Vàng da (Jaundice), hoặc vàng da (yellowing of the skin) , có thể là một dấu hiệu của bệnh gan.

Giống như các bộ phận khác của cơ thể, ung thư có thể ảnh hưởng đến gan. Bạn cũng có thể bị di truyền một căn bệnh gan như bệnh nhiễm sắc tố sắt mô (hemochromatosis).

VIÊM GAN A
(Hepatitis A c̣n được gọi là HAV)

Viêm gan A là một loại viêm gan - một loại bệnh gan - gây ra bởi virus/virut/siêu vi viêm gan A (HAV). Bệnh lây lan chủ yếu qua thức ăn hoặc nước bị ô nhiễm từ phân người bị nhiễm bệnh. Bạn có thể bị viêm gan A (HAV) từ :
•Ăn thực phẩm do một người bị bệnh viêm gan A (HAV) mà họ không rửa tay sau khi đi nhà vệ sinh (đi tiêu tiểu)

•Quan hệ t́nh dục qua đường hậu môn hay đường miệng với người mắc bệnh viêm gan A (HAV)

•Không rửa tay sau khi thay tă lót

•Uống nước bị ô nhiễm


Viêm gan A (HAV)gây nên sự sưng gan, nhưng hiếm khi gây tổn hại lâu dài. Bạn có thể có cảm thấy giống như bạn từng bị cảm cúm, hoặc bạn có thể không có triệu chứng nào cả. T́nh trạng sức khỏe thường tự trở nên tốt hơn sau vài tuần.

Thuốc chủng ngừa viêm gan A có thể pḥng chống bệnh viêm gan A (HAV) . Những thói quen lành mạnh cũng tạo nên sự khác biệt. Rửa tay kỹ càng trước khi chuẩn bị thức ăn, sau khi sử dụng nhà vệ sinh hoặc sau khi thay tă lót . Những du khách quốc tế / du khách nước ngoài nên cẩn thận khi uống nước máy.

(Dựa theo Tài liệu của NIH = National Institute of Diabetes and Digestive and Kidney Diseases )

VIÊM GAN B
(Hepatitis B c̣n được gọi là HBV)

Viêm gan B là một loại viêm gan - một loại bệnh gan - gây ra bởi virus/virut/siêu vi viêm gan B (HBV). Viêm gan B lây lan qua tiếp xúc với máu, tinh dịch của người bị nhiễm bệnh hoặc chất dung dịch / chất lỏng của cơ thể người khác. Một phụ nữ bị nhiễm bệnh viêm gan B có thể truyền cho em bé của cô ta lúc sinh nở.

Nếu bạn mắc bệnh viêm gan B (HBV), bạn có thể cảm thấy giống như là bạn từng bị cảm cúm, hoặc bạn có thể không có triệu chứng nào cả. Một xét nghiệm máu có thể cho biết nếu bạn có bị bệnh viêm gan B hay không. Viêm gan B (HBV) thường sẽ tự trở nên tốt hơn sau một vài tháng. Nếu căn bệnh không trở nên tốt hơn, nó được gọi là viên gan B mạn tính (chronic HBV) , căn bệnh mà kéo dài suốt cả cuộc đời. viên gan B mạn tính (chronic HBV) có thể dẫn đến tạo ra vết sẹo trong gan, gan bị hư hỏng hoặc ung thư gan.

Hiện có thuốc chủng ngừa viêm gan B. Đ̣i hỏi ba mũi chích ngừa. Tất cả các em bé nên chich ngừa, nhưng trẻ lớn và người lớn có thể chích ngừa luôn. Nếu bạn đi du lịch đến các nước nơi mà bệnh viêm gan B là phổ biến, bạn nên chính ngừa.

VIÊM GAN C
(Hepatitis C c̣n được gọi là HCV)

Viêm gan C là một loại viêm gan - một loại bệnh gan - gây ra bởi virus / virut/siêu vi viêm gan C (HCV). Nó thường lây lan qua tiếp xúc với máu nhiễm bệnh. Nó cũng có thể lan truyền qua quan hệ t́nh dục với người mắc bệnh và từ mẹ truyền sang con trong khi sinh.

Hầu hết những người bị nhiễm viêm gan C không có bất kỳ triệu chứng trong nhiều năm. Một xét nghiệm máu có thể cho biết nếu bạn có bị viêm gan C. Thông thường, viêm gan C không tự trở nên tốt hơn / không tự thuyên giảm. Nhiễm trùng có thể kéo dài suốt đời và có thể dẫn đến việc tạo ra sẹo trên lá gan hoặc bệnh ung thư gan. Thuốc men đôi khi trợ giúp, nhưng tác dụng phụ có thể là một vấn đề. Trường hợp nghiêm trọng có thể cần phải cấy ghép gan.

Hiện giờ không có thuốc chủng ngừa cho viêm gan C

BỆNH VÀNG DA
(Jaundice c̣n được gọi là Icterus)

Bệnh vàng da (Jaundice) khiến cho da của bạn và tṛng trắng mắt bạn chuyển sang màu vàng. Quá nhiều bilirubin cũng khiến cho vàng da . Bilirubin là một hóa chất màu vàng trong hemoglobin, chất này vận chuyển oxy trong tế bào hồng huyết cầu của bạn. Khi các tế bào hồng huyết cầu phân tách / phá vỡ ra, cơ thể của bạn tạo ra các tế bào mới để thay thế chúng. Những tế bào cũ được xử lư khôi phục (processed) bởi lá gan. Nếu gan không thể xử lư khôi phục các tế bào máu khi chúng đă bị phá vỡ, bilirubin tích tụ trong cơ thể và da của bạn có thể cho trông thấy mầu vàng vàng.

Nhiều trẻ sơ sinh khỏe mạnh có chút bệnh vàng da trong tuần lễ đầu tiên của cuộc đời. Bệnh vàng da này thường biến mất. Tuy nhiên, bệnh vàng da có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi và có thể là một dấu hiệu của một vấn đề. Bệnh vàng da có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân, chẳng hạn như:
•Những bệnh về máu (Blood diseases)

•Những hội chứng di truyền (Genetic syndromes).

•Những loại bệnh gan, như viêm gan hoặc xơ gan (Liver diseases, such as hepatitis or cirrhosis)

•Tắc nghẽn đường ống mật (Blockage of bile ducts)

•Nhiễm trùng (Infections)

•Thuốc men (Medicines)


BỆNH XƠ GAN
(Cirrhosis c̣n được gọi là Hepatic fibrosis)

Xơ gan tạo ra vết sẹo trong gan. Mô sẹo h́nh thành bởi v́ chấn thương hoặc 1 căn bệnh lâu dài / căn bệnh măn tính. Mô sẹo không thể làm những ǵ mà mô gan khỏe mạnh làm - (thí dụ) tạo ra protein / tạo ra chất đạm, trợ giúp chống nhiễm trùng, làm sạch máu, giúp tiêu hóa thức ăn và dự trữ năng lượng. Xơ gan có thể dẫn đến :
• Dễ bị bầm tím hoặc chảy máu, hoặc chảy máu cam / chảy máu mũi (Easy bruising or bleeding, or nosebleeds)

•Sưng to ở bụng hoặc ở chân (Swelling of the abdomen or legs)

•Thêm nhiều sự mẫn cảm đối với thuốc men (Extra sensitivity to medicines)

•Huyết áp cao ở trong tĩnh mạch nơi đi vào lá gan (High blood pressure in the vein entering the liver)

•Các tĩnh mạch nở to lên ở thực quản và dạ dày (Enlarged veins in the esophagus and stomach)

•Suy thận / Hư thận (Kidney failure)



Khoảng 5% người bệnh xơ gan mắc bệnh ung thư gan

Bệnh xơ gan có nhiều nguyên nhân . Tại Hoa Kỳ / Mỹ, những nguyên nhân phổ biến nhất là nghiện rượu và viêm gan măn tính . Không có cách ǵ sẽ làm cho các mô sẹo biến mất, nhưng điều trị nguyên nhân có thể ǵn giữ không cho nó trở nên tồi tệ hơn. Nếu quá nhiều mô sẹo h́nh thành, bạn có thể cần phải xem xét việc cấy ghép gan.

UNG THƯ GAN
(Liver Cancer c̣n được gọi là Hepatocellular carcinoma )

Lá Gan là cơ quan nội tạng lớn nhất trong cơ thể bạn. Nó gạn lọc các chất có hại từ máu, tiêu hóa chất béo từ thức ăn và lưu trữ chất đường mà cơ thể của bạn sử dụng tạo ra năng lượng. Ung thư gan nguyên bào (Primary liver cancer) bắt đầu từ trong gan. Ung thư gan do di căn (Metastatic liver cancer) bắt đầu ở một nơi khác và lây lan đến gan của bạn.

Nhưng yếu tố hung hiểm cho ung thư gan nguyên bào gồm có:
•Mắc bệnh viêm gan (Having hepatitis)

•Mắc bệnh xơ gan, hoặc sự tao ra vết sẹo trong gan (Having cirrhosis, or scarring of liver)

•Nam hóa / chuyển đổi giới tính ở người phụ nữ (Being male)

•Trọng lượng lúc sơ sinh thấp (nhẹ cân lúc sơ sinh) (Low weight at birth)



Các triệu chứng có thể bao gồm một khối u hoặc sự đau nhức ở phía bên phải của bụng và vàng da. Tuy nhiên, bạn có thể không có triệu chứng và bệnh ung thư có thể không được t́m thấy cho đến khi nó phát triển đến mức độ cao . Điều này làm cho căn bệnh khó điều trị. Sự chọn lựa điều trị bao gồm phẫu thuật, xạ trị, hóa trị hoặc cấy ghép gan

BỆNH NHIỄM SẮC TỐ SẮT MÔ
(Hemochromatosis c̣n được gọi là Iron overload disease )

Bệnh nhiễm sắc tố sắt mô (Hemochromatosis) là một bệnh di truyền mà trong đó có quá nhiều sắt tích tụ trong thân thể bạn. Căn bệnh này là một trong hầu hết các loại bệnh di truyền phổ biến nhất ở Hoa Kỳ / Mỹ .

Chất sắt (Iron) là một khoáng chất được t́m thấy trong nhiều loại thực phẩm. Cơ thể bạn thường hấp thụ khoảng 10% chất sắt trong thực phẩm bạn ăn. Nếu bạn mắb bệnh nhiễm sắc tố sắt mô (hemochromatosis), bạn thường hấp thụ chất sắt nhiều hơn số lượng bạn cần. Cơ thể của bạn không có phương cách tự nhiên để loại bỏ các chất sắt dư thừa . Nó lưu trữ lại chất sắt trong các mô cơ thể, đặc biệt là gan, tim, và tuyến tụy. Sư dư thừa chất sắt có thể làm hỏng các bộ phận nội tạng của bạn. Nếu không điều trị, căn bệnh này có thể khiến cho các cơ quan của bạn hư hại không thể hoạt động được nữa.

Việc điều trị phổ biến nhất là loại bỏ một lượng máu, giống như khi bạn hiến máu. Việc này được gọi là phép điều trị trích lấy bớt máu ra (therapeutic phlebotomy)̣ Các loại thuốc cũng có thể giúp loại bỏ các chất sắt dư thừa. Bác sĩ có thể đề nghị một số thay đổi trong chế độ dinh dưỡng của bạn.

Lynn Ly (16/12/2010)

florida80
04-17-2019, 18:28
CÁC VẤN ĐỀ VỀ GAN
(LIVER PROBLEMS)
Lynn Ly Phỏng Dịch theo trang web MedLine Plus
( wXw.mayoclinic.com/health/liver-problems/DS01133/METHOD=print )


Bài viết do các Nhân viên của Trạm Xá Mayo (Mayo Clinic staff)

ĐỊNH NGHĨA (DEFINITION)

Những vấn đề về gan bao gồm một loạt các bệnh và các t́nh huống có thể ảnh hưởng đến gan của bạn. Gan của bạn là một cơ quan nội tạng có kích thước khoảng 1 trái banh mà tọa vị ngay dưới xương sườn trong lồng ngực bạn về phía bên phải của bụng. Nếu không có lá gan, bạn không thể tiêu hóa thức ăn và hấp thụ dinh dưỡng, loại bỏ các chất độc từ cơ thể hoặc duy tŕ sự sống.


UserPostedImage


H́nh ảnh của trang web Mayo Clinic về vị trí lá gan trong cơ thể bạn

Những vấn đề về gan có thể là do di truyền, hoặc những vấn đề về gan có thể xảy ra do phản hồi đối với virus và các hóa chất. Một số vấn đề về gan th́ tạm thời và tự biến mất, trong khi những vấn đề về gan khác có thể kéo dài trong một thời gian dài và dẫn đến những biến chứng nghiêm trọng.


UserPostedImage


H́nh ảnh của trang web Mayo Clinic về lá gan b́nh thường và lá gan bị bệnh

Những vấn đề về gan có thể xảy ra bao gồm bệnh gan nhiễm mỡ (fatty liver disease)và xơ gan (cirrhosis). Gan và các tế bào của nó - như đă thấy qua kính hiển vi - thay đổi đáng kể khi một lá gan b́nh thường trở nên nhiễm mỡ hoặc xơ gan.

NHỮNG TRIỆU CHỨNG (SYMPTOMS)

Những dấu hiệu và triệu chứng của những vấn đề về gan bao gồm:
•Da bị đổi mầu và mắt xuất hiện màu vàng (Discolored skin and eyes that appear yellowish)

•Bụng đau và Bụng sưng to lên (Abdominal pain and swelling)

•Da bị ngứa ngáy mà dường như không biến mất (Itchy skin that doesn't seem to go away)

•Nước tiểu đậm mầu (Dark urine color)

•Phân nhạt màu (Phân có chút mầu xanh rêu) (Pale stool color)

•Phân có máu hoặc phân có màu hắc ín (Bloody or tar-colored stool)

•Mỏi mệt kinh niên (Chronic fatigue)

•Buồn nôn (Nausea)

•Chán ăn (Loss of appetite)



Khi nào cần đi gập Bác Sĩ (When To See A Doctor)

Hăy hẹn gập bác sĩ nếu bạn có bất cứ những dấu hiệu hay triệu chứng ǵ kéo dài mà làm bạn lo âu. Hăy t́m đến sự quan tâm về y tế ngay lập tức nếu bạn bị đau bụng nghiêm trọng mà bạn không thể nằm / ngồi / đứng yên được

NHỮNG NGUYÊN NHÂN ( CAUSES )

Những vấn đề có thể xảy ra ở trong gan bao gồm:
•Suy gan cấp tính (Acute liver failure)

•Viêm gan do rượu (Alcoholic hepatitis)

•Sự thiếu hụt Alpha-1-antitrypsin (Alpha-1-antitrypsin deficiency)

•Viêm gan tự miễn nhiễm (Autoimmune hepatitis)

•Tắc nghẽn ống dẫn mật (Bile duct obstruction)

•Suy gan măn tính (Chronic liver failure)

•Xơ gan (Cirrhosis)

•Gan bị to lớn lên (Enlarged liver)

•Hội chứng Gilbert (Gilbert syndrome)

•Bệnh nhiễm sắc tố sắt mô (Hemochromatosis)

•Viêm gan A (Hepatitis A)

•Viêm gan B (Hepatitis B)

•Viêm gan C (Hepatitis C)

•Viêm gan D (Hepatitis C)

•Viêm gan E (Hepatitis E)

•U bướu gan (Liver adenoma)

•Ung thư gan (Liver cancer)

•U nang gan (Liver cyst)

•U mao mạch gan / u mạch máu gan (Liver hemangioma)

•Hạch gan (sự gia tăng nhiều tiêu diểm hạt nho nhỏ) - Liver nodule (focal nodular hyperplasia)

•Bệnh gan nhiễm mỡ mà không có chất cồn rượu (Nonalcoholic fatty liver disease)

• Nhiễm kư sinh trùng (Parasitic infection)

•Tắt nghẹn tĩnh mạch mà vận chuyển máu đến gan( Portal vein không biết gọi tắt là ǵ???!!!) - Portal vein thrombosis

•Sơ gan mật sơ cấp (Primary biliary cirrhosis)

•Viêm gan do nhiễm độc (Toxic hepatitis)

•Bệnh Wilson (Wilson's disease)



NHỮNG YẾU TỐ NGUY HIỂM / YẾU TỐ RỦ DO (RISK FACTORS )

Những yếu tố có thể làm gia tăng nguy cơ bệnh gan bao gồm:
•Một công việc mưu sinh mà khiến bạn tiếp cận đến máu và dung dịch cơ thể của của người khác

•Sự truyền máu trước năm 1992

•Sự đục lỗ để đeo khuyên, đeo trang sức lên thân thể (thí dụ đục lỗ đeo hoa/bông tai)

•Một số loại thảo mộc và những chất bổ xung nào đó

•Một số thuốc theo toa bác sĩ

•Bệnh đái thoái đường / bệnh tiểu đường

•Sử dụng rượu mạnh

•Mực độ chất béo trung tính trong máu của bạn cao

•Tiêm chích ma túy mà sử dụng chung kim tiêm

•Bệnh mật ph́

•Xâm h́nh lên người

•Quan hệ t́nh dục không an toàn

•Làm việc với hóa chất hoặc chất độc mà không có biện pháp pḥng ngừa an toàn kèm theo



CHUẨN BỊ CHO CUỘC HẸN GẬP BÁC SĨ CỦA BẠN (PREPARING FOR YOUR APPOINTMENT)

Nếu bạn nghi ngờ bạn có vấn đề về gan, khởi đầu bằng cuộc hẹn gập bác sĩ gia đ́nh của bạn hoặc một bác sĩ đa khoa trước hết. Nếu được xác định rằng bạn có thể có vấn đề về gan, bạn có thể được giới thiệu đến một bác sĩ chuyên về gan (hepatologist).

Bởi v́ các cuộc hẹn có thể tóm tắt, và bởi v́ thường bao gồm nhiều vấn đề căn bản, ư tưởng chuẩn bị kỹ thật tốt cho cuộc hẹn của bạn . Dưới đây là một số thông tin để giúp bạn chuẩn bị cho cuộc hẹn của bạn, và những ǵ cần mong đợi từ bác sĩ.

Điều ǵ bạn có thể làm:
•Hăy cẩn thận về bất kỳ hạn chế nào trước cuộc hẹn. Vào thời điểm bạn lấy cuộc hẹn, hăy chắc chắn là có thể hỏi bất cứ điều ǵ bạn cần nên hỏi trước, chẳng hạn như hạn chế chế độ ăn uống dinh dưỡng của bạn

•Hăy viết ra bất kỳ triệu chứng nào bạn đang có, bao gồm bất kỳ những triệu chứng mà có vẻ không liên quan đến nguyên nhân cho cuộc hẹn theo thời hạn.

•Hăy viết ra những thông tin cá nhân quan trọng, bao gồm bất kỳ những căng thẳng chính yếu hoặc những thay đổi trong cuộc sống mới gần đây.

•Hăy làm 1 bảng liệt kê tất cả các loại thuốc , bao gồm luôn tất cả các loại vitamin hoặc các chất bổ xung, mà bạn sử dụng / uống

•Nên có 1 thân nhân hoặc người bạn đi cùng, nếu có thể . Đôi khi thật khó tiếp thu tất cả các thông tin được cung cấp trong một cuộc hẹn. Một người đi cùng bạn có thể nhớ một số điều ǵ đó mà bạn bị bỏ sót không nghe kịp hoặc quên

•Hăy viết ra những thắc mắc để hỏi bác sĩ bạn



Thời gian của bạn với bác sĩ rất giới hạn, nên việc chuẩn bị một bảng liệt kê các câu hỏi sẽ giúp bạn tận dụng tối đa thời gian đó. Bảng liệt kê các câu hỏi từ quan trọng nhất đến ít quan trọng hơn trong trường hợp hết thời gian. Đối với các vấn đề về gan, một số câu hỏi cơ bản để hỏi bác sĩ của bạn bao gồm:
•Điều ǵ dường như gây ra vấn đề về gan của tôi ?

•Tôi cần những loại xét nghiệm nào ?

•Lá gan của tôi bị vấn đề tạm thời hay măn tính ?

•Những vấn đề về lá gan của tôi có thể được điều trị không ?

•Có phương pháp điều trị làm giảm các dấu hiệu và triệu chứng của tôi không?

•Tôi có nên ngừng dùng một số thuốc bổ sung không?

•Tôi có nên tránh uống rượu không ?

•Tôi có nên gập chuyên gia không ? Chi phí sẽ là bao nhiêu và bảo hiểm của tôi có bao chi phí đó không?

•Có những tài liệu tóm tắt ngắn gọn hoặc tài liệu nhiều trang khác được in ra mà tôi có đem về không? Bác sĩ có đề nghị trang web nào cho tôi xem không ?



Ngoài các câu hỏi mà bạn đă chuẩn bị để hỏi bác sĩ, đừng ngần ngại đặt câu hỏi ở bất kỳ thời điểm nào mà bạn không hiểu điều ǵ đó.

NHỮNG XÉT NGHIỆM VÀ CHUẨN ĐOÁN (TESTS AND DIAGNOSIS)

Các xét nghiệm và tiến tŕnh được sử dụng để chẩn đoán những vấn đề về gan bao gồm:
•Những xét nghiệm máu . Xét nghiệm một nhóm máu được gọi là xét nghiệm chức năng gan có thể được sử dụng để chuẩn đoán những vấn đề về gan . Những xét nghiệm máu khác có thể được thực hiện để t́m rơ vấn dề ǵ của gan hoặc t́nh huống di truyền mà ảnh hưởng đến gan

•Xét nghệm h́nh ảnh / chuẩn đoán h́nh ảnh . Những tiến tŕnh mà tạo ra h́nh chụp lá gan của bạn, như là kỹ thuật rà quét vi tính chụp cắt lớp (computerized tomography Scan = CT scan),h́nh ảnh cộng hưởng từ trường (magnetic resonance imaging = MRI)và siêu âm (ultrasound), có thể tiết lộ / cho thấy vấn đề về gan.

•Những xét nghiệm về mô của gan. Một tiến tŕnh để lấy mô ra từ gan của bạn (sinh thiết gan = liver biopsy) có thể trợ giúp trong chẩn đoán các vấn đề về gan. Sinh thiết gan thường được thực hiện bằng cách sử dụng một cây kim dài đưa qua da để lấy ra một mẫu mô (kim sinh thiết = needle biopsy). Các mẫu mô được gửi đến một pḥng thí nghiệm, nơi nó có thể được quan sát dưới kính hiển vi.



UserPostedImage


H́nh ảnh siêu âm của Lá gan có khối u của website Mayo Clinic

ĐIỀU TRỊ VÀ THUỐC MEN (TREATMENTS AND DRUGS)

Điều trị bệnh gan phụ thuộc vào những chẩn đoán cho bạn. Một số vấn đề về gan có thể được điều trị bằng thuốc. Những vấn đề khác có thế đ̣i hỏi đến phẫu thuật

Cấy ghép gan có thể được yêu cầu cuối cùng cho vấn đề về gan mà gây ra sự suy gan.

NHỮNG THUỐC THAY THẾ (ALTERNATIVE MEDICINE)

Một số thảo dược bổ xung được sử dụng như là phương pháp điều trị thay thế thuốc có thể có hại cho gan của bạn. Để bảo vệ gan, hăy nói chuyện với bác sĩ về những rủi ro tiềm ẩn trước khi bạn dùng:
•Black cohosh

•Một số loại dược thảo Trung Quốc / thuốc Bắc, bao gồm ma-huang (Certain Chinese herbs, including ma-huang)

•Chaparral

•Comfrey

•Germander

•Greater celandine

•Kava

•Mistletoe

•Pennyroyal

•Skullcap

•Valerian



PH̉NG NGỪA (PREVENTIONS)

Pḥng ngừa những vấn đề về gan bằng cách bảo vệ lá gan của bạn. Ví dụ:
•Uống rượu vừa phải, nếu ở mọi t́nh huống / mọi trường hợp . Giới hạn số lượng rượu bạn uống không quá một ly mỗi ngày cho phụ nữ và không có nhiều hơn hai ly một ngày đối với nam giới.

•Hăy tránh những ứng sử hung hiểm. Tiếp nhận trợ giúp nếu bạn sử dụng bất hợp pháp các loại thuốc tiêm tĩnh mạch. Không dùng chung kim tiêm được sử dụng để tiêm chích ma túy. Nếu bạn chọn lựa quan hệ t́nh dục, sử dụng bao cao su . Nếu bạn chọn xâm h́nh lên người hay đục lỗ đeo khuyên lên cơ thể, cân phải cầu kỳ khén chọn sự sạch sẽ và an toàn khi đến các cửa tiệm mà bạn chọn ra.

•Tiếp nhận chủng ngừa. Nếu bạn đang có nguy cơ mắc bệnh viêm gan, hoặc nếu bạn đă bị nhiễm bất kỳ dạng viêm gan vurus/virut nào, hăy nói chuyện với bác sĩ về việc chủng ngừa viêm gan B. Một chủng ngừa cũng có sẵn cho bệnh viêm gan A.

•Sử dụng thuốc men một cách khôn ngoan. Chỉ sử dụng thuốc theo toa bác sĩ và thuốc không cần toa thuốc khi bạn cần thuốc đó và chỉ uống đúng liều lượng khuyến cáo. Không dùng thuốc trộn với rượu. Hăy nói chuyện với bác sĩ trước khi pha trộn thảo dược hay thuốc theo toa hoặc thuốc không cần toa thuốc.

•Tránh tiếp xúc với máu và dịch cơ thể của người khác. Bệnh viêm gan virus /virut có thể lây lan bằng sự đâm kim bất ngờ hoặc sự làm sạch máu hay chất dung dịch cơ thể không đúng cách . Cũng có thể bị lây nhiễm bởi việc dùng chung lưỡi dao cạo hoặc bàn chải đánh răng.

•Hăy cẩn thận với thuốc xịt aerosol. Khi bạn sử dụng một b́nh xịt aerosol để sạch, phải chắc chắn là căn pḥng được thông gió, hoặc phải đeo khẩu trang. Thực hiên các biện pháp bảo vệ tương tự như khi phun thuốc trừ sâu, thuốc diệt nấm, sơn và hóa chất độc hại khác. Luôn luôn tuân theo chỉ dẫn của nhà sản xuất.

•Hăy coi chừng những ǵ bám lên trên da của bạn. Khi sử dụng thuốc trừ sâu và hoá chất độc hại khác, che đậy da của bạn với găng tay, áo tay dài, đội mũ và mặt nạ.

•Chọn một chế độ ăn uống dinh dưỡng lành mạnh. Chọn một chế độ ăn uống dinh dưỡng thực vật với nhiều loại trái cây và rau quả. Hạn chế các thực phẩm giàu chất béo.

•Duy tŕ một trọng lượng cơ thể khỏe mạnh. Béo ph́ có thể gây ra một t́nh trạng gọi là bệnh gan nhiễm mỡ không do chất rượu cồn, có thể bao gồm gan mỡ, viêm gan và xơ gan.



Lynn Ly (17/12/2010)

florida80
04-17-2019, 18:29
TIẾN TRIỂN / DIỄN TIẾN BỆNH GAN
(THE PROGRESSION OF LIVER DISEASE)
Lynn Ly Phong Dịch theo trang web American Liver Foundation (Hiệp hội Gan của Hoa Kỳ)
( wXw.liverfoundation. org/abouttheliver/info/progression// )


Bệnh gan có rất nhiều loại khác nhau. Nhưng dù bất kể loại ǵ mà bạn mắc phải, những tổn hại cho gan của bạn dường như tiến triển trong cùng 1 chiều hướng tương tự.

Cho dù gan của bạn bị nhiễm virus / virut / siêu vi, do bị tổn thương do hóa chất, hoặc đang bị tấn công từ hệ thống tự miễn dịch của bạn , nguy hiểm cơ bản đều như nhau - đó là lá gan của bạn sẽ trở nên hư hỏng nặng nề khiến nó không thể tiếp tục làm công việc ǵn giữ sinh mạng của bạn .

LÁ GAN KHỎE MẠNH (THE HEALTHY LIVER)

Lá gan của bạn trợ giúp chống nhiễm trùng và làm sạch máu . Nó cũng trợ giúp tiêu hóa thức ăn và dự trữ năng lượng khi bạn cần đến . Một lá gan khỏe mạnh có khả năng tuyệt vời về sự phát triển trở lại, hoặc sự tái tạo / sự tái sinh khi nó bị hư hại . Bất cứ điều ǵ mà khiến lá gan của bạn không làm đúng nhiệm vụ của nó - hoặc không phát triển trở lại sau khi tổn thương - th́ có thể đưa cuộc sống của bạn gặp nguy hiểm

SỰ VIÊM NHIỄM (INFLAMMATION)

Ở giai đoạn đầu của bất kỳ bện gan nào, lá gan của bạn có thể bị viêm . Nó có thể trở nên mềm mỏng đi và bị to lên . Sự viêm biểu lộ ra cơ thể bạn đang cố gắng chống lại sự nhiễm trùng hoặc làm lành một tổn thương / chấn thương . Những t́nh trạng viêm tiếp tục kéo dài, nó có thể bắt đầu làm tổn thương lá gan của bạn vĩnh viễn .

Khi hầu hết các bộ phận khác của cơ thể bạn bị viêm, bạn có thể cảm giác ra - khu vực đó trở nên nóng và đau đớn. Tuy nhiên, một lá gan bị viêm có thể không gây cho bạn bất kỳ cảm giác khó chịu nào cả.

Nếu bệnh gan của bạn được chuẩn đoán và được trị liệu thành công ở giai đoạn này, sự viêm nhiễm có thể tan biến mất

SỰ XƠ HÓA (FIBROSIS)

Nếu không chữa trị, lá gan bị viêm (inflamed liver) sẽ bắt đầu có vết sẹo. Khi mô sẹo phát triển nhiều lên, chúng sẽ thay thế các mô gan khỏe mạnh. Quá tŕnh này được gọi là xơ hóa. (các mô sẹo là một loại mô xơ hóa.)

Những mô sẹo không thể làm công việc mà những mô gan khỏe mạnh có thể làm . Hơn thế nữa, những mô sẹo có thể không cho máu chạy qua gan . Khi mô sẹo tích tụ nhiều hơn, gan của bạn có thể làm tốt công việc như nó đă từng làm. Hoặc, phần lành mạnh của lá gan bạn phải làm việc nhiều hơn để bù cho phần bị sẹo (xơ hóa) trầm trọng.

Nếu bệnh gan của bạn được chẩn đoán và được điều trị thành công ở giai đoạn này, vẫn c̣n một cơ hội mà gan bạn có thể tự hồi phục / tự lành lại theo thời gian.

BỆNH XƠ GAN (CIRRHOSIS)

Nhưng nếu không chữa trị, gan của bạn có thể trở nên bị sẹo nghiêm trọng rồi th́ không c̣n có thể tự lành bệnh được. Giai đoạn này - khi mà sự tổn hại không thể đảo ngược / không thể làm lành lại - được gọi là bệnh xơ gan.

Bệnh xơ gan có thể dẫn đến một số biến chứng, bao gồm cả ung thư gan. Ở một số người, những triệu chứng của bệnh xơ gan có thể là dấu hiệu đầu tiên của bệnh gan.
•Bạn có thể chảy máu hoặc bầm tím dễ dàng (You may bleed or bruise easily)

•Nước có thể tích tụ ở chân bạn và / hoặc ở bụng (bệnh phù nề) (Water may build up in your legs and/or abdomen).

•Da và mắt của bạn có thể chuyển sang màu vàng, một t́nh trạng gọi là bệnh vàng da (Your skin and eyes may take on a yellow color, a condition called jaundice.)

•Làn da của bạn có thể bị ngứa ngáy dữ dội (Your skin may itch intensely).

•Trong các mạch máu dẫn đến lá gan, máu có thể bị dội ngược lại v́ sự tắc nghẽn. Các mạch máu có thể bị vỡ ra.

•Bạn có thể trở nên nhạy cảm / mẫn cảm với thuốc men cùng các phản ứng phụ của thuốc .

•Bạn có thể phát triển sự chống kháng insulin và bị tiểu đường loại 2 / bệnh đái tháo đường loại 2.

•Những độc tố có thể tích tụ trong năo của bạn, gây ra những vấn đề đối với khả năng tập trung suy tưởng , trí nhớ, giấc ngủ, hoặc những chức năng tâm thần / chức năng thần kinh khác



Một khi bạn đă được chẩn đoán là bị bệnh xơ gan, việc điều trị sẽ tập trung vào việc ǵn giữ t́nh trạng của bạn khỏi trở nên tồi tệ hơn. Sự việc này có thể ngăn chặn hoặc làm chậm quá tŕnh tổn thương lá gan. Điều quan trọng là bảo vệ các tế bào gan khỏe mạnh bạn tồn tại.

BỆNH SUY GAN / GAN KHÔNG C̉N HOẠT ĐỘNG (LIVER FAILURE)

Bệnh suy gan có nghĩa là gan của bạn đang mất dần hoặc mất tất cả các chức năng làm việc. Đó là một t́nh trạng đe dọa tính mạng mà yêu cần cần được chăm sóc về y tế khẩn cấp

Những triệu chứng đầu tiên của suy gan là thường buồn nôn, chán ăn, mệt mỏi, và tiêu chảy. Bởi v́ các triệu chứng này có thể có nhiều nguyên nhân, nó có thể là khó cho biết rằng gan đang bị mất chức năng hoạt động.

Nhưng khi suy gan tiến triển, các triệu chứng trở thành nghiêm trọng hơn. Bệnh nhân có thể trở nên lú lẫn và mất phương hướng, và cực kỳ buồn ngủ. Có nguy cơ về hôn mê sâu (coma) và chết . Việc trị liệu ngay lập tức là cần thiết . Các nhóm y tế sẽ cố gắng cứu chữa bất cứ một phần nào của lá gan vẫn hoạt động. Nếu việc này không thể thực hiện, sự lựa chọn duy nhất có thể là cấy ghép gan.

Khi bệnh suy gan xảy ra như là kết quả của bệnh xơ gan, căn bệnh này thường có nghĩa là lá gan đă đang mất khả năng hoạt động từng bước từng bước một theo thời gian, có thể trong ṿng nhiều năm. Điều này được gọi là suy gan măn tính.

Suy gan măn tính cũng có thể gây ra bởi sự suy dinh dưỡng . Hiếm khi hơn, suy gan có thể xảy ra thật bất ngờ, như trong ṿng ít nhất là 48 giờ. T́nh huống này được gọi là suy gan cấp tính và thường là một phản ứng đối với ngộ độc hoặc sử dụng thuốc quá liều

Bệnh Xơ Gan, Ung Thư Gan, và Suy Gan là những t́nh trạng nghiêm trọng mà có thể đe dọa tính mạng của bạn . Một khi bạn đến những giai đoạn này của bệnh gan, sự lựa chọn điều trị cho bạn có thể rất ư là giới hạn / rất ư bị hạn chế

Đó là lư do tại sao điều quan trọng là phát hiện bệnh gan mới khởi phát, ở trong giai đoạn viêm và xơ hóa. Nếu bạn được điều trị thành công ở các giai đoạn này, lágan của bạn có thể có một cơ hội để tự chữa bệnh và phục hồi.

Hăy báo cho bác sĩ của bạn về bệnh gan . T́m ra nếu bạn đang ở mức nguy hiểm hoặc nếu bạn nên trải qua những xét nghiệm nào đó hoặc tiêm chủng ngừa

Lynn Ly (19/12/2010)

florida80
04-17-2019, 18:31
Thiết bị cấy ghép y khoa : Dấu kiểm định chất lượng châu Âu có đáng tin cậy ?

UserPostedImage
Bà Marga van Amersfoort, chủ tịch hiệp hội các nạn nhân ghép độn silicone giữ lại túi silicone đă dùng để làm bằng chứng buộc tội tại ṭa án.Rfi/Antoine Mouteau

Tại Mỹ, theo thống kê, các thiết bị cấy ghép y khoa đă cướp đi sinh mạng của 82.000 người và làm hơn 1,7 triệu người bị thương. Tai tiếng « Implants Files » (Hồ sơ Bộ phận cấy ghép) - theo cách gọi của Hiệp hội các Phóng viên điều tra Quốc tế (ICIJ) - cho thấy rơ những lỗ hổng và yếu kém trong việc kiểm định chất lượng các thiết bị cấy ghép ngày càng được sử dụng rộng răi.

Thị trường thiết bị cấy ghép y khoa là một thị trường lớn, mỗi năm mang về cho nhà sản xuất khoảng 300 tỷ euro. Với mục đích là hỗ trợ bệnh nhân, các dụng cụ cấy ghép chữa bệnh có nguy cơ là những « sát thủ » vô h́nh.

Theo điều tra của hơn 250 nhà báo thuộc 59 cơ quan truyền thông quốc tế, các thiết bị cấy ghép y khoa như dụng cụ bơm chất insulin có trang bị chip cảm biến, thiết bị chạy thận nhân tạo tự động hóa, mảnh ghép xương hông, hay như miếng độn ngực giả… đă gây ra gần 5,5 triệu sự cố, đôi khi dẫn đến tử vong.

Túi lưới đựng quưt : Dụng cụ chống sa nội tạng ?

Nhật báo Le Monde cho biết mọi việc bắt đầu từ « chiếc túi lưới đựng quưt ». Năm 2014, một nhà báo người Hà Lan, bà Jet Schouten nảy sinh ư định muốn có được chứng nhận kiểm định chiếc túi lưới này như là một thiết bị y tế. Bất chấp bộ hồ sơ chứa đầy lỗi kỹ thuật, nhưng nhà báo Schouten vẫn nhận được ư kiến chấp nhận về mặt nguyên tắc từ ba công ty kiểm định khác nhau. Thế là « chiếc túi lưới quưt » của Schouten có cơ may trở thành một thiết bị chống sa nội tạng. Với ch́a khóa trong tay là « sản phẩm » của nhà báo Hà Lan có thể được đưa ra thị trường châu Âu một cách hợp pháp.

Năm 2017, Cơ quan An toàn Quốc gia về Thuốc và Sản phẩm Y tế (Agence nationale de sécurité du médicament et des produits de santé, ANSM) thống kê có 18.208 sự cố liên quan đến các thiết bị chăm sóc sức khỏe tại Pháp. Nếu tính từ năm 2008, số các sự cố này đă tăng hơn gấp đôi trong ṿng mười năm (từ 7.799 vụ lên 18.208). Người ta c̣n nhận thấy chỉ có từ 1-10% các vụ việc là được thông báo. Làm sao đến nông nỗi này ?

Để t́m hiểu sự việc, báo Le Monde cùng với 58 hăng truyền thông khác trên thế giới tiến hành một cuộc điều tra trong ṿng hơn một năm và phát hiện rằng phương thức đưa ra thị trường các thiết bị cấy ghép đơn giản đến mức không thể tưởng : Chỉ cần nhà sản xuất chứng minh được hai điểm : Thứ nhất, thiết bị hoạt động được như dự kiến. Thứ hai là phải an toàn.

Ngược lại, không cần chứng minh về tính hiệu quả, nghĩa là thiết bị có khả năng mang lại lợi ích ǵ cho sức khỏe bệnh nhân th́ không được đề cập đến. Một cách cụ thể, làm thế nào đưa ra thị trường châu Âu thiết bị cấy ghép xương hông. Bà Chloé Hecketsweiler, phóng viên điều tra của báo Le Monde, giải thích với đài RFI :

« Để có thể đưa ra thị trường châu Âu, một thiết bị cấy ghép xương hông phải có được tờ giấy chứng nhận tuân theo chuẩn của châu Âu - CE, do một cơ quan kiểm định cấp, thường là hăng tư nhân. Những cơ quan này, từ những năm 1990, có nhiệm vụ xem xét một bộ hồ sơ do nhà sản xuất cung cấp. Thường các bộ hồ sơ này chứa đựng nhiều thông tin, nhất là các dữ liệu thí nghiệm lâm sàng. Dựa vào bộ hồ sơ đó, các cơ quan kiểm định sẽ xác nhận sản phẩm có thể được đưa ra thị trường châu Âu hay là không, cần phải nghiên cứu thêm ».

Đây cũng chính là những ǵ nhà báo Hà Lan đă thử làm với chiếc túi lưới đựng quưt của cô. Đầu tiên, cô đến gơ cửa một trong số 60 « cơ quan kiểm định » hiện diện tại Châu Âu. Trong bộ hồ sơ này, sản phẩm được nêu rơ cùng với các tiêu chuẩn kỹ thuật sản xuất hay chi tiết các chuẩn được sử dụng. Để thử hệ thống đánh giá này, nhà báo Jet Schouten và nhóm làm việc của cô đă lập một bộ hồ sơ kỹ thuật chứa đầy những yếu tố đáng báo động.

« Trong bộ hồ sơ kỹ thuật, chúng tôi có ghi là thiết bị cấy ghép này để lại vết sẹo suốt đời cho 1/3 phụ nữ và chúng tôi cũng có ghi rơ là chúng tôi hầu như không có một dữ liệu chứng minh cho sự an toàn sản phẩm này. Chúng tôi đề nghị họ đọc hồ sơ của chúng tôi và nhờ họ đánh giá xem là chúng tôi có thể có được chiếc dấu kiểm định theo tiêu chuẩn Châu Âu - CE hay không trên cơ sở bộ hồ sơ kỹ thuật đầy lỗi và đáng lo này.

Rồi chúng tôi có hỏi thẳng : "Quư vị đă đọc bộ hồ sơ này chưa ?". Và họ trả lời : "Rồi". Thế là chúng tôi hỏi tiếp : "Vậy là các ngài chấp nhận sản phẩm này ?". Họ nói : "Chúng tôi thấy chẳng có vấn đề ǵ cả !" »

Dấu kiểm định : Mua dễ như mua quưt ?

Kết quả là với phương pháp này, các nhà sản xuất có thể dễ dàng đưa ra thị trường các thiết bị cấy ghép y khoa mà người ta không thể biết rằng các sản phẩm đó có an toàn hay có hiệu quả hay không. Hơn nữa các nhà báo điều tra chỉ trích phần lớn các hệ thống kiểm định này đều có xung đột lợi ích. Phóng viên Chloé Hecketsweiler cho biết tiếp :

« Điều đáng lo của chiếc dấu kiểm định là chính các nhà sản xuất công nghiệp lại là người trả tiền cho các nhà kiểm định để có được chiếc dấu CE. Chúng tôi nghi ngờ là các nhà kiểm định sợ soi xét kỹ quá th́ sẽ mất khách hàng và như vậy điều này có thể tác động đến việc đưa ra các quyết định độc lập ».

Về điểm này, giáo sư Eric Vicaut, lănh đạo Trung tâm Đánh giá Thiết bị y khoa thuộc bệnh viện Saint-Louis Lariboisiere, trên RFI lưu ư thêm có hiện tượng « nhất bên trọng, nhất bên khinh » trong việc đóng dấu kiểm định đối với thuốc men và các thiết bị cấy ghép.

« Hiện tại, khi một loại thuốc được đưa ra thị trường, để có được giấy phép, người ta yêu cầu hăng dược phải có những nghiên cứu lâm sàng rất tỉ mỉ, vô cùng nghiêm ngặt, nghiêm túc trên khoảng hàng trăm bệnh nhân, với các phương pháp rất chính xác.

Vấn đề ở đây là những yêu cầu này theo tôi là hoàn toàn tự nhiên thôi. Đây là một trong những điều kiện để người ta có thể đưa ra kinh doanh bởi v́ đó là sản phẩm của tôi dành cho bệnh nhân. Thế nhưng, đ̣i hỏi này lại không được áp dụng đối với các thiết bị cấy ghép ».

Đâu là tầm mức thiệt hại ? Bà Stephane Horel, phóng viên báo Le Monde, giải thích :

« Vấn đề chính là các thiết bị y tế đó không thể truy tầm nguồn gốc và có rất ít sự cố được thông báo. Và như vậy, khó có thể biết được có bao nhiêu thiết bị cấy ghép y khoa đă được đưa vào thị trường châu Âu cũng như là không thể biết là có bao nhiêu sự cố có liên quan đến các thiết bị cấy ghép y khoa này ».

Phụ nữ : Nạn nhân đầu tiên

Theo các số liệu do Hội các phóng viên điều tra thu thập được, tại Mỹ, trong ṿng 10 năm (2007 - 2018), người ta phát hiện có 3,6 triệu sai sót từ các thiết bị y tế đó, 82.000 người chết, và khoảng 1,7 triệu người bị thương.

Vẫn theo nhật báo Le Monde, có rất ít dữ liệu chính thức, điều đó có nghĩa là trong trường hợp có vấn đề, các nhà chức trách cũng khó có thể truy t́m những bệnh nhân nào có cài đặt các mảnh cấy ghép y khoa. Một cách cụ thể : Bệnh nhân thường là vật thí nghiệm mà không hề hay biết, để rồi chính họ bị bỏ rơi khi xảy ra sự cố.

Le Monde nhắc lại vụ tai tiếng ṿng tránh thai Essure của hăng dược Bayer được bán rộng răi trên thị trường châu Âu trong ṿng 15 năm (2002 - 2017). Dụng cụ y khoa này hiện không c̣n được lưu hành tại châu Âu nữa sau một loạt các báo động nghiêm trọng về tác dụng phụ.

Trong một phóng sự của kênh truyền h́nh France 3, một bệnh nhân thuật lại vụ việc : « Ngày đầu tiên, đúng hơn đêm đầu tiên, có nhiều chuyện đă xảy ra : Người bốc hỏa, thức giấc giữa đêm, tim đập nhanh, sau đó là những cơn chóng mặt, chóng mặt dữ dội đến mức tôi không ngồi dậy nổi, tôi không thể sống một cách b́nh thường được ».

Hăng dược của Đức c̣n bị kiện tập thể tại Mỹ và Pháp v́ « thiếu thận trọng » và « đưa ra thị trường một sản phẩm kém chất lượng ». Cuộc điều tra của các nhà báo c̣n cho thấy rơ sự tŕ trệ của các nhà làm luật châu Âu. Khởi động từ năm 2008 nhưng việc nghiên cứu một dự luật quy định các chuẩn cho thiết bị cấy ghép y khoa mới hoàn tất vào tháng 4/2017.

Hiện tại, mạng lưới các cơ quan kiểm định vẫn tiếp tục hoạt động, các cuộc vận động hành lang vẫn tiếp diễn một cách dữ dội. Lợi ích kinh tế đă vượt lên trên cả vấn đề sức khỏe cộng đồng. Và người bệnh chẳng khác ǵ một con cờ trong tṛ chơi may rủi. Trong số này, phụ nữ là những nạn nhân hàng đầu trả giá cho sự thờ ơ lănh đạm của những nhà quản lư sức khỏe cộng đồng.

florida80
04-17-2019, 18:33
CHỨNG MẤT NGỦ (INSOMNIA)

NHỮNG NGUYÊN NHÂN GÂY MẤT NGỦ ,
NHỮNG PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ VÀ
NHỮNG CÁCH TRỊ LIỆU
( INSOMNIA CAUSES, CURES, AND TREATMENTS )

Lynn Ly Phỏng Dịch theo trang web của
Hiệp Hội Hướng Dẫn Trợ Giúp Giải Quyết Những Thử Thách
về Sức Khỏe tại Hoa Kỳ
(htXp://helpguide.org/life/insomnia_treatment.h tm )


Có phải bạn đang vật vă, cố gắng hết sức cả hàng giờ để ngủ cho dù bạn đang mệt mỏi như thế nào? Hoặc là bạn thức giấc lúc nửa đêm và tỉnh táo nằm như vậy trong cả giờ đồng hồ , bồn chồn nh́n đồng hồ , cảm giác thời gian trôi đi ? Nếu đúng như vậy, bạn đă t́m đúng nơi này để được trợ giúp . Chứng bệnh mất ngủ là một vấn đề rất phổ biến về giấc ngủ . Thật bực bội khi trăn trở suốt đêm, rồi cũng chỉ là thức giấc với đôi mắt mở thao láo nghe âm thanh gơ nhịp của chuông đồng hồ báo thức và t́nh trạng bực bội kéo dài suốt ngày trong cực kỳ mệt mỏi

Chứng mất ngủ lấy mất đi 1 số lượng năng lực làm việc, tâm t́nh tính khí , và khả năng hoạt động trong ngày của bạn . Chứng mất ngủ măn tính có thể góp phần vào những vấn đề sức khỏe như bệnh tim, cao huyết áp, và bệnh đái đường / bệnh tiểu đường . Nhưng bạn không cần phải kiên nhẫn chịu đựng chứng mất ngủ. Những thay đổi đơn giản trong lối sống của bạn và trong thói quen hàng ngày có thể làm ngừng chứng bệnh mất ngủ ban đêm .

KHỔNG NGỦ ĐƯỢC ? AM HIỂU VỀ CHỨNG MẤT NGỦ VÀ NHỮNG TRIỆU CHỨNG CỦA CHỨNG BỆNH MẤT NGỦ (CAN’T SLEEP? UNDERSTANDING INSOMNIA AND ITS SYMPTOMS )

Chứng mất ngủ là sự mất khả năng để có được số lượng giấc ngủ mà bạn cần có để khi thức dậy có được cảm giác được nghỉ ngơi và được khoan khoái mới mẻ lại . Bởi v́ những người khác nhau cần số lượng khác nhau về giấc ngủ, mất ngủ được định nghĩa / được xác định bởi chất lượng giấc ngủ của bạn và bạn cảm thấy thế nào sau khi ngủ - không phải là số giờ mà bạn ngủ hoặc bạn ngủ chập chờn nhanh chóng ra sao . Ngay cả khi nếu bạn dùng 8 tiếng đồng hồ ban đêm trên giường, nếu bạn cảm giác buồn ngủ và mệt mỏi ban ngày , có thể là bạn đang bị chứng mất ngủ

Mặc dù chứng mất ngủ là một loại bệnh về giấc ngủ phổ biến nhất, căn bệnh này không phải là một rối loại giấc ngủ đơn thuần . Chính xác hơn th́ hăy liên tưởng chứng mất ngủ như là 1 triệu chứng của một vấn đề khác . Vấn đề gây ra chứng mất ngủ có khác biệt giữa người này so với người kia . Vấn đề có thể là điều ǵ đó đơn giản như uống quá nhiều chất kích thích caffein vào ban ngày hoặc một vấn đề phức tạp hơn như là đang trong t́nh trạng trị liệu căn bệnh nào đó hoặc đang cảm thấy quá tải / quá nặng nề tránh nhiệm

Tin tốt lành là hầu hết các trường hợp mất ngủ có thể được chữa khỏi bằng những thay đổi mà bạn có thể tự thực hiện mà không phải dựa vào các chuyên gia / bác sĩ chuyên khoa về giấc ngủ hoặc chuyển sang dùng thuốc theo toa bác sĩ hoặc thuốc hoặc uống thuốc ngủ không cần toa bác sĩ được bày bán trên kệ trong các tiệm thuốc.


NHỮNG TRIỆU CHỨNG CỦA CHỨNG BỆNH MẤT NGỦ (SYMPTOMS OF INSOMNIA) :


•Khó khăn ch́m vào giấc ngủ / khó khăn ngủ thiếp đi dù đă mệt mỏi

•Thường xuyên thức giấc trong đêm

•Khó khăn trong việc quay trở lại giấc ngủ khi tỉnh giấc

•Giấc ngủ không khoan khoái , sảng khoái, thoải mái

•Lệ thuộc vào thuốc ngủ hoặc rượu để ngủ thiếp đi

•Tỉnh giấc rất sớm vào buổi sáng

•Buồn ngủ vào ban ngày , mệt mỏi, hoặc cáu gắt / gắt gỏng

•Khó khăn trong việc tập trung tư tưởng ở ban ngày




NHỮNG NGUYÊN NHÂN GÂY NÊN CHỨNG BỆNH MẤT NGỦ: PHỎNG ĐOÁN RA TẠI SAO BẠN KHÔNG THỂ NGỦ ĐƯỢC (CAUSES OF INSOMNIA: FIGURING OUT WHY YOU CAN’T SLEEP)

Để điều trị một cách chuẩn xác và trị liệu căn bệnh mất ngủ của bạn, bạn cần trở thành một người trinh thám, một nhân viên điều tra về giấc ngủ . Những vấn đề về cảm xúc như sự căng thẳng, buồn phiền lo âu, trầm cảm là nguyên nhân gây ra phân nửa trên tổng số các trường hợp mất ngủ. Nhưng những thói quen ở ban ngày của bạn, giờ giấc ngủ nghỉ thường ngày, và thể chất khỏe mạnh cũng có thể đóng 1 vài tṛ góp phần gây ra mất ngủ .


Những Nguyên Nhân Gây Nên Chứng Mất Ngủ (Causes Of Insomnia):

•Bạn có đang trong t́nh trạng bị đồn nén công việc và căng thẳng không ?

•Bạn có đang bị trầm cảm không ( có đang trong t́nh trạng bị thất t́nh , thất trí , buồn phiền, tinh thần sa sút tuột dốc không) ? Bạn có cảm giác trống rỗng hay đang thất vọng không ?

•Bạn có cố gắng vật vă trong những cảm giác lo âu sợ hăi bồn chồn không nguôi ngoai không ?

•Bạn có vừa trải qua một biến động lớn , một dau thương mất mát hay trải qua 1 chấn thương cả thể xác lẫn tâm hồn không ?

•Bạn có đang sử dụng thuốc men mà có ảnh hưởng đến giấc ngủ không ?

•Bạn có bị những vấn đề về sức khỏe nào đó mà ảnh hưởng đến giấc ngủ không ?

•Hoàn cảnh nơi pḥng ngủ của bạn có được yên tĩnh và thoải mái không ?

•Bạn có cố gắng đi ngủ dúng giờ và thức dậy đúng giờ mỗi ngày không ?




NHỮNG NGUYÊN NHÂN VỀ TINH THẦN VÀ THỂ CHẤT PHỔ BIẾN VỀ CHỨNG MẤT NGỦ (COMMON MENTAL AND PHYSICAL CAUSES OF INSOMNIA):

Đôi khi, chứng bệnh mất ngủ chỉ kéo dài một vài ngày và tự nó biến mất, đặc biệt là khi chứng bệnh mất ngủ gắn liền với một nguyên nhân tạm thời thật rơ ràng, như là sự căng thẳng về một bài thuyết tŕnh sắp diễn ra, một cuộc chia tay / một đổ vỡ t́nh cảm thật đau khổ, hoặc sự thay đổi nhịp sinh học của cơ thể ( jet lag = desynchronosis = là một t́nh trạng sinh lư mà kết quả từ sự thay đổi nhịp sinh học của cơ thể). Những lần khác, chứng mất ngủ th́ dai dẳng kéo dài. Chứng mất ngủ măn tính thường được gắn liền với một vấn đề tiềm ẩn về tâm thần hoặc về cơ thể


•Những vấn dế thuộc về tâm lư mà gây ra chứng mất ngủ : trầm cảm, buồn hiên lo lắng, căng thẳng trường kỳ / căng thẳng măn tính, rối loạn lưỡng cực, rối loạn căng thẳng sau chấn thương .

•Những loại thuốc có thể gây mất ngủ: thuốc chống trầm cảm, thuốc trị cảm cúm mà có chứa chất rượu cốn; thuốc giảm đau nhức mà có chứa chất caffein (Midol, Excedrin); thuốc lợi tiểu, thuốc corticosteroids, thyroid hormone, thuốc trị cao huyết áp .

•Những vấn đề về bệnh tật mà có thể gây chứng bệnh mất ngủ : Bệnh Hen Suyễn, các loại bệnh dị ứng, bện Parkinson , cường giáp, Trào ngược dạ dày thực quản (acid reflux =Gastroesophageal reflux disease = GERD), bệnh thận, ung thư , hoặc đau nhức kinh niên,

•Những rối loạn giấc ngủ mà có thể gây ra chứng mất ngủ : ngừng thở khi ngủ , chứng ngủ gục ban ngày , hội chứng tê chân / hội chứng chân bồn chồn




BỒN CHỒN LO LẮNG VÀ TRẦM CẢM: HAI TRONG SỐ NHỮNG NGUYÊN NHÂN PHỔ BIẾN NHẤT VỀ CHỨNG BỆNH MẤT NGỦ MĂN TÍNH (ANXIETY AND DEPRESSION: TWO OF THE MOST COMMON CAUSES OF CHRONIC INSOMNIA)


Đa số những người đang hứng chịu một sư rối loạn buồn phiền lo âu hoặc trầm cảm thường gập rắc rối khi ngủ. Hơn thế nữa, việc thiếu ngủ có thể làm cho các triệu chứng lo âu hay trầm cảm trở nên nặng hơn / tồi tệ hơn . Nếu chứng mất ngủ của bạn gây ra bởi buồn phiền lo âu hoặc trầm cảm, việc sử lư những vấn đề tiềm ẩn về tâm lư là mấu chốt trị liệu .

Để trợ giúp xác định các triệu chứng buồn phiên lo âu và trầm cảm, hăy xem (tài liệu sau đây) :


•Những rối loạn và xâm lấn của sự buồn phiền lo âu : những dấu hiệu , những triệu chứng và những chọn lựa điều trị

•Am hiểu Trầm Cảm: Những dấu hiệu, những triệu chứng , những nguyên nhân, và sự trợ giúp




NHỮNG PHƯƠNG PHÁP TRỊ LIỆU CHỨNG MẤT NGỦ VÀ NHỮNG ĐIỀU TRỊ VIỆC THAY ĐỔI NHỮNG THÓI QUEN MÀ LÀM GIÁN ĐOẠN / PHÁ VỠ GIẤC NGỦ (INSOMNIA CURES AND TREATMENTS: CHANGING HABITS THAT DISRUPT SLEEP)

Cho dù đang khi tiến hành điều trị các vấn đề tiềm ẩn về thể chất và tâm thần có bước đầu tốt đẹp, phương cách này có thể không đủ để điều trị căn bệnh mất ngủ của bạn . Bạn cũng cần xem xét lại những thói quen hằng ngày của bạn . Một số trong những điều bạn đang thực hiện để đối phó với chứng mất ngủ thực sự có thể làm cho vấn đề trở nên tồi tệ hơn.

Thí dụ, có thể bạn đang sử dụng thuốc ngủ hoặc uống rượu để ngủ thiếp đi, những thứ nay thường làm gián đoạn giấc ngủ / phá vỡ giấc ngủ nhiều hơn về lâu dài. Hoặc có thể bạn uống quá nhiều cafe vào ban ngày , làm cho việc ngủ thiếp đi trở nên khó hơn sau đó . Thông thường , việc thay đổi những thói quen mà củng cố lại sự thiếu ngủ cũng đủ để khắc phục chứng mất ngủ theo luôn . Phải mất vài ngày để cho cơ thể bạn quen với sự thay đổi, nhưng một khi bạn thực hiện được, bạn sẽ ngủ ngon / ngủ tốt hơn

SỬ DỤNG CUỐN SỔ TAY GHI CHÉP VỀ GIẤC NGỦ ĐỂ XÁC ĐỊNH NHỮNG THÓI QUEN GÂY RA CHỨNG MÚC NGỦ (USING A SLEEP DIARY TO IDENTIFY INSOMNIA-INDUCING HABITS

Một số thói quen như là đă ăn sâu vào người mà bạn có thể bỏ qua thói quen này vậy là một đóng góp đáng kể cho việc trị liệu chứng mất ngủ của bạn. Có thể những thói quen lâu ngày / thói quen có tính cách như sợi dây xích ảnh hưởng đến giấc ngủ của bạn nhiều hơn bạn (tự) nhận biết ra . Hoặc giả có thể bạn không bao giờ liên hệ đến việc xem truyền h́nh ban đêm của bạn hay sử dụng Internet với sự khó khăn về giấc ngủ của bạn . Hăy ǵn giữ 1 quyển sổ nhật kư ghi chép giờ giấc ngủ nghỉ là một phương cách hỗ trợ tốt để điểm ra những thói quen và những hành vi / những hoạt động góp phần vào sự mất ngủ của bạn

Tóm lại là bạn phải ghi chép lại những chi tiết từng ngày về những thói quen trong ngày , giờ giấc ngủ nghỉ , và những triệu chứng mất ngủ . Thí dụ, bạn có thể theo dơi khi nào bạn lên giường đi ngủ và khi nào bạn thức dậy , nơi bạn nằm ngủ, bạn ăn uống ǵ , và bất kỳ những sự việc căng thẳng nào mà xẩy ra trong ngày

NHỮNG THÓI QUEN MÀ KHIẾN CHO CHỨNG MẤT NGỦ TỆ HẠI HƠN:( HABITS THAT MAKE INSOMNIA WORSE)

•Uống quá nhiều chất caffein

•Uống rượu hay hút thuốc trước khi lên giường

•Ngủ nhiều giấc suốt ngày

•Một thời khóa biểu không b́nh thường về giấc ngủ / Ư nói là ngủ không đúng giờ




BẢNG MẪU NHẬT KƯ GHI CHÉP VỀ GIẤC NGỦ CHO 1 TUẦN (WEEKLY SLEEP DIARY SAMPLE)



Chi Tiết

Chủ Nhật

Thứ Hai

Thứ Ba

Thứ Tư

Thứ Năm

Thứ Sáu

Thứ Bảy


Thể Dục
Bạn đă thể dục gi ? Khi nào ? Kéo dài tổng cộng trong bao lâu ?
Ngủ trưa / ngủ chợp mắt 1 lát
Nơi nào ? Lúc nào ? Kéo dài bao lâu ?
Chất Rượu và Caffein
Dùng loại nào ? Số lượng ? Khi nào ?
Cảm giác
Vui , buồn , căng thẳng , lo âu sợ hăi bồn chồn , những nguyên nhân chính khác
Thức Ăn và Nước Uống trong bũa ăn tối, ăn chơi
Ăn ǵ uống ǵ ? Khi nào ?
Thuốc men và thuốc ngủ
Loại thuốc ǵ ? Liều lượng ? Uống khi nào ?
Thời khóa biểu giờ giấc đi ngủ hằng ngày Tự tham thiền / tự điều chỉnh suy nghĩ ra sao ? Trong bao lâu th́ ngủ
Thời gian ngủ trong bao lâu th́ thức


H̉A NHẬP NHỮNG THÓI QUEN MỚI ĐỂ TRỢ GIÚP CHO GIẤC NGỦ CỦA BẠN (ADOPTING NEW HABITS TO HELP YOU SLEEP)

• Phải bảo đảm pḥng ngủ của bạn được yên tĩnh, tối, và mát mẻ. Tiếng ồn , ánh sáng và hơi nóng có thể quấy rối giấc ngủ . Hăy cố gắng sử dụng 1 máy cản âm thanh / máy cản tiếng ồn hay dụng cụ bịt tai dể loại bỏ tiếng ồn bên ngoài , mở cửa sổ hay quạt máy để giữ căn pḥng được mát mẻ , và đóng màn cửa để làm tối căn pḥng hay một khăn bịt mắt để che chắn ánh sáng .

•Hăy bám chặt vào 1 thời khóa biểu ngủ nghỉ b́nh thường . Hăy hỗ trợ đồng hồ sinh học của bạn bằng cách đi ngủ và thức dậy đúng giờ mỗi ngày, bao gồm cả ngày nghỉ cuối tuần. Hăy thức dậy đúng giờ vào buổi sáng cho dù nếu bạn có bị mệt mỏi . Việc này sẽ trợ giúp bạn quay trở lại nhịp điệu giấc ngủ b́nh thường

•Tránh những giấc ngủ ngắn trong ngày . Nghỉ trưa hay chợp mắt ngủ trong ngày có thể làm khó ngủ hơn vào ban đêm . Nếu bạn cảm thấy thích chợp mắt ngủ / ngủ trưa, hăy giới hạn là chỉ ngủ trưa / chợp mắt ngủ trong 30 phút trước 3 giờ chiều

• Hăy tránh hoạt động có tính cách kích thích và t́nh huống căng thẳng trước khi đi ngủ . Việc này bao gồm thể dục mạnh mẽ; những tranh luận lớn hay bàn căi / căi vả / căi lộn ; và TV, computer; hoặc sử dụng các tṛ chơi điện tử . Hăy tắt tất cả các máy điện tử tối thiểu 1 giờ đồng hồ trước khi ngủ

•Giảm thiểu tối đa chất caffein, rượu, và chất nicotine (nicotinechất trong thuốc lá) . Hăy ngừng uống các loại giải khát có chất caffein tối thiểu 8 tiếng đồng hồ trước khi lên giường . Tránh uống bia rượu vào buổi tối . Khi mà chất cồn rượu có thể làm cho bạn buồn ngủ , (nhưng) nó can thiệp vào chất lượng giấc ngủ của bạn . Hăy bỏ hút thuốc lá hoặc tránh hút thuốc lá vào ban đêm, khi mà chất nicotine là một chất kick thích .




NHỮNG LỜI KHUYÊN / NHỮNG MẸO NHỎ KHÁC DỂ CÓ ĐƯỢC GIẤT NGỦ NGON HƠN (MORE TIPS FOR GETTING BETTER SLEEP)

T́m hiểu làm thế nào để tạo ra một môi trường ngủ tốt hơn, phát triển một thói quen thư giăn trước khi đi ngủ, tối ưu hóa thời khóa biểu / lịch tŕnh giờ giấc giấc ngủ của bạn, và ăn uống và tập thể dục để hỗ trợ giấc ngủ, trong số các chiến lược khác .

Đọc thêm : Những lời khuyên / những mẹo nhỏ để có được giấc ngủ ngon hơn : Làm thế nào để ngủ ngon vào mỗi đêm (Lynn sẽ phỏng dịch thông tin này sau )


NHỮNG PHƯƠNG PHÁP TRỊ LIỆU CHỨNG MẤT NGỦ VÀ NHỮNG ĐIỀU TRỊ TRUNG H̉A / GIẢM THIỂU LO ÂU BỒN CHỒN KHI BẠN KHÔNG THỂ NGỦ
(INSOMNIA CURES AND TREATMENTS: NEUTRALIZING ANXIETY WHEN YOU CAN’T SLEEP)

Bạn có càng nhiều sự rắc rối về giấc ngủ, th́ những rắc rối đó càng bắt đầu xâm nhập vào suy nghĩ của bạn . Bạn có thể sẽ sợ hăi khi đi ngủ v́ bạn biết ngay rằng bạn sẽ phải lăn lộn và trăn trở hàng giờ hoặc tỉnh giấc vào 2 giờ sáng , rồi lập lại (sự trăn trở và tỉnh giấc). Hoặc có lẽ bạn đang lo lắng bởi v́ bạn có điều ǵ đó thực hiện quan trọng vào ngày mai , và nếu bạn không có đủ một lần 8 giờ liên tục, bạn chắc chắn là bạn sẽ không làm được tốt cho ngày mai. Nhưng việc khổ sở và mong mỏi giấc ngủ khó khăn (như vậy) chỉ làm cho chứng mất ngủ trầm trọng hơn. Việc lo lắng để có giấc ngủ hoặc bạn có mệt mỏi như thế nào có thể làm cho bạn ch́m đắm với adrenaline ( Lynn Ly chú thích : andrenaline là chất nội tiết, 1 loại hooc moon dẫn truyền thần kinh . Khi sản xuất trong cơ thể, chất adrenaline này làm tăng nhịp tim, lượng máu chạy trong mạch máu và làm giăn nở đường khí quản và tham dự vào các phản ứng phản hồi trong tranh đấu của hệ thần kinh giao cảm ), và trước khi bạn nhận biết ra , bạn thật tỉnh táo với đôi mắt mở thao láo

LEARNING TO ASSOCIATE YOUR BED WITH SLEEPING, NOT SLEEPLESSNESS

Nếu những lo âu về giấc ngủ xâm nhập vào đường hướng năng lực của bạn, để thoát ra sự xâm nhập này vào ban đêm, các chiến lược sau đây có thể giúp đỡ. Mục tiêu là rèn luyện cơ thể của bạn để kết hợp giường nằm với giấc ngủ và không có ǵ khác - đặc biệt là không nổi giận /thất vọng và lo âu bồn chồn.


•Chỉ sử dụng giường ngủ cho việc ngủ nghỉ và quan hệ t́nh dục . Không dùng làm việc, đọc sách, xem TV, hoặg sử dụng computer trên giường hoặc trong pḥng ngủ . Mục tiêu duy nhất là kết hợp pḥng ngủ với giấc ngủ , do đó năo bộ của bạn và cơ thể sẽ đón nhận tín hiệu mạnh mẽ là đến giờ giỗ giấc ngủ khi bạn lên giường.

•Hăy ra khỏi giường khi bạn không thể ngủ . Đừng cố tự ép ḿnh vào giấc ngủ . Trăn trở và lăn lộn chỉ làm gia tăng sự lo âu bồn chồn . Hăy đứng lên, rời khỏi pḥng ngủ, và làm ǵ đó thư giăn , như đọc sách, uống 1 ly nước trà ấm ấm loại không có chất kích thích caffein , tắm , hoặc lắng nghe âm nhạc nhẹ nhàng . Khi bạn buồn ngủ, quay trở lại giường ngủ .

•Di dời đồng hồ trong pḥng ngủ ra xa xa khỏi tầm nh́n . Việc bồn chồn lo lắng nh́n nhịp đồng hồ khi bạn không thể ngủ - việc nhận biết rằng bạn sẽ bị cực kỳ mệt mỏi khi thời gian (dành cho giấc ngủ) mất dần - chắc chắn là nguyên nhân tạo ra chứng mất ngủ .



Cũng thật hữu ích khi thách thức các thái độ tiêu cực về vấn đề giấc ngủ và mất ngủ của bạn mà bạn bị chứng mất ngủ này phát triển theo thời gian. Mấu chốt là việc nhận thức ra tự đánh bại những suy nghĩ và thay thế chúng với những suy nghĩ thiết thực hơn.



THÁCH THỨC NHỮNG SUY TƯỞNG TỰ ĐÁNH BẠI LÀ NGUỒN NGUYÊN LIỆU CHO CHỨNG MẤT NGỦ
( CHALLENGING SELF-DEFEATING THOUGHTS THAT FUEL INSOMNIA )




SUY NGHĨ TỰ ĐÁNH BẠI (SELF-DEFEATING THOUGHT)


KHUYẾN KHÍCH GIẤC NGỦ QUAY TRỞ LẠI (SLEEP-PROMOTING COMEBACK)

Những mong đợi không thiết thực : Tôi sẽ có thể ngủ ngon hằng đêm giống như một người b́nh thường . Tôi sẽ không có 1 vấn đề ǵ: Rất nhiều người vật vă chiến đấu với giấc ngủ theo thời gian / trong từng ngày . Tôi sẽ có thê/ ngủ với sự rèn luyện .
Sự phóng đại: Đêm nay là đêm duy nhất như mọi đêm, một đêm khác của sự đau khổ v́ mất ngủ . Không có đêm nào giống đêm nào . Một đêm tôi ngủ ngon hơn so với những đêm khác
Hệ Quả Xấu / Tin tưởng là nhiều thứ tồi tệ hơn từ sự tồi tệ hiện giờ : Nếu tôi không thể ngủ nghỉ chút chút , tôi sẽ làm hỏng cuộc thuyết tŕnh và nguy cơ mất việc Tôi có thể làm tốt cuộc thuyết tŕnh cho dù nếu tôi mệt mỏi . Tôi vẫn có thể nghỉ ngơ và thư thái thư giăn đêm nay, ngay cả nếu tôi không thể ngủ
Vô Vọng / Mất Hy Vọng: Tôi không bao giờ sẽ có thể ngủ ngon . Giấc ngủ ngon ra ngoài tầm kiểm soát của tôi. Chứng mất ngủ có thể được điều trị . Nếu tôi ngừng lo lắng quá nhiều và tập trung vào các giải pháp tích cực, tôi có thể đánh bại nó .
Dự Đoán: Sẽ phải tốn tối thiểu 1 giờ đồng hồ để ch́m vào giấc ngủ tối nay . Tôi biết vậy mà Tôi không biết điều ǵ sẽ xảy ra tối nay . Có lẽ tôi sẽ ngủ nhanh chóng nếu tôi sủ dụng các chiến lược


Hăy nhớ rằng, việc thay thế những ư nghĩ tự phản kháng / tự đánh bại cần thời gian và rèn luyện . Bạn có thể t́m thấy nó hữu dụng để ghi xuống bảng liệt kê của riêng ḿnh , việc ghi lại những suy nghĩ tiêu cực mà bật bung và làm sao bạn có thể kháng cự chúng . Bạn có thể ngạc nhiên về những suy nghĩ tiêu cực thường chạy trong đầu của bạn. Hăy kiên nhẫn và yêu cầu hỗ trợ nếu bạn cần.

NHỮNG KỸ THUẬP THƯ GIĂN / THẢ LỎNG CÓ THỂ GIÚP BẠN NGỦ NGON ( RELAXATION TECHNIQUES THAT CAN HELP YOU SLEEP )


•Một thói quen đi ngủ thư giăn. Như một sự khởi đầu để rèn luyện sự buông xả thư giăn của bạn, hăy phát triển một thói quen đi ngủ êm ả yên tĩnh. Hăy tập trung vào sự yên tĩnh, các hoạt động nhẹ nhàng / hoạt động làm êm dịu , chẳng hạn như đọc sách, đan len, hoặc lắng nghe nhạc nhẹ . Hăy để đèn sáng ở mức độ thấp . Sự thư giăn sau đó và những kỹ thuật điều chỉnh sự căng thẳng có thể trợ giúp bạn đi vào một trạng thái thoải mái hơn.

•Thở bằng bụng / Kỹ thuật hít thở sâu đưa hơi thở xuống bụng Hầu hết chúng ta không hít thở sâu thật sâu như chúng ta nên hít thở sâu như vậy . Khi chúng ta hít thở sâu và đầy đủ, không chỉ liên quan đến lồng ngực, mà c̣n bụng, vùng lưng bên dưới, và vùng xương sườn ở lồng ngực, hít thở sâu thực sự có thể giúp hệ thống thần kinh trung ương (parasympathetic nervous system ) của chúng ta kiểm soát sự buông xả thư giăn. Hăy nhắm mắt lại, và cố gắng hít sâu, hit thở chậm chậm từ tốn, làm cho từng hơi thở sâu hơn làn hơi thơ trước đó . Hít bào bằng lỗ mũi và thở ra bằng miệng . Bạn có thể cố gắng thở ra một hơi dài hơn hít vào.

•Sự buông xả cơ bắp tiếp diễn không ngừng Việc buông xả cơ bắp tiếp diễn không ngừng th́ dễ dàng hơn là nói. Hăy nằm xuống hoặc tự làm cho bạn cảm thấy thoải mái . Bắt đầu từ bàn chân của bạn , duỗi thăng / căng thẳng cơ bắp thật căng như bạn có thể làm . Giữ như vậy trong ṿng 10 tiếng đếm (đếm từ 1 - 10) , rồi th́ buông lỏng . Tiếp tục làm vậy cho từng nhóm bắp thịt trong cơ thể bạn , vận động như vậy từ bàn chân lên đến đỉnh đầu



HƯỚNG DẪN TỪNG BƯỚC TỪNG BƯỚC ĐỂ PHÁT TRIỂN VIỆC THỰC HÀNH BUÔNG RẢ THƯ GIĂN HẰNG NGÀY (A STEP-BY-STEP GUIDE TO DEVELOPING A DAILY RELAXATION PRACTICE)

T́m hiểu thêm về kỹ thuật buông xả làm thư giăn mà có thể giúp giấc ngủ của bạn, bao gồm làm thế nào để bắt đầu một thực hành thiền định, điều khiển sự buông xả thư giăn cơ bắp tiếp diễn không ngừng , tận dụng lợi thế của yoga và tai chi / Thái Cực quyền , và sử dụng hít thở sâu để làm thư giăn.

Đọc Thêm : Những Kỹ Thuật Buông Xả Thư Giăn Dể Giải Tỏa Căng Thẳng (Lynn sẽ phỏng dịnh tài liệu này sau !!! )


NHỮNG PHƯƠNG PHÁP TRỊ LIỆU CHỨNG MẤT NGỦ VÀ NHỮNG ĐIỀU TRỊ: SỬ DỤNG NHỮNG CHẤT BỔ XUNG VÀ THUỐC MEM MỘT CÁCH KHÔN NGOAN (INSOMNIA CURES AND TREATMENTS: USING SUPPLEMENTS AND MEDICATION WISELY)

Khi bạn đang trằn trọc trăn trở và lăn lộn trong đêm, thật hấp dẫn để chuyển sang sử dụng thuốc men , chất bổ xung để hỗ trợ giấc ngủ . Nhưng trước khi bạn làm thế, đây là những ǵ bạn cần biết.

DINH DƯỠNG BỔ SUNG CHO CHỨNG MẤT NGỦ (DIETARY SUPPLEMENTS FOR INSOMNIA)

Có nhiều chế độ dinh dưỡng và thảo dược bổ xung trên thị trường cho các hiệu ứng về việc thúc đẩy giấc ngủ . Mặc dù chúng có thể được mô tả như là "chất thiên nhiên", hăy cẩn thân / thân trọng đối với những biện pháp khắc phục giấc ngủ vẫn có thể có tác dụng phụ và ảnh hưởng với các thuốc khác hoặc vitamin bạn đang sử dụng. Để biết thêm thông tin, hăy trao đổi / nói chuyện với bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn.

Trong khi các bằng chứng khoa học vẫn đang được thu thập về các biện pháp thay thế để khắc phục giấc ngủ (ư nói biện pháp sử dụng thuốc hay chất bổ xung để thay thế cho biện pháp tự khác phục từ bản thân), bạn có thể thấy rằng một số trong số những biện pháp thay thế có thể có hiệu quả tuyệt vời cho bạn. Hai chất sung có những bằng chứng hỗ trợ hiệu quả nhất cho chứng mất ngủ là Melatonin và valerian .


•Melatonin Melatonin là một hooc môn xuất hiện rất tự nhiên mà cơ thể bạn sản xuất vào ban đêm . Melatonin trợ giúp điều chỉnh chu tŕnh ngủ thiếp đi và tỉnh giấc của bạn. Melatonin cũng là một chất bổ xung được bày bán trên các quầy kệ ở tiệm thuốc không cần toa bác sĩ khi mua . Cho dù melatonin không hiệu quả cho mọi người, nó có thể là một cách trị liệu chứng mất ngủ hiệu quả đối với bạn - đặc biệt nếu bạn ở t́nh huống mất ngủ nghiêm trọng ( mắt mở thao láo suốt đêm như con chịm cú vọ ban đêm ) với xu hướng tự nhiên để đi ngủ trễ và dậy rất muộn hơn những người khác

•Valerian. Valerian là một dược thảo với tác dụng an thần nhẹ có thể giúp bạn ngủ tốt hơn. Tuy nhiên, chất lượng của các loại sung valerian rất khác nhau / khác biệt với nhau .


NHỮNG LOẠI THUỐC NGỦ THEO TOA BÁC SĨ DÀNH CHO CHỨNG MẤT NGỦ (PRESCRIPTION SLEEPING PILLS FOR INSOMNIA)

Trong khi những toa thuốc ngủ có thể cung cấp sự giải quyết tạm thời, điều quan trọng là phải am hiểu rằng thuốc ngủ không phải là một cách chữa trị chứng mất ngủ. Và nếu sử dụng không cẩn thận, chúng thực sự làm cho chứng bệnh mất ngủ trở nên tồi tệ hơn theo thời gian . Tốt nhất là sử dụng thuốc men chỉ như là một phương sách cuối cùng, và rồi sau đó, thật hạn chế chỉ dùng khi cần thiết, ngay khi thực sự cần thiết. Trước tiên , hăy thử thay đổi thói quen ngủ nghỉ của bạn, thói quen hàng ngày của bạn, và thái độ / quan niệm của bạn về giấc ngủ. Những bằng chứng cho thấy rằng sự thay đổi lối sống và sự thay đổi về ứng sử / hành vi tạo ra khác biệt lớn nhất và kéo dài nhất khi nói đến chứng bệnh mất ngủ.

Để hiểu biết hơn , hăy đọc Những loại thuốc ngủ , những loại hỗ trợ ngủ , và thiền học : Những ǵ bạn cần biết (Lynn sẽ phỏng dịch tài liệu này sau )

KHI NÀO CẦN SUY XÉT T̀M ĐẾN PHƯƠNG THỨC TRỊ LIỆU CHỨNG MẤT NGỦ TỪ NGƯỜI CHUYÊN NGHIỆP (WHEN TO CONSIDER SEEKING PROFESSIONAL INSOMNIA TREATMENT)

Nếu bạn đă từng cố gắng những điều trị chứng mất ngủ và phương thức trị liệu đă tŕnh bày ở trên, và vẫn c̣n có những rắc rối để có được giấc ngủ như bạn cần có , bác sĩ hay chuyên gia về rối loạn giấc ngủ có thể trợ giúp bạn

Khi cần tim dến sự trợ giúp của chuyên gia về chứng mất ngủ :


•Nếu chứng mất ngủ của bạn không có phản hồi đối với những chiến lược / phương pháp tự cứu chữa của bản thân

•Nếu chứng mất ngủ của bạn đang gây ra nhiều vất đề nghiêm trọng / chính yếu trong gia đ́nh /tại nhà , tại nơi làm việc , hoặc tại học đường

•Nếu bạn có trải nghiệm về những triệu chứng đáng sợ như đau tức ngực hoặc khó thở

•Nếu chứng mất ngủ của bạn hầu như xẩy ra hằng đêm và càng lúc càng trở nên tồi tệ / tệ hại



Lynn Ly (2009)

florida80
04-17-2019, 18:34
NHỮNG LỜI KHUYÊN VỀ GIẤC NGỦ : PHẢI LÀM G̀ KHI BAN KHÔNG THỂ NGỦ
( SLEEP TIPS: WHAT TO DO WHEN YOU CAN’T SLEEP )

Lynn Ly phỏng dịch theo tài liệu
của TYLENOL NIGHTIME - SLEEP CENTER cung cấp


Để ch́m vào giấc ngủ (buồn ngủ) có thể khó khăn nhưng sau đây là một số lời khuyên có thể hỗ trợ trong việc "nhắm mắt ngủ" .

Bạn đang trằn trọc trăn trở và thay đổi tư thế mà vẫn không thể ngủ, ngay cả khi bạn đă đóng rèm cửa, tắt đèn, và đă thực hiện tất cả mọi thứ mà bạn có thể nghĩ ra để vỗ về tâm trí của ḿnh. Vấn đề của bạn có thể là không thực hiện từng bước thích hợp để chuẩn bị giấc ngủ cho bản thân ḿnh một cách khoa học, theo như tiến sĩ Colleen Carney, Phó Giáo sư thuộc Khoa Tâm lư Đại học Ryerson thành phố Toronto-Canada và là tác giả cuốn sách “Goodnight Mind: Turn off Your Noisy Thoughts and Get a Good Night’s Sleep.” ("Chúc Tâm Trí ngủ ngon: Hăy dẹp bỏ mọi suy nghĩ phiền toái và đón lấy một giấc ngủ đêm ngon lành") đă nói .

Dưới đây là một số lời khuyên về giấc ngủ từ bác sĩ Carney và các chuyên gia khác về cách điều chỉnh, thư giăn để ch́m sâu vào giấc ngủ:
• Hăy ra khỏi giường và vận động một khoảng thời gian vừa đủ lúc ban ngày . "Việc này tạo ra 1 thúc đẩy hay áp lực cho giấc ngủ sâu vào ban đêm " Bác Sĩ Carney nói vậy .

•Thực nghiệm luyện tập yoga, Thái Cực Quyền (Tai Chi), thiền định và những phương cách dẫn dắt tâm trí tĩnh lặng, nhưng hăy thực hiện phững biện pháp này trước giờ đi ngủ .

•Làm ǵ đó có tính cách vui vẻ nhẹ nhàng hợp lư vào buổi tối. Điều này sẽ thay đổi từ cá nhân này sang cá nhân khác , tiến sĩ Diane Boivin, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và điều trị nhịp tim sinh học của Viện Douglas, và là Giáo sư ngành Y tại Đại học McGill, Montreal Canada đă nói : "Nếu đọc một vài ḍng hoặc một số trang trong một cuốn sách sẽ giúp bạn thư giăn, và điều này không gây khó khăn cho bạn buồn ngủ và không phá hỏng giờ giấc đi ngủ nghỉ của bạn. Không có vấn đề ǵ miền sao việc đọc sách không phải là đọc trên một máy tính bảng hoặc các thiết bị điện tử khác. "

•Hay thức dậy ngay khi tắt chuông đồng báo động thay v́ nhấn nút chuông để báo động lại, thậm chí ngay sau một đêm mất ngủ. Nên biết là bạn không thể bù đắp sự mất ngủ ban đêm bằng giờ ngủ ban sáng, mặc dù rất nhiều người cố gắng làm vậy, Bác Si Carney khuyên vậy. "Trong bất kỳ giấc ngủ ở buổi sáng là chúng ta đón nhận ánh sáng, dó đó bạn đă tự cướp thời gian mà bạn có thể đầu tư cho giấc ngủ sâu ban đêm tiếp theo sau, hoặc tự cướp mất sự thúc đẩy giấc ngủ của ḿnh. Bạn chỉ nên tự cho phép ḿnh lảo đảo và cố gắng thúc đẩy năng lực hoạt động ban ngày của ḿnh bằng cafein và cố gắng đi ngủ sớm vào đêm kế tiếp do bị khó ngủ ở đêm trước và đă không thức dậy trể vào buổi sáng"

•Hăy thức giấc đúng giờ hằng ngày. "Nếu bạn không sẵn sàng đi ngủ theo đúng thời gian qui định, vậy th́ không nên đi ngủ. Bạn nên chờ đợi , bởi v́ bạn sẽ nằm thao thức, nhưng bạn nên luôn luôn thức dậy đúng giờ cho dù bất kể điều ǵ ", Carney khuyên vậy.

• Nghiêm chỉnh thực hiện thói quen ngủ và thức dậy đúng giờ, ngay cả vào cuối tuần. "Cơ thể bạn không biết hôm nào là ngày cuối tuần" Bác sĩ Carney nói vậy. Việc bạn cố gắng ngủ thêm thêm 1 hay 2 giờ vào sáng thứ Bảy và Chủ Nhật gây ảnh hưởng đến những mức độ thuộc tầm kiểm soát giấc ngủ kiểm soát của hormone melatonin và mức độ mệt mỏi của bạn - nó giống như là máy bay phản lực bị giựt lùi vào mỗi sáng thứ Hai. "Nếu tôi nói tôi cần bạn đi du lịch (từ Toronto) đến Los Angeles và quay lại ngay, bạn có mong đợi giấc ngủ b́nh thường không (Chú thích: Toronto và Los Angeless có giờ giấc khác biệt là 6 giờ đồng hồ ) ... đó là một lư do mà mọi người không nên cho rằng điều đó xảy ra vào cuối tuần," Bác Sĩ Carney nói vậy.

• Hăy buông xả mọi lo lắng của bạn ngoài cánh cửa pḥng ngủ. Con người thường hoảng hốt lo sợ về thời hạn phải làm xong điều ǵ đó; họ nghĩ rằng tất cả mọi việc đều thuộc trường hợp khẩn cấp và họ thấy khó khăn để "gỡ rối" (quên đi sự lo lắng) và do đó không thể ngủ vào ban đêm, Bác Sĩ Carney nói vậy. Nếu bạn dễ bị lo lắng về việc kinh doanh chưa hoàn tất, các vấn đề chưa được giải quyết , và thiết lập danh sách, th́ nên làm điều đó sớm sớm hơn , ngay cả khi có cách giải quyết tốt nhất những vấn đề ... th́ cũng nên buông xả mọi suy tư ở ngoài cửa pḥng ngủ , Bác sĩ Carney đă nói vậy .

• Hăy nhận ra nếu bạn có đủ vận động và sự thúc đẩy giấc ngủ ban đêm ở ban ngày, bạn sẽ không cần phải "âm thanh ru ngủ", đeo mặt nạ để ngủ và các dụng cụ phụ trợ khác để ru bạn vào giấc ngủ vào ban đêm. Nếu bạn cần những dụng cụ hỗ trợ, điều nay có thể là một dấu hiệu cho thấy bạn đang bận tâm với giấc ngủ và lệ thuộc vào những ǵ Carney gọi là "nỗ lực ngủ" được liên kết với chứng mất ngủ. "Việc buồn ngủ / ch́m vào giấc ngủ th́ phải như rơi vào t́nh yêu; nó không cần 1 nỗ lực thúc ép "

•Nếu bạn không thể ngủ, có vấn đề khó khăn để ngủ hoặc khó quay lại giấc ngủ trong ṿng 20 phút sau khi thức dậy trong đêm, hăy rời khỏi giường nằm và làm ǵ đó có tính cách xoa dịu tâm thần . "Nếu tâm ư cứ lu bu bận rộn th́ sẽ không thể ngừng dứt suy tư , thường nên đưa vào bộ năo một công việc lặp đi lặp lại phải làm - thí dụ như việc đếm số mấy con cừu - có thể trợ giúp ngủ lại" Tiến sĩ Maureen Ceresney, một chuyên gia giấc ngủ tại Đại học nói British Columbia, Vancouver đề nghị vậy .

•Hăy thử thay đổi nhiệt độc cơ thể của bạn. "Uống một ly sữa ấm hoặc ly trà thảo dược, tắm nước nóng một hoặc hai giờ trước khi đi ngủ, hoặc luyện tập vài động tác thể dục về tim mạch trong buổi chiều hay buổi tối, việc này có thể tạo thuận lợi cho việc thúc đẩy giấc ngủ ngon," Ceresney nói.

•Nếu việc làm tối pḥng ngủ trợ giúp ngủ ngon th́ nên thực hiện v́ ánh sáng quấy rối sản phẩm do chât Melatonin tạo ra và là nguyên nhân gây ra rối loại hay những vấn đề thuộc về "đồng hồ sinh học" trong cơ thể bạn

•Hăy suy xét t́m kiếm sự trợ giúp y tế nếu các phương pháp trên không hiệu quả và bạn vẫn không thể ngủ, tiến sĩ Atul Khullar , bác sĩ tâm thần, Giám đốc Y khoa Northern Alberta Sleep Clinic (MedSleep Edmonton) đề nghị. "Nếu thiếu ngủ gây ảnh hưởng xấu đến các chức năng sinh hoạt ban ngày, nếu vấn đề không biến mất ; nếu nó đă không thay đổi, và nếu nó thực sự tiếp diễn trong đời sống của bạn, vậy là lúc cần được quan sát xem xét"




Lynn Ly (25/06/2014)

florida80
04-17-2019, 18:36
SUY THẬN : LỰA CHỌN 1 PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ PHÙ HỢP CHO BẠN
(KIDNEY FAILURE: CHOOSING A TREATMENT THAT’S RIGHT FOR YOU )


Lynn Ly phỏng dịch tài liệu từ
htXtp://kidney.niddk.nih.gov/KUDiseases/pubs/choosingtreatment/index.aspx


GIỚI THIỆU (INTRODUCTION)

Thận của bạn lọc chất thải từ máu và điều hoà các chức năng khác của cơ thể. Khi thận của bạn bị suy yếu (không hoạt động nữa) , bạn cần điều trị để thay thế những những hoạt động mà thận của bạnh thực hiện lúc b́nh thường.

Khi thận bị hư hại đến mức bạn phải thực hiện một số quyết định về phương cách trị liệu. Bạn có thể chọn lựa từ bỏ trị liệu (không tiếp nhân trị liệu) . Nếu bạn chọn tiếp nhận trị liệu, sự lựa chọn của bạn bao gồm:
•Chạy Thận Nhân Tạo / Lọc Máu Theo Chu Kỳ (Hemodialysis), phương pháp này cần một bộ máy được sử dụng để lọc máu bên ngoài cơ thể của bạn;

•Chạy Thận Phúc Mạc (Peritoneal Dialysis) , phương pháp này sử dụng màng bụng của bạn để lọc máu bên trong cơ thể.

•Cấy Ghép Thận (Kidney Transplantation), ở phương pháp này một quả thận mới được đặt trong cơ thể của bạn.


Mỗi phương pháp điều trị đều có những ưu điểm và nhược điểm (tiện ích và bất lợi). Sự lựa chọn phương pháp điều trị cho bạn sẽ có một tác động lớn đến lối sống hằng ngày của bạn, chẳng hạn như có thể ǵn giữ công ăn việc làm nếu bạn đang làm việc (kiếm sống) . Bạn là người duy nhất có thể quyết định những ǵ có ư nghĩa nhất cho bạn. Đọc thông tin này là một phương cách để có hiểu biết về những lựa chọn (được đề nghị) từ đó bạn có thể quyết định chọn phương cách nào. Và nếu bạn thấy rằng sự lựa chọn của bạn không phù hợp tốt cho lối sống của bạn, bạn có thể thay đổi phương pháp điều trị. Với sự trợ giúp của nhân viên y tế, gia đ́nh và bạn bè, bạn có thể sống một cuộc sống đầy năng động.

BẠN BỊ SUY THẬN KHI NÀO (WHEN YOUR KIDNEYS FAIL)

Quả thận khoẻ mạnh làm sạch máu của bạn bằng cách loại bỏ dung dịch dư thừa, những khoáng chất và những chất thải. Chúng cũng tạo ra kích thích tố mà ǵn giữ cho xương của bạn cứng cáp và máu của bạn khỏe mạnh. Khi quả thận của bạn bị suy yếu hay hư hỏng, những chất thải độc hại tích tụ trong cơ thể, huyết áp của bạn có thể gia tăng, và cơ thể của bạn có thể tồn lại dung dịch dư thừa và không tạo ra đủ lượng hồng huyết cầu . Khi sự thể này xảy ra, bạn cần trị liệu để thay thế hoạt động của quả thận bị hư hỏng của bạn.


SỰ CHỌN LỰA ĐIỀU TRỊ : LỌC MÁU ĐỊNH KỲ / CHẠY THẬN NHÂN TẠO
(TREATMENT CHOICE: HEMODIALYSIS )


MỤC ĐÍCH (PURPOSE)

Chạy thận nhân tạo/Lọc máu định kỳ (Hemodialysis)làm sạch và gạn lọc máu bằng cách sử dụng một bộ máy mà tạm thời loại ra khỏi cơ thể các chất thải độc hại, muối dư thừ , và lượng nước dư thừa. Chạy thận nhân tạo trợ giúp kiểm soát và điều khiển huyết áp, và trợ giúp cơ thể bạn ở trạng thái quân b́nh về các hóa chất quan trọng như potassium (kali), sodium (natri), calcium (canxi), và bicarbonate.

Chạy Thận / Lọc máu / Thẩm tách (Dialysis) có thể thay thế một phần chức năng của thận. Chế độ dinh dưỡng, thuốc men, và việc hạn chế chất lỏng thường cũng rất cần thiết nữa. Chế độ dinh dưỡng, (dung nạp) chất lỏng của bạn, và số lượng thuốc bạn cần sẽ phụ thuộc vào phương pháp điều trị mà bạn lựa chọn.

CÁCH CHẠY THẬN NHÂN TẠO / LỌC MÁU THEO ĐỊNH KỲ HOẠT ĐỘNG RA SAO (HOW HEMODIALYSIS WORKS)

Chạy thận nhân tạo /lọc máu theo định kỳ (Hemodialysis) là sử dụng một bộ lọc đặc biệt gọi là bộ phận thẩm tách (dialyzer) , bộ phận này có chức năng như một quả thận nhân tạo để làm sạch máu của bạn. Bộ phận thẩm tách (dialyzer) là một hộp nhỏ kết nối với máy chạy thận nhân tạo (hemodialysis machine).


UserPostedImage
H́nh ảnh của trang web kidney.niddk.nih.gov về Hemodialysis (Chạy Thận Nhân Tạo / Lọc Máu Theo Định Kỳ)


Trong khi điều trị, máu của bạn di chuyển qua các ống dẫn vào bộ phận thẩm tách (dialyzer), bộ phận này lược ra những chất thải, lượng muối dư thừa, và lượng nước dư thừa. Sau đó, ḍng máu được làm sạch chảy thông qua một bộ ống trở lại vào cơ thể của bạn. Máy chạy thận nhân tạo (hemodialysis machine) theo dơi lưu lượng máu và loại bỏ các chất thải từ bộ phận thẩm tách (dialyzer) này.


UserPostedImage
H́nh ảnh của trang web kidney.niddk.nih.gov về máy Thẩm Tách (dialyzer))


Chạy thận nhân tạo / Lọc máu định kỳ (Hemodialysis) thường được thực hiện 3 lần 1 tuần . Mỗi lần điều trị kéo dài từ 3 đến 5 tiếng hay lâu hơn. Trong khi điều tri, bạn có thể đọc sách, viết lách, ngủ , tṛ chuyện hay xem TV

CHUẨN BỊ SẴN SÀNG (GETTING READY)

Vài tháng trước khi bạn được điều trị chạy thận nhân tạo (hemodialysis) lần đầu tiên, bộ phận truy cập vào ḍng máu của bạn cần được cài đặt vào cơ thể bạn. Bạn có thể phải ở lại qua đêm trong bệnh viện, tuy nhiên nhiều bệnh nhân được thiết lập bộ phận truy cập vào ḍng máu theo chế độ căn bản dành cho bệnh nhân ngoại trú. Việc thiết lập bộ phận truy cập vào ḍng máu có công dụng đem máu từ cơ thể của bạn đưa vào bộ phận thẩm tách (dialyzer) và rồi th́ đưa máu trở lại vào cơ thể mà không gây khó chịu cho bạn. Hai kiểu tạo đường truy cập vào máu là dùng một ống ṛ (fistula) và sự ghép mô (graft)

•Bác sĩ phẫu thuật tạo cho một đường ống ṛ fistula ngay trong mạch máu của bạn, nơi động mạch được kết nối trực tiếp vào tĩnh mạch, thường là ở phần trước của cánh tay bạn. Lưu lượng máu gia tăng lên làm cho các mạch máu nở lớn hơn và mạnh hơn do đó đường ống ṛ có thể được sử dụng để lập đi lập lại việc chèn mũi kim vào nó. Kiểu truy cập là kiểu được ưa thích. Có thể phải mất vài tuần để chuẩnn bị cho việc sử dụng ống ṛ.


UserPostedImage
H́nh ảnh của trang web kidney.niddk.nih.gov về Cánh Tay với đường ống ṛ (Arm with a fistula).



•Cấy ghép mô (graft) nối liền động mạch với tĩnh mạch bằng một ống tổng hợp (a synthetic tube). Cách này không cần nới rộng mạch máu như là khi thực hiện đường ống ṛ (fistula), cho nên ống tổng hợp (a synthetic tube) có thể được sử dụng ngay sau khi cài đặt. Nhưng cấy ghép mô (graft) th́ có nhiều khả năng về vấn đề nhiễm trùng và đông máu.


UserPostedImage
H́nh ảnh của trang web kidney.niddk.nih.gov về sự ghép mô (graft)



Trước khi lọc máu, những mũi kim được đặt vào phần truy cập để máu chảy ra

Nếu bệnh thận của bạn đă tiến triển nhanh chóng, bạn có thể không có thời gian để được thiết lập một truy cập cố định vào mạch máu trước khi bắt đầu lọc máu. Bạn có thể cần phải sử dụng một ống thông, mềm mại cài đặt vào trong một tĩnh mạch ở ngực, cổ, hoặc chân gần háng như là một truy cập tạm thời. Một số người cũng sử dụng một ống thông này để truy cập dài hạn luôn nữa. Những ống thông mà cần thiết sử dụng trong ṿng hơn khoảng 3 tuần phải được được thiết kế để cài đặt dưới da làm gia tăng sự thoải mái và giảm bớt các biến chứng.


UserPostedImage

H́nh ảnh của trang web kidney.niddk.nih.gov về ống thông dùng cho truy cập tạm thời (Catheter for temporary access)


Để biết thêm thông tin về truy cập vào mạch máu, hăy xem tài liệu truy cập mạch máu dành cho Chạy thận nhân tạo / Lọc máu định kỳ của Viện Quốc gia về bệnh tiểu đường và tiêu hóa và bệnh Thận (NIDDK)

AI THỰC HIỆN CHẠY THẬN NHÂN TẠO / LỌC MÁU ĐỊNH KỲ (WHO PERFORMS HEMODIALYSIS)

Chạy thận nhân tạo / lọc máu định kỳ (Hemodialysis) thường được thực hiện tại một trung tâm chạy thận bởi kỹ thuật viên chuyên chăm sóc bệnh nhân, người kỹ thuật viên này được giám sát bởi những y tá / cán sự điều dưỡng . Bảo hiểm sức khỏe trả tiền 3 lần điều trị theo phương cách Chạy thận nhân tạo / lọc máu định kỳ hàng tuần . Nếu bạn chọn trị liệu tại trung tâm (nào đó) , bạn sẽ có một khoảng thời gian cố định, ba lần mỗi tuần vào thứ Hai - thứ Tư - thứ Sáu hoặc thứ Ba -Thứ Năm - thứ Bảy. Nếu bạn không được xắp xếp ở các khoảng thời gian bạn mong muốn nhất , bạn có thể yêu cầu được ghi danh vào một danh sách chờ đợi cho các khoảng thời gian mà bạn ưa thích. Đối với một trường hợp đặc biệt, bạn có thể trao đổi khoảng thời gian / kỳ hẹn của ḿnh với người bệnh nhân khác. Bạn muốn được xuy xét / suy nghĩ đến lịch tŕnh Chạy thận nhân tạo / lọc máu định kỳ nếu bạn làm việc hay phải chăm sóc trẻ nhỏ . Một số trung tâm có cung cấp việc chạy thận ban đêm tại trung tâm. Phương cách điều trị này được thực hiện trong một thời gian dài hơn vào ban đêm, trong khi bạn ngủ tại trung tâm. Phải chạy thận nhân tạo nhiều hơn nghia là phải giảm chế độ ăn uống và hạn chế chất lỏng / dung dịch, và cách điều trị này để dành ban ngày của bạn dùng cho công việc làm ăn, trông giữ trẻ, hoạt động theo sở thích, hoặc các công việc khác.

Bạn có thể chọn cách học hiểu làm thế nào để tự điều trị theo phương pháp chạy thận nhân tạo tại nhà. Khi bạn là người bệnh duy nhất, th́ có thể chạy thận nhân tạo / lọc máu thường xuyên hơn hay kéo dài lâu hơn, để sự thay thế tiến đến gần hơn những hoạt động ổn định của quá thận khỏe mạnh thực hiện. Chạy thận nhân tạo (DHHD) hằng ngày tại nhà được thực hiện 5 đến 7 ngày mỗi tuần trong khoảng 2 đến 3 giờ mỗi một lần, và bạn thiết lập lịch tŕnh cho riêng ḿnh . Nếu công ty bảo hiểm sức khỏe của bạn sẽ phải trả hơn ba lần điều trị, bạn có thể thực hiện điều trị ngắn vào buổi sáng hoặc vào buổi tối. Chạy thận nhân tạo tại nhà ban đêm (Nocturnal home hemodialysis = NHHD) được thược hiện 3 để 6 đêm mỗi tuần khi lúc bạn ngủ . DHHD hoặc NHHD sẽ cho phép chế độ ăn uống b́nh thường hơn cùng chất lỏng / dung dịch với ít huyết áp hơn cùng với các thuốc khác. Hầu hết những người theo chương tŕnh muốn chạy thận nhân tạo tại nhà phải có thân nhân được huấn luyện biết thực hiện phương pháp này ở nhà trong khi người bệnh thực hiện điều trị. Học cách chạy thận nhân tạo tại nhà cũng giống như học lái xe phải mất một vài tuần và sẽ đáng sợ lúc đầu, nhưng sau đó nó sẽ trở thành thói quen. Các trung tâm chạy thân cung cấp máy và huấn luyện , thêm vào nữa là 24 giờ hỗ trợ nếu bạn có thắc mắc hay có vấn đề ǵ. Các máy mới dùng cho việc chạy thận tại nhà nhỏ hơn và dễ dang sử dụng hơn các máy tại các trung tâm.

Bạn có một sự lựa chọn về các trung tâm chạy thận, và hầu hết các thị trấn có nhiều trung tâm để bạn chọn lựa. Bạn có thể ghé thăm một trung tâm để xem xét nơi đó có phương pháp điều trị bạn muốn hoặc khoảng thời gian mà bạn cần. Một số trung tâm sẽ cho phép bạn sử dụng điện thoại di động hoặc laptop(computer xách tay) hoặc cho người viếng thăm bạn (trong khi điều trị), trong khi những trung tâm khác th́ không. Hiệp hội Y Khoa (Medicare) có một danh sách tất cả các trung tâm Hoa Kỳ về các Cơ sở chạy thận và có so sánh trên trang web (www.medicare.gov/dialysis) cùng xếp hạng chất lượng cho từng trung tâm. Công ty bảo hiểm sức khỏe của bạn có thể có bảng danh sách các trung tâm mà bạn có thể sử dụng . Nếu bạn lựa chọn điều trị tại trung tâm, bạn cân chọn trung tâm gần nhà đề giảm thiểu thời gian di chuyển . Nếu bạn chọn cách điều trị tại nhà, một khi bạn được huấn luyện bạn chỉ cần đến trung tâm một lần hằng tháng. Do đó, trung tâm có thể ở xa xa mà bạn không ngại di chuyển 1 lần một tháng.

NHỮNG BIẾN CHỨNG KHẢ DĨ / NHỮNG BIẾN CHỨNG CÓ THỂ XẢY RA (POSSIBLE COMPLICATIONS)

Những vấn đề về sự truy nhập vào mạch máu là nguyên nhân phổ biến nhất khiến phải nhập viện ở đại đa số bệnh nhân sử dụng Chạy Thận Nhân Tạo. Những vấn đề phổ biến bao gồm nhiễm trùng, sự tắc nghẽn ḍng máu do đông máu, và lưu lượng máu suy giảm đến mức nghèo nàn. Những vấn đề này có thể làm cho việc điều trị của bạn không thực hiện được. Bạn có thể phải trải qua ca phẫu thuật lần nữa để có được một truy nhập vào mạch máu mà hoạt động đúng chức năng.

Các vấn đề khác có thể gây ra bởi những thay đổi nhanh chóng trong cơ thể về lượng nước và sư cân bằng hóa học trong quá tŕnh điều trị. Chứng chuột rút (băp thịt bị co thắt cứng lại) và Hạ huyết áp - huyết áp bị tụt giảm đột ngột - là 2 phản ứng phụ phổ biến . Hạ huyết áp có thể làm cho bạn cảm thấy suy nhược, chóng mặt, hoặc bị đau dạ dày.

Bạn có lẽ sẽ cần một vài tháng để thích nghi với Chạy Thận Nhân Tạo. Những phản ứng phụ có thể được điều trị thường xuyên nhanh chóng và dễ dàng, do đó bạn nên luôn luôn thông cáo cho bác sĩ và nhân viên chạy thận biết. Bạn có thể tránh được nhiều tác dụng phụ nếu bạn tuân theo một chế độ ăn uống thích hợp, hạn chế ăn chất lỏng, và dùng thuốc theo chỉ dẫn.

DINH DƯỠNG CHO NGƯỜI ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ CHẠY THẬN NHÂN TẠO (DIET FOR HEMODIALYSIS)

Chạy thận nhân tạo (Hemodialysis) và chế độ ăn uống thích hợp giúp giảm bớt các chất thải tích tụ trong máu của bạn. Một chuyên gia dinh dưỡng thường luôn sẵn sàng trong tất cả các trung tâm chạy thận để giúp bạn thiết lập kế hoạch bữa ăn theo yêu cầu của bác sĩ. Khi lựa chọn thực phẩm, hăy nhớ :

•ăn một liều lượng cân đối về các loại thực phẩm giàu protein như thịt, thịt gà và cá.

•Kiểm soát số lượng potassium (Kali) mà bạn ăn . Potassium (Kali) là một khoáng chất được t́m thấy trong các sản phẩm thay thế muối, một số loại trái cây, chẳng hạn như chuối, cam, rau cải, sô cô la và các loại hạt dẻ. Quá nhiều potassium (kali) có thể nguy hiểm cho tim của bạn.

•Giới hạn lượng nước (chất lỏng) bạn uống . Khi thận của bạn không làm việc, nước tích tụ trong cơ thể của bạn một cách nhanh chóng. Quá nhiều chất lỏng làm cho các mô của bạn sưng tấy lên và có thể dẫn tới huyết áp cao, có vấn đề về tim, bị chuột rút (vọp bẻ) và hạ huyết áp trong quá tŕnh lọc máu .

•Tránh dùng muối . Những thức năm có vị mặn làm cho bạn khát nước và làm cho cơ thể bạn tồn đọng nước

•Giới hạn các loại thực phẩm như sữa, cheese (phô ma), các loại hạt dẻ, các loại hạt đậu được sấy khô, và colas đâm đặc . Những thực phẩm này chứa đựng số lượng lớn về khoáng chất phosphorus (phốt pho). Quá nhiều phosphorus (phốt pho) trong máu khiến cho calcium (can xi) tích tụ trong xương của bạn , điều này làm cho xương bị suy yếu và ḍn và có thể gây ra viêm khớp . Để ngăn chận những vấn đề về xương, bác sĩ có thể cho bạn những thuốc đặc biệt mà bạm phải dùng thuốc này trong các bữa ăn hàng ngày hay uống trực tiếp


Để biết thêm thông tin về việc chọn lựa thực phẩm cho đúng, hăy đọ cuốn sách NIDDK chỉ dẫn ăn cho đúng để có cảm giác đúng cho người sử dụng cách trị liệu Chạy thân nhân tạo (http://kidney.niddk.nih.gov/KUDiseases/pubs/eatright/index.aspx )

ƯU VÀ KHUYẾT ĐIỂM (PROS AND CONS)

Mỗi người có phản hồi khác nhau đối với những t́nh huống tương tự. Những ǵ có thể là một yếu tố tiêu cực đối với người này lại có thể là một yếu tố tích cực cho người khác. Xem danh sách những ưu điểm và nhược điểm chung về việc Chạy Thận Nhân tại trung tâm và tại nhà sau đây.

CHẠY THẬN NHÂN TẠO TẠI TRUNG TÂM (IN-CENTER HEMODIALYSIS)

Ưu Điểm (Pros)
•Cơ sở vật chất + phương tiện rộng răi tiện nghi

•Những chuyên gia có được huấn luyện ở bên bạn suốt thời gian trị liệu

•Bạn có thế quen biết thêm những bệnh nhân khác

•Bạn không cần có 1 người thân hoặc phải ǵn giữ dụng cụ ở nhà



Nhược Điểm (Cons)
•Trị liệu phải theo thời khóa biểu của trung tâm và luôn cố định / không thay đổi

•Bạn phải di chuyến từ nhà đến trung tâm để trị liệu

•Việc trị liệu có chế độ dinh dưỡng nghiêm ngạt và hầu hết là giới hạn chất lỏng

•Bạn sẽ phải uống và chi trả tiền thuốc nhiều hơn nữa

•Bạn có thể có cảm nhận thăng trầm , vui buồn thường xuyên trong từng ngày.

•Phải tốn vài tiếng đồng hồ để có cảm giác tốt hơn sau 1 lần điều trị



CHẠY THẬN NHÂN TẠO TẠI NHÀ (HOME HEMODIALYSIS)

Ưu Điểm (Pros)
•Bạn có thể làm việc Chạy Thân Nhân tạo vào thời điểm bạn lựa chọn, nhưng bạn vẫn phải làm việc này thường xuyên theo chỉ thị của bác sĩ của bạn

•Bạn không phải di chuyển đi đến trung tâm

•Bạn có được một cảm giác độc lập và điều khiển việc điều trị cho bạn

•Máy móc mới hơn và ít chiếm chồ hơn

•Bạn sẽ ít có cảm giác thăng trầm, vui buồn hơn trong từng ngày

•Chạy thận nhân tạo tại nhà th́ công việc điều trị thấy quen thuộc hơn tại trung tâm

•Chế độ dinh dưỡng và chất lỏng sẽ rất giống như b́nh thường

•Bạn có thể mang máy lọc máu di động đó theo bên ḿnh trong những chuyến đu lịch , chuyến cắm trại / dă ngoại hay đi máy bay .

•Bạn có thể dành nhiều thời gian hơn cho người thân yêu của bạn


Nhược Điểm (Cons)
•Bạn phải có 1 người thân cận kề bên ḿnh

•Việc trợ giúp điều trị cho bạn có thể tạo căng thẳng đối với thân nhân của bạn

•Bạn và người thân của bạn phải được huấn luyện

•Bạn cần 1 chỗ trống trải để đặt máy lọc máu và những công cụ tại nhà

•Bạn có thể phải nghỉ việc để hoàn thành khóa huấn luyện.

•Bạn sẽ cần phải học biết cách gài đặt mũi kim chạy thận

•Hằng ngày và ban đêm chạy thận nhân tạo tại nhà chưa được cung cấp tại tất cả các địa điểm.


LÀM VIỆC VỚI NHÓM NGƯỜI CHĂM SÓC SỨC KHỎE CHO BẠN {WORKING WITH YOUR HEALTH CARE TEAM)

Những câu hỏi mà bạn có thể muốn hỏi:
•Có phải chạy thận nhânt ạo là trị liệu lựa chọn tốt nhất cho tôi ? Tại sao ?

• Nếu tôi được điều trị tại 1 trung tâm nào đó, tôi có thể đi đến trung tâm mà tôi chọn không ?

•Tôi nền t́m thấy điều ǵ ở trung tâm chạy thận ?

•Bác sĩ thận của tôi có đến gập tôi ở trung tâm chạy thận không ?

•Chạy thận nhân tạo có cảm giác ra sao ?

•Làm ǵ để tự chăm sóc chạy thận ?

•Có phải chạy thận nhân tạo tại nhà th́ có sẵn trong khu vực tôi cư ngụ? Phải học cách làm trong bao lâu ? Ai sẽ là người đào tạo tôi và thân nhân ?

•Loại truy cập nào vào mạch máu mà tốt nhất cho tôi?

•Khi là một bệnh nhân chạy thận nhân tạo, tôi sẽ có thể tiếp tục làm việc không? Tôi có thể có phương pháp điều trị vào ban đêm không?

•Tôi nên tập thể dục nhiều cỡ bao nhiêu?

•Ai sẽ là người trong nhóm chăm sóc sức khỏe cho tôi ? Làm thế nào những người này có thể giúp tôi?

•Đối với những ai tôi có thể kể lể về những lo ngại về người phối ngẫu (vị hôn phu / hôn thê), lo ngại về t́nh dục , hoặc những lo ngại về gia đ́nh ?

•Làm sao / Nơi nào tôi có thê nói chuyện vớ người khác đă phải đối mặt với quyết định này?


Để biết thêm thông tin về chạy thận nhân tạo, hăy xem cuốn sách NIDDK "Các phương pháp điều trị dành cho Suy Thận: Phương pháp chạy thận nhân tạo. Hoặc xem bảng tổng kết so sánh ba lựa chọn điều trị . (Lynn sẽ gom thời gian phỏng dịch những tài liệu này sau)


SỰ CHỌN LỰA ĐIỀU TRỊ : CHẠY THẬN KHÚC MẠC
(TREATMENT CHOICE: Peritoneal Dialysis)


MỤC ĐÍCH (PURPOSE)

Chạy Thận Phúc Mạc là 1 tiến tŕnh khác mà loại bỏ những chất thải, hóa chất, và lượng nước dư thừa ra khỏi cơ thể bạn . Kiểu thẩm tách / lọc máu này sử dụng màng bụng các bạn, hay khu vục vùng rún /rốn, để lọc máu. Lớp màng này được gọi là màng bụng và đóng vai tṛ như quả thận nhân tạo.

CÁCH CHẠY THẬN PHÚC MẠC HOẠT ĐỘNG RA SAO (HOW PERITONEAL DIALYSIS WORKS)

Một hỗn hợp các khoáng chất và đường được ḥa tan vào trong nước, được gọi là giải pháp thẩm tách /giải pháp lọc máu, đi chuyển qua một ống thông vào trong bụng của bạn. Chất đường được gọi là dextrose lôi kéo / thu thút chất thải, hóa chất, và lượng nước dư thừa từ các mạch máu nhỏ trong màng phúc mạc của bạn đi vào giải pháp thẩm tách / giải pháp lọc máu. Sau vài tiếng đồng hồ, hỗn hợp này được chảy ra khỏi bụng của bạn thông qua đường ống, lấy chất thải từ máu của bạn theo với nó . Sau đó, bụng của bạn được dung nạp lại hỗn hợp mới, và chu tŕnh được lặp đi lặp lại. Quá tŕnh thoát chất lỏng / đung dịch và bơm lại được gọi là một sự trao đổi chất.


UserPostedImage

H́nh ảnh của trang web kidney.niddk.nih.gov về Chạy Thận Phúc Mạc (Peritoneal dialysis).


CHUẨN BỊ SẴN SÀNG (GETTING READY)

Trước lần điều trị đầu tiên của bạn, bác sĩ phẫu thuật sẽ cài đặt một ống thông vào bụng hoặc ngực bạn. Ống thông này có xu hướng làm việc tốt hơn nếu có đủ thời gian, thường từ 10 ngày đến 2 hoặc 3 tuần để vị trí đặt chèn vào cơ thể bạn lành lại . Hoạch định truy cập thẩm tách cho bạn có thể gia tăng sự thành công trong trị liệu. Ống thông này sẽ ở lại vĩnh viễn trong bụng bạn để giúp vận chuyển các hỗn hợp thẩm tách máu đến và đi từ bụng bạn.

CÁC KIỂU CHẠY THẬN PHÚC MẠC / LỌC MÁU (Ở)MÀNG BỤNG( TYPES OF PERITONEAL DIALYSIS )

Ba kiểu chạy thận phúc mạc có sẵn hiện giờ
•Chạy Thận Phúc Mạc Di Chuyển Liên Tục - CAPD ( Continuous Ambulatory Peritoneal Dialysis (CAPD) )
CAPD không cần máy móc và có thể được thực hiện ở bất kỳ nơi sạch sẽ sáng sủa . Với phương pháp CAPD, máu của bạn luôn luông được lọc sạch . Chất hỗn hợp phẩm thách đi qua 1 túi nhựa thông qua ống thông và đi vào bụng bạn, nơi mà nó ở lại đó cho vài giờ với các ống thông được bịt kín. Khoảng thời gian mà hỗn hợp chất thẩm tách ở trong bụng bạn được gọi là thời gian lưu trú ngưng tụ (dwell tim). Tiếp theo, bạn cho hỗn hợp chất thẩm tách chảy vào 1 túi rỗng để vứt bỏ đi. Sau đó, bạn đổ đầy hỗn hợp thẩm tách mới lại vào bụng bạn để quá tŕnh làm sạch có thể bắt đầu lại. Với phương pháp CAPD, hỖn hợp thẩm tách ở lại trong bụng bạn trong khoảng thời gian lưu trú ngưng tụ từ 4 đến 6 tiếng đồng hồ , hoặc hơn . Tiến tŕnh làm chảy ra những hỗn hợp thẩm tách đă được sử dụng qua và thay thế vào hỗn hợp thẩm tách mới tốn khỏng 30 đến 40 phút . Hầu hết mọi người thay đổi hồn hợp thẩm tách ít nhất bốn lần trong một ngày và nằm ngủ với hỗn hợp thẩm tách trong bụng họ vào ban đêm. Với phương pháp CAPD, không cần thiết phải thức giấc và thực hiện những hành động thẩm tách / lọc máu suốt đêm


•Chạy Thận Phúc Mạc Theo Chu Kỳ Liên Tục ( Continuous Cycler-assisted Peritoneal Dialysis (CCPD) )
CCPD sử dụng một máy được gọi là máy điều khiển theo chu kỳ (cycler) để làm đầy và làm rỗng bụng bạn 3-5 lần vào ban đêm khi bạn ngủ. Vào buổi sáng, bạn bắt đầu 1 lần thay đổi (chất hỗn hợp) với 1 khoảng thời gian lưu trú ngưng tụ (Dwell time) mà kéo dài cho nguyên ngày . Bạn có thể thực hiện thêm 1 lần thay đổi (chất hỗn hợp) vào giữa buổi trưa không có máy điều khiển theo chu kỳ để gia tăng số lượng loại bỏ chất thải và giảm bớt số lượng (của) chất lỏng tồn đọng trong cơ thể bạn.


•Sự kết hợp phương pháp CAPD và CCPD (Combination of CAPD and CCPD)
Nếu bạn cân nặng hơn 175 pounds (khoảng hơn 80 kg) hoặc màng lọc ở bụng của bạn đào thải chất thải một cách chậm chạm, có lẽ bạn cần sự kết hợp phương pháp CAPD và CCPD để có được đúng liều lượng chạy thận /lọc máu. Thí dụ, một số người sử dụng máy chu kỳ vào ban đêm mà c̣n thực hiện một lần thay đổi (chất hỗn hợp ) vào ban ngày. Những người khác th́ làm 4 thay dổi (chất hỗn hợp) trong suốt ban ngày và sử dụng 1 máy diều khiển chu kỳ nhỏ để thực hiện 1 hay hơn những thay đổi (chất hỗn hợp ) vào ban đêm . Bạn sẽ phối hợp làm việc với nhân viên y tế chăm sóc bạn để định ra thời khóa biểu tốt nhất cho bạn



AI THỰC HIỆN CHẠY THẬN PHÚC MẠC (WHO PERFORMS PERITONEAL DIALYSIS)

Cả hai kiểu chạy Thận Phúc Mạc thường được thực hiện bởi bệnh nhân không có sự trợ giúp từ người thân . CAPD là 1 h́nh thước tự ḿnh điều trị mà không cần máy móc . Tuy nhiên, với CCPD, bạn cần một bộ máy để ráo chất lỏng / dung dịch và đầy đổ dung dịch lại vào bụng bạn.

NHỮNG BIẾN CHỨNG KHẢ DĨ / NHỮNG BIẾN CHỨNG CÓ THỂ XẢY RA (POSSIBLE COMPLICATIONS)

Vấn đề phổ biến nhất về chạy thận phúc mạc là viêm phúc mạc, một nhiễm trùng nghiêm trọng ở bụng. Nhiẽm trùng này có thể xảy ra nếu chỗ hở / chỗ mở, nơi ống thông đưa vào cơ thể của bạn bị nhiễm trùng hoặc nếu sự nhiễm bẩn xảy ra khi ống thông được kết nối hoặc ngừng kết nối đến từ các túi đựng hỗn hợp dung dịch . Nhiễm trùng ít phổ biến trong ống thông ở trước ức (ngực), được đặt trong ngực. Viêm phúc mạc cần điều trị kháng sinh bởi bác sĩ của bạn .

Để tránh viêm phúc mạc, bạn phải cẩn thận làm theo tiến tŕnh từng bước thật chính xác và học biết cách nhận ra sớm những dấu hiệu viêm phúc mạc, trong đó bao gồm nóng sốt, màu sắc khác thường hoặc sự vẩn đục của chất lỏng đă được sử dụng, và sự tấy đỏ hoặc đau nhức chung quanh ống thông. Hăy tường thuật các dấu hiệu này cho bác sĩ hoặc y tá của bạn ngay lập tức để t́nh trạng viêm phúc mạc có thể được điều trị nhanh chóng để tránh bị thêm vấn đề khác.

DINH DƯỠNG CHO NGƯỜI ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ CHẠY THẬN PHÚC MẠC (DIET FOR PERITONEAL DIALYSIS)

Một chế độ đinhh dưỡng cho người chạy thận phúc mạc th́ hơi khác so với chạy thận nhân tại tại trung tâm chạy thận.
• Bạn sẽ vẫn phải cần giới 1 lượng muối và chất lỏng, nhưng bạn có thể dung nạp nhiều hơn so với người chạy thận nhân tạo tại trung tâm chạy thận nhân tạo.

•Bạn phải ăn nhiều protein (chất đạm) hơn

•Bạn có thể có những hạn chế khác về chất potassium / kali. Thậm chí bạn có thể cần ăn các loại thực phẩm cao potassium /kali

•Bạn có thể cần phải cát giảm số lượng calories khi ăn bởi v́ có calories trong dung dịch thẩm tách có thể khiến bạn tăng trọng lượng cơ thể / khiến bạn mập lên


Bác sĩ và chuyên gia dinh dưỡng sẽ trợ giúp bệnh nhân bệnh suy thật theo khả năng để giúp bạn hoạch định những bữa ăn của bạn

ƯU VÀ KHUYẾT ĐIỂM (PROS AND CONS)

Mỗi kiểu Chạy Thận Phúc Mạc đều có những ưu điểm và nhược điểm (tiện ích và bất lợi).

Chạy Thận Phúc Mạc - CAPD ( Peritoneal Dialysis - CAPD )

Ưu Điểm (Pros)
•Bạn có thể thực hiện phương pháp này 1 ḿnh

•Bạn có thể thực hiện phương pháp này vào những lúc bạn muốn miễn là bạn thực hiện đủ số lượng yêu cầu trao đổi chất mỗi ngày

•Bạn có thể thực hiện phương pháp này ở nhiều nới

•Bạn không cần 1 bộ máy

•Bạn sẽ không có cảm nhận thăng trầm , vui buồn mà nhiều bệnh nhân sử dụng Chạy Thận Nhận tạo cảm nhận

•Bạn không cần phải tốn thời gian đi đến trung tâm 3 lần 1 tuần


Khuyết Điểm (Cons)
•Chạy Thận Phúc Mạc CAPD có thể phá hủy thời khóa biểu hằng ngày của bạn

•Chạy Thận Phúc Mạc CAPD là một điều trị liên tục, và tất cả các thay đổi (hỗn hợp dung dịch) phải được thực hiện 7 ngày một tuần.


Chạy Thận Phúc Mạc - CCPD ( Peritoneal Dialysis - CCPD )

Ưu Điểm (Pros)
•YBạn có thể thực hiện phương pháp này vào buổi tối, chủ yếu là trong khi bạn nằm ngủ

•Bạn được tự do không phải thực hiện việc thay đổi (hỗn hợp dung dịch) trong suốt ban ngày


Khuyết Điểm (Cons)
•Bạn cần 1 bộ máy

•Sự di chuyển của bạn vào ban đêm bị giới hạn do sự kết nối với máy điều khiển chu kỳ


LÀM VIỆC VỚI NHÓM NGƯỜI CHĂM SÓC SỨC KHỎE CHO BẠN {WORKING WITH YOUR HEALTH CARE TEAM)

Những câu hỏi mà bạn có thể muốn hỏi:
•Có phải Chạy Thận Khúc Mạc là lựa chọn điều trị tốt nhất cho tôi ? Tại sao ? Nếy phải, Kiểu nào là tốt nhất ?

•tôi sẽ tốn bao lâu để học hiểu cách làm thế nào để thực hiện Chạy Thận Phúc Mạc ?

•Chạy Thận Khúc Mạc cảm giác ra sao?

•Chạy thận phúc mạc sẽ có ảnh hưởng đến huyết áp của tôi không?

•Làm sao tôi biết nếu tôi có viêm phúc mạc hay không? Làm thế nào điều trị?

•Như là một bệnh nhân chạy thận khúc mạc, liệu tôi có thể tiếp tục làm việc kiếm ăn ?

•Tôi nên tập thể dục nhiều như thế nào ?

•Tôi nên cất giữ những dụng cụ ở đâu ?

•Tôi phải đi gặp bác sĩ của tôi thường xuyên thế nào? Thường bao lâu th́ tôi gặp bác sĩ ?

•Ai sẽ là người trong nhóm chăm sóc sức khỏe cho tôi ? Những người này có thể trợ giúp tôi thế nào ?

•Tôi có thể liên lạc ai khi tôi có vấn đề ?

•Đối với những ai tôi có thể kể lể về những lo ngại về người phối ngẫu (vị hôn phu / hôn thê), lo ngại về t́nh dục , hoặc những lo ngại về gia đ́nh ?

•Làm sao / Nơi nào tôi có thê nói chuyện vớ người khác đă phải đối mặt với quyết định này?


Để biết thêm thông tin về chạy thậnphúc mạc, xem tập sách NIDDK "Các phương pháp điều trị cho Suy Thận: Chạy Thận phúc mạc / Lọc máu màng bụng. Hoặc xem bảng tổng kết về ba cách lựa chọn điều trị.

CHẠY THẬN / LỌC MÁU / THÂM TÁCH KHÔNG PHẢI LÀ 1 ĐIỀU TRỊ KHỎI BỆNH (DIALYSIS IS NOT A CURE)

Chạy thận nhân tạo (Hemodialysis) và chạy thận khúc mạc (peritoneal dialysis) là trị liệu mà trợ giúp thay thế hoạt động quả thận của bạn . Những phương pháp điều trị này giúp bạn cảm thấy tốt hơn và sống lâu hơn, nhưng chững không chữa khỏi suy thận. Mặc dù bệnh nhân suy thận đang sống lâu hơn so với trước đây, trong suốt năm (chạy thận) bệnh thận có thể gây ra các vấn đề như bệnh tim, bệnh xương, viêm khớp, tổn thương thần kinh, vô sinh, và suy dinh dưỡng. Những vấn đề này sẽ không biến mất với việc chạy thận / lọc máu, nhưng hiện giờ các bác sĩ có những phương pháp mới và tốt hơn để pḥng ngừa những vấn đề này . Bạn nên thảo luận về những biến chứng và trị liệu những biến chứng với bác sĩ của bạn

Lynn sẽ phỏng dịch tiếp phần "Sự chọn lựa điều trị : Cấy ghép thận"; "Sự chọn lựa điều trị : Từ chối hay xin ngừng trị liệu " ... v....v... và đặc biệt là sẽ cung cấp bảng so sánh về từng phương pháp điều trị .

florida80
04-17-2019, 18:40
NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ CHẤN THƯƠNG SỌ NĂO.
Bác Sĩ Ngoại Thần Kinh - Nguyễn Như Thạch
(Bác Sĩ Nhà Quê)


1) Người bệnh thường bất tỉnh ngay sau tai nạn và khi tỉnh lại không nhớ những ǵ đă xảy ra.

Việc này thường gặp ở những người bị chấn thương vùng đầu, do năo bị chấn động, phải mất một thời gian để hồi phục. Thời gian này có thể từ vài giờ đến vài ngày, người bệnh có thể cảm thấy mỏi mệt, khó tập trung, khó nhớ mọi thứ, khó thực hiện được các việc phức tạp, và có thể có các thay đổi tâm trạng. Hầu hết người bệnh sẽ b́nh phục hoàn toàn.

2) Có phải sau khi chụp CT scan( chụp xi-ti ) không thấy tổn thương là có thể mừng v́ "không có ǵ"? Khi nào th́ chụp CT ngay?

Sau khi bị chấn động các mạch máu ở năo có thể bị vỡ bất cứ lúc nào, nhất là ở người già, người có bệnh tim mạch, cao huyết áp, tiểu đường....

CT scan có một hạn chế là không phát hiện được các đường nứt nhỏ ở sọ, nhất là các đường nứt nằm theo mặt phẳng ngang. Các đường nứt này cũng có thể chảy máu sau đó gây ra khối máu tụ chèn ép lên năo. V́ vậy, mặt dù chụp CT không phát hiện thương tổn, nhưng người bệnh vẫn cần được theo dơi ở bệnh viện hay tại nhà vài ngày đến vài tuần sau đó.

Có một thực tế là người bệnh và thân nhân, khi có chấn thương vùng đầu , thường yêu cầu chụp CT sọ năo ngay, mặc dù giá thành chụp CT trước đây không hề rẻ đối với nhiều gia đ́nh. Chúng ta thường quan niệm, chụp để xem có bị sao không và coi đó là tiêu chuẩn vàng th́ rất sai lầm. Và đó không phải là việc làm có lợi cho bệnh nhân trong lúc máu đang chảy từ các vết thương khác, huyết áp đang tụt hoặc đang rất cao.

Điều quan trọng nhất với chấn thương sọ năo là quan sát các triệu chứng của bệnh nhân. Bao gồm: t́nh trạng thức tỉnh hay hôn mê, có đau đầu nhiều không, có chóng mặt, buồn nôn, có nôn hay không? Có yếu liệt tay chân không? Nếu như người bệnh không có các triệu chứng trên th́ việc chụp CT chưa thực sự cần thiết. Việc cần ưu tiên là theo dơi nạn nhân. Việc chụp CT phải được tiến hành ngay, thậm chí lần thứ 2, thứ 3 trong ngày, nếu bệnh nhân có biểu hiện xấu đi.

Chụp CT ngay sau chấn thương, có thể chúng ta không thu được h́nh ảnh tổn thương nào và dể có một thái độ chủ quan. Chụp CT ngay sau đến bệnh viện cũng cần thiết nhưng c̣n rất nhiều điều quan trọng đáng làm hơn lúc này. Hăy để quyết định này cho các bác sĩ chuyên khoa.

3) Có tổn thương nặng nào ở năo mà CT scan không phát hiện được ?

Như đă nói ở trên: Các đường nứt nhỏ ở sọ, nhất là các đường nứt nằm theo mặt phẳng ngang, sẽ không phát hiện được trên phim CT scan. Ngoài ra, c̣n một thương tổn nữa, có khi là rất nặng mà không phát hiện được trên CT scan. Đó là Tổn thương sợi trục lan tỏa (Diffuse axonal injury, gọi tắt là DAI ). Có thể hiểu nôm na là tổn thương sợi thần kinh ở dạng vi thể nên khó có thể phát hiện bằng CT scan. Những người bệnh này thường hôn mê sâu mà không có h́nh ảnh tổn thương năo phù hợp trên phim CT scan. Có khi bị chẩn đoán nhầm là say rượu. Nếu không được chẩn đoán và xử trí thích hợp th́ người bệnh có thể chết hoặc chậm phục hồi. Tổn thương sợi trục lan tỏa là nguyên nhân chủ yếu đưa đến t́nh trạng sống thực vật và tàn phế nặng nề sau chấn thương sọ năo. Chẩn đoán và điều trị Tổn thương sợi trục lan tỏa tùy thuốc vào các bác sĩ chuyên khoa.

4) "Máu tụ dưới màng cứng mạn tính"

Có trường hợp sau tai nạn đến hàng tháng, người bệnh bắt đầu xuất hiện triệu chứng đau đầu ngày, uống thuốc giảm đau cũng không đỡ. Có người than yếu, đi lại không vững, nh́n mờ, tê nữa người, mất trí nhớ, nói ngọng hoặc lên cơn co giật.... Khi đến bệnh viện bác sĩ chẩn đoán "Máu tụ dưới màng cứng mạn tính" (măn tính), cần phải mổ.

Như đă nói trên, sau khi chấn thương xảy ra, dù chụp CT lần đầu không thấy thương tổn nhưng các mạch máu ở năo có thể bị vỡ bất cứ lúc nào, nhất là ở người già, người có bệnh tim mạch, cao huyết áp, tiểu đường....

Máu tụ dưới màng cứng mạn tính là một diễn tiến đặt biệt: Lượng máu chảy khi đó không đủ nhiều để gây triệu chúng cho chúng ta phát hiện, hoặc có phát hiện th́ cũng không có phẫu thuật, v́ số lượng ít, có thể tan được. Tuy nhiên số máu này khi tan ra đă không tiêu ( hấp thu) được, v́ đă h́nh thành một vỏ bao bên ngoài. Số máu loăng bên trong có áp lực thẩm thấu cao hơn bên ngoài nên đă hút nước vào trong, làm cho túi máu căng phồng lên nữa. Lúc đó người bệnh mới bắt đầu có những triệu chứng kể trên. Nếu túi máu căng phồng nhanh quá, có thể ảnh hưởng đến tính mạng của người bệnh.

5) Trong một số trường hợp, phần năo bị tổn thương hay máu tụ không nằm ở chỗ bị va chạm trực tiếp.

Nhiều người nêu thắc mắc:" Con tôi bị đánh bên phải, bác sĩ dưới huyện nói có nứt sọ, sao bây giờ bác sĩ nói mổ bên trái?".

Đây là trường hợp thương tổn được gây ra do chấn động dội ( Contrecoup effect ), những thương tổn này thường nặng hơn bên trực tiếp va chạm.

UserPostedImage

6) Thời gian vàng trong chấn thương sọ năo là ǵ? Có cần chuyển người bệnh về bệnh viện tốt nhất?

Việc cứu chữa người bị chấn thương sọ năo nặng cần 3 yếu tố vàng:
•Một là: Thiết bị vàng , tức máy chụp CT scan (cắt lớp điện toán) nhằm phát hiện các tổn thương nội sọ và vị trí nào cần phải mổ. Hiện nay, nhiều bệnh viện cấp huyện đă có máy chụp CT.


•Hai là: Bàn tay vàng (người mổ phải có tài, có tâm và “mát tay”). Không phải chỉ bệnh viện tuyến trung ương mới có Bàn tay vàng.


•Ba là: Thời gian vàng: Nếu có chỉ định mổ th́ phải được mổ càng sớm càng tốt, khi đó tỉ lệ cứu sống bệnh nhân càng cao và tỉ lệ di chứng, biến chứng càng thấp.


Cũng có những trường hợp đă được bác sĩ chỉ định mổ, thậm chí đă làm vệ sinh, cạo đầu xong, chuẩn bị đưa vào pḥng mổ, nhưng thân nhân nhất định không đồng ư, nằng nặc đ̣i chuyển lên tuyến trên và bệnh nhân đă không qua khỏi trên đường chuyển viện. Hoặc khi lên được tuyến trên th́ cũng không c̣n cứu chữa kịp nữa. Hoặc khả năng bị di chứng rất cao, khó phục hồi hơn. V́ vậy thay v́ phải đưa bệnh nhân bằng được lên tuyến trung ương th́ chúng ta nên đưa người bị chấn thương sọ năo tới bệnh viện đa khoa gần nhất. Tốt hơn nữa là nơi có máy chụp CT và bác sĩ chuyên khoa chấn thương sọ năo ( ngoại thần kinh) ở gần nhất và lắng nghe ư kiến của bác sĩ chuyên khoa. Nên nhớ rằng:

Các chấn thương sọ năo nếu được can thiệp kịp thời sẽ ít nguy hiểm đến tính mạng và di chứng nếu có cũng nhẹ hơn

7)" Năo của con tôi đang gởi hấp trên Sài G̣n".

Đó là lời của một bà mẹ trả lời cho người hỏi thăm mẹ con bà.

Lâu lâu trên báo, chúng ta cũng đọc được những tựa đề hấp dẫn không kém, như là :
•"Một cháu bé cần được giúp đỡ để ráp năo",

•"Cậu sinh viên đầu lép mong có tiền ghép lại năo"

•“Nuôi năo trong ổ bụng”....


Bài báo c̣n ghi là trích dẫn lời của bác sĩ "Khoảng 3 tháng sau, mới có thể đưa năo vào hộp sọ của anh C và tiếp tục điều trị".

"Bộ năo của anh Cảnh đă được các bác sỹ cấy ghép và nuôi ở bụng".

Một người bạn học cũ của tôi cũng từng chất vấn tôi vụ này:" Báo nói rơ ràng, sao ông nói không có? Người ta mổ bằng kiếng hiển vi".

Mời xem về một bài báo ở đây:

http://m.***************/...trong-o-bung-a54431.html

Xin khẳng định với các bạn, dù hiện nay Y học tiến bộ lắm, nhưng văn chưa thể tháo rời bộ năo con người rồi sau đó ghép lại. Chuyện thay nguyên cái đầu mới thí nghiệm trên khỉ và chó, nhưng cũng chỉ sống được có 1 -2 ngày thôi. Chuyện thay nguyên đầu người vẫn c̣n nằm trong giả tưởng mà thôi. Huống ǵ là năo. Quư vị nào có đọc truyện "Đầu giáo sư Dowell"?

Vậy th́ cái ǵ gởi hấp hay đông lạnh ở Sài G̣n và cái ǵ nuôi trong ổ bụng của bệnh nhân?

Xin thưa, đó là cái miếng xương sọ ( bone flap= nắp sọ ) mà bác sĩ tạm lấy ra sau 1 cuộc mổ gọi là phẫu thuật mở sọ giải áp, giảm áp hay giải ép ( Decompressive craniectomy). Xin xem trong h́nh đi kèm.

Nhưng là gởi đi bảo quản lạnh chứ không phải hấp và gởi tạm dưới da ngoài thành bụng chứ không phải trong ổ bụng.

Khi năo bị chấn thương nặng, nó sẽ dễ bị sưng phù lên và bị bóp chết trong phạm vi hộp sọ cứng ngắt. Như là quư vị mặc cái quần Jean bó sát đùi, khi bị chấn thương bầm máu nó sưng lên vậy, khó chịu, chật chội vô cùng, chúng ta phải xé nó ra liền lập tức, để giải ép.

Khi nắp sọ được lấy ra, phải được bảo quản cho tốt để sau này ghép lại cho bệnh nhân, khi năo đă thực sự xẹp xuống ( Khoảng 3-6 tháng ). Có 2 cách bảo quản, một là gởi về ngân hàng mô ở Sài G̣n để trong Nitơ lỏng ở âm mấy chục độ C, hai là làm một cuộc phẫu thuật nho nhỏ, gởi nó dưới da bụng khoảng dưới rốn bên trái. Cách này tiện lợi nhất cho các nơi ở xa Sài G̣n. Nhưng có nhiều bất tiện, nhất là không để lâu được, chỉ tối đa khoảng 4 tháng. Nếu lâu hơn nữa, có thể xảy ra hiện tượng thực bào, cơ thể sẽ ăn ṃn miếng sọ đó, sau vài tháng nữa nó mỏng dần và nhỏ đi, chỉ c̣n bằng đồng xu.

UserPostedImage

Nguyễn Như Thạch (Bác Sĩ Nhà Quê)
BS Ngoại Thần Kinh (Chuyên phẫu thuật năo và cột sống)
BV B́nh Dương - Việt Nam

florida80
04-17-2019, 18:42
CẤP CỨU NỘI THẦN KINH SỐ 7

CO GIẬT (SEIZURES)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH


1/ THẾ NÀO LÀ MỘT CƠN CO GIẬT ?

Co giật (seizures) là kết quả của sự phóng điện quá mức hay hỗn loạn (excessive or chaotic discharge) từ các tế bào thần kinh năo bộ. Mặc dầu hầu hết các nhà lâm sàng gọi hậu quả của sự phóng điện này (ví dụ : các cử động giật, nh́n trừng) là một cơn co giật (a seizure), nhưng cơn co giật tự bản thân là hoạt động của tế bào thần kinh (neuronal activity). Những biểu hiện quan sát được được gọi là hoạt động co giật (seizure activity).

Tầm quan trọng của các cơn co giật là rơ ràng. Cái ǵ đó cản trở sự hoạt động b́nh thường của một nhóm tế bào thần kinh. Những công tŕnh nghiên cứu kiểm tra sự tạo nên các sản phẩm phụ chuyển hóa (metabolic by-products) cho thấy rằng chính hoạt động điện bất thường, chứ không phải là sự tích tụ các sản phẩm phụ chuyển hóa, gây nên sự thương tổn và chết tế bào. V́ những lư do không được biết rơ, thùy hải mă (hippocampus) dường như đặc biệt nhạy cảm đối với thương tổn này.

2/ LÀM SAO NHẬN BIẾT MỘT CƠN CO GIẬT.

Điều này không hiển nhiên như có vẻ như vậy. Các cơn co giật có thể biểu hiện bằng nhiều cách, tùy theo kích thước và định vị của vùng năo bộ bị thương tổn. Nói chung, các cơn co giật được xếp thành 3 loại : cục bộ, toàn thể, và cục bộ với toàn thể hóa thứ phát. Một cơn co giật cục bộ (focal seizure) được giới hạn vào một vùng đặc biệt của năo bộ và chỉ ảnh hưởng một vùng nào đó của cơ thể. Một cơn co giật toàn thể (generalized seizure) được biểu hiện bởi hoạt động co giật lên toàn bộ cơ thể. Một cơn co giật cục bộ với toàn thể hóa thứ phát (focal seizure with secondary generalization) khởi đầu chỉ ảnh hưởng lên một phần của năo bộ nhưng sau đó lan rộng ra lên toàn bộ năo. Biểu hiện khởi đầu được tách biệt vào một vùng đặc biệt của cơ thể nhưng lan ra ảnh hưởng lên toàn bộ cơ thể. Hoạt động co giật không điển h́nh (atypical seizure activity) khó nhận biết hơn nhiều. Nếu một cơn co giật đă xảy ra nhưng đă dừng lại trước khi khám bệnh nhân, phải t́m kiếm những dấu hiệu thứ phát, bao gồm sự lú lẩn sau co giật, són đái hay phân, và cắn lưỡi hay niêm mạc miệng.


XẾP LOẠI CÁC CO GIẬT


LOẠI

BIỂU HIỆN

TOÀN THỂ
Co cứng-co giật (động kinh cơn lớn) (tonic-clonic) (grand mal) Mất tri giác, tiếp theo ngay sau bởi co cứng các cơ, sau đó co giật các cơ (jerkinh : giật), có thể kéo dài trong vài phút. Một thời kỳ mất định hướng (thời kỳ sau động kinh) xảy ra sau hoạt động co cứng-co giật.
Cơn vắng ư thức (động kinh cơn nhỏ) (absence)
(petit mal) Đột nhiên mất ư thức với dừng hoạt động hay kiểm soát tư thế. Thời kỳ thường kéo dài vài giây đến vài phút và được đi kèm theo bởi một thời kỳ sau động kinh tương đối ngắn.
Mất trương lực (drop attacks) Mất hoàn toàn kiểm soát tư thế và ngă xuống đất, đôi khi gây chấn thương. Thường xảy ra nơi các trẻ em.
MỘT PHẦN HAY CỤC BỘ
Một phần đơn thuần (simple partial) Có thể có nhiều dạng tùy theo vùng năo bộ bị ảnh hưởng. Nếu vỏ năo vận động bị kích thích, bệnh nhân sẽ có co thắt của vùng cơ thể tương ứng. Nếu vùng không vận động của năo bị kích thích, cảm giác có thể gồm có dị cảm, ảo giác, và déjà vu.
Một phần phức hợp (complex partiel) Thường cớ mất hoạt động vận động đang tiếp diễn, với hoạt động vận động nhỏ, như chắc lưỡi, và đi không có mục đích.
MỘT PHẦN VỚI TOÀN THỂ HÓA THỨ PHÁT Những triệu chứng khởi đầu cũng giống như động kinh một phần. Tuy nhiên, hoạt động tiến triển để ảnh hưởng lên toàn cơ thể, với mất kiểm soát tư thế và có thể có hoạt động cơ co cứng-co giật.

3/ THÁI ĐỘ XỬ TRÍ BAN ĐẦU ĐỐI VỚI MỘT BỆNH NHÂN ĐANG CO GIẬT ?

Hăy bắt đầu với ABC (airway, breathing, circulation), nhằm tất cả các dấu hiệu sinh tồn. Trước hết nên hướng sự chú ư vào đường hô hấp (airway) của bệnh nhân. Có nhiều kỹ thuật để mở hoặc có được một airway. Nên cho oxy bổ sung bởi v́ nhu cầu oxy gia tăng do sự co thắt cơ quá mức. Đánh giá t́nh trạng tim mạch với sự xác định huyết áp và capillary refill và điều chỉnh với dịch(nước muối sinh lư hay dụng dịch lactated ringer). Chú ư vào nhiệt độ và đáp ứng nhanh chóng với một bất thường là điều quan trọng.

Hầu hết can thiệp tích cực nơi bệnh nhân bị co giật nhằm vào ngăn ngừa chấn thương hay hít dịch. Bệnh nhân nên được kềm giữ (nhẹ nhàng) và, nếu có thể, nên được nghiêng về một bên để làm giảm khả năng bị hít dịch. Hút dịch miệng bệnh nhân nên được thực hiện trong lúc co giật. Điều quan trọng là không nên đặt bất cứ cái ǵ có thể bị hít hay bị cắn (kể cả các ngón tay của anh) vào trong miệng của bệnh nhân. Oxy bổ sung nên được cho bằng canun mũi (nasal cannula) hay mặt nạ, nhưng sự sử dụng thông khí bổ sung hiếm khi cần thiết nơi bệnh nhân với co giật không biến chứng.

4/ CƠN ĐỘNG KINH LIÊN TỤC (STATUS EPILEPTICUS) LÀ G̀ ?

• đó là một “ một cơn co giật động kinh (epileptic seizure) lập lại thường xuyên hoặc kéo dài tạo nên một t́nh trạng động kinh (epileptic condition) cố định và kéo dài ”.

• theo truyền thống được gọi là cơn động kinh liên tục (status epilepticus) nếu cơn co giật kéo dài hơn 30 phút hoặc các cơn co giật tái diễn nhưng bệnh nhân không tỉnh dậy giữa các cơn. Những khuyến nghị và mô tả hiện nay là hoạt động co giật kéo dài hơn 5 phút và không thể ngừng lại một cách ngẫu nhiên nên được xem là cơn động kinh liên tục (status epilepticus). Điều trị nên được bắt đầu trong ṿng 5 phút này.


Những bệnh nhân với chẩn đoán cơn động kinh liên tục (status epilepticus) cần được đánh giá kỹ và sâu rộng. Điều này bao gồm một đánh giá hoàn chỉnh để nhận diện và điều trị bất cứ các nguyên nhân gây cơn động kinh liên tục có thể đảo ngược và can thiệp nhanh để chấm dứt hoạt động neurone bất thường. Điều trị hỗ trợ đầy đủ để ngăn ngừa những biến chứng do các cơn co giật và những điều trị chúng (ví dụ suy hô hấp, tan cơ vân, hay sốt) là quan trọng.

5/ CÁC CO GIẬT ĐƯỢC LÀM NGỪNG NHƯ THẾ NÀO ?

Nếu một cơn co giật kéo dài hơn 5 phút, cần phải can thiệp ngay. Trong y khoa truyền thống, chuỗi thông thường là chẩn đoán, sau đó mới điều trị. Thường trong y khoa cấp cứu, cần chẩn đoán và điều trị đồng thời. Đừng chờ đợi cho đến khi đă lấy xong bệnh sử, khám nghiệm vật lư hoàn chỉnh, cho y lệnh làm những xét nghiệm phụ, rồi mới điều trị co giật. Các co giật làm thương tổn năo bộ ; càng để các cơn co giật diễn biến liên tục, th́ càng có nhiều tổn hại xảy ra.

Các benzodiazepine là những thuốc được lựa chọn đầu tiên để điều trị các cơn co giật kéo dài hơn 5 phút. Lorazepam (Témesta) là benzodiazepine tuyến đầu được ưa thích để điều trị các cơn co giật do tính hiệu quả gia tăng và thời gian bán hủy dài hơn trong việc giữ cho các cơn co giật khỏi bị tái phát so với diazepam (Valium). Liều lượng người trưởng thành của Lorazepam là 2-4 mg tiêm tĩnh mạch trực tiếp, với liều lượng tối đa 10-15 mg. Nếu không có lorazepam, có thể cho diazepam với liều lượng 5-10 mg tiêm tĩnh mạch trực tiếp, không vượt quá 30 mg trong một thời gian 8 giờ. Nếu nhiều liều benzodiazepine không làm ngừng co giật hay nếu benzodiazepines bị chống chỉ định nơi bệnh nhân, nên cho một liều lượng tấn công của thuốc chống động kinh nguyên phát (primary anticonvulsant).

Nếu không có đường tĩnh mạch, midazolam (Dormicum) có thể được sử dụng bằng tiêm mông hay bằng đường trực tràng. Mặc dầu diazepam và lorazepam không được khuyến nghị dùng bằng đường tiêm mông do sự hấp thụ thất thường, midazolam với liều lượng 0,05 mg/kg đă được sử dụng để điều trị thành công cơn động kinh liên tục (status epilepticus).

6/ KHI CO GIẬT ĐĂ DỪNG, LÀM SAO GIỮ CHO KHỎI TÁI PHÁT ?

Vấn đề này mang chúng ta đến một loại thuốc khác, các thuốc chống co giật (anticonvulsant). Các thuốc chống co giật không chỉ giữ cho các co cơn giật khỏi tái phát ở pḥng cấp cứu mà c̣n được sử dụng để làm ngưng các cơn co giật đề kháng với benzodiazepines.


THUỐC CHỐNG CO GIẬT


TÊN THUỐC

LIỀU LƯỢNG

ĐƯỜNG CHO THUỐC

B̀NH LUẬN

Phenytoin
(Dialantin, Diphantoine) ampoules 250mg/5ml

18-20 mg/kg
Tiêm tĩnh mạch Không nên cho nhanh hơn 50mg/phút ; bệnh nhân nên được monitor tim ; ngưng truyền nếu độc tính xuất hiện (QRS kéo dài hơn 50% căn bản, hạ huyết áp). Nếu động kinh liên tục tiếp diễn, có thể gia tăng liều lượng toàn bộ lên đến 30 mg/kg.
Fosphenytoin
(ProDilantin)
15-20 PE/kg
Tiêm tĩnh mạch, Tiêm mông Đơn vị đo lường là PE (phenytoin equivalent), được ghi chú trên chai thuốc. Thuốc này là chất tiền thân của phenytoin, như vậy an toàn khi tiêm truyền nhanh mà không gây các tác dụng huyết động nghịch. Một nồng độ điều trị của thuốc này đạt được nhanh hơn nhiều so với dilantin.
Fosphenytoin Phenobarbital
(Gardénal)
Flacons 40 mg và 200mg

lên đến 15mg/kg
Tiêm tĩnh mạch Không nên cho nhanh hơn 100mg/phút ; liều lượng có thể được nhắc lại một lần sau 30 phút nếu không có hiệu quả ; liều lượng tổng cộng tối đa là 600 mg ; coi chừng giảm áp hô hấp, đặc biệt là nếu bệnh nhân đă nhận diazepam
Pentobarbital
12mg/kg
Tiêm tĩnh mạch Chỉ sử dụng khi những loại thuốc khác thất bại
Lidocaine
1-1,5 mg/kg
Tiêm tĩnh mạch Đă được ghi nhận là làm ngưng t́nh trạng động kinh liên tục
Propofol
(Diprivan)
2mg/kg
Tiêm tĩnh mạch Có những báo cáo về sự sử dụng propofol trong trường hợp cơn động kinh liên tục đề kháng. Nên được sử dụng với nội thông khí quản và thông khí cơ học. Coi chừng hạ huyết áp và chuẩn bị để điều trị


7/ KỂ NHỮNG NGUYÊN NHÂN THÔNG THƯỜNG NHẤT CỦA CO GIẬT

Những nguyên nhân có thể đảo ngược tức thời mà các thầy thuốc cần cảnh giác gồm có hạ glucose-huyết và giảm oxy-mô (thứ phát ngộ độc nha phiến).

•Nhũ nhi

◦Chấn thương sinh đẻ (giảm oxy mô, chấn thương nội sọ)

◦Nhiễm trùng (áp xe năo, viêm màng năo)

◦Các bất thường điện giải (giảm natri-huyết, giảm canxi-huyết, giảm magnesi-huyết)

◦Các dị dạng bẩm sinh (các nang trong năo bộ, tràn dịch năo)

◦Các rối loạn di truyền (sai lầm chuyển hóa bẩm sinh, thiếu hụt pyridoxine)



•Trẻ em

◦Co giật do sốt cao

◦Co giật không rơ nguyên nhân

◦Chấn thương

◦Nhiễm trùng (viêm màng năo)



•Thiếu niên

◦Chấn thương

◦Co giật không rơ nguyên nhân

◦Ma túy hay rượu (ngộ độc hay cai cấp tính).

◦Dị dạng động-tĩnh mạch



•Thanh niên

◦Chấn thương

◦Rượu (ngộ độc hay cai cấp tính)

◦U năo



•Người trưởng thành lớn tuổi hơn

◦U năo

◦Đột quy

◦Xuất huyết trong năo.

◦Nghiện rượu

◦Các rối loạn chuyển hóa (hạ natri-huyết, tăng natri-huyết, giảm canxi-huyết, hạ đường huyết, uremia, suy gan)





8/ BỆNH SỬ CÓ QUAN TRỌNG KHÔNG ?

Bệnh sử vô cùng quan trọng ! Bạn có thể sử dụng COLD để chắc chắn rằng bạn đă hỏi các khía cạnh của hoạt động co giật :

•Character (tính chất) : Loại hoạt động co giật nào đă xảy ra ?

•Onset (Khởi đầu) : Co giật khởi đầu khi nào ? Trong khi bệnh nhân đang làm ǵ ?

•Location (vị trí) : Hoạt động co giật bắt đầu ở đâu ?

•Duration (thời gian) : co giật kéo dài bao lâu ?


Nói chung những co giật thật sự có khuynh hướng xảy ra đột ngột, có bài bảng (stereotyped) (những tính chất cơ bản của co giật được duy tŕ từ đợt này qua đợt khác), và không bị kích thích bởi những kích thích môi trường, được biểu hiện bởi những cử động không mục đích và không thích hợp, và, ngoại trừ nhưng co giật cỡ nhỏ, được tiếp theo sau bởi một thời kỳ lú lẩn và ngủ lịm (lethargy) (thời kỳ sau cơn vật). Những điểm quan trọng khác bao gồm tiền sử của bệnh nhân (đặc biệt là tiền sử co giật trước đây), sử dụng rượu và uống các độc chất khác, những thuốc đang sử dụng, và tiền sử các khối u hệ thần kinh trung ương, và tiền sử chấn thương mới đây hay đă lâu.

9/ NGOÀI KHÁM THẦN KINH, NHỮNG PHẦN KHÁC NÀO CỦA THĂM KHÁM VẬT LƯ LÀ QUAN TRỌNG VÀ TẠI SAO ?

Một thăm khám hoàn chỉnh từ đầu đến chân là quan trọng. Ngoài việc t́m kiếm các nguyên nhân của co giật, người thầy thuốc nên t́m kiếm chấn thương gây nên bởi co giật. Thăm khám thường b́nh thường nhưng đôi khi có thể cho các manh mối về vấn đề bên dưới. Đặc biệt, thăm khám da có thể phát hiện các thương tổn phù hợp với meningococcemia hay những vấn đề nhiễm trùng khác. Hăy khám đầu t́m các chấn thương. Nếu t́m thấy cứng cổ (nuchal rigidity), viêm màng năo hay xuất huyết dưới màng nhện nên được nghi ngờ. Một tiếng tim thổi, đặc biệt nếu bệnh án chỉ rơ không hề được nghe trước đó, có thể chỉ rơ viêm nội tâm mạc bán cấp do nhiễm khuẩn (subacute bacterial endocarditis), với embolization là nguyên nhân của co giật.

Thăm khám thần kinh là quan trọng. Những dấu hiệu thần kinh khu trú, như liệt nhẹ khu trú (focal paresis) sau co giật (bại liệt Todd) có thể chỉ rơ một thương tổn năo bộ khu trú (khối u, áp xe, đụng dập năo) như là nguyên nhân của co giật. Sự đánh giá các dây thần kinh đầu và đáy mắt có thể chỉ rơ tăng áp lực nội sọ.

10/ NHỮNG XÉT NGHIỆM PHỤ NÀO NÊN ĐƯỢC THỰC HIỆN NƠI MỘT BỆNH NHÂN CO GIẬT ?

Nói chung, việc sử dụng những xét nghiệm phụ tùy thuộc bệnh sử và lâm sàng của bệnh nhân. Nơi bệnh nhân với bệnh sử trước đây có rối loạn co giật, chỉ có một cơn co giật đơn độc, xảy ra tự nhiên, th́ xét nghiệm duy nhất hữu ích là nồng độ của thuốc chống co giật trong máu. Nếu nồng độ ở dưới mức điều trị, bệnh nhân nên được cho một liều tấn công thuốc này để đạt được nồng độ điều trị. Quyết định đánh giá bệnh nhân với những trắc nghiệm phụ khác (xét nghiệm và X quang) nên được căn cứ trên những dấu hiệu của bệnh sử và thăm khám vật lư. Nếu có nghi vấn không biết bệnh nhân đă có một cơn co giật vận động quan trọng hay không, nên xét nghiệm các chất điện giải và tính anion gap.

11/ Ư NGHĨA CỦA ANION GAP TRONG CHẤN ĐOÁN ĐỒNG KINH CƠN LỚN (GRAND MAL SEIZURE) ?

Một anion gap gia tăng tạm thời (thời gian 1 giờ) là bằng cớ tốt cho thấy rằng cơn động kinh cơn lớn (grand mal seizure) đă xảy ra. Điều này được xác nhận bằng cách lấy máu càng gần với lúc động kinh càng tốt. Lấy máu nơi xảy ra động kinh là lư tưởng cho khảo sát này. Nếu không có nhiễm toan anion gap, ta sẽ có thể giả định rằng bệnh nhân đă không có một cơn động kinh quan trọng.

12/ PHẢI LÀM G̀ NẾU TRƯỚC ĐÂY BỆNH NHÂN ĐĂ KHÔNG CÓ MỘT CƠN CO GIẬT ?

Nếu đây là một cơn co giật mới khởi ra (new-onset seizure), th́ những xét nghiệm phụ quan trọng hơn. Tuy nhiên hiệu năng thường rất thấp. Một xét nghiệm t́m những rối loạn chuyển hóa (sodium, calcium, glucose, magnesium, BUN tăng cao, hay creatinine) là quan trọng. Những xét nghiệm độc chất (toxicologic screen) nhắm vào các chất được biết là gây co giật (cocaine, lidocaine, thuốc chống trầm cảm, theophylline, và các chất kích thích là trong số những chất thông thường nhất) nên được thực hiện nếu có chỉ định trên phương diện lâm sàng.

13/ CÓ PHẢI TẤT CẢ BỆNH NHÂN VỚI CO GIẬT ĐỀU CẦN LÀM CT SCAN Ở PH̉NG CẤP CỨU ?

Đây là một lănh vực đang c̣n tiếp tục được nghiên cứu. Câu trả lời hay nhất có thể được cho vào lúc này là rằng sự sử dụng chọn lọc CT scan đầu là an toàn trong những t́nh huống thích đáng. Những bệnh nhân nên được chụp CT scan đầu ở pḥng cấp cứu gồm có những bệnh nhân được nghi có một biến cố cấp tính trong sọ (ví dụ máu tụ dưới màng cứng, xuất huyết dưới màng nhện), những bệnh nhân có một trạng thái tâm thần bị biến đổi kéo dài (t́nh trạng sau vật kéo dài) hay một thăm khám thần kinh bất b́nh thường, và những bệnh nhân không thể đảm bảo một đánh giá theo dơi nhanh chóng bởi thầy thuốc tuyến đầu hay thầy thuốc chuyên khoa thần kinh.

14/ XỬ TRÍ THÍCH ĐÁNG MỘT BỆNH NHÂN VỚI CO GIẬT TÁI PHÁT ?

Nếu như không có những dấu hiệu bất thường trong bệnh sử hay thăm khám vật lư, bệnh nhân có thể được cho xuất viện với theo dơi bởi thầy thuốc gia đ́nh hay thầy thuốc chuyên khoa thần kinh của bệnh nhân. Nếu nồng độ thuốc chống co giật b́nh thường hay bệnh sử gợi ư một sự thay đổi hoạt động(ví dụ tần số cơn gia tăng, loại động kinh khác), th́ bệnh nhân nên được đánh giá như là một bệnh nhân với cơn co giật mới. Điều này có thể bao gồm sự nhập viện nếu việc theo dơi không được đảm bảo hay nếu các dấu hiệu lúc thăm ḍ cho thấy cần phải nhập viện

15/ SỰ VIỆC BỆNH NHÂN CÓ CƠN CO GIẬT LẦN ĐẦU CÓ KHÁC NHAU TRONG ĐIỀU TRỊ VÀ XỬ LƯ HAY KHÔNG ?

Những bệnh nhân với cơn co giật lần đầu (first-time seizure) có khả năng được nhập viện hơn sau khi đă đánh giá ở pḥng cấp cứu. Nếu cơn co giật xảy ra ngắn ngủi, thăm khám vật lư và các xét nghiệm phụ tất cả đều b́nh thường, và sự theo dơi bởi thầy thuốc gia đ́nh hay thầy thuốc thần kinh có thể được xếp đặt trước khi bệnh nhân được cho ra khỏi pḥng cấp cứu, th́ sự nhập viện có thể không cần thiết.

Cũng tương tự như vậy, không phải tất cả các bệnh nhân bị co giật lần đầu đều cần phải bắt đầu cho thuốc chống động kinh. Những lời khuyên đặc biệt về việc sử dụng các thuốc chống động kinh nơi những bệnh nhân này là khó. Nếu có thể theo dơi sát bởi thầy thuốc gia đ́nh hay thầy thuốc thần kinh, và nếu bệnh nhân có thể tin cậy được, th́ việc cho xuất viện mà không bắt đầu cho thuốc chống co giật có thể là thích hợp.

Những chỉ thị xuất viện nên nhấn mạnh với bệnh nhân rằng không được lái xe, vận hành máy móc, hoặc đi đến những chỗ ở cao và mở (ví dụ các platform xây dựng).

16/ CO GIẬT GIẢ (PSEUDOSEIZURE) LÀ G̀, LÀM SAO CHẨN ĐOÁN ?

Những co giật giả (pseudoseizures) là những hoạt động giống co giật (seizure-like activity) nhưng không có hoạt động điện bất thường trong năo bộ. Các co giật giả khó chẩn đoán được ở pḥng cấp cứu. Những thủ thuật đă được chứng tỏ có tác dụng trong vài trường hợp bao gồm sự gợi ư với bệnh nhân rằng co giật chẳng bao lâu sẽ ngừng lại hay cố làm lăng trí bệnh nhân bằng những tiếng động lớn hay những áng sáng chói ḷa trong khi hoạt động “ co giật ” đang diễn biến. Những dạng vẻ của hoạt động bất thường làm cho nó có khả năng là một co giật giả gồm có cử động chi không đồng bộ (asynchronous extremity movement), một cử động đẩy vùng chậu ra phía trước (a forward thrusting movement of the pelvis), và mắt bị lệch về phía đất, dầu cho đầu được đặt ở vị trí nào. Chẩn đoán có thể được thực hiện bằng điện nếu bệnh nhân được móc vào một máy điện tâm đồ. Trong co giật giả, hoạt động điện bất thường không được nh́n thấy. Tương tự, việc đo prolactin huyết thanh 20 phút sau “co giật ” giúp gián biệt một co giật thật sự với một co giật giả. Trong những co giật thật sự, nồng độ prolactin tăng cao ít nhất hai lần, trong khi trong co giật giả, nồng độ prolactin vẫn trong giới hạn b́nh thường. Không có phương pháp nào trong hai phương pháp này có để sử dụng ở pḥng cấp cứu. Các co giật cơn lớn giả (pseudogrand mal seizures) thường không gây nên nhiễm toan chuyển hóa với anion gap, và sự xác định này có thể làm ở pḥng cấp cứu.

BS NGUYỄN VĂN THỊNH (21/3/2010)

References : Emergency Medicine Secrets

-------------
Xem thêm các bài Cấp Cứu liên quan: Mục Lục "Cấp Cứu và Hồi Sức Tích Cực (Emergency and Critical Care)
Edited by user Monday, August 20, 2012 1:57:24 PM(UTC) | Reason: Not specified


"Kẻ Ác lo không hăm hại được người,
Người Hiền sợ không cứu giúp được ai"




Back to top

florida80
04-17-2019, 18:43
CẤP CỨU NGOẠI THẦN KINH SỐ 2

PH̀NH MẠCH NĂO
(CEREBRAL ANEURYSMS)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH


1/ TỶ LỆ BỊ XUẤT HUYẾT DƯỚI NHỆN DO VỠ PH̀NH MẠCH TRONG SỌ (INTRACRANIAL ANEURYSMS) ?

Tỷ lệ được ước tính là 6-28 trên 100.000 dân.

2/ TỶ LỆ BỊ PH̀NH MẠCH TRONG SỌ KHÔNG CÓ TRIỆU CHỨNG ?

Những nghiên cứu giải phẫu tử thi đă cho thấy một tỷ lệ lưu hành khoảng 2% trong toàn bộ dân chúng. Nguy cơ xuất huyết do ph́nh mạch trong sọ trước đó không vỡ là khoảng 1% mỗi năm tuy nhiên những con số chính xác không được biết đến.

3/ CÁC LOẠI PH̀NH MẠCH TRONG SỌ CHÍNH ?

Ph́nh mạch h́nh túi (saccular aneurysms) : loại ph́nh mạch thông thường hơn hết và nguyên nhân của xuất huyết dưới nhện.

Ph́nh mạch h́nh nấm (mycotic aneurysms) : 1-5 % các ph́nh mạch năo là do tắc mạch do vi khuẩn (septic embolization) từ các thể sùi ở van tim (valvular vegetations) ở những bệnh nhân với viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn (bacterial endocarditis). Các ph́nh mạch h́nh nấm xuất hiện khoảng 4-5 tuần sau một biến cố nghẽn mạch cấp tính. Chúng thường được thấy ở phần xa của tuần hoàn động mạch năo giữa, mặc dầu 10% được nhận thấy ở phần gần hơn. Ph́nh mạch hinh nấm thường tan biến với điều trị kháng sinh đầy đủ nhưng đôi khi đ̣i hỏi can thiệp ngoại khoa hay nội huyết quản. Các liên cầu khuẩn là tác nhân gây bệnh thông thường nhất.

Ph́nh mạch do chấn thương : mặc dầu những ph́nh mạch do chấn thương là hiếm, nhưng những ph́nh mạch giả (false aneurysm) thường xảy ra hơn. Ph́nh mạch giả là do vỡ hoàn toàn của thành mạch máu với sự tạo thành cục máu đông. Các ph́nh mạch do chấn thương có thể được nhận thấy liên kết với găy xương sọ.

Ph́nh mạch h́nh thoi : gây nên do các mạch máu ngoằn nghèo bị giăn, có thể vỡ, lóc, hay tạo thành các huyết khối gây tắc mạch (embolize) ở xa. Bệnh lư của ph́nh mạch h́nh thoi có vẻ khác với bệnh lư của ph́nh mạch đó vữa xơ động mạch lẫn ph́nh mạch h́nh túi.

4/ NHỮNG YẾU TỐ NGUY CƠ NÀO LÀM PHÁT TRIỂN NHỮNG PH̀NH MẠCH H̀NH TÚI ?

Cả các yếu tố bẩm sinh và thụ đắc đều có can dự vào. Khoảng 6,7 của tất cả các ph́nh mạch năo xảy ra trong các gia đ́nh ; những ph́nh mạch có yếu tố gia đ́nh hiện diện sớm hơn những ph́nh mạch không có yếu tố gia đ́nh. Các ph́nh mạch cũng được liên kết với các dị dạng thông động-tĩnh mạch (arteriovenous malformations) (AVMs) ; chúng đă được ghi nhận nơi các động mạch nuôi dưỡng nơi khoảng 7% các bệnh nhân. Những yếu tố nguy cơ không thể biến đổi khác gồm có bệnh thân đa năng nhiễm sắc thể thường tính trội (autosomal dominant polycystic kidney disease) (2% các bệnh nhân), neurofibromatosis loại I, và những rối loạn mô liên kết như Ehlers-Danlos loại IV, fibromuscular dysplasia, và hội chứng Marfan. Khoảng 16% các bệnh nhân với bệnh thận đa nang phát triển những ph́nh động mạch trong sọ. Nguyên nhân bệnh lư chính xác của các ph́nh mạch h́nh túi đă không được giải thích một cách rơ ràng, nhưng chúng có khuynh hướng xảy ra ở những chĩa của các mạch máu năo quan trọng, nơi các áp suất chảy cao nhất

5/ NHỮNG YẾU TỐ NGUY CƠ CỦA VỠ PH̀NH ĐỘNG MẠCH TRONG SỌ ?

Vỡ thường xảy ra nhất giữa 40 và 60 tuổi với một tần số cao điểm giữa 55 và 60 tuổi. Bệnh sử gia đ́nh của xuất huyết dưới màng nhện (subarachnoid hemorrhage) là một yếu tố làm dễ ; 5-10% các bệnh nhân có một bệnh sử gia ́́nh dương tính. Trong hầu hết các công tŕnh nghiên cứu, phụ nữ có vẻ có nguy cơ cao hơn đàn ông, và có một tỷ lệ mắc bệnh hơi cao hơn trong thời kỳ thai nghén. Kích thước của ph́nh động mạch cũng quan trọng ; những ph́nh động mạch lớn hơn dễ bị vỡ hơn là những ph́nh động mạch nhỏ (2% cac ph́nh động mạch đường kính < 5mm so với > 40% các ph́nh động mạch có đường kính từ 6 đến 10 mm. Những ph́nh động mạch có đường kính trên 3 mm được nghĩ là có nguy cơ bị vỡ gia tăng.

6/ NGOÀI PH̀NH ĐỘNG MẠCH, NHỮNG NGUYÊN NHÂN KHÁC CỦA XUẤT HUYẾT DƯỚI NHỆN ?
•Lóc động mạch (arterial dissection) : Các lóc động mạch là những sự phá vỡ của thành động mạch trong đó máu chảy vào nội mạc, tạo nên ḷng giả (a false lumen). Khi lóc xảy ra ở các đồng mạch đốt sống, chúng có thể cho triệu chứng xuất huyết dưới màng nhện hay hay đột qụy do tắc mạch (embolic stroke) và thường được liên kết với liệt dây thần kinh sọ phía dưới và nhồi máu thân năo. Lóc động mạch thuộc tuần hoàn trước cũng có thể xảy ra, nhưng xuất huyết dưới nhện liên kết với lóc động mạch tuần hoàn trước nhất thiết là hiếm.

•Dị dạng thông động-tĩnh mạch : Đôi khi xuất huyết đười nhện được thấy mà không có xuất huyết trong năo như b́nh thường. Trong những trường hợp như thế, một ph́nh mạch h́nh túi xảy ra đồng thời phải được loại bỏ.

•Đột qụy năo thùy (pituitary apoplexy) : Bệnh nhân thường đau đầu đột ngột với sự suy sụp thị lực. Các bất thường cử động nhăn cầu và sự suy thoái mức đó tri giác cũng có thể được nhận thấy. MRI hay CT thường chỉ năo thùy là nguyên nhân của bệnh.

•Xuất huyết dưới nhện quanh trung năo (perimesencephalic SAH) cũng được gọi là xuất huyết dưới nhện chụp mạch máu âm tính (angionegative SAH) : Máu dưới nhện nằm tách riêng trước ph́nh hoàn trạng. Chẩn đoán được xác nhận bằng cách loại bỏ một ph́nh mạch với chụp mạch máu (angiography) hay CT angiography. Nguy cơ tái xuất huyết thấp, và tiên lượng tốt. Bệnh nhân không phát triển những di chứng nguy hiểm được thấy trong xuất huyết dưới nhện do vỡ ph́nh mạch (aneurysmal SAH).

•Chấn thương đầu : Xuất huyết dưới nhện thường xảy ra trong chấn thương đầu.


7/ NHỮNG TRIỆU CHỨNG VÀ DẤU HIỆU CỦA VỠ PH̀NH MẠCH NỘI SỌ ?

Những triệu chứng đặc hiệu nhất bao gồm một cơn đau đầu dữ dội (explosive headache), nôn, mửa, cứng cổ, và sợ ánh sáng, có thể liên kết với mất tri giác. Các dấu hiệu thần kinh khu trú đôi khi rơ rệt lúc thăm khám ; một trong những dấu hiệu thông thường nhất là bại liệt dây thần kinh sọ III, liên kết với các ph́nh mạch nối sau (posterior communicating artery aneurysm). Abducens palsies cũng được nhận thấy và được cho là có liên quan với tăng áp lực nội sọ và có thể với tụt kẹt thân năo (braistem herniation), do dầy thần kinh bị kéo. Tùy thuộc vào định vị, các dấu hiệu liệt thần kinh cũng có thể được nhận thấy, bao gồm các liệt vận động và cảm giác, mất thị giác, và mất các phản xạ thân năo.


CÁC TRIỆU CHỨNG VÀ DẤU HIỆU CỦA XUẤT HUYẾT DƯỚI NHỆN.


CÁC TRIỆU CHỨNG CỦA XUẤT HUYẾT DƯỚI NHỆN

CÁC DẤU HIỆU CỦA XUẤT HUYẾT DƯỚI NHỆN

•Đau đầu đột ngột, nghiêm trọng.

•Nôn và mửa

•Dizziness

•Vertigo

•Mệt

•Song thị (diplopia)

•Sợ ánh sáng.

•Cứng cổ

•Dấu hiệu Brudzinski, Kernig.

•Sốt

•Cao huyết áp

•Thị giác mờ

•Liệt vận động nhăn cầu

•Liệt nhẹ nửa người

•Lú lẩn và/hoặc kích động

•Hôn mê



Những dấu hiệu toàn thân kiên kết với xuất huyết dưới nhện gồm có loạn nhịp tim và thiếu máu cục bộ. Những dấu hiệu tim mạch này được mô tả rơ trong tài liệu y học và nói chung được quy cho sự phóng thích của norepinephrine. Các loạn nhịp tim thường được thấy nhất trong 48 giờ đầu. Cao huyết áp toàn thân và nhịp tim chậm có thể được thấy như là những biểu hiện của tăng áp lực trong sọ. Viêm phổi do hít dịch (aspiration pneumonia) và phù phổi là những biểu hiện phổi thông thường nhất. Phù phổi được cho là do suy tâm thất trái, đưa đến gia tăng áp lực thủy tĩnh mao mạch phổi. Phù phổi do nguyên nhân thần kinh (neurogenic pulmonary edema) có thể phát triển nhanh sau xuất huyết dưới nhện và cũng được cho là do sự phóng thích norepinephrine, dẫn đến gia tăng tính thẩm thấu mao mạch.

8/ XUẤT HUYẾT LÍNH CANH (SENTINEL BLEED) LÀ G̀ ?

Một xuất huyết lính canh (sentinael bleed) là một xuất huyết khởi đầu nhẹ hay rỉ từ một ph́nh mạch năo. Xuất huyết lính canh được cho là xuất huyết nhẹ bởi v́ mặc dầu nó gây nên một cơn đau đầu dữ dội, nhưng có thể không được nhận biết hay được chẩn đoán lắm (thí dụ như là đau đầu thống). Điều quan trọng là phải nhận biết các xuất huyết lính canh bởi v́ chúng thường là những dấu hiệu cảnh cáo về những biến cố tai họa tiếp theo sau đó. Sự nhận biết và điều trị thích đáng có thể ảnh hưởng lên tỷ lệ tử vong. Tỷ lệ tử vong do các ph́nh mạch không bị vỡ được nhận diện bởi các xuất huyết lính canh được báo cáo thấp hơn tỷ lệ tử vong do xuất huyết ph́nh mạch không được báo trước bởi dấu hiệu ṛ huyết cảnh cáo (28,9% so với 43,2%).

9/ XUẤT HUYẾT DƯỚI NHỆN ĐƯỢC CHẨN ĐOÁN NHƯ THẾ NÀO ?

Chụp cắt lớp vi tính năo, nếu được thực hiện trong ṿng 24 giờ sau khi vỡ, có một mức độ nhày cảm 90%. Chụp cắt lớp vi tính có thể cho những thông tin quư giá về lượng và vị trí của các khối máu tụ hay xuất huyết dưới nhện, sự hiện diện của máu trong năo thất, và kích thước của các năo thất. Nếu chụp cắt lớp vi tính âm tính đi với sự hiện diện của xuất huyết dưới nhện, th́ chọc ḍ dịch năo tủy được chỉ định. Có thể khó phân biệt giữa xuất huyết dưới nhện với chọc ḍ gây chấn thương (traumatic tap), và sự hiện diện của nhiễm sắc vàng (xanthochromia) lúc chọc ḍ dịch năo tủy là biện pháp phân biệt nhạy cảm nhất. Nhiễm sắc vàng có thể được phát hiện vào khoảng 4 giờ sau một xuất huyết dưới nhện và vẫn tồn tại đến 4 tuần sau đó.

10/ NHỮNG YẾU TỐ NÀO ĐƯỢC LIÊN KẾT VỚI TIÊN LƯỢNG XẤU SAU KHI VỠ MỘT PH̀NH MẠCH NỘI SỌ ?

Lượng máu, tuổi tác cao, ph́nh mạch ở tuần hoàn sau, và phát triển sớm tràn dịch năo (hydrocephalus). Mức độ kích thích màng năo, mức độ tri giác, và sự hiện diện của những thiếu sót vận động khu trú có thể được sử dụng để nhận diện những bệnh nhân có nguy cơ gia tăng chết trước, trong và sau giải phẫu. Với những tiêu chuẩn này, các bệnh nhân được phân loại thành 5 mức độ.


BỆNH CẢNH LÂM SÀNG CỔ ĐIỂN VÀ TIÊN LƯỢNG ĐỐI VỚI VỠ PH̀NH MẠCH NĂO


MỨC ĐỘ

TIÊU CHUẨN

TỶ LỆ TỬ VONG CHU MỔ ( % )


I
Không triệu chứng hoặc nhức đầu nhẹ và cứng gáy nhẹ
0-5


II
Nhức đầu vừa đến nặng, không cứng gáy hoặc chỉ liệt một dăy thần kinh sọ.
2-10


III
Ngủ gà, lú lẫn, hay thiếu sót khu trú nhẹ .
10-15


IV
Sững sờ, liệt nhẹ nửa người từ trung b́nh đến nặng, có thể co cứng mất năo (decerebrate rigidity) sớm và rối loạn thần kinh thực vật.
60-70


V
Hôn mê sâu, co cứng mất năo, dạng vẻ hấp hối .
70-100




11/ NHỮNG BIẾN CHỨNG QUAN TRỌNG CỦA PH̀NH MẠCH TRONG SỌ BỊ VỠ ?

Thiếu máu cục bộ toàn bộ năo (global cerebral ischemia), tái xuất huyết (rebleeding), co thắt mạch (vasospasm), và hạ natri-huyết.

12/ ĐIỀU G̀ GÂY NÊN THIẾU MÁU CỤC BỘ NĂO TOÀN BỘ ?

Sự thông máu năo (cerebral perfusion) không thích đáng khi áp lực nội sọ vượt quá áp lực động mạch. Điều này thường xảy ra vào lúc bị xuất huyết dưới nhện và dẫn đến tỷ lệ tử vong cao vào lúc bệnh nhân đến pḥng cấp cứu. Điều này cũng là lư do tại sao nhiều bệnh nhân bị xuất huyết mức độ nặng không có thể cứu được mặc dầu khi đến bệnh viện c̣n sống.

13/ TỶ SUẤT BỆNH NHÂN BỊ TÁI XUẤT HUYẾT ? TIÊN LƯỢNG NHƯ THẾ NÀO ?

Đến 15% bệnh nhân tái xuất huyết vào ngày đầu tiên, và 35-40% tái xuất huyết trong 4 tuần đến nếu ph́nh động mạch vẫn không được phẫu thuật. Tái xuất huyết được liên kết với một tỷ lệ tử vong 50%.

14/ NHỮNG BIỆN PHÁP XÂM NHẬP VÀ KHÔNG XÂM NHẬP NÀO CÓ THỂ ĐƯỢC SỬ DỤNG ĐỂ NGĂN NGỪA TÁI XUẤT HUYẾT ?

Một công tŕnh nghiên cứu lâm sàng đă chứng tỏ không có sự khác nhau về mặt tiên lượng toàn thể giữa can thiệp ngoại khoa sớm và muộn, với trường hợp ngoại lệ quan trọng là những bệnh nhân tỉnh táo lúc nhập viện nói chung diễn biến tốt hơn với can thiệp sớm. Trong hầu hết các trung tâm lớn can thiệp sớm giờ đây được ưa thích hơn. Không có những công tŕnh nào đă đánh giá điều trị nội mạch sớm voi kỹ thuật làm tắc túi ph́nh bằng thả cuộn kim loại (coiling). Những vấn đề xử trí ở pḥng hồi sức gồm có giữ bệnh nhân yên tỉnh và không đau, tránh cao huyết áp nặng trước khi thắt ph́nh mạch, và đảm bảo thông máu năo thích đáng.

15/ TRÀN DỊCH NĂO ĐƯỢC XỬ TRÍ NHƯ THẾ NÀO ?

Dẫn lưu năo thất cấp cứu. Trong 24 giờ đầu, bệnh nhân nên được monitoring sát để phát hiện sự suy giảm ư thức (obtundation) xảy ra từ từ, đáp ứng chậm của các đồng tử đối với ánh sáng, và các nhăn cầu bị lệch xuống dưới. Một dẫn lưu cấp cứu (EMD) nên được thiết đặt khẩn cấp ở những bệnh nhân có xuất huyết độ 3 hoặc hơn.

16/ KHI NÀO CO THẮT MẠCH NĂO (CEREBRAL VASOSPASM) PHÁT TRIỂN ?

Co thắt mạch năo có thể xảy ra ở 60-75% các bệnh nhân sau xuất huyết dưới nhện. Co thắt mạch xảy ra giữa ngày thứ 4 và 21 với tỷ lệ cao điểm giữa ngày thứ 5 và 9. Co thắt mạch hiếm khi bắt đầu sau ngày 12. Co thắt mạch có thể làm hủy hoại thêm thần kinh gây nên bởi các đột qụy do thiếu máu cục bộ (ischemic strokes).

17/ CO THẮT MẠCH ĐƯỢC CHẨN ĐOÁN NHƯ THẾ NÀO ?

Co thắt mạch có thể được chẩn đoán trên lâm sàng do sự xuất hiện các bại liệt thần kinh không thể giải thích được bằng những nguyên nhân khác như tràn dịch năo, tái xuất huyết, hay những rối loạn chuyển hóa. Doppler xuyên sọ (transcranial Doppler) là một công cụ không xâm nhập hữu ích để chẩn đoán co thắt mạch. Co thắt được chỉ rơ bởi tốc độ lượng máu gia tăng trên doppler qua sọ. Với chụp mạch (angiography), co thắt mạch có thể được chứng tỏ bởi sự hẹp lại của cac động mạch lớn đi qua khoang dưới nhện. Khoảng 30% co thắt mạch thấy rơ trên phim chụp mạch có biểu hiện đáng kể trên phương diện lâm sàng.

18/ MÔ TẢ ĐIỀU TRỊ CO THẮT MẠCH NĂO (CEREBRAL VASOSPASM).

Điều trị gồm có ngăn ngừa hay làm hủy bỏ co thắt động mạch và làm giảm thiểu thiếu máu cục bộ do co thắt. Các chiến lược gồm có :
1.Calcium channel blockers (CCBs). Bởi v́ có tác dụng làm giăn cơ trơn, các CCBs đă được nghiên cứu như là một phương tiện ngăn ngừa co thắt mạch trong nhiều công tŕnh nghiên cứu lâm sàng. Nimodipine uống đă được chứng tỏ làm giảm tiên lượng xấu sau xuất huyết dưới nhện nhưng không ngăn ngừa thiếu máu cục bộ thứ phát. Phát hiện này hàm ư một tác dụng khác của thuốc : tiềm năng có tác dụng bảo vệ. Những CCBs khác đă chứng tỏ làm giảm thiếu máu cục bộ thứ phát, nhưng không thay đổi tiên lượng. Nimodipine (Nimotop) đă trở thành điều trị chuẩn ở nhiều trung tâm bởi v́ thuốc có tác dụng lên tiên lượng bệnh nhân.

2.Liệu pháp huyết động (hemodynamic therapy). Liệu pháp được gọi là 3 H (triple-H therapy) (tăng thể tích máu, loăng máu, và cao huyết áp) đă là cột trụ của điều trị co thắt mạch. Liệu pháp tăng thể tích máu (hypervolemic therapy) thường được sử dụng trong cố gắng làm gia tăng lưu lượng máu năo, nhưng những công tŕnh nghiên cứu mới đây đă t́m thấy ít bằng cớ để ủng hộ phương cách điều trị này. Cao huyết áp động mạch được cho là có tác dụng bằng cách làm tối đa hóa áp suất thông máu năo (cerebral perfusion pressure), do đó làm gia tăng lưu lượng máu đến năo.

3.Percutaneous transluminal angioplasty và liệu pháp papavérine.


Những chiến lược này được sử dụng nhằm mở các mạch máu bị hẹp lại. Mặc dầu tính hiệu quả của chúng đă không được chứng minh trong các thử nghiệm có kiểm tra, nhưng vài công tŕnh quan sát lớn đă cho thấy sự cải thiện lâm sàng rơ rệt cũng như sự giăn của những huyết quả năo sau khi chụp mạch máu. Tuy nhiên, baloon angioplasty chủ yếu có lợi trong việc làm giăn những vùng co thắt mạch máu gần hơn. Papaverine là một chất giăn mạch mạnh, cũng đă chứng tỏ lợi ích. Hạn chế chính của nó là hiệu quả của papavérine chỉ tạm thời ; điều trị có thể được lập lại mỗi 24 giờ.

19/ ĐIỀU G̀ GÂY NÊN HẠ NATRI-HUYẾT ? ĐIỀU TRỊ NHƯ THẾ NÀO ?

Trong quá khứ, hạ natri-huyết (hyponatremia) đă được gán cho SIADH ; tuy nhiên gần đây, giảm natri-huyết đă được liên kết với natri-niệu (natriuresis) và giảm thể tích máu (hypovolemia), được biết như là CSW (cerebral salt wasting). Nguyên nhân chính xác của CSW đă không được xác định, mặc dầu vài yếu tố natri-niệu (natriuretic factor) đă được nghiên cứu. Điều trị nhằm duy tŕ thể tích thích đáng và cho bổ sung sodium bằng đường miệng hay tĩnh mạch. Giảm natri-huyết thường nhẹ đến trung b́nh ; chỉ trong trường hợp hiếm hoi nồng độ sodium trụt xuống dưới 120 mmol/L.

20/ CSW ĐƯỢC PHÂN BIỆT VỚI SIADH NHƯ THỂ NÀO ?

Cả hai t́nh trạng đều có giảm natri-huyết, giảm osmolarity huyết thanh, và osmolarity nước tiểu tăng cao một cách không thích đáng. Các tính chất phân biệt là CSW là một t́nh trạng giảm thể tích máu động mạch hiệu quả (effective arterial blood volume), trong khi SIADH là một t́nh trạng thể tích máu động mạch hiệu quả b́nh thường. CSW được điều trị bằng bù thể tích và sodium c̣n SIADH bằng hạn chế dịch (fluid restriction).

21/ MÔ TẢ PHẪU THUẬT SỬA CHỮA CÁC PH̀NH ĐỘNG MẠCH.

Phương pháp ngoại khoa được sử dụng để sửa chữa các phinh mach nao :
1.Kẹp cổ túi ph́nh mạch (clipping) : Hiệu quả nhất trong tất cả các kỹ thuật ngoại khoa, clipping gồm có phẫu tích cổ của túi ph́nh mạch và đặt một clip ở gốc của cổ từ mạch máu nuôi dưỡng.

2.Trapping : Kỹ thuật này nhằm làm tắc vĩnh viễn mạch máu ở gần và xa ph́nh mạch và dựa trên sự hiện diện của luồng máu thích đáng của tuần hoàn bàng hệ đến vùng bị ảnh hưởng.

3.Proximal ligation : Kỹ thuật này nhằm buộc động mạch nuôi dưỡng để làm giảm luồng máu qua ph́nh mạch. Sự làm giảm lưu lượng máu và áp suất xuyên thành (transmural pressure) dẫn đến huyết khối và/hoặc bịt túi ph́nh mạch lại. Cũng như đối với trapping, kỹ thuật này được hạn chế vào những trường hợp đặc biệt, trong đó lưu lượng máu bàng hệ đủ để ngăn ngừa thương tổn do thiếu máu cục bộ.

4.Wrapping : Tăng cường thành ph́nh mạch với vật liệu tổng hợp (thí dụ Gelfoam) ngăn cản không cho túi lớn thêm.


22/ NHỮNG ĐIỀU TRỊ KHÔNG PHẪU THUẬT LÀ G̀ ?

Tại những trung tâm chọn lọc, một phương pháp thay thế cho phẫu thuật kẹp cổ túi ph́nh mạch (surgical clipping) là điều trị nội mạch làm tắc túi ph́nh bằng thả cuộn kim loại (endovascular coiling), được thực hiện bởi thầy thuốc quang tuyến can thiệp (interventional radiologist). Với sự sử dụng các cuộn kim loại được đặt trong ḷng ph́nh mạch, tần số huyết khối trong ḷng mạch lên đến 85% đă được báo cáo. Không có những công tŕnh nghiên cứu nào đă so sánh những kỹ thuật phẫu thuật và nội mạch (sugical ang endovascular techniques), nhưng nhiều công tŕnh quan sát đă chỉ rơ rằng điều trị nội mạch làm tắc túi ph́nh bằng thả cuộn kim loại (endovasculate coiling) có thể tương đương với những kỹ thuật ngoại khoa.

BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(11/8/2011)

Reference : Critical Care Secrets
==================== ===========
Xem thêm các bài Cấp Cứu liên quan: Mục Lục "Cấp Cứu và Hồi Sức Tích Cực (Emergency and Critical Care)

florida80
04-18-2019, 19:03
Chất Xơ - BS Nguyễn Ư Đức










Hỏi


Tôi cứ nghe nói rằng chất xơ rất tốt cho sức khỏe và có thể làm giảm chất béo trong máu. Tôi bị cao mỡ đă hơn năm nay và đang uống thuốc để hạ mà vẫn c̣n cao. Vậy tôi có nên ăn thêm chất xơ không và ăn những thức ăn nào để có chất xơ. Năm nay tôi đă hơn 60 tuổi rồi và đọc tuần báo Trẻ mỗi tuần.


- Nguyễn Thị Mai (Sachse)


Đáp


Thưa bà,


Chất xơ là một hỗn hợp chất tinh bột nằm trong màng tế bào của các loại thực vật.


Có 2 loại chất xơ:




- Loại không ḥa tan trong nước, có trong các loại hạt nguyên trạng, vỏ các loại hạt, rau, trái cây. Các chất này hút rất nhiều nước.


- Loại ḥa tan trong nước, có trong rau trái, gạo đỏ, yến mạch oats, lúa mạch (barley).


Nói chung, chất xơ có nhiều trong:


- Lá xanh của các loại rau. Cuống lá có nhiều xơ hơn rễ và củ;


- Thực vật tươi, không chế biến


- Vỏ các loại hột và vỏ rau trái cây;


- Hạt nẩy mầm (giá đậu).


Các chất này đều không được tiêu hóa và có rất ít giá trị dinh dưỡng. Tuy nhiên khi ăn vào th́ chất xơ có một số tác dụng tốt được nhiều người tin theo và khoa học thực nghiệm cũng phần nào đồng ư. Chúng tôi xin tóm lược như sau để bà cũng như độc giả tuần báo Trẻ đọc, cho vui.






1. Chất xơ với táo bón:


V́ không ḥa tan trong nước và khi được ăn với nhiều nước, chất xơ có thể là môn thuốc an toàn và hữu hiệu để pḥng tránh bệnh táo bón. Nó làm mềm và tăng lượng phân để bộ tiêu hóa dễ dàng thải ra khỏi cơ thể. Ngoài ra, khi vào đến ruột già, nó được vi sinh vật tranh nhau ăn, tạo ra nhiều hóa chất có hơi (gas). Các hơi này kích thích ruột già làm người ta mót “đi cầu”. Một nhận xét cụ thể là trâu ḅ ăn cỏ, rơm rất nhiều chất xơ nên phẩn rất to và mềm.






2. Chất xơ với bệnh viêm túi ruột già:


Trên vách ruột già thường nổi lên những túi nhỏ tư tẹo, mà theo bác sĩ Lauren V. Ackerman của đại học Nữu Ước th́ hầu như người lớn nào cũng có. Mỗi khi thức ăn bị ngưng đọng trong những túi đó th́ gây ra t́nh trạng viêm túi ruột già (diverticulosis).


V́ không ḥa tan trong nước, chất xơ có thể ngăn ngừa sự thành h́nh các túi nhỏ đó bằng cách giảm thiểu sự táo bón và giảm sự căng phồng của ruột già trong việc tống khứ chất phế thải.


Tại Western General Hospital bên Ái Nhĩ Lan, người ta có thể ngăn ngừa sự tái phát ở bệnh nhân mới giải phẫu bệnh viêm túi ruột bằng cách cho ăn nhiều chất xơ.






3. Chất xơ với ung thư ruột già:


Ung thư ruột già hiện giờ đứng hạng thứ nh́ trong các loại ung thư ở Mỹ và gây tử vong cho nhiều chục ngàn người mỗi năm. Dinh dưỡng đă được nhắc nhở đến như một cách để pḥng ngừa bệnh này.






Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ và nhiều tổ chức y tế công tư khác chủ trương và khuyến khích bằng cách giảm tiêu thụ chất béo và tăng thực phẩm có chất xơ. Các khuyến cáo này được kết quả của nhiều nghiên cứu khoa học hỗ trợ.


Có hàng chục cuộc khảo sát đă chứng minh chất xơ có khả năng pḥng ngừa bệnh ung thư ruột già. Một cuộc nghiên cứu ở bệnh viện Nữu Ước năm 1989 cho thấy là chất xơ ngăn chận sự xuất hiện của các mụn thịt thừa (polyp) ở ruột già và hậu môn. Những mụn này có khuynh hướng phát triển thành bướu ung thư.


Viện Ung thư Quốc Gia Hoa Kỳ, Hội Ung Thư Hoa Kỳ khuyên nên dùng từ 25- 30 gr chất xơ mỗi ngày.






4. Chất xơ với bệnh tim mạch:


Bác sĩ James Anderson của Đại Học Y khoa Kentucky, Hoa Kỳ đă dành nhiều chục năm nghiên cứu công dụng chất xơ với bệnh tim mạch và tiểu đường. Theo ông ta, chất xơ nhất là từ lúa mạch, giảm cholesterol bằng cách làm gan bớt chế tạo mỡ béo LDL và tăng HDL.


Một nghiên cứu khác cho người t́nh nguyện ăn nhiều bơ th́ cholesterol lên rất cao, nhưng khi thêm chất xơ vào khẩu phần th́ cholesterol giảm xuống tới 20%. Cholesterol cao trong máu đă được coi như nguyên nhân gây một số bệnh tim mạch và là đề tài của nhiều nghiên cứu khoa học cũng như câu chuyện để nói khi mọi người gặp gỡ.






5. Chất xơ với bệnh tiểu đường:


Tiểu đường là một nhóm bệnh trong đó đường glucose ở máu lên cao. Bệnh này do hoặc thiếu Insulin hoặc giảm tác dụng của Insulin trong cơ thể. Bệnh rất phổ biến và đưa đến nhiều điều không tốt cho sức khỏe, khả năng làm việc, phẩm chất đời sống con người. Nó cũng ảnh hưởng tới nền kinh tế quốc gia v́ số bệnh ngày càng gia tăng, người bệnh hoạn nhiều, rất tốn kém cho sự chăm sóc lâu dài.


Theo kết quả các nghiên cứu của các bác sĩ James W. Anderson, thực phẩm có chất xơ có nhiều khả năng b́nh thường hóa đường trong máu, giảm đường sau bữa ăn, tăng công hiệu của Insulin. Theo ông ta, loại chất xơ ḥa tan trong nước rất công hiệu v́ nó tạo ra một lớp keo (gel) lỏng ngăn không cho đường hấp thụ vào ruột và có thể làm giảm đường trong máu tới 30%.


Người mắc bệnh tiểu đường cũng hay bị chứng vữa xơ động mạch v́ triglyceride lên cao. Bác sĩ Anderson cho hay chất xơ có thể làm giảm loại mỡ này và mỡ xấu LDL và làm tăng mỡ lành HDL.






6. Chất xơ với bệnh mập ph́:


Người bị ph́ mập thường v́ ăn nhiều, nhất là chất mỡ, mà lại không sử dụng, nên năng lượng dư thừa tích tụ trong cơ thể. Tiết chế ăn uống là điều cần thiết để giảm kư.


Phần nhiều thực phẩm giàu chất xơ đều nghèo chất béo, không có chất dinh dưỡng cho nên là món ăn lư tưởng cho những người muốn xuống cân.


Ngoài ra, thực phẩm giàu chất xơ cần thời gian lâu hơn để ăn nhai, không được tiêu hóa và hấp thụ ở bao tử, thường làm người ta no mau và no lâu, do đó giảm nhu cầu ăn nhiều, một điều kiện để khỏi mập ph́.


Chất xơ thiên nhiên có công hiệu hơn viên chất xơ.






7. Chất xơ với bệnh ung thư vú:


Một nghiên cứu mới đây của Hội Sức Khỏe Mỹ Quốc (American Health Foundation) ở thành phố Nữu Ước cho thấy là cám lúa ḿ (wheat bran) rất giàu chất xơ không ḥa tan trong nước, có khả năng giảm thiểu lượng estrogen trong máu. Từ đó người ta suy đoán rằng chất xơ trong cám lúa ḿ có thể giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh ung thư vú. Các khảo sát về vấn đề này đang c̣n tiếp diễn.


Coi như vậy th́ bà thấy chất xơ rất tốt cho cơ thể.


Riêng trường hợp của bà th́ chúng tôi đề nghị là bà vẫn phải tiếp tục dùng thuốc hạ chất béo do bác sĩ cho toa, đồng thời cũng giảm tiêu thụ chất béo từ động vật và năng vận động cơ thể. Làm được như vậy th́ cholesterol sẽ giảm và bà có thể tránh được một số bệnh. Bà nên dùng các loại thực phẩm có nhiều chất xơ mà tôi đă nêu ra ở đầu bài viết.


Kính chúc bà và gia đ́nh được mọi sự b́nh an.





BS Nguyễn Ư Đức

www.bsnguyenyduc.com


http://www.youtube.com/user/Drnguyenyduc/video



at 5:31 PM

florida80
04-18-2019, 19:07
Thiếu Vitamin D Dễ Tử Vong






Vitamin D có trong nhiều loại thực phẩm. Ảnh internet




Các nhà khoa học Trường ĐH California, San Diego (Mỹ) vừa cảnh báo trên Tạp chí American Journal of Public Health (Mỹ) rằng, những người có nồng độ vitamin D thấp tăng gấp đôi nguy cơ tử vong sớm so với những người có mức vitamin D cao trong máu.



Phát hiện này dựa trên cơ sở một cuộc phân tích có hệ thống của các nhà khoa học từ 32 nghiên cứu trước đây về mối liên quan giữa mức vitamin D trong máu và tỉ lệ tử vong ở con người.

Theo đó, các nhà khoa học Trường ĐH California, San Diego đă tiến hành kiểm tra và định lượng chất chuyển hóa 25-hydroxyvitamin D - một thể vitamin D trong máu và là thông số đáng tin cậy nhất để đánh giá mức vitamin D ở những người trong nghiên cứu.


Cedric Garland - giáo sư Khoa Gia đ́nh và Y tế Dự pḥng Trường ĐH California - người chủ tŕ nghiên cứu, phát biểu: “Ba năm trước, Viện Y khoa Mỹ (IOM) kết luận rằng những người có mức vitamin D thấp rất nguy hiểm cho sức khỏe”. Nghiên cứu mới này củng cố thêm kết luận trên, đồng thời cung cấp thêm những bằng chứng mới.


Theo báo cáo của IOM, những người có mức vitamin D 20 nanogram/1 ml máu, được cho là mức vitamin D thấp, có liên quan đến nguy cơ phát triển các bệnh về xương. Trong khi theo phát hiện của Giáo sư Garland: những người có mức vitamin D thấp c̣n liên quan đến nguy cơ tử vong sớm do tất cả vấn đề sức khỏe, chứ không chỉ mắc các bệnh về xương.




Các nhà nghiên cứu cho biết, một nửa các trường hợp tử vong sớm trong nghiên cứu có liên quan đến mức thấp vitamin D trong máu (khoảng 30 nanogram/1 ml máu). Và theo ước tính của IOM, hiện có khoảng 2/3 dân số Mỹ có mức vitamin D dưới 30 nanogram/1 ml máu.


Giáo sư Garland khuyến cáo, để tăng cường sức khỏe và giảm thiểu nguy cơ tử vong sớm, mỗi người cần cung cấp vào cơ thể khoảng 4.000 IU (đơn vị quốc tế) vitamin D mỗi ngày. Tuy nhiên, để bảo đảm an toàn, bạn nên thường xuyên kiểm tra mức chất 25-hydroxyvitamin D trong máu định kỳ hàng năm, nhằm xác định cụ thể liều lượng vitamin D cần bổ sung vào cơ thể.


Để bổ sung vitamin D cho cơ thể, ngoải việc tắm nắng và uống nguồn thuốc viên bổ sung, bạn cũng có thể thường xuyên tiêu thụ các loại thực phẩm giàu vitamin D như gan động vật, sữa, ḷng đỏ trứng, cá hồi, cá trích, dầu gan cá, cá ṃi đóng hộp, nấm… trong chế độ ăn hàng ngày.




Theo Nguyễn Niệm (PNO)

florida80
04-18-2019, 19:09
Ph́nh Bụng… Thở Vào! - Bs Đỗ Hồng Ngọc







Lạ, phải nói phồng ngực… thở vào hay căng ngực thở vào mới đúng chứ, v́ phổi ở trong ngực kia mà, sao lại nói “ph́nh bụng… thở vào”? Nhưng không! Phổi ở trong ngực nhưng thở vào thở ra được chủ yếu là nhờ cơ hoành, một cơ vắt ngang giữa bụng và ngực, có nhiệm vụ thụt lên thụt xuống để “bơm hơi” vào phổi như cái piston trong ống xi-lanh (seringue) vậy. V́ thế, thở bụng mới là cách thở sinh lư, tự nhiên nhất, v́ cơ hoành chịu trách nhiệm đến 80% khối lượng khí vào ra ở phổi trong khi các cơ hô hấp khác chỉ chiếm 20% thôi. Cứ quan sát một bé đang ngủ th́ biết: Nó thở đều đều, nhẹ nhàng, và… thở bằng bụng! Chỉ có cái bụng nó là ph́nh lên xẹp xuống thôi chớ cái ngực vẫn im re. Thở bụng là cách thở tự nhiên không chỉ của người mà của…mọi loài. Thử quan sát con thằn lằn, con tắc kè, con ễnh ương… th́ biết. Nó chỉ toàn thở bằng bụng. Chỉ có cái bụng nó là ph́nh lên xẹp xuống đều đều thôi. Chỉ cần cơ hoành nhích lên nhích xuống chút xíu là đă đủ cung cấp khí cho cơ thể rồi. Khi mệt, cần nhiều oxy hơn th́ cơ hoành sẽ “thụt” mạnh hơn, nhanh hơn thế thôi. Nhớ rằng thở là chuyện b́nh thường nhưng tối quan trọng. Nhịn ăn vài tuần chưa chết, nhịn uống vài ba ngày chưa chết, nhưng không thở 5 phút th́ đă chết v́ thiếu dưỡng khí. Ai cũng phải thở, lúc nào cũng phải thở và ở đâu cũng phải thở. Người già càng cần biết cách thở… nếu muốn sống lâu và ít bệnh tật, ít ốm đau vặt.


Gần đây phương pháp thở bụng, thở cơ hoành (abdominal breathing, diaphragmatic breathing) được các bác sĩ Dean Ornish, Deepak Chopra ở Mỹ quảng bá và áp dụng trong điều trị các bệnh tim mạch, các bệnh do hành vi lối sống gây ra có hiệu quả tốt. Hơn hai ngàn năm trăm năm trước, ở phương Đông, đức Phật cũng đă hướng dẫn cách thở này gọi là Anapanasati (An ban thủ ư) cũng gọi là “quán niệm hơi thở” chẳng những mang lại sức khỏe dẻo dai mà c̣n giúp thân tâm an lạc.






Đặt tay lên bụng. Khi hít vào thấy bụng… ph́nh lên là đúng





Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện sinh năm 1913 tại Hà Tĩnh, học Đại học Y khoa Hà Nội rồi sang Pháp tiếp tục học, tốt nghiệp bác sĩ Nhi khoa năm 1941. Năm 1942, ông bị lao phồi nặng, điều trị ở bệnh viện Saint Hilaire du Trouvet, Grenoble. Thời đó bệnh lao chưa có thuốc chữa như bây giờ. Từ năm 1943 đến năm 1948 ông phải chịu mổ 7 lần, cắt bỏ 8 cái xương sườn, cắt bỏ toàn bộ lá phổi bên phải và một phần ba lá phổi bên trái. Các bác sĩ Pháp bảo ông chỉ có thể sống chừng hai năm nữa thôi. Trong thời gian nằm chờ chết, ông đă t́m ra một phương pháp… thở bụng để tự chữa bệnh cho ḿnh sau khi tham khảo đông tây kim cổ, và kết quả là ông đă sống đến tuổi 85 mới chết (1997), nghĩa là sống thêm được 50 năm nữa, họat động tích cực, năng nổ trong nhiều lănh vực! Chuyện khó tin nhưng có thật!




Tôi may mắn quen biết ông trong nhiều năm. Với tôi, ông vừa là đồng nghiệp, là đàn anh mà cũng là người thầy. Ông thường trao đổi với tôi điều này điều khác, về công việc viết lách, giảng dạy, và về phương pháp thở “dưỡng sinh” của ông. Trao đổi không chỉ về cơ thể học, sinh lư học mà cả về tâm lư học, đạo học. Tôi phục ông ốm nhom mà làm việc thật dẻo dai, bền bĩ, gần như không biết mệt mỏi. Trong lúc nhiều người giảng bài, nói chuyện, hội họp, làm việc… thấy uể oải, hụt hơi, th́ một người chỉ c̣n hai phần ba lá phổi, chỉ c̣n gần một nửa “dung tích sống” như ông lại vẫn ung dung, thư thái. Ông nói với tôi sau này khi ông mất đi, điều quan trọng ông để lại không phải là những tác phẩm văn học, triết học này nọ mà chính là bài vè dạy thở chỉ với 12 câu của ông.

Dưới đây là bài vè 12 câu dạy thở bụng của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện:


Thót bụng thở ra
Ph́nh bụng thở vào
Hai vai bất động
Chân tay thả lỏng
Êm chậm sâu đều
Tập trung theo dơi
Luồng ra luồng vao

B́nh thường qua mũi

Khi gấp qua mồm

Đứng ngồi hay nằm

Ở đâu cũng được

Lúc nào cũng được!

(Nguyễn Khắc Viện)


Người già hay đau vặt, hay mệt mỏi, cảm thấy hụt hơi, đuối sức, có thể áp dụng phương pháp thở bụng này sẽ thấy có hiệu quả, tăng sức bền, tăng dẻo dai. Do tuổi cao, người già ít có dịp vận động toàn thân, chạy nhảy leo trèo như hồi trẻ, th́ nằm trên giường tập thở bụng –ph́nh lên xẹp xuống- cũng là cách tốt. Nếu biết vừa thở vừa quan sát nó – tức “quán niệm hơi thở” – nhớ nghĩ về nó… th́ dần dần tâm sẽ được thanh tịnh, bớt buồn phiền, lo âu.


Không cần phải ráng sức, gắng sức chi cả. Chỉ cần chuyên cần, kiên nhẫn để tạo thành thói quen thế thôi. Có người v́ muốn cho mau thành công, ráng sức quá th́ sẽ dẫn đến … choáng váng, chóng mặt, tê rần… Tại sao? Tại v́ đă ráng, cố ép, th́ sẽ gây rối loạn sự điều hoà tự nhiên của cơ thể. Cho nên người nào “ham hố” quá, ráng “luyện công” quá, thường dễ bị “tẩu hỏa nhập ma”! Người có bệnh mạn tính càng không nên ráng. Kiên tŕ, chừng vài ba tháng mới quen, mới thấy hiệu quả. Nếu đang chữa bệnh nào đó ( tăng huyết áp, tiểu đừơng…) th́ vẫn phải dùng thuốc theo chỉ định của bác sĩ.




Bs Đỗ Hồng Ngọc

florida80
04-19-2019, 18:10
Bạn biết ǵ về hội chứng thoát vị đĩa đệm?

https://i.imgur.com/GqPeJ3l.jpg

Yoga có thể không c̣n xa lạ ǵ với bạn. Bạn vốn biết yoga có lợi việc kiểm soát cân nặng hay giữ vóc dáng cơ thể nhưng liệu bạn có biết rằng yoga cũng rất tốt cho hội chứng thoát vị đĩa đệm?

Bạn biết ǵ về hội chứng thoát vị đĩa đệm?

Hội chứng thoát vị đĩa đệm có thể xảy đến với bất cứ ai ở bất kỳ thời điểm nào trong đời, gây ảnh hưởng đến đĩa đệm cột sống của bạn. Đĩa đệm cột sống là một mô mềm nằm giữa hai xương cột sống. Cột sống được cấu thành bởi đĩa đệm cột sống và xương cột sống sẽ tạo nên cột sống.

Khi mắc hội chứng thoát vị đĩa đệm bạn có thể bị đau ở lưng, cổ, hoặc các bộ phận khác có liên quan đến các khu vực này như chân, vai, cánh tay, bàn tay. Cơn đau có thể đến từ các dây thần kinh bị kích thích hoặc do co thắt cơ bắp.

Tác dụng ưu việt của yoga

Yoga là dạng hoạt động thể chất cổ xưa đă được áp dụng và phát triển trong nhiều năm. Phương pháp này dạy cho bạn cách sử dụng chính cơ thể ḿnh để:
•Giảm đau;
•Cải thiện sự linh hoạt và sức khoẻ;
•Thư giăn;
•Biết được những giới hạn của bản thân.

Đối với hội chứng thoát vị đĩa đệm, yoga có thể hữu ích khi được áp dụng đúng cách. Yoga có thể giúp cải thiện hội chứng thoát vị đĩa đệm bằng cách tăng cường sức mạnh lên các cơ. Một số tư thế yêu cầu bạn phải giữ yên cơ thể trong vài giây hoặc lâu hơn, giúp cơ của bạn khỏe mạnh hơn. Cơ bắp khỏe mạnh sẽ tăng cường cho cột sống, do đó đĩa đệm bị tổn thương của bạn không phải chịu quá nhiều áp lực.

Yoga yêu cầu bạn phải giữ yên các tư thế trong một hai phút. Trong quá tŕnh đó, một số cơ được thư giăn và một số cơ sẽ được kéo căng. Cơ bắp được kéo căng có thể tăng giới hạn chuyển động, khiến bạn cảm thấy dễ dàng hơn trong việc di chuyển lưng và cổ của ḿnh.

Yoga có thể tăng cường việc bổ sung chất dinh dưỡng cho đĩa đệm, thúc đẩy quá tŕnh lành bệnh;

Yoga chỉ cho bạn cách bạn giữ cơ thể ở một tư thế đúng. Cơ thể bạn khi được giữ ở một tư thế đúng sẽ giúp giảm áp lực lên đĩa đệm.

Yoga nâng cao nhận thức của người tập về giới hạn của bản thân, giúp bạn biết những ǵ ḿnh có thể làm và những ǵ ḿnh không thể. Điều này có thể ngăn chặn đĩa điệm khỏi các t́nh trạng xấu hơn hoặc bị thương tổn một lần nữa.

Cuối cùng, yoga giúp bạn kiểm soát cân nặng. Trọng lượng dư thừa có thể gây áp lực nhiều hơn lên đĩa đệm.

Các bài tập yoga dành cho hội chứng thoát vị đĩa đệm

Có nhiều loại yoga. Tùy thuộc vào mục tiêu hoặc t́nh trạng sức khỏe, bạn có thể chọn một hoặc nhiều loại yoga thích hợp cho ḿnh. Tuy nhiên, bạn có thể thử các loại sau để cải thiện hội chứng đĩa đệm:

Iyengar yoga

Iyengar yoga là một loại yoga nhẹ nhàng, tập trung vào sự liên kết của cơ thể và giúp bạn linh hoạt hơn. Loại yoga này phù hợp cho những người có hội chứng đĩa đệm gây ra các vấn đề về cổ hoặc lưng bởi v́ nó giúp thay đổi các chuyển động.

Viniyoga

Viniyoga cũng là một dạng yoga nhẹ nhàng, tập trung vào sự linh hoạt và cho phép bạn kiểm soát hơi thở qua cơ thể của bạn. Nhờ tính dễ thích nghi mà loại yoga này có thể được sử dụng cho những người có hội chứng đĩa đệm.

T́nh trạng đĩa đệm như thế nào th́ tuyệt đối không nên tập yoga?

Mặc dù yoga an toàn đối với hầu hết mọi người, nhưng bạn nên cẩn thận nếu t́nh trạng của bạn rơi vào các trường hợp dưới đây:
•Nếu hội chứng thoát vị đĩa của bạn liên quan tới các vấn đề về cột sống khác như sự thu hẹp của ống sống, bạn không nên tập các tư thế đ̣i hỏi phải uốn lưng hoặc di chuyển cổ;
•Nếu bị thoát vị đĩa đệm vùng cổ th́ bạn không nên thực hiện những tư thế đ̣i hỏi phải trồng chuối hoặc tác động mạnh lên vai;
•Không nên tập những tư thế mà huấn luyện viên của bạn không cho phép.

Làm thế nào để t́m được một huấn luyện viên yoga tốt?

Bạn đang bị hội chứng thoát vị đĩa đệm có nghĩa là t́nh trạng sức khỏe của bạn khá đặc biệt, cần cẩn thận trong việc chọn huấn luyện viên phù hợp để giúp bạn cải thiện hội chứng mà không làm xấu đi t́nh trạng hoặc gây ra các tổn thương khác. Đây là một số mẹo có thể giúp bạn t́m được huấn luyện viên thích hợp:
•Yêu cầu các trung tâm yoga hoặc bác sĩ chọn cho bạn một giáo viên yoga đă từng làm việc với những người mắc hội chứng thoát vị đĩa đệm bởi trong trường hợp này, kinh nghiệm và tŕnh độ chuyên môn rất quan trọng;
•Yêu cầu giáo viên yoga có kinh nghiệm hoặc giấy phép hành nghề, đồng thời hỏi xem liệu người đó đă thực hiện bất kỳ lớp học hoặc chương tŕnh giảng dạy cho những người mặc hội chứng thoát vị đĩa đệm bao giờ chưa;
•Bạn nên quan sát hoặc học thử một buổi học của giáo viên này trước khi đưa ra quyết định. Hăy nhớ xem cách họ dạy cho cả lớp và từng cá nhân để có kết luận chính xác cho bản thân.

Những ǵ bạn cần chú ư?

Để các bài tập yoga có hiệu quả, bạn nên chú ư những điều sau:
•Giải thích t́nh trạng sức khỏe của bạn với huấn luyện viên yoga để họ có thể xác định chương tŕnh tập phù hợp cho bạn;
•Mặc quần áo thoải mái;
•Chuẩn bị một tấm thảm tập yoga để tránh bị trượt trong quá tŕnh tập, bóng tập yoga, khối yoga, hoặc dây đai để hỗ trợ các bài tập. Dụng cụ sẽ được dựa trên các bài tập yoga của bạn.
•Uống nước để tránh mất nước.

V́ cơ thể của bạn cần thời gian để thích nghi, hăy tập yoga vừa phải và đều đặn.

Yoga là một h́nh thức tập luyện thể chất tuyệt vời, không chỉ tốt cho vóc dáng cơ thể, hệ thống hô hấp và trái tim của bạn mà c̣n được biết đến như một phương pháp điều trị hội chứng thoát vị đĩa đệm. Tuy nhiên, giống như các hoạt động thể chất khác, bạn nên cẩn thận để t́nh trạng bệnh không tệ hơn

florida80
04-19-2019, 18:12
https://i.imgur.com/s2JLzEi.jpg


Tăng cường hệ miễn dịch nhờ trị liệu thần kinh cột sống


Tác giả: Ban biên tập HelloBACSI

Tham vấn y khoa: Lê Thị Mỹ Duyên





Nhấn vào chia sẻ trên Facebook (Opens in new window)





Tăng cường hệ miễn dịch nhờ trị liệu thần kinh cột sống


Trị liệu thần kinh cột sống là một phương pháp trị liệu giúp giảm đau lưng và nhiều cơn đau khác. Nhưng bạn có biết rằng liệu pháp này cũng có thể giúp tăng cường hệ miễn dịch? Đă có nhiều nghiên cứu về chủ đề này và các kết quả đă chỉ ra rằng có mối liên hệ giữa trị liệu thần kinh cột sống và việc tăng cường hệ miễn dịch. Mặc dù cần phải có nhiều nghiên cứu sâu hơn nhưng đề tài này rất hứa hẹn sẽ mang lại một kết quả khả quan.

Trị liệu thần kinh cột sống là ǵ?

Trị liệu thần kinh cột sống chủ yếu được dùng để giảm đau ở cơ, xương, khớp và các mô liên kết. Những nhà trị liệu thần kinh cột sống sẽ sử dụng tay để điều chỉnh cơ thể thông qua việc nắn chỉnh cột sống. Với những kỹ thuật riêng, trị liệu thần kinh cột sống có thể điều trị nhiều loại rối loạn cơ xương. Mục đích của phương pháp này là để cải thiện các vấn đề về mô liên kết, giảm đau, và hỗ trợ khả năng tự lành của cơ thể mà không cần thuốc hoặc phẫu thuật.

Trị liệu thần kinh cột sống thường được sử dụng kết hợp với các phương pháp trị liệu khác để điều trị các bệnh mạn tính. Trị liệu thần kinh cột sống không chỉ là nắn chỉnh cột sống mà nó c̣n hướng dẫn cho bạn các tư thế tập thể dục, một số cách để thích nghi với cuộc sống khi mang trong ḿnh căn bệnh măn tính (tư thế đi, đứng và ngồi để ngăn ngừa cơn đau trở lại), tư vấn dinh dưỡng, và thậm chí cả siêu âm và trị liệu bằng laser.

Trị liệu thần kinh cột sống tác động đến hệ miễn dịch thế nào?

Để trả lời câu hỏi này, bạn cần phải biết cơ chế hoạt động của cơ thể.

Trị liệu thần kinh cột sống giúp điều ḥa hệ thống thần kinh tự chủ, cụ thể là bộ năo, tủy và dây thần kinh cột sống của bạn. Nó c̣n tương tác với hệ nội tiết và hệ miễn dịch của bạn để điều chỉnh các phản ứng hóa học giúp giữ cho bạn khỏe mạnh. Nếu cột sống bị lệch có thể gây tắc nghẽn đường thần kinh và ảnh hưởng đến các cơ quan trong cơ thể của bạn do dây thần kinh đó chi phối. V́ hệ thống thần kinh của bạn được liên kết với các cơ quan thuộc hệ miễn dịch như lách, hạch bạch huyết và tủy xương. V́ vậy nó ảnh hưởng đến cơ chế phản ứng miễn dịch của cơ thể. Cột sống bị lệch không chỉ gây đau đớn mà c̣n có thể gây cản trở chức năng và hiệu quả của hệ miễn dịch.

Một nghiên cứu của tiến sĩ Ronald Pero, giám đốc pḥng nghiên cứu chống ung thư tại Viện Y tế dự pḥng New York và cũng là giáo sư ngành sức khỏe môi trường tại Đại học New York đă chứng minh rằng có một mối liên hệ giữa các loại chấn thương cột sống và ung thư. Những người bị chấn thương cột sống có tỷ lệ mắc u lympho và bệnh bạch cầu cấp rất cao. Thông qua nghiên cứu của ḿnh, ông đă nhận thấy rằng những bệnh nhân tiếp nhận chăm sóc trị liệu thần kinh cột sống dài hạn có chức năng hệ miễn dịch cao hơn 200% so với những người không được điều trị. Và chức năng hệ miễn dịch của những bệnh nhân bị ung thư hoặc các bệnh nghiêm trọng có thể tăng lên đến 400%.

Hiện nay vẫn chưa kết luận được rằng trị liệu thần kinh cột sống có thể chữa rối loạn hệ miễn dịch. Nhưng nó có thể giúp cải thiện hệ miễn dịch tuy vẫn c̣n cần nhiều nghiên cứu sâu hơn. Trị liệu thần kinh cột sống không thể thay thế được bất kỳ phương pháp điều trị ung thư hay các loại thuốc bác sĩ kê đơn. Bạn nên hỏi ư kiến bác sĩ xem liệu trị liệu thần kinh cột sống có lợi với t́nh h́nh hiện tại của bạn không.

Trị liệu thần kinh cột sống có thể giúp tăng cường hệ miễn dịch của bạn, nhưng hiện tại th́ tác dụng chính của phương pháp này vẫn là giảm đau và điều chỉnh cột sống. V́ vậy, liệu pháp trị liệu thần kinh cột sống vẫn là phương pháp tối ưu nhất khi bạn gặp phải các vấn đề về cột sống và bên cạnh đó, bạn c̣n có thể tăng cường hệ miễn dịch của bản thân.

florida80
04-19-2019, 18:15
Giảm đau đầu gối từ 5 bí quyết của nhà vật lư trị liệu

Đây là một bài viết được tài trợ. Để biết thêm thông tin về chính sách Quảng cáo và Tài trợ của chúng tôi, vui ḷng đọc thêm tại đây.


Tác giả: Huệ Trang

Tham vấn y khoa: Lê Thị Mỹ Duyên



https://i.imgur.com/ar7bNnw.jpg







Giảm đau đầu gối từ 5 bí quyết của nhà vật lư trị liệu


Thông thường, cơn đau đầu gối không cần can thiệp bằng biện pháp phẫu thuật mà chúng thường dịu đi sau những bài vận động phù hợp.

Đau đầu gối là trở ngại lớn đối với những hoạt động thường ngày của người bệnh. Để giảm đau hiệu quả, bạn có thể áp dụng một số mẹo giảm đau được đúc kết từ kinh nghiệm của các nhà vật lư trị liệu dưới đây nhé!

Đừng nghỉ ngơi quá nhiều

Bạn thường cảm thấy rằng đầu gối đỡ đau hơn khi nằm thư giăn trên giường và không hoạt động. Tuy nhiên, nghỉ ngơi quá nhiều làm cơ xương yếu dần, khiến đầu gối của bạn chịu nhiều áp lực hơn, từ đó cơn đau trở nên tệ hơn. V́ vậy, bạn hăy t́m bài tập thể dục phù hợp và duy tŕ thói quen tập luyện hằng ngày. Nếu bạn không biết đâu là bài tập phù hợp và hiệu quả với chứng đau đầu gối của ḿnh, bạn có thể tham khảo ư kiến bác sĩ.

Đồng hành cùng những bài tập phù hợp

Tập thể dục và vận động thích hợp rất quan trọng. Những bài tập thể dục dành cho đầu gối bao gồm bài tập tăng sức mạnh cơ, bài tập kéo giăn, bài tập giảm đau và những bài tập nhẹ nhàng, ít đặt quá nhiều áp lực lên gối. Những bài thể dục này sẽ gia tăng sức mạnh, tính linh hoạt của cơ và tăng khả năng vận động của khớp. Duy tŕ tập thể dục c̣n giúp bạn pḥng ngừa những chấn thương và rối loạn trong tương lai.

Tùy thuộc vào trường hợp bệnh của bạn mà bác sĩ chuyên khoa sẽ sử dụng phương pháp điều trị phù hợp. Đi bộ, bơi lội là những hoạt động phù hợp. Chạy có thể không mang lại hiệu quả v́ chúng khiến đầu gối bạn chịu nhiều áp lực. Ngoài ra, bạn nên áp dụng những bài tập thể dục riêng cho đầu gối. Chuyên gia y khoa sẽ hướng dẫn bạn thực hiện những bài tập đó.

Kiểm tra giày

Giày của bạn có khả năng đàn hồi, nhờ đó giúp hạn chế những chấn thương trong quá tŕnh tập luyện. Bạn nên chọn loại giày phù hợp với ḿnh. Chẳng hạn, bạn không nên sử dụng giày dùng cho bộ môn quần vợt để đi bộ. Nếu bạn mắc chứng thoái hóa khớp, bạn nên mang loại giày phù hợp và thoải mái nhất.

Lắng nghe cơ thể

Tập thể dục đúng cách không làm xuất hiện những cơn đau trong quá tŕnh luyện tập. Tuy nhiên, bạn có thể cảm thấy đau nhẹ và không thoải mái ngay khi mới bắt đầu. Đây hoàn toàn là dấu hiệu b́nh thường. Cơn đau thường sẽ xuất hiện khi những cơ bắp trong cơ thể bạn bắt đầu phải hoạt động mạnh hơn b́nh thường. Đây là hiện tượng tự nhiên và bạn không cần phải dừng luyện tập v́ nó.

Nếu bạn cảm thấy quá đau hay cơn đau ngày càng tệ hơn, hăy trao đổi vấn đề này với bác sĩ chuyên khoa. Đầu gối của bạn có nguy cơ mắc phải nhiều vấn đề hay bài tập đó không phù hợp với bạn. Đừng cố gắng gượng ép cơ thể quá mức.

Sử dụng thuốc khi cần

Bạn không nên tự ư dùng thuốc giảm đau mà không có sự hướng dẫn của bác sĩ. Nếu đây là lần đầu tiên bạn đau đầu gối, bạn nên t́m đến bác sĩ chuyên khoa trị liệu thần kinh để t́m ra nguyên nhân chính xác và điều trị tận gốc. Bác sĩ sẽ khám bệnh và chụp một số h́nh ảnh đầu gối của bạn. Nếu bạn đang tiến hành vật lư trị liệu, bác sĩ sẽ đưa ra những bài tập an toàn và hiệu quả cho bạn. Bạn cần phải nói với bác sĩ nếu có bất kỳ dấu hiệu bất thường nào xuất hiện. Đừng nên tŕ hoăn v́ điều này có thể khiến t́nh trạng của bạn thêm nghiêm trọng.

Chuyên khoa trị liệu thần kinh cột sống được xem là nơi an toàn để bạn nhận được sự tư vấn về các bài tập và phương pháp điều trị phù hợp với ḿnh khi bị đau đầu gối. Bạn có thể tham khảo những lời khuyên trên để giúp quá tŕnh điều trị trở nên hiệu quả hơn nhé.

florida80
04-19-2019, 18:17
Bài Tập Yoga Chữa Bệnh Đau Lưng Đơn Giản Hiệu Quả





Phương pháp chữa đau lưng bằng yoga không phải là phương pháp mới nhưng cũng rất ít người biết đến phương pháp này. Với yoga bạn không những có thể khỏe mạnh với cột sống lưng mà c̣n giúp cơ thể trở nên dẻo dai hơn, yoga cũng giúp tinh thần bạn thoải mái hơn.






Bài viết này hướng dẫn bạn một số động tác yoga mà có tác dụng đẩy lùi chứng đau lưng hiệu quả. Bạn có thể vừa đọc bài vừa áp dụng theo.






Động tác 1 : Động tác với tư thế rắn hổ mang (cobra pose)





Tư thế rắn hổ mang là tư thế tốt và hiệu quả nhất đối với người mắc bệnh đau lưng. Nó kéo dài cột sống của bạn về sau đem lại thoải mái cho người tập. Với động tác này nên mở duỗi thẳng hai chân, tay chống xuống sàn, mở rộng vai và mặt nh́n lên trên. Giữ động tác và thở nhịp nhàng nó sẽ giúp bạn giảm căng thăng ở phần lưng.











02. Tư thế đứa trẻ (child’s pose)



Động tác này làm giảm đau cổ và lưng tốt. Động tác này yêu cầu hai tay để ra sau, gập chân và đầu chạm đất, đồng thời nên giữ thẳng lưng.










03. Kỹ thuật thở con mèo (cat breathing)




Với tư thế này, nó sẽ giúp bạn làm căng và thư giăn phần lưng. Khi thực hiện động tác này nên hít thở nhịp nhàng theo từng cử động.











04. Tư thế nằm yên thư giăn vùng lưng (corpse pose).




Động tác này chỉ cần nằm yên trên một mặt phẳng và thả lỏng cơ thể, bạn đă có thể giảm thiểu những cơn đau. Với những người mắc chứng đau lưng, tránh việc nằm gập người trên ghế, hay bất cứ đâu. Nếu nằm trong thời gian dài, chắc chắn bạn sẽ phải trả giá.










05. Tư thế gập người về phía trước (forward bend)




Các bạn thực hiện động tác này chính xác và thường xuyên, th́ bạn có thể làm giảm những cơn đau ở phía thắt lưng. Khi mới tập, cơ và chân tay vẫn c̣n cứng khiến bạn khó gập người. Tuy nhiên, hăy duy tŕ đều đặn bạn sẽ thực hiện chính xác giống động tác trong h́nh.










06. Tư thế con lạc đà (camel pose).


Động tác này giúp lưng bạn được thư giăn sau những giờ làm việc căng thẳng trong ngày. Khi thực hiện tư thế này, đừng quên hít thở đều đặn.




Dù bạn có bệnh đau lưng hay không th́ yoga cũng là một phương pháp tập luyện mà bạn nên tập giúp cho sức khỏe dẻo dai, đặc biệt với phụ nữ sẽ có một thân h́nh cân đối.






https://i.imgur.com/63tp8Q7.jpg

florida80
04-19-2019, 18:20
Ruột Quá Nhạy Cảm (Irritable Bowel Syndrome) Bác sĩ Nguyễn Văn Đức



https://i.imgur.com/DxuVHio.jpg







Kể ra, có một cô người yêu nhạy cảm quá cũng khó ḷng. Đầu năm, mới lỡ lời một chút, nàng đă ngúng nguẩy, nước mắt như mưa. Đến ngày Valentine, hơi chậm mua quà t́nh yêu cho nàng, nàng phụng phịu, mặt mũi đăm đăm. Ôi, cuộc đời đau khổ.




Trong vườn ḷng mỗi người chúng ta, cũng có một cô nàng. Nàng “Ruột”. Nàng dễ chịu, ta nhờ. Nàng nhạy cảm quá, cuộc đời ta khổ sở: cho nàng ăn chút thức lạ, nàng tiêu chảy, không cho nàng ăn đủ chất bă, nàng bón, rồi nàng kêu rên, làm ta đau.

10-15% người lớn chúng ta lụy v́ chứng ruột quá nhạy cảm. Ruột quá nhạy cảm xảy ra nhiều ở người trẻ và người tuổi trung niên (middle-aged). Phụ nữ bị chứng này gấp 2 lần nam giới. Trong các bệnh của đường tiêu hóa, chứng ruột quá nhạy cảm xảy ra nhiều nhất, số người nghỉ làm việc v́ nó chỉ sau có cảm, tốn kém hàng năm lên đến 30 tỉ đô-la.

Triệu chứng

Triệu chứng của bệnh rất nhiều, gồm những triệu chứng tiêu hóa và những triệu chứng ngoài đường tiêu hóa. Bệnh gây đau bụng và thay đổi thói quen đi cầu, tiêu chảy hoặc bón.




- Bụng đau, hoặc khó chịu kinh niên:

Người bệnh hay đau quặn vùng bụng dưới, thường phía bên trái. Cơn đau dịu đi sau khi đi cầu hay đánh hơi. Đau cũng có thể xảy ra ở bất cứ vùng nào khác của bụng, khiến dễ lầm với các bệnh khác của đường tiêu hóa. Chẳng hạn, nếu đau ở vùng bụng trên, bác sĩ dễ định sai là bệnh bao tử. Hoặc nếu đau ở vùng túi mật bụng trên bên phải, bác sĩ có thể nghi nhầm người bệnh đau v́ có sạn túi mật.




- Tiêu chảy:

Tiêu chảy hay xảy ra vào buổi sáng lúc mới tỉnh giấc, hoặc sau khi ăn sáng. Phân lỏng và như có đàm. Thường, khi đă trả nợ tiêu hóa 3, 4 lần vào mỗi sáng, người bệnh mới cảm thấy dễ chịu và yên tâm làm việc. Cũng có người tiêu chảy lai rai cả ngày. Tiêu chảy hiếm khi xảy ra vào ban đêm.

Có người diễn tả phân không lỏng, nhưng nát, không thành khuôn, hoặc rất dính và mảnh như “cây bút ch́” (pencil-like). Người bệnh hay có cảm giác đi cầu không đă, đi chưa hết phân, bụng lúc nào cũng như đầy hơi, ph́nh to. Có vị mót cầu là phải đi ngay, không thể nín nhịn chờ lúc khác thuận tiện hơn. Nhiều người không dám đi đâu, hoặc chỉ rời nhà khi biết chắc có pḥng vệ sinh nào gần đấy trên lộ tŕnh.

Tiêu chảy xảy ra lai rai nhiều tuần, nhiều tháng, rồi tự nhiên biến mất. Sau một thời gian dài ngắn khó biết, nó xuất hiện trở lại làm khổ người bệnh.




- Bón:

Nhiều người thay v́ tiêu chảy, lại bón, cả tuần đi cầu chỉ 1, 2 lần. Phân cứng quá, hoặc thành những cục nhỏ như phân dê.



Một số vị nuôi cả thỏ lẫn rùa trong… vườn ḷng: lúc thỏ chạy, tiêu chảy liên tiếp nhiều tuần lễ, khi rùa ḅ, bón ơi là bón. Cũng có lúc thỏ và rùa cùng đi nghỉ mát, các vị nhẹ nhơm, thoải mái được một thời gian.




Người mang chứng ruột quá nhạy cảm cũng hay than đầy hơi, nóng ngực (heartburn), khó nuốt, buồn nôn, đau ngực, và những triệu chứng ngoài đường tiêu hóa: đau lưng, yếu mệt, chóng mặt, hồi hộp, đau nhức toàn thân, rối loạn t́nh dục, đau lúc giao hợp, đi tiểu nhiều lần, khó nín tiểu, …




Người mang chứng ruột quá nhạy cảm đi khám bác sĩ thường hơn, đ̣i hỏi bác sĩ làm nhiều trắc nghiệm hơn, dùng nhiều thuốc hơn, nghỉ việc nhiều hơn, năng suất làm việc kém hơn, hay vào nhà thương hơn, tiêu tốn nhiều chi phí y tế hơn so với người mang những bệnh khác.




Tuy triệu chứng hoặc liên tục, hoặc cứ tái đi tái lại nhiều tháng năm như vậy, nhưng người bệnh không xuống cân, không nóng sốt, không đi cầu ra máu, về đêm vẫn ngủ ngon, không bị phiền v́ các triệu chứng (những điểm quan trọng để phân biệt với các bệnh khác như ung thư ruột già, cường tuyến giáp trạng, …). Triệu chứng hay xảy ra hơn vào những khoảng thời gian người bệnh căng thẳng về tinh thần.




Người ta cho rằng “nàng Ruột” trong vườn ḷng chúng ta, nếu nhạy cảm, lúc hoạt động quá mức, lúc lại ỳ ra không làm việc, là do sự xáo trộn cơ năng vận chuyển (motility disorder) của hệ thống tiêu hóa. B́nh thường, hoạt động điều ḥa từ trên xuống dưới của hệ tiêu hóa do những co bóp nhịp nhàng, phối hợp của bao tử và các khúc ruột nối liền nhau. Sự xáo trộn cơ năng trong chứng ruột quá nhạy cảm khiến sự co bóp, chuyển động của bao tử và ruột rối loạn. Chuyển động của ruột hoặc giảm đi (gây bón), hoặc tăng lên (gây tiêu chảy). Các nhà “ruột học” nhận thấy nhu động của ruột tăng lên vào những lúc tinh thần ta căng thẳng. C̣n tại sao người có chứng ruột quá nhạy cảm hay đau bụng? Có lẽ v́ người bệnh có những cảm nhận bất thường với những hoạt động của các cơ quan bên trong cơ thể, trong khi người thường, cũng với những hoạt động của ruột như vậy, không cảm thấy đau.

Định bệnh

Theo tiêu chuẩn định bệnh gọi là “Rome criteria III”, do một nhóm các nhà nghiên cứu đưa ra, một người mang chứng ruột quá nhạy cảm, khi đau hoặc khó chịu bụng, liên tục hoặc tái phát, ít nhất 3 ngày một tháng đă 3 tháng qua, và có thêm 2 hay nhiều hơn các triệu chứng kể sau:

- Đi cầu xong bớt đau, khó chịu bụng.

- Số lần đi cầu bất thường.

- Phân không b́nh thường: hoặc lỏng, như nước, hoặc cứng quá, thành từng cục nhỏ.

Ruột quá nhạy cảm và một số bệnh khác gây triệu chứng giống nhau. Đi khám bệnh, giúp bác sĩ, bạn kể bệnh rơ ràng, rành mạch, chúng ta khỏi đi sai đường. Bạn kể rơ bạn ăn có ngon miệng, có xuống cân, có nóng sốt, đi cầu ra máu không.




Tùy triệu chứng, thời gian bạn có triệu chứng, và hạn tuổi của bạn, sau khi thăm khám, bác sĩ có thể sẽ cho bạn thử máu, thử phân, chụp phim hoặc soi đường tiêu hóa. Chẳng hạn, với người trên 50 tuổi, v́ dễ có ung thư ruột già, nên bác sĩ thường cho soi ruột già để t́m ung thư. Ngược lại, ở người trẻ tuổi, ung thư ruột già rất hiếm, nếu không có những chỉ dấu báo động như thiếu máu, xuống cân, không có người thân trong gia đ́nh bị ung thư ruột già, soi ruột già thường không cần thiết.




Các thử máu C-reactive protein, IgA antibody to tissue transglutaminase cần làm để t́m một số bệnh đường tiêu hóa khác gây triệu chứng tương tự bệnh ruột quá nhạy cảm. Bệnh cường tuyến giáp trạng (hyperthyroidism) cũng cho những rối loạn tiêu hóa khó phân biệt với chứng ruột quá nhạy cảm. Thử máu, có thể chẩn đoán bệnh cường tuyến giáp trạng dễ dàng.




Với những người bệnh có triệu chứng tiêu chảy thời gian gần đây mới đi du lịch một quốc gia c̣n đang phát triển, ta cần thử phân để t́m kư sinh trùng. Nhiều bệnh kư sinh trùng (chúng ta hay gọi nôm na là bệnh sán lăi) cho các triệu chứng giống chứng ruột quá nhạy cảm.




Trong chứng ruột quá nhạy cảm, kết quả các thử nghiệm đều b́nh thường. Chúng ta yên tâm các triệu chứng không phải do một bệnh nguy hiểm nào khác, và có thể tiến hành chữa trị.

Chữa trị

Sự chữa trị chứng ruột quá nhạy cảm cần sự kiên nhẫn và hiểu biết, của cả bác sĩ lẫn người bệnh, để người bệnh khỏi sợ hăi, và không đặt ra những kỳ vọng khó thể đáp ứng. Nếu không, người bệnh, vừa tốn công, vừa tốn của, sẽ tiếp tục đi t́m măi một Hoa Đà, Biển Thước không bao giờ gặp, với hy vọng sẽ có người chữa khỏi chứng này.

Sự chữa trị nhắm mục đích làm giảm triệu chứng, và bác sĩ nên quan tâm đến sự lo âu của người, t́m hiểu tại sao người bệnh t́m đến chữa trị vào lúc này: triệu chứng nặng hơn (do mới dùng một thuốc nào đó, do thay đổi thực phẩm ăn uống hàng ngày), sợ bị ung thư, người bệnh có thêm vấn đề về tâm thần, vân vân.

Chứng ruột quá nhạy cảm có 3 mức độ: nhẹ (mild), vừa (moderate), và nặng (severe).




Mức độ nhẹ

70% số người bị chứng ruột quá nhạy cảm có triệu chứng nhẹ thôi: các triệu chứng không hay xảy ra, họ vẫn sinh hoạt như thường mỗi ngày, với tinh thần b́nh thường, lành mạnh. Nhiều người cũng chẳng đi khám bác sĩ.




Sau khi định bệnh đă rơ rệt, người bệnh được trấn an là chứng ruột quá nhạy cảm không đưa đến ung thư hay các bệnh nguy hiểm khác. Và bác sĩ giải thích: chứng này, như đa số các trường hợp nhức đầu, tuy lành, nhưng là chứng kinh niên, và với tŕnh độ y học hiện tại của nhân loại, chưa có phương cách chữa khỏi. Dẫu vậy, sự chữa trị sẽ giúp các triệu chứng thuyên giảm. Người bệnh được khuyên đừng nên quá bận tâm, và coi các triệu chứng đau bụng, tiêu chảy, táo bón, đi phân không b́nh thường, … của ḿnh như… pha, đừng để chúng ám ảnh nhiều, ảnh hưởng đến công việc và hạnh phúc hàng ngày.




Có sự tương quan mật thiết giữa những căng thẳng tinh thần với sự xuất hiện, cũng như mức độ nặng nhẹ của các triệu chứng. Bạn nên ngủ đủ, 7-8 tiếng mỗi đêm, đúng giờ giấc. Những hoạt động làm giảm căng thẳng tinh thần, như thể thao, các thú vui lành mạnh, hoặc thường xuyên vận động, cũng giúp vào sự chữa trị rất nhiều. Đi bộ khoảng 20, 30 phút, 3-4 lần mỗi tuần là vận động nhẹ nhàng và tối thiểu nhất ai cũng có thể làm.




Đồng thời, với những phương cách sau, nhiều người có chứng ruột quá nhạy cảm nhẹ không cần đến những chữa trị tốn kém:

- Bạn chú ư tới thói quen ăn uống mỗi ngày, để ư xem thói quen hay thực phẩm nào khiến triệu chứng của bạn tăng thêm. Nên ăn uống đúng giờ giấc. Nếu bụng hay đầy hơi, bạn thử tránh ăn đậu, hành, cà rốt, chuối, mận, cần (celery), nho, apricots, mận (prunes), brussels sprouts, wheat germ, pretzels, và bagels, những thực phẩm dễ gây đầy hơi.

- Thực hiện câu: “Ăn để sống, chứ không sống để ăn”. Không nên ăn uống quá độ. Cũng đừng ăn uống vội vàng. V́, những cơn tiêu chảy do sự chuyển động quá nhanh của ruột. Theo một phản xạ gọi là “gastro-colic reflex” (phản xạ bao tử-ruột già), ruột chuyển động nhanh khi có nhiều thức ăn vào bao tử, bao tử ph́nh to. Phản xạ càng mạnh nếu thực phẩm ăn vào càng bề thế, nhiều năng lượng, đầy mỡ màng. Thế nên, vào những lúc tinh thần căng thẳng, bạn ăn bớt những chất mỡ màng, ăn ít một, ăn làm nhiều bữa, có khi lại hay.




Cảm giác giục giă, phải đi tiêu ngay, nếu không th́… cũng hay xảy ra sau một bữa ăn linh đ́nh. Nếu bạn không muốn phải tạt vào đâu đó để giải quyết gấp bầu tâm sự, bạn đừng ra khỏi nhà ngay sau bữa nhậu no say với bạn bè.




- Nếu bạn hay bị bón, bạn nên uống nhiều nước và thêm chất bă (fiber) vào thực phẩm. Các nhà chuyên môn nhận thấy trong thức ăn hàng ngày của những người bị chứng ruột quá nhạy cảm gây bón, thường không đủ chất bă. Chất bă có trong các loại rau, trái cây, bran, ngũ cốc nguyên hạt (whole grains), đậu (beans). Thực phẩm có chất bă có thể làm đầy hơi, nên khi mới dùng, bạn nên dùng từ từ, tăng dần lên. Nếu táo bón không bớt, bạn dùng thêm các loại thuốc cung cấp chất bă như Metamucil, Konsyl. Nhớ đừng trốn làm bổn phận với “cô nàng Ruột” của bạn. Mỗi ngày, bạn nên chọn một lúc nào đó, dành đủ th́ giờ để đi cầu.




- Ngược lại, nếu bạn hay tiêu chảy, ngoài những thức ăn mỡ màng, bạn cũng nên tránh những chất có thể kích thích ruột như thuốc lá, rượu, cà-phê, thức ăn nhiều gia vị (spicy foods). Đừng uống nhiều nước trái cây (fruit juice), hoặc ăn rau trái sống (raw fruits or vegetables). Bạn nên bớt dùng những thực phẩm có sữa (dairy products). Sữa cũng có thể gây đau bụng, đầy hơi và tiêu chảy, nhất là nếu bạn có thêm bệnh thiếu chất lactase trong ruột (lactase deficiency), một chất cần thiết để tiêu hóa chất lactose trong sữa. Bạn cũng nên thử tránh những chất ngọt giả đường (dietetic sweeteners), chẳng hạn như chất sorbitol hoặc mannitol, thường có trong kẹo, chewing-gum, các thực phẩm không có đường (sugar-free) dùng cho những người muốn xuống cân, v́ những chất này dễ gây tiêu chảy. Tuy nhiên, mỗi người một ư, mỗi bộ tiêu hóa cũng… mỗi ư. Dựa vào kinh nghiệm sau nhiều lần thử thách, bạn có thể chọn dùng những thực phẩm nào bạn thấy thích hợp nhất với cô nàng ruột khó tính của bạn.




Mức độ vừa

25% số người bị chứng ruột quá nhạy cảm có triệu chứng xảy ra thường hơn và nặng hơn trường hợp nhẹ kể trên, ảnh hưởng đến công việc hàng ngày của họ.




Ngoài những phương cách vừa bàn, những trường hợp bệnh ở mức độ vừa nên dùng thêm thuốc để kiểm soát các triệu chứng. Lúc đau bụng hoặc đầy hơi, các thuốc có tác dụng chống co thắt (antispasmodic) như Donnatal, Levsin, Bentyl, … có thể giúp ta bớt đau bụng, đầy hơi. Khi tiêu chảy, các thuốc như Imodium (mua được bên ngoài không cần toa), Lomotil, … làm bớt tiêu chảy. Những lúc bón, lại cần nhờ đến các thuốc như Metamucil, Konsyl, Citrucel, … (mua không cần toa bác sĩ); nếu bón nặng quá, ta thử thuốc mới (và rất đắt) Amitiza.






Đồng thời, người có chứng ruột quá nhạy cảm mức độ vừa được khuyên nên giữ một quyển “nhật kư”, theo dơi những lúc buồn vui của cô nàng ruột, xem lúc nào cô hay đau, lúc nào cô hay bón, lúc nào cô thích tiêu chảy, để c̣n liệu định, sửa đổi thực phẩm, cuộc sống hàng ngày cho vừa ḷng cô. Triệu chứng hay xảy ra lúc ta lo âu, buồn phiền ư? Vậy hăy “quẳng gánh lo đi mà vui sống”, tập những kỹ thuật giúp ta quên bớt đời sống căng thẳng hàng ngày (relaxation techniques).




Mức độ nặng

Khoảng 5% số người mang chứng ruột quá nhạy cảm bị nặng quá: chẳng làm ăn ǵ, đi khám bác sĩ luôn, lúc nào cũng bị ám ảnh bởi các triệu chứng tiêu hóa của ḿnh. Nhiều người có thêm các bệnh tâm thần, như bệnh buồn sầu (depression).




Ngoài những phương cách chữa trị kể trên trong phần mức độ nhẹ và mức độ vừa, người ở mức độ nặng thường cần được chữa thêm với các thuốc chống buồn sầu (antidepressants), như các thuốc Elavil, Pamelor, Imipramine, Desipramine, … Có vị cần đến bác sĩ tâm thần, hoặc các trung tâm chuyên trị đau (pain treatment center) để xoa dịu các triệu chứng.




Trong nhờ, đục chịu. Ruột ta dễ thương, ta nhờ, ruột ta nhạy cảm quá, ta đành chịu. Với những hiểu biết về chứng ruột quá nhạy cảm, tùy trường hợp bệnh nhẹ, vừa, hay nặng, với chút thay đổi trong cách sống, và dùng thuốc khi cần, nhiều người chúng ta có chứng ruột quá nhạy cảm vẫn vui sống.




Bs Nguyễn Văn Đức